3/7/07

Những bài ca từ khát vọng chưa thành -Trần Trung Đạo

Trần Trung Đạo

Những bài ca từ khát vọng chưa thành

Trong một xã hội thiếu vắng những bản tình ca, một nhạc phẩm mang tên “Tình ca” hẳn được nhiều người đón nhận. Bài hát “Tình ca” của Hoàng Việt được yêu chuộng không phải chỉ do cái tựa mà còn là một nhạc phẩm rất hay. Người nhạc sĩ gốc miền Nam, cũng là tác giả của “Tiếng còi trong sương đêm” quen thuộc với giọng ca Thanh Thúy, đã viết “Tình ca” để gởi gấm nỗi nhớ thương về miền Nam thân yêu và người vợ hiền đã chia tay ông trên cửa biển Cà Mau trước ngày tập kết. Qua núi biếc, qua bóng mây, qua những đêm tối trời mù mịt, tình yêu trong trái tim ông vẫn sáng lên như những vì sao chung thủy đời đời. Thế nhưng, nhạc phẩm “Tình ca” ngày mới ra đời năm 1957 đã bị Đảng phê bình là ủy mị ngay trong lần trình diễn đầu tiên ở Hà Nội với tiếng hát Quốc Hương. Những năm đầu của cuộc chiến “Tình ca” gần như không được hát.

Khi hát lên tiếng ca gởi về người yêu quê ta
Ta át tiếng gió mưa thét gào cuộn dâng phong ba
Em ơi! Nghe chăng lời trái tim vọng ra
Rung trong không gian mặt biển sôi ầm vang
Qua núi biếc chập chùng xa xa
Qua bóng mây che mờ quê ta
Tiếng ca đời đời chung thuỷ thiết tha.
Em có nghe tiếng ca chứa đựng hận thù sâu xa
Đã biến tình đôi ta thành những ánh sao toả sáng
Vượt băng băng qua đêm tối tìm hương hoa
Bến nước Cửu Long còn đó em ơi!
Bãi lúa nương dâu còn mãi muôn đời
Là còn duyên tình ta thắm trong tiếng ca không thể xóa nhòa…

Nhạc sĩ Hoàng Việt đã chết vì bom trong ngày cuối năm, 31 tháng 12 năm 1967 trên đường về lại miền Nam để gặp người ông yêu quý.

Cũng trong khoảng thời gian đó ở miền Nam, có thể vào một buổi chiều trong một quán café ở góc đường Lê Lợi hay một buổi tối cuối tuần qua đài phát thanh Sài Gòn, vọng lên tiếng hát Thái Thanh. Hà Nội ơi! Tiếng hát của người ca sĩ tài danh như tiếng than dài tưởng chừng có thể nghe được tận bên kia cầu Hiền Lương đang đau nhức. Nhạc phẩm “Giấc mơ hồi hương” của nhạc sĩ Vũ Thành tưởng vọng về thành đô yêu dấu với Hồ Tây, cầu Thê Húc, đường Cổ Ngư và bao nhiêu kỷ niệm vẫn chưa chịu ngủ yên trong lòng người nhạc sĩ miền Bắc vừa đặt chân lên mảnh đất miền Nam.

… Lìa xa thành đô yêu dấu, một sớm khi heo may về
Lòng khách tha hương vương sầu thương
Nhìn "em" mờ trong mây khói, bước đi nhưng chưa nỡ rời
Lệ sầu tràn mi, đượm men cay đắng biệt ly
Rồi đây dù lạc ngàn nơi
Ta hướng về chốn xa vời
Tìm mộng xưa lãng quên tháng ngày tàn phai
Nghẹn ngào thương nhớ "em"... Hà Nội ơi…

Nhạc sĩ Vũ Thành đã qua đời nhưng giấc mơ hồi hương, gói gắm trong nhạc phẩm của ông, vẫn chưa thành sự thật. Nửa thế kỷ sau, nhạc phẩm bất hủ “Giấc mơ hồi hương” cũng chưa được chính thức hát lên giữa lòng Hà Nội dấu yêu mà ông đã hằng nghìn đêm thương nhớ.

Mười sáu năm sau ngày đất nước bị chia đôi, trong giảng đường đại học, trên đường phố Sài Gòn, trong sân trụ sở Tổng hội Sinh viên ở số 4 Duy Tân Sài Gòn, dọc hành lang cư xá sinh viên Minh Mạng, tiếng hát của ước mơ hòa bình thống nhất độc lập tự do lại vang lên, khác chăng, lần này không phải từ các giọng ca chuyên nghiệp như Quốc Hương, Thái Thanh, từ các nhạc sĩ thành danh như Hoàng Việt, Vũ Thành, không phải từ những giàn đại hòa tấu mà từ những nhạc sĩ còn rất trẻ với những cây guitar thùng cũ kỷ. Họ là Tôn Thất Lập, Nguyễn Văn Sanh, La Hữu Vang, Miên Đức Thắng, Trương Quốc Khánh và cả những nhạc sĩ sinh viên đang kẻ những khung nhạc lần đầu.

Nếu có cuộc bình bầu những bài hát phổ biến, chuyên chở tình đất nước và được sinh viên học sinh trước 1975 ưa chuộng, tôi nghĩ một trong những bài được chọn sẽ là bài “Tự nguyện” của nhạc sĩ Trương Quốc Khánh. Lý do vì bài hát ngắn, dễ hát, dễ thuộc, nói lên khát vọng chưa thành của tuổi trẻ nói riêng và dân tộc nói chung.

Nếu là chim, tôi sẽ là loài bồ câu trắng
Nếu là hoa, tôi sẽ là một đóa hướng dương
Nếu là mây, tôi sẽ là một vầng mây ấm
Nếu là người, tôi sẽ chết cho quê hương …

Nhạc sĩ Trương Quốc Khánh đã qua đời, trên đất nước anh hoa hướng dương vẫn chưa nở và con bồ câu bạn bè anh đặt trên quan tài anh trong giờ tiễn biệt cũng đã chết vài ngày sau đó.

Ba nhạc sĩ, người từ Nam ra Bắc, kẻ từ Bắc vô Nam, kẻ từ núi rừng, người từ thành phố, cho đến khi qua đời họ có thể chưa một lần gặp mặt nhau, nhưng cả ba đã cùng với nhiều triệu người Việt Nam cưu mang một ước mơ chung: hòa bình, thống nhất, độc lập, tự do.

Nếu là người, tôi sẽ chết cho quê hương, vâng, có người Việt Nam yêu thương đất nước nào mà chẳng từng có những ước mơ như thế. Khát vọng hòa bình, thống nhất, độc lập, tự do là khát vọng có thật và sâu thẳm của một dân tộc đã trải qua quá dài, chịu đựng quá nhiều trong chiến tranh, hận thù, phân chia Nam Bắc. Từ buổi sáng ngày 6 tháng 6 năm 1884 khi hòa ước mất nước Patenôtre được ký cho đến ngày 30 tháng 4 năm 1975 là một chặng đường dài. Trong khoảng thời gian đó bao nhiêu máu Việt Nam đã đổ, bao nhiêu thịt Việt Nam đã rơi trên núi rừng và đồng ruộng Việt Nam.

Ngày tôi vào đại học các nhạc sĩ sinh viên nói trên một số đã vào tù, một số vào bưng, một số được trao trả tù binh ở bìa rừng Lộc Ninh, một số trốn tránh ở Sài Gòn, tôi không quen biết hay gặp gỡ họ nhưng những bài ca khao khát hòa bình thống nhất của họ vẫn còn vang đâu đó như trong bài “Không ai ngăn nổi lời ca” của La Hữu Vang dưới đây:

Không ai ngăn nổi lời ca, lời ca mãi muôn đời, lời ca yêu mến người
Lời tôi ca trên đồng lúa, lời tôi ca nắng mai hồng, lời tôi ca cơn sóng nhỏ dòng sông
Không ai ngăn nổi lời ca, lời ca những anh hùng trọn đời yêu núi sông
Lời tôi ca xanh đại dương, lời tôi ca những con đường
Lời tôi ca bao dòng máu trên luống cầy đọng giọt mồ hôi
Và ngàn lời ca quyết giữ nước ngăn quân giặc thù
và ngàn lời ca quyết phá tan ngục tù
Người người tìm nhau trong bác ái tin yêu đời
Chung xây nước Việt đẹp tươi !

“Chung xây nước Việt đẹp tươi”, tôi nghĩ các anh chị nhạc sĩ sinh viên thật quá ngây thơ, nhưng đồng thời tôi lại rất kính trọng tấm lòng yêu quê hương trong sáng của họ. Hàng trăm trí thức miền Nam, những giáo sư, luật sư, bác sĩ, kỹ sư từ các trường Tây trường Mỹ về, những bậc thầy, bậc cha chú họ mà còn bị cộng sản xỏ mũi dễ dàng nói chi là những cô cậu sinh viên trẻ tuổi vừa mới nện gót giày lên hành lang đại học. Những con nai tơ còn quá trẻ để thấy phía bên kia bụi rậm bầy cọp đói đang chờ đợi họ. Dù sao, trong đêm dài mùa đông của vận nước, họ là những thanh niên Việt Nam có trái tim nồng ấm tình người và biết đau nỗi đau mà đồng bào đang chịu đựng. Lớn lên trong một xã hội chiến tranh đầy dẫy những bất công tiêu cực họ không có một nơi nào để trút những phẫn uất khác hơn là giới cầm quyền. Tuổi trẻ quốc gia nào cũng thế, nhiệt tình, phản kháng, cương trực, vô tư, nhưng khác ở chỗ tại Việt Nam những đặc tính đó của tuổi trẻ bị Đảng Cộng sản lợi dụng tận tình, không phải chỉ tiếng hát lời ca, mà còn từ thịt xương đến giọt máu cuối cùng.

“Không ai ngăn nổi lời ca” là một thách thức của tuổi trẻ nhưng hình như khi viết bài ca đó nhạc sĩ trẻ của quê hương anh hùng Nguyễn Huệ chỉ nghĩ đến chính quyền miền Nam mà chưa biết rằng trên đời này còn có Đảng Cộng sản Việt Nam. Lịch sử bốn ngàn năm cuồn cuộn của dân tộc Việt mà Đảng còn ngăn được nói chi làm dăm ba bài hát. Chỉ vài hôm sau ngày cưỡng chiếm Sài Gòn, các nhạc phẩm của thời kỳ sinh viên sôi nổi, dù không công khai thông báo ra ngoài nhưng bên trong nội bộ ban văn hóa tư tưởng của Đảng, chúng đã bị xếp chung với loại nhạc “vàng”, “ủy mị”, “ru ngủ” và thậm chí “phản động”. Những người lưu tâm đến sinh hoạt văn nghệ đều biết sau 30 tháng 4 năm 1975 những nhạc phẩm như “Không ai ngăn nổi lời ca” hay “Tổ quốc ơi ta đã nghe” chỉ còn là những tiếng thì thầm trong góc tối. Ngay cả tại số 4 Duy Tân, trụ sở của Tổng hội Sinh viên Sài Gòn, những nhạc phẩm của La Hữu Vang đã không còn được hát.

Lời của bài “Tổ quốc ơi ta đã nghe” của La Hữu Vang:

Ôi Tổ quốc ta đã nghe lời réo gọi
Trong tiếng hờn trong máu lửa ngập trời
Từng giây nghe quê hương
Xót xa thầm trong cơn thê lương
Thù quân gieo tang thương
Bao suối lệ tràn dâng muôn phương
Tổ quốc ơi! Ta đã nghe lời sông núi
Hận thù này tràn đầy sục sôi trong tim gan nồng
Ta đi chiến đấu quyết đánh tan quân bạo tàn
Bảo vệ Việt Nam quê hương ta.
Ôi Tổ quốc bao tiếng ca giờ lên đường
Ðem máu hồng tô thắm đẹp cuộc đời
Lời xưa vang đâu đây
Chí kiêu hùng muôn phương tung bay
Ðường ta đi hôm nay bao xác thù gục ngã tan thây
Tổ quốc ơi bao thiết tha lời sông núi
Thề nguyện cả cuộc đời trọn dâng cho quê hương này
Muôn hoa tươi thắm ngát hương trên bao nụ cười
Gian khổ nề chi ta ra đi.

Sau 1975, nhạc sĩ La Hữu Vang, tên thật là Trần Đình Giác, không giống như nhiều người khác ở lại Sài Gòn để tìm một chỗ đứng, một con đường tiến thân trong xã hội mới, đã lặng lẽ trở về quê hương Bình Định để sống với gia đình. Suốt 31 năm, tác giả những bản nhạc hay nhất của phong trào sinh viên Sài Gòn đã sống một cuộc sống đạm bạc với chức vụ coi sóc nhà văn hóa của huyện Hoài Nhơn tỉnh Bình Định. Trong buổi phỏng vấn dành cho báo Bình Định cuối tháng 4 năm 2003, anh xác nhận, trước 1975: “Phần lớn những ca khúc mà chúng tôi viết chỉ nhằm vào việc kêu gọi lòng yêu nước…”. Lòng yêu nước như ngọn đèn thần để ở đâu cũng sáng rực. Nhạc phẩm “Tổ quốc ơi ta đã nghe” đã được tuổi trẻ Việt Nam ở hải ngoại tiếp tục hát, tương tự, nhạc phẩm “Không ai ngăn nổi lời ca” của anh đã được nhiều ca sĩ như Lệ Thu, Julie Quang thu vào băng đĩa.

Những bài hát của La Hữu Vang viết cho hoàn cảnh đất nước trước 1975 nhưng lại thích hợp hơn cho những năm sau 1975 với những cảnh “xót xa thầm trong cơn thê lương” hay “Bao suối lệ tràn dâng muôn phương”. Như ông bà ta thường nói “có tật giật mình”, Đảng rất ngại những bản nhạc của La Hữu Vang với nội dung yêu nước chân thành như thế, nếu cho phép tiếp tục hát trong những năm sau 1975 đói khổ, có thể giúp cho tuổi trẻ Việt Nam sực tỉnh và hiểu ra kẻ thù của dân tộc chẳng phải “Mỹ Ngụy” nào mà chính là những kẻ đang nhân danh Tổ quốc.

Theo đúng sách lược của Đảng từ những ngày mới thành lập năm 1930 được cụ thể hóa qua nhiều đại hội và nghị quyết, ngày 30 tháng 4 năm 75 cũng xác định nhu cầu “khai thác lòng yêu nước” không còn cần thiết nữa, cuộc cách mạng “dân tộc dân chủ nhân dân” đã hoàn tất và “thời kỳ chuyên chính vô sản, bước quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội” đang bắt đầu thành hiện thực. Và trong tiến trình cách mạng mới đó, những khái niệm độc lập, tự do, hạnh phúc do những thành phần ngoài Đảng kêu gọi phải được cảnh giác và ngăn cấm.

Trong quan điểm của Đảng, giữa lúc cuộc đấu tranh một mất một còn để tận diệt mọi “tàn dư” của “kẻ thù nhân dân” và “bẻ gãy mọi âm mưu xâm lược của các thế lực quốc tế thù địch”, việc kêu gọi “người người tìm nhau trong bác ái tin yêu đời” để “chung xây nước Việt đẹp tươi” như La Hữu Vang viết, là biểu hiện cho “thái độ hữu khuynh”, “không phân biệt bạn thù”. Nhạc như thế phản động quá đi chứ. Cũng theo Đảng, những khái niệm như tình yêu nước thuần khiết của mấy cô cậu sinh viên đại học đúng là sản phẩm của giai cấp tiểu tư sản, yêu nước ngày nay phải gắn liền với yêu chủ nghĩa xã hội, và tương tự, nhân dân không phải là mấy chục triệu người Việt Nam máu đỏ da vàng chịu đựng chiến tranh mà là những ai biết đặt mình dưới sự lãnh đạo tuyệt đối của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Ngày 30 tháng 4 năm 1975 cũng là ngày đánh dấu sự chia tay giữa Đảng Cộng sản và các thành phần dân tộc mà Đảng đã một thời liên minh, thỏa hiệp và ưu ái. Mối quan hệ giữa hai bên nếu còn được duy trì cũng chỉ là quan hệ lãnh đạo và phục tùng, chủ và tớ chứ không còn tương kính dù chỉ là đóng kịch như thời còn ở trong rừng hay trên núi. Một số trí thức trẻ “thức thời” thấy được hướng bay của ngọn cờ quyền lực, đã tự chôn sống đi con bướm vàng mơ ước tuổi hai mươi để hóa thân làm sâu bọ đo mình trên chiếc lá mục công danh. Một số khác nghĩ rằng mình “có công với cách mạng” trong thời chống Mỹ nên cũng có quyền, có tiếng nói dưới chế độ mới, và kết quả nếu không chạy kịp ra nước ngoài thì cũng bị bỏ rơi, bạc đãi, tù đày trong nước. Dĩ nhiên cũng có nhiều người, tuy trễ tràng, nhưng đã thấy ra những chọn lựa đầy lầm lỡ thời trai trẻ và đã dùng những lầm lỡ như bài học, như chiếc gương cho các thế hệ mai sau soi vào để qua đó mà nhận diện ra sự thật và chọn hướng đi đúng cho mình.

Giới lãnh đạo Đảng Cộng sản lợi dụng và vận dụng một cách tinh vi, nhuần nhuyễn lòng yêu nước, niềm khao khát hòa bình thống nhất chân thành nhưng quá đơn sơ của người dân Việt, nhất là trong tuổi trẻ. Họ có đủ sách vở áp dụng cho mọi thành phần xã hội, từ anh thợ điện Nguyễn Văn Trỗi ít học ở quê tôi cho đến bà luật sư Ngô Bá Thành học nhiều mà hiểu chẳng bao nhiêu ở Sài Gòn. Tất cả đều hùa theo Đảng đổ tội lý do cuộc chiến lên đầu các nhà lãnh đạo miền Nam, nào là không tôn trọng Hiệp định Geneva thống nhất đất nước qua một cuộc tổng tuyển cử, nào là rước voi Mỹ vào giày xéo lên mảnh đất miền Nam thân yêu. Thế nhưng, không có một nhà trí thức nào thử đặt ngược giùm câu hỏi. Giả thiết không có một người lính Mỹ nào đặt chân lên miền Nam liệu Đảng Cộng sản có để yên cho nhân dân miền Nam xây dựng một xã hội mà họ đã chọn lựa hay rồi sẽ tìm một lý do khác để phát động chiến tranh? Giả thiết Đảng Cộng sản thua trong cuộc tổng tuyển cử, liệu họ có chịu giải tán bộ máy công an, hủy bỏ tổng cục chính trị, hệ thống quân ủy, ủy ban nhân dân, viện kiểm sát nhân dân, tòa án nhân dân, sáp nhập quân đội nhân dân vào quân đội cộng hòa và sinh hoạt bình đẳng dưới pháp luật như các đảng phái khác hay sẽ dùng mọi thủ đoạn để giành cho được chính quyền? Một người có kiến thức chính trị tối thiểu cũng biết Đảng chỉ có một con đường, đó là cộng sản hóa toàn cõi Việt Nam, và tất cả khẩu hiệu hòa bình, thống nhất, độc lập, tự do nếu có chăng cũng chỉ là những điều kiện tiền đề chứ không bao giờ là mục đích của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Chính vì lẽ đó, ngay sau 30 tháng 4 năm 75, để xác định vai trò lãnh đạo của Đảng, những bài hát mới với những câu đầy đe dọa như “Tiến về Sài Gòn ta quét sạch giặc thù…”, “Đập tan mọi xích xiềng…” hay những bài hát như “Bác đang cùng chúng cháu hành quân…”, ”Như có Bác trong ngày vui đại thắng”, “Trường Sơn đông-Trường Sơn tây”, “Hồ Chí Minh đẹp nhất tên Người " v.v… được phát không chỉ trên đài phát thanh mà còn đến tận các hang cùng ngõ hẻm, trong lúc những nhạc phẩm nói lên khao khát hòa bình thật sự nhưng không nằm trong chủ trương của Đảng đều đã bị loại bỏ ra khỏi các sinh hoạt văn nghệ.

Mà cho dù không bị ngăn cấm hay loại bỏ đi nữa, những câu hát sinh viên “Rồi hòa bình sẽ đến, đến cho dân tộc Việt, đôi bồ câu trắng rủ nhau về làng xưa...” của Nguyễn Tuấn Kiệt có cất lên cũng tức khắc trở thành lạc lõng nếu không muốn nói đó là những lời mỉa mai cay đắng trước thực tế đất nước đang chìm đắm trong hận thù tang tóc. Hòa bình đã đến nhưng con bồ câu trắng không về làng xưa mà chết đói trên vùng kinh tế mới, giữa biển cả mênh mông, trong rừng sâu nước độc, trên hàng rào kẽm gai chung quanh các trại tù Suối Máu, Hàm Tân, Hoàng Liên Sơn, Thanh Phong, Thanh Hóa.

Với người dân Sài Gòn, nỗi lo khi nghe tiếng đại pháo 130 ly của Liên Xô bắn vào thành phố và nỗi sợ khi nghe tiếng xích xe tăng T54 lăn bánh qua cầu Tân Thuận có thể không khác gì nỗi lo, nỗi sợ của ông bà họ trong ngày thực dân Pháp đánh vào thành Kỳ Hòa 115 năm về trước.

Một số người cho rằng việc gọi ngày 30 tháng 4 là ngày quốc hận, ngày mất nước, mất quê hương hay so sánh ngày mất Sài Gòn năm 1975 với ngày Sài Gòn thất thủ năm 1861 là biểu hiện của thái độ cực đoan. Thật ra, nếu nhìn lịch sử theo điều kiện và hoàn cảnh chính trị xã hội của từng giai đoạn, việc gọi ngày 30 tháng 4 năm 1975 là ngày mất nước không hẳn là không có cơ sở. Thế nào là một đất nước? Đất nước phải chăng là tổng hợp, từ lãnh thổ đến tài nguyên, từ văn hóa đến lịch sử, từ chủ quyền quốc gia đến hạnh phúc của mỗi người dân, nói tóm lại, nếu đất nước bao gồm mọi giá trị vật chất và tinh thần của một dân tộc, rồi ngày 30 tháng 4 năm 1975 đúng là ngày mất nước, không chỉ mất miền Nam thôi mà mất cả Việt Nam.

Một ví dụ. Những năm sau 1975, ngày sinh nhật Karl Marx 5 tháng 5 là ngày lễ lớn. Từ sáng đến tối không biết bao nhiêu chương trình, bao nhiêu buổi mít-tinh để tưởng nhớ đến người được Đảng ca ngợi như một vĩ nhân đã chỉ đường cho nhân loại bước ra khỏi những nhọc nhằn tăm tối của cảnh người bóc lột người để hướng đến xã hội cộng sản khoa học. Tiểu sử của Marx được đọc trên đài phát thanh, đài truyền hình, học tập tại mỗi tổ dân phố, hàng triệu học sinh Việt Nam từ cấp một đến đại học phải học thuộc lòng tiểu sử Marx, thế nhưng, bao nhiêu học sinh Việt Nam nói riêng và người dân Việt Nam nói chung biết rằng trước đó vài tuần lễ thôi, một ngày vô cùng trọng đại đối với dân tộc Việt Nam đã lặng lẽ trôi qua gần như trong quên lãng: ngày mùng 10 tháng 3 Âm lịch Giỗ Tổ Hùng Vương. Câu tục ngữ Việt Nam mà ai cũng biết, cây có cội nước có nguồn, nhưng nguồn Việt Nam ở đâu và cội Việt Nam sẽ mục nát ra sao trong một nền giáo dục nô lệ và vong bản như thế. Một dân tộc đi xa dần với nguồn cội, nếu không đáng gọi là mất nước thì còn gì quan trọng hơn để mất chứ nhỉ?

Sự sụp đổ của hệ thống cộng sản trên phạm vi thế giới đã ít nhiều đã ảnh hưởng đến Việt Nam, các nhạc phẩm sinh viên một thời xếp xó được đem ra hát lại, bản nhạc “Tình ca” của Hoàng Việt được nhiều ca sĩ đua nhau hát, đời sống của người dân ít nhiều thay đổi, nhưng về căn bản, hơn ba mươi năm qua khát vọng hòa bình, thống nhất, độc lập, tự do của dân tộc vẫn còn là khát vọng. Tiếng súng đã vắng đi trên đất nước, non sông liền một dải nhưng người dân vẫn sống trong nỗi bất an lo sợ, lòng người hai miền Nam Bắc còn ngăn cách xa hơn cả trong thời chiến, hàng trăm ngàn người con gái Việt phải rời bỏ quê hương đi ăn mày, làm điếm, ở đợ khắp thế giới, Hoàng Sa và phần lớn Trường Sa còn trong tay giặc, phần lớn trong số hơn hai triệu người Việt hải ngoại vẫn còn bị xem là thành phần phản động bám theo chân đế quốc, và trong nước, những quyền tối thiểu như ngôn luận, đi lại, thờ phụng của người dân vẫn chưa có được.

Việt Nam thiếu quá nhiều thứ, cần quá nhiều thứ, nhưng một thứ mà tuổi trẻ đang thiếu, đang cần không phải là lãnh tụ, không phải là súng đạn, không phải là kiến thức, mà là những bài ca của khát vọng hòa bình, thống nhất, độc lập, tự do vẫn chưa thành sự thật.

Không ai ngăn nổi lời ca, lời ca lúc ban đầu, người tình thương mến nhau
Lời tôi ca bên lửa ấm của con tim biết yêu nồng
Sưởi cho nhau cơn giá lạnh ngày Đông.

Không ai ngăn nổi lời ca, vâng, hãy hát lên hỡi tuổi trẻ Việt Nam như một lần La Hữu Vang và bạn bè anh đã hát trong sân trường đại học.

Nhất Hạnh - Thơ

Nhất Hạnh


Ông là một thiên tài văn chương hiếm hoi của Phật giáo. Rất tiếc cho văn học, ông không đam mê văn chương; và rất hay cho Phật giáo, ông đam mê thiền. Dù rằng những đóng góp của ông về văn học rất đáng kể, nhưng dường như đã bị mờ nhạt bởi các thành tựu to lớn của ông đối với Phật giáo. Vì vậy người ta nhắc đến ông thì thường nhắc đến vai trò của một thiền sư, một tu sĩ Phật giáo nổi tiếng, hơn là một thi nhân, một văn sĩ. Các tác phẩm của ông, đầy tính văn học, lại được thưởng thức như những tác phẩm thiền học, Phật học. Có lẽ chỉ vì trong hướng sáng tác, ông không giống như những thi nhân khác của Phật giáo: người ta đem thiền vào thơ; ông đem thơ vào thiền. Thơ đối với ông, chỉ là phương tiện. Dù thế, phương tiện của một tài năng thiên phú, thể hiện trong chủ đích nào, cũng ghi lại những dấu tích trác tuyệt.

Cho nên, thưởng thức thơ ông thì hãy tạm quên vai trò thiền sư, hay vai trò một nhà văn hóa, một nhà đạo đức mô phạm. Ðây, thơ của thi sĩ Nhất Hạnh:



Bướm bay vườn cải hoa vàng

mười năm vườn xưa xanh tốt

hai mươi năm nắng dọi lều tranh

mẹ tôi gọi tôi về

bên bếp nước rửa chân

hơ tay trên bếp lửa hồng

đợi cơm chiều khi màn đêm buông xuống

tôi không bao giờ khôn lớn

kể gì mười năm, hai mươi năm, ba mươi năm

mới hôm qua đây, tôi thấy bướm bay từng đàn rộn rã

trong khu vườn cải hoa vàng

mẹ và em còn đó

gió chiều như hơi thở

mơ gì một mảnh tương lai xa xôi?

gió mang tiếng ca, ngày ra đi em dặn: "nếu ngày về không thấy khung trời đổ nát, thì tìm tôi trong tận đáy hồn anh"

tôi đã về (có tiếng hát) trong bàn tay

trên liếp cửa

hỏi rằng: "có tôi hôm nay đây tôi giúp được gì?"

gió thì thầm: em nên hát ca

bởi vì hiện hữu nhiệm mầu

hãy là đóa hoa, hãy là nụ cười

hạnh phúc có bao giờ được dựng xây bằng vôi với gạch?



hãy thôi là nguồn đau khổ cho nhau

tôi tìm em (như đêm giông tố loạn cuồng rừng sâu đêm tối

những cành cây sờ soạng

đợi ánh chớp loè ngắn ngủi

thấy cần được hiện hữu bên nhau, tìm nhau)

em hãy là đóa hoa đứng yên bên hàng giậu,

hãy là nụ cười, một phần của hiện hữu nhiệm mầu

tôi đứng đây chúng ta không cần khởi hành

quê hương chúng tôi đẹp như quê hương của tuổi thơ

xin đừng ai xâm phạm

tôi vẫn còn hát ca

đầu còn gối trên Thánh kinh, sáng nay tôi nghe xôn xao

trong nắng mai vũ trụ

đang được những con ong vàng siêng năng

bắt đầu khởi công tạo dựng chương trình

xây dựng ngàn đời

nhưng công trình, em xem, đã được ngàn đời hoàn tất

bánh xe mầu nhiệm chuyển hoài đưa chúng ta đi tới

nắm lấy tay tôi em sẽ

thấy chúng ta

đã cùng có mặt tự ngàn xưa trong hiện hữu nhiệm mầu

tóc mẹ tôi còn xanh và dài chấm gót

áo em tôi phơi còn phất phơ bay trước giậu

nắng sớm mùa thu

tôi ở đây chính thực vườn xưa

những cây ổi trái chín thơm

những lá bàng khô thắm

đẹp

rụng

còn chạy chơi la cà trên sân gạch

tiếng hát văng vẳng bên sông

những gánh rơm thơm vàng óng ả

trăng lên, quây quần trước ngõ

vườn cải hoa vàng, chính mắt tôi vừa thấy sáng qua

tôi không ngủ mơ đâu

ngày hôm nay đẹp lắm thực mà

em không về chơi trò bắt tìm nơi quá khứ

chúng mình còn đây, hôm nay, và ngày mai nữa

đến đây

khi khát ta cùng uống ở một giếng nước thơm trong

ai nói cho em nghe rằng Thượng Ðế đã bằng lòng cho con người khổ đau đứng dậy hợp tác cùng Người?

chúng ta đã từng nắm tay nhau từ muôn kiếp vạn kiếp

khổ đau vì không tự biết là lá là hoa

em hát ca đi, bông cúc cười theo em bên hàng giậu

đừng bắt chúng tôi nhúng hai tay vào vôi cát

những ngôi sao trời không bao giờ xây ngục thất cho chính mình

để cho chúng tôi hát ca, để cho chúng tôi là những đóa hoa, chúng tôi đang ở trong cuộc đời

mắt chúng tôi chứng minh cho điều ấy

bàn tay cũng là hoa, đừng biến bàn tay em tôi thành giây chằng

thành khớp răng cưa

thành móc sắt

hiện hữu không kêu gọi tình thương

hiện hữu không cần ai phải thương ai

nhưng em phải là em, là đóa hoa, là bình minh hát ca không suy tính

xin ghi vào đây một tân ước nữa của tất cả chúng ta

và xin vẫn nghe lời tôi như nghe suối reo

như nhìn trăng sáng

em về đưa mẹ về cho tôi thăm



cho tôi hát em nghe

để tóc em sẽ dài xanh như tóc mẹ.



Trái ý thức chín rồi

tuổi trẻ tôi

trái mơ xanh

vết răng của em

gây thành thương tích nhỏ

những chân răng rúng động

và nhớ hoài

nhớ hoài



nhưng tự thuở yêu em

cánh cửa tôi mở rộng trước gió

thực tại kêu gào cách mạng

trái ý thức chín rồi

cánh cửa

không thể nào còn khép lại

lửa

lửa cháy tràn thế kỷ

loang lổ núi rừng hoang

gió thét ngang tai

bão tuyết bên trời oằn oại

vết thương mùa đông

vết thương mùa đông nằm nhớ lưỡi thép lạnh



bồn chồn - trăn trở

nhức nhối

thâu đêm.

__________



(Những bài thơ sau đây của nhà thơ Nhất Hạnh được Nhiên An trích từ tác phẩm "Thử tìm dấu chân trên cát" của Chân Không - do Nxb. Lá Bối Paris ấn hành. Xin chân thành cám ơn)





Vòng tay nhận thức

chuông ngân một đêm dài không ngủ

hai bàn chân không, tì tay cửa sổ

tôi đợi vườn cây hoa lá hiện hình

ánh sáng chưa về

nhưng trong lòng đêm thâu tôi biết em còn đó

trong lòng đêm thâu hay trong lòng bao la nhận thức

tự bao giờ, em vẫn là duyên sở duyên

lát nữa bình minh về và em sẽ thấy

cả em, cả chân trời hồng

và cả mầu trời xanh biếc

mêng mang, vời vợi

đều hiển hiện trong lòng mắt tôi

xanh nghĩa là xanh cho ai

hồng nghĩa là hồng cho ai

nghiêng mình trên dòng nước trong, em hỏi

hiện hữu ca lời duy nhất nhiệm mầu

tôi bỗng mỉm cười hồn nhiên trước đêm sâu hồn nhiên trinh bạch

tôi biết vì tôi còn đây nên em còn đó

và hiện hữu em trở về bừng tỏa nơi nụ cười huyền diệu của đêm nay

sải tay, tôi bơi đi

bình yên

trong dòng suối trong, im lặng

tiếng nước thì thầm bên tai êm ái

tôi ngửa mặt nhìn trời cao, đầu tôi gối sóng

còn kia, đúng rồi, mây trắng trời xanh

xao xác lá thu trong rừng cây

và ngây ngất hương thơm của cỏ rơm đồng nội

kìa ngôi sao khuya đưa lối

cho tôi trở về

tôi biết là em còn đó, vì tôi còn đây

vòng tay nhận thức, vô lượng do tuần, nối liền diệt sinh năng sở

và tôi đã thấy

trong lòng đêm thâu hay trong lòng bao la nhận thức

của em, cũng như của vườn hoa lá

tôi đã tự bao giờ vẫn là duyên thân sở duyên

diệu hữu ca lời chân không mầu nhiệm

đêm thâu còn đang nguyên vẹn

âm thanh hình bóng em về tràn đầy nơi hữu thể

bởi vì đêm nay

tì tay trên cửa sổ

và chân không trên nền đất mát

tôi còn đây, đang hiện hữu cho em



Người hành khất năm xưa còn ngồi đó

từ khoáng, từ khí, từ sương

từ tâm linh

từ những giới tử du hành giữa các tinh vân

đi mau bằng ánh sáng

em đã tới đây, đôi mắt xanh tỏa rạng

vô thủy và vô chung đã cùng vạch đường đưa lối em sang

trên đường đi em bảo em đã trải qua muôn triệu kiếp luân hồi sinh diệt

đã từng làm bão lửa trên không

đã từng đem thân đo tuổi núi sông

làm cỏ, làm cây

làm sinh vật đơn tế bào

làm đóa hoa diễm tuyệt

nhưng đôi mắt em nhìn tôi sáng nay

lại chứng minh rằng em chưa bao giờ từng chết

nụ cười kia vẫn mời tôi

tham dự nữa vào trò chơi đã bày ra từ tiền kiếp

trò chơi đi trốn đi tìm

hỡi con sâu xanh sáng nay đang uốn mình đo chồi cây

chồi non đã mọc suốt mùa hè năm ngoái

ai cũng bảo em chỉ mới sinh ra trong mùa xuân năm nay

thực ra người đã có mặt từ hồi nào

sao mãi tới phút này mới chịu hiện nguyên hình đem theo nụ cười trầm lặng

sâu ơi, mỗi hơi thở của tôi làm tuôn ra hàng vạn tinh cầu

cái rất lớn kia, ai hay, lại không ngoài cái thân em rất nhỏ

ở mỗi chấm trên thân em đã thiết lập muôn ngàn cõi Phật

va` mỗi cái đo của em cần đến thời gian từ vô thuỷ đến vô chung

người hành khất năm xưa vẫn còn trên Linh Thứu Sơn

thản nhiên ngồi nhìn mặt trời huy hoàng đang lặn

Gotama ! ô hay, ai bảo rằng Ưu Bát Đa La triệu năm mới có một lần nở

tiếng hải triều kia có chiếc tai nào chịu lắng

mà không nghe...



Tôi sẽ xin rằng: "tất cả"

nếu hỏi rằng: "người muốn bao nhiêu?"

tôi sẽ xin rằng: "tất cả"

tôi tham lam hơn ngày xưa, tham lam tột độ

cả ngài, cả tôi

cả người thiên hạ

xuôi về, sáng hôm nay, trong duy nhất nhiệm màu

ôi những mảnh rời nhau, khổ đau

tách ra ngoài đại thể

đã từ lâu, ngàn vạn đời

chúng tôi tự tìm, sờ soạng

trong ngục tù trả giá an vui

sáng hôm nay em tôi trở về quỳ dưới Phật đài

mắt đầm đìa lệ

ôi những linh hồn đi tìm bến đỗ

(hình bóng của tôi xưa

phiêu lưu ngàn năm, một hôm sầu khổ

khao khát bến bờ)

hãy để yên cho em quì lâu trên điện Phật

cho lệ em thầm lặng chảy

cho lệ em mặc sức tràn trề

hãy để yên cho em quì lâu thêm nữa

đủ thì giờ cho nước mắt ráo khô

bởi vì người ơi, một sáng mai kia

tôi sẽ đến châm lửa vào túp lều nhỏ của em ven đồi

túp lều duy nhất còn lại của đời em

cho lửa cháy lên cao

cho tan hoang tất cả

cho chỗ nương tựa cuối cùng tan rã

cũng như chiếc bè tan rã giữa đại dương

để vỏ cứng hồn em, trong hỗn độn nhiệm mầu

sẽ vỡ toang, tràn trề ánh sáng

tôi sẽ gặp em, bên ánh lửa hồng cháy rực của túp lều

tôi nhìn em

và khi cầm tay em, tôi hỏi rằng: "em muốn bao nhiêu:

em sẽ cười và sẽ xin rằng

"tất cả"



Ảo hóa

mí mắt chân trời mỏi

đầu núi nghiêng nghiêng tìm gối tựa

đêm về thơm giấc cỏ hoa

ảo hóa

bàn tay gió dậy

ngân hà nến ngọc lung linh

khung cửa lưng đồi bỏ ngỏ

sao băng vụt cháy lời kinh

vạn kiếp xoay quanh vòng mộng mị

đêm nay chợt thấy chân hình



Uyên nguyên

Himalaya là dãy núi nào?

trong tôi có một ngọn hùng phong đỉnh vươn cao trời mây khói

hãy đến cùng tôi dưới chân hùng phong không tên gọi

ngồi trên những tảng đá xanh không tuổi

lặng nhìn thời gian se từng sợi tơ óng

sông Cửu long chảy nơi đâu

trong tôi có một trường giang cuồn cuộn không biết đã bắt đầu tự chốn thâm sơn nào

ngày đêm nước bạc phăng phăng cuốn về nơi vô định

hãy cùng tôi tới thả thuyền trên dòng hung mãnh

để cùng tìm về chung đích của vũ trụ bao la

Andromaque là tên của đám mây sao nào

trong tôi có một tinh hà chuyển vận âm thầm muôn triệu tinh cầu sáng chói

hãy cùng tôi bay rách lưới không gian đường mây mở lối

tiếng đập cánh của anh sẽ gây chấn động tới mỗi vì sao xa

Homosapiens là tên giống sinh vật nào

trong tôi có một chú be’ một tay vén màn đêm, một tay cầm bông hoa mặt trời làm đuốc

hai mắt bé là hai vì sao

tóc bé bay cuồn cuộn như mây trên khu rừng già giông bão

hãy cùng tôi tới hỏi bé tìm chi và đang đi đâu

đâu là uyên nguyên, đâu là quy xứ

đường về có những ngã nào

ô hay bé chỉ mỉm cười

bông hoa trên tay bé bỗng trở thành một mặt trời đỏ chói

rồi bé một mình đi tới những vì sao.



Pháp giới thực ấn

xin đừng nghe lời thi sĩ

trong tách cà phê sáng nay của anh có một giọt lệ

xin đừng nghe lời tôi

trong tách cà phê sáng nay của anh có một giọt máu

bạn ơi xin đừng la mắng tôi

tôi không thể nào nuốt trôi được chất loãng này

không khí trong buồng phổi tôi sáng nay đã trở nên đông đặc

chàng nói hãy cho chàng khóc bằng mắt anh

bởi vì chàng không còn mắt

chàng nói hãy cho chàng đi bằng hai chân anh

bởi vì chàng không còn chân

và với bàn tay tôi đây

tôi đang sờ vào ác mộng các anh

chàng nói chàng đã được giải phóng rồi

giải phóng là để cho người còn lại

bàn tay tôi úp xuống mặt bàn

vũ trụ trầm ngâm

biển lớn vẫn chưa hề nguôi cơn thổn thức

và năm đỉnh núi cao

giữ nguyên thế hồng hoang trời đất

tinh tú trên cao

đêm đêm ngân hà một giải

bí mật ngàn đời chưa hề hé mở

bàn tay tôi nằm úp mặt bàn

vững chãi giữ chặt Tề Thiên không cho vùng dậy

không, bàn tay tôi sẽ không bao giờ lật ngửa ra trên mặt bàn

như một vỏ so` ngả nghiêng

dạt trôi vào bãi biển

như một thân hình ngã lăn cù khi trúng đạn

để cho núi sông ngã đổ

để cho tinh tú tắt ngấm nền trời

để cho đại dương bặt tiếng thủ thỉ muôn đời

bàn tay tôi vẫn còn úp xuống mặt bàn

và năm đỉnh núi cao

vẫn còn hiên ngang thống trị

bí mật ngàn đời chưa hé

nhưng sao trăng đêm rằm còn đương thì thầm nói chuyện

bàn tay tôi còn úp mặt bàn

đợi phút linh về lật ngược thế thăng bằng trời đất

bàn tay

dáng núi bàn tay.



Kiến trúc chân như

đừng la mắng những con chim bé nhỏ

vì tiếng hát ca cần thiết cho cuộc đời

đừng ghét bỏ thân thể em

vi` đó là đền thờ linh thiêng của linh hồn nhân loại

mắt trong của em là minh châu ngời sáng, chứa đựng bóng hình

tam thiên thế giới

và tai em có quyền hạn tối cao với tiếng chim

với hải triều sớm tối

với Beethoven, với Bach, với Chopin

với tiếng khóc trẻ thơ

với giọng ru an lành

và bàn tay em

là những bông hoa thương yêu ngàn đời không cần ai hái

(những bông hoa còn bừng nở nhiệm mầu

làm diễm lệ cả khu vườn nhân loại)

và vừng trán em

là bình minh sáng nhất của cảc bình minh

đừng phá hoại kiến trúc chân như

bông lúa, nội cỏ, hương đêm đều đã cất lên tiếng bảo vệ hòa bình

tôi biết một viên đạn đồng có thể bay đến ghim vào trái tim con sơn ca

sáng nay trên cành xuân

đương ngợi ca cuộc đời tha thiết

nhưng bông lúa, hương đêm

nội cỏ

rồi ngàn sao, vừng nguyệt

bằng tất cả sắc mầu, âm thanh, bóng hình

cương quyết

cùng chúng tôi nguyện bảo vệ em!



Đại trượng phu

cửa tùng đôi cánh khép

một mũi tên sáng loáng lìa dây cung

lao vút tới

mặt trời nổ tung

đầy sân hoa cam rụng

phảng phất bóng vô cùng.


compiled & posted by THD

Từ Nguyễn Tất Thành đến Hồ Chí Minh (I)

Lữ Phương
Từ Nguyễn Tất Thành đến Hồ Chí Minh
(Sự hình thành một chọn lựa)

Thay cho lời nói đầu

Một số chương rời của cuốn sách mỏng này đã lần lượt xuất hiện trên tạp chí Thư Nhà ở Sài Gòn vào những năm 2001-2002 – một tạp chí ở Úc, gửi về Việt Nam đã được một số thân hữu tại Sài Gòn nhân ra nhiều bản – sau đó đã được tập hợp lại dưới nhan đề Từ Nguyễn Tất Thành đến Hồ Chí Minh (với cái tên phụ là “Sự hình thành một chọn lựa”), sao chụp nhiều đợt, phổ biến như một tài liệu chuyền tay được nhiều người tìm đọc.

Được đưa lên mạng hải ngoại để dội về nội địa, cuốn sách đã được xem là một ấn phẩm chứa đựng một thứ nội dung chưa từng có đối với cái không gian chữ nghĩa trong nước: lần đầu tiên đã xuất hiện sự phê phán một cách công khai và có hệ thống điều thường được gọi là sự “chọn lựa xã hội chủ nghĩa” mà vị lĩnh tụ tối cao của chế độ đương quyền, là ông Hồ Chí Minh, đã mang về cho Việt Nam trong quá trình chống chủ nghĩa thực dân.

Do đã quan tâm đến đề tài này từ lâu (với một loạt bài viết về chủ nghĩa Marx) tôi có nhiều lần nhắc đến Hồ Chí Minh, nhưng ý định tìm hiểu sâu hơn, đầy đủ hơn về quá trình hình thành nên sự “chọn lựa” nói trên của ông – từ những ngày sang Pháp (1911) cho đến ngày ông về nước (1941) – chỉ nẩy ra với tôi khi thấy những nhà ý thức hệ của Đảng Cộng sản Việt Nam bắt đầu nói rất nhiều đến “tư tưởng Hồ Chí Minh” để định hướng cho con đường phát triển của đất nước, sau khi Liên Xô, Đông Âu sụp đổ.

Đối với người Việt Nam trong nước lẫn ngoài nước, ai cũng biết đây là một vấn đề gai góc, rất dễ gây ngộ nhận, chia rẽ. Và lý do thì quá rõ: tuy Hồ Chí Minh đã trở thành một nhân vật của quá khứ rồi, nhưng cái di sản nhiều mặt mà ông để lại cho những người còn sống thì vẫn còn nguyên, dưới những sắc thái ngược nhau như lửa với nước. Sự sùng bái, thần phục tồn tại song song với những nguyền rủa, căm hờn, thái độ nào cũng diễn ra dưới những trạng thái cực đoan, dường như ngày càng nặng nề hơn.

Cảnh giác không để rơi vào những tranh cãi nguy hiểm đó, tôi đã thử học theo phương pháp quen thuộc của những người theo trường phái hàn lâm: để cho những tài liệu nghiên cứu lên tiếng thay cho tư biện. Những tài liệu ấy, hầu hết là thứ cấp, và cũng chẳng thấm vào đâu, nhưng khi phê bình, đối chiếu, so sánh những gì tìm được, tôi nhận ra được tính hiện thực rất hiển nhiên của một số sự kiện có thể đính chính được khá nhiều sai lạc về cuộc đời và tư tưởng của Hồ Chí Minh thường được lưu truyền từ trước đến nay.

Những đính chính ấy bạn đọc sẽ tìm thấy trong cuốn sách mỏng này. Không phải chỉ là những chi tiết thuộc về cuộc sống riêng tư, những tình huống thăng trầm trong hoạt động của ông mà quan trọng hơn hết là những kết quả tinh thần của cuộc dấn thân mà ông đã đem về cho đất nước. Tôi hy vọng rằng những ý kiến mà tôi đưa ra để tìm câu trả lời cho những chủ đề rốt ráo ấy vẫn có khả năng điều chỉnh lại một số điều đã bị huyễn hoặc về những cái gọi là “công tội” mà người ta đã viết đã nói về sự nghiệp của ông.

Tôi hoàn toàn ý thức được những giới hạn trong công việc nhỏ bé của mình. Việc nghiên cứu nghiêm chỉnh về vai trò lịch sử của Hồ Chí Minh vẫn đang tiếp tục trong giới nghiên cứu. Với những tư liệu tập hợp được từ những nguồn đã có, tôi chỉ mong tìm ra một cách nhìn hiện thực hơn về một nhân vật đã từng đẩy tôi vào những vòng xoáy lịch sử do ông tạo ra, không phải bằng sự bình thản của lý tính mà bằng những sôi bỏng của đam mê và huyền thoại. Ý định đơn giản này nếu được bạn đọc nhận ra qua những trang viết về nhân vật ấy, đối với tôi, thật sự là một điều mong ước.

Những dòng “thay cho lời nói đầu” này tôi viết riêng cho lần “tái bản” cuốn Từ Nguyễn Tất Thành đến Hồ Chí Minh gửi đăng trên talawas. Một số hiệu đính, sửa chữa cũng đã được thực hiện, trong đó có thêm vào hai chương “Phụ lục”, vốn cũng là những bài rời liên hệ đến cùng một chủ đề.

Sài Gòn, 22.1.2007

Lữ Phương




Chương 1

Ra đi “tìm đường cứu nước”

Những ai quan tâm đến tiểu sử của Hồ Chí Minh đều biết cuốn Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch của Trần Dân Tiên, viết từ năm 1948, đến nay in đi in lại đã có cả chục lần rồi. Cuốn sách này đã đóng vai trò hết sức đặc biệt đối với giới nghiên cứu, giảng dạy về Hồ Chí Minh trong chế độ cộng sản Việt Nam từ đó đến nay: nó được mọi người coi như là tác phẩm do chính Hồ Chí Minh viết về mình dưới bút danh Trần Dân Tiên, một tài liệu được tác giả giới thiệu như một “tiểu sử trung thành, đúng đắn, sinh động, không thêu dệt, không bày đặt” [1] . Cuốn sách vì thế đã thành một nguồn tham khảo căn bản, quan trọng nhất cho tất cả những công trình biên khảo về Hồ Chí Minh: các sự kiện về cuộc đời hoạt động của ông đã được đương nhiên coi là chính xác, không thể nói khác, nói ngược lại.

Tuy vậy, đọc kỹ sẽ thấy đó không phải là một “tiểu sử” đúng nghĩa. Nó được thể hiện theo hình thức một thứ truyện kể [2] , gián tiếp mượn người khác nói về mình, và chỉ nói những gì tác giả cho là cần thiết, còn những điều rất quan trọng khác thì lại được cố tình giấu đi bằng kỹ thuật gọi là “biệt tích” không rõ lý do của nhân vật chính. Nói chung là một cuốn sách rất gần với thể loại gọi là truyện ký “người thật việc thật”, chứa đựng khá nhiều những yếu tố hư cấu để tuyên truyền, rất tiêu biểu trong nền văn chương tuyên huấn cách mạng, vì vậy những sự kiện ở đây đã không còn hoàn toàn là những cái mà chúng ta thường gọi là khách quan, sử học nữa.

Muốn có được cái nhìn trung thực hơn về các sự kiện trong đời hoạt động của Hồ Chí Minh trong cuốn sách nói trên, thiết tưởng chúng ta không có cách nào khác là đối chiếu chúng với những nguồn tài liệu khác, những nguồn tài liệu này đã được giới nghiên cứu phát hiện khá phong phú trong suốt mấy chục năm qua.

Chúng ta hãy dừng lại ở một thời điểm khá quan trọng đối với cuộc đời cách mạng của Hồ Chí Minh – đó là cuộc bỏ nước sang Pháp của ông năm 1911 – để thử làm công việc đó.


“Phê phán” trước khi ra đi?

Trước hết, chúng ta hãy đọc lại đoạn văn nói về sự kiện ra đi nói trên trong “quyển truyện” của Trần Dân Tiên. Khi còn là người thiếu niên mười lăm tuổi, Hồ Chí Minh

“đã sớm hiểu biết và rất đau xót trước cảnh thống khổ của đồng bào. Lúc bấy giờ, Anh đã có chí đuổi thực dân Pháp, giải phóng đồng bào. Anh đã tham gia công tác bí mật, nhận công việc liên lạc. Anh khâm phục các cụ Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Phan Chu Trinh và Phan Bội Châu nhưng không hoàn toàn tán thành cách làm của người nào. Vì:

Cụ Phan Chu Trinh chỉ yêu cầu người Pháp thực hiện cải lương. Anh nhận điều đó là sai lầm, chẳng khác gì đến xin giặc rủ lòng thương.

Cụ Phan Bội Châu hy vọng Nhật giúp đỡ để đuổi Pháp. Điều đó rất nguy hiểm, chẳng khác gì “đưa hổ cửa trước, rước beo cửa sau”.

Cụ Hoàng Hoa Thám còn thực tế hơn, vì trực tiếp đấu tranh chống Pháp. Nhưng theo lời người ta kể thì cụ còn nặng cốt cách phong kiến.

Anh thấy rõ và quyết định con đường nên đi. Cụ Phan Bội Châu vào bậc chú bác của Anh, Cụ Phan Bội Châu muốn đưa Anh và một số thanh niên sang Nhật. Nhưng anh không đi” [3] .

Vậy anh muốn làm gì ? Một nhân vật thuật lại lời anh như sau:

“Tôi muốn đi ra ngoài, xem nước Pháp và các nước khác. Sau khi xem xét họ làm như thế nào, tôi sẽ trở về giúp đồng bào chúng ta” [4] .

Những ai không phải là người sùng bái Hồ Chí Minh, khi đọc thêm những tài liệu khác sẽ dễ dàng nhận ra khá nhiều điều cần hiệu đính trong đoạn văn trên đây.

a) Hồ Chí Minh lúc bấy giờ “đã tham gia công tác bí mật, nhận công việc liên lạc”. Không có bằng cớ xác nhận ông đã làm như vậy. Tất cả những tác giả, dù theo khuynh hướng nào, viết về Hồ Chí Minh sau này chẳng ai nhắc lại để sử dụng cả. Sự kiện đó được liệt vào lĩnh vực hư cấu thuần tuý.

b) “Cụ Phan Bội Châu muốn đưa Anh và một số thanh niên sang Nhật. Nhưng Anh không đi”. Không đúng!

“Trong cuốn hồi ký Năm mươi bốn năm hải ngoại của Trần Trọng Khắc (tức Nguyễn Thức Canh) có đoạn: Tôi cùng cụ Sào Nam ở chung trong một thuyền. Chín mười ngày sau, lúc các đồng chí đã đến họp, bàn bạc xong, cụ lên đường ra Bắc, tôi cùng Ngư Hải tiên sinh đi cáo biệt với cách mạng đồng chí và tìm thanh niên xuất dương du học. Cụ Phó bảng Thái Sơn đương thời có tặng tôi một bài thơ xuất ngôn tuyệt cú để làm quà tiễn biệt. Chúng tôi trước tới nhà cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc rủ anh Nguyễn Sinh Cung đồng đi, nhưng anh Cung đã đi ra Bắc không được gặp” [5] .

c) Khen Hoàng Hoa Thám là “thực tế, vì trực tiếp đấu tranh chống Pháp” nhưng lại cho rằng chủ trương của Phan Bội Châu nhờ Nhật đuổi Pháp là “chẳng khác gì đưa hổ cửa trước, rước beo cửa sau” là cố ý gác qua bên mối quan hệ giữa hai nhà yêu nước này. Trước khi qua Nhật, Phan Bội Châu đã tìm gặp và muốn dựa vào Hoàng Hoa Thám để xây dựng lực lượng trong nước. Còn việc “Đông độ” “cầu viện” của nhà chí sĩ này (năm 1905) thì đó không phải là một kế hoạch tự thân mà chỉ để phối hợp với những hoạt động khác trong nước. Tuy nhiên, chủ trương này đã được điều chỉnh lại vì khi sang Nhật, nghe lời khuyên của Lương Khải Siêu và một số chính khách Nhật, Phan Bội Châu đã chuyển sang cổ vũ phong trào du học. 1907, chủ trương này cũng lại không đi đến đâu vì Nhật ký hiệp ước với Pháp cấm hoạt động. Bị trục xuất, Phan Bội Châu đã phải cùng các đồng chí chạy sang Thái Lan, Trung Quốc [6] . Chỉ có khoảng 5 năm, Phan Bội Châu đã chuyển đường lối nhiều lần: 1911, khi Nguyễn Tất Thành sang Pháp, Phan Bội Châu đã ở Trung Quốc và đã từ quân chủ lập hiến chuyển sang ủng hộ cộng hoà kiểu Tôn Dật Tiên rồi.

Bốn mươi năm sau (1948) nhìn lại những gì đã xảy ra trên đất nước mà chỉ lẩy ra trong phong trào của Phan Bội Châu khía cạnh “Đông du cầu viện” để phê phán là rất thiếu sót.

d) Cho rằng chủ trương cải lương của Phan Chu Trinh là “sai lầm, chẳng khác gì đến xin giặc rủ lòng thương” cũng không có ý muốn hiểu tới nơi tới chốn đường lối của nhà chí sĩ này. Sở dĩ Phan Chu Trinh không chấp nhận bạo động vì ông đã thấy cái gương chiến đấu anh dũng nhưng tuyệt vọng của các chiến sĩ Cần vương. Cũng không tán thành chủ trương bạo lực của Phan Bội Châu vì ông cho rằng khi chưa có đủ thực lực thì chỉ dắt nhau vào cái chết vô ích.

Vấn đề cứu nước do Phan Chu Trinh đặt ra không đơn thuần là giành lại chủ quyền mà phải hiện đại hoá thì vấn đề chủ quyền mới giải quyết triệt để được, vì theo ông hiện đại hoá chính là nội dung của độc lập dân tộc trong thời kỳ mới, khác hẳn với thời phong kiến trước đây. Cách đặt vấn đề này cũng không khác Phan Bội Châu, sự khác nhau chỉ là giải quyết như thế nào về mối quan hệ giữa độc lập và hiện đại hoá. Trong khi mò mẫm chưa hiểu rõ con đường hiện đại hoá, Phan Bội Châu đặt ưu tiên cho việc vũ trang khởi nghĩa, dựa vào cơ sở có sẵn còn lại của phong trào Cần vương phối hợp với một số hoạt động khác.

Phan Chu Trinh thấy rõ tình trạng lạc hậu thấp kém của xã hội truyền thống, cũng lại thấy phương thức dùng bạo lực là chưa có triển vọng nên đã chủ trương giành ưu tiên cho sự nghiệp nâng cao dân trí, học hỏi văn hoá dân chủ sau đó mới từng bước tính chuyện giành lại độc lập [7] . Chủ trương “ỷ Pháp cầu tiến” của ông đã dựa trên nhận định ấy. Chủ trương ấy không phải là không có cơ sở: trong nước Pháp dân chủ, ông đã được khá đông những người thuộc phe tả (Đảng Xã hội, Hội Nhân quyền, những nhân vật cấp tiến trong bộ máy cầm quyền của nước Pháp…) giúp đỡ, ủng hộ, tạo áp lực với chính phủ Pháp đòi thay đổi chính sách thuộc địa. Xét về lâu dài, trước thưc tế ngoan cố của thực dân Pháp, nếu kéo dài mãi chủ trương ấy có thể sẽ đưa nhân dân vào con đường thoả hiệp, nhưng trong cơn tăm tối của đầu thế kỷ 20, đó cũng là một cách tìm đường. Dùng mấy chữ “xin giặc rủ lòng thương” đối với Phan Chu Trinh là không thể tất nhân tình.

e) Không có gì nghi ngờ chủ trương muốn đi sang Pháp và các nước khác, “xem xét họ làm như thế nào”, rồi “sẽ trở về giúp đồng bào chúng ta” là chọn lựa của Hồ Chí Minh vào lúc bấy giờ như chính ông (dưới cái tên mới là Nguyễn Ái Quốc) đã xác nhận trong các cuộc trả lời phỏng vấn khi sang Nga năm 1924:

“Khi tôi độ mười ba tuổi, lần đầu tiên nghe được ba chữ Pháp: Tự do, Bình đẳng, Bác ái. Đối với chúng tôi, người da trắng nào cũng là người Pháp. Người Pháp đã nói thế. Và từ thuở ấy, tôi rất muốn làm quen với nền văn minh Pháp, muốn tìm xem những gì ẩn đàng sau những chữ ấy. Nhưng trong những trường học cho người bản xứ, bọn Pháp dạy người như dạy con vẹt. Chúng giấu không cho người nước tôi xem sách báo. Không phải chỉ sách của những nhà văn mới, mà cả Rousseau và Montesquieu cũng bị cấm. Vậy thì phải làm thế nào bây giờ? Tôi quyết định tìm cách đi ra nước ngoài” [8] .

Nhưng lời lẽ phát biểu có nhiều chỗ quá cường điệu so với kinh nghiệm và nhận thức của một thiếu niên 13 tuổi! Giả sử như có mang chút ưu tư của một người trẻ tuổi sớm biết quan tâm đến thời cuộc thì đó vẫn chỉ là những nghĩ ngợi bâng khuâng, những cảm nhận có tính chất trực giác trước tình trạng bế tắc chung của đất nước, không có lý luận gì để có thể gọi là cao hơn những chủ trương đấu tranh của các vị tiền bối. Mới dự định đi ra ngoài “xem” người ta làm gì, nghĩa là chưa thấy gì chưa biết gì thì làm sao có thể khẳng định chuyện này chuyện nọ? Có gì bảo đảm rằng cứ phải sang Âu châu người ta mới tìm ra phương cách “giúp đỡ đồng bào”? Vả lại nội dung của mấy chữ “giúp đỡ đồng bào” lúc bấy giờ đã có gì rõ rệt, có gì gọi là vượt trội để có thể tự cho mình đứng được ở vị trí cao hơn để gọi là “phê phán” [9] các bậc cha chú?

“Phê phán” sau khi ra đi?

Chúng ta hãy cứ giả định theo lời lẽ của Trần Dân Tiên cho rằng chủ trương sang Pháp để “xem” người ta làm gì rồi “sẽ về giúp đồng bào” của Nguyễn Tất Thành đáng được gọi là “con đường nên đi” thì điều đó thật sự cũng chẳng có gì là mới mẻ so với những chọn lựa của tiền bối. Ít nhất là đối với người tiền bối rất thân cận với gia đình của Nguyễn Tất Thành, là phó bảng Phan Chu Trinh. Ngược hẳn lại những luận điệu gọi là “phê phán cha chú” của những người sùng bái Hồ Chí Minh, chúng ta đã có rất nhiều tài liệu chứng minh rằng suốt cả một thời gian dài từ trong nước đến sau khi ra ngoài, Hồ Chí Minh lúc ấy đã hoàn toàn phụ thuộc vào Phan Chu Trinh về sự bảo trợ và cả đường lối.

a) Bà Phan Thị Minh (cháu ngoại của Phan Chu Trinh) đã được ông Vũ Kỳ (thư ký riêng của ông Hồ từ Cách mạng Tháng Tám) xác nhận sự khẳng định của ông Hồ về mối quan hệ của mình với Phan Chu Trinh như sau:

“Mình biết Cụ từ trong nước rất sớm vì Cụ là bạn thân của cha mình. Sang Pháp là dựa vào Cụ để sống và hoạt động. Cụ Phan đã giúp mình rất nhiều, thực sự là ngưới đỡ đầu mình trong một thời gian dài khi mình ở Paris …” [10]

Ông Phạm Văn Đồng cũng cho biết những điều tương tự:

“Tôi đã được Bác Hồ nói nhiều về cụ Phan. Bác cho biết cụ đã quý và giúp Bác nhiều. Trước khi lên đường đi Pháp đã được cụ hướng dẫn… Nhận một công việc thời đó cho là thấp kém để dễ qua mắt mật thám, dễ ra đi cũng là theo ý Cụ… Sang Pháp là tiếp xúc ngay với Cụ… Quan hệ Bác với Cụ rất gần gũi, thân thiết như ruột thịt. Đi xa sang Mỹ hay ở Anh, Bác đều viết thư cho Cụ và nhận được thư Cụ phúc đáp đều đặn. Thư viết phải thật vắn tắt vì mật thám theo dõi chặt, nhưng có dịp là tranh thủ đến gặp Cụ để được bàn bạc và dặn dò mọi việc. Đi năm châu bốn biển để mở rộng kiến thức, học nhiều ngoại ngữ, đọc sách nhiều, giao tiếp rộng là những điều Cụ rất tâm đắc và khuyến khích…” [11] .

Căn cứ vào những lời chứng nhận trên đây, bà Phan Thị Minh đã khẳng định cái giả thuyết mà các nhà nghiên cứu trước đây đưa ra về việc ông Nguyễn Sinh Huy cùng Nguyễn Tất Thành đã kịp gặp Cụ Phan tại Mỹ Tho (nơi Cụ bị quản chế sau khi từ Côn Đảo về) hoặc tại Sài Gòn trước khi cụ Phan sang Pháp để bàn bạc kế hoạch ra đi của Nguyễn Tất Thành [12] . Không hề có dấu hiệu gì chứng tỏ Nguyễn Tất Thành đã “hoàn toàn không tán thành” cách làm của cụ Phan như sách của Trần Dân Tiên đã viết.

b) Bà Phan Thị Minh cũng cho biết rằng khi Nguyễn Tất Thành sang Pháp, ghé cảng Le Havre khoảng 40 ngày (do tàu cần sửa chữa), có thể Nguyễn Tất Thành đã về Paris (cách Le Havre khoảng 100 km) thăm Phan Chu Trinh nhân đó gặp Bùi Kỷ là người quen cũ [13] – về sau sẽ là thư ký của Hội Đồng bào Thân ái do Phan Chu Trinh và Phan Văn Trương lập ra năm 1912 – và có thể ở đây ông này đã gợi ý và thảo lá đơn xin vào học nội trú Ecole Coloniale cho Nguyễn Tất Thành chép lại tại Marseille ngày 15-9-1911 và gửi Tổng thống Pháp, trong đó có những dòng sau đây:

“Hiện tôi đang làm việc cho hãng Compagnie des Chargeurs Réunis (tàu Amiral Latouche-Tréville) để sinh sống.

Tôi hoàn toàn trắng tay nhưng rất ham muốn học hỏi. Đối với đồng bào tôi, tôi mong muốn trở nên hữu ích cho nước Pháp đồng thời có thể làm cho họ hưởng được những lợi ích của học vấn” [14] .

Có nhiều ý kiến ngược nhau về lá đơn này: người thì cho rằng Nguyễn Tất Thành lúc đầu vì chưa có ý định làm cách mạng nên đã tính đi làm cho Pháp (và chỉ đi làm cách mạng vì không được đi làm cho Pháp!), người lại cho rằng lúc đó vì đã có ý định làm cách mạng rồi nên Nguyễn tất Thành đã chủ động “chui” vào Trường Thuộc địa để “xây dựng phong trào yêu nước ngay trong lòng thực dân”. Tuy vậy, phần đông những người nghiên cứu đều cho rằng lá đơn trên đây đã phản ánh chủ trương rất rõ của Phan Chu Trinh: phải học văn hoá khai sáng và dân chủ của Pháp để canh tân đất nước.

c) Sau thời gian theo tàu đi các nơi đến năm 1913 dừng lại ở Anh, Nguyễn Tất Thành vẫn thường xuyên liên hệ với nhóm ông Phan Chu Trinh, Phan Văn Trường. Ngoài những chuyện kiếm sống, học tiếng Anh, quan tâm chút ít đến Chiến tranh Thế giới lần thứ nhất sắp nổ ra, không thấy Nguyễn Tất Thành cho biết đã tìm ra một cái gì mới hơn để tranh cãi với Phan Chu Trinh [15] . Sự tranh cãi chỉ xảy ra sau này khi từ Anh trở lại Pháp, lúc Nguyễn Tất Thành đã trở thành Nguyễn Ái Quốc, và cũng chỉ xảy ra sau khi mang tên Nguyễn Ái Quốc một thời gian khá dài. Sự bất đồng đó như thế nào, chúng ta sẽ có dịp nói đến, hiện giờ, qua những tài liệu trên, chúng ta có thể kết luận được mấy điều về cuộc ra đi của Hồ Chí Minh thời còn mang tên là Nguyễn Tất Thành như sau:

 Trước khi ra đi, Nguyễn Tất Thành chưa có được những hiểu biết vượt trội nào để gọi là “phê phán” hoặc “phủ định” các phương pháp tranh đấu của các vị tiền bối.

 Người thanh niên ấy chỉ mới có ý định sang Pháp xem xét và học hỏi, nhưng chưa học được gì và xem được gì để có thể nói về những chuyện quan trọng hơn bản thân.

 Sự chọn lựa ấy cũng đã bắt nguồn từ sự khuyên nhủ, chỉ vẽ, sắp xếp của Phan Chu Trinh, được Phan Chu Trinh giúp đỡ và cùng hoạt động trong một thời gian dài.

Ra đi không “phê phán”!

Có thể nói cuộc ra đi hiện thực của Nguyễn tất Thành là một cuộc ra đi mà phần lớn sự định hướng ban đầu không phải do mình quyết định với một ý thức phủ nhận mọi cái đã có một cách quyết liệt, sáng suốt như “quyển truyện” của Trần Dân Tiên đã viết và được những nhà sùng bái Hồ Chí Minh khai thác. Cuộc ra đi ấy đã được định hướng theo một con đường đã cũ và đó chính là con đường “Tây du” kiểu Phan Chu Trinh. Nhưng có một yếu tố khác cũng đã góp phần không kém quan trọng để tạo nên kịch bản ra đi này là sự góp sức của ông Nguyễn Sinh Huy, thân phụ của Nguyễn Tất Thành.

a) Nguyễn Sinh Huy đậu phó bảng năm 1901; 1906 vào Huế nhậm chức thừa biện Bộ Lễ; 1909 được cử làm tri huyện Bình Khê (tỉnh Bình Định), nhưng chỉ 7 tháng sau, tháng 1-1910, thì bị bãi chức và bị triệu hồi về Huế. Lý do: theo Sở mật thám ông đã uống rượu say và đánh chết người.

Nguyễn Sinh Huy phản bác (thừa nhận có đánh một tù nhân, nhưng cho rằng cái chết không phải do roi của ông), tuy thế do xét nghiệm cho biết người bị đánh đã phát bệnh mà chết, nên ông vẫn bị giáng bốn cấp và bãi chức. Sự nghiệp tan vỡ, ông xin vào Nam, từ đó về sau lưu lạc rày đây mai đó, kiếm sống bằng đủ thứ nghề, khi viết câu đối, dạy chữ Nho, lúc bốc thuốc, làm cai đồn điền, đã từng đi bộ lên Đế thiên Đế thích ở Cambốt nhưng lại không bao giờ trở về Huế và về quê, cũng chẳng bao giờ gặp lại con cái. Cuối cùng dừng lại tại làng Hoà An, tỉnh Cao Lãnh…, trước khi chết đã bị mật thám nghi ngờ có gia nhập một thứ tổ chức thần bí nào đó mang tên là Thiên địa Hội.

Hình ảnh thực tế của Nguyễn Sinh Huy qua những tài liệu do D. Hémery công bố [16] trên đây không hoàn toàn lý tưởng như người ta đã vẽ ra. Khá thân cận với những nhà nho tiêu biểu trong phong trào Duy Tân Đông du bấy giờ, bị mật thám theo dõi nhưng lại không bị liệt vào các phần tử nguy hiểm, do lẽ ông không trực tiếp dính líu đến các tổ chức chống đối. Không theo con đường từ quan tranh đấu của những bạn đồng khoa như Phan Chu Trinh, Ngô Đức Kế, ông vẫn chấp nhận đi vào guồng máy cai trị thuộc địa một cách miễn cưỡng, cuối cùng có lẽ do buồn chán mà trở nên sa sút [17] , ông đã tự gạt mình ra khỏi cái cái guồng máy quan lại cuối mùa để sống một cuộc sống giang hồ, cô độc. [18]

b) Ảnh hưởng của Nguyễn Sinh Huy với người con thứ ba của mình ra sao, chúng ta không biết rõ. Nhưng có điều chắc chắn là việc bị bãi chức của ông cũng đã kéo Nguyễn Tất Thành theo cùng số phận với mình: anh không còn khả năng tiếp tục theo con đường học vấn kiểu “Pháp-bản xứ” để sau này gia nhập vào guồng máy cai trị của thực dân dưới một hình thức mới, trong chính sách khai thác thuộc địa đã qua thời bình định. Có thể Nguyễn Tất Thành chưa chắc đã đi vào quỹ đạo đó; nhưng giả sử như anh còn giữ được ý định “giúp đỡ đồng bào” thì anh sẽ làm gì với mớ kiến thức kiểu thuộc địa mà anh đã thu lượm được? Có thể anh sẽ bỏ học để làm cách mạng cộng sản, nhưng ai sẽ thay anh đóng vai Nguyễn-Người-Yêu-Nước để liên hệ với Đệ tam Quốc tế và liệu có xuất hiện được một mẫu người cộng sản Việt Nam nào đó như anh? Thật khó trả lời.

Nhưng cũng rất may, những câu hỏi giả định ấy đã không có cơ sở để đặt ra. Có lẽ để chuộc lại lỗi lầm, ông Nguyễn Sinh Huy đã đặc biệt quan tâm đến Nguyễn Tất Thành và đã không để anh phải bươn chải một mình. Như chúng ta đã biết, sau khi bị cách chức, về quê xin phép vào Nam để “tìm kế sinh nhai”, nghe tin Nguyễn Tất Thành từ Quy Nhơn [19] vào Sài Gòn, ông đã xoay xở đi theo và có lẽ đã dẫn được Nguyễn Tất Thành đến gặp Phan Chu Trinh trước khi ông này sang Pháp (tháng 4-1911). Ông trông đợi gì nơi Nguyễn Tất Thành qua sự gửi gắm này với Phan Chu Trinh? Cũng do ông biết rõ đường lối của người bạn đồng khoa của ông là như thế nào, chắc hẳn ông sẽ không thể nào tưởng tượng ra được một ngày nào đó người con của ông lại trở thành một nhân vật như Nguyễn Ái Quốc. Với tính cách của ông, có thể suy nghĩ sau đây không sai sự thật lắm: thiếu gì cách dùng học vấn của mình để giúp đỡ đồng bào, đâu nhất thiết phải làm cách mạng? Dù sao ông cũng đã góp phần đẩy ra phía trước một người con sau này đã đi xa hơn kỳ vọng của ông rất nhiều.

c) Về phần Nguyễn Tất Thành lúc bấy giờ thì điều mà chúng ta biết được tương đối rõ là suốt một thời gian dài anh luôn luôn nhớ đến cha và cố gắng thực hiện những mong đợi của cha khi gửi gắm anh cho Phan Chu Trinh.

Chúng ta đã biết lá đơn của anh gửi Tổng thống Pháp ngày 15-9-1911 xin được vào học Ecole Coloniale với ước muốn vừa có ích cho nước Pháp vừa làm lợi cho đồng bào mình. Điều chúng ta cần biết thêm là sau khi gửi bức thư đó, Nguyễn Tất Thành đã theo tàu trở về Việt Nam qua hành trình Marseille–Sài Gòn–Hải Phòng–Sài Gòn–Marseille–Le Havre… Tại Sài Gòn, anh đã gửi thư cho anh là ông Cả Khiêm (Nguyễn Sinh Khâm hoặc Nguyễn Tất Đạt) lúc ấy đang giúp việc vặt tại Khâm sứ Trung Kỳ, nhờ vận động xin vào Ecole Coloniale. Ông Khiêm đã gửi thư lên Toàn quyền Albert Sarraut và thư này được chuyển về Khâm sứ Trung Kỳ. Và như mọi người có thể đoán, Khâm sứ Trung Kỳ đã trả lời Toàn quyền Đông dương, với lý do bác bỏ như sau: muốn vào Ecole Coloniale phải đang học ở thuộc địa, và chỉ những thanh niên xứng đáng trong hàng ngũ quan lại cao cấp mới được chọn [20] . Qua sự khẩn khoản này, chúng ta thấy quyết tâm muốn tìm một chỗ học nhất định để ổn định cuộc sống của Nguyễn Tất Thành là như thế nào.

Sự quan tâm lo lắng của Nguyễn Tất Thành với cha cũng rất đáng chú ý với cách thức đặc biệt của anh. Cũng tại Sài Gòn nhân chuyến về nước nói trên [21] , cùng với việc gửi thư cho Nguyễn Sinh Khâm nhờ vận động vào Ecole Coloniale, ngày 31-10-1911, Nguyễn Tất Thành cũng đã gửi thư cho Khâm sứ Trung kỳ xin nhờ chuyển mandat 15 đồng (Đông Dương) cho cha, vì cha anh không thể nhận mandat trực tiếp được [22] .

Suốt thời gian làm việc trên tàu, đi đây đó, nhưng nỗi lo lắng về cha vẫn làm Nguyễn Tất Thành bứt rứt: không phải chỉ gửi tiền giúp, anh còn có ý xin chính quyền thuộc địa phục chức hoặc tìm việc cho cha nữa. Bản khai của Bùi Quang Chiêu với Mật thám Sài Gòn ngày 21-9-1922 có nói đến việc ông gặp Nguyễn Tất Thành (mang tên Văn Ba) trên tàu Latouche-Tréville (ông nói đã quên tên) như sau:

“Anh đang làm việc trên tàu. Anh đến gặp tôi vì tôi từng là giáo sư nông nghiệp dạy cha anh tại Huế khoảng 1901-1902. Anh nói với tôi rằng lần đầu tiên anh sang Pháp, mục đích là để khiếu nại cho cha anh về việc ông vừa mới bị bãi chức. Anh muốn đến ở nhà thuyền trưởng Do-huu-Chan (?) đang công tác tại Marseille, với tư cách là người giúp việc nhà cho ông, để nhờ ông giúp đỡ trong việc khiếu nại đó” [23] .

Ngày 15-12-1912, khi qua Mỹ, thư gửi Khâm sứ Huế báo rằng trong ba cái mandat gửi cha, anh chỉ nhận được một thư trả lời, ấy là nhờ do lần ấy mandat đã được chính Khâm sứ chuyển trực tiếp. Lần này anh muốn gửi tiền hàng tháng cho cha, cũng nhờ Khâm sứ giúp đỡ và nhân đó xin Khâm sứ tìm việc làm cho cha nữa. Trong thư, có những đoạn lời lẽ như sau:

“Ôi! Hoàn cảnh của tôi gay go biết bao! Sống quá xa cha mẹ, rất hiếm nhận được tin tức của họ, muốn giúp đỡ họ mà không biết làm sao!

Thôi thúc bởi tình yêu của đứa con, tôi dám xin Ngài vui lòng thuận cho cha tôi một công việc như là thừa biện ở các Bộ hay Huấn đạo giáo thư (?) để, dưới tấm lòng nhân hậu cao cả của Ngài, ông ấy có được kế sinh nhai” [24] .

Có một chi tiết đáng lưu ý: dưới thư, ký là “Paul Tatthanh”, Poste restante 1, rue Amiral Courbet, 1 – Le Havre. Tên “Paul” này đã được Nguyễn Tất Thành sử dụng lại có biến dạng đi một chút gọi là “Paul Thành” trong một bức thư từ Anh viết cho Toàn quyền Đông Dương, đề ngày 16-4-1915, qua lãnh sự Anh tại Sài Gòn, nhờ chuyển cho cha, nhưng không đến tay vì không tìm được địa chỉ [25] .

Qua thư gửi Tổng thống Pháp xin vào học Ecole Coloniale, các thư gửi Khâm sứ Huế hoặc Toàn quyền Đông Dương nhờ liên lạc chuyển tiền và tìm việc cho cha, tên ký có lúc là “Paul Tatthanh” (từ Mỹ, 1912), có lúc là “Paul Thành” (từ Anh, 1915), chúng ta thấy nơi sự ra đi của người con thứ ba của ông phó bảng Nguyễn Sinh Huy một cung cách ứng xử chưa có gì gọi được “cách mạng” cả. Lý tưởng đi học để về giúp đồng bào theo chủ trương của Phan Chu Trinh chưa có điều kiện để bật lên thành mục đích chủ yếu, chế độ thực dân chưa thành đối tượng tố cáo, đả kích không khoan nhượng, tình nhà còn đè lên tâm tư nặng nề, cuộc mưu sinh của một thanh niên xa xứ cũng không kém phần bức xúc… Nói chung anh là một kẻ mới vào đời, tuy được những người thân hướng dẫn để đi xa, nhưng trong những ngày khởi đầu của cuộc hành trình này, Nguyễn Tất Thành vẫn chưa xác định được một vị trí nào thật rõ rệt về cuộc sống tương lai cho mình.


Hiện thực và huyễn hoặc

Sự so sánh trên đây cho chúng ta thấy rất nhiều khác biệt giữa hình ảnh của một Nguyễn Tất Thành dưối ngọn bút của Trần Dân Tiên năm 1948 với một Nguyễn Tất Thành trong hầu hết những tài liệu mới phát hiện về sau.

a) Nguyễn Tất Thành, trong cuốn sách của Trần Dân Tiên, đã được quan niệm như là tiền thân của những nhân vật Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh, không phải chỉ theo trật tự về thời gian mà còn là về lô gích: cái trước tất yếu dẫn đến cái sau, muốn hiểu cái sau phải biết cái trước và ngược lại. Cuộc đời Hồ Chí Minh phải được quan niệm như một tổng thể cách mạng nhất quán và có ý thức từ đầu đến cuối. Trước khi trở thành Hồ Chí Minh người yêu nước-cộng sản, theo nghĩa mà những người cộng sản quan niệm “chủ nghĩa yêu nước chân chính cũng là chủ nghĩa cộng sản”, thì Nguyễn Tất Thành tiền thân của Hồ Chí Minh phải là người chuẩn bị: chưa tìm được đường đến với chủ nghĩa cộng sản thì tâm tưởng của anh phải là mảnh đất thuận lợi để nẩy mầm chủ nghĩa cộng sản về sau – anh phải là người dọn đất, người phủ định, người “không tán thành” những phương cách yêu nước của cha chú mình, nghĩa là phải làm được người đại biểu tiềm thể cho cuộc cách mạng tương lai mà Hồ Chí Minh sẽ là đại biểu hiện thực.

Khác hẳn với một Nguyễn Tất Thành thực tế – một Nguyễn Tất Thành như là Nguyễn Tất Thành con của ông Nguyễn Sinh Huy – mà các tài liệu sau này đã phác hoạ: tuy đã được định hướng để ra đi, nhưng cái hướng ấy không tất yếu phải là cuộc cách mạng sau này anh sẽ chọn lựa, bởi vì để đến với cuộc cách mạng ấy, anh phải có được hàng loạt những cơ duyên khác xa với những ngày anh bỏ nước ra đi. Ở anh Nguyễn Tất Thành thanh thiếu niên ấy chưa có gì tất định báo hiệu anh sẽ là Nguyễn Ái Quốc hay Hồ Chí Minh về sau.

b) Anh Nguyễn Tất Thành được Trần Dân Tiên giao cho cái nhiệm vụ tiền thân ấy, anh Nguyễn Tất Thành được xem là “hình ảnh của nhà ái quốc xứ Nghệ An rời quê mẹ ra đi tìm đường giải phóng đất nước”, theo cách diễn tả của D. Hémery trong tài liệu đã kể, “chỉ thuộc về điều tưởng tượng huyễn hoặc của những năm sau 1945 hoặc sau 1920” [26] .

 Sau 1920, nhất là sau Đại hội Tours, khi Nguyễn Tất Thành đã vượt khỏi Phan Chu Trinh để trở thành người yêu nước-cộng sản: cần phải đẩy thật mạnh việc tố cáo tội ác của thực dân để kêu gọi sự chú ý, sự giúp đỡ của những người hoạt động khuynh tả khắp nơi, đặc biệt thúc đẩy Đảng Cộng sản Pháp, và sau 1923, khi đã sang Nga, vận động Quốc tế Cộng sản, thiết thực ủng hộ phong trào chống thực dân ở Đông Dương. Những bài trả lời phỏng vấn của Nguyễn Tất Thành-Nguyễn Ái Quốc vào thời kỳ này đã bộc lộ rõ xu hướng ấy. Động cơ muốn xem văn minh Pháp được kích động thêm bởi tinh thần “chống đối về bản chất” của những người lính lê dương [27] – và chỉ như vậy mà thôi: đó là tất cả những gì Nguyễn Ái Quốc có thể nhớ lại về chuyến ra đi của Nguyễn Tất Thành để bày tỏ quan điểm chính trị mới của mình. Đối với câu hỏi “Khi học xong, anh dự định làm gì?”, mà trả lời là: “Dĩ nhiên là tôi sẽ trở về Tổ quốc để đấu tranh cho sự nghiệp của chúng tôi” [28] thì cái động cơ “chống đối” nêu ra ở trên là không thể nào khác được. Không còn dấu vết gì của tờ đơn xin vào Ecole Coloniale, những lá thư gửi Khâm sứ Huế nhờ chuyển tiền, xin việc làm cho cha …


 Sau 1945, khi Nguyễn Tất Thành đã trở thành Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà với cái tên mới là Hồ Chí Minh (dân chúng chưa biết rõ lắm về lai lịch của cái tên này), 1948 đang ở chiến khu Việt Bắc kháng chiến chống Pháp: phải tạo cho mình hình ảnh một “đấng bậc trưởng thượng” kiểu châu Á có uy tín vượt trội, vừa truyền thống vừa hiện đại, yêu nước và mập mờ nhận là cộng sản, tuy cuộc đời ba chìm bẩy nổi, ẩn hiện bí mật cao siêu, nhưng mục đích suốt đời không có gì khác hơn là hy sinh cho độc lập của tổ quốc và hạnh phúc của nhân dân, một con người trong sạch, giản dị, hoà mình vào quần chúng, được bạn bè khắp hoàn vũ mến yêu giúp đỡ còn đồng bào trong nước thì đặt hình lĩnh tụ của mình lên bàn thờ [29] và tôn xưng là “Cha già của dân tộc” v.v…


Cuốn “tiểu sử” viết về Hồ Chí Minh của Trần Dân Tiên đã biểu lộ rất rõ cái nhu cầu năm 1948 mà Hồ Chí Minh và cuộc cách mạng của ông đang muốn tạo ra cho phong trào yêu nước cộng sản trước tình hình mới – một lĩnh tụ tuyệt vời và chỉ có lĩnh tụ đó mới là tuyệt vời thôi!

Tất cả những gì tốt đẹp trong những thời kỳ hoạt động vinh quang nhất của vị lĩnh tụ này đều được mô tả chi tiết, còn đối với những cái khó nói và không nên nói trong những giai đoạn “quan trọng” đặc biệt – thí dụ như những năm sau khi thành lập Đảng 1930, bị xu hướng tả khuynh trong Đảng ở Việt Nam và Quốc tế cộng sản đả kích, phê phán khá nặng nề đến nỗi bị lưu giữ để “học tập” một thời gian ở Liên Xô cho đến 1938 mới được cho phép đi ra hoạt động lại [30] – thì lại cố tình giấu đi: phô bày những điều ấy ra chẳng những bất lợi cho hình ảnh của lĩnh tụ mà còn phá vỡ sự thống nhất cần thiết của Đảng do lĩnh tụ tạo ra.

c) Trần Dân Tiên có phải là bút danh của Hồ Chí Minh như bấy lâu nay người ta vẫn cho là như vậy? Gần đây, bà Phan Thị Minh đã đưa ra một thông tin mới rất đáng chú ý như sau:

“Chiều ngày 2 tháng 3 năm 1993, tôi đã được gặp ông Vũ Kỳ là thư ký riêng của Bác từ Cách mạng tháng Tám đến ngày Bác qua đời và đã cùng một số người quanh Bác là đồng tác giả cuốn “Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch” với bút danh Trần Dân Tiên” [31] .

Chưa thấy ông Vũ Kỳ nói rõ hơn về chuyện này nên chúng ta chưa biết ông cùng những người “quanh Bác” đã làm việc như thế nào để thực hiện cuốn Những mẩu chuyện… lừng danh ấy. Ông và những cộng sự có phải đi đây đi đó khắp nơi gặp gần 10 nhân vật đã được nhắc đến trong cuốn sách để phỏng vấn về mối quan hệ của họ với ông Hồ? Dòng cuối cho ta biết sách viết xong vào mùa thu năm 1948, lúc bấy giờ ông Vũ Kỳ đã phải đi theo Hồ Chí Minh lên chiến khu Việt Bắc (Tuyên Quang, Thái Nguyên), nếu theo cách đó thì làm sao thực hiện được trong điều kiện kháng chiến đường xá cách trở? Cách trình bày được mô tả trong sách – những nhân vật thay nhau kể chuyện – do đó có lẽ chỉ là một thủ thuật và đó là thủ thuật của những người viết tiểu thuyết nhiều hơn là “tiểu sử”.

Cứ tạm tin rằng cái “tiểu sử” dưới hình thức “truyện” ấy được chính Vũ Kỳ và những người cộng sự viết ra và ký là Trần Dân Tiên. Nhưng như vậy thì lại gặp điều khó khăn phải giải thích tại sao cuốn sách tầm thường của một tác giả vô danh là Trần Dân Tiên ấy lại có thể trở thành một thứ tài liệu tham khảo quan trọng bậc nhất về Hồ Chí Minh như đã xảy ra, đặc biệt trong giới nghiên cứu, giảng dạy? Sự quan trọng ấy không thể nào có được nếu những gì đã viết về ông Hồ trong cuốn sách ấy (giả sử là của Vũ Kỳ) không được chính ông xét duyệt (Vũ Kỳ là thư ký riêng của ông), và một cách nào đó cũng đã làm cho người ta hiểu rằng chính ông đã muốn phổ biến cuốn “tiểu sử” có nội dung như vậy. Cuốn sách, do đó, dù cho có do Vũ Kỳ lấy tài liệu từ Hồ Chí Minh để viết hoặc do chính Hồ Chí Minh trực tiếp viết [32] (hay đọc cho Vũ Kỳ viết), thiết tưởng ý nghĩa cũng đều như nhau: sự xuất hiện của nó là “cái cần thiết” cho nhu cầu cách mạng của bản thân Hồ Chí Minh sau 1945.

Vào thời điểm này, Nguyễn Tất Thành đã không còn là cá nhân một thanh niên 21 tuổi ngỡ ngàng trong cuộc bỏ nước ra đi năm 1911 nữa: anh đã về nước với tên Hồ Chí Minh và tự cho mình là biểu tượng của sự chọn lựa cuối cùng sau mọi chọn lựa của đất nước – một Nguyễn Tất Thành trở thành cộng sản, đã hoàn thành Cách mạng tháng Tám và đang lãnh đạo kháng chiến bảo vệ cuộc cách mạng ấy để sau này đưa đất nước tiến lên chủ nghĩa cộng sản. Quá khứ của Hồ Chí Minh hồi 21 tuổi có được tạo dựng lại cho phù hợp với vị trí của Hồ Chí Minh khi 58 tuổi là điều không có gì khó hiểu: thực chất các sự việc không phải như vậy, có thể nói khác đi vào lúc khác, nhưng khi cần thì vẫn có thể thêu dệt, tô vẽ lên để tuyên truyền – lợi ích của cách mạng buộc phải như thế. Nếu Hồ Chí Minh không làm điều đó thì cũng sẽ có những kẻ thay ông. Vì rất nhiều lý do khác nhau, những người sùng bái ông sau 1945 kể ra là vô số.

© 2007 talawas



[1]Trần Dân Tiên: Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Nxb Văn Học, (in lần thứ tám), Hà Nội, 1975, tr. 16.
[2]“Chúng tôi không có tham vọng viết một quyển tiểu sử của Hồ Chủ tịch, chúng tôi chỉ mong quyển truyện này giúp đồng bào biết vài mẩu chuyện của vị lãnh tụ đã xây dựng nên nước Việt Nam dân chủ cộng hoà” (Trần Dân Tiên: Sđd, tr. 138).
[3]Sách đã dẫn, tr. 10.
[4]Như trên, tr. 11
[5]Viện Hồ Chí Minh: Hồ Chí Minh, Biên niên tiểu sử 1, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1993, Chú thích 2, tr. 32.
[6]Xem “Phan Bội Châu niên biểu”, trong Phan Bội Châu toàn tập, tập 6, Thuận Hoá, Huế, 1990.
[7]Xem Vĩnh Sính: Việt Nam và Nhật bản, giao lưu văn hoá, Nxb Văn Nghệ, Tp Hồ Chí Minh, 2001, tr. 300.
[8]Nguyễn Ái Quốc trả lời phỏng vấn báo Ogoniok (Liên xô) ngày 23-12-1923, trong Hồ Chí Minh toàn tập, Tập I, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr. 477.
[9]“Rõ ràng: trước khi bước chân xuống tàu rời Tổ quốc, Nguyễn Tất Thành đã chuẩn bị cho mình những tiền đề tư tưởng bao gồm việc phê phán những con đường cứu nước của các bậc cha chú, lựa chọn những hướng đi và điểm tới của mình” (Phạm Xanh: Nguyễn Ái Quốc với việc truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam (1921-1930), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr. 15).
[10]Phan Thị Minh: “Tìm hiểu thêm về quan hệ của Bác Hồ với cụ Phan Chu Trinh trong những năm Bác chưa sang Pháp”, phụ lục trong Thu Trang: Nguyễn Ái Quốc tại Paris, Sđd, tr. 403.
[11]Như trên, tr. 404
[12]Như trên, tr. 409
[13]Ông Vũ Kỳ đã thuật cho nhà văn Sơn Tùng viết lại (Tạp chí Cầu Đường, Xuân Kỷ Mão) rằng Hồ Chí Minh đã nói về ông Bùi Kỷ, nhân nghe tin ông này qua đời, nội dung như sau: “Thân sinh ông Bùi Kỷ là cụ Bùi Thức đã là bạn của cụ Sinh Huy từ khoa thi Hội 1898, làm quen nhau trong trường thi, lui tới với nhau trong khi đợi kết quả: cụ Bùi Thức đỗ Tiến sĩ, cụ Sinh Huy bị hỏng. Năm 1901, sau khi thi đỗ Phó bảng, cụ Sinh Huy có đưa Tất Thành ra Bắc tìm thăm cụ Bùi Thức tại xã Châu Cầu huyện Kim Bảng tỉnh Hà Nam. Hai cậu thiếu niên Tất Thành và Bùi Kỷ đã quen nhau từ thuở ấy. Anh thanh niên Bùi Kỷ mới hơn 20 tuổi đã đỗ Phó bảng. Anh nỗ lực học tiếng Pháp và được học bổng sang học trường Thuộc địa từ tháng 2-1911. Họ đã vui mừng tái ngộ tại nhà bác Phan trong các dịp Tất Thành đến thăm bác Phan tại Paris …” (Xem Phan Thị Minh: Phan Chu Trinh qua những tài liệu mới, Quyển 3, Nxb Đà Nẵng, 2001, tr. 190).
Bà Phan Thị Minh đã cho biết thêm về lý lịch của ông Bùi Kỷ như sau: “Chúng tôi đã kiểm tra trong hồ sơ trường Thuộc địa thì đúng là trong danh sách học sinh đến Pháp tháng 2-1911 có ông Bùi Kỷ. Ông đã đỗ Phó bảng rồi học trường Thông ngôn sau đó sang học trường Thuộc địa và đã sớm gần gũi ông Trinh và con: ông đã cùng ông Trường và ông Chuyên kèm cặp giúp Dật (con ông Trinh) học tiếng Pháp. Dật tôn trọng ông và gọi ông là “thầy Bảng Kỷ”. Ông đã làm thư ký Hội Đồng bào Thân ái và có thuyết trình trong buổi họp về đề tài khoa học”. (Như trên, Chú thích 1, tr. 183).
[14]Xem Daniel Hémery: “Jeunesse d’un colonisé, genèse d’un exil. Ho Chi Minh jusqu’en 1911”, Approche-Asie, No. 11, 1992, Tài liệu số 6, tr. 131. Tất cả những tài liệu mà D. Hémery công bố và sử dụng trong bài viết nói trên đều có xuất xứ từ Trung Tâm Lưu trữ Hải ngoại Pháp (Centres des Archives d’Outre-mer - CAOM) tại thành phố Aix-en-Provence.
[15]Xem Thu Trang: Nguyễn Ái Quốc tại Paris, Sđd, tr. 29.
[16]D. Hémery: Sđd, Các tài liệu phụ lục, tr. 127-152
[17]Theo lời khai với Sở mật thám Trung kỳ của Nguyễn Thị Thanh, con gái lớn của ông Nguyễn Sinh Huy, thì năm 1906, bà có dẫn một phụ nữ giúp việc ra Huế định ở với cha. Nhưng do không chịu nổi tật say rượu và thô bạo của ông (bà cho biết đã bị cha đánh nhiều lần) năm sau bà đã phải trở về Kim Liên. ( Xem D. Hémery: Sđd, tài liệu 18, tr. 149)
[18]Bùi Quang Chiêu đã khai với Mật thám Sài Gòn về Nguyễn Sinh Huy khi được hỏi về Nguyễn Ái Quốc như sau: “Từ Pháp về nước năm 1913, tôi đã gặp trên đường phố Sài Gòn một người trông quen, trên vai có một đòn xeo, mút đầu có treo một cái bọc. Đó chính là người cha của người thanh niên mà ta đang đề cập (Nguyễn Ái Quốc), ông đang đi qua Sài Gòn. Ông nói với tôi về những cực khổ của mình. Đỗ cử nhân (Phó bảng mới đúng - LP) lúc khoảng 30 tuổi, năm 1901 hoặc 1902, học trường nông nghiệp ở đấy tôi đã từng là giáo sư. Sau đó được bổ nhậm quan huyện rồi bị bãi chức (…). Ông ấy kể chuyện đó với tôi đầy vẻ oán hận. Tôi nhớ ông đã nói thêm: “một ngày nào đó tôi sẽ làm quan trở lại”. Tôi không gặp lại ông từ lúc đó”. (Xem D. Hémery: Sđd, tài liệu 19, tr. 151).
[19]Tháng 6-1909, Nguyễn Tất Thành theo cha vào huyện Bình Khê (Bình Định), được cha gửi đến Quy Nhơn học tiếng Pháp với thầy giáo Phạm Ngọc Thọ dạy tại trường tiểu học Pháp-bản xứ Quy Nhơn, theo chương trình cours supérieur. Tháng 1-1910, cha bị cách chức và triệu hồi về Huế, tháng 9 năm ấy, Nguyễn Tất Thành vào Sài gòn, hết tiền nên phải ghé qua Phan Thiết, vào trường Dục Thanh, dạy học một thời gian ngắn. (Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử, Sđd, tr. 39-43)
[20]D. Hémery: Sđd, Tài liệu 8, tr. 133
[21]Trong Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Trần Dân Tiên đã mượn lời một nhân vật và viết: “Chúng tôi theo tàu lên Havre để sửa chữa. Chúng tôi được đưa sang làm việc ở một chiếc tàu khác, trở về Đông Dương. Anh Ba không muốn trở về” (Trần Dân Tiên: Sđd, tr. 16).
[22]D. Hémery: Sđd, Tài liệu 7, tr. 32
[23]Như trên, Tài liệu 19, tr. 151. Nhưng trong Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Trần Dân Tiên lại viết về cuộc gặp gỡ của Nguyễn Tất Thành với Bùi Quang Chiêu trên tàu Latouche-Tréville như sau: “Hồi ấy, Bùi Quang Chiêu, kỹ sư canh nông vào làng Tây, đi tàu hạng nhất cùng với gia đình. Ông ta đưa con sang Pháp học. Trông thấy Ba, ông ta gọi anh lại và thân mật bảo: Tại sao con lại làm cái nghề khó nhọc này? Bỏ nghề này đi. Con nên chọn một nghề khác, danh giá hơn… Anh Ba lễ phép cảm ơn ông Chiêu, nhưng không nói đồng ý hay không” (Sđd, tr. 14-15).
[24]D. Hémery: Sđd, Tài liệu 9, tr. 134
[25]Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử, Sđd, tr. 58
[26]D. Hémery: Sđd, tr. 124
[27]“Trước dây tôi có đọc một số tờ báo phát hành sang nước tôi, một vài tờ có tính chống đối ở Annam, có những người lính lê dương do Poincaré gửi sang để cải huấn. Những người lính lê dương này đọc đủ thứ. Họ là những kẻ chống đối về bản chất. Họ cho tôi đọc các báo Pháp. Vì thế tôi nảy ra ý muốn sang xem “mẫu quốc” ra sao và tôi đã tới Paris. Khi trường Đại học Phương Đông ở Matxcơva mở, tôi bèn xin học”. (Nguyễn Ái Quốc: “Trả lời phỏng vấn của phóng viên báo L'Unità” (Ý), 15-3-1924, trong Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 1, Sđd, tr. 480)
[28]Như trên, tr. 482
[29]“Ông có biết anh Ba hiện nay thế nào không? – "Không, tôi rất tiếc là tôi không biết" – "Ông có muốn tôi nói cho ông biết không?" – "Còn gì bằng nữa!" – "Ông quay lại xem, anh Ba ấy đây kìa!" Tôi vừa nói vừa chỉ chân dung Hồ Chủ tịch treo trên bàn thờ giữa những bình hoa, bình hương, đèn nến”. ( Trần Dân Tiên: Sđd, tr. 19)
[30]Xem Sophie Quinn-Judge: Nguyen Ai Quoc, The Comintern and the Vietnamese Communist Mouvement (1919-1941) (Luận án). Luận án này đã được tác giả xuất bản với nhan đề HO CHI MINH The missing years, The University of California Press, California, 2002.
[31]Phan Thị Minh: “Tìm hiểu thêm về quan hệ của Bác Hồ với cụ Phan Châu Trinh trong những năm Bác chưa sang Pháp”, trong Thu Trang: Nguyễn Ái Quốc tại Paris, Sđd, tr. 403. [Trong cuốn Càng nhớ Bác Hồ của mình (Nxb Thanh Niên, Hà Nội, 1999, tr. 10), Vũ Kỳ đã cho biết là ông về làm thư ký riêng cho “cụ Nguyễn Ái Quốc” bắt đầu từ ngày 27 tháng 8 năm 1945, sau Cách mạng tháng Tám chừng một tuần.]
Thông tin trên đây của bà Phan Thị Minh hoàn toàn ngược lại với những khẳng định trước đó của nhiều tác giả – như Nguyễn Khắc Viện, Nguyễn Khánh Toàn, Hà Minh Đức… – về sự đồng nhất giữa Trần Dân Tiên và Hồ Chí Minh (Xem sự khẳng định của Hà Minh Đức: Những tác phẩm văn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1985).
[32]Theo William J. Duiker, cuốn Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch gần đây đã được giới quan chức Hà Nội xác nhận là của Hồ Chí Minh và ấn bản đầy đủ nhất của cuốn tiểu sử này đã được xuất bản tại Thượng Hải năm 1949 bằng Trung văn (nhà xuất bản Ba Ywe, mang tựa Hu Zhi Ming Zhuan). Khác với những bản dịch ra ngoại văn xuất hiện về sau, cuốn này đã khẳng định Hồ Chí Minh chính là tên giả của Nguyễn Ái Quốc. [Xem William D. Duiker: Ho Chi Minh, a life, Hyperion, New York, 2000, tr. 582].

Bùi Giáng - Thi ca tư tưởng (4)

Bùi Giáng
Thi ca tư tưởng



Hồ Xuân Dzếnh
Tôi thêm chữ Xuân vào tên ông, ấy chẳng phải là hoàn toàn làm điều phi lý. Chính ông đã có tập thơ Hoa Xuân Đất Việt. Tôi không thể tự ban thêm cho mình một tiếng xuân vào trong tên tuổi. Nhưng riêng biệt với Hồ Dzếnh, chúng ta được quyền gọi ông là Hồ Xuân Dzếnh. Chính ông cũng đã ngang nhiên tuyên bố:

Ý thiêng người thiếu ta thừa
Nghìn kho ân lộc trăm mùa mạnh xuân
Một loại xuân kỳ lạ cứ về kêu gào làm nứt rạn những vần lục bát của ông. Nứt rạn không phải là vỡ toang. Nứt rạn là cái vùng ẩn mật để cho mọi thứ mùa xuân có chỗ len lấn đi về trong một mùa xuân. Chất thơ xuân của ông từ đó mang tính chất hàm hỗn bát ngát. Xuân vui mà nghe như buồn. Xuân buồn mà nghe như vui.

Ý thiêng choán hết linh hồn
Còn đâu gió nhớ cung hồn buồn mà ca
Ông vừa dứt câu, quyết liệt như thế, thì mọi người bỗng nhiên tê lạnh cả máu me, vì biết rằng cái cung buồn kỳ ảo đang lù lù thị hiện trong câu thơ đòi xóa sạch cung vui. Và quả thật người ta không lầm. Trong Hoa Xuân Đất Việt bốn câu này vẫn nằm sừng sững đó:

Ngoài kia niên thiếu ca xuân mới
Trong lũy tre xanh đời vẫn buồn
Ai biết để lòng yêu một buổi
Bay về thăm viếng mái cô thôn
Bài “Mái Lều Tranh” ghi lại hình ảnh đối kháng nhau ; đi sát bên nhau, vẫn không làm sao hòa vào nhau cho được. Hai hình ảnh thăm thẳm riêng biệt trong lịch sử người ta:

Mẹ tôi sống lặng trong làng nhỏ
Đâu biết thời gian đổi mới rồi
Lòng vẫn đau buồn thiên vạn cổ
Nào hay Non nước hãy reo vui
Cái tiếng “hãy” đơn sơ kia lại đang làm nứt rạn câu thơ một lần nữa. Cung như tiếng “đâu biết, đổi mới rồi”. Còn tê buốt hơn tiếng “Đau buồn thiên vạn cổ”.

Vú mẹ đã khô nguồn sữa cũ
Tình con còn lại bấy nhiêu thôi
(“Trang sách xưa”)
Trở lại với Quê Ngoại, chép bài “Phong Châu”:
Giếng vàng ánh ngọc nghìn xưa
Giở trang sách cũ hương thừa còn bay
Mà sao người đó ta đây
Tình duyên phảng phất như ngày đã xa
Người về ta mới nhớ ra
Yêu là thế ấy mơ là thế thôi.

Đinh Hùng

Con người nguyên thủy, ta không thể rõ tâm tình họ như thế nào. Đứng trước những quyền lực thiên nhiên, những bão giông sấm chớp, nhìn lại phận thân mình, họ khủng khiếp kinh hoàng, hay là hồn nhiên chấp thuận? Nhìn xác đồng loại bị rắn độc cắn, hoặc bị cọp beo vồ nát, họ rú lên nhưng âm thanh hãi hùng như thế nào, ta không hình dung nổi. Nhưng đêm đông mưa bão rét buốt, ẩn thân trong những hang đá lạnh lẽo, họ suy gẫm những gì về kiếp sống phù du của mình? Họ không được che chở trước trời đất. Đời sống vật chất cũng như tinh thần, đều hoàn toàn phó thác cho hiểm họa diêu mang. Không một đức lý, triết lý nhân sinh vũ trụ nào che chở linh hồn họ. Không một thánh hiền nào thiết lập một Hình Nhi Hạ để họ chui vào nằm yên ổn giữa cương thường.

Ngày nay, con người có được nhiều chốn “nương tựa”. Rượu đế, la de, cà phê, khiêu vũ, xi nê… Nếu những thứ đó không còn chi cám dỗ nữa, thì còn người chạy đi đào sâu những hang hố siêu hình, tồn thể, hết đào hang xuống tận ruột rà trái đất, lại đào hang lên khắp cõi thanh thiên. Hoặc chạy ra đại hải đuổi theo con cá vô hình của trùng khơi. Hoặc chạy vào sa mạc, đuổi theo con chim vô dạng của hư vô. Rồi vẽ vời bao nhiêu luyến tiếc, chờ mong, hoài vọng, thiên hình vạn trạng để che lấp khoảng trống vắng dị thường của phù sinh hư huyễn. Rốt cuộc vẫn đối diện với cái khối lù lù bất khả tư nghị do Tử Thần dựng lên ở giữa đường. Cái khối dị dạng nọ quả thật gay cấn khôn hàn. Xua đuổi nó không được. Trừ khử nó không tan. Thôi đành ôm chầm lấy nó ve vuốt mà bảo rằng: - Tử Thần ôi! Em chính là lẽ sống của ta. Ta sống bao nhiêu tuế nguyệt lao đao lận đận, là chỉ cốt để thành tựu đời mình trong cái Chết Thơ Ngây Man Mác. Ta ôm lấy em và cảm thấy ấm cúng vô song. - Tử Thần ạ, lại gần đây đối mặt! Trao bàn tay cho ta nắm bên miền…

Đó là một lối tự dối mình vậy. Tô son phết phấn vào khuôn mặt Tử Thần, kể cũng đà thiểu não lòng người bấy nay. Mà kể ra, suốt bình sinh, con người ta đeo bám vào những thứ gọi là văn minh tiến bộ, gây dựng nên những thứ gọi là công nghiệp lưu tồn, chẳng qua cũng chỉ là một cách tự dối mình đấy thôi.

Đinh Hùng Mê Hồn Ca muốn nhảy vọt một trận, trút bỏ hết mọi thứ “quà” của văn minh gạt gẫm, đi giữa thế kỷ hai mươi, ông muốn sống lại tâm tình người nguyên thủy về đối diện với xã hội văn minh. Ông muốn khước từ hết mọi thứ xây dựng êm ấm của xã hội văn minh, muốn trơn trụi gào kêu giữa lạnh lùng vạn vật.

Chúng ta khóc như một bầy thú dữ
Lòng dã man nghe trái đất tan tành
Trái đất chưa tan tành, nhưng liên miên như đang tan tành, vì kể từ nguyên thủy, linh hồn con người và thể xác con người đã nối đuôi nhau tan tành giữa vạn vật. Và mọi cuộc xây dựng chân chính nào của con người, rốt cuộc vẫn như oái oăm góp phần thêm vào mọi thứ tàn phá ở mọi bình diện.

Người thi sỹ thâm cảm sự tình éo le đó trong tuổi xuân xanh, và nỗi phẫn nộ không sao giập tắt được. Không còn tìm đâu ra con đường “phục vụ”. Mọi cố gắng giữa nhân gian, dường như phó thác hết cho diêu mang hỗn độn “giữa chợ đời vất vưởng bóng sầu nhân…” Thì văn minh, thì đức lý, thì thì thì? Phân biệt thị phi, hư thực thế nào? – “phù dung bên phù thể, cõi nào thực cõi tiêu tao? Hồng phấn lẫn hồng trần, đâu đã vì đâu ô trọc?”

Thì tiếng gào thét của con người nguyên thủy trở thành tuyệt đối trắng trợn dã man cho vừa tầm diêu mang của cõi đời hỗn độn:

Ta lảo đảo vùng đứng lên cười ngất
Ghì chặt nàng cho chết giữa mê ly
Rồi dày xéo lên sông núi đô kỳ
Bên thành quách ta ra tay tàn phá
Giữa hoang loạn của lâu đài đình tạ
Ta thản nhiên đi trở lại núi rừng
Một mặt trời đẫm máu xuống sau lưng
Nhưng chỉ có thể thét lời ấy trong thơ, và thét một lần. Rồi ân hận tới. Trong cơn đoạn trường, vị “bạo chúa” kia đã nằm thiêm thiếp khóc. Vì cuộc tàn phá kia, chẳng giải tỏa được gì. “- Giết đi hồn nguyệt hoa chiều? Giết đi cả dáng diễm kiều của xuân?” Tàn phá trong tưởng tượng xong một trận, lại tha thiết nguyện cầu cho nguôi lãng.

Đi vào mộng những Sơn Thần yên ngủ
Em! kìa em! đừng gọi thức hư không
Hãy quỳ xuống đọc bài kinh ái mộ
Hồn ta đây thành tượng giữa Vô Cùng
Toàn tập Mê Hồn Ca, vẳng lên một tiếng thét và một lời than. Tiếng thét của bạo động, của phản kháng, và lời than của ân hận nguyện cầu. Tiếng thét đạt tới chỗ cuồng loạn thống thiết nhất. Lời than cũng thê thảm sâu xa nhất.

Tiếng thét và lời than trầm thống của Đinh Hùng “Sầu trong tà dục, vui ngoài hiện tâm” dội lên song song với Hàn Mạc Tử, mở ra cuốn sổ đoạn trường của con người thế kỷ hai mươi, không còn nơi cu trú. Cuốn sổ đoạn trường mở ra như thế để làm gì? Không biết. Không biết. Nhưng cuộc mở ra nào cũng đi tới một trận khép lại.

Đinh Hùng trong Đường Vào Tình Sử, vốn đã có một lối khép lại của riêng ông sau cái trận Mê Hồn Ca, một lối “dùng độc dược thử lòng thế tục”. Chúng ta còn có nhiều lối “tịnh hạp” khác. Xin để tùy mỗi người tìm lối riêng của mình.

Ngôn ngữ thơ trong vài thế kỷ này đã nẩy nở xum xuê, thiên hình vạn trạng. Hoặc ẩn mật thần bí, hoặc đơn giản như một lời ca dao, thi ca vẫn có sức đưa dẫn người ta vào giữa huyền nhiệm của cuộc sống. Cuộc sống vừa khủng khiếp vừa nên thơ, cuộc sống không thể nào đem ra lý luận một cách máy móc. Luận lý học đã gạt gẫm người ta, người ta thi đua nhau tán dóc. Thằng thi sỹ không thể nào nhảy vào vòng luận lý đú đởn để hơn thua. Nó cảm thấy chán chường khi phải cùng người luận lý bàn luận thị phi. Tha hồ để cho bọn họ mặc sức tán hươu tán vượn, ngấm ngầm dùng mọi thủ đoạn để sát hại thi ca và thằng thi sỹ.

Nhưng thằng thi sỹ có tội lỗi gì đâu. Nó chỉ ghi lại một đường trăng tê dại, vẻ lại một màu tuyết lạnh, ngắt một chùm bông ở trên núi chiêm bao đem về làm tặng vật cho con người được rồ dại chịu chơi giữa chốn phù vân hoặc bụi hồng lông lốc. Mở ra những cuộc tình yêu rờn rợn vô thủy vô chung, o bế những cơn mơ tuyệt vọng, thì kể cũng hơn o bồng hôn hít mãi những con vợ già cục mịch cằn nhằn. Đêm tân hôn chỉ có một lần, buổi ly dị cũng chỉ ra tòa một bận, uống rượu ly bì cũng tới lúc tỉnh ra, chém giết nhau cũng mất công đào huyệt… Chi bằng vớ lấy bài ca mê hồn, thì lúc nào cũng có thể mở trận đảo tứ điên tam, ngang tầm với tứ khuynh ngũ phúc của cuộc thế dâu biển ngục tù. Tuyệt vọng? Thì thà rằng tuyệt vọng với những Kỳ Nữ Chiêm Bao, những Nữ Chúa Thái Cổ, những màu mắt nâu vô ngần của Gái Hải Đảo sơ khai, cũng hơn là tuyệt vọng vì những thiếu phụ đẩy đà ngồi trước quày hàng đếm những đồng tiền dị dạng… Một tay đếm tiền, một tay gãi vào chùm lông nách… thì như vậy còn chi là khói trầm bén giấc mơ tiên? Còn chi là bâng khuâng giải qua miền quạnh hiu? Ôi ông Hồ Dzếnh!

Thơ về nắng sáng lừng lay
Gấp đi cánh phượng cho ngày rạng ra
Cõi trần vẳng tiếng Thiên Nga
Thơ không tuổi, ý không già: muôn năm
Gối lên Bắc Đẩu ta nằm
Nghe rung chân lạ, thơ thần mười phương.
(Hoa Xuân Đất Việt)

Vũ Hoàng Chương

Đá đâu lên tiếng thay vàng
Gỗ đâu mở mắt hai hàng bạch dương.
Nhiều người đã nói tới ông Vũ Hoàng Chương. Tại hạ còn biết nói thêm được lời gì bây giờ


Hàn Mạc Tử

Thưa, tôi không dám si mê
Một mai tôi chết bên khe ngọc tuyền
Bây giờ tôi dại tôi điên
Chắp tay tôi lạy cả miền không gian
Ông nói lời như thế mặc nhiên xóa sạch hết mọi nguồn thơ thế gian. Còn ai có thể làm thơ được nữa.

Thưa, tôi không dám si mê
Một mai tôi chết bên khe ngọc tuyền
Bây giờ tôi dại tôi điên
Chấp tay tôi lạy cả miền không gian
Tôi lạy cả miền không gian? Hãy để yên cho tôi điên tôi dại. Đừng ai nói đến tôi. Và nhất là đừng có bàn đến thơ tôi. Tôi không dám si mê, cũng không dám hoài vọng. Một mai tôi chết. Nghĩa là bây giờ tôi không còn sống. Tôi sống trong cơn dại cơn điên. Tôi làm thơ trong cơn điên cơn dại. Nghĩa là tôi chết hai ba lần trong trận sống. Tôi lạy cả miền không gian đừng có bắt tôi chết thêm một trận thứ tư, thứ năm, thứ sáu, thứ bảy, chủ nhật…

Một mai tôi chết bên khe ngọc tuyền
Còn bây giờ không có ngọc tuyền đâu để tôi đến một bên tôi chết.

Bây giờ tôi dại tôi điên
Chấp tay tôi lạy cả miền không gian
Người yêu đừng bén mảng tới. Bạn bè hãy đi xa. Để tôi một mình tha hồ tôi điên tôi dại. Ai có đến gần thì hãy thử điên dại như tôi.

Tôi vẫn còn đây hay ở đâu
Ai đem tôi bỏ dưới trời sâu
Người đi một nửa hồn tôi mất
Một nửa hồn tôi bỗng dại khờ
Ông xua đuổi người đi vì ông không thể kêu gào người ở lại. Bởi vì nếu người ở lại, thì ông sẽ giết chết mất người. Ông giết chết mất người vì ông không thể đấm cho vỡ toang vũ trụ.

Bao giờ mặt nhật tan thành máu
Và khối lòng tôi cứng tợ si?
Nhưng vì sao ông muốn mặt nhật tan thành máu? Tan thành máu để cùng nhân gian chìm ngập trong đoạn trường? Mặt nhật chưa tan thành máu, thì chỉ riêng con người chịu đau khổ mà thôi. Hàng triệu triệu con người bị dìm trong máu. Trong oan nghiệt không cùng. Hàng triệu con người cũng đang cầu nguyện cho lòng mình cứng tợ si.

Cả thế giới này đang cùng Hàn Mạc Tử chia một thảm họa.

Em cố nghĩ ra một chiều vàng úa
Ngày nay người ta không cần cố gắng cũng thấy rõ sờ sờ một chiều vàng úa kia.

Em cố nghĩ ra một chiều vàng úa
Lá trên cành héo hắt gió ngừng ru
Một khối tình nức nở giữa âm u
Một hồn đau rã lần theo hương khói
Một bài thơ cháy tan trong nắng dọi
Một lời run hoi hóp giữa không trung
Cả niềm yêu ý nhớ cả một vùng
Hóa thành vũng máu đào trong ác lặn
Hàn Mạc Tử biết rằng trừ ông ra, ngàn thế kỷ sau không còn ai có thể nói tới tận cùng thảm họa nhân gian. Nên ông phải dốc hết tim phổi nói một lần. Đó cũng là lời cầu nguyện cho nhân gian. Lời cầu nguyện sẽ phát khởi từ thảm họa dâng lên tới trời xanh. Lời cầu nguyện vang dội song song với lời nguyền rủa, vì có lẽ đó là chỗ bất khả tư nghị của từ tâm. Chúng ta có thể đọc ẩn ngữ kia trong mấy câu:

Ánh trăng mỏng quá không che nổi
Những vẻ xanh xao của mặt hồ
Những nét buồn buồn tơ liễu rũ
Những lời năn nỉ của hư vô…
Ánh trăng mỏng quá không che nổi, thì lời năn nỉ của hư vô đã khiến Hàn Mạc Tử dốc hết bồ đề tâm của mình ra trong tiếng gào thét hỗn độn của Caligula…


Hồ Dzếnh

Bài “Giang Tây”, và bài “Phút Linh Cầu” khiến tôi bải hoải tay chân. Không còn can đảm đọc thơ Nguyễn Du Huy Cận Hàn Mạc Tử Nguyễn Bính gì được nữa.
Hồ Dzếnh cũng không thể nào làm thơ tiếp được nữa.

Gauguin bỏ chạy trốn Âu Châu, tìm tới một hải đảo vô biên vô tế, suốt bình sinh ngồi vẻ lại màu mắt gái trùng khơi trong những buổi hoàng hôn đại hải, ấy cũng là một lối đi tìm cái dư vang nào trong thơ Hồ Dzếnh.

Biển chiều vang tiếng nhân ngư
Non xanh thao thiết trời thu rượu sầu
Nhớ thương bạc nửa mái đầu
Lòng nương quán khách nghe màu tà huân

Thơ

Thơ là cái gì không thể bàn tới, không thể dịch, diễn gì được. Người ta có thể diễn tả một trận mưa rào bằng lời thơ. Thì có lẽ muốn diễn tả một bài thơ, người ta chỉ có thể phát động một trận mưa rào, hoặc một cơn gió thu. Mà muốn thực hiện sự đó, thì ngoài việc làm thơ ra, con người không còn phép gì khác. Thế có nghĩa là: muốn bàn tới một bài thơ, diễn dịch thơ, người ta chỉ có thể làm một bài thơ khác.

Người xưa am hiểu sự đó, nên họ chỉ vịnh thơ, chớ không bao giờ điên rồ gì mà luận bàn về thơ. Người đời này trái lại. Họ buộc phải luận thơ cho có mạch lạc luận lý, không được “bốc đồng” (!) vịnh lăng nhăng. Cái chỗ ngu sy đó là điều bất khả tư nghị vậy.

Sự ngu sy đã tràn lan khắp chốn, thì kẻ hiểu thơ đành phải tuân theo khắp chốn để mở trận ngu sy.

Từ đó nảy ra không biết bao nhiêu trận luận về thơ theo lối bửa củi, dịch thơ theo lối gặm xương gà (gặm được chút da, nhưng không hút được cái tủy).

Muốn hút được chút tủy, đảnh phải liều nhắm mắt cắn mạnh một cái. Cắn mạnh một cái, thì gãy mất hai cái răng. Thì còn bù vào đâu mà hút tủy được nữa. Kể đà thiểu não lòng người bấy nay.

Ông Crayssac dịch Kiều, ông có hút được nhiều chút tủy, và đã chịu gãy bao nhiêu cái răng của ngôn ngữ Pháp. Sau đây là một thí dụ của hút tủy và gãy răng.

Sinh rằng lân lý ra vào
Gần đây nào phải người nào xa xôi
Được rày nhờ chút thơm rơi
Kể đà thiểu não lòng người bấy nay
Bấy lâu mới được một ngày
Dừng chân gạn chút niềm tây gọi là
Cái chất tủy trong thơ Nguyễn Du là: dừng chân gạn chút, được rày nhờ chút, người nào xa xôi, gần đây nào phải, lân lý ra vào, kể đà thiểu não, bấy lâu mới được, lòng người bấy nay, mới được một ngày, dừng chân gạn chút …vân vân.

Hãy xem Crayssac dịch:

Et le jeune homme alors à Thuy Kiéou répondit:
“Je suis votre voisin; j’habite près d’ici…
Ne voyez pas en moi quelque étranger, ma chère
Arrivant, impromptu, d’une lointaine terre…
Grâce à cet incident, j’ai respiré, très doux,
Quelque peu du parfum qui rayonne de vous,
Mais, hélas! de combien et de combien d’angoisses
Mon coeur dut-il subir les étreintes tenaces,
Et combien dut attendre, ô Ciel, mon triste amour
Avant de recevoir l’ivresse de ce jour!
De grâce, arrêtez-vous; que je puisse, de suite,
Montrer les sentiments intimes qui m’agitent…”
Ông dịch thơ Việt ra thơ Pháp như thế, kể còn trúng cách điệu hơn người Âu Châu dịch thơ người Âu Châu.

Henri Michaux có bốn câu vịnh “Băng Sơn” (Icebergs) đơn sơ bát ngát, mà bản dịch ra Đức ngữ đã chịu gãy mấy cái răng?

Icebergs, Icebergs, dos du Nord-Atlantique, augustes Boudhas,
Gelés sur des mers incontemplées,
Phares scintillants de la Mort
Sans issue, le cri éperdu du silence dure de siècles
Bản dịch:

Eisberge, Eisberge, Rücken des Nord-Atlantik, großartige
Gefrorene Buddhas auf den unruhigen Meeren.
Blitzende Leuchtfeuer des Todes ohne Ende wilder
Schrei des zähen Schweigens der Jahrhunderte.
Tiếng incontemplé (vô quan chiêm) lại dịch ra làm bất an, dao động… Le cri éperdu du Silence dure des siècles, trong bản dịch biến ra làm: le cri sauvage du dur silence des siècles.

Thế là nghĩa lý gì? Không biết. Không biết.

Duy có điều: dù sai lệch bao nhiêu chăng nữa, thì tinh thể ngôn ngữ Âu Châu vẫn nhiều điểm tương đồng, khiến dịch giả không đến nỗi phải chịu phận gãy răng lang bối bất kham.

Trái lại, giữa ngôn ngữ Âu Châu và ngôn ngữ Á Đông, có quá nhiều hang hố. Và những kẻ tự phụ cho mình đạt, công kích kẻ khác dịch là diệt, những kẻ đó hãy thư thả gẫm lại xem. Nếu những kẻ đó chịu bỏ ra vài chục năm suy gẫm vấn đề, ắt chẳng còn bao giờ dám tự phụ nữa.


Khổng Tử, Lão Tử, Trang Tử

Trang Tử vốn thường dùng phép ngụ ngôn. Vậy thì cái việc Trang Tử nói về sự vụ Khổng Tử tìm tới Lão Tử để “vấn Lễ”, sự đó thật là có hay là không có?

Nếu không có, mà Trang Tử dựng lên làm có, thì ý Trang Tử muốn gì? Trang Tử thật có ý muốn dìm Khổng Tử, hay đó chỉ là một phép lập ngôn cưỡng bức của ông để đẩy lùi bọn nho hương nguyện? Lời đáp hiển thị một cách quá hiển nhiên.

Còn nếu sự vụ vấn lễ kia quả là có thật, thì ta nghĩ sao về Khổng Tử? Nếu quả thật ngài có nói với môn đệ rằng “con chim thì ta biết nó bay, con cá thì ta biết nó lội, còn con rồng thì ta chẳng thể rõ nó lội lúc nào, nó bay lúc nào. Ta nay gặp Lão Tử như thấy rồng vậy”.

Nếu quả thật ngài trở về với môn đệ như thế, thì chúng ta nghĩ sao ? Lời đáp cũng lại quá hiển nhiên.

Đừng nói chi tới Lão Tử là một bậc đại hiền (mà Khổng Tử biết rằng bọn môn đệ mình không đứa nào bì kịp), ngay đối với những nhân vật thường thường mà có được vài đức tính, ngài cũng không tiếc lời khen ngợi.

Vào thái miếu, việc gì sự gì ngài cũng hỏi. (Tử nhập thái miếu, mỗi sự vấn…) Ấy chẳng phải là vì không hiểu mà hỏi, ấy chỉ vì - thị Lễ giã.

Cái lời đơn sơ “vô khả, vô bất khả” của ngài, còn bàng bạc bao trùm hết mọi tư tưởng Trung Hoa – nó cho phép Lão Tử đưa cái đạo vô tri ra đời, nó cũng lại mở đường cho Trang Tử được phép cà gật đú đởn với lối lập ngôn “triêu tam nhi mộ tứ, triệu tứ nhi mộ tam”.

Đọc lại Khổng Tử, Trang Tử, Lão Tử, ta còn nhận ra một điều dị thường bất khả tư nghị này: Trang Tử cà gật, nhưng Trang Tử quán xuyến cái lẽ đương nhiên, và cái lẽ sở dĩ nhiên nào đã quyết định cái đạo của Khổng Tử. Trái lại Lão Tử có thể là đại hiền, nhưng không phải đại thánh hoặc thượng trí, thái tiên. Có thể rằng Lão Tử còn chấp trước. Có thể rằng Lão Tử còn khư khư bo bo với cái đạo vô vi của ngài. Có thể rằng ngài không rõ cái “sở dĩ nhiên” nào đã quyết định Khổng học. Có thể rằng Lão Tử không ngờ gì hết, không đủ tế mật để nghe ra cái lời đạm nhiên của Khổng: “thị kỳ sở dĩ, quan kỳ sở do, sát kỳ sở an. Nhân yên sưu tai, nhân yên sưu tai!”
Ngôn ngữ Lão Tử có tính cách bộc trực, cực đoan, một chiều. Trang Tử đã lợi dụng Lão Tử để tấn công môn đệ Khổng Học, nhưng trong thâm tâm, Trang Tử có thể xem thường Lão Tử, mà kính phục Khổng Tử một cách không bến không bờ.

Trang Tử lập ngôn luôn luôn theo thể thái song trùng nhị bội, ông chừa những khoảng trống, những khe hở miên man, để cho cái duplicité de l’Être (tính chất nhị bội của Tồn lưu) có thể luôn luôn thong dong còn cơ hội đi về. Đó là điều thiếu hẳn trong ngôn ngữ Lão Tử… (Thật ư? Không hẳn…)

Trang Tử gần Khổng Tử trong lối lập ngôn song trùng nhị bội. Nhưng khác Khổng Tử ở điểm Khổng Tử đạm nhiên, ẩn mật, hoằng đại bao dong; Trang Tử du côn ăn nói toe toét, có pha chất quỷ quyệt.

Những thiên tài tư tưởng hiện đại của Trung Hoa, ngày nay lao mình vào cuộc viết truyện vũ hiệp, bỏ lại trận đồ triết học cho bọn học giả ru rú. Bàn luận thị phi với bọn học giả đó, người tư tưởng cảm thấy chán chường. Đó có lẽ là nguyên do sâu xa đã khiến tư tưởng Trung Hoa chìm đắm mấy ngàn năm. – Khổng Tử ngày xưa cũng đã thâm cảm sự đó. “Bất đắc trung hành nhi dữ chi, tất dã cuồng quyến hồ! Cuồng giả tiến thủ ; quyến giả hữu sở bất vi dã”.

(Ta chẳng được hạng người theo đúng đạo trung để truyền đạo, ắt hẳn phải tìm đến bọn cuồng, bọn quyến vậy! Bọn cuồng có chí tiến thủ, bọn quyến có điều chẳng chịu làm).

Người Trung Hoa ngày nay chỉ có thể bắt đầu học tập tư tưởng là khi họ dám thử liều bước suy nghĩ rằng: đối với Khổng Tử quá cao viễn, tìm không được bọn người trung hành, thì thà ngài tìm đến bọn người cuồng – là Trang Tử, tìm đến bọn người quyến – là Lão Tử.

Người Trung Hoa hãy nên gột rửa sạch sẽ tinh thần mình, trừ khử khỏi đầu óc mình cái ý tưởng bo bo đem xếp Trang Tử, Lão Tử ngang hàng với Khổng Tử, rồi lăng nhăng sun soe mãi với những tiếng tam đạo, tam giáo, tam lý, tam ngu, tam hiền, tam thánh, v.v…


Xuân Diệu

Trưa hôm nay con ngồi như trẻ nhỏ
Giữa đáy trưa trong lòng mẹ vô cùng
Con là sáo, Mẹ là ngàn vạn gió
Mẹ là trời, con là hạt sương rung
Sương uống mãi chẳng bao giờ hết sáng
Của trời cao chói lói mỗi chiều ngày
Sáo ca mãi, lòng mẹ run choáng váng
Gió vẫn đầy ngàn nội bốn phương bay
(“Mẹ Việt Nam”)
Thơ Xuân Diệu thường có chất bát ngát hồn nhiên như thế. Tây Phương Đông Phương cổ kim không có nguồn thơ nào sánh kịp. Chúng ta quen thói chạy theo đuôi phong trào sùng phụng những Nerval, Hoelderlin, Rilke, Đỗ Phủ, Thôi Hiệu, Tagore, chúng ta không còn cách gì ngờ ra rằng nguồn thơ Xuân Diệu có thể bao la hơn bất cứ một nguồn thơ thi sỹ nào. Việt Nam đã có một Nguyễn Du đi khắp cung bậc đoạn trường gay cấn, về sau có một Huy Cận tiếp hậu ngậm ngùi, một Phạm Hầu cô tịch, một Nguyễn Bính man mác ca dao. Thử hỏi: chúng ta còn cần chi tới bất cứ một nguồn thơ Tây Phương nào? Dù là Nerval hay Rilke, dù là Whitman hay Henri Michaux?

Chúng ta cần Xuân Diệu. Cần một vài vần lục bát của Hồ Dzếnh. Chúng ta đứng xa xa, nguyện cầu cho Hàn Mạc Tử, Chúng ta phải để cho thơ Xuân Diệu rúc vào tủy xương mình. Vì y đủ thói bông lông thắm thiết của con người thượng đạt. Y trẻ dại, y lăng nhăng, y nói tới nỗi đời rồi y xóa đa đoan dâu biển. Y hồn nhiên giũ áo, nắm lây cung cầm Tăng Điền đánh lên giữa mùa Xuân…

Có một suối thơ chảy từ gần gũi
Ra xa xôi và chảy đến gần quanh
Một suối thơ lá ngọt với hoa lành
Nói trong xóm và rỡn cười dưới phố
Nguồn thơ mới tuôn ra từ vũ trụ
Có lẽ là hơi là gió cũng nên…
(“Suối”)
“Thiên hạ xuôi xuôi ngược ngược, khệnh khạng kềnh càng, còn ta, ta hồn hồn ngạc ngạc ca hát như trẻ thơ… Hãy để cho trẻ thơ tới bên ta… Chim chóc tới bên ta… Các ngươi hãy gột rửa cái thói học đòi bác học đi. Các ngươi hãy mù lòa đi, và các ngươi sẽ không còn tội lỗi…”

Chân nhân đời xưa nói gì? Nói rằng: các người đừng dùng thủ đoạn, đừng lợi dụng những ông Nietzsche để sát hại trẻ con. Thảm họa của Nietzsche không phải là ở chỗ bị công kích, cũng không phải bị mấy ông linh mục lên án. Thảm họa của Nietzsche là ở chỗ: bị bọn hãnh tiến lôi về phe cánh mình để tiện bề gây rối loạn.


Nguyễn Bính

Mẹ cha thì nhớ thương mình
Mình đi thương nhớ người tình xa xôi
Đó cũng là tâm sự Đức Khổng Phu Tử vậy. Quê hương nước Lỗ thì nhớ ông. Mà ông thì cứ giũ áo ra đi lang thang chu du lữ thứ tìm kiếm khắp nước Tàu cái vong hồn tồn lưu nào chẳng rõ. Rồi san định bao nhiêu cuốn kinh, ghi chép cái ngấn tích phiêu bồng đã trôi tuột từ bao…


Huy Cận, Xuân Diệu

Huy Cận đi từ Lửa Thiêng tới Hội Hoa Đăng, Tặng Em Mười Sáu, tức là ông đi cái bước tối hậu, tại bách xích can đầu. Cũng như Nguyễn Du đã dẫn cung cầm bạc mệnh Thúy Kiều tới giai đoạn “đầm ấm dương hòa”. Xưa sao sầu thảm, nay sao vui vầy? Xuân Diệu già trước tuổi, nên ngay từ đầu, ông đã xóa tiếng đoạn trường bạc mệnh bằng cái thể điệu ngấm ngầm niêm hoa vi tiếu bàng bạc trong thơ ông. Già trước tuổi? Nghĩa là phản lão hoàn đồng? Nghĩa là quá già nên hóa ra trẻ nít trở lại? Quá già kể từ đâu? Kể từ cõi Nguyễn Du vậy. Kẻ nào chưa hiểu rõ chỗ tận cùng tàn sơn thặng thủy trong cung bậc Nguyễn Du, kẻ đó không thể nào hiểu Huy Cận Xuân Diệu đã vì đâu mà già, do đâu mà trẻ.

(Xét lại xem Shakespeare đã đánh cung bậc nhị bội như thế nào kể từ Hamlet Macbeth Othello sang những vở hài kịch bát ngát của ông. Xét lại Sophocle: bên bi kịch Oedipe, còn có vở kịch Philoctète)

Nguồn: Bùi Giáng, Thi ca tư tưởng (Sổ đoạn trường - Tức Đi vào cõi thơ cuốn II), Ca Dao xuất bản lần thứ nhất 12/69, Sài Gòn - Việt Nam.