Những bức thư tình của Napoléon
NHỮNG BỨC THƯ TÌNH CỦA NAPOLÉON BONAPARTE VIẾT CHO JOSÉPHINE
Thư của Napoléon viết cho Joséphine
Lettres de Napoléon à Joséphine~~~~
NGƯỜI TÌNH
I. L'AMANT
Tôi không tưởng tượng được cái có thể gây ra cho tôi bức thư của cô. Tôi xin cô cho tôi niềm vui để tin rằng không có người nào muốn có tình bạn với cô bằng tôi, và không ai sẵn sàng làm cái gì để chứng tỏ điều đó bằng tôi. Nếu những công việc bận rộn cho phép tôi, tôi sẽ tự mình mang đến cho cô bức thư của tôi.
Paris, le 6 brumaire an IV
Je ne conçois pas ce qui a pu donner lieu à votre lettre. Je vous prie de me faire le plaisir de croire que personne ne désire autant votre amitié que moi, et n'est plus prêt que moi à faire quelque chose qui puisse le prouver. Si mes occupations me l'avaient permis, je serais venu moi-même porter ma lettre.
************************************
7 giờ sáng
Anh thức dậy đầy hình bóng em. Chân dung em và kỷ niệm say mê của đêm qua không cho anh cảm giác nghỉ ngơi. Joséphine dịu dàng và vô song, cảm giác lạ lùng nào em đã gây ra nơi trái tim anh? Cô có bực dọc không? Tôi thấy cô buồn phải không? Cô có âu lo không? Tâm hồn tôi tan nát vì đớn đau, và không nghỉ ngơi chút nào nơi bạn của cô... Nhưng vậy thì có phải là hay hơn cho tôi khi, tự trao mình cho tình cảm sâu thẳm đang ngự trị, tôi rút ra từ môi cô, từ tim cô ngọn lửa đốt cháy tôi. A! Chính từ đêm đó mà tôi nhận ra là hình ảnh đó không phải là cô! Em sắp khởi hành trưa nay, trong 3 giờ nữa anh sẽ gặp em. Trong lúc chờ đợi, mio dolce amor, hãy nhận ngàn nụ hôn; nhưng đừng cho lại anh vì chúng đốt cháy máu anh.
7 heures du matin
Je me réveille plein de toi. Ton portrait et le souvenir de l'énivrante soirée d'hier n'ont point laissé de repos à mes sens. Douce et incomparable Joséphine, quel effet bizarre faites-vous sur mon coeur ? Vous fâchez-vous ? Vous vois-je triste ? Êtes-vous inquiète ? Mon âme est brisée de douleur, et elle n'a point de repos pour votre ami... Mais en est-il donc davantage pour moi, lorsque, me livrant au sentiment profond qui me maîtrise, je puise sur vos lèvres, sur votre coeur, une flamme qui me brûle. Ah ! c'est cette nuit que je me suis bien aperçu que votre portrait n'est pas vous ! Tu pars à midi, je te verrai dans 3 heures. En attendant, mio dolce amor, reçois un millier de baisers; mais ne m'en donne pas, car ils brûlent mon sang.
***************************************************
Anh viết cho em từ Châtillon, và anh đã gởi cho em giấy cho phép để em nhận những số tiền khác nhau mà anh được...
Mỗi lúc mỗi xa em, bạn yêu quý, và càng lúc anh càng thấy mất dần sức lực để chịu đựng phải xa em.
Em là đối tượng vĩnh cửu của tâm tưởng anh; trí tưởng tượng anh hao mòn đi tìm những gì em làm. Nếu anh thấy em buồn, tim anh đau xé và nỗi đau đớn tăng lên; nếu em vui, đùa nghịch với bạn bè em, anh sẽ trách em đã quên ngay ba ngày đau đớn cách xa.
Như em thấy, anh không dễ vừa lòng; nhưng bạn tốt của anh ơi, có nhiều chuyện khác nữa, nếu anh sợ rằng sức khoẻ em yếu đi hay em có nhiều lý do để buồn mà anh có thể đoán được; thì anh tiếc vận tốc mà người ta đã xa tim anh. Anh cảm giác thực sự rằng tính tốt tự nhiên của em không còn hiện hữu trong anh, rằng bảo đảm là không xảy ra chuyện gì bực bội cho em để anh có thể bằng lòng.
Nếu ai hỏi anh rằng anh có ngủ ngon không thì trước khi trả lời anh cần nhận thư để bảo đảm rằng em đã được nghỉ ngơi tốt lành. Bệnh tình, cơn phẫn nộ đàn ông chỉ tác động lên anh bởi ý nghĩ chúng xảy ra cho em, bạn hiền của anh.
Xin thần hộ mệnh, thần đã luôn luôn bảo đảm cho anh trong những nguy tai to lớn nhất, và anh tự nguyện thôi được che chở để Thần bao quanh em, bảo bọc em . A! Ðừng nên vui, nhưng hơi buồn, và nhất là xin cho tâm hồn em thoát khỏi sự đau buồn, như thân thể xinh đẹp bệnh hoạn của em; em biết Ossian của chúng ta nói gì ở trên đó.
Hãy viết cho anh, bạn dịu dàng của anh, và thật dài, và hãy nhận một ngàn lẻ một nụ hôn tình yêu, nụ hôn êm ái nhất và thật nhất.
Chanceaux, le 24 ventôse, en route pour l'armée d'Italie
Je t'ai écrit de Châtillon, et je t'ai envoyé une procuration pour que tu touches (les) différentes sommes qui me reviennent... Chaque instant m'éloigne de toi, adorable amie, et à chaque instant je trouve moins de force pour supporter d'être éloigné de toi.
Tu es l'objet perpétuel de ma pensée ; mon imagination s'épuise à chercher ce que tu fais. Si je te vois triste, mon coeur se déchire et ma douleur s'accroît ; si tu es gaie, folâtre avec tes amis, je te reproche d'avoir bientôt oublié la douloureuse séparation de trois jours ; tu es alors légère et, dès lors, tu n'es affectée par aucun sentiment profond.
Comme tu vois, je ne suis pas facile à me contenter ; mais, ma bonne amie, c'est bien autre chose si je crains que ta santé soit altérée ou que tu aies des raisons d'être chagrine que je ne puis deviner ; alors je regrette la vitesse avec laquelle on m'éloigne de mon coeur. Je sens vraiment que ta bonté naturelle n'existe plus pour moi, et que ce n'est que tout assuré qu'il ne t'arrive rien de fâcheux que je puis être content. Si l'on me fait la question si j'ai bien dormi, je sens qu'avant de répondre j'aurais besoin de recevoir un courrier qui m'assurât que tu as bien reposé. Les maladies, la fureur des hommes ne m'affectent que par l'idée qu'elles peuvent te frapper, ma bonne amie.
Que mon génie, qui m'a toujours garanti au milieu des plus grands dangers, t'environne, te couvre, et je me livre découvert. Ah ! ne sois pas gaie, mais un peu mélancolique, et surtout que ton âme soit exempte de chagrin, comme ton beau corps de maladie : tu sais ce que dit là-dessus notre bon Ossian.
Écris-moi, ma tendre amie, et bien longuement, et reçois les mille et un baisers de l'amour le plus tendre et le plus vrai.
Nice, le 10 germinal
Anh không sống ngày nào mà không yêu em; không đêm nào anh không siết em trong cánh tay anh; không khi nào anh uống tách trà mà không nguyền rủa vinh quang và tham vọng đã giữ anh xa linh hồn của cuộc sống anh. Giữa những công việc, đứng đầu những đội quân, đi khắp các doanh trại, Josphine yêu kiều của anh duy nhất trong tim anh, chiếm đóng trí óc anh, thu hút suy tưởng anh. Nếu anh xa em bằng vận tốc của thác lũ sông Rhône, là để gặp lại em nhanh chóng. Nếu giữa đêm anh thức dậy để làm việc, là để bạn dịu dàng của anh đến sớm hơn vài ngày, và tuy vậy, trong bức thư từ 23 đến 26 tháng Sáu, em đối xử với anh là "ông".
"Bà", cho chính em đó ! A!, xấu xa, em có thể viết cho anh bức thư đó sao! Nó lạnh làm sao! Rồi thì, từ ngày 23 đến 26, còn lại 4 ngày; em đã làm gì mà em không viết thư cho chồng của em?... A! bạn của anh ơi, chữ "ông" và bốn ngày này làm cho anh hối tiếc sự lạnh lùng cổ xưa của anh. Tai họa sẽ xảy ra cho ai đã gây ra chuyện đó! Sự trừng phạt và khổ hình có thể chứng tỏ rằng niềm tin và hiển nhiên (nó phục vụ cho bạn em) sẽ chứng tỏ cho anh biết không! Hỏa ngục không có sự hiển nhiên! Cũng không có những cơn thịnh nộ, rắn!
Ông! Ông! A! Cái gì sẽ xảy ra trong 15 ngày sắp tới?... Tâm hồn anh buồn thảm; tim anh nô lệ, và trí tưởng tượng của anh làm anh sợ... Em yêu anh ít hơn; em sẽ được an ủi. Một ngày kia, em sẽ không còn yêu anh nữa; hãy nói cho anh; ít nhất anh cũng xứng đáng với tai họa... Vĩnh biệt, người đàn bà, sóng gió, hạnh phúc, hy vọng và tâm hồn của đời sống anh, mà anh yêu, mà anh sợ, đã gợi cho anh những cảm xúc êm ái, đã gọi anh ra với Thiên nhiên, và những động tác mãnh liệt, vũ bão (của núi lửa) như sấm. Anh không đòi hỏi ở em tình yêu bất diệt, cũng không đòi sự trung thành, nhưng chỉ ... sự thật, lòng thẳng thắn không bờ. Ngày mà em nói "em yêu anh kém trước" sẽ là ngày cuối cùng của đời anh. Nếu tim anh đủ sự đê hèn để yêu mà không cần trả lại, anh sẽ xay nhuyễn nó bằng răng.
Joséphine, Joséphine ! Em có còn nhớ thỉnh thoảng anh nói với em: Thiên nhiên tạo cho anh tâm hồn mạnh và cương quyết. Nó tạo cho em những ren và màng mỏng. Có phải em đã hết yêu anh? Xin lỗi em, linh hồn của sự sống anh, tâm hồn anh trải ra trên những sự phối hợp rộng lớn. Tim anh, hoàn toàn chiếm ngự bởi em, có những lo âu làm anh đau khổ... Anh buồn phiền vì không gọi được tên em. Anh chờ những gì em viết. Chào em! À! nếu em yêu anh ít đi, em sẽ không bao giờ yêu anh nữa cả. Vậy thì anh sẽ tha hồ mà than vãn.
Tái bút: Chiến tranh, năm nay, không còn nhận ra được. Anh bảo cho thịt, bánh mì, da lông thú; kỵ binh của anh sắp tiến hành. Những quân sĩ của anh đánh dấu nơi anh sự tin tưởng không diễn tả được; chỉ có mình em là làm buồn anh; chỉ có em, sự khoái cảm và ray rứt của đời anh. Một nụ hôn cho các con em mà em không nói! Tất nhiên chuyện đó sẽ làm dài thư của em hết một nửa. Những người khách viếng, lúc 10 giờ sáng, sẽ không thích gặp em đâu. Ðàn bà!!!
Je n'ai pas passé un jour sans t'aimer ; je n'ai pas passé une nuit sans te serrer dans mes bras ; je n'ai pas pris une tasse de thé sans maudire la gloire et l'ambition qui me tiennent éloigné de l'âme de ma vie. Au milieu des affaires, à la tête des troupes, en parcourant les camps, mon adorable Joséphine est seule dans mon coeur, occupe mon esprit, absorbe ma pensée. Si je m'éloigne de toi avec la vitesse du torrent du Rhône, c'est pour te revoir plus vite. Si, au milieu de la nuit, je me lève pour travailler, c'est que cela peut avancer de quelques jours l'arrivée de ma douce amie, et cependant, dans ta lettre du 23 au 26 ventôse, tu me traites de vous.
Vous toi-même ! Ah ! mauvaise, comment as-tu pu écrire cette lettre ! Qu'elle est froide ! Et puis, du 23 au 26, restent quatre jours ; qu'as-tu fait, puisque tu n'as pas écrit à ton mari ?... Ah ! mon amie, ce vous et ces quatre jours me font regretter mon antique indifférence. Malheur à qui en serait la cause ! Puisse-t-il, pour peine et pour supplice, éprouver ce que la conviction et l'évidence (qui servit ton ami) me feraient éprouver ! L'Enfer n'a pas de supplice ! Ni les Furies, de serpents ! Vous ! Vous ! Ah ! que sera-ce dans quinze jours ?...
Mon âme est triste ; mon coeur est esclave, et mon imagination m'effraie... Tu m'aimes moins ; tu seras consolée. Un jour, tu ne m'aimeras plus ; dis-le-moi ; je saurai au moins mériter le malheur... Adieu, femme, tourment, bonheur, espérance et âme de ma vie, que j'aime, que je crains, qui m'inspire des sentiments tendres qui m'appellent à la Nature, et des mouvements impétueux aussi volcaniques que le tonnerre. Je ne te demande ni amour éternel, ni fidélité, mais seulement... vérité, franchise sans bornes. Le jour où tu dirais «je t'aime moins» sera le dernier de ma vie. Si mon coeur était assez vil pour aimer sans retour, je le hacherais avec les dents.
Joséphine, Joséphine ! Souviens-toi de ce que je t'ai dit quelquefois : la Nature m'a fait l'âme forte et décidée. Elle t'a bâtie de dentelle et de gaze. As-tu cessé de m'aimer ? Pardon, âme de ma vie, mon âme est tendue sur de vastes combinaisons. Mon coeur, entièrement occupé par toi, a des craintes qui me rendent malheureux... Je suis ennuyé de ne pas t'appeler par ton nom. J'attends que tu me l'écrives. Adieu ! Ah ! si tu m'aimes moins, tu ne m'auras jamais aimé. Je serais alors bien à plaindre.
P.-S. - La guerre, cette année, n'est plus reconnaissable. J'ai fait donner de la viande, du pain, des fourrages ; ma cavalerie armée marchera bientôt. Mes soldats me marquent une confiance qui ne s'exprime pas ; toi seule me chagrine ; toi seule, le plaisir et le tourment de ma vie. Un baiser à tes enfants dont tu ne parles pas ! Pardi ! cela allongerait tes lettres de moitié. Les visiteurs, à dix heures du matin, n'auraient pas le
plaisir de te voir. Femme !!!
Albenga, le 18 germinal
Anh nhận thư em nói là em ngưng chuyện đi về nông thôn; và sau đó em lấy giọng ghen tương anh, người mà, đến đây với công việc và mệt mỏi chồng chất . A! ban hiền của anh!...Quả thiệt là anh sai trái. Mùa Xuân, nông thôn rất đẹp; và rồi thì, người tình 19 tuổi có ở đó dĩ nhiên. Phương tiện để làm mất đi một khoảng thời gian thêm nữa để viết cho người mà, xa em 300 dặm, chỉ sống, chỉ vui hưởng; chỉ hiện hữu cho kỷ niện của em, đọc thư em như người ta ngấu nghiến món ăn ưa thích sau 6 giờ đi săn.Anh không bằng lòng. Thư của em vừa qua lạnh như tình bạn. Anh không tìm thấy chất lửa đốt cháy ánh mắt của em mà anh tưởng là có lần nào đó anh trông thấy. Nhưng thật là những điều kỳ cục! Anh thấy rằng những thư trước của em đè rất nặng tâm hồn anh; sự nổi dậy của chúng đã tấn công sự ngơi nghỉ của anh, và đã chế ngự giác quan anh.Anh muốn những lá thư lạnh hơn; nhưng chúng cho anh sự đông lạch của cái chết. Nỗi sợ hãi không được Josphine yêu, ý nhĩ khi thấy nàng bất định, thấy nàng... Nhưng anh tự rèn luyện những cực hình của anh. Có quá nhiều sự thật rồi! Cần gì phải chế tạo thêm nữa!!! Em chỉ có thể gây cho anh một tình yêu không bờ, không chia xẻ ; và với tâm hồn em, ý tưởng em, lý luận của em, người ta không thể trả lại bằng sự ruồng bỏ và sự hiến dâng, hoặc đổi trả lại bằng cái tang thương của sự chết.
Anh có nhận thư của bà Châteaurenaud. Anh có viết cho tổng trưởng để (không đọc được). Mai nay anh sẽ viết cho người đầu tiên ? mà em thường khen . Tình bạn thật sự cho bà Tallien và bà Barras.
Em không nói cho anh nghe về cái dạ dày xấu xa của em; anh ghét nó. Chào em , hẹn ngày mai; tình yêu êm dịu của anh. Một kỷ niệm của người đàn bà duy nhất của anh, và một chiến thắng của định mệnh: đó là những lời chúc tụng tụng của anh. Một kỷ niệm duy nhất, toàn vẹn, trang nghiêm của người nhớ về em mọi lúc.
Anh của anh ở đây; anh ấy vui nghe tin đám cưới của anh; anh ấy nóng lòng muốn biết em. Anh tìm cách đưa anh ấy về Paris. Vợ anh ấy sinh rồi; chị ấy sinh con gái . Họ gởi cho em hộp kẹo Gênes làm quà. Em sẽ nhận cam, nước hoa và nước hoa cam mà anh gởi.
Junot và Murat tỏ lòng kính trọng em. Một nụ hôn thấp hơn, thấp hơn ngực.
Je reçois une lettre que tu interromps pour aller, dis-tu, à la campagne ; et, après cela, tu te donnes le ton d'être jalouse de moi, qui suis ici accablé d'affaires et de fatigue. Ah ! ma bonne amie !...
Il est vrai que j'ai tort. Dans le printemps, la campagne est belle ; et puis, l'amant de 19 ans s'y trouvait sans doute. Le moyen de perdre un instant de plus à écrire à celui qui, éloigné de 300 lieues de toi, ne vit, ne jouit, n'existe que pour ton souvenir, qui lit tes lettres comme on dévore, après 6 heures de chasse, les mets que l'on aime.
Je ne suis pas content. Ta dernière lettre est froide comme l'amitié. Je n'y ai pas trouvé ce feu qui allume tes regards, et que j'ai cru quelque fois y voir. Mais quelle est ma bizarrerie !
J'ai trouvé que tes lettres précédentes oppressaient trop mon âme ; la révolution qu'elles produisaient attaquait mon repos, et asservissait mes sens.
Je désirais des lettres plus froides ; mais elles me donnent le glacé de la mort. La crainte de ne pas être aimé de Joséphine, l'idée de la voir inconstante, de la... Mais je me forge des peines. Il en est tant de réel ! Faut-il encore s'en fabriquer !!! Tu ne peux m'avoir inspiré un amour sans bornes, sans le partager ; et avec ton âme, ta pensée et ta raison, l'on ne peut pas, en retour de l'abandon et du dévouement, donner en échange le coup de la mort.
J'ai reçu la lettre de madame de Châteaurenaud. J'ai écris au ministre pour (illisible). J'écrirai demain à la première ? à qui tu feras des compliments d'usage. Amitié vraie à madame Tallien et Barras.
Tu ne me parles pas de ton vilain estomac ; je le déteste. Adieu, jusqu'à demain, mio dolce amor. Un souvenir de mon unique femme, et une victoire du destin : voilà mes souhaits. Un souvenir unique, entier, digne de celui qui pense à toi et à tous les instants.
Mon frère est ici ; il a appris mon mariage avec plaisir ; il brûle de l'envie de te connaître. Je cherche à le décider à venir à Paris. Sa femme est accouché ; elle a fait une fille. Ils t'envoient pour présent une boîte de bonbons de Gênes. Tu recevras des oranges, des parfums et de l'eau de fleurs d'oranger que je t'envoye.
Junot, Murat te présentent leur respect.
Un baiser plus bas, plus bas que le sein.
Milan, le 29 floréal, 2 heures ap. midy
Không biết tại sao sáng nay anh hài lòng hơn. Anh có linh cảm rằng em đã đi đến đây, ý nghĩ này làm anh tràn trề vui sướng. Lẽ đương nhiên em sẽ băng qua Piémont, con đường tốt hơn và ngắn hơn nhiều. Ðến Milan em sẽ bằng lòng vì xứ này rất đẹp. Về phần anh, việc này làm anh điên lên được vì hạnh phúc. Anh khát khao đến chết đi được muốn thấy em mang con của em như thế nào . Chuyện này chắc sẽ làm cho em có vẻ uy nghi một ít và đáng kính, còn anh chắc anh có vẻ tức cười; nhất là đừng bệnh. Không, em mến , em sẽ đến đây, em sẽ khoẻ mạnh, em sẽ cho một đứa bé con xinh đẹp như mẹ nó, sẽ yêu em như cha của nó và khi em già thật già, khi em được 100 tuổi, nó sẽ là nguồn an ủi và niềm hạnh phúc của em., nhưng từ nay đến đó hãy giữ sao cho em thương nó hơn anh, anh đã bắt đầu ghen tương rồi đó. Adio mio dolce amor , Chào em yêu mến của anh, đến đây nhanh lên để chờ nhạc hay và thăm xứ Ý xinh đẹp. Chỉ thiếu cái nhìn của em, theo anh, em sẽ làm đẹp nó ít nhất em biết là khi Joséphine của anh ở đâu đó thì anh chỉ thấy có em.
***
Je ne sais pourquoi depuis ce matin je suis plus content. J'ai un présentiment que tu es partie pour ici cette idée me comble de joie. Bien entendu que tu passeras par le Piémont, le chemin est beaucoup meilleur et plus court. Tu viendras à Milan où tu seras très contente ce pays-ci étant très beau. Quant à moi cela me rendra si heureux que j'en serai fou. Je meurs d'envie de voir comment tu portes les enfants. Cela doit te donner un petit air majestueux et respectable qui me paraît devoir être très plaisant ; ne vas pas surtout être malade. Non ma bonne amie tu viendras ici, tu te porteras très bien, tu feras un petit enfant jolie comme sa mère qui t'aimera comme son père et quand tu seras bien vieille bien vieille que tu auras 100 ans il sera ta consolation et ton bonheur, mais d'ici à ce temps là garde toi de l'aimer plus que moi, je commence déjà à en être jaloux. Adio mio dolce amor adio la bien aimée, viens vite attendre la bonne musique et voir la belle Italie. Il ne lui manque que ta vue tu l'embelira à mes yeux du moins tu le sais quand ma Joséphine est quelque part je ne vois plus qu'elle.
***
Milan, le 23 prairial
Joséphine, người ta sẽ trao thư này cho em ở đâu? Nếu ở Paris, thì bất hạnh là chắn chắn, em không còn yêu anh nữa! Anh sẽ chỉ chết mà thôi... Có thể như vậy sao em?... Tất cả những con rắn của của những cơn thịnh nộ ở trong ngục anh và anh chỉ tồn tại chỉ có một nửa...
Ô! Em! nước mắt anh chảy. Không còn sự yên nghỉ, không còn hy vọng. Anh tôn trọng ý muốn và luật bất biến của số mệnh. Nó đè nặng bằng vinh quang để làm anh cảm thấy nỗi bất hạnh càng thêm đắng. Anh sẽ quen tất cả trong tình trạng mới mẻ này: nhưng anh không thể quen không quí mến em nữa; không phải vậy! Không thể được!
Joséphine của anh đang trên đường đi: ít nhất nàng cũng yêu ta một tí; biết bao là tình yêu hứa hẹn không thể nở ra trong hai tháng.Anh ghét Paris, đàn bà và tình yêu... Trạng thái đó dễ sợ... và hạnh kiểm của em... nhưng có phải anh phải buộc tội em không? Không. Hạnh kiểm của em là do số mệnh. Dễ thương như thế, đẹp như thế, dịu dàng như thế, có phải em là dụng cụ của nỗi thất vọng của anh?
Người đưa em thư này là công tước Serbelloni, lãnh chúa lớn nhất của nước này, đại diện đến Paris để tỏ lòng kính trọng với chính quyền. Tạm biệt, Joséphine của anh, sự suy nghĩ của em làm anh hạnh phúc; tất cả đã thay đổi. Hôm các con dễ thương của em. Chúng viết cho anh những bức thư thú vị. Từ khi anh không được yêu em nữa, anh thương chúng nhiều hơn. Mặc dù phần số và danh dự, anh sẽ yêu suốt đời anh. Anh đã đọc lại tất cả những thư của em, ngay cả thư em viết bằng máu của em. Thư em đã làm cho anh cảm kích biết bao!
***
Joséphine, où te remettra-t-on cette lettre ? Si c'est à Paris, mon malheur est donc certain, tu ne m'aimes plus ! Je n'ai plus qu'à mourir... Serait-il possible ?... Tous les serpents des Furies sont dans mon sein et déjà je n'existe qu'à demi... Oh ! toi !... mes larmes coulent. Plus de repos ni d'espérance. Je respecte la volonté et la loi immuable du sort. Il m'accable de gloire pour me faire sentir mon malheur avec plus d'amertume. Je m'accoutumerai à tout dans ce nouvel état de choses ; mais je ne puis m'accoutumer à ne plus t'estimer ; mais non ! Ce n'est pas possible ! Ma Joséphine est en route ; elle m'aime au moins un peu ; tant d'amour promis ne peut pas être évanoui en deux mois.
Je déteste Paris, les femmes et l'amour... Cet état est affreux... et ta conduite... mais dois-je t'accuser ? Non. Ta conduite est celle de ton destin. Si aimable, si belle, si douce, devais-tu être l'instrument de mon désespoir ?
Celui qui te remettra cette lettre est le duc de Serbelloni, le plus grand seigneur de ce pays, qui va, député à Paris, pour présenter ses hommages au gouvernement.
Adieu, ma Joséphine, ta pensée me rendait heureux ; tout a changé. Embrasse tes aimables enfants. Ils m'écrivent des lettres charmantes. Depuis que je ne dois plus t'aimer, je les aime davantage. Malgré les destins et l'honneur, je t'aimerai toute ma vie. J'ai relu, cette nuit, toutes tes lettres, même celle écrite de ton sang. Quels sentiments elles m'ont fait éprouver !
Cùng ngày
Joséphine, em đã phải ra đi, ngày 5, từ Paris; em đã phải đi, ngày 11, em đã không đi, ngày 12... Hồn anh mở rộng đón niềm vui; nó đầy ắp đau khổ. Mọi thư đến mà không mang đến cho anh thư em...
Khi em viết cho anh, quá ít chữ, lối hành văn không bao giờ có tình cảm sâu đậm. Em yêu anh bằng một ý thích nhẹ thất thường. Em đã biết ngay là sẽ buồn cười biết bao khi nó (caprice) bảo tim em dừng chân lại. Hình như em đã chọn lựa và em biết ai thay thế anh. Anh chúc em hạnh phúc. Nếu sự không chung thủy có thể có, anh không nói đến sự phản trắc... Em chưa bao giờ yêu...
Anh vôi vàng làm vài con toán; nếu anh tính cho em: ngày 13, ở Milan, và em hãy còn ở Paris. Anh rút vào tâm hồn anh; anh dập tắt một tình cảm không phẩm cách của anh; và nếu vinh quang không đủ cho hạnh phúc của anh, nó sẽ cung cấp yếu tố của sự chết, của sự bất tử ...
Về phần em, xin em đừng ghê tởm ký ức anh. Nỗi bất hạnh của anh là đã biết ít về em, bất hạnh của em là đã đánh giá anh như những người đàn ông vây quanh em.Tim anh không bao giờ cảm thấy có cái gì tầm thường... nó bảo vệ cho tình yêu; em đã gây cho nó một đam mê không bờ, một say sưa làm hủy hoại nó. Tư tưởng em đã ở trong linh hồn anh hoàn toàn trước tư tưởng của Thiên nhiên; sự bay bướm của em đối với anh là một luật thiêng liêng; được gặp em là một hạnh phúc tối cao; em đẹp, yêu kiều; tâm hồn êm ái và tuyệt vời vẽ trên nét mặt của em. Anh yêu tha thiết tất cả những gì của em; ngây thơ hơn, trẻ hơn, anh sẽ yêu em ít hơn. Anh vừa lòng tất cả, cho tới kỷ niệm của những lỗi lầm của em và cái màn sầu não trước đám cưới chúng ta mười lăm ngày; đức hạnh là những gì em làm; danh dự là những gì làm vừa lòng em; vinh quang chỉ quyến rũ anh vì nó làm em dễ chịu và làm thỏa mãn tự ái của em. Chân dung em lúc nào cũng ở trên tim anh; không một tư tưởng nào không thấy nó và phủ nó bằng những nụ hôn.
Còn em, em đã để chân dung anh sáu tháng không buồn lấy ra; không có gì mà anh không nhận thấy. Nếu anh cứ tiếp tục, anh sẽ yêu em một mình, và trong mọi vai trò, đó là cách duy nhất mà anh có thể nhận được. Joséphine, xin hãy tạo hạnh phúc cho người đàn ông bớt lạ lùng đi. Em đã cho anh nỗi bất hạnh, anh báo cho em biết điều này. Anh cảm giác điều đó vì khi tâm hồn anh dấn thân vào, thì trong khi đó tâm hồn em chiến thắng mỗi ngày một vương quốc không bờ bến và chế ngự tất cả mọi cảm giác của anh. Tàn ác!!!
Tại sao em làm cho anh hy vọng một tình cảm mà em không cảm nhận!!! Nhưng lời trách móc của anh không xứng đáng với anh. Anh không bao giờ tin ở hạnh phúc. Mỗi ngày, cái chết chập chờn quanh anh... Cuộc sống có xứng đáng để gây ra nhiều tiếng động như thế chăng!!!
Tạm biệt, Joséphine, hãy ở lại Paris, đừng viết cho anh nữa, và ít nhất cũng phải tôn trọng nơi yên nghỉ của anh. Ngàn con dao găm xé nát tim anh; đừng ấn sâu thêm nữa. Tạm biệt, hạnh phúc của anh, cuộc đời của anh, tất cả những gì đáng kể còn lại cho anh trên trái đất.
***
Joséphine, tu devais partir, le 5, de Paris ; tu devais partir, le 11, tu n'étais pas partie, le 12... Mon âme s'était ouverte à la joie ; elle est remplie de douleur. Tous les courriers arrivent sans m'apporter de tes lettres...
Quand tu m'écris, le peu de mots, le style n'est jamais d'un sentiment profond. Tu m'as aimé par un léger caprice ; tu sens déjà combien il serait ridicule qu'il arrête ton coeur. Il me paraît que tu as fait ton choix et que tu sais à qui t'adresser pour me remplacer. Je te souhaite bonheur, si l'inconstance peut en obtenir ; je ne dis pas la perfidie... Tu n'as jamais aimé...
J'avais pressé mes opérations ; je te calculais, le 13, à Milan, et tu es encore à Paris. Je rentre dans mon âme ; j'étouffe un sentiment indigne de moi ; et si la gloire ne suffit pas à mon bonheur, elle fournit l'élément de la mort et de l'immortalité...
Quant à toi, que mon souvenir ne te soit pas odieux. Mon malheur est de t'avoir peu connue, le tien, de m'avoir jugé comme les hommes qui t'environnent.
Mon coeur ne sentit jamais rien de médiocre... il s'était défendu de l'amour ; tu lui as inspiré une passion sans bornes, une ivresse qui le dégrade. Ta pensée était dans mon âme avant celle de la Nature entière ; ton caprice était pour moi une loi sacrée ; pouvoir te voir était mon souverain bonheur ; tu es belle, gracieuse ; ton âme douce et céleste se peint sur ta physionomie. J'adorais tout en toi ; plus naïve, plus jeune, je t'eusse aimée moins.
Tout me plaisait, jusqu'au souvenir de tes erreurs et de la scène affligeante qui précéda de quinze jours notre mariage ; la vertu était pour moi ce que tu faisais ; l'honneur, ce qui te plaisait ; la gloire n'avait d'attrait dans mon coeur que parce qu'elle t'était agréable et flattait ton amour-propre. Ton portrait était toujours sur mon coeur ; jamais une pensée sans le voir et le couvrir de baisers.
Toi, tu as laissé mon portrait six mois sans le retirer ; rien ne m'a échappé. Si je continuais, je t'aimerais seul, et de tous les rôles, c'est le seul que je ne puis adopter. Joséphine, tu eusses fait le bonheur d'un homme moins bizarre. Tu as fait mon malheur, je t'en préviens. Je le sentis lorsque mon âme s'engageait, lorsque la tienne gagnait journellement un empire sans bornes et asservissait tous mes sens. Cruelle !!!
Pourquoi m'avoir fait espérer un sentiment que tu n'éprouvais pas !!! Mais le reproche n'est pas digne de moi. Je n'ai jamais cru au bonheur. Tous les jours, la mort voltige autour de moi... La vie vaut-elle la peine de faire tant de bruit !!!
Adieu, Joséphine, reste à Paris, ne m'écris plus, et respecte au moins mon asile. Mille poignards déchirent mon coeur ; ne les enfonce pas davantage. Adieu, mon bonheur, ma vie, tout ce qui existait pour moi sur la terre.
Pistoia, le 8 messidor
Từ một tháng nay, anh chỉ được nhận từ bạn tốt của anh 2 tấm giấy có 3 hàng mỗi tấm. Nàng có công việc chăng? Vậy thì việc viết cho người bạn tốt của nàng không phải là nhu cầu của nàng? Từ đó, việc nghĩ về việc đó... Sống không nghĩ đến Joséphine, theo bạn của em, sẽ là chết, không tồn tại. Hình ảnh em làm đẹp ý tưởng của anh và làm vui cảnh thiên tai và đen đùi của sự u buồn và đau đớn...
Có thể sẽ có một ngày anh sẽ gặp em; bởi vì anh không nghĩ rằng em vẫn còn ở Paris. Vậy thì, ngày đó, anh sẽ đưa cho em thấy những túi anh đầy thư mà anh không gởi cho em vì anh thấy chúng quá ngu ngốc - thì, chỉ là một từ ngữ. Chúa ơi! Xin hãy nói cho anh, em giỏi làm người khác thương yêu mà không cần yêu thương; Em có biết làm thế nào để chữa lành bệnh tình??? Anh sẽ trả giá rất đắt cho phương thuốc cứu chữa này. Em phải ra đi ngày 5 tháng 9 ; anh ngu ngốc thật, anh đợi em hôm 13. Như thể người đàn bà xinh đẹp có thể bỏ thói quen của nàng, các bạn nàng, bà Tallien của nàng, và bữa cơm tối nơi nhà Baras, và giới thiệu một màn kịch mới, và Fortun, vâng, Fortuné!
Em yêu mọi thứ hơn chồng em; em chỉ cho hắn một chút quý mến, và một phần của lòng nhân từ mà tim em có nhiều. Mỗi ngày tổng kết những lỗi lầm, những tội lỗi của em để không thương em nữa, anh đã phí công vô ích. Quái chưa! anh lại càng yêu em hơn nữa. Cuối cùng, mẹ thân yêu không ai có thể so sánh được, anh sắp nói cho em điều bí mật này: hãy chế nhạo anh đi, hãy ở lại Paris, hãy có những tình nhân, mọi người hãy biết điều đó đi, đừng bao giờ viết thư, vậy thì anh yêu em mười lần hơn.
Nếu như đó không phải là sự điên rồ, sự nóng sốt, sự mê sảng! Và anh không khỏi bệnh nhờ những thứ này (ô! nếu chính vì thế thì anh laị khỏi bệnh nhờ nó); nhưng đừng sắp nói với anh là em bệnh, và đừng thuyết phục anh bằng cách tự bào chữa. Chúa ơi! Em đã được tha tội; anh yêu em điên cuồng, vì không bao giờ trái tim đáng thương của anh ngừng cho tình yêu của nó! Nếu em không yêu anh, định mệnh của anh sẽ lạ lùng. Em không viết cho anh, em bệnh, em không đến. Ban chấp chính không muốn, sau cơn bệnh của em, và rồi thì đứa bé này động đây quá mạnh làm cho em đau? nhưng em đã đến Lyon, ngày 10 em sẽ tới Turin. Ngày 12, ở Milan nơi em sẽ đợi anh. Em sẽ ở Ý, và anh sẽ vẫn còn xa em. Tạm biệt em yêu thương, một nụ hôn trên miệng em; nụ hôn khác trên tim em, và một nụ hôn khác trên chỗ ....thân yêu của em.
Chúng anh đã giảng hòa với Rome, họ đưa ta tiền. Chúng anh sẽ tới Livourne ngày mai, và, sớm nhất mà anh có thể có được, trong vòng tay em, dưới chân em, trên ngực em.
Depuis un mois, je n'ai reçu de ma bonne amie que deux billets de trois lignes chacun. A-t-elle des affaires ? Celle d'écrire à son bon ami n'est donc pas un besoin pour elle ? Dès lors celle d'y penser... Vivre sans penser à Joséphine, ce serait pour ton ami être mort et ne pas exister. Ton image embellit ma pensée et égaye le tableau sinistre et noir de la mélancolie et de la douleur...
Un jour peut-être viendra où je te verrai ; car je ne doute pas que tu ne sois encore à Paris. Eh ! bien, ce jour-là, je te montrerai mes poches pleines de lettres que je ne t'ai pas envoyé parce qu'elles étaient trop bêtes - bien, c'est le mot. Bon Dieu ! Dis-moi, toi qui sais si bien faire aimer les autres sans aimer, saurais-tu comment on guérit de l'amour ??? Je paierai ce remède bien chère. Tu devais partir le 5 prairial ; bête que j'étais, je t'attendais le 13. Comme si une jolie femme pouvait abandonner ses habitudes, ses amis, sa madame Tallien, et un dîner chez Baras, et une représentation d'une pièce nouvelle, et Fortuné, oui, Fortuné!
Tu aimes tout plus que ton mari ; tu n'as pour lui qu'un peu d'estime, et une portion de cette bienveillance dont le coeur abonde. Tous les jours récapitulant tes torts, tes fautes, je me bats les flancs pour ne plus t'aimer, bah ! voilà-t-il pas que je t'aime davantage. Enfin, mon incomparable petite mère, je vais te dire mon secret : moque-toi de moi, reste à Paris, aie des amants, que tout le monde le sache, n'écris jamais, eh bien ! je t'en aimerai dix fois davantage.
Si ce n'est pas là folie, fièvre, délire ! Et je ne guérirai pas de cela (oh ! si pardieu, j'en guérirai) ; mais ne va pas me dire que tu es malade, n'entreprends pas de te justifier. Bon Dieu ! Tu es pardonnée ; je t'aime à la folie, et jamais mon pauvre coeur ne cessera de donner son amour. Si tu ne m'aimais pas, mon sort serait bien bizarre. Tu ne m'as pas écrit, tu étais malade, tu n'es pas venue. Le Directoire n'a pas voulu, après ta maladie, et puis ce petit enfant qui se remuait si fort qu'il te faisait mal ? mais tu as passé Lyon, tu seras le 10, à Turin ; le 12, à Milan où tu m'attendras. Tu seras en Italie, et je serai encore loin de toi. Adieu ma bien-aimée, un baiser sur ta bouche ; un autre, sur ton coeur, et un autre sur ton petit absent.
Nous avons fait la paix avec Rome qui nous donne de l'argent. Nous serons demain à Livourne, et, le plus tôt que je pourrai, dans tes bras, à tes pieds, sur ton sein.
Roverbella, le 18 messidor
Anh đã đánh bại kẻ thù. Kilmaine sẽ gởi cho em bản sao của sự quan hệ. Anh mệt chết đi được. Anh xin em hãy ra đi ngay tức thì để đến Vérone; anh cần em, vì anh biết là mình sắp bệnh. Anh tặng em ngàn cái hôn. Anh đang đang ở trong giường.
J'ai battu l'ennemi. Kilmaine t'enverra la copie de la relation. Je suis mort de fatigue. Je te prie de partir tout de suite pour te rendre à Vérone ; j'ai besoin de toi, car je vois que je vais être bien malade. Je te donne mille baisers. Je suis au lit.
________
Vérone, premier jour complémentaire
Anh viết cho em, bạn tốt của anh, rất thường xuyên, còn em thì ít. Em là người độc ác, xấu, rất xấu, cũng như sự nhẹ dạ của em. đó là sự phản trắc, bội nghĩa với người chồng đáng thương, một người tình âu yếm! Nó có phải mất quyền lợi của nó vì nó ở xa, chồng chất công việc, mệt mỏi và khổ nhọc chăng? Không có tình yêu của Joséphine của nó, không có sự bảo đảm tình yêu nó, cái gì còn lại cho nó trên trái đất này? Nó làm gì ở đó?
Hôm qua chúng anh có một công việc đẫm máu; kẻ thù mất nhiều người và đã bị đánh bại hoàn toàn. Chúng anh đã lấy của họ ngoại ô Mantoue.
Tạm biệt, Joséphine đáng mến; một trong những đêm này, cửa sẽ mở mạnh: như một người ghen tương, anh đây, trong vòng tay em.
Ngàn chiếc hôn tình si.
Je t'écris, ma bonne amie, bien souvent, et toi peu. Tu es une méchante et une laide, bien laide, autant que tu es légère. Cela est perfide, tromper un pauvre mari, un tendre amant ! Doit-il perdre ses droits parce qu'il est loin, chargé de besogne, de fatigue et de peine ? Sans sa Joséphine, sans l'assurance de son amour, que lui reste-t-il sur la terre ? Qu'y ferait-il ?
Nous avons eu hier une affaire très sanglante ; l'ennemi a perdu beaucoup de monde et a été complètement battu. Nous lui avons pris le faubourg de Mantoue.
Adieu, adorable Joséphine ; une de ces nuits, les portes s'ouvriront avec fracas : comme un jaloux, et me voilà dans tes bras.
Mille baisers amoureux.
_______________
Vérone, le 1er frimaire, an V
Anh sắp đi ngủ, Joséphine nhỏ bé của anh, tim anh đầy hình ảnh tuyệt vời của em, và đau buồn khi còn xa em quá lâu; nhưng anh hy vọng rằng, trong vài ngày nữa, anh sẽ sung sướng hơn và anh sẽ có thể cho em những bằng chứng của tình yêu nóng bỏng của anh như ý anh muốn mà em đã gợi cho anh. Em không còn viết cho anh nữa; em không nghĩ đến bạn tốt của em nữa, người đàn bà độc ác: Em có biết chăng không có em, không có quả tim của em, không có tình yêu của em, thì chồng em không có niềm hạnh phúc cũng không có sức sống. Chúa ơi! Anh sẽ hạnh phúc biết chừng nào nếu anh được dự cuộc trang điểm dễ thương, vai nhỏ, một cái vú trắng, đàn hồi, rắn chắc; trên cái đó, một gương mặt nhỏ (?) xinh quá . Em biết rõ là anh không quên những cuộc viếng thăm dễ yêu; em biết rõ, mảnh rừng đen yêu kiều. Anh tặng nó ngàn nụ hôn và chờ đợi một cách nôn nóng lúc đến nơi đó. Tất cả là của em, đời sống, hạnh phúc, khoái cảm, chúng chỉ là những cái em đã làm ra.
Sống bên Joséphine là sống trong diện Élysée. Hôn trên miệng, trên mắt, trên vai, trên ngực, mọi nơi, khắp mọi nơi!
Je vais me coucher, ma petite Joséphine, le coeur plein de ton adorable image, et navré de rester tant de temps loin de toi ; mais j'espère que, dans quelques jours, je serai plus heureux et que je pourrai à mon aise te donner des preuves de l'amour ardent que tu m'as inspiré. Tu ne m'écris plus ; tu ne penses plus à ton bon ami, cruelle femme ! Ne sais-tu pas que sans toi, sans ton coeur, sans ton amour, il n'est pour ton mari ni bonheur, ni vie. Bon Dieu ! Que je serais heureux si je pouvais assister à l'aimable toilette, petite épaule, un petit sein blanc, élastique, bien ferme ; par-dessus cela, une petite mine avec le mouchoir à la créole, à croquer. Tu sais bien que je n'oublie pas les petites visites ; tu sais bien, la petite forêt noire. Je lui donne mille baisers et j'attends avec impatience le moment d'y être. Tout à toi, la vie, le bonheur, le plaisir ne sont que ce que tu les fais.
Vivre dans une Joséphine, c'est vivre dans l'Élysée. Baiser à la bouche, aux yeux, sur l'épaule, au sein, partout, partout !
24/6/09
Kinh-Nghiệm Thành-Đạt của Cuộc Đời Đức Khổng-Tử
I. Kinh-Nghiệm Thành-Đạt của Cuộc Đời Đức Khổng-Tử
Khổng-Tử đã kể lại các giai-đoạn thành-đạt của cuộc đời ngài như sau: "Ngô thập hữu ngũ nhi chí vu học, tam thập nhi lập, tứ thập nhi bất hoặc, ngũ thập nhi tri thiên-mệnh, lục thập nhi nhĩ thuận, và thất thập nhi tùng tâm sở dục bất du củ" (Ta tới mười lăm tuổi mới chuyên-chú vào việc học, ba mươi tuổi mới tự-lập, bốn mươi tuổi mới thấu-hiểu hết sự lý trong thiên-hạ, năm mươi tuổi mới biết mệnh trời, sáu mươi tuổi mới có kiến-thức và kinh-nghiệm hoàn-hảo để có thể phán-đoán ngay được mọi sự-lý và nhân-vật mà không thấy có điều gì chướng-ngại khi nghe được, và bảy mươi tuổi mới có thể nói hay làm những điều đúng theo ý-muốn của lòng mình mà không ra ngoài khuôn-khổ đạo-lý).
Trong lời phát-biểu trên, Đức Khổng-Tử có ý nói rằng con người tới một lứa tuổi nào đó mới có khả-năng nhận-thức và thực-hành những điều mà người chưa đạt đến lứa tuổi đó thì chưa nhận-thức và thực-hành được. Để giúp các bạn trẻ hiểu rõ trọn-vẹn ý-nghĩa lời phát-biểu của Khổng-Tử trên đây, chúng tôi xin bàn về từng phần của lời phát-biểu này.
1- Ngô Thập Hữu Ngũ Nhi Chí Vu Học
Trong câu "ngô thập hữu ngũ nhi chí vu học," chúng tôi thấy có mấy chữ cần phải được giải-thích để giúp các bạn trẻ hiểu cho rõ. Chữ "hữu" có nghĩa là "thêm" (thập hữu ngũ: mười thêm năm, tức là 15), chữ "chí" có nghĩa là "để hết tâm ý," và chữ "vu" có nghĩa là "đối với" Cả câu "ngô thập hữu ngũ nhi chí vu học" có nghĩa là khi tới 15 tuổi, ta mới có thể tự-mình chuyên-tâm vào việc học. Có biết như thế, các bậc cha mẹ mới không buồn-phiền khi thấy các con mình mải chơi đùa và không chịu chuyên tâm học-hành trước khi chúng chưa tới lứa tuổi 15. Và cũng nhờ đó, các bậc cha mẹ mới đem hết kiên-nhẫn, kỹ-năng, và nghệ-thuật để chăm-nom săn-sóc cho các con mình ngay từ khi chúng còn nhỏ (trước 15 tuổi) hầu giúp chúng thành-công trong việc học.
2- Tam Thập Nhi Lập
"Tam thập nhi lập" có nghĩa là khi người ta tới 30 tuổi thì sức tự-lập mới có thể chắc-chắn và vững-vàng. Thực vậy, khi đạt tới 30 tuổi, con người có thể tự-lập và gây-dựng nên sự-nghiệp cho mình với điều-kiện là họ phải có chí tự-lập cũng như được cha mẹ săn-sóc và giáo-dục chu đáo. Chí tự-lập của con người giữ vai-trò quyết-định trong việc tự-ập. Trong thực-tế đã có nhiều người tự-lập từ trước lứa tuổi 30 và cũng có người không tự-lập được ở ngoài lứa tuổi 30. Đây là trường-hợp của những người có chí tư- lập hay không. Nếu không có chí tự-lập thì dù cha mẹ có săn-sóc và giáo-dục cũng vẫn không tự-lập được. Họ là những người ăn bám gia-đình và xã-hội.
3- Tứ Thập Nhi Bất Hoặc
"Tứ thập nhi bất hoặc" có nghĩa là khi người ta tới 40 tuổi mới có thể hiểu thấu mọi sự-lý trong thiên-hạ, phân biệt được việc phải hay trái cũng như hiểu được ai là người tốt hay xấu, phân biệt được những ai là người chân-chính yêu nước thương nòi và biết được cái gì nên làm hay không. Không phải người nào ở cái tuổi 40 cũng được như vậy. Muốn đạt tới trình độ "nhi bất hoặc," con người phải được giáo-dục kỹ-lưỡng và tự mình cố công học-hỏi chuyên-cần ngay từ khi còn nhỏ.
4- Ngũ Thập Nhi Tri Thiên-Mệnh
"Ngũ thập nhi tri thiên-mệnh" có nghĩa là khi người ta tới 50 tuổi mới có thể thông-suốt chân- lý của tạo-hoá, tức là hiểu được mệnh của trời. Không phải bất cứ ai tới 50 tuổi là đạt được trình-độ "tri thiện-mệnh" Muốn đạt được trình độ "tri thiên-mệnh," con người cũng phải có căn-bản vững-vàng về giáo-dục, kiến-văn, và kinh-nghiệm sống.
5- Lục Thập Nhi Nhĩ-Thuận
"Lục thập nhi nhĩ-thuận" có nghĩa là khi người ta tới 60 tuổi thì mới đạt đến mức độ hoàn-hảo về mặt tri-hành, kiến-văn, và kinh-nghiệm về cuộc sống. Nhờ đó, người ta có thể nhận-xét và phán- đoán được ngay tức-khắc và chính-xác về các sự-kiện và nhân-vật trong thiên-hạ. Khi nhìn hay nghe thấy điều gì, người ta không những không cảm thấy chướng-ngại mà còn hiểu thấu ngay mọi lẽ. Không phải tự-nhiên mà ta đạt được trình-độ "nhi nhĩ thuận" Muốn đạt được trình-độ này, con người cũng phải có căn-bản giáo-dục, đạo-đức, kiến-văn, và kinh-nghiệm từng-trải về sự đời.
6- Thất Thập Nhi Tùng Tâm Sở Dục Bất Du Củ
"Thất thập nhi tùng tâm sở dục bất du củ" có nghĩa là tới 70 tuổi, con người sẽ đạt đến tình- trạng rất hoàn-hảo về cách xử-sự và xử-thế. Nhờ đó mà mỗi khi người ta định nói điều gì hay làm việc gì thì tự-nhiên thể-hiện đúng với chủ tâm của lòng mình, muốn sao được vậy, và không bao giờ vượt ra khỏi khuôn-khổ của đạo-lý hay lẽ thường. Đây là trình-độ tuyệt-hảo của con người ở vào tuổi từ 70 trở lên nếu trước đó họ được giáo-dục đúng cách, tự tìm tòi học-hỏi, có kiến-văn quảng-bác, có tu-tâm dưỡng-tánh, và đã từng-trải cũng như rút được ưu khuyết-điểm trong các kinh-nghiệm về nỗi ê-chề đớn-đau của cuộc đời.
Tuy rằng Khổng-Tử đã trình bày về những lứa tuổi cuộc đời cụ-thể của ngài như đã nói ở trên, chúng ta phải hiểu rằng đây cũng là ý của ngài muốn nói về từng giai-đoạn tác-thành-của các lứa tuổi cuộc đời con người. Muốn đạt tới khả-năng nhận-thức và thực-hành ở mỗi lứa tuổi như đã đề-cập ở trên, người ta phải được giáo-dục và tự mình chuyên-tâm vào việc học-hỏi liên-tục ngay từ khi còn trẻ, tức là từ trước khi tới lứa tuổi 15 và tiếp-tục cho tới 70 tuổi, để trau-giồi kiến-văn, đạo-đức, và rút-tỉa kinh-nghiệm trong cuộc sống hàng ngày.
Mỗi lứa tuổi 15, 30, 40, 50, 60, và 70 thể-hiện kết-quả của việc giáo-dục trong gia-đình và học-đường cùng kiến-văn có được qua sự học-hỏi ở trường đời. Nếu không được giáo-dục đúng cách và nếu không biết tự tu tâm dưỡng tánh, tự trau-giồi kiến-văn cho hoàn-hảo, và tự rút tỉa kinh-nghiệm trường đời thì con người giống như "ông bình vôi," càng sống lâu càng ngu và càng làm hại dân hại nước dù rằng có bằng cấp cao đến thế nào đi nữa.
Có tuổi là một việc, nếu không được giáo-dục đúng cách và không tự trau-giồi kiến-văn cùng kinh-nghiệm sống thì dù tới 30 tuổi, 40 tuổi, 50 tuổi, 60 tuổi, hay 70 tuổi đi nữa, người ta cũng không có sức tự-lập, không hiểu hết sự lý, không biết được mệnh trời, không thông-suốt mọi lẽ, và không thể làm chủ được hành-động và tư-tưởng của mình nhiên-hậu sẽ vượt ra ngoài khuôn khổ đạo lý. Việc quan- trọng nhất là nếu đã tới 30 tuổi mà không tự-lập được vững-vàng, ta sẽ gặp nhiều gian-truân chứ đừng nói chi đến việc có thể giúp mình và giúp đời một cách có hiệu-quả được.
II. Việc Học và Trau Giồi Kiến-Văn
1. Học Kinh-Nghiệm Của Người
Muốn lập thân cho đúng nghĩa của nó, các bạn trẻ phải chú-tâm vào việc học. Học không phải có nghĩa là chúng ta chỉ cần cắp sách đến trường và đọc nhiều sách vở để biết chữ nghĩa hay học được một nghề để kiếm nhiều tiền hầu vinh-thân phì-gia là đuViệc học phải gồm đủ mọi mặt và nhiều cách.
Mục-đích của việc học là để thành con người với đúng nghĩa của nó, tức là con người hoàn-hảo, có đạo-đức, và hữu-dụng cho nhà cho nước. Học là noi gương sáng của tiền-nhân và các bậc vĩ-nhân quân-tử, tức là bắt-chước những việc làm ích quốc lợi dân mà các bậc tiền-nhân đã làm. Ngoài ra, chúng ta cũng cần phải bắt-chước những việc làm của các người đồng thời với ta khi việc làm của họ có ý-nghĩa và đáng cho ta học-hỏi và noi theo để cứu-nhân độ-thế.
Cần phải giao-thiệp rộng và lăn-lộn với đời để học kinh-nghiệm sống và trau-giồi kiến-văn cho quảng-bác. Học để phân-biệt được điều phải điều trái. Thấy điều tốt điều phải, ta phải bắt-chước. Thấy điều sai quấy, ta phải tránh. Người khôn là người biết học kinh-nghiệm của người khác, người dại là người chỉ biết học kinh-nghiệm của chính mình.
2. Học Một Biết Mười
Từ những hiểu-biết căn-bản của việc học có được tại học-đường và trong gia-đình, ta có thể nghiên-cứu thêm và nhiên-hậu phát-minh ra những điều mới. Làm sao học một để biết mười, tức là học cách tìm tòi nghiên-cứu, suy-diễn, nhận-xét, và phê-phán. Không nên quá tin vào sách-vở vì sách-vở cũng có nhiều cái sai trái trong đó. Người xưa có nói "Tận tín ư thư bất như vô thư," tức là quá tin vào sách thà đừng có sách còn hơn. Điều này là để cảnh-cáo những người thuộc loại mọt-sách. Đọc sách mà không chịu phân-tích và nhận-xét thì chỉ có hại mà thôi. Thậm-chí có người còn cho là những gì cổ- nhân viết ra để lại cho hậu-thế chỉ là những "tao-phách" (cặn bã) mà thôi. Những người biết cách học- hỏi thì phải coi những "tao-phách" này như là một tài-liệu để nghiên-cứu thêm mà thôi chứ không có thể nào hoàn-toàn tin vào đó được.
3. Học phải Hành
Những điều gì học được phải đem thực-hành để giúp-ích cho đời. Biết mà để đó cũng giống như không biết và cái biết đó là một điều vô-ích. Biết điều phải mà không làm thì cái biết đó chẳng có ích gì cho nhân-quần xã-hội. Hơn-nữa, khi ta học được điều hay mà không đem ra phổ-biến và thực- hành thì cái học của ta cũng mai-một đi. Chính vì thế mà việc học ở các nước tân-tiến đều đi từ kiến- thức tới thí-nghiệm, trắc-nghiệm, áp-dụng, rồi thi-hành, và cuối cùng lượng-giá cùng rút ưu-khuyết- điểm để cải-tiến hầu giúp-ích cho đời-sống con người tốt đẹp hơn.
4. Học để Làm Người
Đây là cái học quan-trọng nhất. Cái học của Á-Đông chúng ta chú-trọng tới việc xây-dựng con người toàn-diện về kiến-thức cũng như về đạo-đức. Cái học của Tây-Âu chú-trọng về mặt chuyên-môn để đào-tạo các chuyên-gia hơn là đào-tạo con người. Tuổi trẻ Việt-Nam ở hải-ngoại đã có lõi-cốt của cái học Á-Đông ta, nay lại được học thêm cái tinh-tuý về khoa-học kỹ-thuật Tây-Âu thì thật là điều tuyệt-diệu. Học để có kiến-thức và chuyên-môn cao thì dễ, nhưng muốn học để làm người, con người toàn-diện, thì rất khó. Chính vì thế mà các bạn trẻ cần phải chú-ý các mặt sau để việc học của ta thêm hoàn-hảo:
- Ở trong Gia-Đình Phải Học sao để Làm Người Con Hiếu-Thảo.
"Hiếu-Thảo" là rường- mối của mọi nết ăn-ở trên đời. Cha mẹ là người sinh ra mình, săn-sóc và nuôi-nấng mình rất vất-vả, và còn lo giáo-dục cho mình nên người tử-tế nữa. Công-đức ấy kể sao cho xiết được! Chính vì thế mà con cái phải biết kính-yêu và biết ơn cha mẹ. Lúc nhỏ, con cái chỉ cần thể-hiện lòng biết ơn cha mẹ bằng cách vâng-lời cha mẹ, chăm-chỉ học-hành, và yêu mến cha mẹ. Khi lớn lên, con cái thể-hiện sự biết ơn cha mẹ bằng cách hết lòng phụng-dưỡng mẹ cha, ân-cần săn-sóc cha mẹ, kính-trọng cha mẹ, và giúp-đỡ cha mẹ mổi khi cha mẹ cần đến. Có được như thế thì con cái mới được gọi là người con có hiếu và mới được gọi là người có giáo-dục. Nếu làm trái các điều này, ta là người con bất-hiếu. Con người đã mang tội bất-hiếu thì chắc-chắn họ chỉ là kẻ sâu-dân mọt-nước.
Học Sao để Có Đễ với Anh Chị Em của Mình.
"Đễ" có nghĩa là kính yêu, thương yêu, và hoà-thuận đối với anh chị em. Nói một cách khác, đối-xử tử-tế, hợp đạo-lý, và giữ trọn tình-nghĩa trước sau với anh chị em đều được gọi là "đễ" Có đễ thì anh chị em mới hoà, đồng-bào mới thương yêu nhau, và nhiên-hậu xã-hội mới thịnh-vượng.
- Học sao để Đạt Được Đức-Tính Cẩn-Trọng và Chân-Thành
Khi làm việc gì và khi tiếp- đãi ai, "cẩn-trọng" là điều ta phải chú tâm. Điều này có nghĩa là khi giao-tiếp với tha-nhân, ta phải giữ lễ và tôn-trọng ý-kiến của họ.
Khi đã nhận làm việc gì, ta phải chú-tâm để làm cho bằng được. Khi đã hứa với ai điều gì, ta phải giữ lời và nếu vì lẽ gì không giữ được lời đã hứa, ta phải thông-báo kịp thời để người ta tìm người khác thay thế.
Đã có quan-niệm cho là người Việt mình quá nhiều tự-ái và thiếu chân-thành. Trong thực- tế, nhận-xét này rất đúng. Chính vì lẽ đó, muốn thành-công và giúp ích cho dân cho nước, ta phải bớt tự-ái và thêm chân-thành. Chân-thành là nghĩa là duyên, Bớt phần tự-ái tạo nên thân tình (thơ Khải Chính). Sự chân-thành phải coi là nòng-cốt vì có chân-thành mới có tín. Tín là báu-vật của cả nhân- loại. Không có tín, con người sẽ biến thành kẻ bất-lương và là hạng sâu-dân mọt-nước. Khi làm việc, ta phải cẩn-trọng và chân-thành, tức là có tín, thì mọi việc sẽ thành-công. Muốn thế, khi làm một công việc gì, ta phải có kế-hoạch thi-hành, đôn-đốc, và kiểm-soát trong tinh-thần cộng-tác, tương-kính, khoa-học, và dân-chủ.
Có cẩn-trọng và có tín thì ta mới có thể làm việc ích-quốc lợi-dân được. Ở Bắc-Mỹ này nếu ta bị coi là người "no trust," tức là kẻ bất-tín, thì không thể nào tiến-thân được và suốt đời phải sống trong sự khinh-khi của người đời.
- Phải Học Sao Có Được Lòng Từ-Ái, Khoan-Dung, và Độ-Lượng.
Đạo Phật coi trọng các hạnh "đại-từ ,đại-bi, đại-hỷ, đại-xậu" Đại-từ là lòng hiền-lành lớn nhằm đem lại niềm-vui cho tất-cả chúng-sinh, đại-bi là lòng thương-xót lớn nhằm cứu-khổ cho tất cả chúng-sinh, đại-hỷ là tạo sự vui-vẻ với tất-cả chúng-sinh, và đại-xả là đem tất-cả mọi sự vui thích của mình mà thí cho người khác.
Đạo Thiên-Chúa coi trọng đức "bác-ái" Bác-ái là yêu thương tất-cả mọi người mọi vật và giúp ích cho đời, yêu người như yêu mình và yêu cả kẻ thù.
Khổng-Giáo coi trọng lòng "nhân" Nhân là tính tốt ở trong lòng mà trời đã phú sẵn cho ta, đó là cái lòng tốt của con người. Lòng nhân là điều cốt-yếu giúp ta để trở thành con người vì nếu con người đã bất-nhân thì không còn phải là con người nữa mà là con vật! Ngoài ra, Khổng Tử còn nói: "Khắc kỷ phục lễ vi nhận" Điều này có nghĩa là bỏ hết cái bệnh tư-dục của mình là khắc-kỷ, hồi-phục được chân-lý của trời là phục lễ, đó là nhân. Nói tóm-lại, nhân là lòng thương yêu và kính-trọng người.
Phật-Giáo,Thiên-Chúa-Giáo, và Khổng-Giáo đều dậy ta tấm lòng yêu thương tha-nhân, khoan-dung độ-lượng với mọi người, và ăn ở phải có lòng nhân. Ta phải sáng-suốt để gần-gũi người có nhân
"Khoan- dung độ-lượng" có nghĩa là tha-thứ và thương yêu mọi người khi họ vô-ý vướng phải lỗi-lầm.
-[b] Phải Học Sao Để Lập-Chí. Khi muốn làm việc gì, ta quyết-định làm cho bằng được, đó là chí. Người xưa thường nói: "Hữu chí giả, sự cánh thành (người đã có chí thì việc chắc phải nên); có chí thì nên; có chí làm quan, có gan làm giàu; làm trai chí ở cho bền, chớ lo muộn vợ, chớ phiền muộn con; làm trai có chí lập-thân, rồi ra gặp hội phong-vân có ngày; làm trai quyết-chí tang-bồng, sao cho tỏ mặt anh-hùng mới cạm" Vậy chí là cái lòng muốn làm và quyết-định làm một việc gì cho đến thành-công mới thôi. Ta phải học-tập làm sao để thực-hiện được "lòng muốn và quyết-định" này mỗi khi ta bắt tay vào làm một công-việc gì. Có như thế thì mọi việc ta theo-đuổi mới thành-công tốt đẹp.
Khi đã có hiếu, đễ, cẩn-trọng, chân-thành, từ-ái, khoan-dung độ-lượng, và lập được chí thì cái học của ta mới toàn-vẹn. Tuy-nhiên, cuộc đời vẫn có nhiều ngoại-lệ, nhất là ở thời nay. Hoàn-cảnh và dòng-giống cũng có ảnh-hưởng đến sự hiểu-biết và sự lập-nghiệp của con người. Xưa cũng như nay, vẫn có người lập-nghiệp và tự-lập được ở cái tuổi hai mươi và có người còn sớm hơn nữa. Tuy nhiên, vẫn có nhiều người ở ngoài cái tuổi 30 mà vẫn không lập-nghiệp và tự-lập được.
Cùng một trình-độ học-vấn mà ở mỗi tuổi người ta hiểu sự-vật một khác. Cùng một tác-phẩm mà mỗi lần đọc lại, ta lại hiểu kỹ hơn. Cuộc sống và sự học-hỏi giúp ta hiểu đời càng ngày càng kỹ hơn. Chính vì thế mà đến tuổi 60, nếu đã có kiến-văn và kinh-nghiệm vững-vàng thì mỗi khi thấy sự việc gì dù trái hay phải, dù thiện hay ác, dù sướng hay khổ, ta cũng không lấy gì làm ngạc-nhiên. Bởi thế cái tuổi 60 mươi mới được gọi là tuổi "nhi nhĩ thuận" Đến tuổi 70, nếu ta có kiến-văn quảng-bác, kinh-nghiệm chín-chắn, và sở-học uyên-thâm thì mọi việc ta suy-nghĩ, phát-biểu, hay làm đều theo dúng với lương-tâm cùng khuôn-khổ của đạo-lý. Bởi thế, cái tuổi 70 mới được gọi là tuổi "tùng tâm sở dục bất du cụ"
III. Kết-Luận
Không phải cứ có nhiều tuổi ta mới thông-minh tài giỏi. Thông-minh có thể do nòi-giống và sự bẩm-sinh mà có. Người xưa thường cho là "lão ô bách tuế không bằng phượng hoàng sơ sinh" (con quạ già trăm tuổi không bằng chim phượng-hoàng mới sinh ra) hay "hậu sinh khả uý" là vậy. Tuy nhiên, kiến-thức và kinh-nghiệm phải do học-hỏi mới thành. Tuổi đời cộng thêm việc học-hỏi và từng-trải mới đạt được các trình-độ "tam thập nhi lập, tứ thập nhi bất hoặc, ngũ thập nhi tri thiên mệnh, lục thập nhi nhĩ thuận, và thất thập nhi tùng tâm sở dục bất du cụ" Ta cần phải chú tâm vào việc học ngay từ khi còn trẻ và tiếp-tục học mãi cho đến già. Việc học phải bao-gồm từ sự bắt-chước, trau-giồi kiến-thức, nghiên-cứu, áp-dụng, thực-hành, đến việc học làm người. Ngoài ra, ta phải cố-gắng và có quyết-tâm học-hỏi thì mới mong đạt tới trình-độ từ "tam thập nhi lập" đến "tùng tâm sở dục bất du củ" một cách đúng nghĩa của nó được
© http://vietsciences.free.fr KCPKT
Khổng-Tử đã kể lại các giai-đoạn thành-đạt của cuộc đời ngài như sau: "Ngô thập hữu ngũ nhi chí vu học, tam thập nhi lập, tứ thập nhi bất hoặc, ngũ thập nhi tri thiên-mệnh, lục thập nhi nhĩ thuận, và thất thập nhi tùng tâm sở dục bất du củ" (Ta tới mười lăm tuổi mới chuyên-chú vào việc học, ba mươi tuổi mới tự-lập, bốn mươi tuổi mới thấu-hiểu hết sự lý trong thiên-hạ, năm mươi tuổi mới biết mệnh trời, sáu mươi tuổi mới có kiến-thức và kinh-nghiệm hoàn-hảo để có thể phán-đoán ngay được mọi sự-lý và nhân-vật mà không thấy có điều gì chướng-ngại khi nghe được, và bảy mươi tuổi mới có thể nói hay làm những điều đúng theo ý-muốn của lòng mình mà không ra ngoài khuôn-khổ đạo-lý).
Trong lời phát-biểu trên, Đức Khổng-Tử có ý nói rằng con người tới một lứa tuổi nào đó mới có khả-năng nhận-thức và thực-hành những điều mà người chưa đạt đến lứa tuổi đó thì chưa nhận-thức và thực-hành được. Để giúp các bạn trẻ hiểu rõ trọn-vẹn ý-nghĩa lời phát-biểu của Khổng-Tử trên đây, chúng tôi xin bàn về từng phần của lời phát-biểu này.
1- Ngô Thập Hữu Ngũ Nhi Chí Vu Học
Trong câu "ngô thập hữu ngũ nhi chí vu học," chúng tôi thấy có mấy chữ cần phải được giải-thích để giúp các bạn trẻ hiểu cho rõ. Chữ "hữu" có nghĩa là "thêm" (thập hữu ngũ: mười thêm năm, tức là 15), chữ "chí" có nghĩa là "để hết tâm ý," và chữ "vu" có nghĩa là "đối với" Cả câu "ngô thập hữu ngũ nhi chí vu học" có nghĩa là khi tới 15 tuổi, ta mới có thể tự-mình chuyên-tâm vào việc học. Có biết như thế, các bậc cha mẹ mới không buồn-phiền khi thấy các con mình mải chơi đùa và không chịu chuyên tâm học-hành trước khi chúng chưa tới lứa tuổi 15. Và cũng nhờ đó, các bậc cha mẹ mới đem hết kiên-nhẫn, kỹ-năng, và nghệ-thuật để chăm-nom săn-sóc cho các con mình ngay từ khi chúng còn nhỏ (trước 15 tuổi) hầu giúp chúng thành-công trong việc học.
2- Tam Thập Nhi Lập
"Tam thập nhi lập" có nghĩa là khi người ta tới 30 tuổi thì sức tự-lập mới có thể chắc-chắn và vững-vàng. Thực vậy, khi đạt tới 30 tuổi, con người có thể tự-lập và gây-dựng nên sự-nghiệp cho mình với điều-kiện là họ phải có chí tự-lập cũng như được cha mẹ săn-sóc và giáo-dục chu đáo. Chí tự-lập của con người giữ vai-trò quyết-định trong việc tự-ập. Trong thực-tế đã có nhiều người tự-lập từ trước lứa tuổi 30 và cũng có người không tự-lập được ở ngoài lứa tuổi 30. Đây là trường-hợp của những người có chí tư- lập hay không. Nếu không có chí tự-lập thì dù cha mẹ có săn-sóc và giáo-dục cũng vẫn không tự-lập được. Họ là những người ăn bám gia-đình và xã-hội.
3- Tứ Thập Nhi Bất Hoặc
"Tứ thập nhi bất hoặc" có nghĩa là khi người ta tới 40 tuổi mới có thể hiểu thấu mọi sự-lý trong thiên-hạ, phân biệt được việc phải hay trái cũng như hiểu được ai là người tốt hay xấu, phân biệt được những ai là người chân-chính yêu nước thương nòi và biết được cái gì nên làm hay không. Không phải người nào ở cái tuổi 40 cũng được như vậy. Muốn đạt tới trình độ "nhi bất hoặc," con người phải được giáo-dục kỹ-lưỡng và tự mình cố công học-hỏi chuyên-cần ngay từ khi còn nhỏ.
4- Ngũ Thập Nhi Tri Thiên-Mệnh
"Ngũ thập nhi tri thiên-mệnh" có nghĩa là khi người ta tới 50 tuổi mới có thể thông-suốt chân- lý của tạo-hoá, tức là hiểu được mệnh của trời. Không phải bất cứ ai tới 50 tuổi là đạt được trình-độ "tri thiện-mệnh" Muốn đạt được trình độ "tri thiên-mệnh," con người cũng phải có căn-bản vững-vàng về giáo-dục, kiến-văn, và kinh-nghiệm sống.
5- Lục Thập Nhi Nhĩ-Thuận
"Lục thập nhi nhĩ-thuận" có nghĩa là khi người ta tới 60 tuổi thì mới đạt đến mức độ hoàn-hảo về mặt tri-hành, kiến-văn, và kinh-nghiệm về cuộc sống. Nhờ đó, người ta có thể nhận-xét và phán- đoán được ngay tức-khắc và chính-xác về các sự-kiện và nhân-vật trong thiên-hạ. Khi nhìn hay nghe thấy điều gì, người ta không những không cảm thấy chướng-ngại mà còn hiểu thấu ngay mọi lẽ. Không phải tự-nhiên mà ta đạt được trình-độ "nhi nhĩ thuận" Muốn đạt được trình-độ này, con người cũng phải có căn-bản giáo-dục, đạo-đức, kiến-văn, và kinh-nghiệm từng-trải về sự đời.
6- Thất Thập Nhi Tùng Tâm Sở Dục Bất Du Củ
"Thất thập nhi tùng tâm sở dục bất du củ" có nghĩa là tới 70 tuổi, con người sẽ đạt đến tình- trạng rất hoàn-hảo về cách xử-sự và xử-thế. Nhờ đó mà mỗi khi người ta định nói điều gì hay làm việc gì thì tự-nhiên thể-hiện đúng với chủ tâm của lòng mình, muốn sao được vậy, và không bao giờ vượt ra khỏi khuôn-khổ của đạo-lý hay lẽ thường. Đây là trình-độ tuyệt-hảo của con người ở vào tuổi từ 70 trở lên nếu trước đó họ được giáo-dục đúng cách, tự tìm tòi học-hỏi, có kiến-văn quảng-bác, có tu-tâm dưỡng-tánh, và đã từng-trải cũng như rút được ưu khuyết-điểm trong các kinh-nghiệm về nỗi ê-chề đớn-đau của cuộc đời.
Tuy rằng Khổng-Tử đã trình bày về những lứa tuổi cuộc đời cụ-thể của ngài như đã nói ở trên, chúng ta phải hiểu rằng đây cũng là ý của ngài muốn nói về từng giai-đoạn tác-thành-của các lứa tuổi cuộc đời con người. Muốn đạt tới khả-năng nhận-thức và thực-hành ở mỗi lứa tuổi như đã đề-cập ở trên, người ta phải được giáo-dục và tự mình chuyên-tâm vào việc học-hỏi liên-tục ngay từ khi còn trẻ, tức là từ trước khi tới lứa tuổi 15 và tiếp-tục cho tới 70 tuổi, để trau-giồi kiến-văn, đạo-đức, và rút-tỉa kinh-nghiệm trong cuộc sống hàng ngày.
Mỗi lứa tuổi 15, 30, 40, 50, 60, và 70 thể-hiện kết-quả của việc giáo-dục trong gia-đình và học-đường cùng kiến-văn có được qua sự học-hỏi ở trường đời. Nếu không được giáo-dục đúng cách và nếu không biết tự tu tâm dưỡng tánh, tự trau-giồi kiến-văn cho hoàn-hảo, và tự rút tỉa kinh-nghiệm trường đời thì con người giống như "ông bình vôi," càng sống lâu càng ngu và càng làm hại dân hại nước dù rằng có bằng cấp cao đến thế nào đi nữa.
Có tuổi là một việc, nếu không được giáo-dục đúng cách và không tự trau-giồi kiến-văn cùng kinh-nghiệm sống thì dù tới 30 tuổi, 40 tuổi, 50 tuổi, 60 tuổi, hay 70 tuổi đi nữa, người ta cũng không có sức tự-lập, không hiểu hết sự lý, không biết được mệnh trời, không thông-suốt mọi lẽ, và không thể làm chủ được hành-động và tư-tưởng của mình nhiên-hậu sẽ vượt ra ngoài khuôn khổ đạo lý. Việc quan- trọng nhất là nếu đã tới 30 tuổi mà không tự-lập được vững-vàng, ta sẽ gặp nhiều gian-truân chứ đừng nói chi đến việc có thể giúp mình và giúp đời một cách có hiệu-quả được.
II. Việc Học và Trau Giồi Kiến-Văn
1. Học Kinh-Nghiệm Của Người
Muốn lập thân cho đúng nghĩa của nó, các bạn trẻ phải chú-tâm vào việc học. Học không phải có nghĩa là chúng ta chỉ cần cắp sách đến trường và đọc nhiều sách vở để biết chữ nghĩa hay học được một nghề để kiếm nhiều tiền hầu vinh-thân phì-gia là đuViệc học phải gồm đủ mọi mặt và nhiều cách.
Mục-đích của việc học là để thành con người với đúng nghĩa của nó, tức là con người hoàn-hảo, có đạo-đức, và hữu-dụng cho nhà cho nước. Học là noi gương sáng của tiền-nhân và các bậc vĩ-nhân quân-tử, tức là bắt-chước những việc làm ích quốc lợi dân mà các bậc tiền-nhân đã làm. Ngoài ra, chúng ta cũng cần phải bắt-chước những việc làm của các người đồng thời với ta khi việc làm của họ có ý-nghĩa và đáng cho ta học-hỏi và noi theo để cứu-nhân độ-thế.
Cần phải giao-thiệp rộng và lăn-lộn với đời để học kinh-nghiệm sống và trau-giồi kiến-văn cho quảng-bác. Học để phân-biệt được điều phải điều trái. Thấy điều tốt điều phải, ta phải bắt-chước. Thấy điều sai quấy, ta phải tránh. Người khôn là người biết học kinh-nghiệm của người khác, người dại là người chỉ biết học kinh-nghiệm của chính mình.
2. Học Một Biết Mười
Từ những hiểu-biết căn-bản của việc học có được tại học-đường và trong gia-đình, ta có thể nghiên-cứu thêm và nhiên-hậu phát-minh ra những điều mới. Làm sao học một để biết mười, tức là học cách tìm tòi nghiên-cứu, suy-diễn, nhận-xét, và phê-phán. Không nên quá tin vào sách-vở vì sách-vở cũng có nhiều cái sai trái trong đó. Người xưa có nói "Tận tín ư thư bất như vô thư," tức là quá tin vào sách thà đừng có sách còn hơn. Điều này là để cảnh-cáo những người thuộc loại mọt-sách. Đọc sách mà không chịu phân-tích và nhận-xét thì chỉ có hại mà thôi. Thậm-chí có người còn cho là những gì cổ- nhân viết ra để lại cho hậu-thế chỉ là những "tao-phách" (cặn bã) mà thôi. Những người biết cách học- hỏi thì phải coi những "tao-phách" này như là một tài-liệu để nghiên-cứu thêm mà thôi chứ không có thể nào hoàn-toàn tin vào đó được.
3. Học phải Hành
Những điều gì học được phải đem thực-hành để giúp-ích cho đời. Biết mà để đó cũng giống như không biết và cái biết đó là một điều vô-ích. Biết điều phải mà không làm thì cái biết đó chẳng có ích gì cho nhân-quần xã-hội. Hơn-nữa, khi ta học được điều hay mà không đem ra phổ-biến và thực- hành thì cái học của ta cũng mai-một đi. Chính vì thế mà việc học ở các nước tân-tiến đều đi từ kiến- thức tới thí-nghiệm, trắc-nghiệm, áp-dụng, rồi thi-hành, và cuối cùng lượng-giá cùng rút ưu-khuyết- điểm để cải-tiến hầu giúp-ích cho đời-sống con người tốt đẹp hơn.
4. Học để Làm Người
Đây là cái học quan-trọng nhất. Cái học của Á-Đông chúng ta chú-trọng tới việc xây-dựng con người toàn-diện về kiến-thức cũng như về đạo-đức. Cái học của Tây-Âu chú-trọng về mặt chuyên-môn để đào-tạo các chuyên-gia hơn là đào-tạo con người. Tuổi trẻ Việt-Nam ở hải-ngoại đã có lõi-cốt của cái học Á-Đông ta, nay lại được học thêm cái tinh-tuý về khoa-học kỹ-thuật Tây-Âu thì thật là điều tuyệt-diệu. Học để có kiến-thức và chuyên-môn cao thì dễ, nhưng muốn học để làm người, con người toàn-diện, thì rất khó. Chính vì thế mà các bạn trẻ cần phải chú-ý các mặt sau để việc học của ta thêm hoàn-hảo:
- Ở trong Gia-Đình Phải Học sao để Làm Người Con Hiếu-Thảo.
"Hiếu-Thảo" là rường- mối của mọi nết ăn-ở trên đời. Cha mẹ là người sinh ra mình, săn-sóc và nuôi-nấng mình rất vất-vả, và còn lo giáo-dục cho mình nên người tử-tế nữa. Công-đức ấy kể sao cho xiết được! Chính vì thế mà con cái phải biết kính-yêu và biết ơn cha mẹ. Lúc nhỏ, con cái chỉ cần thể-hiện lòng biết ơn cha mẹ bằng cách vâng-lời cha mẹ, chăm-chỉ học-hành, và yêu mến cha mẹ. Khi lớn lên, con cái thể-hiện sự biết ơn cha mẹ bằng cách hết lòng phụng-dưỡng mẹ cha, ân-cần săn-sóc cha mẹ, kính-trọng cha mẹ, và giúp-đỡ cha mẹ mổi khi cha mẹ cần đến. Có được như thế thì con cái mới được gọi là người con có hiếu và mới được gọi là người có giáo-dục. Nếu làm trái các điều này, ta là người con bất-hiếu. Con người đã mang tội bất-hiếu thì chắc-chắn họ chỉ là kẻ sâu-dân mọt-nước.
Học Sao để Có Đễ với Anh Chị Em của Mình.
"Đễ" có nghĩa là kính yêu, thương yêu, và hoà-thuận đối với anh chị em. Nói một cách khác, đối-xử tử-tế, hợp đạo-lý, và giữ trọn tình-nghĩa trước sau với anh chị em đều được gọi là "đễ" Có đễ thì anh chị em mới hoà, đồng-bào mới thương yêu nhau, và nhiên-hậu xã-hội mới thịnh-vượng.
- Học sao để Đạt Được Đức-Tính Cẩn-Trọng và Chân-Thành
Khi làm việc gì và khi tiếp- đãi ai, "cẩn-trọng" là điều ta phải chú tâm. Điều này có nghĩa là khi giao-tiếp với tha-nhân, ta phải giữ lễ và tôn-trọng ý-kiến của họ.
Khi đã nhận làm việc gì, ta phải chú-tâm để làm cho bằng được. Khi đã hứa với ai điều gì, ta phải giữ lời và nếu vì lẽ gì không giữ được lời đã hứa, ta phải thông-báo kịp thời để người ta tìm người khác thay thế.
Đã có quan-niệm cho là người Việt mình quá nhiều tự-ái và thiếu chân-thành. Trong thực- tế, nhận-xét này rất đúng. Chính vì lẽ đó, muốn thành-công và giúp ích cho dân cho nước, ta phải bớt tự-ái và thêm chân-thành. Chân-thành là nghĩa là duyên, Bớt phần tự-ái tạo nên thân tình (thơ Khải Chính). Sự chân-thành phải coi là nòng-cốt vì có chân-thành mới có tín. Tín là báu-vật của cả nhân- loại. Không có tín, con người sẽ biến thành kẻ bất-lương và là hạng sâu-dân mọt-nước. Khi làm việc, ta phải cẩn-trọng và chân-thành, tức là có tín, thì mọi việc sẽ thành-công. Muốn thế, khi làm một công việc gì, ta phải có kế-hoạch thi-hành, đôn-đốc, và kiểm-soát trong tinh-thần cộng-tác, tương-kính, khoa-học, và dân-chủ.
Có cẩn-trọng và có tín thì ta mới có thể làm việc ích-quốc lợi-dân được. Ở Bắc-Mỹ này nếu ta bị coi là người "no trust," tức là kẻ bất-tín, thì không thể nào tiến-thân được và suốt đời phải sống trong sự khinh-khi của người đời.
- Phải Học Sao Có Được Lòng Từ-Ái, Khoan-Dung, và Độ-Lượng.
Đạo Phật coi trọng các hạnh "đại-từ ,đại-bi, đại-hỷ, đại-xậu" Đại-từ là lòng hiền-lành lớn nhằm đem lại niềm-vui cho tất-cả chúng-sinh, đại-bi là lòng thương-xót lớn nhằm cứu-khổ cho tất cả chúng-sinh, đại-hỷ là tạo sự vui-vẻ với tất-cả chúng-sinh, và đại-xả là đem tất-cả mọi sự vui thích của mình mà thí cho người khác.
Đạo Thiên-Chúa coi trọng đức "bác-ái" Bác-ái là yêu thương tất-cả mọi người mọi vật và giúp ích cho đời, yêu người như yêu mình và yêu cả kẻ thù.
Khổng-Giáo coi trọng lòng "nhân" Nhân là tính tốt ở trong lòng mà trời đã phú sẵn cho ta, đó là cái lòng tốt của con người. Lòng nhân là điều cốt-yếu giúp ta để trở thành con người vì nếu con người đã bất-nhân thì không còn phải là con người nữa mà là con vật! Ngoài ra, Khổng Tử còn nói: "Khắc kỷ phục lễ vi nhận" Điều này có nghĩa là bỏ hết cái bệnh tư-dục của mình là khắc-kỷ, hồi-phục được chân-lý của trời là phục lễ, đó là nhân. Nói tóm-lại, nhân là lòng thương yêu và kính-trọng người.
Phật-Giáo,Thiên-Chúa-Giáo, và Khổng-Giáo đều dậy ta tấm lòng yêu thương tha-nhân, khoan-dung độ-lượng với mọi người, và ăn ở phải có lòng nhân. Ta phải sáng-suốt để gần-gũi người có nhân
"Khoan- dung độ-lượng" có nghĩa là tha-thứ và thương yêu mọi người khi họ vô-ý vướng phải lỗi-lầm.
-[b] Phải Học Sao Để Lập-Chí. Khi muốn làm việc gì, ta quyết-định làm cho bằng được, đó là chí. Người xưa thường nói: "Hữu chí giả, sự cánh thành (người đã có chí thì việc chắc phải nên); có chí thì nên; có chí làm quan, có gan làm giàu; làm trai chí ở cho bền, chớ lo muộn vợ, chớ phiền muộn con; làm trai có chí lập-thân, rồi ra gặp hội phong-vân có ngày; làm trai quyết-chí tang-bồng, sao cho tỏ mặt anh-hùng mới cạm" Vậy chí là cái lòng muốn làm và quyết-định làm một việc gì cho đến thành-công mới thôi. Ta phải học-tập làm sao để thực-hiện được "lòng muốn và quyết-định" này mỗi khi ta bắt tay vào làm một công-việc gì. Có như thế thì mọi việc ta theo-đuổi mới thành-công tốt đẹp.
Khi đã có hiếu, đễ, cẩn-trọng, chân-thành, từ-ái, khoan-dung độ-lượng, và lập được chí thì cái học của ta mới toàn-vẹn. Tuy-nhiên, cuộc đời vẫn có nhiều ngoại-lệ, nhất là ở thời nay. Hoàn-cảnh và dòng-giống cũng có ảnh-hưởng đến sự hiểu-biết và sự lập-nghiệp của con người. Xưa cũng như nay, vẫn có người lập-nghiệp và tự-lập được ở cái tuổi hai mươi và có người còn sớm hơn nữa. Tuy nhiên, vẫn có nhiều người ở ngoài cái tuổi 30 mà vẫn không lập-nghiệp và tự-lập được.
Cùng một trình-độ học-vấn mà ở mỗi tuổi người ta hiểu sự-vật một khác. Cùng một tác-phẩm mà mỗi lần đọc lại, ta lại hiểu kỹ hơn. Cuộc sống và sự học-hỏi giúp ta hiểu đời càng ngày càng kỹ hơn. Chính vì thế mà đến tuổi 60, nếu đã có kiến-văn và kinh-nghiệm vững-vàng thì mỗi khi thấy sự việc gì dù trái hay phải, dù thiện hay ác, dù sướng hay khổ, ta cũng không lấy gì làm ngạc-nhiên. Bởi thế cái tuổi 60 mươi mới được gọi là tuổi "nhi nhĩ thuận" Đến tuổi 70, nếu ta có kiến-văn quảng-bác, kinh-nghiệm chín-chắn, và sở-học uyên-thâm thì mọi việc ta suy-nghĩ, phát-biểu, hay làm đều theo dúng với lương-tâm cùng khuôn-khổ của đạo-lý. Bởi thế, cái tuổi 70 mới được gọi là tuổi "tùng tâm sở dục bất du cụ"
III. Kết-Luận
Không phải cứ có nhiều tuổi ta mới thông-minh tài giỏi. Thông-minh có thể do nòi-giống và sự bẩm-sinh mà có. Người xưa thường cho là "lão ô bách tuế không bằng phượng hoàng sơ sinh" (con quạ già trăm tuổi không bằng chim phượng-hoàng mới sinh ra) hay "hậu sinh khả uý" là vậy. Tuy nhiên, kiến-thức và kinh-nghiệm phải do học-hỏi mới thành. Tuổi đời cộng thêm việc học-hỏi và từng-trải mới đạt được các trình-độ "tam thập nhi lập, tứ thập nhi bất hoặc, ngũ thập nhi tri thiên mệnh, lục thập nhi nhĩ thuận, và thất thập nhi tùng tâm sở dục bất du cụ" Ta cần phải chú tâm vào việc học ngay từ khi còn trẻ và tiếp-tục học mãi cho đến già. Việc học phải bao-gồm từ sự bắt-chước, trau-giồi kiến-thức, nghiên-cứu, áp-dụng, thực-hành, đến việc học làm người. Ngoài ra, ta phải cố-gắng và có quyết-tâm học-hỏi thì mới mong đạt tới trình-độ từ "tam thập nhi lập" đến "tùng tâm sở dục bất du củ" một cách đúng nghĩa của nó được
© http://vietsciences.free.fr KCPKT
214 BỘ THỦ HÁN TỰ 漢 字 部 首 表
214 BỘ THỦ HÁN TỰ 漢 字 部 首 表
1 筆
1. 一 nhất
2. 〡 cổn
3. 丶 chủ
4. 丿 phiệt
5. 乙 ất
6. 亅 quyết
2 筆
7. 二 nhị
8. 亠 đầu
9. 人 nhân (亻)
10. 儿 nhân
11. 入 nhập
12. 八 bát
13. 冂 quynh
14. 冖 mịch
15. 冫 băng
16. 几 kỷ
17. 凵 khảm
18. 刀 đao (刂)
19. 力 lực
20. 勹 bao
21. 匕 chủy
22. 匚 phương
23. 匚 hệ
24. 十 thập
25. 卜 bốc
26. 卩 tiết
27. 厂 hán
28. 厶 khư
29. 又 hựu
3 筆
30. 口 khẩu
31. 囗 vi
32. 土 thổ
33. 士 sĩ
34. 夂 trĩ
35. 夊 tuy
36. 夕 tịch
37. 大 đại
38. 女 nữ
39. 子 tử
40. 宀 miên
41. 寸 thốn
42. 小 tiểu
43. 尢 uông
44. 尸 thi
45. 屮 triệt
46. 山 sơn
47. 巛 xuyên
48. 工 công
49. 己 kỷ
50. 巾 cân
51. 干 can
52. 幺yêu
53. 广 nghiễm
54. 廴 dẫn
55. 廾 củng
56. 弋 dặc
57. 弓 cung
58. 彐 kệ
59. 彡 sam
60. 彳 xích
忄 tâm 61
扌 thủ 64
氵 thủy 85
犭 khuyển 94
艹 thảo 140
辶 sước 162
阝+ ấp 163
阝- phụ 170
4 筆
61. 心 tâm (忄)
62. 戈 qua
63. 戶 hộ
64. 手 thủ (扌)
65. 支 chi
66. 攴 phộc (攵)
67. 文 văn
68. 斗 đẩu
69. 斤 cân
70. 方 phương
71. 无 vô
72. 日 nhật
73. 曰 viết
74. 月 nguyệt
75. 木 mộc
76. 欠 khiếm
77. 止 chỉ
78. 歹 đãi
79. 殳 thù
80. 毋 vô
81. 比 tỷ
82. 毛 mao
83. 氏 thị
84. 气 khí
85. 水 thuỷ (氵)
86. 火 hỏa (灬)
87. 爪 trảo
88. 父 phụ
89. 爻 hào
90. 爿 tường
91. 片 phiến
92. 牙 nha
93. 牛 ngưu
94. 犬 khuyển (犭)
王 ngọc 96
匹 thất 103
礻 kỳ 113
月 nhục 130
艹 thảo 140
辶 sước 162
5 筆
95. 玄 huyền
96. 玉 ngọc
97. 瓜 qua
98. 瓦 ngoã
99. 甘 cam
100. 生 sinh
101. 用 dụng
102. 田 điền
103. 疋 thất (匹 )
104. 疒 nạch
105. 癶 bát
106. 白 bạch
107. 皮 bì
108. 皿 mãnh
109. 目 mục
110. 矛 mâu
111. 矢 thỉ
112. 石 thạch
113. 示 thị; kỳ
114. 禸 nhựu
115. 禾 hoà
116. 穴 huyệt
117. 立 lập
衤 y 145
6 筆
118. 竹 trúc
119. 米 mễ
120. 糸 mịch
121. 缶 phẫu
122. 网 võng
123. 羊 dương
124. 羽 vũ
125. 老 lão
126. 而 nhi
127. 耒 lỗi
128. 耳 nhi
129. 聿 duật
130. 肉 nhục (月)
131. 臣 thần
132. 自 tự
133. 至 chí
134. 臼 cữu
135. 舌 thiệt
136. 舛 suyễn
137. 舟 chu
138. 艮 cấn
139. 色 sắc
140. 艸 thảo (艹)
141. 虍 hô
142. 虫 trùng
143. 血 huyết
144. 行 hành
145. 衣 y (衤)
146. 襾 á
7 筆
147. 見 kiến
148. 角 giác
149. 言 ngôn
150. 谷 cốc
151. 豆 đậu
152. 豕 thỉ
153. 豸 trãi
154. 貝 bối
155. 赤 xích
156. 走 tẩu
157. 足 túc
158. 身 thân
159. 車 xa
160. 辛 tân
161. 辰 thần
162. 辵 sước (辶)
163. 邑 ấp (阝+)
164. 酉 dậu
165. 釆 biện
166. 里 lý
8 筆
167. 金 kim
168. 長 trường
169. 門 môn
170. 阜 phụ (阝-)
171. 隶 đãi
172. 隹 truy
173. 雨 vũ
174. 青 thanh
175. 非 phi
9 筆
176. 面 diện
177. 革 cách
178. 韋 vi
179. 韭 phỉ, cửu
180. 音 âm
181. 頁 hiệt
182. 風 phong
183. 飛 phi
184. 食 thực
185. 首 thủ
186. 香 hương
10 筆
187. 馬 mã
188. 骨 cốt
189. 高 cao
190. 髟 bưu
191. 鬥 đấu
192. 鬯 sưởng
193. 鬲 cách
194. 鬼 quỉ
11 筆
195. 魚 ngư
196. 鳥 điểu
197. 鹵 lỗ
198. 鹿 lộc
199. 麥 mạch
200. 麻 ma
12 筆
201. 黃 hoàng
202. 黍 thử
203. 黑 hắc
204. 黹 chỉ
13 筆
205. 黽 mãnh
206. 鼎 đỉnh
207. 鼓 cổ
208. 鼠 thử
14 筆
209. 鼻 tỵ
210. 齊 tề
15 筆
211. 齒 xỉ
16 筆
212. 龍 long
213. 龜 quy
17 筆
214. 龠 dược
㊣
Ý NGHĨA 214 BỘ THỦ
Bộ thủ là một yếu tố quan trọng của Hán tự, giúp việc tra cứu Hán tự tương đối dễ dàng vì nhiều chữ được gom thành nhóm có chung một bộ thủ. Từ đời Hán, Hứa Thận 許慎 phân loại chữ Hán thành 540 nhóm hay còn gọi là 540 bộ. Thí dụ, những chữ 論 , 謂 , 語 đều liên quan tới ngôn ngữ, lời nói, đàm luận v.v... nên được xếp chung vào một bộ, lấy bộ phận 言 (ngôn) làm bộ thủ (cũng gọi là «thiên bàng» 偏旁). Đến đời Minh, Mai Ưng Tộ 梅膺祚 xếp gọn lại còn 214 bộ thủ và được dùng làm tiêu chuẩn cho đến nay. Phần lớn các bộ thủ của 214 bộ đều là chữ tượng hình và hầu như dùng làm bộ phận chỉ ý nghĩa trong các chữ theo cấu tạo hình thanh (hay hài thanh). Mỗi chữ hình thanh gồm bộ phận chỉ ý nghĩa (hay nghĩa phù 義符 ) và bộ phận chỉ âm (hay âm phù 音符 ). Đa số Hán tự là chữ hình thanh, nên tinh thông bộ thủ là một điều kiện thuận lợi tìm hiểu hình-âm-nghĩa của Hán tự. Phần sau đây giải thích ý nghĩa 214 bộ, trình bày như sau:
Số thứ tự – tự dạng & biến thể – âm Hán Việt – âm Bắc Kinh – mã Unicode – ý nghĩa.
1. 一 nhất (yi) 4E00= số một
2. 〡 cổn (kǔn) 4E28= nét sổ
3. 丶 chủ (zhǔ) 4E36= điểm, chấm
4. 丿 phiệt (piě) 4E3F= nét sổ xiên qua trái
5. 乙 ất (yī) 4E59= vị trí thứ 2 trong thiên can
6. 亅 quyết (jué) 4E85= nét sổ có móc
7. 二 nhị (ér) 4E8C= số hai
8. 亠 đầu (tóu) 4EA0= (không có nghĩa)
9. 人 nhân (rén) 4EBA (亻4EBB)= người
10. 儿 nhân (rén) 513F= người
11. 入 nhập (rù) 5165= vào
12. 八 bát (bā) 516B= số tám
13. 冂 quynh (jiǒng) 5182= vùng biên giới xa; hoang địa
14. 冖 mịch (mì) 5196= trùm khăn lên
15. 冫 băng (bīng) 51AB= nước đá
16. 几 kỷ (jī) 51E0= ghế dựa
17. 凵 khảm (kǎn) 51F5= há miệng
18. 刀 đao (dāo) 5200 (刂5202)= con dao, cây đao (vũ khí)
19. 力 lực (lì) 529B, F98A= sức mạnh
20. 勹 bao (bā) 52F9= bao bọc
21. 匕 chuỷ (bǐ) 5315= cái thìa (cái muỗng)
22. 匚 phương (fāng) 531A= tủ đựng
23. 匚 hệ (xǐ) 5338= che đậy, giấu giếm
24. 十 thập (shí) 5341= số mười
25. 卜 bốc (bǔ) 535C= xem bói
26. 卩 tiết (jié) 5369= đốt tre
27. 厂 hán (hàn) 5382= sườn núi, vách đá
28. 厶 khư, tư (sī) 53B6= riêng tư
29. 又 hựu (yòu) 53C8= lại nữa, một lần nữa
30. 口 khẩu (kǒu) 53E3= cái miệng
31. 囗 vi (wéi) 56D7= vây quanh
32. 土 thổ (tǔ) 571F= đất
33. 士 sĩ (shì) 58EB= kẻ sĩ
34. 夂 trĩ (zhǐ) 5902= đến ở phía sau
35. 夊 tuy (sūi) 590A= đi chậm
36. 夕 tịch (xì) 5915= đêm tối
37. 大 đại (dà) 5927= to lớn
38. 女 nữ (nǚ) 5973= nữ giới, con gái, đàn bà
39. 子 tử (zǐ) 5B50= con; tiếng tôn xưng: «Thầy», «Ngài»
40. 宀 miên (mián) 5B80= mái nhà mái che
41. 寸 thốn (cùn) 5BF8= đơn vị «tấc» (đo chiều dài)
42. 小 tiểu (xiǎo) 5C0F= nhỏ bé
43. 尢 uông (wāng) 5C22= yếu đuối
44. 尸 thi (shī) 5C38= xác chết, thây ma
45. 屮 triệt (chè) 5C6E= mầm non, cỏ non mới mọc
46. 山 sơn (shān) 5C71= núi non
47. 巛 xuyên (chuān) 5DDB= sông ngòi
48. 工 công (gōng) 5DE5= người thợ, công việc
49. 己 kỷ (jǐ) 5DF1= bản thân mình
50. 巾 cân (jīn) 5DFE= cái khăn
51. 干 can (gān) 5E72= thiên can, can dự
52. 幺 yêu (yāo) 4E61, 5E7A= nhỏ nhắn
53. 广 nghiễm (ān) 5E7F= mái nhà
54. 廴 dẫn (yǐn) 5EF4= bước dài
55. 廾 củng (gǒng) 5EFE= chắp tay
56. 弋 dặc (yì) 5F0B= bắn, chiếm lấy
57. 弓 cung (gōng) 5F13= cái cung (để bắn tên)
58. 彐 kệ (jì) 5F50= đầu con nhím
59 彡 sam (shān) 5F61= lông tóc dài
60. 彳 xích (chì) 5F73= bước chân trái
61. 心 tâm (xīn) 5FC3 (忄 5FC4)= quả tim, tâm trí, tấm lòng
62. 戈 qua (gē) 6208= cây qua (một thứ binh khí dài)
63. 戶 hộ (hù) 6236= cửa một cánh
64. 手 thủ (shǒu) 624B (扌624C)= tay
65. 支 chi (zhī) 652F= cành nhánh
66. 攴 phộc (pù) 6534 (攵6535)= đánh khẽ
67. 文 văn (wén) 6587= văn vẻ, văn chương, vẻ sáng
68. 斗 đẩu (dōu) 6597= cái đấu để đong
69. 斤 cân (jīn) 65A4= cái búa, rìu
70. 方 phương (fāng) 65B9= vuông
71. 无 vô (wú) 65E0= không
72. 日 nhật (rì) 65E5= ngày, mặt trời
73. 曰 viết (yuē) 66F0= nói rằng
74. 月 nguyệt (yuè) 6708= tháng, mặt trăng
75. 木 mộc (mù) 6728= gỗ, cây cối
76. 欠 khiếm (qiàn) 6B20= khiếm khuyết, thiếu vắng
77. 止 chỉ (zhǐ) 6B62= dừng lại
78. 歹 đãi (dǎi) 6B79= xấu xa, tệ hại
79. 殳 thù (shū) 6BB3= binh khí dài
80. 毋 vô (wú) 6BCB= chớ, đừng
81. 比 tỷ (bǐ) 6BD4= so sánh
82. 毛 mao (máo) 6BDB= lông
83. 氏 thị (shì) 6C0F= họ
84. 气 khí (qì) 6C14= hơi nước
85. 水 thuỷ (shǔi) 6C34 (氵6C35)= nước
86. 火 hỏa (huǒ) 706B (灬706C)= lửa
87. 爪 trảo (zhǎo) 722A= móng vuốt cầm thú
88. 父 phụ (fù) 7236= cha
89. 爻 hào (yáo) 723B= hào âm, hào dương (Kinh Dịch)
90. 爿 tường (qiáng) 723F (丬4E2C)= mảnh gỗ, cái giường
91. 片 phiến (piàn) 7247= mảnh, tấm, miếng
92. 牙 nha (yá) 7259= răng
93. 牛 ngưu (níu) 725B, 牜725C= trâu
94. 犬 khuyển (quản) 72AC (犭72AD)= con chó
95. 玄 huyền (xuán) 7384= màu đen huyền, huyền bí
96. 玉 ngọc (yù) 7389= đá quý, ngọc
97. 瓜 qua (guā) 74DC= quả dưa
98. 瓦 ngõa (wǎ) 74E6= ngói
99. 甘 cam (gān) 7518= ngọt
100. 生 sinh (shēng) 751F= sinh đẻ, sinh sống
101. 用 dụng (yòng) 7528= dùng
102. 田 điền (tián) 7530= ruộng
103. 疋 thất (pǐ) 758B ( 匹5339)=đơn vị đo chiều dài, tấm (vải)
104. 疒 nạch (nǐ) 7592= bệnh tật
105. 癶 bát (bǒ) 7676= gạt ngược lại, trở lại
106. 白 bạch (bái) 767D= màu trắng
107. 皮 bì (pí) 76AE= da
108. 皿 mãnh (mǐn) 76BF= bát dĩa
109. 目 mục (mù) 76EE= mắt
110. 矛 mâu (máo) 77DB= cây giáo để đâm
111. 矢 thỉ (shǐ) 77E2= cây tên, mũi tên
112. 石 thạch (shí) 77F3= đá
113. 示 thị; kỳ (shì) 793A (礻793B)= chỉ thị; thần đất
114. 禸 nhựu (róu) 79B8= vết chân, lốt chân
115. 禾 hòa (hé) 79BE= lúa
116. 穴 huyệt (xué) 7A74= hang lỗ
117. 立 lập (lì) 7ACB= đứng, thành lập
118. 竹 trúc (zhú) 7AF9= tre trúc
119. 米 mễ (mǐ) 7C73= gạo
120. 糸 mịch (mì) 7CF8 (糹7CF9, 纟7E9F)= sợi tơ nhỏ
121. 缶 phẫu (fǒu) 7F36= đồ sành
122. 网 võng (wǎng) 7F51 (罒7F52, 罓7F53)= cái lưới
123. 羊 dương (yáng) 7F8A= con dê
124. 羽 vũ (yǚ) FA1E (羽7FBD)= lông vũ
125. 老 lão (lǎo) 8001= già
126. 而 nhi (ér) 800C= mà, và
127. 耒 lỗi (lěi) 8012= cái cày
128. 耳 nhĩ (ěr) 8033= tai (lỗ tai)
129. 聿 duật (yù) 807F= cây bút
130. 肉 nhục (ròu) 8089= thịt
131. 臣 thần (chén) 81E3= bầy tôi
132. 自 tự (zì) 81EA= tự bản thân, kể từ
133. 至 chí (zhì) 81F3= đến
134. 臼 cữu (jiù) 81FC= cái cối giã gạo
135. 舌 thiệt (shé) 820C= cái lưỡi
136. 舛 suyễn (chuǎn) 821B= sai suyễn, sai lầm
137. 舟 chu (zhōu) 821F= cái thuyền
138. 艮 cấn (gèn) 826E= quẻ Cấn (Kinh Dịch); dừng, bền cứng
139. 色 sắc (sè) 8272= màu, dáng vẻ, nữ sắc
140. 艸 thảo (cǎo) 8278 (艹8279)= cỏ
141. 虍 hô (hū) 864D= vằn vện của con hổ
142. 虫 trùng (chóng) 866B= sâu bọ
143. 血 huyết (xuè) 8840= máu
144. 行 hành (xíng) 884C, FA08= đi, thi hành, làm được
145. 衣 y (yī) 8863 (衤8864)= áo
146. 襾 á (yà) 897E, 8980= che đậy, úp lên
147. 見 kiến (jiàn) 898B, FA0A (见89C1)= trông thấy
148. 角 giác (jué) 89D2= góc, sừng thú
149. 言 ngôn (yán) 8A00, 8A01, 8BA0= nói
150. 谷 cốc (gǔ) 8C37= khe nước chảy giữa hai núi, thung lũng
151. 豆 đậu (dòu) 8C46= hạt đậu, cây đậu
152. 豕 thỉ (shǐ) 8C55= con heo, con lợn
153. 豸 trãi (zhì) 8C78= loài sâu không chân
154. 貝 bối (bèi) 8C9D (贝8D1D)=vật báu
155. 赤 xích (chì) 8D64= màu đỏ
156. 走 tẩu (zǒu) 8D70, 赱8D71= đi, chạy
157. 足 túc (zú) 8DB3= chân, đầy đủ
158. 身 thân (shēn) 8EAB= thân thể, thân mình
159. 車 xa (chē) 8ECA, F902 (车8F66)= chiếc xe
160. 辛 tân (xīn) 8F9B= cay
161. 辰 thần (chén) 8FB0, F971=nhật, nguyệt, tinh; thìn (12 chi)
162. 辵 sước (chuò) 8FB5 (辶 8FB6)=chợt bước đi chợt dừng lại
163. 邑 ấp (yì) 9091(阝+ 961D)= vùng đất, đất phong cho quan
164. 酉 dậu (yǒu) 9149= một trong 12 địa chi
165. 釆 biện (biàn) 91C6= phân biệt
166. 里 lý (lǐ) 91CC, F9E9= dặm; làng xóm
167. 金 kim (jīn) 91D1, 91D2, 9485, F90A= kim loại; vàng
168. 長 trường (cháng) 9577 (镸 9578, 长957F)= dài; lớn (trưởng)
169. 門 môn (mén) 9580 (门95E8)= cửa hai cánh
170. 阜 phụ (fù) 961C (阝- 961D)=đống đất, gò đất
171. 隶 đãi (dài) 96B6= kịp, kịp đến
172. 隹 truy, chuy (zhuī) 96B9= chim đuôi ngắn
173. 雨 vũ (yǚ) 96E8= mưa
174. 青 thanh (qīng) 9752 (靑9751)= màu xanh
175. 非 phi (fēi) 975E= không
176. 面 diện (miàn) 9762 (靣9763)= mặt, bề mặt
177. 革 cách (gé) 9769= da thú; thay đổi, cải cách
178. 韋 vi (wéi) 97CB (韦97E6)= da đã thuộc rồi
179. 韭 phỉ, cửu (jiǔ) 97ED= rau phỉ (hẹ)
180. 音 âm (yīn) 97F3= âm thanh, tiếng
181. 頁 hiệt (yè) 9801 (页9875)= đầu; trang giấy
182. 風 phong (fēng) 98A8 (凬51EC, 风98CE)= gió
183. 飛 phi (fēi) 98DB (飞 98DE)= bay
184. 食 thực (shí) 98DF (飠98E0, 饣 9963)= ăn
185. 首 thủ (shǒu) 9996= đầu
186. 香 hương (xiāng) 9999= mùi hương, hương thơm
187. 馬 mã (mǎ) 99AC (马9A6C)= con ngựa
188. 骫 cốt (gǔ) 9AAB= xương
189. 高 cao (gāo) 9AD8, 9AD9= cao
190. 髟 bưu, tiêu (biāo) 9ADF= tóc dài; sam (shān)=cỏ phủ mái nhà
191. 鬥 đấu (dòu) 9B25= chống nhau, chiến đấu
192. 鬯 sưởng (chàng) 9B2F= rượu nếp; bao đựng cây cung
193. 鬲 cách (gé) 9B32=tên một con sông xưa; (lì)= cái đỉnh
194. 鬼 quỷ (gǔi) 9B3C=con quỷ
195. 魚 ngư (yú) 9B5A (鱼9C7C)= con cá
196. 鳥 điểu (niǎo) 9CE5 (鸟9E1F)= con chim
197. 鹵 lỗ (lǔ) 9E75= đất mặn
198. 鹿 lộc (lù) 9E7F, F940= con hươu
199. 麥 mạch (mò) 9EA5 (麦9EA6)= lúa mạch
200. 麻 ma (má) 9EBB= cây gai
201. 黃 hoàng (huáng) 9EC3, 9EC4= màu vàng
202. 黍 thử (shǔ) 9ECD= lúa nếp
203. 黑 hắc (hēi) 9ED1, 9ED2= màu đen
204. 黹 chỉ (zhǐ) 9EF9= may áo, khâu vá
205. 黽 mãnh (mǐn) 9EFD, 9EFE= con ếch; cố gắng (mãnh miễn)
206. 鼎 đỉnh (dǐng) 9F0E= cái đỉnh
207. 鼓 cổ (gǔ) 9F13, 9F14= cái trống
208. 鼠 thử (shǔ) 9F20= con chuột
209. 鼻 tỵ (bí) 9F3B= cái mũi
210. 齊 tề (qí) 9F4A (斉 6589, 齐 9F50)= ngang bằng, cùng nhau
211. 齒 xỉ (chǐ) 9F52 (齿9F7F, 歯 6B6F)= răng
212. 龍 long (lóng) 9F8D, F9C4 (龙 9F99)= con rồng
213. 龜 quy (guī) F907, F908, 9F9C (亀4E80, 龟 9F9F)=con rùa
214. 龠 dược (yuè) 9FA0= sáo 3 lỗ
☸
Theo thống kê của Đại học Yale (trong Dictionary of Spoken Chinese, 1966), các chữ Hán có tần số sử dụng cao nhất thường thường thuộc 50 bộ thủ sau đây:
1. 人 nhân (亻) - bộ 9
2. 刀 đao (刂) - bộ 18
3. 力 lực - bộ 19
4. 口 khẩu - bộ 30
5. 囗 vi - bộ 31
6. 土 thổ - bộ 32
7. 大 đại - bộ 37
8. 女 nữ - bộ 38
9. 宀 miên - bộ 40
10. 山 sơn - bộ 46
11. 巾 cân - bộ 50
12. 广 nghiễm - bộ 53
13. 彳 xích - bộ 60
14. 心 tâm (忄) - bộ 61
15. 手 thủ (扌) - bộ 64
16. 攴 phộc (攵) - bộ 66
17. 日 nhật - bộ 72
18. 木 mộc - bộ 75
19. 水 thuỷ (氵) - bộ 85
20. 火 hoả (灬) - bộ 86
21. 牛 ngưu - bộ 93
22. 犬 khuyển (犭) - bộ 94
23. 玉 ngọc - bộ 96
24. 田 điền - bộ 102
25. 疒 nạch - bộ 104
26. 目 mục - bộ 109
27. 石 thạch - bộ 112
28. 禾 hoà - bộ 115
29. 竹 trúc - bộ 118
30. 米 mễ - bộ 119
31. 糸 mịch - bộ 120
32. 肉 nhục (月 ) - bộ 130
33. 艸 thảo (艹) - bộ 140
34. 虫 trùng - bộ 142
35. 衣 y (衤) - bộ 145
36. 言 ngôn - bộ 149
37. 貝 bối - bộ 154
38. 足 túc - bộ 157
39. 車 xa - bộ 159
40. 辶 sước - bộ 162
41. 邑 ấp阝+ (phải) - bộ 163
42. 金 kim - bộ 167
43. 門 môn - bộ 169
44. 阜 phụ 阝- (trái) - bộ 170
45. 雨 vũ - bộ 173
46. 頁 hiệt - bộ 181
47. 食 thực - bộ 184
48. 馬 mã - bộ 187
49. 魚 ngư - bộ 195
50. 鳥 điểu - bộ 196
Nguồn: Lê Anh Minh, Nam Cực Tinh Toàn Cầu Thông, Nxb Đồng Nai, 2002, tr. 52-62.
1 筆
1. 一 nhất
2. 〡 cổn
3. 丶 chủ
4. 丿 phiệt
5. 乙 ất
6. 亅 quyết
2 筆
7. 二 nhị
8. 亠 đầu
9. 人 nhân (亻)
10. 儿 nhân
11. 入 nhập
12. 八 bát
13. 冂 quynh
14. 冖 mịch
15. 冫 băng
16. 几 kỷ
17. 凵 khảm
18. 刀 đao (刂)
19. 力 lực
20. 勹 bao
21. 匕 chủy
22. 匚 phương
23. 匚 hệ
24. 十 thập
25. 卜 bốc
26. 卩 tiết
27. 厂 hán
28. 厶 khư
29. 又 hựu
3 筆
30. 口 khẩu
31. 囗 vi
32. 土 thổ
33. 士 sĩ
34. 夂 trĩ
35. 夊 tuy
36. 夕 tịch
37. 大 đại
38. 女 nữ
39. 子 tử
40. 宀 miên
41. 寸 thốn
42. 小 tiểu
43. 尢 uông
44. 尸 thi
45. 屮 triệt
46. 山 sơn
47. 巛 xuyên
48. 工 công
49. 己 kỷ
50. 巾 cân
51. 干 can
52. 幺yêu
53. 广 nghiễm
54. 廴 dẫn
55. 廾 củng
56. 弋 dặc
57. 弓 cung
58. 彐 kệ
59. 彡 sam
60. 彳 xích
忄 tâm 61
扌 thủ 64
氵 thủy 85
犭 khuyển 94
艹 thảo 140
辶 sước 162
阝+ ấp 163
阝- phụ 170
4 筆
61. 心 tâm (忄)
62. 戈 qua
63. 戶 hộ
64. 手 thủ (扌)
65. 支 chi
66. 攴 phộc (攵)
67. 文 văn
68. 斗 đẩu
69. 斤 cân
70. 方 phương
71. 无 vô
72. 日 nhật
73. 曰 viết
74. 月 nguyệt
75. 木 mộc
76. 欠 khiếm
77. 止 chỉ
78. 歹 đãi
79. 殳 thù
80. 毋 vô
81. 比 tỷ
82. 毛 mao
83. 氏 thị
84. 气 khí
85. 水 thuỷ (氵)
86. 火 hỏa (灬)
87. 爪 trảo
88. 父 phụ
89. 爻 hào
90. 爿 tường
91. 片 phiến
92. 牙 nha
93. 牛 ngưu
94. 犬 khuyển (犭)
王 ngọc 96
匹 thất 103
礻 kỳ 113
月 nhục 130
艹 thảo 140
辶 sước 162
5 筆
95. 玄 huyền
96. 玉 ngọc
97. 瓜 qua
98. 瓦 ngoã
99. 甘 cam
100. 生 sinh
101. 用 dụng
102. 田 điền
103. 疋 thất (匹 )
104. 疒 nạch
105. 癶 bát
106. 白 bạch
107. 皮 bì
108. 皿 mãnh
109. 目 mục
110. 矛 mâu
111. 矢 thỉ
112. 石 thạch
113. 示 thị; kỳ
114. 禸 nhựu
115. 禾 hoà
116. 穴 huyệt
117. 立 lập
衤 y 145
6 筆
118. 竹 trúc
119. 米 mễ
120. 糸 mịch
121. 缶 phẫu
122. 网 võng
123. 羊 dương
124. 羽 vũ
125. 老 lão
126. 而 nhi
127. 耒 lỗi
128. 耳 nhi
129. 聿 duật
130. 肉 nhục (月)
131. 臣 thần
132. 自 tự
133. 至 chí
134. 臼 cữu
135. 舌 thiệt
136. 舛 suyễn
137. 舟 chu
138. 艮 cấn
139. 色 sắc
140. 艸 thảo (艹)
141. 虍 hô
142. 虫 trùng
143. 血 huyết
144. 行 hành
145. 衣 y (衤)
146. 襾 á
7 筆
147. 見 kiến
148. 角 giác
149. 言 ngôn
150. 谷 cốc
151. 豆 đậu
152. 豕 thỉ
153. 豸 trãi
154. 貝 bối
155. 赤 xích
156. 走 tẩu
157. 足 túc
158. 身 thân
159. 車 xa
160. 辛 tân
161. 辰 thần
162. 辵 sước (辶)
163. 邑 ấp (阝+)
164. 酉 dậu
165. 釆 biện
166. 里 lý
8 筆
167. 金 kim
168. 長 trường
169. 門 môn
170. 阜 phụ (阝-)
171. 隶 đãi
172. 隹 truy
173. 雨 vũ
174. 青 thanh
175. 非 phi
9 筆
176. 面 diện
177. 革 cách
178. 韋 vi
179. 韭 phỉ, cửu
180. 音 âm
181. 頁 hiệt
182. 風 phong
183. 飛 phi
184. 食 thực
185. 首 thủ
186. 香 hương
10 筆
187. 馬 mã
188. 骨 cốt
189. 高 cao
190. 髟 bưu
191. 鬥 đấu
192. 鬯 sưởng
193. 鬲 cách
194. 鬼 quỉ
11 筆
195. 魚 ngư
196. 鳥 điểu
197. 鹵 lỗ
198. 鹿 lộc
199. 麥 mạch
200. 麻 ma
12 筆
201. 黃 hoàng
202. 黍 thử
203. 黑 hắc
204. 黹 chỉ
13 筆
205. 黽 mãnh
206. 鼎 đỉnh
207. 鼓 cổ
208. 鼠 thử
14 筆
209. 鼻 tỵ
210. 齊 tề
15 筆
211. 齒 xỉ
16 筆
212. 龍 long
213. 龜 quy
17 筆
214. 龠 dược
㊣
Ý NGHĨA 214 BỘ THỦ
Bộ thủ là một yếu tố quan trọng của Hán tự, giúp việc tra cứu Hán tự tương đối dễ dàng vì nhiều chữ được gom thành nhóm có chung một bộ thủ. Từ đời Hán, Hứa Thận 許慎 phân loại chữ Hán thành 540 nhóm hay còn gọi là 540 bộ. Thí dụ, những chữ 論 , 謂 , 語 đều liên quan tới ngôn ngữ, lời nói, đàm luận v.v... nên được xếp chung vào một bộ, lấy bộ phận 言 (ngôn) làm bộ thủ (cũng gọi là «thiên bàng» 偏旁). Đến đời Minh, Mai Ưng Tộ 梅膺祚 xếp gọn lại còn 214 bộ thủ và được dùng làm tiêu chuẩn cho đến nay. Phần lớn các bộ thủ của 214 bộ đều là chữ tượng hình và hầu như dùng làm bộ phận chỉ ý nghĩa trong các chữ theo cấu tạo hình thanh (hay hài thanh). Mỗi chữ hình thanh gồm bộ phận chỉ ý nghĩa (hay nghĩa phù 義符 ) và bộ phận chỉ âm (hay âm phù 音符 ). Đa số Hán tự là chữ hình thanh, nên tinh thông bộ thủ là một điều kiện thuận lợi tìm hiểu hình-âm-nghĩa của Hán tự. Phần sau đây giải thích ý nghĩa 214 bộ, trình bày như sau:
Số thứ tự – tự dạng & biến thể – âm Hán Việt – âm Bắc Kinh – mã Unicode – ý nghĩa.
1. 一 nhất (yi) 4E00= số một
2. 〡 cổn (kǔn) 4E28= nét sổ
3. 丶 chủ (zhǔ) 4E36= điểm, chấm
4. 丿 phiệt (piě) 4E3F= nét sổ xiên qua trái
5. 乙 ất (yī) 4E59= vị trí thứ 2 trong thiên can
6. 亅 quyết (jué) 4E85= nét sổ có móc
7. 二 nhị (ér) 4E8C= số hai
8. 亠 đầu (tóu) 4EA0= (không có nghĩa)
9. 人 nhân (rén) 4EBA (亻4EBB)= người
10. 儿 nhân (rén) 513F= người
11. 入 nhập (rù) 5165= vào
12. 八 bát (bā) 516B= số tám
13. 冂 quynh (jiǒng) 5182= vùng biên giới xa; hoang địa
14. 冖 mịch (mì) 5196= trùm khăn lên
15. 冫 băng (bīng) 51AB= nước đá
16. 几 kỷ (jī) 51E0= ghế dựa
17. 凵 khảm (kǎn) 51F5= há miệng
18. 刀 đao (dāo) 5200 (刂5202)= con dao, cây đao (vũ khí)
19. 力 lực (lì) 529B, F98A= sức mạnh
20. 勹 bao (bā) 52F9= bao bọc
21. 匕 chuỷ (bǐ) 5315= cái thìa (cái muỗng)
22. 匚 phương (fāng) 531A= tủ đựng
23. 匚 hệ (xǐ) 5338= che đậy, giấu giếm
24. 十 thập (shí) 5341= số mười
25. 卜 bốc (bǔ) 535C= xem bói
26. 卩 tiết (jié) 5369= đốt tre
27. 厂 hán (hàn) 5382= sườn núi, vách đá
28. 厶 khư, tư (sī) 53B6= riêng tư
29. 又 hựu (yòu) 53C8= lại nữa, một lần nữa
30. 口 khẩu (kǒu) 53E3= cái miệng
31. 囗 vi (wéi) 56D7= vây quanh
32. 土 thổ (tǔ) 571F= đất
33. 士 sĩ (shì) 58EB= kẻ sĩ
34. 夂 trĩ (zhǐ) 5902= đến ở phía sau
35. 夊 tuy (sūi) 590A= đi chậm
36. 夕 tịch (xì) 5915= đêm tối
37. 大 đại (dà) 5927= to lớn
38. 女 nữ (nǚ) 5973= nữ giới, con gái, đàn bà
39. 子 tử (zǐ) 5B50= con; tiếng tôn xưng: «Thầy», «Ngài»
40. 宀 miên (mián) 5B80= mái nhà mái che
41. 寸 thốn (cùn) 5BF8= đơn vị «tấc» (đo chiều dài)
42. 小 tiểu (xiǎo) 5C0F= nhỏ bé
43. 尢 uông (wāng) 5C22= yếu đuối
44. 尸 thi (shī) 5C38= xác chết, thây ma
45. 屮 triệt (chè) 5C6E= mầm non, cỏ non mới mọc
46. 山 sơn (shān) 5C71= núi non
47. 巛 xuyên (chuān) 5DDB= sông ngòi
48. 工 công (gōng) 5DE5= người thợ, công việc
49. 己 kỷ (jǐ) 5DF1= bản thân mình
50. 巾 cân (jīn) 5DFE= cái khăn
51. 干 can (gān) 5E72= thiên can, can dự
52. 幺 yêu (yāo) 4E61, 5E7A= nhỏ nhắn
53. 广 nghiễm (ān) 5E7F= mái nhà
54. 廴 dẫn (yǐn) 5EF4= bước dài
55. 廾 củng (gǒng) 5EFE= chắp tay
56. 弋 dặc (yì) 5F0B= bắn, chiếm lấy
57. 弓 cung (gōng) 5F13= cái cung (để bắn tên)
58. 彐 kệ (jì) 5F50= đầu con nhím
59 彡 sam (shān) 5F61= lông tóc dài
60. 彳 xích (chì) 5F73= bước chân trái
61. 心 tâm (xīn) 5FC3 (忄 5FC4)= quả tim, tâm trí, tấm lòng
62. 戈 qua (gē) 6208= cây qua (một thứ binh khí dài)
63. 戶 hộ (hù) 6236= cửa một cánh
64. 手 thủ (shǒu) 624B (扌624C)= tay
65. 支 chi (zhī) 652F= cành nhánh
66. 攴 phộc (pù) 6534 (攵6535)= đánh khẽ
67. 文 văn (wén) 6587= văn vẻ, văn chương, vẻ sáng
68. 斗 đẩu (dōu) 6597= cái đấu để đong
69. 斤 cân (jīn) 65A4= cái búa, rìu
70. 方 phương (fāng) 65B9= vuông
71. 无 vô (wú) 65E0= không
72. 日 nhật (rì) 65E5= ngày, mặt trời
73. 曰 viết (yuē) 66F0= nói rằng
74. 月 nguyệt (yuè) 6708= tháng, mặt trăng
75. 木 mộc (mù) 6728= gỗ, cây cối
76. 欠 khiếm (qiàn) 6B20= khiếm khuyết, thiếu vắng
77. 止 chỉ (zhǐ) 6B62= dừng lại
78. 歹 đãi (dǎi) 6B79= xấu xa, tệ hại
79. 殳 thù (shū) 6BB3= binh khí dài
80. 毋 vô (wú) 6BCB= chớ, đừng
81. 比 tỷ (bǐ) 6BD4= so sánh
82. 毛 mao (máo) 6BDB= lông
83. 氏 thị (shì) 6C0F= họ
84. 气 khí (qì) 6C14= hơi nước
85. 水 thuỷ (shǔi) 6C34 (氵6C35)= nước
86. 火 hỏa (huǒ) 706B (灬706C)= lửa
87. 爪 trảo (zhǎo) 722A= móng vuốt cầm thú
88. 父 phụ (fù) 7236= cha
89. 爻 hào (yáo) 723B= hào âm, hào dương (Kinh Dịch)
90. 爿 tường (qiáng) 723F (丬4E2C)= mảnh gỗ, cái giường
91. 片 phiến (piàn) 7247= mảnh, tấm, miếng
92. 牙 nha (yá) 7259= răng
93. 牛 ngưu (níu) 725B, 牜725C= trâu
94. 犬 khuyển (quản) 72AC (犭72AD)= con chó
95. 玄 huyền (xuán) 7384= màu đen huyền, huyền bí
96. 玉 ngọc (yù) 7389= đá quý, ngọc
97. 瓜 qua (guā) 74DC= quả dưa
98. 瓦 ngõa (wǎ) 74E6= ngói
99. 甘 cam (gān) 7518= ngọt
100. 生 sinh (shēng) 751F= sinh đẻ, sinh sống
101. 用 dụng (yòng) 7528= dùng
102. 田 điền (tián) 7530= ruộng
103. 疋 thất (pǐ) 758B ( 匹5339)=đơn vị đo chiều dài, tấm (vải)
104. 疒 nạch (nǐ) 7592= bệnh tật
105. 癶 bát (bǒ) 7676= gạt ngược lại, trở lại
106. 白 bạch (bái) 767D= màu trắng
107. 皮 bì (pí) 76AE= da
108. 皿 mãnh (mǐn) 76BF= bát dĩa
109. 目 mục (mù) 76EE= mắt
110. 矛 mâu (máo) 77DB= cây giáo để đâm
111. 矢 thỉ (shǐ) 77E2= cây tên, mũi tên
112. 石 thạch (shí) 77F3= đá
113. 示 thị; kỳ (shì) 793A (礻793B)= chỉ thị; thần đất
114. 禸 nhựu (róu) 79B8= vết chân, lốt chân
115. 禾 hòa (hé) 79BE= lúa
116. 穴 huyệt (xué) 7A74= hang lỗ
117. 立 lập (lì) 7ACB= đứng, thành lập
118. 竹 trúc (zhú) 7AF9= tre trúc
119. 米 mễ (mǐ) 7C73= gạo
120. 糸 mịch (mì) 7CF8 (糹7CF9, 纟7E9F)= sợi tơ nhỏ
121. 缶 phẫu (fǒu) 7F36= đồ sành
122. 网 võng (wǎng) 7F51 (罒7F52, 罓7F53)= cái lưới
123. 羊 dương (yáng) 7F8A= con dê
124. 羽 vũ (yǚ) FA1E (羽7FBD)= lông vũ
125. 老 lão (lǎo) 8001= già
126. 而 nhi (ér) 800C= mà, và
127. 耒 lỗi (lěi) 8012= cái cày
128. 耳 nhĩ (ěr) 8033= tai (lỗ tai)
129. 聿 duật (yù) 807F= cây bút
130. 肉 nhục (ròu) 8089= thịt
131. 臣 thần (chén) 81E3= bầy tôi
132. 自 tự (zì) 81EA= tự bản thân, kể từ
133. 至 chí (zhì) 81F3= đến
134. 臼 cữu (jiù) 81FC= cái cối giã gạo
135. 舌 thiệt (shé) 820C= cái lưỡi
136. 舛 suyễn (chuǎn) 821B= sai suyễn, sai lầm
137. 舟 chu (zhōu) 821F= cái thuyền
138. 艮 cấn (gèn) 826E= quẻ Cấn (Kinh Dịch); dừng, bền cứng
139. 色 sắc (sè) 8272= màu, dáng vẻ, nữ sắc
140. 艸 thảo (cǎo) 8278 (艹8279)= cỏ
141. 虍 hô (hū) 864D= vằn vện của con hổ
142. 虫 trùng (chóng) 866B= sâu bọ
143. 血 huyết (xuè) 8840= máu
144. 行 hành (xíng) 884C, FA08= đi, thi hành, làm được
145. 衣 y (yī) 8863 (衤8864)= áo
146. 襾 á (yà) 897E, 8980= che đậy, úp lên
147. 見 kiến (jiàn) 898B, FA0A (见89C1)= trông thấy
148. 角 giác (jué) 89D2= góc, sừng thú
149. 言 ngôn (yán) 8A00, 8A01, 8BA0= nói
150. 谷 cốc (gǔ) 8C37= khe nước chảy giữa hai núi, thung lũng
151. 豆 đậu (dòu) 8C46= hạt đậu, cây đậu
152. 豕 thỉ (shǐ) 8C55= con heo, con lợn
153. 豸 trãi (zhì) 8C78= loài sâu không chân
154. 貝 bối (bèi) 8C9D (贝8D1D)=vật báu
155. 赤 xích (chì) 8D64= màu đỏ
156. 走 tẩu (zǒu) 8D70, 赱8D71= đi, chạy
157. 足 túc (zú) 8DB3= chân, đầy đủ
158. 身 thân (shēn) 8EAB= thân thể, thân mình
159. 車 xa (chē) 8ECA, F902 (车8F66)= chiếc xe
160. 辛 tân (xīn) 8F9B= cay
161. 辰 thần (chén) 8FB0, F971=nhật, nguyệt, tinh; thìn (12 chi)
162. 辵 sước (chuò) 8FB5 (辶 8FB6)=chợt bước đi chợt dừng lại
163. 邑 ấp (yì) 9091(阝+ 961D)= vùng đất, đất phong cho quan
164. 酉 dậu (yǒu) 9149= một trong 12 địa chi
165. 釆 biện (biàn) 91C6= phân biệt
166. 里 lý (lǐ) 91CC, F9E9= dặm; làng xóm
167. 金 kim (jīn) 91D1, 91D2, 9485, F90A= kim loại; vàng
168. 長 trường (cháng) 9577 (镸 9578, 长957F)= dài; lớn (trưởng)
169. 門 môn (mén) 9580 (门95E8)= cửa hai cánh
170. 阜 phụ (fù) 961C (阝- 961D)=đống đất, gò đất
171. 隶 đãi (dài) 96B6= kịp, kịp đến
172. 隹 truy, chuy (zhuī) 96B9= chim đuôi ngắn
173. 雨 vũ (yǚ) 96E8= mưa
174. 青 thanh (qīng) 9752 (靑9751)= màu xanh
175. 非 phi (fēi) 975E= không
176. 面 diện (miàn) 9762 (靣9763)= mặt, bề mặt
177. 革 cách (gé) 9769= da thú; thay đổi, cải cách
178. 韋 vi (wéi) 97CB (韦97E6)= da đã thuộc rồi
179. 韭 phỉ, cửu (jiǔ) 97ED= rau phỉ (hẹ)
180. 音 âm (yīn) 97F3= âm thanh, tiếng
181. 頁 hiệt (yè) 9801 (页9875)= đầu; trang giấy
182. 風 phong (fēng) 98A8 (凬51EC, 风98CE)= gió
183. 飛 phi (fēi) 98DB (飞 98DE)= bay
184. 食 thực (shí) 98DF (飠98E0, 饣 9963)= ăn
185. 首 thủ (shǒu) 9996= đầu
186. 香 hương (xiāng) 9999= mùi hương, hương thơm
187. 馬 mã (mǎ) 99AC (马9A6C)= con ngựa
188. 骫 cốt (gǔ) 9AAB= xương
189. 高 cao (gāo) 9AD8, 9AD9= cao
190. 髟 bưu, tiêu (biāo) 9ADF= tóc dài; sam (shān)=cỏ phủ mái nhà
191. 鬥 đấu (dòu) 9B25= chống nhau, chiến đấu
192. 鬯 sưởng (chàng) 9B2F= rượu nếp; bao đựng cây cung
193. 鬲 cách (gé) 9B32=tên một con sông xưa; (lì)= cái đỉnh
194. 鬼 quỷ (gǔi) 9B3C=con quỷ
195. 魚 ngư (yú) 9B5A (鱼9C7C)= con cá
196. 鳥 điểu (niǎo) 9CE5 (鸟9E1F)= con chim
197. 鹵 lỗ (lǔ) 9E75= đất mặn
198. 鹿 lộc (lù) 9E7F, F940= con hươu
199. 麥 mạch (mò) 9EA5 (麦9EA6)= lúa mạch
200. 麻 ma (má) 9EBB= cây gai
201. 黃 hoàng (huáng) 9EC3, 9EC4= màu vàng
202. 黍 thử (shǔ) 9ECD= lúa nếp
203. 黑 hắc (hēi) 9ED1, 9ED2= màu đen
204. 黹 chỉ (zhǐ) 9EF9= may áo, khâu vá
205. 黽 mãnh (mǐn) 9EFD, 9EFE= con ếch; cố gắng (mãnh miễn)
206. 鼎 đỉnh (dǐng) 9F0E= cái đỉnh
207. 鼓 cổ (gǔ) 9F13, 9F14= cái trống
208. 鼠 thử (shǔ) 9F20= con chuột
209. 鼻 tỵ (bí) 9F3B= cái mũi
210. 齊 tề (qí) 9F4A (斉 6589, 齐 9F50)= ngang bằng, cùng nhau
211. 齒 xỉ (chǐ) 9F52 (齿9F7F, 歯 6B6F)= răng
212. 龍 long (lóng) 9F8D, F9C4 (龙 9F99)= con rồng
213. 龜 quy (guī) F907, F908, 9F9C (亀4E80, 龟 9F9F)=con rùa
214. 龠 dược (yuè) 9FA0= sáo 3 lỗ
☸
Theo thống kê của Đại học Yale (trong Dictionary of Spoken Chinese, 1966), các chữ Hán có tần số sử dụng cao nhất thường thường thuộc 50 bộ thủ sau đây:
1. 人 nhân (亻) - bộ 9
2. 刀 đao (刂) - bộ 18
3. 力 lực - bộ 19
4. 口 khẩu - bộ 30
5. 囗 vi - bộ 31
6. 土 thổ - bộ 32
7. 大 đại - bộ 37
8. 女 nữ - bộ 38
9. 宀 miên - bộ 40
10. 山 sơn - bộ 46
11. 巾 cân - bộ 50
12. 广 nghiễm - bộ 53
13. 彳 xích - bộ 60
14. 心 tâm (忄) - bộ 61
15. 手 thủ (扌) - bộ 64
16. 攴 phộc (攵) - bộ 66
17. 日 nhật - bộ 72
18. 木 mộc - bộ 75
19. 水 thuỷ (氵) - bộ 85
20. 火 hoả (灬) - bộ 86
21. 牛 ngưu - bộ 93
22. 犬 khuyển (犭) - bộ 94
23. 玉 ngọc - bộ 96
24. 田 điền - bộ 102
25. 疒 nạch - bộ 104
26. 目 mục - bộ 109
27. 石 thạch - bộ 112
28. 禾 hoà - bộ 115
29. 竹 trúc - bộ 118
30. 米 mễ - bộ 119
31. 糸 mịch - bộ 120
32. 肉 nhục (月 ) - bộ 130
33. 艸 thảo (艹) - bộ 140
34. 虫 trùng - bộ 142
35. 衣 y (衤) - bộ 145
36. 言 ngôn - bộ 149
37. 貝 bối - bộ 154
38. 足 túc - bộ 157
39. 車 xa - bộ 159
40. 辶 sước - bộ 162
41. 邑 ấp阝+ (phải) - bộ 163
42. 金 kim - bộ 167
43. 門 môn - bộ 169
44. 阜 phụ 阝- (trái) - bộ 170
45. 雨 vũ - bộ 173
46. 頁 hiệt - bộ 181
47. 食 thực - bộ 184
48. 馬 mã - bộ 187
49. 魚 ngư - bộ 195
50. 鳥 điểu - bộ 196
Nguồn: Lê Anh Minh, Nam Cực Tinh Toàn Cầu Thông, Nxb Đồng Nai, 2002, tr. 52-62.
23/6/09
90 bài thơ Đường do Tản Đà dịch [2]
90 bài thơ Đường do Tản Đà dịch [2]
TẢN ĐÀ NGUYỄN KHẮC HlẾU (1889-1939)
BẠCH CƯ DỊ 白 居 易 (772-846)
42. Sơn hạ túc 山 下 宿
獨 到 山 下 宿
Độc đáo sơn hạ túc.
靜 向 月 中 行
Tĩnh hướng nguyệt trung hành.
何 處 水 邊 碓
Hà xứ thủy biên đối,
夜 舂 雲 母 聲
Dạ thung vân mẫu thanh.
Ngủ trong núi
Một mình tới ngủ non xanh,
Lặng êm dưới bóng trăng thanh bước nhìn.
Suối đâu? Cối nước liền bên,
Chày đâm vân mẫu kìn kìn tiếng đêm.
43. Trì thượng 池 上
小 娃 撐 小 艇
Tiểu oa sanh tiểu đĩnh,
偷 採 白 蓮 迴
Thâu thái bạch liên hồi,
不 解 藏 蹤 跡
Bất giải tàng tung tích,
浮 萍 一 道 開
Phù bình nhất đạo khai.
Trên ao
Người xinh bơi chiếc thúng xinh,
Bông sen trắng nõn trắng tinh thó về.
Hớ hênh dấu vết không che,
Trên ao để một luồng chia mặt bèo.
Ngày Nay, số 82 (24-10-1937)
44. Chu trung vũ dạ 舟 中 雨 夜
江 雲 闇 悠 悠
Giang vân ám du du,
江 風 冷 修 修
Giang phong lãnh tu tu,
夜 雨 滴 船 背
Dạ vũ trích thuyền bối,
夜 浪 打 船 頭
Dạ lãng đả thuyền đầu.
船 中 有 病 客
Thuyền trung hữu bệnh khách.
左 降 向 江 川
Tả giáng hướng Giang Châu.
Trong thuyền đêm mưa
Mây sông kéo tới đùn đùn,
Gió sông thổi lạnh ghê hồn khách sông
Mưa đêm rỏ xuống mui bồng,
Sóng đêm dồn vỗ long bong mũi thuyền.
Trong thuyền có bác ốm rên,
Giáng quan thẳng lối ra miền Giang Châu.
Ngày Nay, số 107 (24-4-1938)
45. Hữu nhân dạ phỏng 友人夜訪
簷 間 清 風 簟
Thiềm gian thanh phong điệm.
松 下 明 月 盃
Tùng hạ minh nguyệt bôi.
幽 意 正 如 此
U ý chính như thử.
況 乃 故 人 來
Huống nãi cố nhân lai.
Người bạn đến thăm đêm
Thềm cao gió mát chiếu đan,
Chén soi bóng nguyệt bàng hoàng dưới thông.
Lòng riêng đương thú với lòng.
Lại đâu người cũ lạ lùng đến thăm.
46. Dạ vũ 夜 雨
早 蛩 啼 復 歇
Tảo cung đề phục yết.
殘 燈 滅 又 明
Tàn đăng diệt hựu minh.
隔 窗 知 夜 雨
Cách song tri dạ vũ.
芭 蕉 先 有 聲
Ba tiêu tiên hữu thanh.
Mưa đêm
Dế giun rên mỏi lại ngừng,
Đèn tàn muốn tắt lại bừng sáng ra.
Cách song, đêm biết mưa sa,
Tiếng nghe lộp bộp chăng là tàu tiêu.
Ngày Nay, số 130 (1-10-1938)
47. Thu trùng 秋 蟲
切 切 闇 窗 下
Thiết thiết ám song hạ,
喓 喓 深 草 裏
Yêu yêu thâm thảo lý.
秋 天 思 婦 心
Thu thiên tư phụ tâm,
雨 夜 愁 人 耳
Vũ dạ sầu nhân nhĩ.
Trùng mùa thu
Tiếng đâu dưới vách kêu ran?
Lại trong đám cỏ nghe càng nỉ con.
Trơi thu gái nhớ chồng son,
Mưa dầm đêm vắng, ai buồn lắng tai.
Ngày Nay, số 124 (21-8-1938)
48. Vấn Hoài Thủy 問 淮 水
自 嗟 名 利 客
Tự ta danh lợi khách,
擾 擾 在 人 間
Nhiễu nhiễu tại nhân gian.
何 事 長 淮 水
Hà sự trường Hoài thủy,
東 流 亦 不 閒
Đông lưu diệc bất nhàn?
Hỏi nước sông Hoài
Trong vòng danh lợi thương ta,
Cái thân nhăng nhít cho qua với đời.
Việc chi, hỡi nước sông Hoài?
Cũng không thong thả, miệt mài về đông?
Ngày Nay, số 92 (2-1-1938)
49. Tảo thu độc dạ 早 秋 獨 夜
井 梧 涼 葉 動
Tỉnh ngô lương diệp động,
鄰 杵 秋 聲 發
Lân chử thu thanh phát.
獨 向 簷 下 眠
Độc hướng thiềm hạ miên.
覺 來 半 床 月
Giác lai bán sàng nguyệt.
Mùa thu sớm, đêm một mình
Giếng vàng lay động lá ngô,
Mỏ chày hàng xóm tiếng thu đã truyền...
Một mình ngủ dưới mái hiên,
Tỉnh ra trăng sáng một bên giường nằm.
Ngày Nay, số 126 (2-9-1938)
50. Thu mộ giao cư thư hoài 秋 暮 郊 居 書 懷
郊 居 人 事 少
Giao cư nhân sự thiểu,
晝 臥 對 林 巒
Trú ngọa đối lâm man.
窮 巷 厭 多 雨
Cùng hạng yếm đa vũ,
貧 家 愁 早 寒
Bần gia sầu tảo hàn.
葛 衣 秋 未 換
Cát y thu vị hoán,
書 卷 病 仍 看
Thư quyển bịnh nhưng khan.
若 問 生 涯 計
Nhược vấn sinh nhai kế,
前 溪 一 釣 竿
Tiền khê nhất điếu can.
Cuối thu, cảnh ở quê
Ở quê, thưa ít việc người,
Giữa trưa nằm khểnh, ngắm coi núi đèo.
Ngõ sâu ngán nỗi mưa nhiều,
Lạnh lùng chi sớm, cảnh nghèo thêm lo.
Áo lương còn mặc mùa thu,
Ốm đau, sách vẫn đôi pho chẳng rời.
Lấy chi qua sống ngày trời?
Một cần câu để bên ngòi ngồi câu.
Ngày Nay, số 135 (5-11-1938)
51. Thu giang tống khách 秋 江 送 客
秋 鴻 次 第 過
Thu hồng thứ đệ quá,
哀 猿 朝 夕 聞
Ai viên triêu tịch văn.
是 日 孤 舟 客
Thị nhật cô chu khách,
此 地 亦 離 群
Thử địa diệc ly quần.
濛 濛 潤 衣 雨
Mông mông nhuận y vũ,
漠 漠 冒 帆 雲
Mạc mạc mạo phàm vân,
不 醉 潯 陽 酒
Bất túy Tầm Dương tửu,
煙 波 愁 殺 人
Yên ba sầu sát nhân.
Sông thu tiễn khách
Nhàn thu lần lượt bay qua,
Thảm thương tiếng vượn hôm đà lại mai.
Ngày nay một chiếc thuyền ai,
Nước non này cũng chia phôi cách đàn.
Mưa đầm vạt áo như chan,
Buồm đi, man mác mây ngàn đón ngang.
Chẳng say chén rượu Tầm Dương,
Khỏi sao sóng, khói sầu thương chết người.
Ngày Nay, số 129 (24-9-1938)
52. Thảo 草
離 離 原 上 草
Ly ly nguyên thượng thảo,
一 歲 一 枯 榮
Nhất tuế nhất khô vinh,
野 火 燒 不 盡
Dã hỏa thiêu bất tận,
春 風 吹 又 生
Xuân phong xuy hựu sinh.
遠 芳 侵 古 道
Viễn phương xâm cổ đạo,
晴 翠 接 荒 城
Tình thúy tiếp hoang thành
又 送 王 孫 去
Hựu tống Vương tôn khứ
萋 萋 滿 別 情
Thê thê mãn biệt tình.
Cỏ
Đồng cao cỏ mọc như chen,
Khô tươi thay đổi hai phen năm tròn.
Lửa đồng thiêu cháy vẫn còn,
Gió xuân thổi tới mầm non lại trồi.
Xa xa thơm ngát dặm dài,
Thành hoang láng biếc khi trời tạnh mưa.
Vương, Tôn đi lại tiễn đưa,
Biết bao tình biệt đầm đìa lướt theo.
Ngày Nay, số 86 (21-11-1937)
53. Họa Đỗ lục sự đề hồng diệp 和 杜 錄 事 題 紅 葉
寒 山 十 月 旦
Hàn sơn thập nguyệt đán,
霜 葉 一 時 新
Sương diệp nhất thời tân.
似 燒 非 因 火
Tự thiêu phi nhân hỏa,
如 花 不 待 春
Như hoa bất đãi xuân.
連 行 排 降 葉
Liên hàng bài giáng diệp,
亂 落 剪 紅 巾
Loạn lạc tiễn hồng cân.
解 駐 籃 轝 看
Giải trụ lam dư khán,
風 前 唯 兩 人
Phong tiền duy lưỡng nhân.
Họa thơ ông Lục sự họ Đỗ vịnh lá đỏ
Lạnh lùng buổi sáng tháng mười,
Lá sương phơi núi cùng thời mới sao!
Như thiêu chẳng lửa mà thiêu,
Như hoa chẳng đợi xuân nào mới hoa.
Liền hàng, màn tía bày ra,
Rơi tung, xếp nếp khăn là đỏ ghê!
Muốn xem, dừng xuống kiệu tre,
Đứng chơi ngọn gió chỉ ta hai người.
Ngày Nay, số 139 (XII–1938)
54. Ký Vi Chi 寄 微 之
江 州 望 通 州
Giang Châu vọng Thông Châu,
天 涯 與 地 末
Thiên nhai dữ địa mạt.
有 山 萬 丈 高
Hữu sơn vạn trượng cao,
有 江 千 里 闊
Hữu giang thiên lý khoát.
間 之 以 雲 霧
Gián chi dĩ vân vụ,
飛 鳥 不 可 越
Phi điểu bất khả việt.
誰 知 千 古 險
Thùy tri thiên cổ hiểm,
為 我 二 人 設
Vị ngã nhị nhân thiết.
通 州 君 初 到
Thông Châu quân sơ đáo,
鬱 鬱 愁 如 結
Uất uất sầu như kết.
江 州 我 方 去
Giang châu ngã phương khứ,
迢 迢 行 未 歇
Thiều thiều hành vị yết.
道 路 日 乖 隔
Đạo lộ nhật quai cách.
音 信 日 斷 絕
Âm tín nhật đoạn tuyệt.
因 風 欲 寄 語
Nhân phong dục ký ngữ,
地 遠 聲 不 徹
Địa viễn thanh bất triệt.
生 當 復 相 逢
Sinh đương phục tương phùng.
死 當 從 此 別
Tử đương tòng thử biệt!
Gửi bạn Vi Chi
Châu Giang mà ngóng Châu Thông,
Chân trời cuối đất mênh mông thấy nào?
Núi đâu muôn trượng kìa cao,
Sông đâu ngàn dặm rộng sao rộng mà!
Mây che mù tỏa bao la,
Chim bay cũng chẳng vượt qua khỏi tầm.
Hiểm xưa còn đó ngàn năm,
Ai hay trời để chơi khăm đôi người.
Châu Thông bác mới tới nơi,
Mối sầu như thắt ngậm ngùi chiếc thân.
Châu Giang tôi mới đi dần,
Nẻo đi xa lắc chưa phần đã ngơi.
Quan hà ngày một chia khơi,
Tăm hơi ngày bẵng tăm hơi một ngày.
Gió đưa muốn gửi câu này,
Tiếng không suốt đến vì mày đất xa.
Sống còn gặp gỡ đôi ta,
Ví chăng chết mất thôi là biệt nhau.
55. Dĩ kính tặng biệt 以 鏡 贈 別
人 言 似 明 月
Nhân ngôn tự minh nguyệt,
我 道 勝 明 月
Ngã đạo thắng minh nguyệt.
明 月 非 不 明
Minh nguyệt phi bất minh,
一 年 十 二 缺
Nhất niên thập nhị khuyết.
豈 如 玉 匣 裡
Khởi như ngọc hạp lý,
如 水 常 澄 澈
Như thủy thường trừng triệt,
月 破 天 闇 時
Nguyệt phá thiên ám thời,
圓 明 獨 不 歇
Viên minh độc bất yết.
我 慚 貌 醜 老
Ngã tâm mạo xú lão,
繞 鬢 班 班 雪
Nhiễu mấn ban ban tuyết,
不 如 贈 少 年
Bất như tặng thiếu niên,
迴 照 青 絲 髮
Hồi chiếu thanh ty phát,
因 君 千 里 去
Nhân quân thiên lý khứ,
持 此 將 為 別
Trì thử tương vi biệt.
Lấy gương làm quà tặng biệt
Ai rằng: gương sáng như trăng,
Ta rằng: trăng sáng chưa bằng gương soi.
Trăng kia thật sáng vẹn mười,
Một năm lại khuyết mười hai bận đầy.
Sao bằng trong hộp ngọc này,
Trong như nước đứng ngày ngày năm năm.
Nào khi trăng khuyết trời âm.
Gương đầy tròn sáng như rằm trăng soi.
Buồn ta già xấu hơn người,
Đốm quanh mái tóc bời bời tuyết in.
Chẳng bằng cho bạn thanh niên,
Để soi tóc trẻ xanh rền sợi tơ.
Anh nay nghìn dặm đi xa,
Cầm gương ta để làm quà tiễn nhau.
Ngày Nay, số 114 (12.6.1938)
56. Tự Giang Lăng chi Từ Châu lộ thượng ký huynh đệ
自 江 陵 之 徐 州 路 上 寄 兄 弟
岐 路 南 將 北
Kỳ lộ nam tương bắc,
離 憂 弟 與 兄
Ly ưu đệ dữ huynh.
關 河 千 里 別
Quan hà thiên lý biệt,
風 雪 一 身 行
Phong tuyết nhất thân hành.
夕 宿 勞 鄉 夢
Tịch túc lao hương mộng,
晨 裝 慘 旅 情
Thần trang thảm lữ tình.
家 貧 憂 後 事
Gia bần ưu hậu sự,
日 短 念 前 程
Nhật đoản niệm tiền trình.
煙 雁 翻 寒 渚
Yên nhạn phiên hàn chử,
霜 烏 聚 古 城
Sương ô tụ cổ thành.
誰 憐 陟 岡 者
Thùy liên trắc cương giả,
西 楚 望 南 荊
Tây Sở vọng Nam Kinh.
Từ Giang Lăng đi Từ Châu
trên đường gửi cho anh em
Đường kia sắp bắc từ nam,
Mối lo ly biệt anh em cùng sầu.
Quan hà ngàn dặm xa nhau,
Người đi gió tuyết dãi dầu một thân.
Hồn quê nhọc giấc đêm xuân,
Sắm sanh hành lý tần ngần sớm mai.
Nhà nghèo lo tính xa xôi,
Đường xa nghĩ nỗi ngày trời ngắn không.
Nhạn sa bến lạnh khói lồng
Thành xưa lũ quạ họp trong sương mờ.
Ai thương kẻ bước lên gò?
Sở Tây trông ngóng bây giờ Kinh Nam.
Ngày Nay, số 101 (13.3.1938)
57. Tùng thanh 松 聲
月 好 好 獨 坐
Nguyệt hảo, hảo độc tọa,
雙 松 在 前 軒
Song tùng tại tiền hiên.
西 南 微 風 來
Tây nam vi phong lai,
潛 入 枝 葉 間
Tiềm nhập chi diệp gian,
蕭 寥 發 為 聲
Tiêu liêu phát vi thanh,
半 夜 明 月 前
Bán dạ minh nguyệt tiền,
寒 山 颯 颯 雨
Hàn sơn táp táp vũ
秋 琴 冷 冷 絃
Thu cầm lãnh lãnh huyền.
一 聞 滌 炎 暑
Nhất văn địch viêm thử,
再 聽 破 昏 煩
Tái thính phá hôn phiền.
竟 夕 遂 不 寐
Cánh tịch toại bất mị,
心 體 俱 翛 然
Tâm thể câu diểu nhiên.
南 陌 車 馬 動
Nam mạch xa mã động,
西 鄰 歌 吹 繁
Tây lân ca xúy phồn,
誰 知 茲 簷 下
Thùy tri tư thiềm hạ,
滿 耳 不 為 喧
Mãn nhĩ bất vi huyên.
Tiếng thông reo
Trăng trong ngồi mát một mình,
Hai cây thông đứng hữu tình trước hiên
Nhẹ nhàng cơn gió đưa lên,
Luồn cành lá, đến tự miền tây nam.
Bóng trăng sáng nửa chừng đêm,
Lào rào nghe tiếng gió làm tuôn đưa.
Ào ào núi rét sa mưa,
Đờn cầm thu nảy dây tơ lạnh lùng.
Một nghe, rửa sạch cơn nồng,
Hai nghe bức bối trong lòng phá tan.
Thâu đêm thức mãi bàn hoàn,
Dạ khoan khoái dạ, mình khoan khoái mình.
Đường nam xe ngựa rình rình,
Xóm tây tiếng hát, tiếng sênh rộn ràng.
Ai hay này chỗ hành lang,
Đầy tai nghe vẫn êm thường như không
Ngày Nay, số 127 (11.9.1938)
58. Thu san 秋 山
久 病 曠 心 賞
Cửu bệnh khoáng tâm thưởng.
今 朝 一 登 山
Kim triêu nhất đăng san.
山 秋 雲 物 冷
San thu vân vật lãnh,
稱 我 清 羸 顏
Xứng ngã thanh luy nhan.
百 石 臥 可 枕
Bạch thạch ngọa khả trẩm,
青 蘿 行 可 攀
Thanh la hành khả phan.
意 中 如 有 得
Ý trung như hữu đắc,
盡 日 不 欲 還
Tận nhật bất dục hoàn.
人 生 無 幾 何
Nhân sinh vô kỷ hà,
如 寄 天 地 間
Như ký thiên địa gian.
心 有 千 載 憂
Tâm hữu thiên tải ưu,
身 無 一 日 閑
Thân vô nhất nhật nhàn.
何 時 解 塵 網
Hà thời giải trần võng,
此 地 來 掩 關
Thử địa lai yểm quan.
Núi mùa thu
Ốm lâu, nằm mãi buồn sao!
Sáng nay ta mới lên cao hỡi lòng.
Màu thu, mây núi lạnh lùng.
Thanh hao nét mặt, ưa cùng ta đây.
Nằm gối đá, đi vin dây,
Dây xanh đá trắng đẹp thay cảnh tình!
Thú vui trong dạ một mình,
Thâu ngày quên tưởng cái hình về đâu.
Người ta sống có bao lâu,
Ở trong trời đất cùng nhau tạm thời.
Mối lo mang lấy nghìn đời,
Một ngày chẳng được hơi rồi tấm thân.
Bao giờ giũ sạch lụy trần?
Lại đây đóng cửa vui phần núi non.
Ngày Nay, số 126 (4.9.1938)
59. Vọng giang lâu thượng tác
望 江 樓 上 作
江 畔 百 尺 樓
Giang bạn bách xích lâu,
樓 前 千 里 道
Lâu tiền thiên lý đạo.
憑 高 望 平 遠
Bằng cao vọng bình viễn,
亦 足 舒 懷 抱
Diệc túc thư hoài bão.
驛 路 使 憧 憧
Dịch lộ sứ đồng đồng.
關 防 兵 草 草
Quan phòng binh thảo thảo.
及 茲 多 事 日
Cập tư đa sự nhật,
猶 覺 閒 人 好
Do giác nhàn nhân hảo.
我 年 過 不 惑
Ngã niên quá bất hoặc,
休 退 誠 非 早
Hưu thoái thành phi tảo.
從 此 拂 塵 衣
Tòng thử phất trần y.
歸 山 未 為 老
Qui sơn vị vi lão.
Trên lầu trông ra sông
Bờ sông trăm thước lầu cao,
Trước lầu nghìn dặm đi đâu con đường?
Tựa cao trông xuống dặm trường,
Mà trong bụng nghĩ như nhường khoan thư.
Đường quan rộn kẻ đưa thư,
Quân gia láo nháo ngẩn ngơ canh phòng.
Cuộc đời gặp lúc rối tung,
Riêng ai ở cảnh thong dong càng mầu.
Đã hơn bốn chục tuổi đầu,
Từ nay về nghỉ ngõ hầu phải thôi.
Từ nay giũ áo trần ai.
Non xanh tình thú vui chơi chửa già...
60. Tặng nội 贈 內
生 為 同 室 親
Sinh vi đồng thất thân,
死 為 同 穴 塵
Tử vi đồng huyệt trần.
他 人 尚 相 勉
Tha nhân thượng tương miễn,
而 況 我 與 君
Nhi huống ngã dữ quân.
黔 婁 固 窮 士
Kiềm Lâu cố cuồng sĩ,
妻 賢 忘 其 貧
Thê hiền vong kỳ bần.
冀 缺 一 農 夫
Ký Khuyết nhất nông phu,
妻 敬 儼 如 賓
Thê kính nghiễm như tân.
陶 潛 不 營 生
Đào Tiềm bất doanh sinh,
翟 氏 自 爨 薪
Địch thị tự thoán tân.
梁 鴻 不 旨 仕
Lương Hồng bất khẳng sĩ,
孟 光 甘 布 裙
Mạnh Quang cam bố quần.
君 雖 不 讀 書
Quân tuy bất độc thư,
此 事 耳 亦 聞
Thử sự nhĩ diệc văn.
至 此 千 載 後
Chí thử thiên tải hậu,
傳 是 何 如 人
Truyền thị hà như nhân?
人 生 未 死 間
Nhân sinh vị tử gian.
不 能 忘 其 身
Bất năng vong kỳ thân.
所 須 者 衣 食
Sở tu giả y thực,
不 過 飽 與 溫
Bất quá bão dữ ôn.
蔬 食 足 充 飢
Sơ tự túc sung cơ,
何 必 膏 梁 珍
Hà tất cao lương trân?
繒 絮 足 禦 寒
Tăng nhứ túc ngự hàn,
何 必 錦 繡 文
Hà tất cẩm tú văn?
君 家 有 貽 訓
Quân gia hữu di huấn,
清 白 遺 子 孫
Thanh bạch di tử tôn.
我 亦 貞 苦 士
Ngã diệc trinh khổ sĩ,
與 君 新 結 婚
Dữ quân tân kết hôn.
庶 保 貧 與 素
Thứ bảo bần dữ tố,
偕 老 同 欣 欣
Giai lão đồng hân hân.
Thơ đưa vợ
Tình lúc sống một nhà cùng ở,
Chết ra tro, một hố cùng chung.
Khuyên nhau thiên hạ cũng cùng.
Nữa chi mình vợ, ta chồng cùng nhau?
Kìa như gã Kiềm Lâu cùng sĩ,
Cảnh nhà nghèo vợ nghĩ như không.
Nông phu Ký Khuyết cày đồng,
Vợ chàng quý trọng coi chồng khách sang.
Đào Tiềm chẳng lòng toan sinh lý,
Củi nấu ăn, Địch thị kiếm dần.
Lương Hồng quan chẳng chịu mần,
Mạnh Quang chỉ vải may quần cũng ưa,
Mình dẫu đọc sách xưa không mấy,
Các truyện kia hẳn thấy quen tai.
Nghìn năm còn lại ở đời,
Đến nay cùng nói là người như sao?
Người chưa chết lúc nào còn sống,
Chẳng ai mà quên bỗng được thân,
Cái ăn cái mặc là cần.
Cũng sao no ấm qua lần là xong.
Cơm rau đủ no lòng lúc đói.
Có cần chi thức tối cao lương,
Lụa the, rét đủ mặc thường,
Cần chi áo gấm xông hương vẽ vời?
Nhà mình có để đời câu dạy:
Lấy “sạch trong” cho lại cháu con.
Ta đây cũng một lòng son.
Cùng nàng buổi mới vuông tròn thất gia,
Giữ sao nghèo sạch nếp nhà,
Cùng nhau cho đến tuổi già cùng vui.
Ngày Nay, số 108 (1.5.1938)
61. Khinh phì 輕 肥
意 氣 驕 滿 路
Ý khí kiêu mãn lộ,
鞍 馬 光 照 塵
Yên mã quang chiếu trần
借 問 何 為 者
Tá vấn hà vi giả,
人 稱 是 內 臣
Nhân xưng thị nội thần.
朱 紱 皆 大 夫
Chu phất giai đại phu
紫 綬 或 將 軍
Tử thụ hoặc tương quân
誇 赴 軍 中 宴
Khoa phó quân trung yến.
走 馬 去 如 雲
Tẩu mã khứ như vân.
樽 罍 溢 九 醞
Tôn lôi dật cửu uấn,
水 陸 羅 八 珍
Thủy lục la bát trân.
果 擘 洞 庭 橘
Quả phách Đỗng Đình quất,
膾 切 天 池 鱗
Khoái thiết Thiên Trì lân.
食 飽 心 自 苦
Thực bão tâm tự nhược,
酒 酣 氣 益 振
Tửu hàm khí ích chân.
是 歲 江 南 旱
Thị tuế Giang Nam hạn,
衢 州 人 食 人
Cù Châu nhân thực nhân.
Nhẹ béo
Đầy đường dáng bộ con cưng,
Ngựa yên bóng nhoáng sáng trưng bụi hồng.
Hỏi: Làm chi đó những ông?
Người ta rằng lũ quan trong đó mà.
Dải điều đều Đại phu ta,
Mà đeo dải tía hoặc là Tướng quân
Khuênh khoang đi chén trong quân,
Rộn ràng vó ngựa chạy vần như mây.
Vò, ang chín thứ rượu đầy,
Hải sơn tám bát cỗ bày linh tinh.
Quả dâng quít hái Động Đình,
Cá Thiên Trì thái, đơm thành gỏi ngon.
Ăn no khoan khoái tâm hồn,
Rượu say, ý khí hùng hồn càng thêm.
Năm nay hạn hán Giang Nam,
Cù Châu người mổ người làm thức ăn.
Ngày Nay, số 102 (27-3-1938)
62. Văn khốc giả 聞 哭 者
昨 日 南 鄰 哭
Tạc nhật nam lân khốc,
哭 聲 一 何 苦
Khốc thanh nhất hà khổ?
云 是 妻 哭 夫
Vân thi thê khốc phu.
夫 年 二 十 五
Phu niên nhị thập ngũ,
今 朝 北 里 哭
Kim triêu bắc lý khốc,
哭 聲 又 何 切
Khốc thanh hựu hà thiết!
云 是 母 哭 兒
Vân thị mẫu khốc nhi,
兒 年 十 七 八
Nhi niên thập thất bát.
四 鄰 尚 如 此
Tứ lân thượng như thử,
天 下 多 夭 折
Thiên hạ đa yểu chiết.
乃 知 浮 世 人
Nãi tri phù thế nhân.
少 得 垂 白 髮
Thiểu đắc thùy bạch phát?
余 今 過 四 十
Dư kim quá tứ thập,
念 彼 聊 自 悅
Niệm bỉ, liêu tự duyệt.
從 此 明 鏡 中
Tùng thử minh kính trung
不 嫌 頭 似 雪
Bất hiềm đầu tự tuyết.
Nghe người khóc
Mới hôm nọ, xóm nam người khóc,
Tiếng khóc sao đau độc nỗi lòng?
Rằng: Đâu là vợ khóc chồng,
Chồng hai nhăm tuổi, khuất vòng nhân gian,
Sớm nay lại khóc than xóm bắc,
Tiếng khóc sao ruột thắt từng cơn?
Rằng: Đâu là mẹ khóc con,
Con mười bảy, tám, chết còn tuổi xanh.
Bốn hàng xóm chung quanh như thế.
Khắp thế gian chết trẻ còn nhiều.
Mới hay người thế bao nhiêu,
Trắng phơ mái tóc dễ nào mấy ai?
Ta nay tuổi có ngoài bốn chục,
Nghĩ ai kia, thôi cũng vui lòng.
Từ nay trong bức gương trong,
Đầu ta ngỡ tuyết, ta không quản gì.
Ngày Nay, số 105 (10-4-1938)
63. Tam niên biệt 三 年 別
悠 悠 一 別 已 三 年
Du du nhất biệt dĩ tam niên,
相 望 相 思 明 月 天
Tương vọng tương tư minh nguyệt thiên,
腸 斷 青 天 望 明 月
Trường đoạn thanh thiên vọng minh nguyệt,
別 來 三 十 六 回 園
Biệt lai tam thập lục hồi viên.
Xa nhau ba năm
Xa nhau một chuyến ba năm,
Ngóng nhau chung bóng trăng rằm nhớ nhau.
Trời xanh, trăng sáng, lòng đau,
Ba mươi sáu độ trước sau trăng tròn!
64. Thính biên hồng 聽 邊 鴻
驚 風 吹 起 塞 鴻 群
Kính phong xuy khởi tái hồng quần,
半 入 平 沙 半 入 雲
Bán nhập bình sa bán nhập vân.
為 問 昭 君 月 下 聽
Vị vấn Chiêu Quân nguyệt hạ thính,
何 如 蘇 武 雪 中 聞
Hà như Tô Vũ tuyết trung văn?
Nghe chim hồng ngoài biên ải
Đàn hồng rợn gió ngoài biên,
Nửa sa cát bể, nửa lên mây trời.
Chiêu Quân, Tô Vũ nghe chơi,
Dưới trưng, trong tuyết đôi nơi thế nào?
Ngày Nay, số 118 (10-7-1938)
65. Tự khuyến 自 勸
憶 昔 饑 貧 應 舉 年
Ức tích cơ bần ứng cử niên,
脫 衣 典 酒 曲 江 邊
Thoát y điển tửu Khúc Giang biên.
十 千 一 斗 猶 奢 飲
Thập thiên nhất đẩu do xa ẩm,
何 況 官 供 不 值 錢
Hà huống quan cung bất trị tiền.
Tự khuyên mình
Nhớ xưa nghèo túng lúc khoa thi.
Bến Khúc thèm men, cố áo đi.
Đấu rượu muôn đồng quen uống đắt.
Nữa chi lộc nước mất tiền chi!
66. Lâm Giang tống Hạ Chiêm 臨 江 送 夏 瞻
悲 君 老 別 淚 沾 巾
Bi quân lão biệt lệ chiêm cân,
七 十 無 家 萬 里 身
Thất thập vô gia vạn lý thân.
愁 見 舟 行 風 又 起
Sầu kiến chu hành phong hựu khởi,
白 頭 浪 裡 白 頭 人
Bạch đầu lãng lý bạch đầu nhân.
Tới sông tiễn Hạ Chiêm
Muôn dặm thương anh, lệ biệt sầu,
Bảy mươi tuổi tác cửa nhà đâu?
Buồn trông trận gió theo thuyền nổi,
Sóng bạc đầu quanh khách bạc đầu.
Ngày Nay, số 124 (21-8-1938)
67. Đại Lâm tự đào hoa 大 林 寺 桃 花
人 間 四 月 芳 菲 盡
Nhân gian tứ nguyệt phương phi tận,
山 寺 桃 花 始 盛 開
Sơn tự đào hoa thủy thịnh khai.
長 恨 春 歸 無 覓 處
Trường hận xuân qui vô mịch xứ,
不 知 轉 入 此 中 來
Bất tri chuyển nhập thử trung lai.
Hoa đào chùa Đại Lâm
Tháng tư hoa đã hết mùa,
Hoa đào rực rỡ cảnh chùa mới nay.
Xuân về kín chốn ai hay,
Biết đâu lẩn khuất trong này núi non.
Ngày Nay, số 112 (29-5-1938)
68. Giang thượng địch 江上笛
江 上 何 人 夜 吹 笛
Giang thượng hà nhân dạ xuy địch,
聲 聲 似 憶 故 園 春
Thanh thanh tự ức cố viên xuân,
此 時 聞 者 堪 頭 白
Thử thời văn giả kham đầu bạch,
況 是 多 愁 少 睡 人
Huống thị đa sầu thiểu thụy nhân.
Sáo trên sông
Đêm, ai thổi sáo trên sông,
Vườn xuân tiếng tiếng gửi lòng ai đâu?
Ai nghe, luống những bạc đầu,
Nữa chi ít ngủ, nhiều sầu như ai?
Ngày Nay, số 123 (14-8-1938)
69. Vương Chiêu Quân 王昭君
滿 面 朝 沙 滿 鬢 風
Mãn diện Hồ sa mãn mấn phong,
眉 銷 殘 黛 臉 銷 紅
Mi tiêu tàn đại kiểm tiêu hồng,
愁 苦 辛 勤 憔 悴 盡
Sầu khổ tân cần tiều tụy tận.
如 今 卻 似 畫 圖 中
Như kim khước tự họa đồ trung.
Vương Chiêu Quân
Cát Hồ đầy mặt, gió đầy tai,
Mực nhạt mày xanh, má đỏ phai.
Khổ sở lo buồn tiều tụy thế,
Mới là tranh vẽ giống như ai.
Ngày Nay, số 99 (27-2-1938)
70. Đại mại tân nữ tặng chư kỹ 代 賣 薪 女 贈 諸 妓
亂 蓬 為 鬢 布 為 巾
Loạn bồng vi mấn, bố vi cân,
曉 蹋 寒 山 自 負 薪
Hiểu đạp hàn sơn tự phụ tân,
一 種 錢 塘 江 畔 女
Nhất chung Tiền Đường giang bạn nữ,
著 紅 騎 馬 是 何 人
Trước hồng kỵ mã thị hà nhân?
Thay lời chị bán củi tặng các kỹ nữ
Đầu bù khăn vải trùm tai,
Trèo non gánh củi sương mai lạnh lùng,
Tiền Đường cũng gái bên sông.
Mà đâu yên ngựa quần hồng là ai?
71. Túc chương đình dịch 宿樟亭驛
夜 半 樟 亭 驛
Dạ bán Chương Đình dịch,
愁 人 起 望 鄉
Sầu nhân khỉ vọng hương.
明 月 何 所 見
Nguyệt minh hà sở kiến,
潮 水 白 茫 茫
Trào thủy bạch mang mang.
Ngủ nhà trạm Chương Đình
Nửa đêm ở trạm Chương Đình,
Người buồn trở dậy nặng tình hương quan
Dưới trăng trông ngóng lan man,
Nước trào trắng xóa một làn trăng soi.
Ngày Nay, số 148 (1939)
TẢN ĐÀ NGUYỄN KHẮC HlẾU (1889-1939)
BẠCH CƯ DỊ 白 居 易 (772-846)
42. Sơn hạ túc 山 下 宿
獨 到 山 下 宿
Độc đáo sơn hạ túc.
靜 向 月 中 行
Tĩnh hướng nguyệt trung hành.
何 處 水 邊 碓
Hà xứ thủy biên đối,
夜 舂 雲 母 聲
Dạ thung vân mẫu thanh.
Ngủ trong núi
Một mình tới ngủ non xanh,
Lặng êm dưới bóng trăng thanh bước nhìn.
Suối đâu? Cối nước liền bên,
Chày đâm vân mẫu kìn kìn tiếng đêm.
43. Trì thượng 池 上
小 娃 撐 小 艇
Tiểu oa sanh tiểu đĩnh,
偷 採 白 蓮 迴
Thâu thái bạch liên hồi,
不 解 藏 蹤 跡
Bất giải tàng tung tích,
浮 萍 一 道 開
Phù bình nhất đạo khai.
Trên ao
Người xinh bơi chiếc thúng xinh,
Bông sen trắng nõn trắng tinh thó về.
Hớ hênh dấu vết không che,
Trên ao để một luồng chia mặt bèo.
Ngày Nay, số 82 (24-10-1937)
44. Chu trung vũ dạ 舟 中 雨 夜
江 雲 闇 悠 悠
Giang vân ám du du,
江 風 冷 修 修
Giang phong lãnh tu tu,
夜 雨 滴 船 背
Dạ vũ trích thuyền bối,
夜 浪 打 船 頭
Dạ lãng đả thuyền đầu.
船 中 有 病 客
Thuyền trung hữu bệnh khách.
左 降 向 江 川
Tả giáng hướng Giang Châu.
Trong thuyền đêm mưa
Mây sông kéo tới đùn đùn,
Gió sông thổi lạnh ghê hồn khách sông
Mưa đêm rỏ xuống mui bồng,
Sóng đêm dồn vỗ long bong mũi thuyền.
Trong thuyền có bác ốm rên,
Giáng quan thẳng lối ra miền Giang Châu.
Ngày Nay, số 107 (24-4-1938)
45. Hữu nhân dạ phỏng 友人夜訪
簷 間 清 風 簟
Thiềm gian thanh phong điệm.
松 下 明 月 盃
Tùng hạ minh nguyệt bôi.
幽 意 正 如 此
U ý chính như thử.
況 乃 故 人 來
Huống nãi cố nhân lai.
Người bạn đến thăm đêm
Thềm cao gió mát chiếu đan,
Chén soi bóng nguyệt bàng hoàng dưới thông.
Lòng riêng đương thú với lòng.
Lại đâu người cũ lạ lùng đến thăm.
46. Dạ vũ 夜 雨
早 蛩 啼 復 歇
Tảo cung đề phục yết.
殘 燈 滅 又 明
Tàn đăng diệt hựu minh.
隔 窗 知 夜 雨
Cách song tri dạ vũ.
芭 蕉 先 有 聲
Ba tiêu tiên hữu thanh.
Mưa đêm
Dế giun rên mỏi lại ngừng,
Đèn tàn muốn tắt lại bừng sáng ra.
Cách song, đêm biết mưa sa,
Tiếng nghe lộp bộp chăng là tàu tiêu.
Ngày Nay, số 130 (1-10-1938)
47. Thu trùng 秋 蟲
切 切 闇 窗 下
Thiết thiết ám song hạ,
喓 喓 深 草 裏
Yêu yêu thâm thảo lý.
秋 天 思 婦 心
Thu thiên tư phụ tâm,
雨 夜 愁 人 耳
Vũ dạ sầu nhân nhĩ.
Trùng mùa thu
Tiếng đâu dưới vách kêu ran?
Lại trong đám cỏ nghe càng nỉ con.
Trơi thu gái nhớ chồng son,
Mưa dầm đêm vắng, ai buồn lắng tai.
Ngày Nay, số 124 (21-8-1938)
48. Vấn Hoài Thủy 問 淮 水
自 嗟 名 利 客
Tự ta danh lợi khách,
擾 擾 在 人 間
Nhiễu nhiễu tại nhân gian.
何 事 長 淮 水
Hà sự trường Hoài thủy,
東 流 亦 不 閒
Đông lưu diệc bất nhàn?
Hỏi nước sông Hoài
Trong vòng danh lợi thương ta,
Cái thân nhăng nhít cho qua với đời.
Việc chi, hỡi nước sông Hoài?
Cũng không thong thả, miệt mài về đông?
Ngày Nay, số 92 (2-1-1938)
49. Tảo thu độc dạ 早 秋 獨 夜
井 梧 涼 葉 動
Tỉnh ngô lương diệp động,
鄰 杵 秋 聲 發
Lân chử thu thanh phát.
獨 向 簷 下 眠
Độc hướng thiềm hạ miên.
覺 來 半 床 月
Giác lai bán sàng nguyệt.
Mùa thu sớm, đêm một mình
Giếng vàng lay động lá ngô,
Mỏ chày hàng xóm tiếng thu đã truyền...
Một mình ngủ dưới mái hiên,
Tỉnh ra trăng sáng một bên giường nằm.
Ngày Nay, số 126 (2-9-1938)
50. Thu mộ giao cư thư hoài 秋 暮 郊 居 書 懷
郊 居 人 事 少
Giao cư nhân sự thiểu,
晝 臥 對 林 巒
Trú ngọa đối lâm man.
窮 巷 厭 多 雨
Cùng hạng yếm đa vũ,
貧 家 愁 早 寒
Bần gia sầu tảo hàn.
葛 衣 秋 未 換
Cát y thu vị hoán,
書 卷 病 仍 看
Thư quyển bịnh nhưng khan.
若 問 生 涯 計
Nhược vấn sinh nhai kế,
前 溪 一 釣 竿
Tiền khê nhất điếu can.
Cuối thu, cảnh ở quê
Ở quê, thưa ít việc người,
Giữa trưa nằm khểnh, ngắm coi núi đèo.
Ngõ sâu ngán nỗi mưa nhiều,
Lạnh lùng chi sớm, cảnh nghèo thêm lo.
Áo lương còn mặc mùa thu,
Ốm đau, sách vẫn đôi pho chẳng rời.
Lấy chi qua sống ngày trời?
Một cần câu để bên ngòi ngồi câu.
Ngày Nay, số 135 (5-11-1938)
51. Thu giang tống khách 秋 江 送 客
秋 鴻 次 第 過
Thu hồng thứ đệ quá,
哀 猿 朝 夕 聞
Ai viên triêu tịch văn.
是 日 孤 舟 客
Thị nhật cô chu khách,
此 地 亦 離 群
Thử địa diệc ly quần.
濛 濛 潤 衣 雨
Mông mông nhuận y vũ,
漠 漠 冒 帆 雲
Mạc mạc mạo phàm vân,
不 醉 潯 陽 酒
Bất túy Tầm Dương tửu,
煙 波 愁 殺 人
Yên ba sầu sát nhân.
Sông thu tiễn khách
Nhàn thu lần lượt bay qua,
Thảm thương tiếng vượn hôm đà lại mai.
Ngày nay một chiếc thuyền ai,
Nước non này cũng chia phôi cách đàn.
Mưa đầm vạt áo như chan,
Buồm đi, man mác mây ngàn đón ngang.
Chẳng say chén rượu Tầm Dương,
Khỏi sao sóng, khói sầu thương chết người.
Ngày Nay, số 129 (24-9-1938)
52. Thảo 草
離 離 原 上 草
Ly ly nguyên thượng thảo,
一 歲 一 枯 榮
Nhất tuế nhất khô vinh,
野 火 燒 不 盡
Dã hỏa thiêu bất tận,
春 風 吹 又 生
Xuân phong xuy hựu sinh.
遠 芳 侵 古 道
Viễn phương xâm cổ đạo,
晴 翠 接 荒 城
Tình thúy tiếp hoang thành
又 送 王 孫 去
Hựu tống Vương tôn khứ
萋 萋 滿 別 情
Thê thê mãn biệt tình.
Cỏ
Đồng cao cỏ mọc như chen,
Khô tươi thay đổi hai phen năm tròn.
Lửa đồng thiêu cháy vẫn còn,
Gió xuân thổi tới mầm non lại trồi.
Xa xa thơm ngát dặm dài,
Thành hoang láng biếc khi trời tạnh mưa.
Vương, Tôn đi lại tiễn đưa,
Biết bao tình biệt đầm đìa lướt theo.
Ngày Nay, số 86 (21-11-1937)
53. Họa Đỗ lục sự đề hồng diệp 和 杜 錄 事 題 紅 葉
寒 山 十 月 旦
Hàn sơn thập nguyệt đán,
霜 葉 一 時 新
Sương diệp nhất thời tân.
似 燒 非 因 火
Tự thiêu phi nhân hỏa,
如 花 不 待 春
Như hoa bất đãi xuân.
連 行 排 降 葉
Liên hàng bài giáng diệp,
亂 落 剪 紅 巾
Loạn lạc tiễn hồng cân.
解 駐 籃 轝 看
Giải trụ lam dư khán,
風 前 唯 兩 人
Phong tiền duy lưỡng nhân.
Họa thơ ông Lục sự họ Đỗ vịnh lá đỏ
Lạnh lùng buổi sáng tháng mười,
Lá sương phơi núi cùng thời mới sao!
Như thiêu chẳng lửa mà thiêu,
Như hoa chẳng đợi xuân nào mới hoa.
Liền hàng, màn tía bày ra,
Rơi tung, xếp nếp khăn là đỏ ghê!
Muốn xem, dừng xuống kiệu tre,
Đứng chơi ngọn gió chỉ ta hai người.
Ngày Nay, số 139 (XII–1938)
54. Ký Vi Chi 寄 微 之
江 州 望 通 州
Giang Châu vọng Thông Châu,
天 涯 與 地 末
Thiên nhai dữ địa mạt.
有 山 萬 丈 高
Hữu sơn vạn trượng cao,
有 江 千 里 闊
Hữu giang thiên lý khoát.
間 之 以 雲 霧
Gián chi dĩ vân vụ,
飛 鳥 不 可 越
Phi điểu bất khả việt.
誰 知 千 古 險
Thùy tri thiên cổ hiểm,
為 我 二 人 設
Vị ngã nhị nhân thiết.
通 州 君 初 到
Thông Châu quân sơ đáo,
鬱 鬱 愁 如 結
Uất uất sầu như kết.
江 州 我 方 去
Giang châu ngã phương khứ,
迢 迢 行 未 歇
Thiều thiều hành vị yết.
道 路 日 乖 隔
Đạo lộ nhật quai cách.
音 信 日 斷 絕
Âm tín nhật đoạn tuyệt.
因 風 欲 寄 語
Nhân phong dục ký ngữ,
地 遠 聲 不 徹
Địa viễn thanh bất triệt.
生 當 復 相 逢
Sinh đương phục tương phùng.
死 當 從 此 別
Tử đương tòng thử biệt!
Gửi bạn Vi Chi
Châu Giang mà ngóng Châu Thông,
Chân trời cuối đất mênh mông thấy nào?
Núi đâu muôn trượng kìa cao,
Sông đâu ngàn dặm rộng sao rộng mà!
Mây che mù tỏa bao la,
Chim bay cũng chẳng vượt qua khỏi tầm.
Hiểm xưa còn đó ngàn năm,
Ai hay trời để chơi khăm đôi người.
Châu Thông bác mới tới nơi,
Mối sầu như thắt ngậm ngùi chiếc thân.
Châu Giang tôi mới đi dần,
Nẻo đi xa lắc chưa phần đã ngơi.
Quan hà ngày một chia khơi,
Tăm hơi ngày bẵng tăm hơi một ngày.
Gió đưa muốn gửi câu này,
Tiếng không suốt đến vì mày đất xa.
Sống còn gặp gỡ đôi ta,
Ví chăng chết mất thôi là biệt nhau.
55. Dĩ kính tặng biệt 以 鏡 贈 別
人 言 似 明 月
Nhân ngôn tự minh nguyệt,
我 道 勝 明 月
Ngã đạo thắng minh nguyệt.
明 月 非 不 明
Minh nguyệt phi bất minh,
一 年 十 二 缺
Nhất niên thập nhị khuyết.
豈 如 玉 匣 裡
Khởi như ngọc hạp lý,
如 水 常 澄 澈
Như thủy thường trừng triệt,
月 破 天 闇 時
Nguyệt phá thiên ám thời,
圓 明 獨 不 歇
Viên minh độc bất yết.
我 慚 貌 醜 老
Ngã tâm mạo xú lão,
繞 鬢 班 班 雪
Nhiễu mấn ban ban tuyết,
不 如 贈 少 年
Bất như tặng thiếu niên,
迴 照 青 絲 髮
Hồi chiếu thanh ty phát,
因 君 千 里 去
Nhân quân thiên lý khứ,
持 此 將 為 別
Trì thử tương vi biệt.
Lấy gương làm quà tặng biệt
Ai rằng: gương sáng như trăng,
Ta rằng: trăng sáng chưa bằng gương soi.
Trăng kia thật sáng vẹn mười,
Một năm lại khuyết mười hai bận đầy.
Sao bằng trong hộp ngọc này,
Trong như nước đứng ngày ngày năm năm.
Nào khi trăng khuyết trời âm.
Gương đầy tròn sáng như rằm trăng soi.
Buồn ta già xấu hơn người,
Đốm quanh mái tóc bời bời tuyết in.
Chẳng bằng cho bạn thanh niên,
Để soi tóc trẻ xanh rền sợi tơ.
Anh nay nghìn dặm đi xa,
Cầm gương ta để làm quà tiễn nhau.
Ngày Nay, số 114 (12.6.1938)
56. Tự Giang Lăng chi Từ Châu lộ thượng ký huynh đệ
自 江 陵 之 徐 州 路 上 寄 兄 弟
岐 路 南 將 北
Kỳ lộ nam tương bắc,
離 憂 弟 與 兄
Ly ưu đệ dữ huynh.
關 河 千 里 別
Quan hà thiên lý biệt,
風 雪 一 身 行
Phong tuyết nhất thân hành.
夕 宿 勞 鄉 夢
Tịch túc lao hương mộng,
晨 裝 慘 旅 情
Thần trang thảm lữ tình.
家 貧 憂 後 事
Gia bần ưu hậu sự,
日 短 念 前 程
Nhật đoản niệm tiền trình.
煙 雁 翻 寒 渚
Yên nhạn phiên hàn chử,
霜 烏 聚 古 城
Sương ô tụ cổ thành.
誰 憐 陟 岡 者
Thùy liên trắc cương giả,
西 楚 望 南 荊
Tây Sở vọng Nam Kinh.
Từ Giang Lăng đi Từ Châu
trên đường gửi cho anh em
Đường kia sắp bắc từ nam,
Mối lo ly biệt anh em cùng sầu.
Quan hà ngàn dặm xa nhau,
Người đi gió tuyết dãi dầu một thân.
Hồn quê nhọc giấc đêm xuân,
Sắm sanh hành lý tần ngần sớm mai.
Nhà nghèo lo tính xa xôi,
Đường xa nghĩ nỗi ngày trời ngắn không.
Nhạn sa bến lạnh khói lồng
Thành xưa lũ quạ họp trong sương mờ.
Ai thương kẻ bước lên gò?
Sở Tây trông ngóng bây giờ Kinh Nam.
Ngày Nay, số 101 (13.3.1938)
57. Tùng thanh 松 聲
月 好 好 獨 坐
Nguyệt hảo, hảo độc tọa,
雙 松 在 前 軒
Song tùng tại tiền hiên.
西 南 微 風 來
Tây nam vi phong lai,
潛 入 枝 葉 間
Tiềm nhập chi diệp gian,
蕭 寥 發 為 聲
Tiêu liêu phát vi thanh,
半 夜 明 月 前
Bán dạ minh nguyệt tiền,
寒 山 颯 颯 雨
Hàn sơn táp táp vũ
秋 琴 冷 冷 絃
Thu cầm lãnh lãnh huyền.
一 聞 滌 炎 暑
Nhất văn địch viêm thử,
再 聽 破 昏 煩
Tái thính phá hôn phiền.
竟 夕 遂 不 寐
Cánh tịch toại bất mị,
心 體 俱 翛 然
Tâm thể câu diểu nhiên.
南 陌 車 馬 動
Nam mạch xa mã động,
西 鄰 歌 吹 繁
Tây lân ca xúy phồn,
誰 知 茲 簷 下
Thùy tri tư thiềm hạ,
滿 耳 不 為 喧
Mãn nhĩ bất vi huyên.
Tiếng thông reo
Trăng trong ngồi mát một mình,
Hai cây thông đứng hữu tình trước hiên
Nhẹ nhàng cơn gió đưa lên,
Luồn cành lá, đến tự miền tây nam.
Bóng trăng sáng nửa chừng đêm,
Lào rào nghe tiếng gió làm tuôn đưa.
Ào ào núi rét sa mưa,
Đờn cầm thu nảy dây tơ lạnh lùng.
Một nghe, rửa sạch cơn nồng,
Hai nghe bức bối trong lòng phá tan.
Thâu đêm thức mãi bàn hoàn,
Dạ khoan khoái dạ, mình khoan khoái mình.
Đường nam xe ngựa rình rình,
Xóm tây tiếng hát, tiếng sênh rộn ràng.
Ai hay này chỗ hành lang,
Đầy tai nghe vẫn êm thường như không
Ngày Nay, số 127 (11.9.1938)
58. Thu san 秋 山
久 病 曠 心 賞
Cửu bệnh khoáng tâm thưởng.
今 朝 一 登 山
Kim triêu nhất đăng san.
山 秋 雲 物 冷
San thu vân vật lãnh,
稱 我 清 羸 顏
Xứng ngã thanh luy nhan.
百 石 臥 可 枕
Bạch thạch ngọa khả trẩm,
青 蘿 行 可 攀
Thanh la hành khả phan.
意 中 如 有 得
Ý trung như hữu đắc,
盡 日 不 欲 還
Tận nhật bất dục hoàn.
人 生 無 幾 何
Nhân sinh vô kỷ hà,
如 寄 天 地 間
Như ký thiên địa gian.
心 有 千 載 憂
Tâm hữu thiên tải ưu,
身 無 一 日 閑
Thân vô nhất nhật nhàn.
何 時 解 塵 網
Hà thời giải trần võng,
此 地 來 掩 關
Thử địa lai yểm quan.
Núi mùa thu
Ốm lâu, nằm mãi buồn sao!
Sáng nay ta mới lên cao hỡi lòng.
Màu thu, mây núi lạnh lùng.
Thanh hao nét mặt, ưa cùng ta đây.
Nằm gối đá, đi vin dây,
Dây xanh đá trắng đẹp thay cảnh tình!
Thú vui trong dạ một mình,
Thâu ngày quên tưởng cái hình về đâu.
Người ta sống có bao lâu,
Ở trong trời đất cùng nhau tạm thời.
Mối lo mang lấy nghìn đời,
Một ngày chẳng được hơi rồi tấm thân.
Bao giờ giũ sạch lụy trần?
Lại đây đóng cửa vui phần núi non.
Ngày Nay, số 126 (4.9.1938)
59. Vọng giang lâu thượng tác
望 江 樓 上 作
江 畔 百 尺 樓
Giang bạn bách xích lâu,
樓 前 千 里 道
Lâu tiền thiên lý đạo.
憑 高 望 平 遠
Bằng cao vọng bình viễn,
亦 足 舒 懷 抱
Diệc túc thư hoài bão.
驛 路 使 憧 憧
Dịch lộ sứ đồng đồng.
關 防 兵 草 草
Quan phòng binh thảo thảo.
及 茲 多 事 日
Cập tư đa sự nhật,
猶 覺 閒 人 好
Do giác nhàn nhân hảo.
我 年 過 不 惑
Ngã niên quá bất hoặc,
休 退 誠 非 早
Hưu thoái thành phi tảo.
從 此 拂 塵 衣
Tòng thử phất trần y.
歸 山 未 為 老
Qui sơn vị vi lão.
Trên lầu trông ra sông
Bờ sông trăm thước lầu cao,
Trước lầu nghìn dặm đi đâu con đường?
Tựa cao trông xuống dặm trường,
Mà trong bụng nghĩ như nhường khoan thư.
Đường quan rộn kẻ đưa thư,
Quân gia láo nháo ngẩn ngơ canh phòng.
Cuộc đời gặp lúc rối tung,
Riêng ai ở cảnh thong dong càng mầu.
Đã hơn bốn chục tuổi đầu,
Từ nay về nghỉ ngõ hầu phải thôi.
Từ nay giũ áo trần ai.
Non xanh tình thú vui chơi chửa già...
60. Tặng nội 贈 內
生 為 同 室 親
Sinh vi đồng thất thân,
死 為 同 穴 塵
Tử vi đồng huyệt trần.
他 人 尚 相 勉
Tha nhân thượng tương miễn,
而 況 我 與 君
Nhi huống ngã dữ quân.
黔 婁 固 窮 士
Kiềm Lâu cố cuồng sĩ,
妻 賢 忘 其 貧
Thê hiền vong kỳ bần.
冀 缺 一 農 夫
Ký Khuyết nhất nông phu,
妻 敬 儼 如 賓
Thê kính nghiễm như tân.
陶 潛 不 營 生
Đào Tiềm bất doanh sinh,
翟 氏 自 爨 薪
Địch thị tự thoán tân.
梁 鴻 不 旨 仕
Lương Hồng bất khẳng sĩ,
孟 光 甘 布 裙
Mạnh Quang cam bố quần.
君 雖 不 讀 書
Quân tuy bất độc thư,
此 事 耳 亦 聞
Thử sự nhĩ diệc văn.
至 此 千 載 後
Chí thử thiên tải hậu,
傳 是 何 如 人
Truyền thị hà như nhân?
人 生 未 死 間
Nhân sinh vị tử gian.
不 能 忘 其 身
Bất năng vong kỳ thân.
所 須 者 衣 食
Sở tu giả y thực,
不 過 飽 與 溫
Bất quá bão dữ ôn.
蔬 食 足 充 飢
Sơ tự túc sung cơ,
何 必 膏 梁 珍
Hà tất cao lương trân?
繒 絮 足 禦 寒
Tăng nhứ túc ngự hàn,
何 必 錦 繡 文
Hà tất cẩm tú văn?
君 家 有 貽 訓
Quân gia hữu di huấn,
清 白 遺 子 孫
Thanh bạch di tử tôn.
我 亦 貞 苦 士
Ngã diệc trinh khổ sĩ,
與 君 新 結 婚
Dữ quân tân kết hôn.
庶 保 貧 與 素
Thứ bảo bần dữ tố,
偕 老 同 欣 欣
Giai lão đồng hân hân.
Thơ đưa vợ
Tình lúc sống một nhà cùng ở,
Chết ra tro, một hố cùng chung.
Khuyên nhau thiên hạ cũng cùng.
Nữa chi mình vợ, ta chồng cùng nhau?
Kìa như gã Kiềm Lâu cùng sĩ,
Cảnh nhà nghèo vợ nghĩ như không.
Nông phu Ký Khuyết cày đồng,
Vợ chàng quý trọng coi chồng khách sang.
Đào Tiềm chẳng lòng toan sinh lý,
Củi nấu ăn, Địch thị kiếm dần.
Lương Hồng quan chẳng chịu mần,
Mạnh Quang chỉ vải may quần cũng ưa,
Mình dẫu đọc sách xưa không mấy,
Các truyện kia hẳn thấy quen tai.
Nghìn năm còn lại ở đời,
Đến nay cùng nói là người như sao?
Người chưa chết lúc nào còn sống,
Chẳng ai mà quên bỗng được thân,
Cái ăn cái mặc là cần.
Cũng sao no ấm qua lần là xong.
Cơm rau đủ no lòng lúc đói.
Có cần chi thức tối cao lương,
Lụa the, rét đủ mặc thường,
Cần chi áo gấm xông hương vẽ vời?
Nhà mình có để đời câu dạy:
Lấy “sạch trong” cho lại cháu con.
Ta đây cũng một lòng son.
Cùng nàng buổi mới vuông tròn thất gia,
Giữ sao nghèo sạch nếp nhà,
Cùng nhau cho đến tuổi già cùng vui.
Ngày Nay, số 108 (1.5.1938)
61. Khinh phì 輕 肥
意 氣 驕 滿 路
Ý khí kiêu mãn lộ,
鞍 馬 光 照 塵
Yên mã quang chiếu trần
借 問 何 為 者
Tá vấn hà vi giả,
人 稱 是 內 臣
Nhân xưng thị nội thần.
朱 紱 皆 大 夫
Chu phất giai đại phu
紫 綬 或 將 軍
Tử thụ hoặc tương quân
誇 赴 軍 中 宴
Khoa phó quân trung yến.
走 馬 去 如 雲
Tẩu mã khứ như vân.
樽 罍 溢 九 醞
Tôn lôi dật cửu uấn,
水 陸 羅 八 珍
Thủy lục la bát trân.
果 擘 洞 庭 橘
Quả phách Đỗng Đình quất,
膾 切 天 池 鱗
Khoái thiết Thiên Trì lân.
食 飽 心 自 苦
Thực bão tâm tự nhược,
酒 酣 氣 益 振
Tửu hàm khí ích chân.
是 歲 江 南 旱
Thị tuế Giang Nam hạn,
衢 州 人 食 人
Cù Châu nhân thực nhân.
Nhẹ béo
Đầy đường dáng bộ con cưng,
Ngựa yên bóng nhoáng sáng trưng bụi hồng.
Hỏi: Làm chi đó những ông?
Người ta rằng lũ quan trong đó mà.
Dải điều đều Đại phu ta,
Mà đeo dải tía hoặc là Tướng quân
Khuênh khoang đi chén trong quân,
Rộn ràng vó ngựa chạy vần như mây.
Vò, ang chín thứ rượu đầy,
Hải sơn tám bát cỗ bày linh tinh.
Quả dâng quít hái Động Đình,
Cá Thiên Trì thái, đơm thành gỏi ngon.
Ăn no khoan khoái tâm hồn,
Rượu say, ý khí hùng hồn càng thêm.
Năm nay hạn hán Giang Nam,
Cù Châu người mổ người làm thức ăn.
Ngày Nay, số 102 (27-3-1938)
62. Văn khốc giả 聞 哭 者
昨 日 南 鄰 哭
Tạc nhật nam lân khốc,
哭 聲 一 何 苦
Khốc thanh nhất hà khổ?
云 是 妻 哭 夫
Vân thi thê khốc phu.
夫 年 二 十 五
Phu niên nhị thập ngũ,
今 朝 北 里 哭
Kim triêu bắc lý khốc,
哭 聲 又 何 切
Khốc thanh hựu hà thiết!
云 是 母 哭 兒
Vân thị mẫu khốc nhi,
兒 年 十 七 八
Nhi niên thập thất bát.
四 鄰 尚 如 此
Tứ lân thượng như thử,
天 下 多 夭 折
Thiên hạ đa yểu chiết.
乃 知 浮 世 人
Nãi tri phù thế nhân.
少 得 垂 白 髮
Thiểu đắc thùy bạch phát?
余 今 過 四 十
Dư kim quá tứ thập,
念 彼 聊 自 悅
Niệm bỉ, liêu tự duyệt.
從 此 明 鏡 中
Tùng thử minh kính trung
不 嫌 頭 似 雪
Bất hiềm đầu tự tuyết.
Nghe người khóc
Mới hôm nọ, xóm nam người khóc,
Tiếng khóc sao đau độc nỗi lòng?
Rằng: Đâu là vợ khóc chồng,
Chồng hai nhăm tuổi, khuất vòng nhân gian,
Sớm nay lại khóc than xóm bắc,
Tiếng khóc sao ruột thắt từng cơn?
Rằng: Đâu là mẹ khóc con,
Con mười bảy, tám, chết còn tuổi xanh.
Bốn hàng xóm chung quanh như thế.
Khắp thế gian chết trẻ còn nhiều.
Mới hay người thế bao nhiêu,
Trắng phơ mái tóc dễ nào mấy ai?
Ta nay tuổi có ngoài bốn chục,
Nghĩ ai kia, thôi cũng vui lòng.
Từ nay trong bức gương trong,
Đầu ta ngỡ tuyết, ta không quản gì.
Ngày Nay, số 105 (10-4-1938)
63. Tam niên biệt 三 年 別
悠 悠 一 別 已 三 年
Du du nhất biệt dĩ tam niên,
相 望 相 思 明 月 天
Tương vọng tương tư minh nguyệt thiên,
腸 斷 青 天 望 明 月
Trường đoạn thanh thiên vọng minh nguyệt,
別 來 三 十 六 回 園
Biệt lai tam thập lục hồi viên.
Xa nhau ba năm
Xa nhau một chuyến ba năm,
Ngóng nhau chung bóng trăng rằm nhớ nhau.
Trời xanh, trăng sáng, lòng đau,
Ba mươi sáu độ trước sau trăng tròn!
64. Thính biên hồng 聽 邊 鴻
驚 風 吹 起 塞 鴻 群
Kính phong xuy khởi tái hồng quần,
半 入 平 沙 半 入 雲
Bán nhập bình sa bán nhập vân.
為 問 昭 君 月 下 聽
Vị vấn Chiêu Quân nguyệt hạ thính,
何 如 蘇 武 雪 中 聞
Hà như Tô Vũ tuyết trung văn?
Nghe chim hồng ngoài biên ải
Đàn hồng rợn gió ngoài biên,
Nửa sa cát bể, nửa lên mây trời.
Chiêu Quân, Tô Vũ nghe chơi,
Dưới trưng, trong tuyết đôi nơi thế nào?
Ngày Nay, số 118 (10-7-1938)
65. Tự khuyến 自 勸
憶 昔 饑 貧 應 舉 年
Ức tích cơ bần ứng cử niên,
脫 衣 典 酒 曲 江 邊
Thoát y điển tửu Khúc Giang biên.
十 千 一 斗 猶 奢 飲
Thập thiên nhất đẩu do xa ẩm,
何 況 官 供 不 值 錢
Hà huống quan cung bất trị tiền.
Tự khuyên mình
Nhớ xưa nghèo túng lúc khoa thi.
Bến Khúc thèm men, cố áo đi.
Đấu rượu muôn đồng quen uống đắt.
Nữa chi lộc nước mất tiền chi!
66. Lâm Giang tống Hạ Chiêm 臨 江 送 夏 瞻
悲 君 老 別 淚 沾 巾
Bi quân lão biệt lệ chiêm cân,
七 十 無 家 萬 里 身
Thất thập vô gia vạn lý thân.
愁 見 舟 行 風 又 起
Sầu kiến chu hành phong hựu khởi,
白 頭 浪 裡 白 頭 人
Bạch đầu lãng lý bạch đầu nhân.
Tới sông tiễn Hạ Chiêm
Muôn dặm thương anh, lệ biệt sầu,
Bảy mươi tuổi tác cửa nhà đâu?
Buồn trông trận gió theo thuyền nổi,
Sóng bạc đầu quanh khách bạc đầu.
Ngày Nay, số 124 (21-8-1938)
67. Đại Lâm tự đào hoa 大 林 寺 桃 花
人 間 四 月 芳 菲 盡
Nhân gian tứ nguyệt phương phi tận,
山 寺 桃 花 始 盛 開
Sơn tự đào hoa thủy thịnh khai.
長 恨 春 歸 無 覓 處
Trường hận xuân qui vô mịch xứ,
不 知 轉 入 此 中 來
Bất tri chuyển nhập thử trung lai.
Hoa đào chùa Đại Lâm
Tháng tư hoa đã hết mùa,
Hoa đào rực rỡ cảnh chùa mới nay.
Xuân về kín chốn ai hay,
Biết đâu lẩn khuất trong này núi non.
Ngày Nay, số 112 (29-5-1938)
68. Giang thượng địch 江上笛
江 上 何 人 夜 吹 笛
Giang thượng hà nhân dạ xuy địch,
聲 聲 似 憶 故 園 春
Thanh thanh tự ức cố viên xuân,
此 時 聞 者 堪 頭 白
Thử thời văn giả kham đầu bạch,
況 是 多 愁 少 睡 人
Huống thị đa sầu thiểu thụy nhân.
Sáo trên sông
Đêm, ai thổi sáo trên sông,
Vườn xuân tiếng tiếng gửi lòng ai đâu?
Ai nghe, luống những bạc đầu,
Nữa chi ít ngủ, nhiều sầu như ai?
Ngày Nay, số 123 (14-8-1938)
69. Vương Chiêu Quân 王昭君
滿 面 朝 沙 滿 鬢 風
Mãn diện Hồ sa mãn mấn phong,
眉 銷 殘 黛 臉 銷 紅
Mi tiêu tàn đại kiểm tiêu hồng,
愁 苦 辛 勤 憔 悴 盡
Sầu khổ tân cần tiều tụy tận.
如 今 卻 似 畫 圖 中
Như kim khước tự họa đồ trung.
Vương Chiêu Quân
Cát Hồ đầy mặt, gió đầy tai,
Mực nhạt mày xanh, má đỏ phai.
Khổ sở lo buồn tiều tụy thế,
Mới là tranh vẽ giống như ai.
Ngày Nay, số 99 (27-2-1938)
70. Đại mại tân nữ tặng chư kỹ 代 賣 薪 女 贈 諸 妓
亂 蓬 為 鬢 布 為 巾
Loạn bồng vi mấn, bố vi cân,
曉 蹋 寒 山 自 負 薪
Hiểu đạp hàn sơn tự phụ tân,
一 種 錢 塘 江 畔 女
Nhất chung Tiền Đường giang bạn nữ,
著 紅 騎 馬 是 何 人
Trước hồng kỵ mã thị hà nhân?
Thay lời chị bán củi tặng các kỹ nữ
Đầu bù khăn vải trùm tai,
Trèo non gánh củi sương mai lạnh lùng,
Tiền Đường cũng gái bên sông.
Mà đâu yên ngựa quần hồng là ai?
71. Túc chương đình dịch 宿樟亭驛
夜 半 樟 亭 驛
Dạ bán Chương Đình dịch,
愁 人 起 望 鄉
Sầu nhân khỉ vọng hương.
明 月 何 所 見
Nguyệt minh hà sở kiến,
潮 水 白 茫 茫
Trào thủy bạch mang mang.
Ngủ nhà trạm Chương Đình
Nửa đêm ở trạm Chương Đình,
Người buồn trở dậy nặng tình hương quan
Dưới trăng trông ngóng lan man,
Nước trào trắng xóa một làn trăng soi.
Ngày Nay, số 148 (1939)
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)