Nguyễn Trọng Tạo
ĐỒNG DAO CHO NGƯỜI LỚN
có cánh rừng chết vẫn xanh trong tôi
có con người sống mà như qua đời
có câu trả lời biến thành câu hỏi
có kẻ ngoại tình ngỡ là tiệc cưới
có cha có mẹ có trẻ mồ côi
có ông trăng tròn nào phải mâm xôi
có cả đất trời mà không nhà ở
có vui nho nhỏ có buồn mênh mông
mà thuyền vẫn sông mà xanh vẫn cỏ
mà đời vẫn say mà hồn vẫn gió
có thương có nhớ có khóc có cười
có cái chớp mắt đã nghìn năm trôi.
1992
TIN THÌ TIN KHÔNG TIN THÌ THÔI
bốn lăm bậc thời gian dốc ngược
tôi đã vượt qua
em cách một sợi tơ
tôi đã không qua được
tin thì tin không tin thì thôi
tôi đã tới hang động yến sào tôi đã thèm ăn yến
vậy mà chưa được nếm bao giờ
hàng quốc cấm
nghe nói từ xưa làm vua sướng lắm
mà đôi khi tôi cũng sợ làm vua
tin thì tin không tin thì thôi
có anh hề đã nói với tôi
-đời thằng hề buồn lắm anh ơi
và tôi đã khóc
tin thì tin không tin thì thôi
nhưng tôi người cầm bút, than ôi
không thể không tin gì mà viết.
tin thì tin không tin thì thôi!
1991
TÁI DIỄN
bệnh dạ dày tái diễn những cơn đau
trái đất toát mồ hôi tái diễn trò súng đạn
kẻ tái diễn những vinh quang nhàm chán
người ngửa tay tái diễn nỗi buồn câm
tôi trở lại cơ quan gặp nụ cười ẩm mốc
chuột quá nhiều chuột chẳng chịu giảm biên
tôi trở lại dòng sông bờ Cỏ Thi xanh mướt
xưa em đánh mất trâm giờ lặng lẽ tìm tôi
rồi cũng khóc cho điều đã mất
trâm Cỏ Thi. ừ nhỉ, cỏ thôi mà
nhưng nước mắt... cũng như em, tôi đã
thêm một lần tái diễn trước cỏ hoa...
17.3.1993
ĐÊM CỔ ĐIỂN
sau Rock Rap nổ tung nhịp điệu
sẽ còn gì điên cuồng ơi
tôi mặc lại complet cravat
symphonie cổ điển tấu lên rồi
hoa đã tặng. Người đã không còn nữa
em đã yêu. Em đã bỏ tôi đi
sẽ dở hơi nếu là tôi khóc
nhưng cười vui thì tôi sẽ làm gì
còn Rock rap hay còn đêm cổ điển
điên cuồng ơi mơ mộng bỏ tôi rồi
niềm Hy Vọng vẫn chưa hề lụi tắt
khi bên chồng em lại nhớ về tôi...
1993
SONNÊ KHÔNG ĐỊNH TRƯỚC
ngơ ngác rơi giọt nước mắt cuối năm không rõ buồn vui
xe chậm lại trên đường không rõ về nơi chốn nào
tung tăng thanh xuân trôi ngược chiều
phút chốc mộng du lên phiêu diêu
mặt trời vầng trăng ngôi sao mắt ướt
ngực núi phồng căng dòng sông duỗi chân vào bao la
một bài ca xa thật xa tận miền quê ấu thơ
ta đây ư? em của ta đấy ư?...
những lèn đá marathon truyền thanh câu hỏi
mọi sự giản đơn đều bất lực
ta thèm bài thơ tấm ảnh bức tranh không hiểu hết
rồi mùa xuân sẽ qua thanh xuân không lặp lại
thuốc trường sinh đồng lõa với dối lừa
cây-mười-hai-cành chết rồi sao bóng râm cứ còn mãi trong Thơ?
12.1993
CÁI ĐẸP SÁU NGÓN
Tặng Đà Linh và Thanh Thảo
không có số đo chuẩn mực cho tình yêu buồn thương thù hận
anh viết văn làm thơ cho chuẩn mực nào đây
nàng sẽ để tuột anh nếu tay nàng năm ngón
ôi nhân loại giống nhau đời thật là nhàm chán
làm sao mang cố tật lại cho người
anh thích hoa dại trong rừng kẻ thích cây cảnh đầu sân
cái ngón tay thừa ra ấn nút đốt đàn vàng
anh nhận cảm bầu trời qua sáu ngón
rùng mình mùa xuân tua tủa cỏ non...
12.12.1993
BÓNG
không trắng không xanh không đen
hắn lờn lợt không đời không đạo
không xuân không hạ không thu
không nóng lạnh hắn cũng không âm ấm
hắn là hắn hắn chính là chiếc bóng
không âm thanh không màu sắc không buồn vui
thế mà hắn suốt đời sát kề tôi
không xóa được tôi đành chào thua hắn
tôi đã chào thua khối người như chiếc bóng...
1992
MỘNG DU
trong giấc ngủ ta thấy ta lang thang đường phố
cây thả xuống ta lá vàng
gió thả xuống ta mù sương
trộm cắp đâm nhau dưới đèn mờ
xích lô máu me cấp cứu
tham nhũng nâng ly mừng thắng lớn
ú ớ nói mơ người đói không nhà
trong giấc ngủ ta thấy ta lang thang rừng già
những người lính năm xưa sống dậy bao vây ta
người thủng tim người thủng đầu
người cụt chân người cụt tay
người bên ta người bên địch
những viên đạn rỉ rét ánh lên màu vàng chói chang
trong giấc ngủ ta thấy ta lang thang mây trời
Ngọc Hoàng ngủ gật
Chúa một bên và Phật một bên
những nhà thơ chìm đắm biển thơ tình
những nhà báo xô vào ga đĩa bay
những con cóc cổ dài kêu khản tiếng
trong giấc ngủ ta thấy lang thang thế giới
mặt nạ bày bán khắp nơi
trên sân bay trên xe con trên bàn tròn bàn vuông
bàn chữ U bàn chữ nhật
trên đạn bom trên lợi nhuận
trên âm mưu mong cứu rỗi con người
trong giấc ngủ ta thấy ta lang thang xa vời
những xanh hồng vàng tím
ôi thiên nhiên
thiên nhiên quay cuồng hoan lạc
chẳng lẽ người
đang sinh ra những đứa trẻ vô vi?
27.7.1991
BÁ KIẾN THỜI HIỆN ĐẠI
Tặng Chí Phèo, Thị Nở
khát uống đói ăn mỏi nằm mệt nghỉ
nay ta đủ đầy mời ngay anh Chí
bia ngoại rượu tây anh uống tối ngày
quanh năm suốt tháng vịt tần gà quay
ăn đẫy uống say sẵn bày nơi chốn
nhà ta bốn lầu mời anh lầu bốn
chỉ thương Thị Nở trôi dạt trời tây
bán mình nuôi miệng xanh xao mặt mày
rồi sẽ có ngày Thị quay trở lại
cho anh bốn lầu tha hồ thoải mái!
1993
NGHIỀN NGẪM
người ta nói: gương mặt con người là mảnh đất
khám phá không bao giờ biết chán
người ta cũng nói: nhìn mặt buồn nôn
em lỗng lẫy mộng mơ giờ nhàu nát bên đường
anh là kẻ vớt trăng bao lần trăng vỡ nát
người ta nói: con số không đấy chính là sa mạc
người ta cũng nói: quá khứ hiện tại tương lai
đồng hiện trên cát mênh mông
sao anh bỗng thèm chết dưới cùng trăng
đừng ai vớt, đừng hoan hô đả đảo...
12.11.1993
ĐÊM CỘNG CẢM
múa hát với ma đêm nay ăn uống với ma đêm
nay ngủ với ma đêm nay
ngày mai vĩnh viễn chia tay
nhà ta đã làm cho ma trâu ta đã giết cho ma
ngày mai gạo ta sẽ rắc ngày mai con gà ta sẽ thả
ngày mai chỉ còn bên ma những tượng mồ
đêm ái ân lần cuối
đêm cộng cảm sáo đàn cồng chiên trống cái
lục lạc rung dây chuỗi tiếng hú dài
rồi những con quỷ đen vui nhộn sẽ ngủ vùi
những ghè rượu cần sẽ nhạt
rồi sừng trâu sẽ treo trước cây nêu rồi mặt trời sẽ mọc
đừng trách gì nhau đừng nhớ gì nhau...
múa hát với ma đêm nay ăn uống với ma đêm
nay ngủ với ma đêm nay
ngày mai vĩnh viễn chia tay!
27.2.1994
TƯỢNG MỒ
đàn bà khoe Âm đàn ông khoe Dương
hài nhi người già ôm mặt buồn thương
đây vợ địu con đây chồng săn bắn
chim cú chim cu gật gù hoang vắng
nhà mồ im ắng lẳng lặng bóng người
hồn ma lang thang về nơi cuối trời
chỉ còn tượng mồ phủ đầy lá dại
chỉ còn thời gian nắng mưa dầu dãi
chỉ còn Bana Êđê Gairai
tượng mồ tượng mồ rữa mục hồn ai...
2.1994
CẢM GIÁC BIỂN HỒ
HAY LÀ THƠ BÊN MIỆNG NÚI LỬA
rơi vào miệng núi lửa bao giờ mà anh không hay
toàn thân ngập chìm hun hút
ngỡ bên kia cũng đầy trời đầy nước
nước ừng ực anh nước đẩy tung anh
anh nặng như núi anh nhẹ như mây
răng rắc vặn mình lim cổ thụ
giông giữa ngày xuân bão giữa ngày hè
cao nguyên ngả nghiêng sụt lở
anh nín thở đến kiệt cùng máu ứa
cột lửa phun nham thạch phì nhiêu
rồi chết lịm trong vỗ về mơn trớn
mười ngón dài thon của gió chiều...
26.2.1994
RƯỢU CẦN
cũng liều uống rượu cùng em
bởi chưng người đẹp lại thêm rượu cần
cái ghè rượu hóa chứng nhân
chúng mình mỗi đứa một cần vít cong
một can (*) cho má em hồng
hai can anh đã vội trồng cây si
ba can đừng bỏ anh đi
anh buồn. Ghè rượu có khi lây buồn
bốn can anh muốn chết luôn
năm can... em đã thúc dồn sáu can
đã liều chết cũng chẳng oan
bảy can anh uống. Em van anh rồi
thôi thì một can hai người
hai đôi môi khát một thời tìm nhau
chín can... rượu chẳng còn đâu
còn em hóa rượu. Cúi đầu, anh say...
1994
--------------
* can: đơn vị đo làm bằng que nứa
MÙA THU ÁO ẤM
đồi núi. Thông xanh. Villa. Biệt thự
áo ấm. Dù hoa. Má đỏ. Tóc mềm
những con đường. Những con đường. Cao. Thấp
ngày bốn mùa. Đà Lạt. Chập chùng. Em
em cười nói tự thuở nào thác đổ
Langbian. Nghiên. Thung lũng Tình yêu
ôi sự sống nơi đỉnh trời chân cỏ
thoáng heo may. Nghe mình chợt sang chiều
tôi bè bạn cùng mùa rau xứ lạnh
cùng cải chua. Cà muối. Khô nai
cùng rượu chát
cùng đớn đau thông rụng
giọng buồn tôi rung rẩy phát qua đài
rồi xa lắc. Bỏ một trời nhung nhớ
ơi mùa thu áo ấm đã mặc chung
rồi biền biệt. Hoa vàng như hơi thở
mimoza. Giọt nắng. Có theo cùng?...
11.9.1989
QUI NHƠN KHÔNG ĐỀ
con đường Mỹ Thổi đầm thành phố
bia ngoại rượu tây em dịch vụ
đổ thêm xăng Qui Nhơn gọi đi
nhỏ của anh giờ đã phát phì
nhỏ của anh nói cười như bà lớn
tiếng cổng sắt xa dần nghe rờn rợn
hoa li vàng mùa hạ đã xa xôi
đường nở trắng một màu hoa trứng cá
anh nín thở vòng qua eo Nín Thở
biển xanh hiền trăng thi sĩ lên ngôi...
6.1992
CẦM LÒNG
cho Ban và Hùng
cầm lòng thôi khỏi khóc cười
có người nuôi nhớ bởi người nuôi quên
cầm lòng rời bến ơi thuyền
thuyền xa bến hẹn sông hiền sóng ngoan
cầm lòng một mái thời gian
một đèn lẻ bóng một trang động tình
người về Hà Tĩnh xa Vinh
nửa thân ngoài nớ nửa mình trong ni
cầm lòng sao cứ vân vi
mây thì nặng trĩu núi thì nhẹ tênh...
1993
HƯƠNG SƠN
viên sỏi hồng nốt ruồi son đáy sông
em là dòng Ngàn Phố gương trăng đêm hè năm Tân Hợi
con đò quay như chiếc lá tre đen
ném cho nhau một vốc vàng trăng
đêm gửi nhòe sương đôi bờ cỏ mượt
một lần trao nhau rồi biền biệt
em hươu sao ngoan hiền bên suối diêm sinh
đừng trách chiến tranh
trách anh vô tình
bỏ em yếu mềm bị thương bên suối cạn
anh trở lại lơ ngơ em hai lần thị trấn
viên sỏi hồng mùa lũ cuốn nơi nao
hươu sao hươu sao
Nầm Sơn Châu Phố
Từ Thức hoàn Trần làm khách lạ người xưa...
1993
ĂNG-KO
bay trên đá và đi trong đá
ôi Ăng-ko! làm sao hiểu nổi người
những nghệ nhân đã chết tự lâu rồi
người sau đến đôi mắt tròn ngơ ngác
ngỡ núi đá được đẽo thành ngọn tháp
và đá mềm như đất dẻo... Ngày xưa
Apxara những vũ nữ Hoàng Gia
dính vào đá trong giữa chừng điệu múa
bay trên đá và đi trong đá
ôi Ăng-ko! làm sao hiểu nổi Người
chàng Bayon bốn mặt cứ nở cười
nụ cười đá nói gì cùng du khách
mưa đọng giọt bỗng tạt vào khóe mắt
đá buồn vui bí mật tự bao đời
nghe âm u tiếng gió đá thở dài
nghe rần rật lửa bừng trong đá cháy
qua cửa sổ máy bay tôi nhìn thấy
dáng tôi đi trong ruột đá không cùng
tôi đi từ Địa ngục tới Thiên đường
từ Xác đá tới Linh hồn của đá
ôi Ăng-ko! thăng trầm bao thế kỷ
đỉnh máu xương hóa đá dựng lâu đài
Người từ đâu?
và Người chính là ai?
tôi hỏi đá. Đá mỉm cười tin cậy...
Xiêmriệp 3.9.1989
THỜI GIAN 1
ngày bóc tờ lịch
gián vào đời tôi
ngày bóc đời tôi
ném vào đen đỏ
rồi thua xanh cỏ
rồi tóc trắng vôi
rồi thua ngọn gió
một trời rong chơi
vẫn bóc vẫn gián
vẫn đầy vẫn vơi
còn tôi cái lõi
ngày bóc luôn rồi
còn chi bóc nữa?
hãy bóc hồn tôi
tôi thành tờ lịch
bóc sang Luân hồi...
Nguyên đán Quí Dậu
THỜI GIAN 2
từng giọt thời gian ngưng thành mai vàng
tích tắc nhịp tim sao ta bàng hoàng
ôi xuân đã sang mà người chẳng tới
từng hạt thời gian gieo vàng mong đợi
mùa xuân mời cưới lấy ai đi cùng
ta đi một mình thời gian mông lung
nay còn trẻ trung mai đà bạc tóc
từng giọt thời gian ứa tràn khóe mắt
thôi người đừng khóc rụng rơi bông vàng
buồn vui làm ngọc kết thành thời gian...
Nguyên đán Giáp Tuất
KHÓI CAY
buồn đốt hết ngày
đêm dày tàn tro
buồn đốt bài thơ
bài thơ thành khói nào ngờ... khói cay
12.1993
TỰ VẤN
ngày vung vãi đức tin
đêm gặp mình đơn độc
ranh khôn giữa muôn nghìn
trở về thành thằng ngốc
mướn niềm vui kẻ khác
có gì như tham lam
mướn nỗi buồn kẻ khác
có gì như nhàm nhàm
cây khế nở hoa cam
cây bàng nở hoa bưởi
ăn mãi món mật ong
biết đâu đời đắng lưỡi?
11.1991
CẢM THÔNG
mùa xuân mặc áo màu gì
mà xanh biếc lá thầm thì cùng hoa
mà em áo rách không nhà
lang thang chợ vắng sân ga không tàu
mình anh khoác cả nỗi đau
ngày xuân mưa rắc lên đầu muối tiêu
giật mình nghe tiếng pháo kêu
em ơi nhặt pháo được nhiều không em
túi anh còn một bao diêm
một đòn bánh tét nào em lại cùng
xòe diêm nổ qua pháo đùng
cùng nhau tét bánh. Ngại ngùng làm chi
mùa xuân mặc áo màu gì
bánh thì áo lá pháo thì áo hoa...
1993
CÓ KHI
có khi nắng chết trong màu lá
mẹ nhặt về nhen ngọn lửa chiều
có khi mưa chết trong đất khát
em gặp mùa hoa tặng người yêu
có khi bài hát xa xưa quá
bỗng đến bất ngờ an ủi ta
và em thuở ấy đi biệt xứ
sao lại về đây. Lấp lánh. Và
mưa trắng đường mưa nắng ngất ngư
ai đem lụa trải tận xa mờ
có khi người chết nghìn năm trước
hồn vẫn bồng bềnh những giấc mơ.
Bên mộ Hàn Mặc Tử, 1993
XỨ ĐẦU TIÊN
không giờ ngày đầu tiên tháng đầu tiên năm đầu tiên
rùng rùng pháo nổ
tôi ngạc nhiên tái sinh
oa oa cây cỏ
không gian trắng tinh khôi lót tã
môi vhúm chím đào son đầu xòe mũ mai vàng
những sợi mưa đầu tiên vương vương giêng sang
ngày mới nguyên giấy bạc
trẻ con nói cười người lớn chào mời
như chưa hề tủi cực
nguyên đán thiên đường mặt đất
A-MEN!
ly rượu mừng ngấm men
người nhẹ tâng rụng rơi thù hận
nhớ câu thơ bỏ quên
vui nỗi buồn quá vãng
mang trái tim đi một vòng bè bạn
nhặt bao nhiêu tươi đẹp dọc hành trình
tươi đẹp dâng xứ đầu tiên mơ mộng
thấy Chúa cười trên thánh giá đóng đinh...
1993
LƯU LẠC
lạc vào đinh kệ
u mê chiều tà
lạc vào quyền chức
kiếp nào gỡ ra
con đường thì xa
chỉ tay mạng nhện
ta lạc ngoài ta
đi hoài không đến
một băng nhạc sến
ướt chùng chiều mưa
có một gã thừa
lạc vào nhăng nhố
ngác ngơ giữa phố
một thằng nhà quê
nhớ thương Mộ Tổ
biết bao giờ về...
25.7.1991
cõi nhớ
SONNÊ BUỒN
xin gọi tên Em là Buồn
Buồn ơi buồn hỡi ngọn nguồn Buồn đâu
Buồn mồ côi đã từ lâu
đời ta rồi cũng bạc đầu vì thương
là khi tỉnh giấc trong đêm
một mình ta thấy ngồi bên: Nỗi Buồn
là khi cạn một ly tràn
đáy ly ta lại thấy làn mi xanh
mi xanh Buồn cứ long lanh
gặp long lanh thấy mong manh là Buồn
buồn đừng đi! Buồn đừng tan!
mất Buồn còn lại tro tàn mà thôi
Buồn ơi Buồn có thương tôi
đừng làm tôi phải mồ côi Nỗi Buồn!...
1989
THIÊN THẦN
em mười chín tuổi nghìn năm trước
sao đến bây giờ mới hai mươi
môi mềm ngực nõn vòng tay xiết
anh là đá tản cũng tan thôi
cứ tưởng một lần cho đỡ khát
nào ngờ bùa ngải lú trời xanh
nghìn sau gặp lại... em hăm mốt
môi ngực vòng tay vẫn thiên thần.
1991
CỎ VÀ MƯA
em cỏ khát. Ta mưa rào đầu hạ
cỏ uống mưa run rẩy
cỏ đang thì
mưa rào đến rồi đi
cỏ xanh niềm ngơ ngác
ta biệt em
lớ ngớ chẳng hẹn gì.
Biệt Điện, 2.5.1991
KHÔNG DƯNG
không dưng em khóc dưới cội me
không dưng tôi dừng lại lắng nghe
không dưng tiếng vạc kêu thảm thiết
không dưng đang vui, buồn ly biệt
không dưng tôi gửi một tờ thư
rồi thư bặt tin theo sương mù
không dưng hoa lý thơm vào tối
chợt nhớ một người không nhớ tuổi
ra khỏi cổng rồi tôi đi đâu
không dưng lá me vương mái đầu...
1992
CÕI NHỚ
Tặng Phan Lạc Hoa, Nguyễn Họa, Nguyễn Thụy Kha
bạn bè ơi, nếu mà không các bạn
ta như chai rượu đã cạn rồi
cốc chén buồn tênh úp trên đĩa
ta như bình gốm chẳng hoa tươi
câu thơ bạn viết cho ta yêu
bài ca cho ta có sông Cầu
giọng hát xôn xao niềm câm lặng
gặp gỡ cho ta thêm nhớ nhau
bạn bè ơi, nếu mà không các bạn
những lúc lang thang ta về đâu
không đơi để Nhớ- nghèo biết mấy
ta như sao lạc giữa ban ngày
trái tim bạn giữ cho ta đây
niềm vui bạn giữ cho ta đây
nước mắt bạn giữ cho ta đây
giữ cho ta Cỏ với trời mây
bạn bè ơi, hãy thương nhiều thương mãi
thương niềm vui thương niềm đau
thêm lần nâng chén, nào các bạn
mai rồi bạc tóc đi tìm nhau!
Hà Nội, 1981
KHÔNG ĐỀ CHO ĐỖ TOÀN
mưa bay gió lạnh đầy trời
một đời thi sĩ mấy đời lang thang
ta làm khách trọ thời gian
con đường hè phố quán hàng bóng cây
ta làm khách trọ em đây
tình yêu mà ngỡ như cây sống nhờ
ta làm khách trọ bài thơ
chưa tan men rượu sững sờ chiêm bao
biết tìm gõ cánh cửa nào
vô tình gió lạnh lách vào đáy tim
giữa bao còn mất vui phiền
câu thơ dang dở que diêm cuối cùng...
1983
HUẾ 1
sông Hương hóa rượu ta đến uống
ta tỉnh đền đài ngả nghiêng say
1982
HUẾ 2
về Huế sao thèm thơ Nguyễn Bính
hoàng thành còn đó cung nữ không
áo dơi quần thụng đi ra phố
xe cub xe con phả khói nồng
sông Hương se lạnh chừng co lại
phố phường xộn xạo chợ lấn bờ
rượu ngon quán Mệ người thưa uống
bia nổ nhà hàng nhạt tiếng thơ
khách lạ hỏi thăm lăng tẩm cũ
xích lô đói khách đạp lượn vòng
cây chiều trút lá mong manh áo
sương khói qua cầu ướt mi cong
Huế đẹp đã đành xa xôi lắm
bỗng gặp mai vàng nở choàng vai
có ông sư trẻ chừng muốn bán
hoa Tết vườn chùa một cành mai...
12.1990
NỖI NHỚ KHÔNG TÊN
lang thang đường phố Huế
nhớ chiều nào xa Vinh
trời thắp vì sao xanh
thương nhớ về mắt biếc
đường xưa toàn Người Đẹp
nay đỏ trời Phượng Bay
Huế dầm mưa Nguyễn Bính
Vinh nắng hừng phương ai
còn chi là rượu nữa
uống hoài mà không say
bia biệt ly quán lạ
ngả nghiêng bao tháng ngày
ngỡ sông là cánh tay
mát mềm như ngà ngọc
ngỡ chiều như chiều nay
gió thổi mùa xanh tóc
có một chàng đơn độc
bước trên đường Không Tên
có một nàng Hạnh Phúc
ở số nhà Lãng Quên
1992
BẠN BÈ Ở HUẾ
bạn bè ở Huế đông vui lắm
túi đầy thơ tặng túi đầy trăng
thấy nhau là nhớ mùi rượu Hiếu (*)
mưa nắng sá gì dốc Phú Cam
sẵn tiền vài lít chưa là bốc
trắng tay mươi xị dễ đâu gàn
vui chơi cũng lạ đông hơn họp
vàng nát không chừng cốc đã tan
đất trời lướt khướt dìu nhau bước
đắc đạo rượu ngon đắc đạo tình
bạn bè ở Huế thương nhau thiệt
một đứa vợ la... chục đứa kinh.
1987
--------------
(*) lò rượu chị Hiếu trên dốc Phú Cam, nổi tiếng ngon
CHIỀU RƠI
Tặng anh Trường
chiều rơi. Vàng tóc. Vàng da
vàng cây. Vàng đá. Vàng ta. Vàng người
rượu ngon nhắm với nói cười
nghe thời gian tím một thời Phù Dung.
1994
NGƯỜI ĐẸP NHÌN TÔI
người đẹp nhìn tôi trên đường
về đêm tôi cảm thấy buồn
tôi gặp người đẹp đèo con
biết đâu chẳng phải con nàng
tôi gặp người đẹp bên chồng
chắc chi chồng nàng trẻ thế
một lần giòn tan pháo nổ
cô dâu tôi gặp ngỡ ngàng
người đẹp nhìn tôi cười mỉm
nụ cười xuống bến sang ngang
biết vậy sao tôi cứ ước
cô dâu không hẳn là nàng!...
1988
QUÀ SINH NHẬT
hai mươi bài hát vui
hát tặng một nỗi buồn
hai mươi bài hát buồn
hát tặng nỗi buồn hơn
em mỏng mảnh trăng non
mê chi lời anh hát
nghe đến lúc trăng tròn
e còn đâu nước mắt
hai mươi bài đắng chát
hai mươi bài men say
chao ôi là âm nhạc
không cánh mà lượn bay
anh hát đến hao gầy
hai mươi mùa lạnh giá
em hóa thân ngọn lửa
hai mươi cây nến chầu
hai mươi bông hồng nở
trên cây đàn muôn dây...
10.1990
SONNÊ LÁ NON
bay vào phòng anh một chiếc lá non
ngoài kia đã bão lại còn mưa xiên
lá non bay ngả bay nghiêng
phòng anh cũng chẳng bình yên đâu mà
bài thơ anh viết dang dở ngày qua
ngờ đâu chiếc lá non sa giữa dòng
câu thơ buồn một đời không
bỗng dưng trang giấy phập phồng tơ non
cây ơi, nếu cây có đi tìm con
đừng buồn tìm mãi lá non không về
bởi thời gian đã mang đi
bài thơ cùng với một thì lá non
và căn phòng ấy sau đấy chỉ còn
dấu nằm của lá nụ hôn của Trời...
10.11.1989
BỨC TRANH ĐEN
thế rồi nàng lẫn vào đêm
áo dài ngọn gió đen huyền ruổi theo
nỗi buồn than đá trong veo
dòng sông sánh lại mái chèo ngẩn ngơ
thế rồi cặp mắt ngủ mơ
thấy hai con mắt dại khờ tuổi yêu
thấy con đường nhựa ba chiều
thấy mình sững giữa cô liêu không người
thế rồi có đóa hồng tươi
giấy đen tôi bọc như người áo đen
con mèo tôi mới làm quen
làm quen là bởi nó quen quá chừng
mặt trời tôi vẽ không ngừng
mặt trời đen. Cũng xin đừng trách tôi
bức tranh chỉ một màu thôi
đen như màu áo xui tôi nhớ nàng...
3.1993
TẶNG MỐI TÌNH CUỐI CỦA GOETHE
em mười chín tuổi đi đêm
ta ngoài bảy chục lạc miền hoang sơ
rừng trăng cây cỏ đứng ngơ
tưởng là sói dữ nào ngờ... sói con
cái đêm trăng ấy trăng non
phố phường xa lắc lối mòn cũng xa
một vùng không rượu không hoa
sói con uống cạn cùng ta suối nguồn
cái đêm trăng ấy bỏ buồn
bỏ men thương nhớ bỏ hương ái tình
bỏ ta tỉnh dậy một mình
bỏ em lạc chốn bùng binh sương mờ
một mai ta có sững sờ
là khi trăng mọc bất ngờ sói con...
1989
ĐÀO PHAI
hoa đào vương kiếp đào hoa
thắm tươi một thuở phôi pha một ngày
tôi nhìn từng cánh đào bay
thời gian lõa thể rụng đầy chiêm bao
giật mình tôi gọi ơi đào
giang tay níu lại thuở nào thắm tươi
nhưng nàng đã chẳng nghe lời
lặng im trút xuống quanh tôi phai tàn.
1992
HOA ƠI TA YÊU NÀNG
trên mặt hồ tĩnh lặng
trên thành quách rêu phong
người từ trời cao xuống
người từ nước hiện lên
thắm tươi và mê đắm
hoa ơi ta yêu nàng
trên con đường nắng sáng
trên đèo dốc mù sương
ta thấy người thấp thoáng
ta thấy người nồng nàn
thắm tươi và mê đắm
hoa ơi ta yêu nàng
trong ly rượu chói chang
trong căn phòng huyền ảo
trong lặng yên trong bão
trong tỉnh táo mơ màng
thắm tươi và mê đắm
hoa ơi ta yêu nàng
ta muốn đổi không gian
cho người gần ta mãi
ta muốn đổi thời gian
cho bốn mùa hoa ấy
nhưng than ôi tỉnh dậy
trong hương thơm không nàng
rồi một ngày hoang vắng
rồi một cõi vĩnh hằng
trên mặt hồ lặng sóng
trên thành quách rêu phong
những cánh thơm rụng xuống
vẫn tươi nguyên sắc hồng
chiếc bóng ta lưu lại
cúi nhặt giữa mênh mông
hai trái tim không tuổi
hai cây đàn không tên
và bài ca số phận
hoa ơi ta yêu nàng!
4.1989
ĐỊNH NGHĨA
anh là hổ dữ dằn
trước cửa em khóa trái
anh là chú thỏ con
dưới tay em, vụng dại
xa rồi anh trở lại
cửa mở. Phòng trống không
thỏ buồn đi lãng tử
hổ mềm lòng ngóng trông.
1993
THIÊN AN
thế là ta một mình cùng chốn ấy
thông xanh thông xanh thông xanh
lưng cỏ mọc xuyên trái tim sỏi đá
mây trắng bay tháp nhọn mắt ta nhìn
ôi những chiếc lá kim
rơi chi mãi nỗi buồn
heineken heineken
tiếng va chạm cô đơn
ta ngỡ uống cạn suối nguồn mây trắng
ta ngỡ uống cạn suối nguồn xanh thắm
giờ Thìn qua
giờ Ngọ cũng trôi qua
ta tích tắc nỗi nhớ mong gặm nhấm
em thân yêu phiêu bạt phương nào?
từ biệt nhé ngọn cỏ rừng râm tĩnh
ta bay theo mây trắng ngổn ngang trời
có một phút một đời yêu thương vĩnh cửu
ấy là ta rong ruổi bên người
từ biệt nhé những chiếc kim xinh nhỏ
em hãy khâu áo lá một vùng đồi
ta là gió
thổi đến ngày kiệt sức
tự trời cao tan vào giọt mưa. Rơi...
18.4.1989
CHỢT
chợt khép cánh cửa là em có anh
chợt khép cánh cửa là em mất anh
chợt nói loanh quanh lạc đường mưa gió
chợt thức chợt ngủ bài thơ chợt còn
con sáo sang sông mùa thu tuổi tác
con người bội bạc cười vui chợt buồn
ơ cái trống cơm lên bông câu hát
cái say chợt khóc cái điên chợt cười
bao giờ người ơi vô vi rộng hẹp
chợt đi một đời chợt về cửa khép
dưới chân vẫn dép trên đầu trời thanh
đời lên chót đỉnh một mình mong manh.
13.4.1990
NGÔI SAO BUỒN
chấm buồn dưới mắt buồn em
ngôi sao buồn cuối trời đêm mơ buồn
đèo mù sương biển mù sương
ngôi sao buồn ấy vẫn thường hiện lên
anh nghèo anh giữ làm tin
ai mua chẳng bán ai xin dễ nào
giật mình tưởng mất ngôi sao
cô đơn thoáng chốc đã hao hao gầy
sao buồn mắt vẫn buồn đây
sau mưa cây lá ngưng đầy chiêm bao
trời lên cao gió lên cao
ngôi sao khẽ chớp khép vào mi thanh
niềm vui rồi dễ phai nhanh
cuộc đời lắng lại long lanh nỗi buồn
em mù sương anh mù sương
ngôi sao buồn ấy vẫn thường hiện lên...
24.3.1989
CUỐI NĂM NGẪU HỨNG CHỢ CHIỀU
nàng xưa ngán ngẫm chợ trưa
ta nay đủng đỉnh bán mua chợ chiều
vui kia giá được bao nhiêu
buồn này sao lại bọt bèo nàng ơi
thời gian rụng úa vai người
ước chi mua được nụ cười còn nguyên
này Lan, này Hạnh, này Duyên (*)
trăng non cái lúm đồng tiền còn không?
lên đèn mà chợ vẫn đông
ta đi tìm mãi sao không thấy nàng
thôi đành mua lại thời gian
tìm về chốn cũ tặng nàng ngày xưa.
11.1993
-----------------
(*) Câu thơ Ngô Kha, 1965
ĐĨA HÁT BỐN MÙA
thời gian quay tròn đĩa hát
ly cà phê mùa xuân
mùa đông chưa uống cạn
thời gian quay tròn đĩa hát
điếu thuốc lá mùa thu
mùa hè chưa cháy hết
thời gian quay tròn đĩa hát
nụ cười tươi một năm
nụ hôn dài một năm rưỡi
chiếc đĩa hát bốn mùa quay lại
mặt này sang mặt khác
năm này sang năm khác
nồng nàn da thịt tân hôn
nhưng đấy chỉ là một đêm
trôi bên ngoài đĩa hát.
12.1990
BÂY GIỜ YÊU
bây giờ yêu nghĩa là vào sàn nhảy
anh quê mùa ngồi nhai keo cao su
bây giờ yêu nghĩa là vèo xe cub
xe đạp anh xẹp lốp cả tứ mùa
bây giờ yêu nghĩa là vào quán nhậu
trăm phần trăm cay đắng chẳng hợp gu
anh ngồi nhớ dậu mồng tơi Nguyễn Bính
tiết thanh minh e ấp cả Nguyễn Du
anh ngồi nhớ nụ tầm xuân xanh biếc
nét cười duyên sau quai nón vải dù
nhưng trời ạ làm sao anh biết được
bây giờ yêu mai mốt hóa trò đùa?...
1992
CHIÊM CẢM
có lúc ngôn từ biệt tích
đam mê trơ đá gan lì
em mèo ơi đừng đến nữa
sợ em dựng dậy tử thi
có lúc trời ơi hồng xanh tím
khỏa thân chết đuối cứng tường đêm
ta thấy ta thành cây cọ
vẽ trong veo tơ lụa mặc cho em
có lúc trên ngai vàng nguy biến
lạnh người
nghe một tiếng
mèo rên.
2.11.1991
TẠ TỪ
tạ từ da trắng áo hồng
tôi về tháp cổ rêu phong một đời
tạ từ. Ai tự từ tôi
chập chờn Tiên Nữ nói cười xa xăm
buồn như trăng đã lên rằm
thương như người đã trăm năm. Tạ từ...
1992
CHIA
chia cho em một đời tôi
một cay đắng
một niềm vui
một buồn
tôi còn cái xác không hồn
cái chai không rượu tôi còn vỏ chai
chia cho em một đời say
một cây si
với
một cây bồ đề
tôi còn đâu nữa đam mê
trời chang chang nắng tôi về héo khô
chia cho em một đời Thơ
một lênh đênh
một dại khờ
một tôi
chỉ còn cỏ mọc bên trời
một bông hoa nhỏ lặng rơi mưa dầm...
1989
NGUYỄN TRỌNG TẠO
24/4/10
14/4/10
"Modern Times" và Charlie Chaplin
"Modern Times" và Charlie Chaplin
Cách đây 70 năm, vào ngày 5 tháng 2 năm 1936 cuốn phim "Modern Times" của Charlie Chaplin được ra mắt công chúng lần đầu tiên tại New York (tên Việt ngày xưa là "Thời đại tân kỳ"). Hình ảnh của vua hề Charlot mà chắc ai có coi qua cũng còn nhớ là hình ảnh của một anh chàng lang thang, để kiếm ăn phải vào làm việc trong một cơ xưởng máy móc tối tân và cứ phải quần quật xiết hết con ốc này đến con ốc khác đến mức phát khùng. Trong cuốn phim này Chaplin châm biếm xã hội kỹ nghệ, lột ra những mặt trái chua chát của "thế giới tân kỳ" mà máy móc gần như chế ngự con người. "Thời đại tân kỳ" cũng là cuốn phim câm cuối cùng của Chaplin và của kỹ nghệ điện ảnh. Thật ra thì 1936 loại phim "có lời" đã xuất hiện được gần 10 năm rồi, nhưng Chaplin vẫn không đem đối thoại vào vì muốn bảo tồn kịch tính của vai trò anh chàng lang thang của mình - với bộ mặt ngớ ngẩn và đốm ria mép tiêu biểu, với dáng vẻ lạch bạch như con chim cánh cụt trong bộ áo đuôi tôm, với chiếc nón quả dưa, ống quần thùng thình và cây gậy lắc lửng trên tay. Sau này ông kể lại: "Tôi sớm hiểu là lời nói sẽ làm cho tôi đánh mất sự hùng biện của vai trò này".
Charlie Chaplin là một nghệ sĩ đa diện đa tài. Ông viết kịch bản, làm đạo diễn, viết nhạc phim, điều hành sản xuất và phát hành phim, cùng lúc lại là diễn viên chính trong các cuốn phim của mình (và còn đóng nhiều vai trong hàng trăm phim khác nữa). Ông là chân tài diễn xuất, nhất là vai hài, cả đến các thế hệ nghệ sĩ ngày nay người ta vẫn kính phục và học hỏi bắt chước. Mặt khác ông lại rất chi li, làm gì cũng muốn tuyệt bích, cộng tác làm phim với ông có khi là cả một sự khổ sở chịu đựng. Lúc thì ông làm ẩn sĩ để miệt mài trau chuốt vai trò và truyện phim, lúc thì tên tuổi ông đầy giẩy trên các báo lá cải vì chuyện ái tình lăng nhăng. Khi thì ông là thần tượng của công chúng, khi thì bị xã hội Mỹ xua đuổi phải trở về Âu châu lánh cư. Cuốn phim "Thời đại tân kỳ" là một trong những cuốn phim thành công nhất của Chaplin, nó diễn tả được tâm tư của ông trong bối cảnh xã hội Mỹ thời những năm 1920-30: kinh tế suy sụp, thất nghiệp, nghèo đói, trong các hãng xưởng máy móc ngày càng nhiều, chiếm lĩnh cơ hội làm việc của thợ thuyền hay làm cho họ biến thành thứ cấp.
Click the image to open in full size.
"Thời đại tân kỳ" cũng là cuốn phim cuối với vai trò anh chàng lang thang của Chaplin, một thanh niên dễ thương nhưng vụng về, xui xẻo, cứ hết tai này thì đến họa khác. Xiết ốc quần quật cả buổi đến nhập tâm, lại bị đem ra thí nghiệm với cái máy đút ăn, anh công nhân đáng thương cuối cùng cũng phát khùng. Vừa ra khỏi nhà thương điên, thấy chiếc xe tải chạy ngang văng mất chiếc khăn đỏ để cột làm dấu hiệu cho đồ chuyên chở cồng kềnh, anh ta lượm lên chạy theo thì bị cảnh sát ập đến bắt vì tình nghi là tay hoạt động cộng sản!
Nhưng cạnh đó "Thời đại tân kỳ" còn kể lại chuyện tình giữa anh chàng lang thang Chaplin và một cô bé vất vưởng không nhà Paulette Goddard. Cùng cảnh túng quẩn như nhau, hai người yêu nhau, chia sẻ với nhau từng bữa đói no, kéo nhau đứng dậy sau những lần té ngã, hay giúp nhau trốn chạy khỏi sự truy lùng của cảnh sát. Tuy vậy họ hoàn toàn không đóng vai trò nạn nhân của xã hội mà ngược lại là biểu tượng cho những tâm hồn tự do cuối cùng khi mà máy móc bắt đầu chế ngự cuộc sống con người. Và anh chàng lang thang cô độc cuối cùng đã có bạn đồng hành, trong cảnh cuối của phim họ nắm tay nhau cùng đi ra khỏi "Thời đại tân kỳ"...
Ngoài đời Paulette Goddard cũng trở thành người yêu của Charlie Chaplin và sau khi công chiếu "Thời đại tân kỳ" trở thành người vợ thứ ba của ông. Cuộc hôn nhân này tuy khá hạnh phúc nhưng không bền lâu, chỉ vài năm sau hai người đã ly dị, song vẫn còn là bạn thân rất lâu. (Paulette Goddard còn đóng nhiều phim nổi tiếng khác và về sau trở thành vợ của Erich Maria Remarque, nhà văn Đức viết tác phẩm "Im Westen nichts Neues" - "Mặt trận miền Tây vẫn yên tĩnh".)
Charlie Chaplin (hay còn được biết đến dưới tên Charlot, sau này còn được phong Sir Charles Chaplin) tên thật là Charles Spencer Chaplin, sinh ngày 16 tháng 4 năm 1889 tại London, Anh quốc. Cha mẹ ông, Charles và Hannah Chaplin, là ca sĩ nhạc thính phòng ở Music Hall nhưng không mấy nổi tiếng và đã thôi nhau vài năm sau sinh ra ông. Charlie Chaplin lớn lên cùng người anh cùng mẹ khác cha là Sydney J. Hill (sau cũng đổi họ thành Chaplin). Ở với mẹ hai anh em Chaplin đã nếm qua cảnh túng quẩn rất sớm, năm 5 tuổi Charlie đã có lần phải lên hát thế mẹ vì bà lâm bệnh. Năm 9 tuổi cậu bé Charlie đã nhập nhóm "The Eight Lancashire Lads" lên sân khấu London rồi từ đó cùng đi theo các đoàn hát lưu diễn khắp nơi. Sidney vì muốn đùm bọc em nên cũng đi theo con đường kịch nghệ và gia nhập đoàn hát Fred Karno, là một trong những đoàn kịch thành công nhất Anh quốc thời đó. Vài năm sau Sidney đã trở thành nghệ sĩ chính của đoàn và tìm cách đưa em mình vào cùng cộng tác. Mùa thu 1912, trong đợt lưu diễn tại Mỹ (đi cùng còn có Stan Laurel sau này cũng rất nổi tiếng về phim giễu), Charlie Chaplin được hãng phim Keystone mời ở lại cộng tác và chỉ một thời gian ngắn sau đã thành danh và được các hãng phim khác đua nhau mời cộng tác. Năm 1915 Charlie đổi sang hãng Essanay và giới thiệu Sidney ở lại cộng tác với Keystone. Chỉ từ khoảng 1913 đến 1916 Chaplin đã đóng gần 50 phim và dần đần nổi tiếng khắp thế giới, nhất là với hình ảnh kẻ lang thang bất tử của ông xuất hiện đầu tiên trong phim "The Tramp". Từ đó Chaplin được phép tự dàn dựng và thủ diễn các cuốn phim mới. Ông là diễn viên đầu tiên trong lịch sử điện ảnh được trả tiền đến cả triệu đô la (năm 1917!). Năm 1919 ông cùng Mary Pickford và hai đồng nghiệp khác đứng ra lập hãng phim United Artists để tạo điều kiện cho nghệ sĩ có thể tự đứng ra thực hiện phim mà không phải chịu ảnh hưởng của các hãng phim tên tuổi. Đây là cũng là một đóng góp không nhỏ của Chaplin cho sự phát triển của kỹ nghệ điện ảnh Mỹ.
Phim của Chaplin rất đơn giản, thường chỉ xoay quanh cuộc sống của những con người bình thường, nhỏ bé, nhưng cả những lúc khốn khổ hay sa cơ thất thế vẫn giữ con tim đôn hậu, nồng ấm. "The Kid" (Gà trống nuôi con) đề cao tình người trong chốn cùng khó, anh chàng lang thang tảo tần nuôi nấng cho đứa bé bị người khác bỏ rơi để rồi sau đó bị quyền lực của đồng tiền giành lại. Trong "City Lights" (Ánh sáng thị thành) Chaplin kể lại tấm lòng chân thật của anh chàng lang thang với cô gái mù bán hoa, mối tình nghèo nhưng vẫn đẹp hơn những bao nhiêu chuyện tình hào nhoáng khác của Hollywood (năm 1998 "Ánh sáng thị thành" được American Film Institute tuyển chọn vào số 100 phim Mỹ hay nhất cổ kim). Tuy Chaplin lấy chủ đề xã hội, nhưng phim của ông lúc nào cũng bừng lên niềm yêu đời lạc quan, anh chàng lang thang dù có vấp ngã bao nhiêu thì cũng vẫn đứng dậy, phủi chiếc nón quả dưa và lạch bạch bước đi cho đến lần cuối trong "Thời đại tân kỳ".
"Thời đại tân kỳ" đánh dấu bước ngoặc trong sự nghiệp phim ảnh của Chaplin vì sau phim này ông chuyển qua làm phim có lời. Năm 1939 Chaplin thực hiện cuốn phim "The Great Dictator", trong đó ông vạch rõ và chế nhạo tham vọng điên rồ của Adolf Hitler (người sinh gần như cùng ngày với Chaplin và mang bộ râu mép giống hệt chàng Charlie lang thang trong phim). Cũng vì cuốn phim này mà Chaplin bắt đầu gặp khó khăn với chính quyền và xã hội Mỹ, lúc bấy giờ vốn vẫn thân thiện với Hitler và muốn kiểm duyệt không cho trình chiếu phim này. Các hãng xưởng lớn của Mỹ lúc đó vẫn sản xuất và cung cấp cho Đức Quốc Xã - đứng đầu là General Motors - ngay cả khi phần lớn Âu châu đã bị xâm chiếm. Những kỹ nghệ gia hàng đầu như Henry Ford hay những nhân vật tên tuổi của Hollywood như Walt Disney đều công khai tán thưởng chính sách bài Do Thái của Hitler, ủng hộ ra mặt Đức Quốc Xã và - ngược lại với Chaplin - vận động hết sức để ngăn cản chính phủ Mỹ tham chiến. Tuy "The Great Dictator" được quần chúng Mỹ nồng nhiệt đón nhận và đạt được số thu lớn nhất trong các phim của Chaplin, nhưng phải đợi đến vụ Trân Châu Cảng (Pearl Harbor) Hoa Kỳ mới thật sự quyết tâm nhảy vào vòng chiến.
Lời sau cùng của anh thợ cạo Do thái (bị nhận lầm là tên độc tài Adenoid Hynkel) trong phim "The Great Dictator" (Chaplin, 1940)[...] Chúng ta đều muốn giúp đỡ lẫn nhau, bản chất con người vốn là như vậy. Chúng ta đều muốn sống bên hạnh phúc của mỗi người chứ không trên sự đau khổ của kẻ khác. Thế giới này có đủ chỗ cho mọi người và trái đất này thừa sức nuôi sống mọi người.
Cuộc sống có thể tự do và đẹp đẽ biết bao.
Nhưng chúng ta đã đi lạc đường. Sự tham lam đã đầu độc đầu óc con người, đã đem thù hận rào cản thế giới, đã đẩy chúng ta vào nghèo khó và giết chóc với từng gót giầy rầm rập của binh lính. Chúng ta tạo ra phương tiện di chuyển ngày càng nhanh nhưng trong tâm khảm lại đứng yên một chỗ. Chúng ta có máy móc để sản xuất thừa mứa nhưng vẫn chưa thấy thỏa mãn. Chúng ta hiểu biết nhiều nhưng vẫn cay độc, chúng ta khôn khéo nhiều cũng chỉ để đè ép nhau. Chúng ta nghĩ nhiều nhưng cảm quá ít. Máy móc để làm gì trong khi chúng ta cần tình người nhiều hơn. Khôn khéo để làm gì trong lúc chúng ta cần cảm thông nhiều hơn. Nếu không cuộc sống này sẽ đầy bạo lực và rồi mọi thứ sẽ bị hủy diệt. [...]
Thực ra Chaplin đã trở thành cái gai trong mắt chính quyền Mỹ từ lâu vì các phim trước của ông ("Thời đại tân kỳ" cũng trong số đó) đã châm biếm hệ thống xã hội Mỹ rất nhiều. Từ năm 1947 Chaplin liên tục bị HUAC (House of Un-American Activities Committee) thẩm vấn và chính J. Edgar Hoover, người đứng đầu FBI, tìm mọi cách rút quyền cư trú ở Mỹ của ông. Trong khi đó Chaplin chưa bao giờ hoạt động chính trị hay tham gia bất cứ đảng phái hay tổ chức nào. Chỉ vì từng trải qua tuổi thơ nghèo khổ - cả khi nổi tiếng và trở thành triệu phú ông vẫn giữ cách sống rất đơn giản - nên bối cảnh và nhân vật trong phim ảnh của ông thường in đậm các vấn đề xã hội. Thêm vào đó Chaplin, với tâm hồn nghệ sĩ yêu chuộng tự do, không hề đặt nặng tinh thần quốc gia như số đông người Mỹ, cho nên dù đã sống và làm việc nhiều thập niên ở đất nước này ông vẫn không xin nhập tịch. Năm 1952, thừa dịp ông sang Anh quốc, Hoover không cho ông vào Mỹ trở lại vì lý do "hoạt động chống lại Hoa Kỳ", mặc dù hoàn toàn không có chứng cớ gì để buộc tội Chaplin. Buồn chán vô hạn, Chaplin và gia đình quyết định ở lại Âu châu, và từ đó định cư tại Thụy sĩ (vợ ông sau đó đã chính thức từ bỏ quốc tịch Mỹ để phản đối).
Nhưng không như FBI mong đợi, hình ảnh của Charlie Chaplin vẫn không giảm sút chút nào trong lòng quần chúng Mỹ. Năm 1963 đại hội phim của Chaplin tổ chức ở New York thành công rực rỡ. Nhưng mãi đến năm 1972 ông mới quay về Mỹ để nhận giải Oscar danh dự "về những thành quả vô kể gầy dựng điện ảnh thành môn nghệ thuật hàng đầu của thế kỷ hai mươi", với sự hoan nghênh lớn nhất và nồng nhiệt nhất trong lịch sử điện ảnh và các giải thưởng Oscar. Tuy vậy cũng vẫn còn một số người vẫn chống đối ra mặt như thống đốc California lúc đó là Ronald Reagan (còn tổng thống đương thời Richard Nixon là người khi xưa đứng đầu HUAC và chính tay làm khó dễ Chaplin rất nhiều thì đang bận rộn với vụ Watergate nên không thấy lên tiếng).
Báo chí và dư luận Mỹ một phần đề cao những thành công về điện ảnh của Chaplin, nhưng cũng thường phanh phui chuyện đời tư khá sóng gió của ông. Thời đó xã hội Mỹ còn khá khắc khe với vấn đề đạo đức chứ không như bây giờ, nhất là đối với những người công chúng biết đến. Năm 1915 khi vừa bắt đầu nổi tiếng Chaplin đã bị đồn đại là có quan hệ vụng trộm với cô đào Edna Purviance đóng chung. Rồi 1918 anh thanh niên 28 tuổi Chaplin cưới cô Mildred Harris, khi ấy mới 16 tuổi! Nhưng chỉ 2 năm sau thì họ đã chia tay. Sau khi quay cuốn phim "Gold rush" năm 1924, Chaplin phải cưới cô Lita Grey cùng đóng trong phim này, khi đó cũng mới 16 tuổi, vì cô đã mang thai với ông! Nhưng cũng chỉ đến 1927 thì hôn nhân này cũng tan rã, và dịp này báo chí bươi móc các chuyện riêng tư thầm kín của Chaplin làm dư luận lên án ông gắt gao. Do đó mà khi quen và cưới Paulette Goddard năm 1936, hai người giữ bí mật cho đến khi chia tay nhau năm 1942. Cuộc hôn nhân thứ tư với Oona O'Neill mới thực sự đem lại hạnh phúc lâu dài, hai người có với nhau 8 người con. Con gái đầu lòng của họ chính là Geraldine Chaplin, sau cũng trở thành diễn viên điện ảnh nổi tiếng.
Chaplin giao lưu với rất nhiều văn nghệ sĩ đương thời khắp thế giới và trong số này có nhiều người trở thành bạn thân của ông như Pablo Picasso, Louis Aragon, H.G. Wells. Ngoài ra, trong số thân hữu lâu năm của Chaplin còn phải kể đến Albert Einstein và Sir Winston Churchill, là những người đã ảnh hưởng không ít đến quan điểm chống phát xít của Chaplin. Tuy vậy, danh tiếng của Chaplin cũng làm cho không ít người ghen ghét và hãm hại. Trong số này có cả Walt Disney - dù từ thuở nhỏ đã rất hâm mộ Chaplin và về sau được Chaplin ủng hộ rất nhiều trong sự nghiệp điện ảnh - là một trong những đồng nghiệp Hollywood cộng tác với FBI để vu cáo cho Chaplin (như hồ sơ FBI sau này công bố).
Click the image to open in full size.
Ngoài tài năng diễn xuất, Chaplin còn chơi thông thạo nhiều nhạc cụ như vĩ cầm và cello. Nhà ông ở California còn có một đại phong cầm mà ông thường đàn khi bạn bè đến thăm. Ngoài ra ông còn sáng tác nhạc, nhất là nhạc phim của chính ông, nổi tiếng nhất là bài "Eternally" trong cuốn phim cuối cùng ông thực hiện tại Mỹ là "Limelight" (Ánh đèn màu). Ông còn viết sách (hai cuốn ghi lại những chuyến đi lưu diễn thế giới, viết trước thế chiến thứ hai, và một hồi ký năm 1964) và xuất bản một tập hình lưu niệm đời làm phim.
Charlie Chaplin mất ngày Giáng Sinh 1977 tại Corsier-Sur-Vevey, Thụy Sĩ, nơi ông cư ngụ cùng gia đình từ ngày rời Mỹ. Theo dự tính, viện bảo tàng Charlie Chaplin sẽ mở cửa tại đây vào cuối năm 2006.
.Năm 1989 nhiều nơi trên thế giới kỷ niệm 100 năm ngày sinh Chaplin. Ở London, công nương Diana tổ chức dạ hội vinh danh người nghệ sĩ kỳ tài này. Ở Pháp, bộ trưởng văn hóa Jack Lang tổ chức một cuộc hội thảo quốc tế về Charlie Chaplin. Ở Nga, Raisa Gorbachyova đặc biệt tham dự buổi trình chiếu cuốn phim "The Great Dictator" trong Đại hội phim Moskva (có lẽ đây là lần đầu tiên công chúng ở Nga được coi phim này). Duy chỉ có thủ đô bên bờ Potomac là im hơi lặng tiếng...
Mặc dù vậy, Charlie Chaplin vẫn là diễn viên điện ảnh đầu tiên được đăng trang bìa tuần báo Time (1925) và sau này được báo này bình chọn là một trong 100 danh nhân của thế kỷ 20. Năm 1931 Chaplin được phong Chevalier de la Légion d'honneur của Pháp (1971 thăng lên Grand officier), năm 1975 được Nữ hoàng Anh tấn phong Knight Commander of the British Empire. Chaplin còn được tặng học vị tiến sĩ danh dự của đại học Oxford và đại học Durham năm 1962. Nhưng chắc điều ông hài lòng nhất vẫn là được vĩnh viễn nhớ tới trong vai trò bất tử của một chàng lang thang ngờ nghệch giữa "thời đại tân kỳ".
Cách đây 70 năm, vào ngày 5 tháng 2 năm 1936 cuốn phim "Modern Times" của Charlie Chaplin được ra mắt công chúng lần đầu tiên tại New York (tên Việt ngày xưa là "Thời đại tân kỳ"). Hình ảnh của vua hề Charlot mà chắc ai có coi qua cũng còn nhớ là hình ảnh của một anh chàng lang thang, để kiếm ăn phải vào làm việc trong một cơ xưởng máy móc tối tân và cứ phải quần quật xiết hết con ốc này đến con ốc khác đến mức phát khùng. Trong cuốn phim này Chaplin châm biếm xã hội kỹ nghệ, lột ra những mặt trái chua chát của "thế giới tân kỳ" mà máy móc gần như chế ngự con người. "Thời đại tân kỳ" cũng là cuốn phim câm cuối cùng của Chaplin và của kỹ nghệ điện ảnh. Thật ra thì 1936 loại phim "có lời" đã xuất hiện được gần 10 năm rồi, nhưng Chaplin vẫn không đem đối thoại vào vì muốn bảo tồn kịch tính của vai trò anh chàng lang thang của mình - với bộ mặt ngớ ngẩn và đốm ria mép tiêu biểu, với dáng vẻ lạch bạch như con chim cánh cụt trong bộ áo đuôi tôm, với chiếc nón quả dưa, ống quần thùng thình và cây gậy lắc lửng trên tay. Sau này ông kể lại: "Tôi sớm hiểu là lời nói sẽ làm cho tôi đánh mất sự hùng biện của vai trò này".
Charlie Chaplin là một nghệ sĩ đa diện đa tài. Ông viết kịch bản, làm đạo diễn, viết nhạc phim, điều hành sản xuất và phát hành phim, cùng lúc lại là diễn viên chính trong các cuốn phim của mình (và còn đóng nhiều vai trong hàng trăm phim khác nữa). Ông là chân tài diễn xuất, nhất là vai hài, cả đến các thế hệ nghệ sĩ ngày nay người ta vẫn kính phục và học hỏi bắt chước. Mặt khác ông lại rất chi li, làm gì cũng muốn tuyệt bích, cộng tác làm phim với ông có khi là cả một sự khổ sở chịu đựng. Lúc thì ông làm ẩn sĩ để miệt mài trau chuốt vai trò và truyện phim, lúc thì tên tuổi ông đầy giẩy trên các báo lá cải vì chuyện ái tình lăng nhăng. Khi thì ông là thần tượng của công chúng, khi thì bị xã hội Mỹ xua đuổi phải trở về Âu châu lánh cư. Cuốn phim "Thời đại tân kỳ" là một trong những cuốn phim thành công nhất của Chaplin, nó diễn tả được tâm tư của ông trong bối cảnh xã hội Mỹ thời những năm 1920-30: kinh tế suy sụp, thất nghiệp, nghèo đói, trong các hãng xưởng máy móc ngày càng nhiều, chiếm lĩnh cơ hội làm việc của thợ thuyền hay làm cho họ biến thành thứ cấp.
Click the image to open in full size.
"Thời đại tân kỳ" cũng là cuốn phim cuối với vai trò anh chàng lang thang của Chaplin, một thanh niên dễ thương nhưng vụng về, xui xẻo, cứ hết tai này thì đến họa khác. Xiết ốc quần quật cả buổi đến nhập tâm, lại bị đem ra thí nghiệm với cái máy đút ăn, anh công nhân đáng thương cuối cùng cũng phát khùng. Vừa ra khỏi nhà thương điên, thấy chiếc xe tải chạy ngang văng mất chiếc khăn đỏ để cột làm dấu hiệu cho đồ chuyên chở cồng kềnh, anh ta lượm lên chạy theo thì bị cảnh sát ập đến bắt vì tình nghi là tay hoạt động cộng sản!
Nhưng cạnh đó "Thời đại tân kỳ" còn kể lại chuyện tình giữa anh chàng lang thang Chaplin và một cô bé vất vưởng không nhà Paulette Goddard. Cùng cảnh túng quẩn như nhau, hai người yêu nhau, chia sẻ với nhau từng bữa đói no, kéo nhau đứng dậy sau những lần té ngã, hay giúp nhau trốn chạy khỏi sự truy lùng của cảnh sát. Tuy vậy họ hoàn toàn không đóng vai trò nạn nhân của xã hội mà ngược lại là biểu tượng cho những tâm hồn tự do cuối cùng khi mà máy móc bắt đầu chế ngự cuộc sống con người. Và anh chàng lang thang cô độc cuối cùng đã có bạn đồng hành, trong cảnh cuối của phim họ nắm tay nhau cùng đi ra khỏi "Thời đại tân kỳ"...
Ngoài đời Paulette Goddard cũng trở thành người yêu của Charlie Chaplin và sau khi công chiếu "Thời đại tân kỳ" trở thành người vợ thứ ba của ông. Cuộc hôn nhân này tuy khá hạnh phúc nhưng không bền lâu, chỉ vài năm sau hai người đã ly dị, song vẫn còn là bạn thân rất lâu. (Paulette Goddard còn đóng nhiều phim nổi tiếng khác và về sau trở thành vợ của Erich Maria Remarque, nhà văn Đức viết tác phẩm "Im Westen nichts Neues" - "Mặt trận miền Tây vẫn yên tĩnh".)
Charlie Chaplin (hay còn được biết đến dưới tên Charlot, sau này còn được phong Sir Charles Chaplin) tên thật là Charles Spencer Chaplin, sinh ngày 16 tháng 4 năm 1889 tại London, Anh quốc. Cha mẹ ông, Charles và Hannah Chaplin, là ca sĩ nhạc thính phòng ở Music Hall nhưng không mấy nổi tiếng và đã thôi nhau vài năm sau sinh ra ông. Charlie Chaplin lớn lên cùng người anh cùng mẹ khác cha là Sydney J. Hill (sau cũng đổi họ thành Chaplin). Ở với mẹ hai anh em Chaplin đã nếm qua cảnh túng quẩn rất sớm, năm 5 tuổi Charlie đã có lần phải lên hát thế mẹ vì bà lâm bệnh. Năm 9 tuổi cậu bé Charlie đã nhập nhóm "The Eight Lancashire Lads" lên sân khấu London rồi từ đó cùng đi theo các đoàn hát lưu diễn khắp nơi. Sidney vì muốn đùm bọc em nên cũng đi theo con đường kịch nghệ và gia nhập đoàn hát Fred Karno, là một trong những đoàn kịch thành công nhất Anh quốc thời đó. Vài năm sau Sidney đã trở thành nghệ sĩ chính của đoàn và tìm cách đưa em mình vào cùng cộng tác. Mùa thu 1912, trong đợt lưu diễn tại Mỹ (đi cùng còn có Stan Laurel sau này cũng rất nổi tiếng về phim giễu), Charlie Chaplin được hãng phim Keystone mời ở lại cộng tác và chỉ một thời gian ngắn sau đã thành danh và được các hãng phim khác đua nhau mời cộng tác. Năm 1915 Charlie đổi sang hãng Essanay và giới thiệu Sidney ở lại cộng tác với Keystone. Chỉ từ khoảng 1913 đến 1916 Chaplin đã đóng gần 50 phim và dần đần nổi tiếng khắp thế giới, nhất là với hình ảnh kẻ lang thang bất tử của ông xuất hiện đầu tiên trong phim "The Tramp". Từ đó Chaplin được phép tự dàn dựng và thủ diễn các cuốn phim mới. Ông là diễn viên đầu tiên trong lịch sử điện ảnh được trả tiền đến cả triệu đô la (năm 1917!). Năm 1919 ông cùng Mary Pickford và hai đồng nghiệp khác đứng ra lập hãng phim United Artists để tạo điều kiện cho nghệ sĩ có thể tự đứng ra thực hiện phim mà không phải chịu ảnh hưởng của các hãng phim tên tuổi. Đây là cũng là một đóng góp không nhỏ của Chaplin cho sự phát triển của kỹ nghệ điện ảnh Mỹ.
Phim của Chaplin rất đơn giản, thường chỉ xoay quanh cuộc sống của những con người bình thường, nhỏ bé, nhưng cả những lúc khốn khổ hay sa cơ thất thế vẫn giữ con tim đôn hậu, nồng ấm. "The Kid" (Gà trống nuôi con) đề cao tình người trong chốn cùng khó, anh chàng lang thang tảo tần nuôi nấng cho đứa bé bị người khác bỏ rơi để rồi sau đó bị quyền lực của đồng tiền giành lại. Trong "City Lights" (Ánh sáng thị thành) Chaplin kể lại tấm lòng chân thật của anh chàng lang thang với cô gái mù bán hoa, mối tình nghèo nhưng vẫn đẹp hơn những bao nhiêu chuyện tình hào nhoáng khác của Hollywood (năm 1998 "Ánh sáng thị thành" được American Film Institute tuyển chọn vào số 100 phim Mỹ hay nhất cổ kim). Tuy Chaplin lấy chủ đề xã hội, nhưng phim của ông lúc nào cũng bừng lên niềm yêu đời lạc quan, anh chàng lang thang dù có vấp ngã bao nhiêu thì cũng vẫn đứng dậy, phủi chiếc nón quả dưa và lạch bạch bước đi cho đến lần cuối trong "Thời đại tân kỳ".
"Thời đại tân kỳ" đánh dấu bước ngoặc trong sự nghiệp phim ảnh của Chaplin vì sau phim này ông chuyển qua làm phim có lời. Năm 1939 Chaplin thực hiện cuốn phim "The Great Dictator", trong đó ông vạch rõ và chế nhạo tham vọng điên rồ của Adolf Hitler (người sinh gần như cùng ngày với Chaplin và mang bộ râu mép giống hệt chàng Charlie lang thang trong phim). Cũng vì cuốn phim này mà Chaplin bắt đầu gặp khó khăn với chính quyền và xã hội Mỹ, lúc bấy giờ vốn vẫn thân thiện với Hitler và muốn kiểm duyệt không cho trình chiếu phim này. Các hãng xưởng lớn của Mỹ lúc đó vẫn sản xuất và cung cấp cho Đức Quốc Xã - đứng đầu là General Motors - ngay cả khi phần lớn Âu châu đã bị xâm chiếm. Những kỹ nghệ gia hàng đầu như Henry Ford hay những nhân vật tên tuổi của Hollywood như Walt Disney đều công khai tán thưởng chính sách bài Do Thái của Hitler, ủng hộ ra mặt Đức Quốc Xã và - ngược lại với Chaplin - vận động hết sức để ngăn cản chính phủ Mỹ tham chiến. Tuy "The Great Dictator" được quần chúng Mỹ nồng nhiệt đón nhận và đạt được số thu lớn nhất trong các phim của Chaplin, nhưng phải đợi đến vụ Trân Châu Cảng (Pearl Harbor) Hoa Kỳ mới thật sự quyết tâm nhảy vào vòng chiến.
Lời sau cùng của anh thợ cạo Do thái (bị nhận lầm là tên độc tài Adenoid Hynkel) trong phim "The Great Dictator" (Chaplin, 1940)[...] Chúng ta đều muốn giúp đỡ lẫn nhau, bản chất con người vốn là như vậy. Chúng ta đều muốn sống bên hạnh phúc của mỗi người chứ không trên sự đau khổ của kẻ khác. Thế giới này có đủ chỗ cho mọi người và trái đất này thừa sức nuôi sống mọi người.
Cuộc sống có thể tự do và đẹp đẽ biết bao.
Nhưng chúng ta đã đi lạc đường. Sự tham lam đã đầu độc đầu óc con người, đã đem thù hận rào cản thế giới, đã đẩy chúng ta vào nghèo khó và giết chóc với từng gót giầy rầm rập của binh lính. Chúng ta tạo ra phương tiện di chuyển ngày càng nhanh nhưng trong tâm khảm lại đứng yên một chỗ. Chúng ta có máy móc để sản xuất thừa mứa nhưng vẫn chưa thấy thỏa mãn. Chúng ta hiểu biết nhiều nhưng vẫn cay độc, chúng ta khôn khéo nhiều cũng chỉ để đè ép nhau. Chúng ta nghĩ nhiều nhưng cảm quá ít. Máy móc để làm gì trong khi chúng ta cần tình người nhiều hơn. Khôn khéo để làm gì trong lúc chúng ta cần cảm thông nhiều hơn. Nếu không cuộc sống này sẽ đầy bạo lực và rồi mọi thứ sẽ bị hủy diệt. [...]
Thực ra Chaplin đã trở thành cái gai trong mắt chính quyền Mỹ từ lâu vì các phim trước của ông ("Thời đại tân kỳ" cũng trong số đó) đã châm biếm hệ thống xã hội Mỹ rất nhiều. Từ năm 1947 Chaplin liên tục bị HUAC (House of Un-American Activities Committee) thẩm vấn và chính J. Edgar Hoover, người đứng đầu FBI, tìm mọi cách rút quyền cư trú ở Mỹ của ông. Trong khi đó Chaplin chưa bao giờ hoạt động chính trị hay tham gia bất cứ đảng phái hay tổ chức nào. Chỉ vì từng trải qua tuổi thơ nghèo khổ - cả khi nổi tiếng và trở thành triệu phú ông vẫn giữ cách sống rất đơn giản - nên bối cảnh và nhân vật trong phim ảnh của ông thường in đậm các vấn đề xã hội. Thêm vào đó Chaplin, với tâm hồn nghệ sĩ yêu chuộng tự do, không hề đặt nặng tinh thần quốc gia như số đông người Mỹ, cho nên dù đã sống và làm việc nhiều thập niên ở đất nước này ông vẫn không xin nhập tịch. Năm 1952, thừa dịp ông sang Anh quốc, Hoover không cho ông vào Mỹ trở lại vì lý do "hoạt động chống lại Hoa Kỳ", mặc dù hoàn toàn không có chứng cớ gì để buộc tội Chaplin. Buồn chán vô hạn, Chaplin và gia đình quyết định ở lại Âu châu, và từ đó định cư tại Thụy sĩ (vợ ông sau đó đã chính thức từ bỏ quốc tịch Mỹ để phản đối).
Nhưng không như FBI mong đợi, hình ảnh của Charlie Chaplin vẫn không giảm sút chút nào trong lòng quần chúng Mỹ. Năm 1963 đại hội phim của Chaplin tổ chức ở New York thành công rực rỡ. Nhưng mãi đến năm 1972 ông mới quay về Mỹ để nhận giải Oscar danh dự "về những thành quả vô kể gầy dựng điện ảnh thành môn nghệ thuật hàng đầu của thế kỷ hai mươi", với sự hoan nghênh lớn nhất và nồng nhiệt nhất trong lịch sử điện ảnh và các giải thưởng Oscar. Tuy vậy cũng vẫn còn một số người vẫn chống đối ra mặt như thống đốc California lúc đó là Ronald Reagan (còn tổng thống đương thời Richard Nixon là người khi xưa đứng đầu HUAC và chính tay làm khó dễ Chaplin rất nhiều thì đang bận rộn với vụ Watergate nên không thấy lên tiếng).
Báo chí và dư luận Mỹ một phần đề cao những thành công về điện ảnh của Chaplin, nhưng cũng thường phanh phui chuyện đời tư khá sóng gió của ông. Thời đó xã hội Mỹ còn khá khắc khe với vấn đề đạo đức chứ không như bây giờ, nhất là đối với những người công chúng biết đến. Năm 1915 khi vừa bắt đầu nổi tiếng Chaplin đã bị đồn đại là có quan hệ vụng trộm với cô đào Edna Purviance đóng chung. Rồi 1918 anh thanh niên 28 tuổi Chaplin cưới cô Mildred Harris, khi ấy mới 16 tuổi! Nhưng chỉ 2 năm sau thì họ đã chia tay. Sau khi quay cuốn phim "Gold rush" năm 1924, Chaplin phải cưới cô Lita Grey cùng đóng trong phim này, khi đó cũng mới 16 tuổi, vì cô đã mang thai với ông! Nhưng cũng chỉ đến 1927 thì hôn nhân này cũng tan rã, và dịp này báo chí bươi móc các chuyện riêng tư thầm kín của Chaplin làm dư luận lên án ông gắt gao. Do đó mà khi quen và cưới Paulette Goddard năm 1936, hai người giữ bí mật cho đến khi chia tay nhau năm 1942. Cuộc hôn nhân thứ tư với Oona O'Neill mới thực sự đem lại hạnh phúc lâu dài, hai người có với nhau 8 người con. Con gái đầu lòng của họ chính là Geraldine Chaplin, sau cũng trở thành diễn viên điện ảnh nổi tiếng.
Chaplin giao lưu với rất nhiều văn nghệ sĩ đương thời khắp thế giới và trong số này có nhiều người trở thành bạn thân của ông như Pablo Picasso, Louis Aragon, H.G. Wells. Ngoài ra, trong số thân hữu lâu năm của Chaplin còn phải kể đến Albert Einstein và Sir Winston Churchill, là những người đã ảnh hưởng không ít đến quan điểm chống phát xít của Chaplin. Tuy vậy, danh tiếng của Chaplin cũng làm cho không ít người ghen ghét và hãm hại. Trong số này có cả Walt Disney - dù từ thuở nhỏ đã rất hâm mộ Chaplin và về sau được Chaplin ủng hộ rất nhiều trong sự nghiệp điện ảnh - là một trong những đồng nghiệp Hollywood cộng tác với FBI để vu cáo cho Chaplin (như hồ sơ FBI sau này công bố).
Click the image to open in full size.
Ngoài tài năng diễn xuất, Chaplin còn chơi thông thạo nhiều nhạc cụ như vĩ cầm và cello. Nhà ông ở California còn có một đại phong cầm mà ông thường đàn khi bạn bè đến thăm. Ngoài ra ông còn sáng tác nhạc, nhất là nhạc phim của chính ông, nổi tiếng nhất là bài "Eternally" trong cuốn phim cuối cùng ông thực hiện tại Mỹ là "Limelight" (Ánh đèn màu). Ông còn viết sách (hai cuốn ghi lại những chuyến đi lưu diễn thế giới, viết trước thế chiến thứ hai, và một hồi ký năm 1964) và xuất bản một tập hình lưu niệm đời làm phim.
Charlie Chaplin mất ngày Giáng Sinh 1977 tại Corsier-Sur-Vevey, Thụy Sĩ, nơi ông cư ngụ cùng gia đình từ ngày rời Mỹ. Theo dự tính, viện bảo tàng Charlie Chaplin sẽ mở cửa tại đây vào cuối năm 2006.
.Năm 1989 nhiều nơi trên thế giới kỷ niệm 100 năm ngày sinh Chaplin. Ở London, công nương Diana tổ chức dạ hội vinh danh người nghệ sĩ kỳ tài này. Ở Pháp, bộ trưởng văn hóa Jack Lang tổ chức một cuộc hội thảo quốc tế về Charlie Chaplin. Ở Nga, Raisa Gorbachyova đặc biệt tham dự buổi trình chiếu cuốn phim "The Great Dictator" trong Đại hội phim Moskva (có lẽ đây là lần đầu tiên công chúng ở Nga được coi phim này). Duy chỉ có thủ đô bên bờ Potomac là im hơi lặng tiếng...
Mặc dù vậy, Charlie Chaplin vẫn là diễn viên điện ảnh đầu tiên được đăng trang bìa tuần báo Time (1925) và sau này được báo này bình chọn là một trong 100 danh nhân của thế kỷ 20. Năm 1931 Chaplin được phong Chevalier de la Légion d'honneur của Pháp (1971 thăng lên Grand officier), năm 1975 được Nữ hoàng Anh tấn phong Knight Commander of the British Empire. Chaplin còn được tặng học vị tiến sĩ danh dự của đại học Oxford và đại học Durham năm 1962. Nhưng chắc điều ông hài lòng nhất vẫn là được vĩnh viễn nhớ tới trong vai trò bất tử của một chàng lang thang ngờ nghệch giữa "thời đại tân kỳ".
Charlie Chaplin : The speech of the Great Dictator
The speech of the Great Dictator
Charlie Chaplin's first talkie, The Great Dictator (1940), is loved and loathed in equal measures, but is an outstanding film in many respects. Although some would say Chaplin, after staying silent for so long, now talked too much, you can't argue that he used sound to great effect and made the transition rather better than many of his contempories.
The film includes many classic scenes of comedy - especially the interplay between Hynkel and Napaloni - but it also has serious undertones. You must remember that this film was made when Adolf Hitler was in power and World War II raged across Europe. It was a brave film to make at the time, though upon learning later of the horror of the concentration camps, Chaplin confessed that he wouldn't have made the film with this knowledge (the same thing Hergé said about his Quick and Flupke/Hitler cartoons).
The speech that ends the film is quite famous and even controversial - for some it is overly sentimental, for others it is a real message of peace from a man that the whole world would listen to. Chaplin was asked to repeat the speech on national radio. It may seem a bit dated now in it's style, but it's still sadly apt for the world today.
The plot before hand concerns an innocent Jewish barber (Chaplin) who ends up being mistaken for the Ptomanian dictator Adenoid Hynkel (also Chaplin). He soon finds himself dressed in the fuhrer's outfit, on a platform facing 'his' army, and expected to make a rousing speech to spur on the evil genocide and invasions.
Text of the speech
"I'm sorry, but I don't want to be an emperor. That's not my business. I don't want to rule or conquer anyone. I should like to help everyone if possible - Jew, Gentile - black man - white.
We all want to help one another. Human beings are like that. We want to live by each other's happiness - not by each other's misery. We don't want to hate and despise one another. In this world there's room for everyone and the good earth is rich and can provide for everyone.
The way of life can be free and beautiful, but we have lost the way. Greed has poisoned men's souls - has barricaded the world with hate - has goose-stepped us into misery and bloodshed. We have developed speed, but we have shut ourselves in. Machinery that gives abundance has left us in want. Our knowledge has made us cynical; our cleverness, hard and unkind. We think too much and feel too little. More than machinery we need humanity. More than cleverness, we need kindness and gentleness. Without these qualities, life will be violent and all will be lost.
The aeroplane and the radio have brought us closer together. The very nature of these inventions cries out for the goodness in man - cries for universal brotherhood - for the unity of us all. Even now my voice is reaching millions throughout the world - millions of despairing men, women, and little children - victims of a system that makes men torture and imprison innocent people. To those who can hear me, I say: 'Do not despair.' The misery that is now upon us is but the passing of greed - the bitterness of men who fear the way of human progress. The hate of men will pass, and dictators die, and the power they took from the people will return to the people. And so long as men die, liberty will never perish.
Soldiers! Don't give yourselves to brutes - men who despise you and enslave you - who regiment your lives - tell you what to do - what to think and what to feel! Who drill you - diet you - treat you like cattle, use you as cannon fodder. Don't give yourselves to these unnatural men - machine men with machine minds and machine hearts! You are not machines! You are not cattle! You are men! You have the love of humanity in your hearts. You don't hate, only the unloved hate - the unloved and the unnatural!
Soldiers! Don't fight for slavery! Fight for liberty! In the seventeenth chapter of St Luke, it is written the kingdom of God is within man not one man nor a group of men, but in all men! In you! You, the people, have the power - the power to create machines. The power to create happiness! You, the people, have the power to make this life free and beautiful - to make this life a wonderful adventure. Then in the name of democracy - let us use that power - let us all unite. Let us fight for a new world - a decent world that will give men a chance to work - that will give youth a future and old age a security.
By the promise of these things, brutes have risen to power. But they lie! They do not fulfil that promise. They never will! Dictators free themselves but they enslave the people. Now let us fight to fulfil that promise! Let us fight to free the world - to do away with national barriers - to do away with greed, with hate and intolerance. Let us fight for a world of reason - a world where science and progress will lead to all men's happiness. Soldiers, in the name of democracy, let us unite!
Hannah, can you hear me? Wherever you are, look up Hannah. The clouds are lifting! The sun is breaking through! We are coming out of the darkness into the light. We are coming into a new world - a kindlier world, where men will rise above their hate, their greed and their brutality. Look up, Hannah! The soul of man has been given wings and at last he is beginning to fly. He is flying into the rainbow - into the light of hope, into the future, the glorious future that belongs to you, to me, and to all of us. Look up, Hannah... look up!"
Sources: 'My Autobiography' by Charles Chaplin and 'The Great Dictator' on Fox video
I have copied this text some days after 11-09-01 from http://www.geocities.com/Hollywood/Screen/7157/chaplin/articles/dictator.html#Anchor-Text-55860 because I think its an important contributioin to a peacful culture and a world of mutual respect. the site has vanished a few days later...
Charlie Chaplin's first talkie, The Great Dictator (1940), is loved and loathed in equal measures, but is an outstanding film in many respects. Although some would say Chaplin, after staying silent for so long, now talked too much, you can't argue that he used sound to great effect and made the transition rather better than many of his contempories.
The film includes many classic scenes of comedy - especially the interplay between Hynkel and Napaloni - but it also has serious undertones. You must remember that this film was made when Adolf Hitler was in power and World War II raged across Europe. It was a brave film to make at the time, though upon learning later of the horror of the concentration camps, Chaplin confessed that he wouldn't have made the film with this knowledge (the same thing Hergé said about his Quick and Flupke/Hitler cartoons).
The speech that ends the film is quite famous and even controversial - for some it is overly sentimental, for others it is a real message of peace from a man that the whole world would listen to. Chaplin was asked to repeat the speech on national radio. It may seem a bit dated now in it's style, but it's still sadly apt for the world today.
The plot before hand concerns an innocent Jewish barber (Chaplin) who ends up being mistaken for the Ptomanian dictator Adenoid Hynkel (also Chaplin). He soon finds himself dressed in the fuhrer's outfit, on a platform facing 'his' army, and expected to make a rousing speech to spur on the evil genocide and invasions.
Text of the speech
"I'm sorry, but I don't want to be an emperor. That's not my business. I don't want to rule or conquer anyone. I should like to help everyone if possible - Jew, Gentile - black man - white.
We all want to help one another. Human beings are like that. We want to live by each other's happiness - not by each other's misery. We don't want to hate and despise one another. In this world there's room for everyone and the good earth is rich and can provide for everyone.
The way of life can be free and beautiful, but we have lost the way. Greed has poisoned men's souls - has barricaded the world with hate - has goose-stepped us into misery and bloodshed. We have developed speed, but we have shut ourselves in. Machinery that gives abundance has left us in want. Our knowledge has made us cynical; our cleverness, hard and unkind. We think too much and feel too little. More than machinery we need humanity. More than cleverness, we need kindness and gentleness. Without these qualities, life will be violent and all will be lost.
The aeroplane and the radio have brought us closer together. The very nature of these inventions cries out for the goodness in man - cries for universal brotherhood - for the unity of us all. Even now my voice is reaching millions throughout the world - millions of despairing men, women, and little children - victims of a system that makes men torture and imprison innocent people. To those who can hear me, I say: 'Do not despair.' The misery that is now upon us is but the passing of greed - the bitterness of men who fear the way of human progress. The hate of men will pass, and dictators die, and the power they took from the people will return to the people. And so long as men die, liberty will never perish.
Soldiers! Don't give yourselves to brutes - men who despise you and enslave you - who regiment your lives - tell you what to do - what to think and what to feel! Who drill you - diet you - treat you like cattle, use you as cannon fodder. Don't give yourselves to these unnatural men - machine men with machine minds and machine hearts! You are not machines! You are not cattle! You are men! You have the love of humanity in your hearts. You don't hate, only the unloved hate - the unloved and the unnatural!
Soldiers! Don't fight for slavery! Fight for liberty! In the seventeenth chapter of St Luke, it is written the kingdom of God is within man not one man nor a group of men, but in all men! In you! You, the people, have the power - the power to create machines. The power to create happiness! You, the people, have the power to make this life free and beautiful - to make this life a wonderful adventure. Then in the name of democracy - let us use that power - let us all unite. Let us fight for a new world - a decent world that will give men a chance to work - that will give youth a future and old age a security.
By the promise of these things, brutes have risen to power. But they lie! They do not fulfil that promise. They never will! Dictators free themselves but they enslave the people. Now let us fight to fulfil that promise! Let us fight to free the world - to do away with national barriers - to do away with greed, with hate and intolerance. Let us fight for a world of reason - a world where science and progress will lead to all men's happiness. Soldiers, in the name of democracy, let us unite!
Hannah, can you hear me? Wherever you are, look up Hannah. The clouds are lifting! The sun is breaking through! We are coming out of the darkness into the light. We are coming into a new world - a kindlier world, where men will rise above their hate, their greed and their brutality. Look up, Hannah! The soul of man has been given wings and at last he is beginning to fly. He is flying into the rainbow - into the light of hope, into the future, the glorious future that belongs to you, to me, and to all of us. Look up, Hannah... look up!"
Sources: 'My Autobiography' by Charles Chaplin and 'The Great Dictator' on Fox video
I have copied this text some days after 11-09-01 from http://www.geocities.com/Hollywood/Screen/7157/chaplin/articles/dictator.html#Anchor-Text-55860 because I think its an important contributioin to a peacful culture and a world of mutual respect. the site has vanished a few days later...
5/4/10
Three by Trịnh Công Sơn
Three by Trịnh Công Sơn
Trịnh Công Sơn
♦ Chuyển ngữ: Tôn Thất Quỳnh Du
Passage of Time
Hugging the heart of night
watching the moon rise
missing those foot-loose days.
Oh how fleeting
youth turns into old age
destiny arrives one day
as life passes by.
No-one is left
the return journey so long
nights spent without you.
Glasses of burning wine,
I drink all my life.
The good news, I send back
to expectant humanity.
Come back and sit out the days
watching bright sunlight
watching the passing rain.
Does anyone ever return
after leaving this life
to the end of the horizon
as floating clouds.
Well, go then.
What is there to life’s journey
bar the few seasons of youth.
But sometimes from the garden of the night
your footsteps return, soft and light
like the soul of those years long ago.
(Translated by Tôn thất Quỳnh Du – October 2007)
Phôi Pha
Ôm lòng đêm
nhìn vầng trăng mới về
nhớ chân giang hồ
ôi phù du
từng tuổi xuân đã già
một ngày kia đến bờ
đời người như gió qua…
Không còn ai
đường về ôi quá dài
những đêm xa người
chén rượu cay
một đời tôi uống hoài
trả lại từng tin vui
cho nhân gian chờ đợi…
Về ngồi trong những ngày
nhìn từng hôm nắng ngời
nhìn từng khi mưa bay
có những ai xa đời quay về lại
về lại nơi cuối trời
làm mây trôi…
Thôi về đi
đường trần đâu có gì
tóc xanh mấy mùa
có nhiều khi
từ vườn khuya bước về
bàn chân ai rất nhẹ
tựa hồn những năm xưa…
Trịnh Công Sơn (1960)
The remaining eye llustration by Buu Chi
Bửu Chỉ, Con Mắt Còn Lại
The remaining eye
(Translated from “Con Mắt Còn Lại,” Trịnh Công Sơn, 1992)
With two eyes left, I cry for those with one
Left with two eyes, with one I cry for humanity
The remaining eye looks at my life
Sees me rise high, sees me fall low
The remaining eye looks at the fading love
Once in my hands but has slipped away
The remaining eye, whose eye is it?
The remaining eye looks at me with a heavy sigh
With two eyes left, I cry for those with one
Left with two eyes, with one I cry for humanity
The remaining eye sees two in one
Sees you in loving tenderness, sees you a savage beast
The remaining eye doubts my love for you
This love is crazy, this yearning a madness
The remaining eye watches white clouds drift away
The remaining eye looks at me, compassion mixed with pity
With two eyes left, I cry for those with one
Left with two eyes, with one I cry for humanity
The remaining eye looks at lightness of life
Sees you as fleeting, like dappled sunlight
The remaining eye, soft and gentle-hearted,
Watches you leave, empty and distant in your heart
The remaining eye sees the darkest of nights
The remaining eye sees long nights of passion
Con mắt còn lại
(Trịnh Công Sơn, 1992)
Còn hai con mắt khóc người một con
Còn hai con mắt một con khóc người
Con mắt còn lại nhìn cuộc đời tôi
Nhìn tôi lên cao nhìn tôi xuống thấp
Con mắt còn lại nhìn cuộc tình phai
Tình trong hai tay một hôm biến mất
Con mắt còn lại là con mắt ai
Con mắt còn lại nhìn tôi thở dài
Còn hai con mắt khóc người một con
Còn hai con mắt một con khóc người
Con mắt còn lại nhìn một thành hai
Nhìn em yêu thương nhìn em thú dữ
Con mắt còn lại ngờ vực tình tôi
Cuồng điên yêu thương cuồng điên nỗi nhớ
Con mắt còn lại nhìn mây trắng bay
Con mắt còn lại nhìn tôi bùi ngùi
Còn hai con mắt khóc người một con
Còn hai con mắt một con khóc người
Con mắt còn lại nhìn đời là không
Nhìn em hư vô nhìn em bóng nắng
Con mắt còn lại nhẹ nhàng từ tâm
Nhìn em ra đi lòng em xa vắng
Con mắt còn lại là đêm tối tăm
Con mắt còn lại là đêm nồng nàn.
*Chú thích:
Bài viết theo ý thơ Bùi Giáng: “Còn hai con mắt, khóc người một con…”
Cast into the Wind
To live one’s life
one needs a heart
to what end, do you know, my love?
to cast into the wind
to cast into the wind
the wind blows and clouds ride over the river
as day rises or evening falls in its vastness
the heart drifts away as time passes
a shadow propagating words of lies
when evening falls
one needs laughter
to contemplate with the falling leaves
floating away in flowing water
floating away in flowing water
let’s view life from a different side
and look through this love affair
let’s contemplate in wordless silence
to feel the crushing pain of the heart
to feel the crushing pain in the heart
in the heart, an injured bird lies still
forever sleeping with its deep deep wound
one morning, it flies away on an unending trip
and its calls melt into the rising wind
let’s love the days to come
though so tired of our human lot
let’s enjoy life as it remains
though someone is absent
though someone is absent
(1971)
Để gió cuốn đi
Sống trong đời sống
Cần có một tấm lòng
Để làm gì em biết không
Để gió cuốn đi
Để gió cuốn đi
Gió cuốn đi cho mây qua dòng sông
Ngày vừa lên hay đêm xuống mênh mong
Ôi trái tim đang bay theo thời gian
Làm chiếc bóng đi rao lời dối gian
Những khi chiều tới
Cần có một tiếng cười
Để ngậm ngùi theo lá bay
Rồi nước cuốn trôi
Rồi nước cuốn trôi
Hãy nghiêng đời xuống
Nhìn suốt một mối tình
Chỉ lặng nhìn không nói năng
Để buốt trái tim
Để buốt trái tim
Trong trái tim con chim đau nằm yên
Ngủ dài lâu mang theo vết thương sâu
Một sớm mai chim bay đi triền miên
Và tiếng hót tan trong trời gió lên
Hãy yêu ngày tới
Dù quá mệt kiếp người
Còn cuộc đời ta cứ vui
Dù vắng bóng ai
Dù vắng bóng ai.
(1971)
Trịnh Công Sơn
♦ Chuyển ngữ: Tôn Thất Quỳnh Du
Passage of Time
Hugging the heart of night
watching the moon rise
missing those foot-loose days.
Oh how fleeting
youth turns into old age
destiny arrives one day
as life passes by.
No-one is left
the return journey so long
nights spent without you.
Glasses of burning wine,
I drink all my life.
The good news, I send back
to expectant humanity.
Come back and sit out the days
watching bright sunlight
watching the passing rain.
Does anyone ever return
after leaving this life
to the end of the horizon
as floating clouds.
Well, go then.
What is there to life’s journey
bar the few seasons of youth.
But sometimes from the garden of the night
your footsteps return, soft and light
like the soul of those years long ago.
(Translated by Tôn thất Quỳnh Du – October 2007)
Phôi Pha
Ôm lòng đêm
nhìn vầng trăng mới về
nhớ chân giang hồ
ôi phù du
từng tuổi xuân đã già
một ngày kia đến bờ
đời người như gió qua…
Không còn ai
đường về ôi quá dài
những đêm xa người
chén rượu cay
một đời tôi uống hoài
trả lại từng tin vui
cho nhân gian chờ đợi…
Về ngồi trong những ngày
nhìn từng hôm nắng ngời
nhìn từng khi mưa bay
có những ai xa đời quay về lại
về lại nơi cuối trời
làm mây trôi…
Thôi về đi
đường trần đâu có gì
tóc xanh mấy mùa
có nhiều khi
từ vườn khuya bước về
bàn chân ai rất nhẹ
tựa hồn những năm xưa…
Trịnh Công Sơn (1960)
The remaining eye llustration by Buu Chi
Bửu Chỉ, Con Mắt Còn Lại
The remaining eye
(Translated from “Con Mắt Còn Lại,” Trịnh Công Sơn, 1992)
With two eyes left, I cry for those with one
Left with two eyes, with one I cry for humanity
The remaining eye looks at my life
Sees me rise high, sees me fall low
The remaining eye looks at the fading love
Once in my hands but has slipped away
The remaining eye, whose eye is it?
The remaining eye looks at me with a heavy sigh
With two eyes left, I cry for those with one
Left with two eyes, with one I cry for humanity
The remaining eye sees two in one
Sees you in loving tenderness, sees you a savage beast
The remaining eye doubts my love for you
This love is crazy, this yearning a madness
The remaining eye watches white clouds drift away
The remaining eye looks at me, compassion mixed with pity
With two eyes left, I cry for those with one
Left with two eyes, with one I cry for humanity
The remaining eye looks at lightness of life
Sees you as fleeting, like dappled sunlight
The remaining eye, soft and gentle-hearted,
Watches you leave, empty and distant in your heart
The remaining eye sees the darkest of nights
The remaining eye sees long nights of passion
Con mắt còn lại
(Trịnh Công Sơn, 1992)
Còn hai con mắt khóc người một con
Còn hai con mắt một con khóc người
Con mắt còn lại nhìn cuộc đời tôi
Nhìn tôi lên cao nhìn tôi xuống thấp
Con mắt còn lại nhìn cuộc tình phai
Tình trong hai tay một hôm biến mất
Con mắt còn lại là con mắt ai
Con mắt còn lại nhìn tôi thở dài
Còn hai con mắt khóc người một con
Còn hai con mắt một con khóc người
Con mắt còn lại nhìn một thành hai
Nhìn em yêu thương nhìn em thú dữ
Con mắt còn lại ngờ vực tình tôi
Cuồng điên yêu thương cuồng điên nỗi nhớ
Con mắt còn lại nhìn mây trắng bay
Con mắt còn lại nhìn tôi bùi ngùi
Còn hai con mắt khóc người một con
Còn hai con mắt một con khóc người
Con mắt còn lại nhìn đời là không
Nhìn em hư vô nhìn em bóng nắng
Con mắt còn lại nhẹ nhàng từ tâm
Nhìn em ra đi lòng em xa vắng
Con mắt còn lại là đêm tối tăm
Con mắt còn lại là đêm nồng nàn.
*Chú thích:
Bài viết theo ý thơ Bùi Giáng: “Còn hai con mắt, khóc người một con…”
Cast into the Wind
To live one’s life
one needs a heart
to what end, do you know, my love?
to cast into the wind
to cast into the wind
the wind blows and clouds ride over the river
as day rises or evening falls in its vastness
the heart drifts away as time passes
a shadow propagating words of lies
when evening falls
one needs laughter
to contemplate with the falling leaves
floating away in flowing water
floating away in flowing water
let’s view life from a different side
and look through this love affair
let’s contemplate in wordless silence
to feel the crushing pain of the heart
to feel the crushing pain in the heart
in the heart, an injured bird lies still
forever sleeping with its deep deep wound
one morning, it flies away on an unending trip
and its calls melt into the rising wind
let’s love the days to come
though so tired of our human lot
let’s enjoy life as it remains
though someone is absent
though someone is absent
(1971)
Để gió cuốn đi
Sống trong đời sống
Cần có một tấm lòng
Để làm gì em biết không
Để gió cuốn đi
Để gió cuốn đi
Gió cuốn đi cho mây qua dòng sông
Ngày vừa lên hay đêm xuống mênh mong
Ôi trái tim đang bay theo thời gian
Làm chiếc bóng đi rao lời dối gian
Những khi chiều tới
Cần có một tiếng cười
Để ngậm ngùi theo lá bay
Rồi nước cuốn trôi
Rồi nước cuốn trôi
Hãy nghiêng đời xuống
Nhìn suốt một mối tình
Chỉ lặng nhìn không nói năng
Để buốt trái tim
Để buốt trái tim
Trong trái tim con chim đau nằm yên
Ngủ dài lâu mang theo vết thương sâu
Một sớm mai chim bay đi triền miên
Và tiếng hót tan trong trời gió lên
Hãy yêu ngày tới
Dù quá mệt kiếp người
Còn cuộc đời ta cứ vui
Dù vắng bóng ai
Dù vắng bóng ai.
(1971)
3/4/10
Chaplin, Charlie : Bài diễn văn của ông thợ cạo ....
Chaplin, Charlie Bài diễn văn của ông thợ cạo trong vị thế một nhà độc tài vĩ đại bất đắc dĩ
Bản dịch của Hoàng Ngọc-Tuấn
Lời người dịch:
The Great Dictator (Nhà độc tài vĩ đại) là một cuốn phim khôi hài của Charlie Chaplin. Được trình chiếu lần đầu vào tháng 9 năm 1940 tại New York, rồi xuất hiện tại nhiều rạp cinema trên khắp nước Mỹ vào tháng 10, và đến với công chúng của nước Anh vào tháng 11 năm ấy. Sau đó, cuốn phim được trình chiếu ở Pháp vào tháng 4 năm 1945, ngay trước khi Thế Chiến II kết thúc.
Đây là cuốn phim “nói” đầu tiên của Charlie Chaplin và được xem là tác phẩm điện ảnh thành công nhất của ông. Trong phim có rất nhiều đoạn tuyệt vời, nhưng đoạn gây xúc động và để lại ấn tượng sâu đậm nhất trong tôi là đoạn ông thợ cạo (do chính Chaplin đóng) bị nhận diện nhầm là nhà độc tài vĩ đại (cũng do chính Chaplin đóng), và bị mời lên khán đài để đọc một bài diễn văn được truyền thanh khắp thế giới. Trong vị thế một nhà độc tài vĩ đại bất đắc dĩ, ông thợ cạo bắt đầu bài diễn văn của ông với vẻ do dự, nhưng càng diễn đạt tư tưởng của mình thì ông càng trở nên lưu loát hơn, và giọng nói của ông càng lúc càng mạnh mẽ, quyết liệt, đầy xúc cảm và sức thuyết phục.
Đây là một bài diễn văn tuyệt vời được trình diễn một cách tuyệt vời bởi thiên tài Charlie Chaplin. Ở thế kỷ 21, chúng ta có thể cho rằng một số ý tưởng trong bài diễn văn này không còn mới mẻ. Tuy nhiên, là một người Việt Nam trong thời điểm này, tôi cảm thấy xúc động sâu xa mỗi lần nghe lại những đoạn cuối cùng trong bài diễn văn của ông thợ cạo.
Tôi xin gửi đến các bạn bản dịch Việt ngữ của bài diễn văn, và mời các bạn cùng xem lại đoạn phim này trên Youtube (HNT )
BÀI DIỄN VĂN CỦA ÔNG THỢ CẠO
TRONG VỊ THẾ MỘT NHÀ ĐỘC TÀI VĨ ĐẠI BẤT ĐẮC DĨ
Tôi xin lỗi. Tôi không muốn làm một đại đế. Đó không phải là công việc của tôi. Tôi không muốn thống trị hay chinh phạt ai cả. Trong khả năng của mình, tôi muốn giúp đỡ mọi người — Do-thái, không Do-thái, da đen, da trắng.
Tất cả chúng ta đều muốn giúp đỡ nhau. Con người là như thế. Chúng ta muốn sống vì niềm vui của nhau — không phải vì nỗi khốn khổ của nhau. Chúng ta không muốn thù ghét và khinh bỉ nhau. Thế giới này có đủ chỗ cho mọi người và quả đất tốt lành này thì giàu có và có thể nuôi sống mọi người.
Con đường của sự sống có thể là tự do và đẹp đẽ, nhưng chúng ta đã đánh mất con đường ấy. Sự tham lam đã đánh độc tâm hồn con người, đã vây hãm thế giới trong sự oán thù, đã xua chúng ta dấn bước vào sự lầm than và đổ máu. Chúng ta đã phát triển tốc độ, nhưng chúng ta đã giam hãm chính mình. Máy móc đáng lẽ mang đến cho chúng ta sự dư dật, thì lại khiến chúng ta đói rách. Sự hiểu biết của chúng ta đã làm chúng ta trở nên chua cay; sự khôn khéo của chúng ta đã làm chúng ta trở nên khắc nghiệt. Chúng ta suy nghĩ quá nhiều và cảm nhận quá ít. Hơn cả máy móc, chúng ta cần tình người. Hơn cả sự khôn khéo, chúng ta cần sự tử tế và sự dịu dàng. Không có những phẩm tính này, cuộc sống sẽ trở nên cuồng bạo và chúng ta sẽ đánh mất tất cả.
Máy bay và máy truyền thanh đã mang chúng ta đến gần nhau hơn. Bản chất của những phát minh này đòi hỏi thiện tâm của con người, đòi hỏi tình anh em trong nhân loại, đòi hỏi sự hợp quần của tất cả chúng ta. Ngay trong giây phút này tiếng nói của tôi đang đến với hàng triệu người trên khắp thế giới — hàng triệu người đàn ông, đàn bà, và trẻ con đang tuyệt vọng — những nạn nhân của một hệ thống — cái hệ thống đã sai khiến những kẻ hành hạ và giam cầm những người vô tội. Đối với những ai có thể nghe tôi, tôi nói: “Đừng tuyệt vọng.” Sự khốn khổ hôm nay đang đè nặng trên chúng ta chỉ là khoảnh khắc ngắn ngủi của sự tham lam, chỉ là sự cay đắng của những kẻ sợ hãi trước sự tiến bộ của nhân loại. Lòng thù hận của con người sẽ trôi qua, và những tên độc tài sẽ chết, và cái sức mạnh mà họ chiếm đoạt từ con người sẽ trở lại với con người. Và đến khi con người còn phải chết đi, thì khi ấy tự do vẫn không hề tàn lụi.
Các chiến sĩ! Đừng nạp mình cho những con thú — những kẻ khinh bỉ các bạn và bắt các bạn làm nô lệ, những kẻ đặt cuộc sống của các bạn vào hệ thống, điều khiển hành động của các bạn, ý nghĩ của các bạn và cảm xúc của các bạn! Những kẻ trui rèn các bạn, kiểm soát khẩu phần của các bạn, xem các bạn như trâu bò, dùng các bạn như những con cờ thí. Đừng nạp mình cho những kẻ quái đản ấy, những con người máy móc với những đầu óc máy móc và những trái tim máy móc! Các bạn không phải là máy móc! Các bạn không phải là trâu bò! Các bạn là những con người! Các bạn có tình yêu nhân loại trong tim. Các bạn không thù hận. Chỉ những kẻ không được yêu thương thì mới thù hận. Đó là những kẻ không có tình thương và những kẻ quái đản!
Hỡi các chiến sĩ! Đừng chiến đấu cho sự nô lệ! Hãy chiến đấu cho sự tự do! Chương thứ 17 của sách thánh Luca có viết rằng vương quốc của Thượng Đế thì ở trong con người, không chỉ trong một người hay một nhóm người, mà trong mọi con người! Trong các bạn! Các bạn, là nhân dân, các bạn có sức mạnh — cái sức mạnh để sáng tạo ra máy móc. Cái sức mạnh để sáng tạo ra hạnh phúc! Các bạn, là nhân dân, các bạn có sức mạnh để làm cho cuộc sống này tự do và đẹp đẽ, để làm cho cuộc sống này trở thành một cuộc phiêu lưu tuyệt vời. Thế thì, nhân danh dân chủ, chúng ta hãy sử dụng sức mạnh đó. Tất cả chúng ta hãy đoàn kết lại. Chúng ta hãy chiến đấu cho một thế giới mới, một thế giới tốt lành nơi đó con người sẽ có một cơ hội để làm việc, tuổi trẻ sẽ có một tương lai và tuổi già sẽ được an dưỡng.
Bằng lời hứa hẹn về những điều này, những con thú đã nổi lên nắm lấy quyền lực. Nhưng chúng chỉ nói láo! Chúng không giữ lời hứa. Chúng sẽ không bao giờ giữ lời hứa! Những tên độc tài giành lấy tự do cho chính họ nhưng lại bắt nhân dân làm nô lệ. Giờ đây chúng ta hãy chiến đấu để thực hiện lời hứa đó! Chúng ta hãy chiến đấu để làm cho thế giới được tự do, để xoá bỏ những biên cương quốc gia, để xoá bỏ lòng tham lam, hận thù và bất dung. Chúng ta hãy chiến đấu cho một thế giới hữu lý, một thế giới trong đó khoa học và sự tiến bộ sẽ mang hạnh phúc đến cho mọi con người.
Hỡi các chiến sĩ! Nhân danh dân chủ, hãy đoàn kết lại !
----------------------------------------------------------------------------
Phụ lục : Bản tiếng Anh ( compiled by Tran Ho Dung )
The Great Dictator's Speech
I’m sorry, but I don’t want to be an emperor. That’s not my business. I don’t want to rule or conquer anyone. I should like to help everyone - if possible - Jew, Gentile - black man - white. We all want to help one another. Human beings are like that. We want to live by each other’s happiness - not by each other’s misery. We don’t want to hate and despise one another. In this world there is room for everyone. And the good earth is rich and can provide for everyone. The way of life can be free and beautiful, but we have lost the way.
Greed has poisoned men’s souls, has barricaded the world with hate, has goose-stepped us into misery and bloodshed. We have developed speed, but we have shut ourselves in. Machinery that gives abundance has left us in want. Our knowledge has made us cynical. Our cleverness, hard and unkind. We think too much and feel too little. More than machinery we need humanity. More than cleverness we need kindness and gentleness. Without these qualities, life will be violent and all will be lost....
The aeroplane and the radio have brought us closer together. The very nature of these inventions cries out for the goodness in men - cries out for universal brotherhood - for the unity of us all. Even now my voice is reaching millions throughout the world - millions of despairing men, women, and little children - victims of a system that makes men torture and imprison innocent people.
To those who can hear me, I say - do not despair. The misery that is now upon us is but the passing of greed - the bitterness of men who fear the way of human progress. The hate of men will pass, and dictators die, and the power they took from the people will return to the people. And so long as men die, liberty will never perish. .....
Soldiers! don’t give yourselves to brutes - men who despise you - enslave you - who regiment your lives - tell you what to do - what to think and what to feel! Who drill you - diet you - treat you like cattle, use you as cannon fodder. Don’t give yourselves to these unnatural men - machine men with machine minds and machine hearts! You are not machines! You are not cattle! You are men! You have the love of humanity in your hearts! You don’t hate! Only the unloved hate - the unloved and the unnatural! Soldiers! Don’t fight for slavery! Fight for liberty!
In the 17th Chapter of St Luke it is written: “the Kingdom of God is within man” - not one man nor a group of men, but in all men! In you! You, the people have the power - the power to create machines. The power to create happiness! You, the people, have the power to make this life free and beautiful, to make this life a wonderful adventure.
Then - in the name of democracy - let us use that power - let us all unite. Let us fight for a new world - a decent world that will give men a chance to work - that will give youth a future and old age a security. By the promise of these things, brutes have risen to power. But they lie! They do not fulfil that promise. They never will!
Dictators free themselves but they enslave the people! Now let us fight to fulfil that promise! Let us fight to free the world - to do away with national barriers - to do away with greed, with hate and intolerance. Let us fight for a world of reason, a world where science and progress will lead to all men’s happiness. Soldiers! in the name of democracy, let us all unite!
( Source : http://charliechaplin.com )
Bản dịch của Hoàng Ngọc-Tuấn
Lời người dịch:
The Great Dictator (Nhà độc tài vĩ đại) là một cuốn phim khôi hài của Charlie Chaplin. Được trình chiếu lần đầu vào tháng 9 năm 1940 tại New York, rồi xuất hiện tại nhiều rạp cinema trên khắp nước Mỹ vào tháng 10, và đến với công chúng của nước Anh vào tháng 11 năm ấy. Sau đó, cuốn phim được trình chiếu ở Pháp vào tháng 4 năm 1945, ngay trước khi Thế Chiến II kết thúc.
Đây là cuốn phim “nói” đầu tiên của Charlie Chaplin và được xem là tác phẩm điện ảnh thành công nhất của ông. Trong phim có rất nhiều đoạn tuyệt vời, nhưng đoạn gây xúc động và để lại ấn tượng sâu đậm nhất trong tôi là đoạn ông thợ cạo (do chính Chaplin đóng) bị nhận diện nhầm là nhà độc tài vĩ đại (cũng do chính Chaplin đóng), và bị mời lên khán đài để đọc một bài diễn văn được truyền thanh khắp thế giới. Trong vị thế một nhà độc tài vĩ đại bất đắc dĩ, ông thợ cạo bắt đầu bài diễn văn của ông với vẻ do dự, nhưng càng diễn đạt tư tưởng của mình thì ông càng trở nên lưu loát hơn, và giọng nói của ông càng lúc càng mạnh mẽ, quyết liệt, đầy xúc cảm và sức thuyết phục.
Đây là một bài diễn văn tuyệt vời được trình diễn một cách tuyệt vời bởi thiên tài Charlie Chaplin. Ở thế kỷ 21, chúng ta có thể cho rằng một số ý tưởng trong bài diễn văn này không còn mới mẻ. Tuy nhiên, là một người Việt Nam trong thời điểm này, tôi cảm thấy xúc động sâu xa mỗi lần nghe lại những đoạn cuối cùng trong bài diễn văn của ông thợ cạo.
Tôi xin gửi đến các bạn bản dịch Việt ngữ của bài diễn văn, và mời các bạn cùng xem lại đoạn phim này trên Youtube (HNT )
BÀI DIỄN VĂN CỦA ÔNG THỢ CẠO
TRONG VỊ THẾ MỘT NHÀ ĐỘC TÀI VĨ ĐẠI BẤT ĐẮC DĨ
Tôi xin lỗi. Tôi không muốn làm một đại đế. Đó không phải là công việc của tôi. Tôi không muốn thống trị hay chinh phạt ai cả. Trong khả năng của mình, tôi muốn giúp đỡ mọi người — Do-thái, không Do-thái, da đen, da trắng.
Tất cả chúng ta đều muốn giúp đỡ nhau. Con người là như thế. Chúng ta muốn sống vì niềm vui của nhau — không phải vì nỗi khốn khổ của nhau. Chúng ta không muốn thù ghét và khinh bỉ nhau. Thế giới này có đủ chỗ cho mọi người và quả đất tốt lành này thì giàu có và có thể nuôi sống mọi người.
Con đường của sự sống có thể là tự do và đẹp đẽ, nhưng chúng ta đã đánh mất con đường ấy. Sự tham lam đã đánh độc tâm hồn con người, đã vây hãm thế giới trong sự oán thù, đã xua chúng ta dấn bước vào sự lầm than và đổ máu. Chúng ta đã phát triển tốc độ, nhưng chúng ta đã giam hãm chính mình. Máy móc đáng lẽ mang đến cho chúng ta sự dư dật, thì lại khiến chúng ta đói rách. Sự hiểu biết của chúng ta đã làm chúng ta trở nên chua cay; sự khôn khéo của chúng ta đã làm chúng ta trở nên khắc nghiệt. Chúng ta suy nghĩ quá nhiều và cảm nhận quá ít. Hơn cả máy móc, chúng ta cần tình người. Hơn cả sự khôn khéo, chúng ta cần sự tử tế và sự dịu dàng. Không có những phẩm tính này, cuộc sống sẽ trở nên cuồng bạo và chúng ta sẽ đánh mất tất cả.
Máy bay và máy truyền thanh đã mang chúng ta đến gần nhau hơn. Bản chất của những phát minh này đòi hỏi thiện tâm của con người, đòi hỏi tình anh em trong nhân loại, đòi hỏi sự hợp quần của tất cả chúng ta. Ngay trong giây phút này tiếng nói của tôi đang đến với hàng triệu người trên khắp thế giới — hàng triệu người đàn ông, đàn bà, và trẻ con đang tuyệt vọng — những nạn nhân của một hệ thống — cái hệ thống đã sai khiến những kẻ hành hạ và giam cầm những người vô tội. Đối với những ai có thể nghe tôi, tôi nói: “Đừng tuyệt vọng.” Sự khốn khổ hôm nay đang đè nặng trên chúng ta chỉ là khoảnh khắc ngắn ngủi của sự tham lam, chỉ là sự cay đắng của những kẻ sợ hãi trước sự tiến bộ của nhân loại. Lòng thù hận của con người sẽ trôi qua, và những tên độc tài sẽ chết, và cái sức mạnh mà họ chiếm đoạt từ con người sẽ trở lại với con người. Và đến khi con người còn phải chết đi, thì khi ấy tự do vẫn không hề tàn lụi.
Các chiến sĩ! Đừng nạp mình cho những con thú — những kẻ khinh bỉ các bạn và bắt các bạn làm nô lệ, những kẻ đặt cuộc sống của các bạn vào hệ thống, điều khiển hành động của các bạn, ý nghĩ của các bạn và cảm xúc của các bạn! Những kẻ trui rèn các bạn, kiểm soát khẩu phần của các bạn, xem các bạn như trâu bò, dùng các bạn như những con cờ thí. Đừng nạp mình cho những kẻ quái đản ấy, những con người máy móc với những đầu óc máy móc và những trái tim máy móc! Các bạn không phải là máy móc! Các bạn không phải là trâu bò! Các bạn là những con người! Các bạn có tình yêu nhân loại trong tim. Các bạn không thù hận. Chỉ những kẻ không được yêu thương thì mới thù hận. Đó là những kẻ không có tình thương và những kẻ quái đản!
Hỡi các chiến sĩ! Đừng chiến đấu cho sự nô lệ! Hãy chiến đấu cho sự tự do! Chương thứ 17 của sách thánh Luca có viết rằng vương quốc của Thượng Đế thì ở trong con người, không chỉ trong một người hay một nhóm người, mà trong mọi con người! Trong các bạn! Các bạn, là nhân dân, các bạn có sức mạnh — cái sức mạnh để sáng tạo ra máy móc. Cái sức mạnh để sáng tạo ra hạnh phúc! Các bạn, là nhân dân, các bạn có sức mạnh để làm cho cuộc sống này tự do và đẹp đẽ, để làm cho cuộc sống này trở thành một cuộc phiêu lưu tuyệt vời. Thế thì, nhân danh dân chủ, chúng ta hãy sử dụng sức mạnh đó. Tất cả chúng ta hãy đoàn kết lại. Chúng ta hãy chiến đấu cho một thế giới mới, một thế giới tốt lành nơi đó con người sẽ có một cơ hội để làm việc, tuổi trẻ sẽ có một tương lai và tuổi già sẽ được an dưỡng.
Bằng lời hứa hẹn về những điều này, những con thú đã nổi lên nắm lấy quyền lực. Nhưng chúng chỉ nói láo! Chúng không giữ lời hứa. Chúng sẽ không bao giờ giữ lời hứa! Những tên độc tài giành lấy tự do cho chính họ nhưng lại bắt nhân dân làm nô lệ. Giờ đây chúng ta hãy chiến đấu để thực hiện lời hứa đó! Chúng ta hãy chiến đấu để làm cho thế giới được tự do, để xoá bỏ những biên cương quốc gia, để xoá bỏ lòng tham lam, hận thù và bất dung. Chúng ta hãy chiến đấu cho một thế giới hữu lý, một thế giới trong đó khoa học và sự tiến bộ sẽ mang hạnh phúc đến cho mọi con người.
Hỡi các chiến sĩ! Nhân danh dân chủ, hãy đoàn kết lại !
----------------------------------------------------------------------------
Phụ lục : Bản tiếng Anh ( compiled by Tran Ho Dung )
The Great Dictator's Speech
I’m sorry, but I don’t want to be an emperor. That’s not my business. I don’t want to rule or conquer anyone. I should like to help everyone - if possible - Jew, Gentile - black man - white. We all want to help one another. Human beings are like that. We want to live by each other’s happiness - not by each other’s misery. We don’t want to hate and despise one another. In this world there is room for everyone. And the good earth is rich and can provide for everyone. The way of life can be free and beautiful, but we have lost the way.
Greed has poisoned men’s souls, has barricaded the world with hate, has goose-stepped us into misery and bloodshed. We have developed speed, but we have shut ourselves in. Machinery that gives abundance has left us in want. Our knowledge has made us cynical. Our cleverness, hard and unkind. We think too much and feel too little. More than machinery we need humanity. More than cleverness we need kindness and gentleness. Without these qualities, life will be violent and all will be lost....
The aeroplane and the radio have brought us closer together. The very nature of these inventions cries out for the goodness in men - cries out for universal brotherhood - for the unity of us all. Even now my voice is reaching millions throughout the world - millions of despairing men, women, and little children - victims of a system that makes men torture and imprison innocent people.
To those who can hear me, I say - do not despair. The misery that is now upon us is but the passing of greed - the bitterness of men who fear the way of human progress. The hate of men will pass, and dictators die, and the power they took from the people will return to the people. And so long as men die, liberty will never perish. .....
Soldiers! don’t give yourselves to brutes - men who despise you - enslave you - who regiment your lives - tell you what to do - what to think and what to feel! Who drill you - diet you - treat you like cattle, use you as cannon fodder. Don’t give yourselves to these unnatural men - machine men with machine minds and machine hearts! You are not machines! You are not cattle! You are men! You have the love of humanity in your hearts! You don’t hate! Only the unloved hate - the unloved and the unnatural! Soldiers! Don’t fight for slavery! Fight for liberty!
In the 17th Chapter of St Luke it is written: “the Kingdom of God is within man” - not one man nor a group of men, but in all men! In you! You, the people have the power - the power to create machines. The power to create happiness! You, the people, have the power to make this life free and beautiful, to make this life a wonderful adventure.
Then - in the name of democracy - let us use that power - let us all unite. Let us fight for a new world - a decent world that will give men a chance to work - that will give youth a future and old age a security. By the promise of these things, brutes have risen to power. But they lie! They do not fulfil that promise. They never will!
Dictators free themselves but they enslave the people! Now let us fight to fulfil that promise! Let us fight to free the world - to do away with national barriers - to do away with greed, with hate and intolerance. Let us fight for a world of reason, a world where science and progress will lead to all men’s happiness. Soldiers! in the name of democracy, let us all unite!
( Source : http://charliechaplin.com )
2/4/10
Cái mũi của Darwin...
Thứ bảy, ngày 03 tháng 04 năm 2010 | 08:22 (GMT+7)
Cái mũi của Darwin: Từ chuyện vặt bắt qua chuyện lớn
Tác giả: GS. Cao Huy Thuần
"Trong những sách viết về Darwin, tôi thích cái nhan đề này của David Quammen: "The Reluctant Mr Darwin", ông Darwin lưỡng lự. Không phải Darwin lưỡng lự về niềm tin khoa học của ông" - GS. Cao Huy Thuần.
Phần 1; Phần 2; Phần 3
Từ những chuyện vặt
Đọc những sách viết về Darwin và đọc Tự Truyện của ông, kẻ rất dốt về khoa học là tôi chỉ dám để ý đến những chuyện vặt. Chẳng hạn chuyện vặt về con người của ông. Chuyện vặt về dăm ba ý tưởng lộ ra bên lề những vấn đề khoa học lớn mà tôi không với tới.
Vô duyên hết sức, chuyện vợ con tình ái là chuyện trước tiên mà tôi tò mò muốn biết mỗi khi chiêm nghiệm về cuộc đời của bất cứ ai, không chỉ của danh nhân. Cho nên tôi muốn biết ông lấy vợ như thế nào. Đúng là nhà khoa học! Tôi chưa thấy ai viết gãy gọn trên giấy trắng mực đen những loay hoay tính toán chi ly trong đầu về cái gì là lợi, cái gì là hại, của việc lấy vợ.
Thói thường, tuy là đại sự, ai cũng phải đánh liều đưa chân nhắm mắt, không cả hai con thì cũng một. Ông thì không! Trên giấy trắng, ông tính toán, như người ta tính sổ ngân hàng, cột này là tiền vào, cột kia là tiền ra, đây là thu, đó là chi, này là được, nọ là mất, cột bên trái là lợi lộc nếu lấy vợ, cột bên phải là hư hao nếu không lấy. Hai trang giấy dày đặc. Trên trang đầu, nghiêm trang ngự trị một cái nhan đề: "Đây là vấn đề". That's the question! Y chang Hamlet: to be or not to be. Kết luận: To be! "Lấy vợ!" "Lấy vợ!" "Lấy vợ!" "Can đảm lên... Chẳng hề gì đâu... Hãy tin ở ngẫu nhiên... biết bao tên nô lệ đã sung sướng"!
Trang giấy hai cột đó, với những dòng chữ hào hùng kia, ông nguệch ngoạc vào năm 1837-1838. Ông lấy vợ ngày 29-1-1939. Vợ ông, Emma, năm đó 30 tuổi. Ở tuổi ấy, vào thế kỷ ấy, bà có cơ nguy khó tìm đôi lứa. Bởi vậy, mọi chuyện xảy đến đều nhanh. Ông bà biết nhau vì có quan hệ bà con rất gần. Quen thì quen vậy từ ba mươi năm, nhưng sôi sục thì chưa, cho nên bà không khỏi sửng sốt khi ông bất thần cầu hôn. Và khi bà nhận lời thì ông cũng giật mình.
Đọc chuyện vợ con ở đây, tò mò của tôi nhắm vào hướng khác. Tôi không thỏa mãn với giải thích của John Van Wyhe về im lặng của Darwin trong suốt 21 năm trước khi xuất bản tác phẩm "Nguồn cội...". Tuy Van Wyhe đã đưa ra những luận cứ rất thuyết phục, tôi vẫn nghĩ rằng, đối với một người đã đắn đo, cân nhắc chi ly ngay cả trong chuyện trăm năm, việc đắn đo cân nhắc trước khi công bố một tác phẩm động trời có thể hiểu được. Nhận định của tôi là chủ quan, riêng tư, tôi biết, nhưng quả thật tôi vẫn nghĩ rằng trong suốt 21 năm, biết đâu mỗi ngày Darwin đều có nguệch ngoạc một trang giấy hai cột như vậy trong đầu để kết luận là not to be, khoan công bố. Biết đâu những trang giấy vô hình đó đã làm ông đau hoài đau mãi, đau những trận đau kỳ lạ, bác sĩ cũng không biết bệnh gì.
Trong những sách viết về Darwin, tôi thích cái nhan đề này của David Quammen: "The Reluctant Mr Darwin", ông Darwin lưỡng lự. Không phải Darwin lưỡng lự về niềm tin khoa học của ông. Ông tin chắc ở lý thuyết của ông, không lay chuyển. Nhưng ông không mù quáng về niềm tin khoa học, không tín điều, không cho rằng khoa học có thể giải thích tất cả. Ông không tin nữa ở Thượng đế, nhưng ông không báng bổ Thượng đế, Thượng đế có lĩnh vực vinh quang riêng của Ngài, miễn là đại diện của Ngài đừng xía vào lĩnh vực khoa học.
Ai đọc Tự Truyện của ông đều nhặt ra được nhiều chi tiết cho phép tưởng tượng ra được một con người không hề cực đoan. Tôi cũng chỉ làm cái việc tưởng tượng ấy mà thôi. Tôi trích một chuyện vặt ông kể về thân phụ của ông, bác sĩ, nhưng lại rất sợ máu, sợ đến nỗi đã truyền cái sợ máu chảy ấy cho ông:
"Hồi trẻ, cha tôi có gia nhập hội Franc-Maçon. Một người bạn của cha tôi, cũng franc-maçon, giả vờ không biết cha tôi sợ máu, hỏi ông khi hai người cùng đi đến dự buổi lễ khai tâm: "Cậu đâu có ngán mất vài giọt máu phải không? " Hình như, trong buổi lễ gia nhập đoàn thể, người ta bịt mắt cha tôi và xắn tay áo của ông lên. Tôi không biết ngày nay một buổi lễ như vậy có còn diễn ra không, nhưng cha tôi nói về buổi lễ hôm ấy như một ví dụ tuyệt hảo về sức mạnh của tưởng tượng, bởi vì ông cảm thấy rõ ràng máu chảy dọc theo cánh tay của ông, và ông không tin ở mắt của ông sau đó khi ông không thấy dấu tích gì của một vết chích nào" (27).
Ai dám nói tâm lý không có ảnh hưởng gì trên vật chất? Tâm không có ảnh hưởng gì trên thân?
Một chuyện vặt khác nữa, cũng về thân phụ của ông. Ông viết về cha khá nhiều.
"Lúc cha tôi hãy còn rất trẻ, một hôm ông được gọi đến khám bệnh, cùng với một vị bác sĩ già của gia đình, tại một nhà quý phái, rất có tiếng. Vị bác sĩ già nói nhỏ với vợ người chủ nhà: bệnh ấy của chồng bà nặng lắm, chắc không qua khỏi. Cha tôi thì nghĩ trái lại và quả quyết là bệnh sẽ lành. Sau đó thì sự việc cho biết là cha tôi đã chẩn đoán sai và ông cũng công nhận là mình sai. Ông tin chắc là gia đình ấy sẽ không bao giờ mời ông khám bệnh nữa, vậy mà, vài tháng sau, bà góa phụ của người chủ nhà lại mời ông đến thay vì mời vị bác sĩ già của gia đình. Cha tôi ngạc nhiên đến độ phải đi hỏi người bạn của bà góa phụ tại sao ông lại được mời lần nữa. Bà góa phụ trả lời rằng bà không muốn thấy cái mặt của ông bác sĩ già đáng tởm kia nữa vì đã nói ngay từ đầu rằng chồng bà sẽ chết, còn bác sĩ Darwin thì quả quyết là sẽ chữa được" (28).
Thế thì con người có một bản tính tự nhiên chăng? Chưa hết. Cũng bản tính tự nhiên ấy nữa được kể tiếp:
"Trong một vụ khác, cha tôi quả quyết với một bà rằng chồng của bà sẽ chết thôi. Vài tháng sau, ông gặp lại bà ấy, đã thành quả phụ; bà nói với giọng chín chắn: "Ông đang còn rất trẻ, cho phép tôi khuyên ông: càng lâu chừng nào càng tốt chừng ấy, ông hãy luôn luôn ban hy vọng cho người săn sóc bệnh nhân. Ông đã làm tôi mất hy vọng, và từ đó đến nay, tôi mất hết sức lực" (29).
Con người có bản tính tự nhiên hay không là một vấn đề mà Darwin ngờ vực. Ông nói: lúc nhỏ, ông là một đứa bé giàu lòng thương người, nhưng đó là tính nết mà ông đã học được và đã bắt chước từ các bà chị của ông. Vậy mà, khi kể hai chuyện vặt nói trên về thân sinh của ông, ông kể như "đưa ra hình ảnh kỳ lạ của bản tính con người" (30). Con người đâu có phải chỉ là vật chất? Vật chất sao được, khi những chuyện ông kể về tâm lý buộc người đọc phải nghĩ về một Darwin khác, một Darwin biết suy nghĩ quân bình giữa sinh lý và tâm lý. Đây, chuyện vặt về tâm lý, cũng liên quan đến thân sinh của ông:
"Cha tôi thường kể cho tôi nghe những chuyện lặt vặt mà ông cho là có ích cho nghề y khoa của ông. Chẳng hạn, các bà hay khóc tức ta tức tưởi khi kể cho ông nghe bệnh của họ, khiến ông quá mất thì giờ. Ông để ý rằng, nếu ông bảo các bà ấy chận nước mắt lại, đừng khóc nữa, thì các bà càng khóc to hơn, cho nên lúc nào ông cũng khuyến khích các bà ấy khóc, nói rằng khóc cho nguôi đi. Kết quả là mười lần như chục, các bà ngưng khóc ngay" (31).
Chuyện vặt ấy, và nhiều chuyện vặt khác nữa về phụ nữ, khiến người đọc phải nghĩ: ô hay, không những con người có thể có bản tính, mà người phụ nữ cũng có bản tính đàn bà chăng?
Bắt qua chuyện lớn
Từ chuyện vặt bắt qua chuyện lớn, Darwin luôn luôn mực thước trong lý thuyết. Con người là tiến hóa từ loài khỉ chăng? Bao nhiêu nhà khoa học danh tiếng về thuyết tiến hóa đã loại con người ra khỏi tranh luận về thuyết ấy vì Kinh thánh đã dạy: Thượng đế đã tạo ra con người theo hình ảnh của Ngài. Ngay cả Wallace, đồng tác giả với Darwin, cũng chủ trương bộ não của con người là ngoại lệ.
Ảnh hưởng của tôn giáo đè nặng trên tư tưởng phương Tây đến nỗi bao nhiêu nghiên cứu khoa học chỉ nhắm vào mỗi một việc là tìm cho ra một tiêu chuẩn chính xác để phân biệt về phẩm chất giữa người và giống khỉ chimpanzé và gorille. Nhưng cũng biết bao nhiêu nhà khoa học ngày nay chẳng nghi ngờ gì nữa về sự tiếp tục không ngừng giữa người và khỉ. Họ thấy chẳng làm hạ giá con người chút nào khi đặt con người vào lại Thiên Nhiên: ai dám bảo hình ảnh đó không hùng tráng bằng hình ảnh con của Thượng đế? Giữa cơn động đất về tư tưởng mà Darwin là nguyên nhân, ông đã nói gì thực sự? Rất thận trọng, ông viết một câu cực kỳ đơn giản trong lần xuất bản đầu tiên tác phẩm "Nguồn cội...": "Ánh sáng sẽ rọi vào nguồn gốc và lịch sử của con người". Trong những lần tái bản kế tiếp, ông chỉ thêm một chữ ở đầu câu: "Tất cả". Tất cả ánh sáng. Ánh sáng của ông chưa rọi đến!
Về nguồn gốc đầu tiên của con người, ông lý luận: lúc đầu, ông cũng tin có một Nguyên Nhân đầu tiên, do trí óc của con người nghĩ ra, nhưng càng nghiên cứu sinh vật, ông lại càng nghi ngờ khả năng đó của trí óc. Tại sao? Tại vì "trí óc của con người, mà tôi chắc chắn là đã phát triển từ một trí óc thô thiển không khác gì trí óc của một con vật thấp kém nhất, trí óc ấy có đáng cho ta tin cậy được chăng khi nó nghĩ ra một kết luận về ý nghĩa ghê gớm như vậy? Kết luận ấy phải chăng chỉ là kết quả của một liên hệ nhân quả mà ta cho là cần thiết, nhưng rất có thể tùy thuộc vào một kinh nghiệm được thừa kế? Phải chăng ta đã xem quá nhẹ khả năng của giáo dục, giáo dục ấy đã gieo vào đầu trẻ em lòng tin Thượng đế và có thể đã tạo ra một hậu quả phi thường có tính di truyền trên những bộ não hãy còn non nớt? Giải phóng những bộ não ấy ra khỏi lòng tin Thượng đế khó chẳng khác gì giải phóng con khỉ ra khỏi mối sợ hãi bản năng trước con rắn" (32).
Tuy vậy, tuy tin chắc chắn vậy, ông vẫn giữ một thái độ khoa học khiêm tốn và thú nhận: "Tôi không có ý rọi một tia sáng gì vào những vấn đề mờ mịt như thế. Bí mât về khởi thủy của vạn vật chưa dò tới được" (33).
Ngay cả lý thuyết về cạnh tranh sinh tồn, nòng cốt như thế trong khám phá của ông, ông vẫn không xem đó là giải thích duy nhất, là tín điều, về biến đổi. Ông thừa nhận các yếu tố khác nữa, như sự di truyền của tính nết đã hấp thụ, như việc sử dụng hay không sử dụng các bộ phận của cơ thể trong tiến hóa. Ông không khép lại cánh cửa của những khám phá khác trong tương lai, ông mở ra, mời đón. Bởi vì, ông nói, ông "luôn luôn cố gắng giữ trí óc tự do để có thể từ bỏ một giả thuyết, dù hấp dẫn, nếu sự kiện phản kháng lại" (34).
Trong suốt 21 năm im lặng trước khi xuất bản "Nguồn cội...", ông đã âm thầm thu thập thêm bao nhiêu sự kiện nữa để chắc chắn rằng lý thuyết mình đưa ra đủ sức thuyết phục. Nhưng điều đáng ghi nhận hơn nữa là ông đã bày tỏ những ngờ vực của mình một cách thẳng thắn như bày tỏ những xác quyết. Mỗi tác phẩm mà ông đã lần lượt xuất bản đều đánh dấu một chặng đường đưa đến một hiểu biết mới. Ông luôn luôn khai phóng, chưa bao giờ chấp chặt, co quắp trong tín điều (35).
Trong một thư gửi bạn năm 1869, ông viết: "Giá như tôi được sống thêm 20 năm nữa và còn khả năng làm việc, tôi sẽ còn thay đổi "Nguồn cội..." biết bao nhiêu nữa, và biết bao nhiêu nữa ý nghĩ của tôi về mỗi điểm sẽ đổi khác! Nhưng thôi, đây là bước đầu, mà như thế cũng đã được rồi..." (36). Vừa xác quyết chân lý, vừa gạt bỏ tín điều: một câu thư riêng thôi, nhưng chân chính bao nhiêu thái độ khoa học.
Tôi thích bình luận của Stephen Jay Gould về thái độ khiêm tốn và thông thoáng ấy của Darwin. Thiên nhiên, Gould viết, phức tạp và phong phú đến nỗi cái gì cũng có thể xảy ra. Một giải thích tổng quát, rõ ràng và tối hậu về những vấn đề của sự sống là không thể có được. Ta có thể tìm được câu trả lời hợp lý cho những vấn đề quan trọng bậc trung. Nhưng đối với những vấn đề tối hậu, câu trả lời ngã quỵ trước thiên nhiên quá giàu có. Vậy mà vui! Một thiên nhiên hãy còn giữ bí mật mới đem lại bao nhiêu thích thú cho cuộc sống, mới đem lại bao nhiêu hứng khởi cho những bước chân tìm tòi lần mò" (37).
Hãy để cho các nhà thần giáo co rúm với cái chìa khóa trong tay họ, miễn là họ đừng bắt cả thiên hạ đều phải chui vào cùng một cánh cửa. Riêng tôi, đứng trước ngưỡng cửa khoa học của Darwin, tôi chỉ muốn hỏi thêm ông một câu hỏi nhỏ của người đọc Tự Truyện của ông.
Ở trang 70, ông kể về khởi thủy của chuyến đi khảo cứu trên tàu Beagle năm 1831, ông viết: thuyền trưởng FitzRoy "suýt nữa từ chối, không cho tôi đi, vì hình dáng của cái mũi của tôi". Thạo nghề xem tướng, FitzRoy ngờ rằng với một cái mũi có hình dáng như vậy, chủ nhân của nó không thể là người có đủ năng lực và quyết tâm để làm một cuộc phiêu du 5 năm ròng rã.
Tôi muốn hỏi: giá như viên thuyền trưởng tin chắc ở tài xem tướng của mình và hành động theo đúng như vậy, Darwin có trở thành Darwin và khoa học có chăng một Darwin để thế giới kỷ niệm 200 năm? Vậy cái gì làm Darwin trở thành Darwin? Sự thiếu tin tưởng của viên thuyền trưởng về tài xem tướng? Thượng đế muốn ông đi để chứng minh ngài không có? Hay ngẫu nhiên?
Tôi xếp Tự Truyện của Darwin, nhưng tấm ảnh của ông trên bìa cứ bắt tôi phải nhìn cái mũi. Tôi thấy nó cựa quậy như muốn nói với tôi: làm gì có một nguyên nhân duy nhất cho mỗi sự việc? Sự việc nào lại không có trùng trùng nguyên nhân! Nói gì nguyên nhân đầu tiên!
-----------------------
Chú thích:
27. L'Autobiographie, trang 31.
28. Như trên, trang 38.
29. Như trên.
30. Như trên, trang 37.
31. Như trên..
32. Như trên, trang 89.
33. Như trên.
34. Như trên, trang 132.
35. Xem bài Tựa của Nora Barlow trong L'Autobiographie.
36. Thư gửi J.D. Hooker đăng trong bài Tựa của Barlow.
37. Gould, Darwin et les grandes énigmes de la vie, trang 279.
Trang chủ | Sự kiện nóng | Nhân vật trong ngày | Thông tin đa chiều | Tư liệu & suy ngẫm | Thế giới truyền thông | Nghe xem đọc | Harvard'S | Trực tuyến | Người quan sát | Thư Thăng Long | Giới thiệu | RSS | Trợ giúp
© TUANVIETNAM.NET
Cái mũi của Darwin: Từ chuyện vặt bắt qua chuyện lớn
Tác giả: GS. Cao Huy Thuần
"Trong những sách viết về Darwin, tôi thích cái nhan đề này của David Quammen: "The Reluctant Mr Darwin", ông Darwin lưỡng lự. Không phải Darwin lưỡng lự về niềm tin khoa học của ông" - GS. Cao Huy Thuần.
Phần 1; Phần 2; Phần 3
Từ những chuyện vặt
Đọc những sách viết về Darwin và đọc Tự Truyện của ông, kẻ rất dốt về khoa học là tôi chỉ dám để ý đến những chuyện vặt. Chẳng hạn chuyện vặt về con người của ông. Chuyện vặt về dăm ba ý tưởng lộ ra bên lề những vấn đề khoa học lớn mà tôi không với tới.
Vô duyên hết sức, chuyện vợ con tình ái là chuyện trước tiên mà tôi tò mò muốn biết mỗi khi chiêm nghiệm về cuộc đời của bất cứ ai, không chỉ của danh nhân. Cho nên tôi muốn biết ông lấy vợ như thế nào. Đúng là nhà khoa học! Tôi chưa thấy ai viết gãy gọn trên giấy trắng mực đen những loay hoay tính toán chi ly trong đầu về cái gì là lợi, cái gì là hại, của việc lấy vợ.
Thói thường, tuy là đại sự, ai cũng phải đánh liều đưa chân nhắm mắt, không cả hai con thì cũng một. Ông thì không! Trên giấy trắng, ông tính toán, như người ta tính sổ ngân hàng, cột này là tiền vào, cột kia là tiền ra, đây là thu, đó là chi, này là được, nọ là mất, cột bên trái là lợi lộc nếu lấy vợ, cột bên phải là hư hao nếu không lấy. Hai trang giấy dày đặc. Trên trang đầu, nghiêm trang ngự trị một cái nhan đề: "Đây là vấn đề". That's the question! Y chang Hamlet: to be or not to be. Kết luận: To be! "Lấy vợ!" "Lấy vợ!" "Lấy vợ!" "Can đảm lên... Chẳng hề gì đâu... Hãy tin ở ngẫu nhiên... biết bao tên nô lệ đã sung sướng"!
Trang giấy hai cột đó, với những dòng chữ hào hùng kia, ông nguệch ngoạc vào năm 1837-1838. Ông lấy vợ ngày 29-1-1939. Vợ ông, Emma, năm đó 30 tuổi. Ở tuổi ấy, vào thế kỷ ấy, bà có cơ nguy khó tìm đôi lứa. Bởi vậy, mọi chuyện xảy đến đều nhanh. Ông bà biết nhau vì có quan hệ bà con rất gần. Quen thì quen vậy từ ba mươi năm, nhưng sôi sục thì chưa, cho nên bà không khỏi sửng sốt khi ông bất thần cầu hôn. Và khi bà nhận lời thì ông cũng giật mình.
Đọc chuyện vợ con ở đây, tò mò của tôi nhắm vào hướng khác. Tôi không thỏa mãn với giải thích của John Van Wyhe về im lặng của Darwin trong suốt 21 năm trước khi xuất bản tác phẩm "Nguồn cội...". Tuy Van Wyhe đã đưa ra những luận cứ rất thuyết phục, tôi vẫn nghĩ rằng, đối với một người đã đắn đo, cân nhắc chi ly ngay cả trong chuyện trăm năm, việc đắn đo cân nhắc trước khi công bố một tác phẩm động trời có thể hiểu được. Nhận định của tôi là chủ quan, riêng tư, tôi biết, nhưng quả thật tôi vẫn nghĩ rằng trong suốt 21 năm, biết đâu mỗi ngày Darwin đều có nguệch ngoạc một trang giấy hai cột như vậy trong đầu để kết luận là not to be, khoan công bố. Biết đâu những trang giấy vô hình đó đã làm ông đau hoài đau mãi, đau những trận đau kỳ lạ, bác sĩ cũng không biết bệnh gì.
Trong những sách viết về Darwin, tôi thích cái nhan đề này của David Quammen: "The Reluctant Mr Darwin", ông Darwin lưỡng lự. Không phải Darwin lưỡng lự về niềm tin khoa học của ông. Ông tin chắc ở lý thuyết của ông, không lay chuyển. Nhưng ông không mù quáng về niềm tin khoa học, không tín điều, không cho rằng khoa học có thể giải thích tất cả. Ông không tin nữa ở Thượng đế, nhưng ông không báng bổ Thượng đế, Thượng đế có lĩnh vực vinh quang riêng của Ngài, miễn là đại diện của Ngài đừng xía vào lĩnh vực khoa học.
Ai đọc Tự Truyện của ông đều nhặt ra được nhiều chi tiết cho phép tưởng tượng ra được một con người không hề cực đoan. Tôi cũng chỉ làm cái việc tưởng tượng ấy mà thôi. Tôi trích một chuyện vặt ông kể về thân phụ của ông, bác sĩ, nhưng lại rất sợ máu, sợ đến nỗi đã truyền cái sợ máu chảy ấy cho ông:
"Hồi trẻ, cha tôi có gia nhập hội Franc-Maçon. Một người bạn của cha tôi, cũng franc-maçon, giả vờ không biết cha tôi sợ máu, hỏi ông khi hai người cùng đi đến dự buổi lễ khai tâm: "Cậu đâu có ngán mất vài giọt máu phải không? " Hình như, trong buổi lễ gia nhập đoàn thể, người ta bịt mắt cha tôi và xắn tay áo của ông lên. Tôi không biết ngày nay một buổi lễ như vậy có còn diễn ra không, nhưng cha tôi nói về buổi lễ hôm ấy như một ví dụ tuyệt hảo về sức mạnh của tưởng tượng, bởi vì ông cảm thấy rõ ràng máu chảy dọc theo cánh tay của ông, và ông không tin ở mắt của ông sau đó khi ông không thấy dấu tích gì của một vết chích nào" (27).
Ai dám nói tâm lý không có ảnh hưởng gì trên vật chất? Tâm không có ảnh hưởng gì trên thân?
Một chuyện vặt khác nữa, cũng về thân phụ của ông. Ông viết về cha khá nhiều.
"Lúc cha tôi hãy còn rất trẻ, một hôm ông được gọi đến khám bệnh, cùng với một vị bác sĩ già của gia đình, tại một nhà quý phái, rất có tiếng. Vị bác sĩ già nói nhỏ với vợ người chủ nhà: bệnh ấy của chồng bà nặng lắm, chắc không qua khỏi. Cha tôi thì nghĩ trái lại và quả quyết là bệnh sẽ lành. Sau đó thì sự việc cho biết là cha tôi đã chẩn đoán sai và ông cũng công nhận là mình sai. Ông tin chắc là gia đình ấy sẽ không bao giờ mời ông khám bệnh nữa, vậy mà, vài tháng sau, bà góa phụ của người chủ nhà lại mời ông đến thay vì mời vị bác sĩ già của gia đình. Cha tôi ngạc nhiên đến độ phải đi hỏi người bạn của bà góa phụ tại sao ông lại được mời lần nữa. Bà góa phụ trả lời rằng bà không muốn thấy cái mặt của ông bác sĩ già đáng tởm kia nữa vì đã nói ngay từ đầu rằng chồng bà sẽ chết, còn bác sĩ Darwin thì quả quyết là sẽ chữa được" (28).
Thế thì con người có một bản tính tự nhiên chăng? Chưa hết. Cũng bản tính tự nhiên ấy nữa được kể tiếp:
"Trong một vụ khác, cha tôi quả quyết với một bà rằng chồng của bà sẽ chết thôi. Vài tháng sau, ông gặp lại bà ấy, đã thành quả phụ; bà nói với giọng chín chắn: "Ông đang còn rất trẻ, cho phép tôi khuyên ông: càng lâu chừng nào càng tốt chừng ấy, ông hãy luôn luôn ban hy vọng cho người săn sóc bệnh nhân. Ông đã làm tôi mất hy vọng, và từ đó đến nay, tôi mất hết sức lực" (29).
Con người có bản tính tự nhiên hay không là một vấn đề mà Darwin ngờ vực. Ông nói: lúc nhỏ, ông là một đứa bé giàu lòng thương người, nhưng đó là tính nết mà ông đã học được và đã bắt chước từ các bà chị của ông. Vậy mà, khi kể hai chuyện vặt nói trên về thân sinh của ông, ông kể như "đưa ra hình ảnh kỳ lạ của bản tính con người" (30). Con người đâu có phải chỉ là vật chất? Vật chất sao được, khi những chuyện ông kể về tâm lý buộc người đọc phải nghĩ về một Darwin khác, một Darwin biết suy nghĩ quân bình giữa sinh lý và tâm lý. Đây, chuyện vặt về tâm lý, cũng liên quan đến thân sinh của ông:
"Cha tôi thường kể cho tôi nghe những chuyện lặt vặt mà ông cho là có ích cho nghề y khoa của ông. Chẳng hạn, các bà hay khóc tức ta tức tưởi khi kể cho ông nghe bệnh của họ, khiến ông quá mất thì giờ. Ông để ý rằng, nếu ông bảo các bà ấy chận nước mắt lại, đừng khóc nữa, thì các bà càng khóc to hơn, cho nên lúc nào ông cũng khuyến khích các bà ấy khóc, nói rằng khóc cho nguôi đi. Kết quả là mười lần như chục, các bà ngưng khóc ngay" (31).
Chuyện vặt ấy, và nhiều chuyện vặt khác nữa về phụ nữ, khiến người đọc phải nghĩ: ô hay, không những con người có thể có bản tính, mà người phụ nữ cũng có bản tính đàn bà chăng?
Bắt qua chuyện lớn
Từ chuyện vặt bắt qua chuyện lớn, Darwin luôn luôn mực thước trong lý thuyết. Con người là tiến hóa từ loài khỉ chăng? Bao nhiêu nhà khoa học danh tiếng về thuyết tiến hóa đã loại con người ra khỏi tranh luận về thuyết ấy vì Kinh thánh đã dạy: Thượng đế đã tạo ra con người theo hình ảnh của Ngài. Ngay cả Wallace, đồng tác giả với Darwin, cũng chủ trương bộ não của con người là ngoại lệ.
Ảnh hưởng của tôn giáo đè nặng trên tư tưởng phương Tây đến nỗi bao nhiêu nghiên cứu khoa học chỉ nhắm vào mỗi một việc là tìm cho ra một tiêu chuẩn chính xác để phân biệt về phẩm chất giữa người và giống khỉ chimpanzé và gorille. Nhưng cũng biết bao nhiêu nhà khoa học ngày nay chẳng nghi ngờ gì nữa về sự tiếp tục không ngừng giữa người và khỉ. Họ thấy chẳng làm hạ giá con người chút nào khi đặt con người vào lại Thiên Nhiên: ai dám bảo hình ảnh đó không hùng tráng bằng hình ảnh con của Thượng đế? Giữa cơn động đất về tư tưởng mà Darwin là nguyên nhân, ông đã nói gì thực sự? Rất thận trọng, ông viết một câu cực kỳ đơn giản trong lần xuất bản đầu tiên tác phẩm "Nguồn cội...": "Ánh sáng sẽ rọi vào nguồn gốc và lịch sử của con người". Trong những lần tái bản kế tiếp, ông chỉ thêm một chữ ở đầu câu: "Tất cả". Tất cả ánh sáng. Ánh sáng của ông chưa rọi đến!
Về nguồn gốc đầu tiên của con người, ông lý luận: lúc đầu, ông cũng tin có một Nguyên Nhân đầu tiên, do trí óc của con người nghĩ ra, nhưng càng nghiên cứu sinh vật, ông lại càng nghi ngờ khả năng đó của trí óc. Tại sao? Tại vì "trí óc của con người, mà tôi chắc chắn là đã phát triển từ một trí óc thô thiển không khác gì trí óc của một con vật thấp kém nhất, trí óc ấy có đáng cho ta tin cậy được chăng khi nó nghĩ ra một kết luận về ý nghĩa ghê gớm như vậy? Kết luận ấy phải chăng chỉ là kết quả của một liên hệ nhân quả mà ta cho là cần thiết, nhưng rất có thể tùy thuộc vào một kinh nghiệm được thừa kế? Phải chăng ta đã xem quá nhẹ khả năng của giáo dục, giáo dục ấy đã gieo vào đầu trẻ em lòng tin Thượng đế và có thể đã tạo ra một hậu quả phi thường có tính di truyền trên những bộ não hãy còn non nớt? Giải phóng những bộ não ấy ra khỏi lòng tin Thượng đế khó chẳng khác gì giải phóng con khỉ ra khỏi mối sợ hãi bản năng trước con rắn" (32).
Tuy vậy, tuy tin chắc chắn vậy, ông vẫn giữ một thái độ khoa học khiêm tốn và thú nhận: "Tôi không có ý rọi một tia sáng gì vào những vấn đề mờ mịt như thế. Bí mât về khởi thủy của vạn vật chưa dò tới được" (33).
Ngay cả lý thuyết về cạnh tranh sinh tồn, nòng cốt như thế trong khám phá của ông, ông vẫn không xem đó là giải thích duy nhất, là tín điều, về biến đổi. Ông thừa nhận các yếu tố khác nữa, như sự di truyền của tính nết đã hấp thụ, như việc sử dụng hay không sử dụng các bộ phận của cơ thể trong tiến hóa. Ông không khép lại cánh cửa của những khám phá khác trong tương lai, ông mở ra, mời đón. Bởi vì, ông nói, ông "luôn luôn cố gắng giữ trí óc tự do để có thể từ bỏ một giả thuyết, dù hấp dẫn, nếu sự kiện phản kháng lại" (34).
Trong suốt 21 năm im lặng trước khi xuất bản "Nguồn cội...", ông đã âm thầm thu thập thêm bao nhiêu sự kiện nữa để chắc chắn rằng lý thuyết mình đưa ra đủ sức thuyết phục. Nhưng điều đáng ghi nhận hơn nữa là ông đã bày tỏ những ngờ vực của mình một cách thẳng thắn như bày tỏ những xác quyết. Mỗi tác phẩm mà ông đã lần lượt xuất bản đều đánh dấu một chặng đường đưa đến một hiểu biết mới. Ông luôn luôn khai phóng, chưa bao giờ chấp chặt, co quắp trong tín điều (35).
Trong một thư gửi bạn năm 1869, ông viết: "Giá như tôi được sống thêm 20 năm nữa và còn khả năng làm việc, tôi sẽ còn thay đổi "Nguồn cội..." biết bao nhiêu nữa, và biết bao nhiêu nữa ý nghĩ của tôi về mỗi điểm sẽ đổi khác! Nhưng thôi, đây là bước đầu, mà như thế cũng đã được rồi..." (36). Vừa xác quyết chân lý, vừa gạt bỏ tín điều: một câu thư riêng thôi, nhưng chân chính bao nhiêu thái độ khoa học.
Tôi thích bình luận của Stephen Jay Gould về thái độ khiêm tốn và thông thoáng ấy của Darwin. Thiên nhiên, Gould viết, phức tạp và phong phú đến nỗi cái gì cũng có thể xảy ra. Một giải thích tổng quát, rõ ràng và tối hậu về những vấn đề của sự sống là không thể có được. Ta có thể tìm được câu trả lời hợp lý cho những vấn đề quan trọng bậc trung. Nhưng đối với những vấn đề tối hậu, câu trả lời ngã quỵ trước thiên nhiên quá giàu có. Vậy mà vui! Một thiên nhiên hãy còn giữ bí mật mới đem lại bao nhiêu thích thú cho cuộc sống, mới đem lại bao nhiêu hứng khởi cho những bước chân tìm tòi lần mò" (37).
Hãy để cho các nhà thần giáo co rúm với cái chìa khóa trong tay họ, miễn là họ đừng bắt cả thiên hạ đều phải chui vào cùng một cánh cửa. Riêng tôi, đứng trước ngưỡng cửa khoa học của Darwin, tôi chỉ muốn hỏi thêm ông một câu hỏi nhỏ của người đọc Tự Truyện của ông.
Ở trang 70, ông kể về khởi thủy của chuyến đi khảo cứu trên tàu Beagle năm 1831, ông viết: thuyền trưởng FitzRoy "suýt nữa từ chối, không cho tôi đi, vì hình dáng của cái mũi của tôi". Thạo nghề xem tướng, FitzRoy ngờ rằng với một cái mũi có hình dáng như vậy, chủ nhân của nó không thể là người có đủ năng lực và quyết tâm để làm một cuộc phiêu du 5 năm ròng rã.
Tôi muốn hỏi: giá như viên thuyền trưởng tin chắc ở tài xem tướng của mình và hành động theo đúng như vậy, Darwin có trở thành Darwin và khoa học có chăng một Darwin để thế giới kỷ niệm 200 năm? Vậy cái gì làm Darwin trở thành Darwin? Sự thiếu tin tưởng của viên thuyền trưởng về tài xem tướng? Thượng đế muốn ông đi để chứng minh ngài không có? Hay ngẫu nhiên?
Tôi xếp Tự Truyện của Darwin, nhưng tấm ảnh của ông trên bìa cứ bắt tôi phải nhìn cái mũi. Tôi thấy nó cựa quậy như muốn nói với tôi: làm gì có một nguyên nhân duy nhất cho mỗi sự việc? Sự việc nào lại không có trùng trùng nguyên nhân! Nói gì nguyên nhân đầu tiên!
-----------------------
Chú thích:
27. L'Autobiographie, trang 31.
28. Như trên, trang 38.
29. Như trên.
30. Như trên, trang 37.
31. Như trên..
32. Như trên, trang 89.
33. Như trên.
34. Như trên, trang 132.
35. Xem bài Tựa của Nora Barlow trong L'Autobiographie.
36. Thư gửi J.D. Hooker đăng trong bài Tựa của Barlow.
37. Gould, Darwin et les grandes énigmes de la vie, trang 279.
Trang chủ | Sự kiện nóng | Nhân vật trong ngày | Thông tin đa chiều | Tư liệu & suy ngẫm | Thế giới truyền thông | Nghe xem đọc | Harvard'S | Trực tuyến | Người quan sát | Thư Thăng Long | Giới thiệu | RSS | Trợ giúp
© TUANVIETNAM.NET
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)