29/4/10

Thành phố hẹn người trở lại

Thành phố hẹn người trở lại

Lê Minh Hà



Anh bạn cũ của cô bạn cũ cúi ôm tôi: “Bao nhiêu năm rồi chúng ta không gặp lại nhau?“ “Bảy năm, nhưng bạn không đổi khác, chỉ có thành phố của bạn là đổi khác. Đó là hai sự bất ngờ“.

Tất cả cười. Ai đó xô phải cái bàn và những chiếc li thủy tinh rung lên lanh canh vui vẻ. Thật thế, Theo chẳng đổi chút gì. Đàn ông phương Tây thường chóng già, dễ phát phì. Vậy mà đứng trước tôi vẫn là người đàn ông của gần mười năm trước với nụ cười sinh viên, dáng xương xương trong bộ áo quần đơn giản. “Mưa thế này mà các bạn vẫn đi dạo ư?“ Chúng tôi ngạc nhiên. “Dĩ nhiên rồi, các bạn sống ở nước Đức này ngần ấy năm mà còn chưa biết sao. Đấy không phải là một nghi thức. Đấy là kỷ luật. Và đó là đặc tính của người Đức chúng tôi. Chúng tôi luôn tự trói mình vào kỷ luật“. Tiếng cười lại rộ lên vui vẻ theo bước Theo biến vào trong cơn mưa nặng hiếm thấy ở nơi này.

Những người Việt thì tiếp tục ngồi lại với bữa ăn sáng tú ụ. Chúng ta có thói quen thay đổi tùy hoàn cảnh. Cái triết lý ở bầu thì tròn ở ống thì dài mà một nhà sử học đã khái quát thành bản tính Việt quả là tiện. “Có phải vì thế mà chúng ta tuy rất thích nhảy vọt đi trước đón đầu nhưng vẫn hay dậm chân tại chỗ dậm? Vì thiếu một khả năng phóng chiếu vào tương lai? Hay vì thiếu cái tinh thần kiểu Đức này, nói là kỉ luật, nhưng nghĩ cho cùng là tôn trọng nhau và chịu trách nhiệm đến cùng?

Nắng lên. Ngoài kia là Dresden, thủ phủ của bang Sachsen, cách Berlin 200 km, là chuyến đi chơi suýt nữa bị phế vì mưa gió. Tận mắt nhìn thành phố này sau mười năm xa, câu hỏi kia lại nhoi nhói, vặn xoáy trong lòng

Lần đầu tiên tôi tới đây có dễ đã một giáp. Khi đó Dresden, cũng giống nhiều thành phố bên Đông Đức, hệt một công trường khổng lồ. Đứng bên phía phố cổ nhìn về phố mới chỉ thấy dàn giáo là dàn giáo. Còn lang thang trong phố cổ, cũng vài bước lại gặp công trường. Những công trường phục hồi phế tích. Martin Luther đá đứng nhìn tôi nghiêm khắc qua rào chắn từ sân một nhà thờ đang trong quá trình phục chế. Từ đó, ông có thể nghe thấy một thầy tu trẻ cao giọng giảng đạo ở góc phố, cho gió từ sông nghe. “Không thể có cảnh này thời Đông Đức đâu đấy nhé“. Cô bạn dân du học sống qua cả hai thời xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa nơi này giảng giải. Nhưng những chiếc xe Trabant vẫn lù rù bò đầy phố. Mười năm sau, loại xe ô tô đặc sản của cộng hòa dân chủ Đức một thời đã là của hiếm chỉ dành riêng cho dân chơi. Dresden mới rực rỡ nhìn sang Dresden cổ tráng lệ bên kia bờ con sông mà lứa tuổi chúng tôi ngày xưa chưa một lần đến nhưng đã thuộc tên vì một cuốn truyện tình báo Xô viết: “Hầm bí mật bên bờ sông Elbe“. Người như nước, dân bản địa và dân du lịch, thật khó phân biệt qua trang phục. Tôi tự hỏi ai trong số họ còn nhớ thành phố này đã là một đống điêu tàn sáu mươi năm về trước? Ai trong số họ còn nhớ ba mấy ngàn người Dresden đã gục chết trong có một đêm, và những tháp cổ nào, giáo đường nào đã sụp đổ trong mắt nhìn hoảng loạn của người dân thành phố này dưới những trận mưa bom của quân đội đồng minh.



dresdenDresden tháng 4/2010 – Các công trình tái thiết vẫn đang tiếp tục

Thành phố này phục sinh ào ạt sau cuộc đổi đời lần thứ hai kể từ những năm chiến tranh bom đạn đó, khi bức tường Ô nhục, như người Đức gọi bức tường Berlin ngăn chia hai miền Tổ quốc mình, sụp đổ. Và tiếp tục tự khẳng định như một trung tâm kiến trúc nghệ thuật đẹp bậc nhất châu Âu. Dresden dang hớn hở kỉ niệm tuổi già 800 năm của mình. Những ngọn tháp nạm vàng, những bức tượng nạm vàng kiêu hãnh sáng trong mưa. Tôi yêu những con đường xanh dưới mưa chạy qua bao nhiêu ngôi nhà cũ mới được phục hồi nguyên trạng. Có cái gì đó buộc phải nhớ về Hà Nội một thời, không phong túc như thế này, không hoành tráng như thế này, nhưng đầy sang cả và thanh thản.

Từ đống gạch ngói chiến tranh để lại, Dresden đi vòng qua mấy chục năm xã hội chủ nghĩa để đến với thế giới tư bản. Ngôi nhà thờ đồ sộ (Frauenkirche) vừa được dựng lại từ 2000 mảnh vỡ còn sót dưới mưa bom một thời đang là niềm tự hào mới của Dresden. Cao 91 mét, nặng 59000 tấn, (chắc tính trên vật liệu, chứ làm sao tính được sức nặng của mảnh đất dưới chân nó, cũng như những khổ đau của lịch sử vọng về từ đó), thời gian xây dựng lại: 12 năm, số tiền xây dựng khổng lồ: 179 triệu Euro, trong đó hơn 100 triệu là tiền quyên góp từ khắp thế giới, dàn đại phong cầm thuộc cỡ đại tướng, ngôi nhà thờ vĩ đại này mới được khánh thành và đó là một sự kiện trọng đại của cả nước Đức. Ngày ngày, từ bốn tháp chuông của Frauenkirche, 8 quả chuông, trong đó có một cái đúc từ thế kỉ 16 buông tiếng ngân dội qua hai bên bờ sông Elbe. Bom Anh đã nổ ở đất này ngày ấy. Người Anh đã quyên góp để xây dựng đất này bây giờ. Ngôi nhà thờ được phục chế là biểu tượng của tinh thần hòa giải, nữ hoàng Anh nói khi đến đây. Nước Đức đã làm ứ đầy lòng căm thù ở châu Âu và đã tự gặt lửa về mình, thống đốc bang tìm căn nguyên từ quá khứ. Hòa giải lịch sử chỉ thật sự diễn ra khi có sự chịu trách nhiệm lịch sử thật sự, và hòa bình đích thực chỉ có được từ nỗ lực hóa giải hận thù, phải chăng là như thế?

churchNhà thờ Đức Bà – Frauenkirche

Đứng dưới bóng trĩu nặng bao nhiêu hoài vọng lịch sử của ngôi nhà thờ tráng lệ, tôi, người đã đi qua thời chiến tranh ở miền Bắc, bỗng nhớ nơi an nghỉ của những người lính cộng hòa đã bị di dời, nhớ tấm bia tưởng niệm những người Việt bỏ mình trên đường vượt biển ngày hậu chiến từng bị đục bỏ theo những cái gật lắc ngoại giao giữa hai nhà nước Việt và Nam Dương. Ước, một ngày, tất cả sẽ được xây dựng lại theo kế hoạch của nhà nước. Chí ít thì kế hoạch ấy cũng không hao tiền tốn của như việc ngôi nhà thờ này được xây dựng lại. Và như thế, đất sẽ vững dưới chân ta. Nước Đức có hơn sáu mươi năm để ngoái nhìn cuộc chiến của mình, để nhận chịu trách nhiệm lịch sử của mình, để chuộc lỗi với các dân tộc từng là nạn nhân của nó. Chúng ta đã có ba mươi năm. Chẳng lẽ cũng cần ba mươi năm nữa để người Việt mình có thể chuộc lỗi với nhau?

Đi trên đất Đức, có thể thấy tinh thần trả nợ lịch sử diễn ra từng ngày. Những người dân Đức bình thường giờ vẫn biết ơn cái đầu gối của Willy Brand – Ngài tổng thống của Đức đã khai thông được mối quan hệ giữa Đức và Ba lan thời hậu chiến. Ông đã qùy xuống trước đài tưởng niệm nạn nhân của chế độ phát xít khi tới thăm Ba lan. Đó không phải là chiến thuật ngoại giao, Willy Brand cho biết, khi đứng trước đài tưởng niệm, ông nghe như có tiếng nói từ thẳm sâu nhắc tới nỗi đau khổ khủng khiếp mà đồng bào ông gieo rắc trên thế gian này, tiếng nói buộc ông qùy xuống: Cái qùy gối của ông trước dân tộc Ba lan là biểu tượng sám hối của cả một dân tộc, cũng là của một con người. Tôi nghĩ nước Đức này lớn có lẽ chính là nhờ thế, nhờ mỗi con người ý thức được trách nhiệm lịch sử của mình và của cả dân tộc mình.

Trong ba mươi năm qua, người Việt đã tự vãi mình ra nhiều nơi trên thế giới này. Dresden đã là bến đời của không ít người Việt đi theo các chương trình hợp tác văn hóa và lao động giữa hai nhà nước xã hội chủ nghĩa một thời. Các sinh viên du học, những người lính nông dân sau thời tại ngũ tại những biên giới biển và rừng của đất nước tới đây và ở lại khi nước cộng hòa dân chủ Đức sụp đổ. Cách biên giới Tiệp sáu mươi cây số, Dresden những năm chín mươi là điểm dừng chân của không ít người Việt từ Nga, từ Tiệp tràn qua nhân cơ hội bức tường Berlin bị phá bỏ. Hiện sống tại Dresden có chừng gần hai người Việt đã ổn định giấy tờ cư trú. Nhưng còn bao nhiêu người Việt vô danh tính đang lay lắt ở miền đất hoa lệ này? Số liệu thống kê chính thức không chính xác – Cô bạn du học ở đây từ đầu thập niên tám mươi nay đang là phiên dịch viên – cầu nối bà con người Việt với cơ quan công quyền Đức cho biết. Thế ở Dresden thời hoàng kim của những người buôn thuốc lá lậu thì thế nào so với Berlin? Đâu cũng thế thôi. Ai đã dấn thân vào những hoạt động phi pháp kiểu ấy thì không thể tránh được sự trở thành nạn nhân của tội ác bất cứ lúc nào. Tin đồn cũng không đen tối bằng sự thật. Đã có những người Việt mình vì tranh mối làm ăn bị chôn sống trong rừng… Còn bây giờ? Số lượng người Việt qua Đức theo ngả biên giới Tiệp phía Dresden bây giờ giảm hẳn. Vì cơ hội làm ăn phi pháp cũng như cơ hội ở lại Đức chính thức gần như đã mất hẳn. Nhưng người nghiện… Người nghiện thì sao? Thì cũng là vấn nạn như ở nhà mình thường nói. Nhiều gia đình khá giả ở Việt Nam tìm cách tống khứ con em nghiện ngập sang đây. Vừa là để khuất mắt trông coi, giữ thể diện gia đình, vừa là để tận dụng chính sách nhân đạo của Đức. Cứ qua được biên giới rồi khai mình nghiện là thế nào họ cũng để mình ở lại cho đến khi cai được nghiện. Có điều…

Có điều những con nghiện có tiểu sử là thành phần cơ bản giàu sang như thế này thì không bao giờ đủ ý chí để chấp nhận quá trình điều trị và họ lại trở thành vấn nạn trong cộng đồng. Buôn lậu, trấn lột, đâm chém… tất thảy họ đều dính tay vào, chỉ cốt có tiền hút xách. Đời sống của họ giống như một làn nước đen len lỏi trong dòng chảy chung của đời sống cộng đồng, nhưng không đủ mạnh để làm ô nhiễm. Phần lớn người Việt có giấy tờ định cư chính thức ở đây đều khấm khá nhờ vào tính cơ chỉ gần như là bản sắc dân tộc. Là chủ những cửa hàng quần áo, rau quả, cửa hàng hoa hay quán ăn nhanh nho nhỏ, ai cũng miệt mài làm ăn trong thời buổi kinh tế Đức đang khó khăn này, và đều sống được. Và phải nói người Việt ở đây cũng như ở Đức nói chung, khéo rộng ra là ở ngoài nước nói chung hơn nữa đều rất nhanh nhẹn, nhạy bén trong sự ăn làm với quy mô nhỏ, tuy không có khả năng vươn tới điều hành những cơ sở kinh doanh hoành tráng hơn. Nhưng có một điều ai cũng tự hào: phần lớn trẻ em Việt ở đây, có cháu sinh tại Đức, có cháu được bố mẹ đón từ Việt Nam qua đều học hành dễ dàng và hội nhập tốt. Song, như cô bạn tôi phân tích, cái sự học như thế nào thì dân mình khỏi phải bàn, song học để làm gì thì hình như không mấy gia đình ý thức xa hơn sự hỗ trợ con học để có được sự đào tạo tốt, để thành tài theo nghĩa đời sống được đảm bảo mà không phải vất vả như thế hệ cha mẹ. Và tất cả sẵn sàng hô khẩu hiệu hi sinh đời bố củng cố đời con.

Không ít những người đàn ông Việt đang lắc chảo mì trong quán ăn nhanh, không ít những người đàn bà Việt đang ngày ngày cúi người chăm chút từng bông hoa từng quả cam quả táo trong quầy hàng nhỏ là những trí thức nghệ sỹ xã hội chủ nghĩa một thời thành danh ở quê nhà. Những bảo tàng nghệ thuật, những ngọn tháp cổ, những cuộc biểu diễn ở nhà hát dường như nằm ngoài sự quan tâm của họ bây giờ. Người trong nước mới sang công tác tất thảy đều kinh ngạc về chọn lựa của bà con Việt ở nước ngoài, tất thảy đều đồng thanh ở thế này thì khổ quá. Đôi ba người khi về còn viết những bài báo bày tỏ nhẹ ra là lòng thương hại nặng thì là cả một sự miệt thị mênh mông những đồng bào lương thiện của mình ở xứ người. Nhưng nếu đừng cưỡi tàu cao tốc nơi này mà nhìn đời sống, nếu đừng lấy cái thú vui la cà bàn nhậu bàn công việc bất cứ lúc nào bất cứ ở đâu trên đất Sài Gòn Hà Nội, và bình tâm mà lắng nghe tiếng đời từ giới người lao động đông đảo nơi hè phố, từ những làng chài vài ba năm lại một lần giỗ hội cho những người đã vì miếng cơm manh áo bỏ mình trên biển và…, nhưng nếu biết sự thanh thản khi kiếm miếng ăn mà không phải áy náy hoặc vì quá dậm dụi hoặc vì quá tàn nhẫn như rất nhiều người ở nhà, nhưng nếu biết niềm tin vào sự ổn định chỉ có ở một đất nước thật sự pháp trị thì sẽ hiểu sự chọn lựa của những người ở lại ngoài quê hương. Tôi nghĩ, có hiểu bản chất của đời sống nơi này thì mới không rơi vào bất cập khi thu xếp tương lai cho con cái bằng cách gửi các cháu ra ngoài du học, và mới có thể định hướng từ xa cho con em mình.

Đêm, ông bạn hàng xóm đồng hương nước Việt của cô bạn mời chúng tôi sang xem VTV 4 và hát karaoke. Anh chị vốn là diễn viên một đoàn ca nhạc tỉnh, nay là chủ một hiệu bán quần áo, nghề bỏ nhưng nghiệp nhất định không buông. Nhưng ngoài kia là Dresden sau mưa, đẹp, đẹp dã man, khi nhìn từ Tháp Nudel, một quán ăn chuyên về những món mì, từ cách bài trí tới cách nấu đều hết sức độc đáo. Nước Đức đang trong kì nghỉ lễ, đang đứng trước cúp bóng dá quốc tế, Dresden thì chuẩn bị kỉ niệm 800 năm lịch sử. Từ buổi chiều đi dạo ở Vườn Hồng chúng tôi đã phải chen chân với các nhóm thanh niên đang mê man vì niềm vui hội hè, bia và thịt nướng. Xe cảnh sát rải ở góc đường, và thật thú vị khi quan sát cảnh sát ngăn chặn một nhóm thanh niên có vẻ đã phê. Cảnh sát trẻ măng cười tươi như hoa đứng chắn một nhóm thanh niên ai cũng một chai bia trong tay. Hai bên nói chuyện với nhau cực kì hào hứng. Hai thằng bé bảy tuổi nhà hai chúng tôi đi chơi mà cũng không rời được quả bóng cô bạn mới mang về từ London có cả chữ kí của Beckham sán vào tranh luận về bóng đá với cảnh sát và mấy anh tóc mào gà. Thế nên đành từ chối lời mời ăn và hát của quý đồng hương để tiếp tục đi chơi. Tiếc nỗi không thể qua cầu. Ông chồng tôi lăm lăm camera gạ gẫm một chàng cảnh sát cực kì đẹp trai. Cảnh sát dàn hàng ngang tươi cười từ chối. Họ đang lo ngại về khuya sẽ có quậy phá trong phố cổ. Nhìn qua sông Elbe, còn thấy bóng của xe tăng trấn ở đầu cầu.

Thành phố ào ào gió lạnh mà vẫn bừng bừng một niềm vui sống. Cô bạn dẫn chúng tôi về phố nghệ sĩ sinh viên. Phố này sống cả đêm lẫn ngày, cô bạn thông báo. Quả vậy, từng nhóm thanh niên ăn mặc lướp tướp, tóc mào gà, chân đi ghệt tụ tập nói cười. Mọi quán xá đều mở cửa dù đã vào khuya. Chúng tôi len lỏi qua những ngõ nhỏ, mỏi cổ vì ngắm nhìn. Nơi này một bức tranh tường được phục chế lấp lánh dưới đèn đường. Nơi kia một bức tường với bao nhiêu hình khối lạ mắt gắn ở mặt tiền do bàn tay của các nghệ sĩ sống nơi này. Lại có một ngôi nhà mà ống dẫn nước mưa được thiết kế tách hẳn ra ngoài thành hình một chiếc kèn khổng lồ cứ ba mươi phút lại reo vui. Những cửa hàng nhỏ bán tranh, bán đồ mỹ nghệ thân mật chờ ta từng bước ở góc sân, đầu ngõ, hết sức bất ngờ. Các nghệ sỹ chắc chưa thành danh hững hờ nhìn khách lạ. Hồi còn Đông Đức, khu này điêu tàn lắm, còn bây giờ… Cô bạn kể.

1-goc-cau-agMột góc Dresden, nhìn từ cầu Augustus

Nhờ đêm lang thang đó mà tôi phân biệt được mấy cậu đầu trọc tiến bộ và phản động. Hóa ra không phải chàng trai đầu trọc nào cũng là cực hữu kì thị người nước ngoài. Có những chàng đầu trọc mà không đi giày bóng sẽ đánh nhau với bọn cựu hữu để bảo vệ chúng ta. Còn mấy cậu tóc mào gà mặc đồ lính lướp tướp kia thì thực ra chỉ là thích khác người thôi, mốt kiểu không giống ai như mấy diễn viên cái lương nhà mình ấy mà. Bạn tôi khai hóa.

Trong giấc ngủ ở nhà cô bạn, cũng nằm ngay phố này, tôi nghe tiếng ca hát, cười nói, gào thét, tiếng kèn tiếng trống, một lúc, còn cả tiếng xe tăng và loa cảnh sát. Dường như tất cả thanh niên Dresden đổ về con phố này khi tàn đêm hội.

Tôi có một Dresden…

Một thành phố, một dĩ vãng bi thống và hào hùng, một hiện tại đang ca hát, và những mảnh đời bình dị bên ngoài quê hương.

LMH

Việt Nam thận trọng khi tiến gần lại với Hoa Kỳ

Việt Nam thận trọng khi tiến gần lại với Hoa Kỳ

Đăng ngày 2010-04-24 17:28
Thụy My


Mười lăm năm sau khi bình thường hóa quan hệ ngoại giao, việc hợp tác quân sự Việt - Mỹ chỉ mới nhích dần từng bước. Một tâm trạng đầy mâu thuẫn đã ngăn cản Hà Nội tiến xa hơn. Không chỉ vì mối quan hệ nhạy cảm với Trung Quốc, mà còn do tâm lý e ngại "diễn tiến hòa bình". "Thân với Trung Quốc thì mất nước, thân với Mỹ thì mất Đảng".

Nhật báo trên mạng Asia Times hôm nay có bài nhận định về quan hệ Việt – Mỹ, mà theo tờ báo, Việt Nam tỏ ra thận trọng trong việc xích gần lại hơn với Hoa Kỳ.

Theo nhận xét của tờ báo, mười lăm năm sau khi bình thường hóa quan hệ ngoại giao, việc hợp tác quân sự giữa hai nước chỉ mới nhích dần từng bước. Cả hai bên đều muốn ngăn trở việc Trung Quốc gia tăng sức mạnh quân sự, và ý định muôn thuở nhằm thống trị khu vực của nước này – trong đó có Biển Đông. Đây là khu vực mang tính chiến lược, nơi trung chuyển một phần tư lượng hàng hóa của thế giới. Bắc Kinh cùng các quốc gia khác đang tranh chấp hai quần đảo ở đây, được xem là giàu khoáng vật.

Trong khi động cơ của Hoa Kỳ tương đối rõ, đó là thắt chặt quan hệ với quân đội Việt Nam và thiết lập một sự hợp tác khu vực, thì phía Hà Nội vẫn còn lưỡng lự trong việc xác định thái độ. Làm thế nào, và có nên có quan hệ đối tác chiến lược với Washington, kẻ cựu thù trong chiến tranh hay không.

Một mặt, Việt Nam vẫn thích thú khi có được sự quan tâm ở cấp cao của Hoa Kỳ. Vào tháng 10 năm 2008, hai nước đã khởi đầu một cuộc gặp gỡ thường niên về mặt an ninh ở cấp trợ lý và thứ trưởng. Phía Hoa Kỳ gọi tên chính thức là các cuộc « thảo luận chính trị và quân sự », nhưng các nhà ngoại giao Việt Nam lại thông tin là « đối thoại chiến lược ». Đại sứ Việt Nam tại Hoa Kỳ, ông Lê Công Phụng, là người đầu tiên công khai việc đối thoại này trong một cuộc họp tại đại sứ quán Việt Nam một tháng trước đó, gây ngạc nhiên cho một số khách Mỹ.

Nhưng mặt khác, phía Việt Nam cũng quan ngại về một quan hệ quân sự quá chặt chẽ. Từ năm 2003, tàu chiến Mỹ đã được phép neo đậu tại cảng Việt Nam để thực hiện một loạt các hoạt động trao đổi về quân sự và ngoại giao. Trong khi hoan nghênh các chuyến viếng thăm có tính biểu tượng cao của hải quân Mỹ, Việt Nam cũng giới hạn ở con số chỉ một lần trong năm, đồng thời bảo đảm rằng hải quân Trung Quốc cũng có quyền tương tự.

Ý muốn xoa dịu Bắc Kinh cũng đã được thể hiện qua một loạt chính sách. Từ việc làm thế nào đưa tin về các hoạt động hợp tác với Mỹ trên các phương tiện truyền thông nhà nước, cho đến thói quen gởi các đoàn đại biểu cao cấp đến Bắc Kinh cùng thời gian với các chuyến thăm cấp cao tại Washington.

Hồi tháng ba, một tàu tiếp liệu của Hải quân Mỹ đã im lặng neo đậu suốt 16 ngày tại cảng mới Vân Phong, nằm tại vịnh Cam Ranh. Vịnh Cam Ranh vốn nổi tiếng vì vị trí chiến lược, do Mỹ xây dựng nên trong thời chiến tranh, sau đó chính quyền cộng sản Việt Nam đã cho hạm đội Thái Bình Dương của Liên Xô thuê làm căn cứ. Chuyến viếng thăm mới đây của tàu USNS Richard E Byrd không được công bố rộng rãi, nhưng mục đích có lẽ là để sửa chữa và tiếp vận, theo một hiệp ước về hỗ trợ hậu cần.

Tháng 12 năm 2009, đại tướng Phùng Quang Thanh trở thành bộ trưởng Quốc phòng thứ hai của Việt Nam sau khi chiến tranh kết thúc sang thăm Washington. Đương nhiên là một đoàn đại biểu của Bộ Quốc phòng cũng sang Bắc Kinh trước và sau chuyến đi của tướng Thanh. Việc o bế Trung Quốc như trên đã được phản ảnh trong sách trắng của Hà Nội, về chính sách quốc phòng liên quan đến các vùng lãnh thổ tranh chấp với người láng giềng khổng lồ phương bắc.

Nhìn chung, sự nồng ấm trong quan hệ Việt- Mỹ mang lại những kết quả đầy hứa hẹn. Việt Nam được mời làm quan sát viên trong cuộc tập trận của hải quân Mỹ với các đồng minh khu vực, trong đó có Thái Lan. Bên cạnh đó cũng có các thảo luận về các hoạt động tìm kiếm cứu nạn chung tại vùng bờ biển Việt Nam, cũng như việc huấn luyện lực lượng giữ gìn hòa bình Việt trong khuôn khổ các hoạt động của Liên Hiệp Quốc. Các sĩ quan Việt Nam cũng được mời tham gia chương trình Huấn luyện Quân sự Quốc tế của Hoa Kỳ, nhằm thắt chặt quan hệ với các nhà lãnh đạo quân sự tương lai. Nếu nhìn riêng rẽ thì các hoạt động trao đổi này có lẽ không mấy ý nghĩa, nhưng là dấu hiệu sự hợp tác tương lai giữa Hà Nội với Washington, và giúp cho hải quân Mỹ hiện diện tại Biển Đông.

« Thân với Trung Quốc thì mất nước, thân với Mỹ thì mất Đảng »

Tuy rằng quan hệ Việt – Mỹ tiến triển trên nhiều phương diện, nhưng cũng có một tâm lý mâu thuẫn ngăn cản Hà Nội tiến xa hơn. Không chỉ vì sự nhạy cảm đối với Trung Quốc, mà nhiều nhà lãnh đạo Việt Nam e ngại « diễn tiến hòa bình ». Họ sợ rằng nếu thân mật hơn với Mỹ, có thể dẫn đến việc thả lỏng cho các lực lượng đòi tự do hóa chính trị, mà đảng cộng sản khó lòng kiểm soát nổi.

Nỗi ám ảnh này được thể hiện qua nhiều cách. Mới đây, chính quyền Việt Nam đã từ chối cấp visa nhập cảnh cho bà dân biểu Loretta Sanchez, thành viên của Ủy ban Quân sự Quốc hội Mỹ và là người đấu tranh cho nhân quyền. Đôi khi, sự nghi ngại còn mang tính cá nhân. Mùa thu năm 2008, Hà Nội cũng đã từng không cho phép một tùy viên quân sự làm việc tại Đại sứ quán Mỹ, vì vấn đề lý lịch : đại tá Patrick Reardon vốn sinh ở Việt Nam, được một gia đình Mỹ nhận làm con nuôi từ lúc mới chập chững biết đi. Chính quyền Việt Nam vẫn tỏ ra cảnh giác đối với Việt kiều, đặc biệt là với những người có ảnh hưởng chính trị.

Ám ảnh sâu kín trên cũng ảnh hưởng đến những quyết định ở cấp cao. Chuyến đi của bộ trưởng Quốc phòng Phùng Quang Thanh hồi cuối năm qua đã từng bị hoãn lại hai lần. Theo nguồn tin từ Việt Nam, có những khác biệt trong Bộ Chính trị về mục đích của chuyến viếng thăm trên. Ông Thanh được cho là thân phương Tây, trong khi một số nhà lãnh đạo khác như ông Nguyễn Chí Vịnh thì muốn dựa vào Bắc Kinh, và lo ngại việc siết chặt hơn quan hệ với Washington. Các quan điểm đối chọi này được phản ánh trong một câu nói đang được truyền khẩu ở Việt Nam : « Thân với Trung Quốc thì mất nước. Thân với Mỹ thì mất Đảng ».

Đây chính là hai ngã rẽ của một con đường mà các nhà lãnh đạo cộng sản Việt Nam phải tự chọn lựa. Ai biết được các sĩ quan cấp úy, cấp tá của quân đội nhân dân Việt Nam sẽ học được những gì khi tiếp xúc với các bạn học là sĩ quan Mỹ ? Cho dù có khuynh hướng tăng cường hợp tác quân sự Mỹ Việt, nhưng có lẽ rồi sẽ khi thì nồng ấm, khi lại lạnh nhạt.

Sau Thế vận hội, Bắc Kinh lại muốn lập kỷ lục mới qua Triển lãm Thượng Hải

Liên quan đến Triển lãm Toàn cầu Thượng Hải, nhật báo La Croix nhận xét: « Cả thế giới đều muốn ve vãn Trung Quốc ». Đặc phái viên của tờ báo tại Thượng Hải đã mô tả lại các gian triển lãm của một số nước tại đây. Tòa nhà triển lãm của Pháp được bao bọc bằng một khu vườn kiểu Tây, gian Nhật Bản trông giống một chú rùa khổng lồ màu tím, tòa nhà Hà Lan là một đóa hoa uất kim hương màu vàng, còn Phần Lan giống như một cái bát màu trắng. Tất cả các tòa nhà này trông như vừa dưới đất chui lên, đang được ráo riết hoàn thiện. Một kiến trúc sư nhận xét : « Khả năng của người Trung Hoa thật là khó tin, một khi họ đã quyết định thì họ làm bằng được ».

Triển lãm Toàn cầu Thượng Hải sẽ phá vỡ tất cả các kỷ lục từ trước đến nay. Một nhà ngoại giao châu Âu cam đoan, triển lãm nhất định sẽ thành công, vì người Trung Quốc muốn thế. Hơn 10 tuyến xe điện ngầm đã được xây dựng trong 5 năm, nhiều xa lộ mới, các sân bay được mở rộng và nhiều khu phố được tân trang toàn bộ. Hai năm sau Thế vận hội, Bắc Kinh lại muốn lập những kỷ lục mới qua Triển lãm Thượng Hải. Đây là lần đầu tiên Triển lãm Toàn cầu được tổ chức tại một nước đang phát triển, và đây hẳn sẽ là triển lãm rộng lớn nhất, với con số nước tham gia và khách tham quan cao nhất.

La Croix cho biết thêm một ít con số : Chính quyền Bắc Kinh đã đuổi 272 nhà máy « rất ô nhiễm », một xưởng đóng tàu và 60.000 dân để lấy đất cho khu vực triển lãm. Số tiền đầu tư chính thức là gần 30 tỉ euro, nhưng con số này chưa tính đến các công trình xây dựng lớn trong thành phố. Có 242 quốc gia và tổ chức quốc tế tham dự, và người ta chờ đợi 100 triệu khách tham quan, trong đó 90% là người Trung Quốc.

Thành công được báo trước của triển lãm cũng nhờ vào sự tham gia đông đảo của toàn cầu. Một nhà ngoại giao tâm sự, nếu địa điểm tổ chức không phải là Thượng Hải, trung tâm kinh tế của một Trung Quốc đang tăng trưởng mạnh, thì nước ông đã không đầu tư lớn như thế. Pháp đã đổ vào đây 45 triệu euro. Nếu chỉ có 10% khách tham quan ghé vào gian hàng Pháp, thì cũng đã thu hút được đến 10 triệu người ! Gian hàng Đức tiêu tốn 50 triệu euro, Ý 55 triệu, còn đối tác mới giàu tài nguyên thiên nhiên của Trung Quốc là Úc đã bỏ ra 80 triệu. Riêng Nhật Bản, quốc gia đã từng dội bom Thượng Hải trong Đệ nhị thế chiến thì chi ra đến 100 triệu euro. Giám đốc tiếp thị gian hàng Pháp giải thích, đây là cơ hội có một không hai để tiếp xúc trực tiếp với người dân đến từ cả nước Trung Quốc rộng lớn ; mà không qua một sự kiểm duyệt nào. Một nhà sử học Trung Quốc nhận định, cuộc triển lãm này sẽ giúp cho Thượng Hải chiếm vị trí quan trọng vào đầu thế kỷ 21, và để lại những dấu ấn sâu đậm hơn cả Thế vận hội Bắc Kinh.

Mang thai hộ : Có nên hợp pháp hóa ?

Quay lại với nước Pháp, bên cạnh chủ đề gây tranh cãi lâu nay là việc cứu vãn nền kinh tế Hy Lạp, các báo Pháp hôm nay cũng đề cập đến các đề tài xã hội như việc cấm phụ nữ mặc burqa, loại áo trùm kín cả thân người và mặt mũi chỉ chừa có đôi mắt, ở nơi công cộng. Riêng L’Humanité nhân việc Quốc hội Pháp sẽ xem xét lại bộ luật về đạo đức sinh học, đã đặt lại câu hỏi về việc, liệu có nên hợp pháp hóa việc mang thai hộ hay không ? Nếu những người ủng hộ cho rằng việc này sẽ giúp chấm dứt việc bỏ tiền ra thuê đẻ hộ ở nước ngoài, thì phe phản đối lo ngại tác dụng ngược, sẽ biến người phụ nữ thành một công cụ sống ; cũng như các tác động tiêu cực về thể trạng và tâm lý sau này.

Source : http://www.viet.rfi.fr

Hải quân Trung Quốc phô trương sức mạnh

Hải quân Trung Quốc phô trương sức mạnh

B.Raman

27-04-2010


Từ đầu năm ngoái, Hải quân Trung Quốc đã không còn bí mật về tham vọng trở thành cường quốc hải quân ở Thái Bình Dương ngang hàng với Hoa Kỳ. [Hải quân Trung Quốc] đang áp dụng một chiến lược kép.

Chiến lược này được đánh dấu bằng việc mở rộng và ngày càng gia tăng sự quyết đoán ở Biển Đông, Biển Hoa Đông và việc mở rộng thêm các khả năng phòng thủ, các khu vực hoạt động và mạng lưới hải quân ở Ấn Độ Dương cùng các khu vực vùng Vịnh.

Sự quyết đoán ở Biển Đông và Biển Hoa Đông được đánh dấu bằng việc lặp đi lặp lại đòi hỏi chủ quyền trong khu vực và quyết tâm bảo vệ các quyền lợi thuỷ sản, khoáng sản, dầu mỏ và khí đốt tại các khu vực mà họ tranh chấp. Sự quyết đoán đó cũng được đánh dấu qua việc cho thấy họ sẵn sàng sử dụng Hải quân để bảo vệ quyền lợi.

Ngày 16 tháng 5 năm 2009, Trung Quốc chính thức áp đặt lệnh cấm đánh bắt cá mùa hè ở Biển Đông. Bác bỏ sự phản đối của Việt Nam chống lại lệnh cấm [bắt đánh cá] đã làm ảnh hưởng đến sinh kế của ngư dân Việt Nam, những người đã hưởng các quyền đánh cá truyền thống trong khu vực, ông Tần Cương, phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc đã nói vào ngày 9 tháng 6 năm 2009 rằng, Trung Quốc có chủ quyền “không thể tranh cãi” ở các đảo thuộc Biển Đông, gồm cả các đảo ở Tây Sa (tức Hoàng Sa), Nam Sa (Trường Sa) và các vùng biển phụ cận. “Đó là biện pháp hành chính thường lệ và hợp lý của Trung Quốc, đưa ra lệnh cấm đánh bắt cá vào mùa hè ở Biển Đông, với mục đích bảo vệ sự bền vững nguồn tài nguyên biển trong khu vực này”, ông Tần nói. Đồng thời Trung Quốc cũng đã triển khai một số tàu tuần tra trong khu vực để thi hành lệnh cấm.

Ngày 5 tháng 1 năm 2010, bà Khương Du, phát ngôn Bộ Ngoại giao nói rằng chủ quyền của Trung Quốc trên các quần đảo ở Biển Đông, bao gồm cả quần đảo Tây Sa (Hoàng Sa) và Nam Sa (Trường Sa) là không thể chối cãi. Bà (trong bài viết là “ông”) giải thích thông báo của Hội đồng Nhà nước về chủ trương phát triển du lịch ở tỉnh Hải Nam, trong đó nói rằng du lịch sẽ được đẩy mạnh ở quần đảo Tây Sa (Hoàng Sa) và một số đảo không có người ở.

Ngày 9 tháng 2 năm 2010, Công ty Dầu khí Quốc gia Ngoài khơi Trung Quốc (CNOOC Ltd) thông báo rằng, đối tác của họ, Công ty dầu Husky Trung Quốc (Husky Oil china Ltd.), một công ty con của Husky Energy Inc., đã phát hiện một mỏ khí đốt mới nằm sâu dưới đáy Biển Đông. Công ty đã nói trong một tuyên bố trên website của họ rằng giếng Lưu Hoa 29-1 (LiuHua 29-1) là giếng thứ ba nằm sâu dưới đáy biển được phát hiện, thuộc lô 29/26 ở cửa Châu Giang phía đông Biển Đông, sau các phát hiện khác trong năm 2006 và 2009 . Theo Tân Hoa xã, CNOOC Ltd được liệt kê là công ty con của Tổng Công ty Dầu khí Quốc gia Ngoài khơi Trung Quốc, là công ty dầu ngoài khơi lớn nhất của Trung Quốc.

Ngày 26 tháng 4 năm 2010, quản lý ngành thủy sản Trung Quốc cho biết họ đã bắt đầu tuần tra vùng Biển Đông bằng cách gửi hai tàu đến thay thế hai tàu khác đang hộ tống các tàu đánh cá Trung Quốc trong khu vực. Ông Ngô Tráng, Giám đốc Cục Quản lý Nghề cá và Giám sát Cảng cá ở Biển Đông thuộc Bộ Nông nghiệp, cho biết: “Tàu Yuzheng 301 và 302 Trung Quốc sẽ thay tàu Yuzheng 311 và 202, đang tuần tra vùng biển thuộc quần đảo Nam Sa (Trường Sa) từ ngày 1 tháng 4″. Ông nói thêm rằng các tàu tuần tra đã được gửi tới hộ tống tàu đánh cá Trung Quốc ở Biển Đông và củng cố quyền đánh cá của Trung Quốc trong vùng biển quanh quần đảo Nam Sa (Trường Sa). Hai tàu đi từ Tam Á, thành phố ven biển thuộc tỉnh Hải Nam .

Cùng lúc với sự khẳng định ngày càng gia tăng ở Biển Đông, Trung Quốc cũng đã đẩy mạnh sự quyết đoán ở Biển Hoa Đông, vùng biển mà các tuyên bố chủ quyền và lợi ích của họ xung đột với quyền lợi của Nhật Bản. Thực tế là Tokyo có bây giờ có một chính phủ coi trọng và xử lý tốt đối với Trung Quốc hơn là các chính phủ trước đây đã làm, nhằm tăng cường các mối quan hệ của Nhật Bản với Trung Quốc, đã không theo cách quyết đoán mới ở Biển Hoa Đông.
Ngày 23 tháng 2 năm 2010, ông Tần Cương, phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc, khi được hỏi phản ứng của Trung Quốc đối với bản tin Nhật Bản sẽ kháng cáo lên tòa án hàng hải quốc tế nếu Trung Quốc bắt đầu sử dụng các mỏ dầu và khí đốt ở Đông Hải để sản xuất khí đốt. Ông ta trả lời như sau: “Trung Quốc và Nhật Bản có nguyên tắc chung mà hai bên đều hiểu về vấn đề Biển Hoa Đông. Trung Quốc ủng hộ và duy trì sự hiểu biết chung. Vị trí này sẽ không bao giờ thay đổi.”

Ông Tần nói thêm rằng, Trung Quốc hy vọng Nhật Bản tạo môi trường thuận lợi hơn để đưa các hiểu biết chung vào thực tế. Theo nguyên tắc chung mà hai bên hiểu, phía Nhật có thể tham gia hợp tác khai thác mỏ dầu và khí đốt Chunxiao phù hợp với luật pháp liên quan của Trung Quốc, nhưng sự hợp tác khai thác thì khác với “khai thác chung”, ông nói.

Ngày 8 tháng 4 năm 2010, Nhật báo Hải quân Trung Quốc thông báo Hạm đội Đông Hải sẽ tiến hành một cuộc tập trận quân sự với “quy mô lớn” ở Biển Hoa Đông. Sau bản tin này, Bộ trưởng Quốc phòng Nhật Bản, ông Toshimi Kitazawa thông báo vào ngày 13 tháng 4 rằng, 10 tàu của Hải quân Trung Quốc (PLAN), trong đó có hai tàu ngầm và tám tàu chiến, đã qua vùng biển quốc tế giữa đảo Okinawa và Miyako, đi về hướng đông nam vào Thái Bình Dương, từ ngày 10 tháng 4.

Tin tức loan báo rằng Nhật đã gửi những thắc mắc về những hành động này tới Bắc Kinh thông qua các kênh ngoại giao. Cùng ngày hôm đó, Bắc Kinh đã chỉ ra rằng các cuộc tập trận tương tự, do các lực lượng hải quân ở các nước khác đã được tiến hành ở vùng biển quốc tế trong quá khứ. Bắc Kinh muốn nói rằng, hải quân các nước khác có thể thực hiện các cuộc diễn tập như thế ở vùng biển quốc tế, nên Trung Quốc cũng có thể tập trận.

Các nguồn tin từ Nhật Bản diễn giải các hoạt động này là để “báo hiệu một nỗ lực của Bắc Kinh, mở rộng các hoạt động hải quân trong vùng biển quốc tế với mục đích ngăn ngừa sự can thiệp của các lực lượng hải quân khác”.

Ngày 21 tháng 4, Nhật Bản phàn nàn với Trung Quốc rằng một máy bay quân sự của Trung Quốc đã bay gần một tàu hải quân của Nhật, đây là lần chạm trán thứ hai xảy ra như thế trong một tháng. Bộ Quốc phòng Nhật cho biết máy bay trực thăng cách tàu Nhật trong vòng 300 feet (90 mét) và đã bay hai vòng quanh tàu. Tàu Nhật Bản đã theo dõi các hoạt động quân sự Trung Quốc.

Tuy nhiên, hãng tin Kyodo đã trích lời Bộ trưởng Ngoại giao Nhật Bản, ông Katsuya Okada nói rằng các tàu của Trung Quốc không vi phạm bất kỳ luật pháp quốc tế nào. Sau sự cố đầu tiên ngày 08 tháng 4, Bộ Ngoại giao Nhật đã phản đối Trung Quốc vào ngày 12 tháng 4, nói rằng bay gần như thế là “hành động nguy hiểm theo quan điểm về sự an toàn của hải quân”, và yêu cầu Trung Quốc xem xét vấn đề này. Bộ Ngoại giao cũng đã phản đối tiếp sau sự cố lần thứ hai và nhận được câu trả lời rằng chính phủ Trung Quốc sẽ cho điều tra.

Bộ Quốc phòng Nhật cho biết họ tin rằng những hành động của Trung Quốc có thể là phô trương sức mạnh, và thêm rằng, Nhật Bản dự định tăng cường phòng thủ trong khu vực. Nhật báo “Mainichi” trích lới Bộ Quốc phòng Nhật nói rằng Hải quân Trung Quốc tiến hành tập trận quân sự từ ngày 7 đến ngày 9 tháng 4 ở Biển Hoa Đông. Các tàu Trung Quốc đi qua vùng biển quốc tế giữa hai đảo chính, Okinawa và Miyako vào ngày 10 tháng 4 khoảng 8:00 tối và khoảng ngày 13 tháng 4 đi đến gần đảo Okinotorishima, phần cực nam của Nhật Bản.

Tóm lược tin tức truyền thông ở Bắc Kinh hôm 22 tháng 4, ông Huang Xueping, phát ngôn Bộ Quốc phòng Trung Quốc đã bào chữa cho các cuộc tập trận của hải quân Trung Quốc ở Biển Hoa Đông và khẳng định rằng hoạt động của các tàu hải quân Trung Quốc ở Biển Hoa Đông không vi phạm luật pháp quốc tế và không đặt ra mối đe dọa cho các nước khác. Ông nói thêm rằng đó là việc thực tập thường xuyên để quân đội có các cuộc tập trận ở vùng biển quốc tế, và cũng là thực tập được các nước khác thực hiện. Ông cảnh báo: “Các nước quan tâm không nên theo dõi hoặc làm gián đoạn các hoạt động của các tàu quân sự Trung Quốc tham gia vào các cuộc tập trận phòng thủ bình thường”.

Thay vì phòng thủ và xuất hiện khiêm tốn, sự quyết đoán của Hải quân Trung Quốc ở Biển Đông và Biển Hoa Đông, Chính phủ / Đảng kiểm soát các phương tiện truyền thông Trung Quốc đã công khai khẳng định sự sẵn sàng của Trung Quốc để bảo vệ các quyền lợi truyền thống và bảo vệ chủ quyền lãnh thổ trong khu vực qua việc hiện đại hóa hải quân. Họ cho thấy sự quyết đoán ngày càng tăng như là một thông điệp rằng Hải quân hiện đại và mạnh mẽ của Trung Quốc đã đến khu vực Thái Bình Dương như là một lực lượng được tính tới.

Trả lời phỏng vấn trên “Bản tin Nhật báo Trung Quốc” (ngày 27 tháng 4), ông Jin Linbo, một nhà nghiên cứu thuộc Viện Nghiên cứu Quốc tế Trung Quốc, cho rằng Tokyo nên nói chuyện với Bắc Kinh trước khi sử dụng bất cứ hành động đơn phương nào có thể làm cho Trung Quốc “hiểu sai”. Ông nói thêm rằng: “Việc gia tăng số lần và quy mô tập trận quân sự của chúng tôi là bình thường, chỉ cho thấy rằng lực lượng hải quân Trung Quốc mạnh mẽ hơn. Miễn là nó không vi phạm bất kỳ luật pháp nào, các quốc gia khác nên tập quen dần dần với điều đó”.
Tờ “Global Times”, nhật báo tiếng Anh do Đảng sở hữu, thuộc nhóm “Nhân dân Nhật báo”, đã viết ngày 27 tháng 4 rằng: “Khi chiến lược cân bằng đang dịch chuyển ở phía tây Thái Bình Dương, ngay cả những thay đổi nhỏ, có thể khó cho một bên chấp nhận. Luyện tập quân sự thường xuyên của các tàu hải quân Trung Quốc trong vùng biển quốc tế đầu tháng này đã gây ra chuyện ồn ào tại Nhật Bản. Truyền thông Nhật có đầy tin nóng qua vụ việc này và cố đổ lỗi cho hành vi có vẻ quyết đoán của Trung Quốc. Thừa nhận chuyện diễn tập đã xảy ra ở vùng biển quốc tế, nhưng truyền thông Nhật Bản vẫn tuyên bố rằng điều đó đã gây ra mối quan ngại ở Nhật ‘bởi vì nó chưa từng xảy ra trước đây’. Lực lượng hải quân mạnh hơn là kết quả của sức mạnh kinh tế Trung Quốc đang phát triển và việc hiện đại hóa sức mạnh quân sự của Trung Quốc đang diễn ra. Đó là một yêu cầu chiến lược của một nước lớn, trong đó phải bảo vệ lợi ích tốt nhất trong khả năng của nó.

Trung Quốc cho rằng họ có trách nhiệm hơn ở khu vực Đông Á, [nên] sẽ có nhiều cuộc diễn tập quân sự thường xuyên hơn ở vùng biển quốc tế. Gia tăng các lực lượng hải quân của Trung Quốc cũng cần thiết để cho Hoa Kỳ dịch chuyển sức mạnh phòng thủ chiến lược đáng kể ở phía tây Thái Bình Dương.

Đương nhiên, sự chuyển đổi của hải quân Trung Quốc sẽ mang lại sự thay đổi về mô hình chiến lược ở Đông Á và phía tây Thái Bình Dương kéo dài trong năm thập kỷ qua. Nhưng sự biến đổi là tích cực. Trung Quốc không có ý định thách thức Hoa Kỳ ở Trung tâm Thái Bình Dương hoặc tham gia vào một cuộc đụng độ quân sự với Nhật Bản ở vùng biển lân cận, mặc dù nó sẵn sàng bảo vệ lợi ích cốt lõi bằng mọi giá.

Khu vực phía tây Thái Bình Dương rất quan trọng cho hòa bình và ổn định thế giới, bảo đảm cả hai yêu cầu về sự tham gia của tất cả các nước lớn trong khu vực. Không bên nào độc quyền ở phía tây Thái Bình Dương trong tương lai. Cả Hoa Kỳ và Nhật Bản, cùng với các cường quốc khác trên thế giới, đã tích cực mở rộng khả năng hàng hải của họ, nhưng họ cần điều chỉnh quan điểm khi xem xét các hành động của Trung Quốc.

Cái thời mà các cường quốc thống trị tận hưởng “phạm vi ảnh hưởng” không chia sẻ trên khắp thế giới, giờ đã đi qua. Mục đích của việc gia tăng của hải quân Trung Quốc là để cung cấp phòng thủ ngoài khơi và để bảo vệ tuyến đường thương mại và bảo vệ công dân Trung Quốc khắp toàn cầu. Rất khó có thể tưởng tượng Trung Quốc sẽ dựa vào một hệ thống chiến lược hàng hải của Hoa Kỳ được xây nên sau Đệ nhị Thế chiến nhằm bảo vệ lợi ích toàn cầu của họ ngày nay. Hải quân Trung Quốc phát triển là một biểu tượng của việc phát triển hòa bình của Trung Quốc (*).

Nhiều quốc gia thừa nhận rằng sự gia tăng của Trung Quốc không đặt ra một mối đe dọa nào cho thế giới. Nếu họ thực sự muốn nói như vậy, họ có thể hiểu hải quân Trung Quốc đang lớn mạnh“.
Hải quân Trung Quốc phát triển và khẳng định việc đòi chủ quyền và các quyền của Trung Quốc. Thông điệp đó đã được nói to và rõ ràng.

Trong khi gia tăng sự quyết đoán bằng sự hiện diện và các hoạt động của Hải quân [Trung Quốc] ở Biển Đông, Biển Hoa Đông và tây Thái Bình Dương, Trung Quốc tiếp tục giữ sự khiêm tốn hơn sự hiện diện và các hoạt động của các tàu hải quân ở Ấn Độ Dương và vùng Vịnh. Họ cho thấy họ đang giữ một vai trò phòng thủ trong việc bảo vệ các tàu buôn Trung Quốc và cung cấp năng lượng từ các cuộc tấn công cướp biển và những chuyện khác. Các nhà phân tích Trung Quốc vẫn chưa nói về bất kỳ lợi ích chiến lược nào của Trung Quốc trong việc phô trương sức mạnh ở khu vực Ấn Độ Dương.

Tác giả là Bộ trưởng (nghỉ hưu), thuộc Ban Thư ký Nội các Chính phủ Ấn Độ (**), New Delhi, và hiện là Giám đốc Viện Nghiên cứu các đề tài thời sự, Chennai. Ông cũng hợp tác với Trung tâm Chennai về Nghiên cứu Trung Quốc. E-Mail: seventyone2@gmail.com


Người dịch: Ngọc Thu

Dịch từ: http://www.srilankaguardian.org/2010/04/chinese-navys-power-projection.html

———

(*) A growing Chinese navy is a symbol of China ‘s peaceful rise: câu này của báo Trung Quốc đã được tờ American Thinker dẫn lại trong câu cuối như sau: Thus, the editorial’s conclusion that, “A growing Chinese navy is a symbol of China ‘s peaceful rise” (emphasis added) is not very convincing.

(**) Ông Raman từng điều khiển văn phòng đặc trách chống khủng bố, thuộc Hội đồng Bộ trưởng Quốc gia Ấn (Cabinet Secretariat Of the Govt of India), chứ không phải thuộc Ban Thư ký Nội các Chính phủ Ấn. Người điều khiển văn phòng này mang cấp Bộ trưởng, nhưng khi gặp thì mình lại chào là Giám đốc (Nếu có lỡ gọi là ông Bộ trưởng cũng không sao).

28/4/10

Merle L. Pribbenow II – Tướng Võ Nguyên Giáp và tiến trình bí ẩn của kế hoạch tấn công Tết Mậu Thân (1968): phần cuối

Merle L. Pribbenow II – Tướng Võ Nguyên Giáp và tiến trình bí ẩn của kế hoạch tấn công Tết Mậu Thân (1968): phần cuối

28/04/2010 | 1:21 chiều |


Nguyễn Việt dịch

Âm mưu hay trùng hợp?

Cuối tháng Bảy năm 1967, ngay tiếp theo sau sau phiên họp Bộ Chính trị căng thẳng khi ý tưởng mới về cuộc tấn công 1968 của Lê Duẩn-Văn Tiến Dũng được đem ra bàn luận, đợt đầu tiên trong nhiều đợt bắt các nhóm những người bị gọi là chống đảng được thực hiện tại Hà Nội. “Nhóm chống đảng” được cho là nằm dưới sự cầm đầu của Hoàng Minh Chính, trước đây là viện trưởng Viện Triết học Marx-Lenin, và bị nghi ngờ là âm mưu chống đảng và cung cấp thông tin cho một thế lực nước ngoài không được nêu tên. Một đợt bắt bớ thứ hai những kẻ bị coi là đồng mưu được tiến hành có tường thuật vào ngày 18 tháng Mười, hai ngày trước khi diễn ra cuộc họp thứ hai của Bộ Chính trị bàn về kế hoạch cuộc tấn công 1968, và đợt bắt bớ thứ ba được tiến hành vào tháng Mười hai năm 1967, đồng thời với cuộc họp của Bộ Chính trị với mục đích thông qua kế hoạch[1].

“Vụ án Chống Đảng” có nguồn gốc từ xung đột Trung Quốc-Liên Xô hồi đầu những năm 1960. Cuối năm 1963, tiếp theo những thảo luận mở rộng và tranh cãi nội bộ, Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản, dưới sự lãnh đạo của tổng bí thư Lê Duẩn, đã thông qua một nghị quyết chống lại “xét lại hiện đại”, một thuật ngữ được người Trung Quốc dùng để miêu tả các chính sách của lãnh tụ Liên Xô Nikita Khrushchev về “cùng tồn tại hòa bình” và tránh đối đầu quân sự trực tiếp với phương Tây[2]. Nghị quyết này và một nghị quyết đi kèm kêu gọi một nỗ lực quân sự một mất một còn để đánh bại chế độ Ngô Đình Diệm tại Việt Nam Cộng hòa chính là nguồn cơn cho sự chia rẽ bên trong Đảng Cộng sản Việt Nam. Nhiều cán bộ cao cấp, trong đó có Hoàng Minh Chính, khi ấy là viện trưởng Viện Triết học Marx-Lenin, và thượng tướng Đặng Kim Giang, bị giáng chức hoặc mất chức, như là hậu quả của việc họ phản đối các nghị quyết đó, những nghị quyết đã đặt người cộng sản Việt Nam (ít nhất là trong thời điểm này) hẳn về phe Trung Quốc trong cuộc xung đột Nga-Trung đang mở rộng. Sự phản đối trước các nghị quyết mạnh mẽ đến mức một số cán bộ cao cấp Việt Nam đã trốn sang Liên Xô[3].

Những rạn nứt nội bộ của đảng thể hiện qua các tranh luận tại Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương Đảng tiếp tục dai dẳng. Các rạn nứt nghiêm trọng đến mức vào tháng Mười hai năm 1965, tổng bí thư Lê Duẩn buộc phải nói tới chúng trong một bài diễn văn tại Hội nghị lần thứ mười hai Ban Chấp hành Trung ương. Trong bài diễn văn này Lê Duẩn công nhận: “Từ khi có Nghị quyết Hội nghị lần thứ 9 về các vấn đề quốc tế, Trung ương Đảng ta vẫn giữ vững và làm đúng đường lối đã đề ra. Nhưng sở dĩ có một số đồng chí hiểu lầm rằng hình như đường lối của Đảng ta đã thay đổi là vì các đồng chí ấy không hiểu đúng tinh thần cơ bản của Nghị quyết Hội nghị lần thứ 9 của Trung ương, do sự phổ biến nghị quyết ở một số nơi không được đầy đủ và nghiêm túc[4].” Lê Duẩn tiếp tục bằng cách tuyên bố sẽ là sai lầm nếu nghĩ nghị quyết của Hội nghị lần thứ 9 cho thấy đảng đã chọn phe trong cuộc tranh cãi Trung Quốc-Liên Xô. Ông cho biết “đường lối của Đảng ta khác về chiến lược với đường lối của Đảng Cộng sản Liên Xô và Đảng Cộng sản Trung Quốc[5].”

Một cuốn sách chính thức của Công an Việt Nam xuất bản vào cuối những năm 1970 công nhận rằng chế độ coi sự phản đối trước nghị quyết “chống xét lại” năm 1963 của Trung ương Đảng Cộng sản là một mối đe dọa về an ninh và cho biết sự phản đối này đã trực tiếp dẫn tới các sự kiện của Vụ Chống Đảng năm 1967:

“Bè lũ xét lại hiện đại tìm cách tuyên truyền xuyên tạc chủ nghĩa Mác-Lê nin. Một số phần tử trong nước ta đã sao chép các luận điểm của chúng, sử dụng các khái niệm xét lại để tuyên truyền chống lại các chính sách của đảng ta. Bọn họ đã vứt bỏ nghị quyết của Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng vào năm 1963, đường lối cơ bản của nghị quyết là phê phán và phủ nhận chủ nghĩa xét lại hiện đại. Mặc dù các hoạt động của bè lũ này không gây ra tổn thất nghiêm trọng, chủ nghĩa xét lại đã bắt đầu gây ảnh hưởng tới hàng ngũ cán bộ tại một số cơ quan chính quyền, đặc biệt là trong các lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật, khoa học, và luật pháp. Cần ghi nhận rằng bè lũ này đã tập hợp các cá nhân bất mãn, ghen tị và đồi trụy bên trong đảng để lập ra một “tổ chức chính trị phản động để làm một tổ chức ngụy cho người nước ngoài.”[6]

Một chú thích cho đoạn trên nói, “Vụ Chống Đảng đã được giật dây bởi các phần tử chịu ảnh hưởng của ý thức hệ xét lại và do Hoàng Minh Chính cầm đầu[7].”

Một số cá nhân bị bắt trong đợt bắt bớ năm 1967 là sĩ quan cao cấp của quân đội, gồm cả thượng tướng Đặng Kim Giang, người vào quãng thời gian ấy đã bị điều sang Bộ Nông nghiệp, Thứ trưởng và Phó Tổng Tham mưu trưởng thượng tướng Nguyễn Văn Vĩnh, và cục trưởng Cục Quân báo của Bộ Tổng Tham mưu, đại tá Lê Trọng Nghĩa. Hai trong số những sĩ quan ấy, thượng tướng Nguyễn Văn Vĩnh và đại tá Lê Trọng Nghĩa, từng có dính líu rất sâu vào công việc chuẩn bị các kế hoạch cuộc tấn công của Bộ Tổng Tham mưu, và cả hai đều tham gia trong các báo cáo cho Bộ Chính trị trong cuộc thảo luận về kế hoạch vào tháng Mười[8]. Nhiều sĩ quan trong số đó rõ ràng là có liên hệ mật thiết với tướng Võ Nguyên Giáp, và một số người bị bắt tuyên bố rằng các sĩ quan an ninh thẩm vấn họ đã tìm kiếm sự liên kết giữa vị tướng họ Võ và âm mưu Chống Đảng[9]. Trong hồi ký của mình, tướng Cao Phá, Phó Cục trưởng Cục Quân báo cho tới 1968, công nhận ông đã bị rối trí trước việc đảng bắt đầu “sắp xếp lại các cấp bậc sĩ quan của… Bộ Chỉ huy Tối cao” vào quãng thời gian diễn ra Cuộc Tấn công Tết[10]. Vì “Chỉ huy Tối cao” là tên chính thức của bộ tổng hành dinh Võ Nguyên Giáp, lời bình luận này dường như đã xác nhận rằng quả thực đã từng có một nhóm sĩ quan làm việc chung với tướng Võ Nguyên Giáp.

Thông tin về vụ việc tuyệt mật này vẫn quá sơ sài, không đủ để rút ra được kết luận cuối cùng nào về sự thật của những liên kết nước ngoài như cáo buộc, nhưng các tài liệu do Ilya Gaiduk phát hiện tại lưu trữ chính thức của Liên Xô trước đây cho thấy trong quãng thời gian này các nhân viên Đại sứ quán Liên Xô tại Hà Nội, có khả năng là có cả một số sĩ quan tình báo, quả thực đã liên lạc với một nhóm “chống đối” nhỏ gồm các nhân vật chính trị Bắc Việt từng bị cắt chức từ nhiều năm trước đó. Những người ly khai này đã yêu cầu người Liên Xô giúp đỡ nhằm làm giảm tầm ảnh hưởng của Trung Quốc trong các quyết định về chính sách tại Việt Nam Dân chủ Cộng hòa[11]. Miêu tả của nhóm này có vẻ rất khớp với Hoàng Minh Chính và các bạn của ông. Những liên hệ với người Liên Xô có vẻ đã là quá đủ để biện minh cho các cuộc bắt bớ và tra hỏi, và một khi một “mối nguy về gián điệp” và khe hở về an ninh đã lộ diện, một đợt bắt bố lớn gần như là không thể tránh khỏi, đặc biệt là tại một nhà nước cảnh sát như Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Trong khi còn chưa thể tiếp cận tài liệu lưu trữ của Đảng Cộng sản và An ninh Việt Nam, không thể nào xác định tuyệt đối liệu việc lên kế hoạch các vụ bắt bớ có liên quan tới những suy tư của Bộ Chính trị về kế hoạch Tấn công Tết hay không, và liệu Võ Nguyên Giáp có quả thực là một trong các mục tiêu của cuộc điều tra hay không. Tuy nhiên, có vẻ như là khi quyết định về thực hiện Tấn công Tết được đưa ra, một cuộc tấn công hoàn toàn phụ thuộc vào yếu tố bất ngờ, một mệnh lệnh đã được ban xuống ở mức độ cao nhất, “thắt chặt an ninh”. Ban đầu mệnh lệnh này có thể không hướng tới các mục tiêu cụ thể, nhưng chắc chắn là các lực lượng an ninh của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã diễn giải nó như là một mệnh lệnh nhằm, nói như những lời bất hủ của Claude Raines trong bộ phim Casablanca, “Tóm hết những kẻ tình nghi!”

Tuy cơ quan an ninh của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thoạt đầu có thể chỉ làm một việc là kiểm soát một cách thụ động các đường dây liên kết với cán bộ Liên Xô của nhóm Hoàng Minh Chính, nhưng giờ đây đã rõ ràng rằng các thành viên của nhóm bị bắt là để loại trừ mọi khả năng bí mật về cuộc Tấn công Tết sắp diễn ra bị lọt ra bên ngoài. Sau đợt bắt bớ đầu tiên, bất kỳ ai có liên hệ thậm chí là vô hại nhất với những người âm mưu kia, bất kỳ ai từng biểu hiện bất kỳ sự dè dặt nào đối với Nghị quyết 9 của Trung ương Đảng, và bất kỳ ai có tì vết dù là nhỏ nhất trong lý lịch hoặc xuất thân gia đình đều phải đối mặt với các điều tra viên hăng hái đáp ứng yêu cầu của thượng cấp trong việc tìm ra những “mối đe dọa an ninh” tiềm ẩn. Có bằng chứng cho thấy rằng quả thực điều này đã xảy ra. Chẳng hạn, theo một hồi ký viết bởi một sĩ quan cao cấp của tình báo và an ninh cộng sản Việt Nam, sự suy sụp của tướng Nguyễn Văn Vĩnh chính là kết quả của những nghi ngờ không có căn cứ theo đó con trai của vị tướng có liên hệ với tình báo Pháp. Phải mười năm sau, ngay trước khi qua đời, tướng Nguyễn Văn Vĩnh rốt cuộc mới minh oan được cho mình[12]. Mặt khác, việc liệu các nghi ngờ về con trai vị tướng có được sử dụng để chống lại ông bởi ông có quan hệ mật thiết với tướng Võ Nguyên Giáp (Nguyễn Văn Vĩnh là thứ trưởng quốc phòng và đã làm việc rất gần gũi với tướng Võ Nguyên Giáp) hoàn toàn là một vấn đề khác.

Mặc dù không có bằng chứng chính xác nào cho thấy các vụ bắt bớ là cố tình nhắm vào tướng Võ Nguyên Giáp và các đồng minh của ông, thì cũng rõ ràng rằng quả thực chúng đã gây tổn hại tới vị tướng, cả về mặt nghề nghiệp lẫn mặt cá nhân. Năm 2004, trong một cuộc phỏng vấn với phóng viên một tờ báo Việt Nam nhân dịp kỷ niệm 50 năm Điện Biên Phủ sụp đổ, Võ Nguyên Giáp đã nhờ người phóng viên gọi điện cho một thuộc cấp trung thành của ông, một người mà vị tướng nói đã rất gần gũi với ông từ trận Điện Biên Phủ cho tới ngay trước cuộc Tấn công Tết nhưng vị tướng nói là chỉ biết ông ta “tách rời” khỏi ông vì những lý do “bất khả kháng” (tác giả nhấn mạnh). Võ Nguyên Giáp yêu cầu người phóng viên nói với người thuộc cấp trước kia là trong cuộc phỏng vấn này vị tướng đã không “quên” nhắc tới đóng góp của người thuộc cấp trong chiến thắng Điện Biên Phủ. Người thuộc cấp ngày xưa là người phụ trách bộ phận tình báo tại Điện Biên Phủ, đại tá Lê Trọng Nghĩa, người từng là một trong các nạn nhân của đợt bắt bớ năm 1967[13]. Hành động này không chỉ cho thấy Võ Nguyên Giáp vẫn còn một số tình cảm đối với đại tá Lê Trọng Nghĩa và tin Lê Trọng Nghĩa đã bị đối xử bất công, mà còn cho thấy vị tướng vẫn không thể trực tiếp liên lạc với Lê Trọng Nghĩa, vì các lý do chính trị.

Kết luận

Sau khi từ Đông Âu trở về tiếp sau khi cuộc Tấn công Tết Mậu Thân đã bắt đầu, Võ Nguyên Giáp quay lại giữ chức tổng tư lệnh tối cao của Các Lực lượng Vũ trang và bộ trưởng Bộ Quốc phòng, nơi ông chỉ đạo đợt Tấn công Tết thứ hai và thứ ba. Tướng Võ Nguyên Giáp vẫn giữ các cương vị lãnh đạo trong Bộ Chính trị và các lực lượng vũ trang cho tới khi chiến tranh kết thúc năm 1975, và ông đóng một vai trò quan trọng trong việc lên kế hoạch và tiến hành cuộc tấn công cuối cùng của cộng sản dẫn đến sự sụp đổ của Việt Nam Cộng hòa và chiếm được Sài Gòn tháng Tư năm 1975[14]. Rõ ràng là quyền lực của ông bị giảm sút, nhưng ông vẫn là người lính trung thành và “giữ đoàn kết” với các nhân vật còn lại của ban lãnh đạo đảng.

Bốn mươi năm sau cuộc Tấn công Tết, giờ đây chúng ta vẫn chưa có được kết luận về việc liệu quyết định của Lê Duẩn và Văn Tiến Dũng tung một cuộc tổng công kích-tổng khởi nghĩa một mất một còn ngay lập tức là đúng, hay liệu Võ Nguyên Giáp đã đúng khi phản đối quyết định ấy. Tôi tin rằng đây là một việc tế nhị và câu chuyện quá phức tạp, với quá nhiều biến số được đưa vào, nên không thể nói dù là ở mức độ chắc chắn như thế nào về việc một tình huống cụ thể có thể xảy ra như thế nào nếu lựa chọn một con đường khác.

Tuy nhiên, lợi thế về thời điểm cũng cho phép chúng ta có được một số kết luận về cuộc Tấn công Tết. Nhận định tình hình của cộng sản theo đó chiến lược Tấn công Tết đã sinh ra rõ ràng là không chính xác ở nhiều khía cạnh: Nhận định đó đã đánh giá quá cao số lượng thương vong mà các lực lượng cộng sản gây ra cho Mỹ và các đồng minh; nó đã đánh giá quá cao sự ủng hộ mà lý tưởng cộng sản nhận được trong dân chúng miền Nam; và nó đã đánh giá thấp đến nực cười sức mạnh và khả năng của quân đội Việt Nam Cộng hòa. Tuy nhiên, quả thực người cộng sản đã làm đúng được nhiều điều quan trọng: Họ đã kết luận một cách đúng đắn rằng mức độ sẵn sàng can dự của Mỹ vào Chiến tranh Việt Nam là một điểm yếu chính có thể khai thác trong nỗ lực chiến tranh liên minh ở miền Nam; nhận định của họ cho rằng mùa chiến dịch bầu cử tổng thống Mỹ năm 1968 sẽ là giai đoạn trọng yếu trong việc xác định con đường tương lai của chiến tranh Việt Nam từ phía Mỹ là vô cùng chính xác; và kết luận của họ rằng chỉ thông qua việc sử dụng các biện pháp đặc biệt họ mới có thể khai thác thời điểm của “điểm bùng phát” này nhằm biến chuyển tình thế có lợi cho họ, xét cho cùng, cũng là đúng. Chiến lược “các trận đánh lớn” đã từng có khả năng gây tổn thất cho các lực lượng Mỹ và quân đội Việt Nam Cộng hòa, nhưng Văn Tiến Dũng đã tuyệt đối đúng khi ông kết luận rằng các lực lượng cộng sản chỉ đơn giản là không đủ khả năng dùng các trận đánh lớn để tạo ra được các tổn thất hàng loạt lên kẻ thù mà quyết định của Bộ Chính trị về tìm kiếm một “chiến thắng nhanh chóng” đòi hỏi.

Rốt cuộc, với tất cả những thất bại của cuộc Tấn công Tết Mậu Thân của cộng sản, ở số lượng rất nhiều, có một điều lộ ra: cuộc Tấn công Tết đã thuyết phục cử tri Mỹ và vị lãnh đạo người Mỹ, tổng thống Johnson, rằng không thể giành thắng lợi trong cuộc chiến tranh và đã đến lúc bắt đầu đàm phán tìm ra một giải pháp và người Mỹ phải rút đi. Đây là một thời điểm bước ngoặt trong cuộc chiến, một thời điểm kể từ đó không có đường lùi nữa. Ý tưởng của Lê Duẩn-Văn Tiến Dũng đã hoàn thành một trong những mục tiêu được đề ra: “đè bẹp ý chí xâm lược [của kẻ thù]… nó phải đi đến ngồi với ta, thương lượng với ta[15].” Trong khảo luận về binh pháp của mình, chiến lược gia quân sự Trung Quốc cổ đại Tôn Tử viết:

“Phàm việc tác chiến, dùng chính binh đối địch, kỳ binh thủ thắng.”[16].

Tôn Tử cũng viết:

“Nước lũ chảy xiết cuốn trôi cả đá gạch, đó là nhờ thế nước lũ.

Chim ưng vồ mồi chỉ một cú có thể xé nát con mồi, đó là dựa vào thế tiết nhanh như chớp nhoáng.”[17]

Trong quyết định tung cuộc Tổng tiến công Tết, người cộng sản đã làm theo lời chỉ dạy của Tôn Tử. Họ đã sử dụng sự “biến hóa”, và “thế tiết” của họ là hoàn hảo.

Merle L. Pribbenow II là cựu sĩ quan tác chiến CIA và chuyên gia tiếng Việt, về hưu vào năm 1995. Một phần tiểu luận này được trình bày tại Sixth Triennial Vietnam Symposium, Vietnam Center, Texas Tech University, tháng Ba năm 2008. Tác giả muốn bày tỏ lòng biết ơn với giáo sư A. J. Langguth và Annenberg Institute for Justice and Journalism của Đại học Southern California vì đã tài trợ cho chuyến đi của tác giả tới Hà Nội mùa hè năm 2007 để thực hiện các cuộc phỏng vấn tại chỗ, một trong số những cuộc phỏng vấn đó đã làm nảy ra ý tưởng về bài viết này. Tác giả cũng muốn cám ơn một người bạn không nêu tên, người đã, nhiều năm trước đây, giảng qua cho tác giả về cách tiến hành công việc nội bộ của giới lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam.

Tóm tắt: Cuộc Tấn công Tết Mậu Thân là phát minh của tổng bí thư Đảng Cộng sản và tướng Văn Tiến Dũng. Chính quyền Hà Nội muốn khai thác cuộc bầu cử tổng thống Mỹ năm 1968 để mở ra các đàm phán với Mỹ. Khi tướng Võ Nguyên Giáp thất bại trong việc đề ra một kế hoạch khả dĩ nhằm giành được một chiến thắng quân sự để mang về cho người cộng sản lợi thế trong các đàm phán đã được lên kế hoạch, Lê Duẩn và Văn Tiến Dũng đã thúc đẩy một kế hoạch đầy nguy cơ về “tổng tấn công” trên phạm vi toàn quốc thông qua một Bộ Chính trị đang lưỡng lự, bất chấp sự phản đối của tướng Võ Nguyên Giáp và Hồ Chí Minh.

Ghi chú của người dịch: Một số trích dẫn của tác giả do nằm ở các trang web trên Internet không còn hoạt động hoặc ở những cuốn sách rất khó tìm nên được dịch sát nghĩa chứ chưa được truy nguyên; cách gọi “Đảng Cộng sản” được thống nhất trong bài, mặc dù tên chính thức hồi đó là Đảng Lao động Việt Nam; cách viết tên riêng người Việt Nam của tác giả được giữ nguyên, kể cả các trường hợp như “Hồ Kháng” hoặc “Cao Phá”.

Nguồn: Journal of Vietnamese Studies, Volume 3, Number 2, Summer 2008

Bản tiếng Việt © 2010 talawas

[1] Nguyễn, The War Politburo, 25-26; Quinn-Judge, “The Ideological Debate in the DRV,” 481-482. Cũng xem “Alleged Coup d’Etat Plot in Hanoi: 1967,” trích dịch từ cuốn sổ tay lính cộng sản bị quân đội Mỹ thu được vào năm 1970, số hiệu 2320120032, Douglas Pike Collection, Unit 06, Virtual Archive, The Vietnam Center and Archive, Texas Tech University, www.virtualarchive.vietnam.ttu.edu/starweb/virtual/vva/servlet.starweb?path=virtual/vva/virtual.web (truy cập 10/1/2008). Để biết một trong số rất ít dẫn chiếu tới các vụ bắt bớ năm 1967 trong các ấn phẩm công khai của cộng sản Việt Nam, xem “Hoàng Minh Chính: ông là ai?”, Hà Nội Mới, 20/10/2005, http://www/hanoimoi.com.vn/41/62857 (truy cập 11/7/2007).

[2] Xem “Nghị quyết của hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam về tình hình thế giới và nhiệm vụ quốc tế của đảng ta, tháng 12 1963”, Trần Tình, bs., Văn kiện đảng 1963, 716-800.

[3] Nguyễn, “The War Politburo,” 15-19; Quinn-Judge, “The Ideological Debate in the DRV,” 483. Để có một dẫn chiếu ngắn tới sự phản đối của tướng Đặng Kim Giang trước nghị quyết 9 Ban Chấp hành Trung ương Đảng, xem một bài diễn văn đọc năm 1969 của Bộ trưởng Nội vụ Trần Quốc Hoàn: “Kết luận của đồng chí Bộ trưởng về công tác sưu tra và xác minh hiểm nghi (1969)”, trong Một số vấn đề về đấu tranh chống phản cách mạng (Tối mật: chỉ lưu hành nội bộ ngành công an) (Hà Nội: Viện Nghiên Cứu Khoa Học Công An, 1975), 352.

[4] Phạm Thị Vịnh, Văn kiện đảng 1965, 609.

[5] Sđd., 610.

[6] Viện Nghiên Cứu Khoa Học Công An, Công an nhân dân Tập II, 1954-1965 (Dự thảo: chỉ lưu hành nội bộ) (TP. Hồ Chí Minh: Viện Nghiên Cứu Khoa Học Công An, 1978), 206.

[7] Sđd., 206.

[8] Nguyễn Văn Minh, Lịch sử kháng chiến, 1968, 32. Theo Cục Tác chiến, Lịch sử cục tác chiến, phần 8, tướng Nguyễn Văn Vịnh tham gia các cuộc bàn luận lên kế hoạch về Tấn công Tết cho đến tận 11/11/1967, cho nên có vẻ như là ông chưa bị bắt cho tới đợt giam giữ/bắt bớ cuối cùng vào tháng Mười hai.

[9] Vũ Thư Hiên, Đêm giữa ban ngày, chương 18, truy cập vào trang Đặc Trưng tại http://dactrung.net/truyen/noidung.aspx?BaiID=8AyT%2feTR1%2fFqSJaT6QufqQ%3d%3d (truy cập 15/12/2007); đại tá Bùi Tín (dưới bút danh Thành Tín), Mặt thật: Hồi ký chính trị của Bùi Tín (Garden Grove, CA: Turpin Press, 1994), 189-190.

[10] Tướng Cao Phá, Những ký ức không bao giờ quên (Hà Nội: Quân Đội Nhân Dân, 2006), 140.

[11] Ilya V. Gaiduk, The Soviet Union and the Vietnam War (Chicago: Ivan R. Dee Publishers, 1996), 67-68.

[12] Trần Quốc Hương và Nguyễn Thị Ngọc Hải, Trần Quốc Hương: Người thầy của những nhà tình báo huyền thoại (Hà Nội: Quân Đội Nhân Dân, 2004), 200; tướng Trần Văn Trà, Những chặng đường lịch sử của B2 Thành Đồng, Tập I: Hòa bình hay chiến tranh (Hà Nội: Quân Đội Nhân Dân, 1992), 36.

[13] Dương Trung Quốc, “Đại tướng Võ Nguyên Giáp, 7/5/2004,” Vietnam Net, 8/5/2004, www.vnn.vn/thuhanoi/2004/05/108102/ (truy cập 22/12/2007).

[14] Xem Merle Pribbenow, “North Vietnam’s Final Offensive,” Parameters 29, số 4 (mùa xuân 1999-2000): 60.

[15] Bản gỡ băng diễn văn của Lê Duẩn tại Hội nghị mười bốn Ban Chấp hành Trung ương Đảng, trong Văn kiện đảng 1968, Đào Trọng Cảnh bs. (xem chú thích số 53), 23.

[16] Nhóm dịch Denma, The Art of War: A New Translation (Boston: Shambhala Publishing, 2001), 16.

[17] Samuel B. Griffith, d., Tôn Tử: Binh pháp (New York: Oxford University Press, 1963), 92.

Phản hồi

1 phản hồi (bài “Merle L. Pribbenow II – Tướng Võ Nguyên Giáp và tiến trình bí ẩn của kế hoạch tấn công Tết Mậu Thân (1968): phần cuối”)

1.
Hoà Nguyễn nói:
29/04/2010 lúc 10:04 sáng

Trích vài câu đáng chú ý trong bài :

“Tấn công Tết Mậu Thân là phát minh của tổng bí thư Đảng Cộng sản (Lê Duẩn) và tướng Văn Tiến Dũng”. “Võ Nguyên Giáp không công khai phản đối cuộc tấn công, nhưng ông đã để cho sự vắng mặt của mình ngầm chỉ ra sự bất đồng đối với kế hoạch mới”, (và ông) “cố tình trì hoãn việc trở về Việt Nam và mãi đầu tháng Hai 1968 mới về tới Hà Nội, sau khi Cuộc Tấn công Tết đã bắt đầu”. (Chủ tịch) “Hồ Chí Minh từ chối bỏ phiếu thông qua nghị quyết như một cách thể hiện những dè dặt của ông về tính chất khôn ngoan của kế hoạch”.

Các mục tiêu lớn đề ra cho cuộc tấn công: “(1) “tiêu diệt” 150.000 lính Mỹ, bao gồm cả việc tiêu diệt ba trên năm lữ đoàn Mỹ, (2) “tiêu diệt” 300.000 quân Việt Nam Cộng hòa, bao gồm cả việc tiêu diệt từ sáu đến bảy sư đoàn, (3) “giải phóng” từ 5 đến 8 triệu người dân miền Nam và (4) “giải phóng” các thành phố Đông Hà và Quảng Trị, tiêu diệt các căn cứ địch tại Ban Mê Thuột và Kon Tum, và tiến hành các đợt tấn công vào Huế, Sài Gòn, cũng như thủ phủ của nhiều tỉnh”.

Theo các tài liệu đọc ở chỗ khác (của Mỹ, VNCH và miền Bắc), các đơn vị tấn công vào Sài Gòn được đặt dưới quyền chỉ huy của hai bộ Tư lệnh: bộ Tư lệnh Tiền phương Bắc do Trần Văn Trà, Mai Chí Thọ và Lê Đức Anh lãnh đạo, và bộ Tư lệnh Tiền phương Nam do Võ Văn Kiệt và Trần Bạch Đằng chỉ huy.

Miền Bắc (và MTGP) đã tung vào Tổng công kích (TCK) tất cả 97 tiểu đoàn và 18 đại đội biệt lập, tổng cộng khoảng 80 ngàn ngườì. Trong khi đó, lực lượng của VNCH và đồng minh tham dự chiến trận khoảng 88.400 người.

Theo báo cáo của bộ Tổng Tham mưu Quân lực VNCH, thiệt hại về nhân mạng trong cuộc TCK Tết Mậu Thân tính đến ngày 31-3-1968, như sau:

1/ Quân lực VNCH: tử thương 4.954, bị thương 15.097, mất tích 926

2/ Mỹ và đồng minh: tử thương 4.124, bị thương 19.285. mất tích 604

3/ CS: tử thương 58.374, bị thương ?, tù binh 9461

4/ Dân chúng: tử thương 14.300, bị thưông 24.000, di tản tỵ nạn 627.000.

Theo “Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam” (Học viện Chính trị Quốc gia Hồ chí Minh, nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 1999), tổng kết hậu quả của Tổng Tấn công như sau: diệt 630.000 quân địch (trong đó có 230.000 quân Mỹ và chư hầu), phá hủy trên 600 máy bay, 13.000 xe quân sự, 1200 kho tàng các loại, 1.000 tàu xuồng chiến đấu, tiêu diệt và bức rút 15.000 đồn bót. Về phía ta (CS) : 111.306 cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang và chính trị ở miền Nam đã hy sinh và bị thương.

Vế quân sự, miền Bắc có được yếu tố hoàn toàn bất ngờ và giữ được bí mật đến phút chót, nhưng đã tấn công trên một diện rất rộng với nhiều mục tiêu, nên không đủ sức mạnh tập trung để chiếm được mục tiêu quân sự nào; chỉ ở Huế Cộng quân kiểm soát được tất cả cơ quan hành chính (trừ đài phát thanh), và cố thủ được trên 20 ngày. Cuộc tổng tấn công xảy ra không đồng thời, có lẽ do một sai lầm nhỏ nào đó. Quân miền Bắc nổ súng tấn công Nha Trang, Qui Nhơn, Đà Nẵng, Tây nguyên vào lúc 00:15 giờ ngày 30-1-1968, và mãi hai mươi bốn giờ sau Sài Gòn, Huế, và các thành phố khác mới bị tấn công (Cộng quân vào Huế sáng mồng Hai Tết, 31-1).

Tuy thất bại về quân sự, trận tấn công Tết Mậu Thân đem lại cho Hà Nội một thắng lợi rất lớn đối với Mỹ. Tổng thống Johnson quyết định rời bỏ chính trường, và tìm giải pháp hoà bình cho cuộc chiến. Nixon đắc cử tổng thống với tuyên bố có “kế hoạch bí mật” để chấm dứt chiến tranh. Nhưng chưa thấy có người phân tích để biết Johnson và Nixon ai yêu chuộng hoà bình hơn ai khi chiến tranh ác liệt hơn kéo dài thêm bốn năm sau đó..

Merle L. Pribbenow II – Tướng Võ Nguyên Giáp và tiến trình bí ẩn của kế hoạch tấn công Tết Mậu Thân (1968): phần 3

Merle L. Pribbenow II – Tướng Võ Nguyên Giáp và tiến trình bí ẩn của kế hoạch tấn công Tết Mậu Thân (1968): phần 3

28/04/2010 | 10:28 sáng | 1 phản hồi

Tác giả: Nguyễn Việt

Chuyên mục: Lịch sử, Nhìn lại cuộc chiến 1954-1975

Xem phần 1 và phần 2.

Nguyễn Việt dịch

Một cái chết và một cuộc soán đổi

Vào buổi sáng sớm ngày 6 tháng Bảy năm 1967, tiếp theo một ngày dành riêng cho tiệc tùng thuộc một loạt bữa tiệc tạm biệt trước khi ông lên đường quay về mặt trận miền Nam, tướng Nguyễn Chí Thanh lên cơn nhồi máu tại nhà mình ở Hà Nội. Ông được đưa ngay vào Bệnh viện Quân đội 108, bệnh viện tốt nhất trên toàn miền Bắc, nhưng vào lúc chín giờ sáng, trái tim ông đã ngừng đập và ông được tuyên bố là đã qua đời[1].

Cái chết của tướng Nguyễn Chí Thanh đặt chính sách cộng sản Việt Nam tại miền Nam vào một sự lúng túng to lớn. Không chỉ đảng phải gánh lên vai mình một kế hoạch có vẻ như không hứa hẹn nhiều triển vọng thành công, mà giờ đây vị lãnh đạo lên kế hoạch ấy đã chết. Ngày hôm sau hai sĩ quan cộng sản cao cấp, tướng Chu Huy Mân và thượng tướng Nguyễn Văn Vịnh, được cử vào Nam (qua đường Trung Quốc và Cambodia) để truyền đạt cho bộ tư lệnh miền Nam những dự tính mới nhất của đảng về chiến dịch đông-xuân 1967-1968[2], nhưng các truyền đạt của họ không thể nào bù đắp được khoảng trống do cái chết của Nguyễn Chí Thanh để lại. Cần phải chọn một nhà lãnh đạo mới cho miền Nam, và gần như không thể tránh khỏi việc chỉnh sửa kế hoạch. Con đường đã rộng mở cho một con người đầy tham vọng đang hăng hái tiến về phía trước nhằm nắm lấy quyền chỉ huy – và con người đó đã sẵn sàng. Tên ông là Văn Tiến Dũng.

Tướng Văn Tiến Dũng từng là thuộc cấp của tướng Võ Nguyên Giáp trong vòng một thập niên rưỡi. Văn Tiến Dũng từng là Tổng Tham mưu trưởng Quân đội Nhân dân Việt Nam khi Võ Nguyên Giáp là tư lệnh tối cao Các Lực lượng Vũ trang và bí thư Quân ủy Trung ương. Có khả năng là hai người không có nhiều điểm chung với nhau. Võ Nguyên Giáp là người gốc miền Trung, xuất thân từ một gia đình quan lại, từng học đại học và làm thầy giáo tại một trường trung học (một nghề được kính trọng tại Đông Dương thời thuộc Pháp). Tướng Văn Tiến Dũng sinh ra ngay tại ngoại thành Hà Nội, xuất thân từ giai cấp nông dân, chỉ học tới lớp sáu, và từng làm công nhân bình thường trong một xưởng dệt[3]. Tâm tính nóng nảy của Võ Nguyên Giáp được cả bạn bè lẫn kẻ thù của ông biết rõ, nên làm việc cho ông trong một quãng thời gian dài đến vậy hẳn không luôn luôn là một việc dễ dàng. Mặc dù chúng ta không thể biết liệu hành động mà Văn Tiến Dũng thực hiện có phải là để chủ ý thay thế Võ Nguyên Giáp và chuyển lên nắm giữ vị trí của người thủ trưởng hay không, hành động của Văn Tiến Dũng rõ ràng là bước đi đầu tiên trong việc đưa tiến trình ấy vào thực tế.

Trong một bài phỏng vấn với tờ báo Quân đội Nhân dân vào năm 2004, Văn Tiến Dũng miêu tả những gì xảy ra sau đó: “Càng nghĩ về tình hình, tôi lại càng tin rằng chúng ta phải có những mục đích mới, những mục tiêu mới, và những phương pháp tiến công mới. Chúng ta cần rà soát lại toàn bộ kế hoạch đông-xuân 1967-1968. Tôi xin được gặp đồng chí Lê Duẩn để thảo luận về vấn đề này[4].” Nói một cách khác, Văn Tiến Dũng đã vượt cấp tướng Võ Nguyên Giáp để gặp riêng kẻ thù lớn của thủ trưởng mình, Lê Duẩn. Ý nghĩa của hành động này hẳn không lọt qua được mặt Lê Duẩn.

Sau khi Văn Tiến Dũng trình bày các mối lo ngại về tính chất không thích hợp của kế hoạch hiện có, Lê Duẩn trả lời bằng một đề nghị rất đáng kinh ngạc: Tại sao chúng ta lại không thể đẩy cuộc tấn công chiến lược của chúng ta tới giai đoạn cuối cùng, cuộc tổng công kích-tổng khởi nghĩa[5]?

Về thực chất, Lê Duẩn gợi ý rằng, vì các lực lượng cộng sản ở miền Nam không có khả năng hoàn thành các mục tiêu tức thời được cho là cốt yếu trong việc tạo ra những điều kiện cho phép “các lực lượng cách mạng” tiến đến giai đoạn gần kết của cuộc chiến, cho nên các bước tức thời cần được bỏ qua. Trước đây ai cũng nhất trí về các điều kiện cần có trước khi một cuộc tổng khởi nghĩa được tiến hành – quân đội Việt Nam Cộng hòa và bộ máy an ninh Việt Nam Cộng hòa bị nghiền nát và các lực lượng Mỹ bị tê liệt và/hoặc vô hiệu hóa – bởi vì nếu các điều kiện đó không được đảm bảo thì quân đội Việt Nam Cộng hòa và lực lượng Mỹ sẽ chỉ đơn giản là đàn áp “những người cách mạng” thường dân không có vũ trang đưa dân chúng xuống đường trong cuộc tổng khởi nghĩa. Giờ đây Lê Duẩn gợi ý rằng, khi thiếu vắng dù chỉ một lựa chọn khả dĩ nào khác về việc đạt được mục tiêu tức thời, những người cộng sản phải xem xét đến việc đánh liều mọi thứ vào một canh bạc. Văn Tiến Dũng đồng ý ngay với Lê Duẩn, và Lê Duẩn sai Văn Tiến Dũng điều hành Quân ủy Trung ương chuẩn bị một báo cáo theo hướng này để Bộ Chính trị xem xét[6]. Võ Nguyên Giáp có thể vẫn là bí thư của Quân ủy Trung ương, nhưng mệnh lệnh trên thực tế đã trao quyền hạn cho Văn Tiến Dũng, vì tướng Văn Tiến Dũng nhận lệnh trực tiếp từ đích thân Lê Duẩn.

Tại sao Văn Tiến Dũng lại đồng ý với một gợi ý như thế? Với tư cách một quân nhân chuyên nghiệp, hẳn ông phải nhận ngay ra những nguy cơ tiềm tàng trong lời gợi ý của Lê Duẩn. Chắc chắn một trong các lý do nằm ở tham vọng cá nhân của chính Văn Tiến Dũng. Một lý do khác có thể là kế hoạch ban đầu đã đặt thẳng lên vai quân đội trách nhiệm tiên quyết về thắng lợi hay thất bại. Gợi ý của Lê Duẩn có nghĩa là giờ đây quân đội có thể chia sẻ trách nhiệm về thắng lợi hay thất bại với bộ phận chính trị và tuyên truyền của đảng, bộ phận có trách nhiệm thúc đẩy và lãnh đạo cuộc tổng khởi nghĩa. Nếu kế hoạch ban đầu thất bại, Văn Tiến Dũng có thể mất chức Tổng Tham mưu trưởng, nhưng một liên minh với Lê Duẩn ở kế hoạch mới này có thể bảo vệ Văn Tiến Dũng và giúp ông thăng tiến trong sự nghiệp. Ngay cả khi kế hoạch này thất bại, thì mọi người sẽ chỉ coi Lê Duẩn, chứ không phải Văn Tiến Dũng, như là kiến trúc sư của kế hoạch. Chắc chắn đây không phải lần đầu tiên một vị tướng nhắm mắt làm theo một kế hoạch đầy nguy cơ được đẩy sang cho ông từ các thượng cấp về chính trị, một kế hoạch lờ đi các hậu quả của những quyết định về quân sự. Chỉ cần nghĩ tới các thành viên của Bộ Tổng Tham mưu Liên quân Hoa Kỳ trong những giai đoạn khởi đầu của Chiến tranh Việt Nam[7] hoặc của tướng Tommy Franks trong Chiến dịch Iraq Tự do là đủ.

Một cuộc tranh luận dai dẳng và sự biến mất của Võ Nguyên Giáp

Ngày 18-19 tháng Bảy năm 1967, Bộ Chính trị gặp để xem xét kế hoạch mới về giành một thắng lợi mang tính quyết định. Kế hoạch mới mà Lê Duẩn và Văn Tiến Dũng nhất trí với nhau vẫn chưa được đưa ra, nhưng ý tưởng chung về kế hoạch có vẻ như đã được trình bày lần đầu tiên ở cuộc gặp này: một cuộc tấn công chính trị-quân sự một mất một còn hướng vào các thành phố trong khi các lực lượng lớn của cộng sản tập trung nỗ lực vào việc lừa quân địch xa khỏi các thành phố và kìm chân đủ lâu để cho phép các cuộc tấn công thành phố thành công trong việc lật đổ chính quyền Việt Nam Cộng hòa. Các ghi chép của Văn Tiến Dũng tại cuộc gặp cho thấy lãnh tụ đáng kính của Bắc Việt, Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã nêu nhiều câu hỏi về tính khôn ngoan của kế hoạch. Các ghi chép của Văn Tiến Dũng cho biết Hồ Chí Minh đã nêu lên những điểm sau:

1. Dự thảo báo cáo tốt, toàn diện, lạc quan, nhưng cần xem báo cáo của Quân ủy có chủ quan [phi thực tế] không?

2. Tranh thủ giành thắng lợi sớm, nhưng phải chú ý đánh lâu dài.

3. Thuận lợi có nhiều nhưng phải thấy những khó khăn như mặt hậu cần bảo đảm.

4. Nói giành thắng lợi quân sự, nhưng phải chú ý đến việc giữ sức dân, nếu người và của kiệt, thì quân nhiều cũng không đánh được.

5. Phải chú ý mở rộng chiến tranh du kích, tăng cường trang bị cho du kích.

6. Phải làm sao ta càng đánh càng mạnh, đánh liên tục đánh được lâu dài [nghĩa là có khả năng thực hiện một cuộc chiến tranh lâu dài][8].

Tài liệu đã công bố của cộng sản không cho biết phản ứng của tướng Võ Nguyên Giáp trước kế hoạch, cũng như việc liệu vị tướng có mặt ở cuộc họp hay không. Từ thời điểm này trở đi không có tài liệu đã công bố nào cho thấy Võ Nguyên Giáp hiện diện ở bất kỳ cuộc họp lên kế hoạch nào, và một sĩ quan cao cấp của quân đội Việt Nam đã công nhận rằng

“trong giai đoạn kế hoạch chiến lược đang thành hình, cũng như trong những ngày khởi đầu làn sóng đầu tiên của cuộc tổng tiến công chiến lược Tết Mậu Thân, Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp thường xuyên vắng mặt khỏi Bộ Tổng Hành dinh và không dự nhiều cuộc họp quan trọng của Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương, hay các cuộc gặp chung của tiểu ban năm người trong Bộ Chính trị tổ chức với Quân ủy Trung ương.”[9]

Tuy nhiên, các nguồn thông tin của Việt Nam nói tướng Võ Nguyên Giáp phản đối nhiều chi tiết quan trọng trong kế hoạch ngay từ đầu bởi vì, ông nói, một cuộc tổng khởi nghĩa là không thể thực hiện trừ khi các lực lượng đối phương, quân đội Việt Nam Cộng hòa và lực lượng Mỹ, đã bị làm cho tê liệt[10].

Mặc cho những phản đối của Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp và nhiều người khác, tiến trình lập kế hoạch vẫn được thực hiện với một nhịp điệu gấp gáp, với Lê Duẩn và Văn Tiến Dũng ở vị trí chỉ huy, và đến cuối tháng Tám kế hoạch đã thành hình. Thành viên Bộ Chính trị Phạm Hùng, người đã được cử vào Nam hồi tháng Tám để thay chỗ Nguyễn Chí Thanh làm bí thư Trung ương Cục miền Nam và lãnh đạo miền Nam, mang theo cùng với mình bản dự thảo đầu tiên của kế hoạch mới “tấn công các đô thị”. Các nhà lãnh đạo cao cấp từ tất cả các vùng miền Nam được gọi ra Bắc để được thông báo về ý tưởng mới trước khi quay trở về xây dựng kế hoạch riêng của mình nhằm thực hiện ý tưởng trong sự bí mật tuyệt đối[11].

Kế hoạch mới đặc biệt tập trung vào việc tấn công các thành phố và gây nên một “cuộc tổng khởi nghĩa”, nhưng kế hoạch trước đó muốn các lực lượng chính chiến đấu “các trận đánh lớn” vẫn không hoàn toàn bị loại bỏ. Trên thực tế, có vẻ như là ở một số khía cạnh của cuộc tổng công kích-tổng khởi nghĩa, nghĩa là những cuộc tấn công vào mọi đô thị và thủ phủ các tỉnh, chỉ đơn giản là dựa vào kế hoạch cũ, nhờ cậy tới lực lượng chính, những cuộc tấn công và những “trận đánh lớn” đối với một số đô thị được lựa chọn nhằm tạo cơ sở cho những cuộc nổi dậy trong tương lai. Yếu tố “trận đánh lớn” chủ yếu của kế hoạch mới giờ đây được tập trung vào Chiến trường B5, tức nửa phía Bắc tỉnh Quảng Trị, ngay phía Nam của Vùng Phi quân sự và giới tuyến Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và trải dài từ Khe Sanh trên biên giới với Lào sang tới vùng Đông Hà, bờ biển phía Đông. Bốn sư đoàn chính quy của Quân đội Nhân dân Việt Nam và các đơn vị hỗ trợ ở khu vực này chịu trách nhiệm “tiêu diệt khoảng từ hai mươi tới ba mươi nghìn quân địch, tiêu diệt tổng cộng từ năm tới bảy tiểu đoàn lính Mỹ và từ hai tới ba trung đoàn quân ngụy, và dụ từ hai đến ba sư đoàn địch (ít nhất là hai trong số đó là lính Mỹ) ra khỏi các vùng khác nhằm tham chiến dọc theo Đường 9[12].”

Cuối tháng Mười, Bộ Chính trị họp trong năm ngày (từ 20 đến 24 tháng Mười) để xem xét và thông qua kế hoạch mới được trình lên. Thật đáng ngạc nhiên, cả Lê Duẩn lẫn Võ Nguyên Giáp đều không dự cuộc họp này, và Trường Chinh là người chủ trì hội nghị Bộ Chính trị đó. Một cuốn sách thời hậu chiến của Việt Nam cho biết cả Lê Duẩn lẫn Võ Nguyên Giáp đều “ở nước ngoài” để điều trị sức khỏe[13]. Các “vấn đề sức khỏe” rất có thể chỉ là một cái cớ, và người ta có thể hữu lý khi cho rằng cuộc tranh cãi giữa hai người đã trở nên gay gắt đến mức nhằm giữ được “hòa khí” cả hai đều không được dự hội nghị.

Quả thực, vào quãng thời gian Bộ Chính trị họp, Võ Nguyên Giáp, nhận ra lý lẽ của mình có khả năng bị thua, đã ở Hungary, nơi ông “nghỉ ngơi” và điều trị bệnh thận. Vị tướng cố tình trì hoãn việc trở về Việt Nam và mãi đầu tháng Hai 1968 mới về tới Hà Nội, sau khi Cuộc Tấn công Tết đã bắt đầu[14]. Võ Nguyên Giáp không công khai phản đối cuộc tấn công, nhưng ông đã để cho sự vắng mặt của mình ngầm chỉ ra sự bất đồng đối với kế hoạch mới.

Vào cuối cuộc hội nghị tháng Mười, Bộ Chính trị thông qua phần quân sự của kế hoạch chiến dịch đông-xuân 1967-1968. Tuy nhiên, Bộ Chính trị nhất quyết hoãn việc thông qua khía cạnh tổng khởi nghĩa của kế hoạch, cho rằng cần phải “nghiên cứu thêm”. Các thành viên của Bộ Chính trị nhận định rằng quyết định về phần cuộc tổng khởi nghĩa của kế hoạch cần được thực hiện sau này, sau khi đã tham khảo ý kiến “của các đồng chí lãnh đạo khác”. Rõ ràng điều này muốn ám chỉ sự vắng mặt của Võ Nguyên Giáp, Lê Duẩn, và Hồ Chí Minh, người đang “hồi phục sức khỏe” tại Trung Quốc[15]. Nhưng tướng Võ Nguyên Giáp sẽ không cố gắng biện hộ cho lý lẽ của mình nữa, và “Bác Hồ”, người tỏ ra phản đối trong các thảo luận của Bộ Chính trị hồi tháng Bảy, đã không còn đủ sức lực hoặc uy quyền để lấn lướt Lê Duẩn được nữa.

Sau thêm nhiều bàn luận và xem xét hăng hái về kế hoạch, Bộ Chính trị lại họp vào tháng Mười hai, thông qua kế hoạch dưới hình thức một nghị quyết sẽ được trình lên Trung ương Đảng Cộng sản để được thông qua lần cuối cùng. Hồ Chí Minh từ Trung Quốc trở về một thời gian rất ngắn để dự cuộc họp này nhưng sau đó lại ngay lập tức quay lại Trung Quốc để tiếp tục “điều trị”[16].

Vào tháng Một, Trung ương họp để xem xét và thông qua nghị quyết của Bộ Chính trị cho phép tiến hành tổng công kích-tổng khởi nghĩa. Để giữ “bí mật”, thay vì họp ở Hà Nội các đại biểu Trung ương được chuyển đi cách thành phố năm mươi km tới một huyện lỵ ở tỉnh Hòa Bình[17]. Lê Duẩn đọc diễn văn khai mạc phiên họp của Trung ương. Trong bài diễn văn Lê Duẩn cho biết “trong Bộ Chính trị cũng có đồng chí bận việc không đến được” và nói tướng Văn Tiến Dũng (chứ không phải Võ Nguyên Giáp) sẽ thay mặt Quân ủy Trung ương báo cáo cho hội nghị[18]. Thành công của tướng Văn Tiến Dũng, ít nhất tạm thời, là hoàn toàn.

Sau một số tranh luận, Trung ương thông qua kế hoạch, gọi tên là Nghị quyết hội nghị mười bốn Ban Chấp hành Trung ương. Theo một nguồn tin của Việt Nam, Hồ Chí Minh từ chối bỏ phiếu thông qua nghị quyết như một cách thể hiện những dè dặt của ông về tính chất khôn ngoan của kế hoạch[19].

Không chỉ có một chi tiết cuối cùng còn chưa được rõ ràng. Thật đáng ngạc nhiên, có lẽ là vì những xung đột nội bộ gay gắt và các tranh cãi đi liền với việc hình thành kế hoạch, ngày giờ chính xác của cuộc tấn công chưa được ấn định. Quyết định cuối cùng theo đó cuộc tấn công sẽ được tiến hành vào đêm 30-31 tháng Giêng, đêm Nguyên đán, mãi 15 tháng Giêng mới được đưa ra, chỉ hai tuần trước khi khởi đầu cuộc tấn công[20]. Sự chậm trễ này gây ra bối rối đáng kể trong các tổng hành dinh cấp vùng, tiểu vùng, và cấp tỉnh tại miền Nam. Ở một số vùng, bức điện phút cuối của Bộ Tổng Tham mưu ra lệnh mở cuộc tấn công vào đêm cuối cùng của năm âm lịch còn bị hiểu nhầm vì giữa Bắc và Nam Việt Nam có khác biệt một ngày về khởi đầu của năm âm lịch. Chính vì vậy, một số tỉnh miền Trung tiến hành tấn công sớm hơn một ngày, đây là một phần nguyên nhân làm mất đi tính chất bất ngờ của cuộc tấn công chính[21]. Thêm vào đó, nhiều tổng hành dinh nhận được thông báo về ngày giờ cuộc tấn công quá muộn thành thử không thể điều lực lượng đúng lúc để tấn công theo đúng kế hoạch[22].

(còn tiếp)

Nguồn: Journal of Vietnamese Studies, Volume 3, Number 2, Summer 2008

Bản tiếng Việt © 2010 talawas

[1] Tiến sĩ Nguyễn Thị Bảo, “Những ngày cuối cùng của anh Nguyễn Chí Thanh,” trong Đại tướng Nguyễn Chí Thanh: Nhà chính trị quân sự lỗi lạc (Hà Nội: Quân Đội Nhân Dân, 1997), 350-360. Nhiều báo cáo từ cả nguồn Mỹ và Việt Nam Cộng hòa, một số trong đó vẫn được các tác giả ngày nay sử dụng, theo đó Nguyễn Chí Thanh bị giết ở miền Nam bởi một cuộc ném bom rải thảm B-52 rõ ràng là đã nhầm lẫn. Phiên bản bên cộng sản về cái chết của ông mới đúng và rõ ràng là không hề bị bịa ra. Rõ ràng là người cộng sản Việt Nam thích được tuyên bố Nguyễn Chí Thanh qua đời như một anh hùng ở mặt trận, bị một cuộc thả bom dã man của Mỹ giết chết, hơn là chấp nhận cái chết tầm thường không lấy gì làm cao đẹp mà họ miêu tả – một cơn nhồi máu vì stress, làm việc quá sức, và ăn uống quá độ trong những bữa tiệc khi ông quay về nhà ở Hà Nội.

[2] Tướng Chu Huy Mân và đại tá Lê Hải Triều, Thời sôi động (Hà Nội: Quân Đội Nhân Dân, 2004), 463.

[3] Currey, Victory at Any Cost, 231.

[4] “Tạo một bước ngoặt trong kháng chiến chống Mỹ” (xem chú thích số 32). Mặc dù bài báo không cung cấp ngày tháng chính xác về cuộc gặp Văn Tiến Dũng-Lê Duẩn, bối cảnh và sự so sánh với thông tin từ các nguồn khác cho thấy cuộc gặp có khả năng đã diễn ra trong những ngày đầu tiên sau khi Nguyễn Chí Thanh chết. Một bài báo mới đây của Việt Nam có thể xem là đã chỉ ra rằng cuộc gặp diễn ra không lâu trước khi Nguyễn Chí Thanh chết, nhưng từ ngữ trong bài báo đó rất mơ hồ. Trong phần thứ ba của một bài báo mang tên “Kế hoạch tổng tiến công chiến lược xuân 1968 ra đời như thế nào (Quân Đội Nhân Dân, 11/1/2008, xem chú thích số 1), đại tá Trần Trọng Trung viết rằng một cuộc gặp giữa Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương đã được tiến hành vào ngày 30 tháng Sáu và 1 tháng Bảy năm 1967, nó được “quyết định đưa cuộc cách mạng miền Nam tiến về phía trước tới một bước phát triển mới. Cuộc hội nghị này khẳng định khả năng giành một thắng lợi mang tính quyết định thông qua một cuộc tổng công kích-tổng khởi nghĩa. Cơ hội lớn nhất là Đông-Xuân 1967-1968, Hè 1968, hoặc sớm hơn.” Tuy nhiên, từ ngữ ở đây không rõ ràng và tương hợp với ý tưởng trong kế hoạch ban đầu của Bộ Tổng Tham mưu về một cuộc tấn công nhằm mục đích tạo ra điều kiện cần thiết cho việc tung ra một cuộc tổng công kích-tổng khởi nghĩa vào một thời điểm còn chưa biết trong tương lai, bên cạnh các mục đích khác. Cục Tác chiến, Lịch sử cục tác chiến 1945-2000, phần 8 cho biết vào ngày 20 tháng Sáu năm 1967, Quân ủy Trung ương thông qua một “giải pháp chiến lược”, nói, “Chúng ta cần thực hiện những cuộc tấn công mạnh mẽ, cả về quân sự và chính trị, vào các thành phố, thị trấn, và trung tâm chính trị nằm dưới quyền kiểm soát của chính quyền ngụy và tạo ra các cơ hội và điều kiện để tung ra một cuộc tổng tiến công và nổi dậy” (tác giả nhấn mạnh). Cuộc họp giữa Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương ngày 30 tháng Sáu và 1 tháng Bảy năm 1967 có khả năng được tổ chức để xem xét và thông qua “giải pháp chiến lược” ngày 20 tháng Sáu của Quân ủy Trung ương, rõ ràng là vẫn phản ánh kế hoạch cũ trong việc “tạo điều kiện” để tung ra một cuộc tổng công kích-tổng khởi nghĩa chứ không phải là kế hoạch mới do Lê Duẩn và Văn Tiến Dũng nói tới trong cuộc họp. Tuy nhiên, một bài báo gần đây của một sử gia quân sự Việt Nam kỳ cựu, lại ủng hộ giả thuyết cho rằng ý tưởng chuyển sang một cuộc tổng công kích-tổng khởi nghĩa một mất một còn đối với các thành phố chỉ xuất hiện vào tháng Bảy năm 1967, sau khi Nguyễn Chí Thanh chết. Xem đại tá Hồ Kháng, “Mục tiêu chiến lược của đòn Tết Mậu Thân 1968” (xem chú thích số 1). Cân nhắc các dữ kiện, nhiều khả năng cuộc gặp Lê Duẩn-Văn Tiến Dũng đã diễn ra không lâu sau cái chết của Nguyễn Chí Thanh.

[5] “Tạo một bước ngoặt trong kháng chiến chống Mỹ” (xem chú thích số 32).

[6] Để có một ý kiến ủng hộ việc ý tưởng của Văn Tiến Dũng theo đó ý tưởng chung về Cuộc Tấn công Tết Mậu Thân xuất phát từ một gợi ý của Lê Duẩn rồi được Văn Tiến Dũng phát triển, xem đại tá Nguyễn Văn Minh, bs., Lịch sử kháng chiến chống Mỹ cứu nước, 1954-1975, Tập V: Tổng tiến công và nổi dậy 1968 (Hà Nội: Chính Trị Quốc Gia, 2001), 30-31.

[7] Xem H. R. McMaster, Dereliction of Duty: Lyndon Johnson, Robert McNamara, the Joint Chiefs of Staff, and the Lies that Led to Vietnam (New York: Harper Collins, 1997).

[8] Cục Tác chiến, Lịch sử cục tác chiến 1945-2000 (tác giả nhấn mạnh). Trong phần thứ hai của bài báo mang tên “Kế hoạch tổng tiến công chiến lược ra đời như thế nào?” (xem chú thích số 1), đại tá Trần Trọng Trung cũng đưa ra cùng câu trích dẫn đó của Hồ Chí Minh nhưng lại nói rằng nó xuất hiện trong các thảo luận của Bộ Chính trị ngày 18 và 19 tháng Bảy năm 1966 (khác với ngày 18 và 19 tháng Bảy năm 1967 theo tài liệu của Cục Tác chiến). Xem xét kỹ các vấn đề, tôi tin rằng 18 và 19 tháng Bảy năm 1967 mới đúng, nhưng dù cho ngày tháng nào mới chính xác, câu trích dẫn rõ ràng đã cho thấy Hồ Chí Minh phản đối mọi kế hoạch liều lĩnh nhằm giành một chiến thắng nhanh chóng.

[9] Đại tá Trần Trọng Trung, “Kế hoạch tổng tiến công chiến lược xuân 1968 ra đời như thế nào?” (xem chú thích số 1).

[10] Đại tá Trần Trọng Trung, phỏng vấn với tác giả, 19/6/2007, Hà Nội. Cũng xem Lưu Đoàn Huỳnh, “The Perspective of a Vietnamese Witness,” trong The War That Never Ends: New Perspectives on the Vietnam War, David L. Anderson và John Ernst bs. (Lexington: University Press of Kentucky, 2007), 91-92.

[11] Đại tá Nguyễn Văn Minh, Lịch sử kháng chiến, 1968, 29-32; Thượng tướng Trần Văn Quang bs., Tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước: Thắng lợi và bài học (Lưu hành nội bộ) (Hà Nội: Chính Trị Quốc Gia, 1995), 68 và 314, các chú thích 27-28.

[12] Hoàng Đan và Hưng Đạt, Chiến dịch tiến công đường số 9-Khe Sanh xuân hè 1968 (Lưu hành nội bộ) (Hà Nội: Viện Lịch Sử Quân Sự Việt Nam, 1987), 14. Vẫn những mục tiêu cho Tết Mậu Thân ấy đối với chiến trường B5 được tìm thấy trong Kiều Tam Nguyên, bs., Chiến trường Trị-Thiên-Huế trong cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước toàn thắng (Huế: Thuận Hóa, 1985), 136.

[13] Nguyễn Văn Minh, Lịch sử kháng chiến, 1968, 32.

[14] Sophie Quinn-Judge, “The Ideological Debate in the DRV,” 482; đại tá Trần Trọng Trung, trong lần phỏng vấn với tác giả, 19 tháng Sáu năm 2007 tại Hà Nội. Theo tướng Cao Phá, tướng Võ Nguyên Giáp vẫn ở Hungary cho tới cuối tháng Mười hai năm 1967. Xem Những ký ức không bao giờ quên (Hà Nội: Quân Đội Nhân Dân, 2006), 166. Theo tướng Philip Davidson, người ta không thấy tướng Võ Nguyên Giáp ở Hà Nội từ 2 tháng Chín năm 1967 cho tới 5 tháng Hai năm 1968. Xem Davidson, Vietnam at War (New York: Oxford University Press, 1988), 563.

[15] Duiker, Hồ Chí Minh, 556.

[16] Sđd., 557.

[17] Đại tá Nguyễn Văn Minh, Lịch sử kháng chiến, 1968, 40.

[18] Đào Trọng Cảnh, bs., Văn kiện đảng toàn tập, Tập 29, 1968 (Hà Nội: Chính Trị Quốc Gia, 2004), 1, 32.

[19] Lưu Đoàn Huỳnh, được trích dẫn trong Anderson và Ernst, The War That Never Ends, 92.

[20] Thượng tướng Trần Văn Quang, Tổng kết cuộc kháng chiến, 314, chú thích 28.

[21] Cục Tác chiến, Lịch sử cục tác chiến, phần 8; đại tá Nguyễn Văn Minh, Lịch sử kháng chiến, 1968, 74-75.

[22] Tướng Huỳnh Công Thân và Nguyễn Hữu Nguyên, Ở chiến trường Long An: hồi ức (Hà Nội: Quân Đội Nhân Dân, 1994), 131-132; đại tá Trần Dương, bs., Lịch sử quân khu 6 (cực Nam Trung Bộ-Tây Nguyên) kháng chiến chống Mỹ, 1954-1975 (Hà Nội: Quân Đội Nhân Dân, 1995), 221.

Merle L. Pribbenow II – Tướng Võ Nguyên Giáp và tiến trình bí ẩn của kế hoạch tấn công Tết Mậu Thân (1968): phần 2

Merle L. Pribbenow II – Tướng Võ Nguyên Giáp và tiến trình bí ẩn của kế hoạch tấn công Tết Mậu Thân (1968): phần 2

28/04/2010 | 5:26 sáng | Chưa có phản hồi.

Tác giả: Nguyễn Việt

Chuyên mục: Lịch sử, Nhìn lại cuộc chiến 1954-1975
Thẻ: Lê Duẩn > Nguyễn Chí Thanh > Tết Mậu Thân > Văn Tiến Dũng > Võ Nguyên Giáp

Xem phần 1

Nguyễn Việt dịch

Đe dọa và thách thức – đòi hỏi về một thắng lợi mang tính quyết định

Vào khoảng mùa hè năm 1966, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ở vào tình thế một cuộc phòng thủ chiến lược trong ít nhất là một năm khi nó phải nỗ lực một cách tuyệt vọng để cung cấp quân lính và quân trang vào miền Nam nhằm không bị thua kém với cuộc đổ quân ồ ạt của các lực lượng chiến đấu Mỹ vào Việt Nam Cộng hòa. Đây không phải là một tình hình dễ chịu cho những người cộng sản Việt Nam, những người, cũng giống như tất cả các nhà Mác xít chân chính, tin rằng điều cốt yếu là phải giữ vững được lập trường ban đầu và luôn không ngừng tấn công. Điều không tránh khỏi là họ sẽ phải cố gắng giành lại thế tấn công ban đầu.

Giữa tháng Sáu năm 1966, tiểu ban của Bộ Chính trị chuyên trách cuộc chiến tranh ở miền Nam do Lê Duẩn đứng đầu và có thêm Nguyễn Chí Thanh (người có mặt ở Hà Nội cho công việc tham vấn), gặp Quân ủy Trung ương tại Hà Nội để bàn bạc về kế hoạch Bộ Tổng Tham mưu cho chiến dịch “đông-xuân” 1966-1967. Mục đích của chiến dịch ghi trên kế hoạch là “giành một thắng lợi mang tính quyết định” trước Việt Nam Cộng hòa trong năm 1967. Một cuốn sách của Cục Tác chiến Bộ Tổng Tham mưu tóm tắt kế hoạch như sau: “[Chúng ta sẽ] sử dụng 4 khối chủ lực tiến công địch trên 4 chiến trường: Đông Nam Bộ, Tây Nguyên, Khu 5, Trị Thiên; kết hợp với tiến công và khởi nghĩa ở 3 thành phố lớn Sài Gòn, Đà Nẵng, Huế, tiêu diệt và đánh tan rã chủ lực quân ngụy, đánh thiệt hại nặng quân Mỹ, giành thắng lợi quyết định trên chiến trường miền Nam trong năm 1967[1].”

Theo các ghi chép từ cuộc gặp, Nguyễn Chí Thanh ủng hộ ý tưởng tìm kiếm một “thắng lợi mang tính quyết định” trong năm 1967 nhưng thận trọng vì trong dịp đông-xuân sắp tới các lực lượng Trung ương Cục miền Nam tại miền Nam sẽ phải tập trung vào các hoạt động phòng thủ nhằm đánh thắng “cuộc phản công chiến lược” mùa khô 1966-1967 của Mỹ. Điều đó có nghĩa là các lực lượng cộng sản sẽ phải tiếp tục chiến đấu trong mùa hè thay vì có đợt ngưng như thường lệ để nghỉ ngơi và củng cố lực lượng. Trong cuộc gặp, tướng Võ Nguyên Giáp bày tỏ sự ủng hộ của ông đối với việc tiến hành “những trận đánh lớn” nhằm giành một thắng lợi, nhưng nhấn mạnh rằng những cuộc tấn công vào các thành phố cần được khởi đầu bằng những tấn công quân sự nhỏ và chỉ dần dần tiến tới bước “nổi dậy” tại một số vùng và thành phố đặc thù, khi mà các lực lượng cộng sản đã chiếm được quyền kiểm soát ở những vùng đó[2].

Cuộc thảo luận tháng Sáu năm 1966 về kế hoạch cho một “thắng lợi mang tính quyết định” hẳn đã chịu ảnh hưởng từ các cuộc nổi dậy của Phật giáo và biến động miền Trung nửa đầu của năm 1966, những gì mà phe cộng sản hẳn đã coi như là các dấu hiệu cho thấy quân đội Việt Nam Cộng hòa và chính phủ miền Nam bắt đầu sụp đổ. Tuy nhiên, có vẻ như là sẽ đúng hơn nếu nói nó phản ánh một quyết định về chính sách ban đầu của Bộ Chính trị cuối cùng được chính thức hóa vào tháng Giêng 1967, khi Trung ương Đảng Cộng sản thông qua Nghị quyết hội nghị mười ba, kêu gọi việc thực hiện một chiến lược “vừa đánh vừa đàm” và khởi đầu các cuộc thương thuyết với Mỹ.

Trong các trình bày riêng biệt trong cuộc tranh luận về Nghị quyết 13, Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Duy Trinh và Tổng Tham mưu trưởng, tướng Văn Tiến Dũng, nói với các đại biểu của Trung ương rằng vì hai phía trong cuộc chiến tranh đều đang rất bế tắc, người Mỹ đang phải đối diện với một lựa chọn giữa ba chiến lược có thể có cho tương lai: (1) mở rộng chiến tranh thông qua mở rộng ném bom và xâm lấn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, (2) gửi thêm rất nhiều quân và quân trang để chiến đấu và tìm cách chiến thắng trong một cuộc chiến kéo dài tại miền Nam, hoặc (3) nỗ lực để giành một thắng lợi quân sự quan trọng trong năm 1968 rồi sử dụng thắng lợi đó thương thuyết một giải pháp chính trị từ một vị thế có sức mạnh, một giải pháp có thể vẫn cho phép giữ lại chính quyền “tân thực dân” ở Việt Nam Cộng hòa.

Những lựa chọn đó mang lại cho người cộng sản Việt Nam không chỉ một mối đe dọa nguy hiểm mà cả một cơ hội nữa. Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Duy Trinh nói với Trung ương rằng bởi có bất ổn ngay trong lòng nước Mỹ, và đặc biệt là bởi có tác động mà cuộc chiến hẳn sẽ có lên kỳ tranh cử tổng thống năm 1968, một cuộc tranh luận nảy lửa đang nổ ra bên trong giới chức Mỹ giữa phe “diều hâu”, những kẻ ủng hộ hành động mạnh mẽ hơn chống lại Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, và phe “bồ câu”, những người ủng hộ thương thuyết để chấm dứt chiến tranh nhưng vẫn giữ lại một miền Nam Việt Nam độc lập. Vị bộ trưởng ngoại giao nói rằng Tổng thống Lyndon B. Johnson đang không chắc sẽ phải làm gì nhưng nghiêng về giải pháp thứ ba, tìm kiếm một dạng thành công nhanh chóng về quân sự với liền tiếp theo là một thỏa thuận thông qua thương thuyết trước khi diễn ra bầu cử, nhằm được tiếp tục tại vị[3].

Nguyễn Duy Trinh khuyên Trung ương thông qua chiến lược do Bộ Chính trị đề ra, sử dụng “củ cà rốt” thương thuyết và một “chiến lược vừa đánh vừa đàm” nhằm khai thác mong muốn của Johnson trong việc thực hiện được một thỏa thuận thông qua thương thuyết trước kỳ bầu cử 1968. Nguyễn Duy Trinh nói rằng Bộ Chính trị đã đặt ra hai mục tiêu chính cho các thương thuyết. Mục tiêu thứ nhất là làm cho nước Mỹ ngừng ném bom Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, và mục tiêu thứ hai là buộc Mỹ rút quân khỏi miền Nam.

Ý tưởng sử dụng chiến lược vừa đánh vừa đàm không phải là điều gì mới mẻ. Tổng bí thư Lê Duẩn từng bàn về ý tưởng này trong một bài phát biểu vào dịp Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng vào tháng Mười hai 1965. Trong bài phát biểu, ông nói rõ rằng có nhiều ý kiến khác nhau ngay trong phe xã hội chủ nghĩa về việc sử dụng “vừa đánh vừa đàm”, và ông đã chỉ ra các điều kiện cần thiết trước khi một chiến lược như vậy có thể được sử dụng: trước hết Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phải giành được “những thắng lợi to lớn và giòn giã hơn nữa” và phải đạt được sự nhất trí ở mức độ nào đó “trong các đảng, các nước xã hội chủ nghĩa anh em… về ý tưởng vừa đánh vừa đàm[4].”

Nhiệm vụ có được một sự nhất trí nào đó với “các nước xã hội chủ nghĩa anh em” trong việc sử dụng ý tưởng vừa đánh vừa đàm thuộc về các nhà ngoại giao và lãnh tụ chính trị của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa; Liên Xô đang mạnh mẽ thúc đẩy giới lãnh đạo Việt Nam Dân chủ Cộng hòa bước vào đàm phán, trong khi Trung Quốc kịch liệt phản đối mọi thương thuyết với Mỹ[5]. Tuy nhiên, trước khi các đàm phán có thể bắt đầu, trước hết Quân đội Nhân dân Việt Nam cần giành được một thắng lợi quan trọng ở mặt trận nhằm cung cấp cho các nhà ngoại giao của họ thế mạnh đối với người Mỹ tại bàn đàm phán. Như Nguyễn Duy Trinh trình bày trong báo cáo của ông tại hội nghị Trung ương, “khi chưa giành được thắng lợi đó thì trên bàn hội nghị cũng chưa giành được thắng lợi.”[6]

Để hỗ trợ cho chiến lược vừa đánh vừa đàm, Nghị quyết 13 của Trung ương kêu gọi một “cố gắng cao độ… giành thắng lợi quyết định trong thời gian tương đối ngắn”. Một “thắng lợi quyết định” được định nghĩa như là thắng lợi gây ra tổn thất nặng nề cho quân Mỹ, tiêu diệt một lực lượng lớn của quân đội Việt Nam Cộng hòa nhằm làm cho quân đội đó trở nên tê liệt, và tạo ra một cuộc “tổng công kích-tổng khởi nghĩa” tại các thành phố và các vùng nông thôn. Mục đích tối hậu là làm cho chính quyền Việt Nam Cộng hòa sụp đổ và thay thế nó bằng một chính quyền liên hiệp không cộng sản rộng rãi, sẽ kiên quyết đàm phán một thỏa thuận cho phép Mỹ rời khỏi Việt Nam mà không bị mất mặt[7]. Tuy nhiên, nghị quyết cũng rất rõ ràng ở điểm cuộc tổng công kích-tổng khởi nghĩa sẽ chỉ được tiến hành vào thời điểm cuối của một tiến trình dần dần, từng bước một: “Kết hợp với đấu tranh chính trị, [chúng ta phải] xây dựng thực lực, từng bước giành quyền làm chủ của ta ở các đô thị, làm yếu sự kiểm soát của địch, đẩy mạnh phong trào đô thị, tạo điều kiện tiến lên tổng công kích và tổng khởi nghĩa[8].” Chưa hề có một ý nghĩ nào về việc tung ra một cuộc tổng công kích-tổng khởi nghĩa một mất một còn tại các thành phố trước khi các lực lượng quân sự của kẻ thù đã bị nghiền nát.

Trong vòng hơn một năm, trọn vẹn năm 1966 và tới nửa đầu năm 1967, Nguyễn Chí Thanh và Võ Nguyên Giáp tiến hành một “cuộc chiến lời lẽ” trên các tờ báo và tạp chí lý luận cộng sản về tương quan đúng đắn giữa “những trận đánh lớn” và chiến tranh du kích. Rất nhiều điều đã được viết ra về những lý lẽ ấy, và ở đây cũng sẽ không có gì nhiều để thêm vào[9]. Tôi tin rằng việc những lý lẽ hết sức công khai đó nghiêm túc đến mức độ nào xứng đáng là chủ đề của một tranh luận. Trong Bộ Chính trị của Việt Nam thời chiến, cũng như trong phần lớn các tổ chức độc tài, lý lẽ càng nghiêm túc thì nó càng được giữ bí mật hơn – Bộ Chính trị không thích vạch áo cho người xem lưng.

Dẫu cho tầm quan trọng thực thụ của cuộc đối đầu tay đôi của các bài báo Nguyễn Chí Thanh-Võ Nguyên Giáp có là như thế nào, thì Nghị quyết 13 cũng rất rõ ràng về việc lãnh đạo đảng đã quyết định áp dụng một chiến lược hỗn hợp quân sự-chính trị-ngoại giao hướng tới đạt được một thỏa thuận qua đàm phán với các điều khoản thuận lợi cho người cộng sản nhưng điều này không gây ra một thất bại rõ ràng và làm người Mỹ bị nhục nhã. Quyết định này có nghĩa là lý lẽ “những cuộc chiến lớn” đã chiến thắng, bởi chiến lược mới đòi hỏi một thành công quân sự nhanh chóng và có tầm vóc lớn theo một cách nào đó nhằm mang lại cho các nhà ngoại giao phe cộng sản lợi thế mà họ cần để đàm phán một giải pháp chấp nhận được.

Quyết định của đảng có thể dự đoán theo hai nhận định sau đây: (1) Các đánh giá về mặt chính trị trước kỳ bầu cử tổng thống Mỹ năm 1968 có thể khiến cho người Mỹ hướng theo một thỏa thuận như vậy, và (2) nếu người cộng sản không nhanh chóng có động thái, người Mỹ có thể tự có quyết định trước trong việc sử dụng một dạng hành động quân sự lớn nào đó (chẳng hạn tấn công ồ ạt miền Bắc Việt Nam hoặc tấn công sang Lào để cắt đứt đường mòn Hồ Chí Minh) nhằm phá vỡ thế bế tắc và kết thúc chiến tranh với lợi thế thuộc về Mỹ trước kỳ bầu cử.

Tháng Tư năm 1967, lãnh đạo cấp cao của Bộ Tổng Tham mưu gặp nhau để thảo luận về các đường hướng cho một kế hoạch nhằm giành một “thắng lợi quyết định” trong chiến dịch “đông-xuân” 1967-1968. Các lãnh đạo nhấn mạnh mối đe dọa, cho rằng các lực lượng cộng sản phải thọc sâu thật nhanh, trong khi Mỹ vẫn đang xem xét việc thay đổi chiến lược. (Chính vào lúc này tướng William Westmoreland vừa mới gửi một yêu cầu tới Washington đòi tăng thêm hai trăm nghìn quân, các lực lượng có thể được sử dụng cho các cuộc tấn công trên bộ vào Việt Nam Dân chủ Cộng hòa hoặc Lào)[10]. Lãnh đạo Bộ Tổng Tham mưu miêu tả tình thế như sau: “Nếu mùa hè 1967 ta không tạo được chuyển biến để giành thắng lợi thì cả hai miền Nam-Bắc sẽ gặp nhiều khó khăn trong năm 1968[11].”

Các sĩ quan cao cấp của Bộ Tổng Tham mưu chỉ thị cho những người chịu trách nhiệm lên kế hoạch là trong khi làm dự thảo kế hoạch, họ cần tính đến các “yếu tố chính trị” – cuộc bầu cử tổng thống tại Việt Nam Cộng hòa vào tháng Chín năm 1967 và cuộc bầu cử tổng thống Mỹ vào tháng Mười một năm 1968. Ban lãnh đạo đặt ra các mục tiêu cần đạt được nhằm giành thắng lợi mong muốn: (1) “tiêu diệt” 150.000 lính Mỹ, bao gồm cả việc tiêu diệt ba trên năm lữ đoàn Mỹ, (2) “tiêu diệt” 300.000 quân Việt Nam Cộng hòa, bao gồm cả việc tiêu diệt từ sáu đến bảy sư đoàn, (3) “giải phóng” từ 5 đến 8 triệu người dân miền Nam và (4) “giải phóng” các thành phố Đông Hà và Quảng Trị, tiêu diệt các căn cứ địch tại Ban Mê Thuột và Kon Tum, và tiến hành các đợt tấn công vào Huế, Sài Gòn, cũng như thủ phủ của nhiều tỉnh[12].

Tiểu ban của Bộ Chính trị chuyên trách chiến tranh tại miền Nam gặp nhau nhiều lần trong khoảng thời gian từ cuối tháng Tư tới tháng Sáu năm 1967 nhằm xem xét kế hoạch do Bộ Tổng Tham mưu vạch ra. Ngay cả Tổng Tham mưu trưởng, tướng Văn Tiến Dũng, cũng không hài lòng với kế hoạch. Nhiều năm sau Văn Tiến Dũng sẽ nhớ lại:

“Kế hoạch đã được trình lên Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương, nhưng càng nghĩ về nó, chúng tôi càng cảm thấy bất an. Kế hoạch giống như kế hoạch của chúng ta cho chiến dịch đông-xuân trước đó, khác biệt duy nhất là các mục đích cao hơn. Các mục tiêu và các chiến thuật, phương pháp đánh trận, đều vẫn giống như những gì chúng ta đã thực hiện năm trước đó, nhưng thực tế mặt trận cho thấy chúng ta sẽ không thể đạt được các mục tiêu ấy.”[13]

Theo một bộ sách của Cục Tác chiến thuộc Bộ Tổng Tham mưu, khi những mối quan ngại được trình bày về các khiếm khuyết của kế hoạch, tướng Nguyễn Chí Thanh, người ở Hà Nội từ đầu năm 1967, chỉ trả lời rất đơn giản bằng cách yêu cầu Cục Tác chiến tiếp tục nghiên cứu các ý đồ chiến lược với mục đích sao cho các lực lượng cộng sản có thể được đưa tới điểm nơi có thể hoàn thành các mục tiêu đã định[14].

Vấn đề có vẻ như là không thể giải quyết. Một cuốn sách của bên cộng sản Việt Nam cho biết vào thời điểm kết luận của cuộc họp Bộ Chính trị tháng Sáu năm 1967 nhằm xem xét kế hoạch của Bộ Tổng Tham mưu cho cuộc tấn công 1968, “Bộ Chính trị không thể hình dung được là một thắng lợi mang tính quyết định có thể đạt được trong năm 1968 thông qua các trận đánh quy mô lớn… Sau hai năm trực tiếp chiến đấu chống lại quân đội Mỹ… Việt Nam nhận ra rằng việc tiêu diệt hoàn toàn một đơn vị cấp đại đội hoặc tiểu đoàn… là rất khó[15].” Trong các cuộc họp của Bộ Chính trị, Lê Duẩn nhấn mạnh mối nguy của hành động quân sự mang tính quyết định có thể có từ phía Mỹ nếu không tìm ra được một giải pháp cho vấn đề giành được một thắng lợi quân sự mạnh mẽ nhanh chóng. Lê Duẩn nói, “Mỹ không còn con đường nào khác là phát huy sức mạnh quân sự. Đối phó với âm mưu này của Mỹ, ta phải đưa hoạt động quân sự lên một bước mới, đến mức Mỹ không chịu nổi và phải chấp nhận thất bại về quân sự, cô lập về chính trị. Nếu ta thực hiện được, Mỹ sẽ phải rút khỏi miền Nam[16].”

(còn tiếp)

Nguồn: Journal of Vietnamese Studies, Volume 3, Number 2, Summer 2008

Bản tiếng Việt © 2010 talawas

[1] Cục Tác chiến, Lịch sử cục tác chiến 1945-2000 (xem chú thích số 12).

[2] Sđd.

[3] Trần Tình, bs., Văn kiện đảng toàn tập Tập 28, 1967 (Hà Nội: Chính Trị Quốc Gia, 2003), 112, 119-120.

[4] Phạm Thị Vinh, bs., Văn kiện đảng toàn tập Tập 26, 1965 (Hà Nội: Chính Trị Quốc Gia, 2003), 594-595.

[5] Đại tá Hồ Kháng, “Mục tiêu chiến lược của đòn Tết Mậu Thân 1968” (xem chú thích số 1). Cũng xem Qiang Zhai, Beijing and the Vietnam Peace Talks, 1965-1968: New Evidence from Chinese Sources (Washington, DC: Cold War History International Project, Woodrow Wilson Center, 1997), 19-22.

[6] Trần Tình, bs., Văn kiện đảng 1967, 125.

[7] Sđd., 147.

[8] Sđd., 153-154.

[9] Có thể xem tóm tắt về những tranh luận giữa Nguyễn Chí Thanh và Võ Nguyên Giáp trên báo chí trong tướng Phillip Davidson, Vietnam at War, 418-422, và Nguyễn, “The War Politburo,” 22.

[10] Tướng William Westmoreland, A Soldier Reports (New York: Dell Publishing, 1980), 298-299.

[11] Cục Tác chiến, Lịch sử cục tác chiến 1945-2000, phần 8.

[12] Sđd.

[13] Tướng Văn Tiến Dũng, trích từ “Tạo một bước ngoặt trong kháng chiến chống Mỹ,” Quân Đội Nhân Dân, 3/12/2004, www.quandoinhandan.org.vn/sknc/?id=1108&subject=7, (truy cập 2/1/2005), hiện nay có ở http://202.151.160.173/webqdndcu/sknc/?id=1587&subject=8. Trong bài báo này Văn Tiến Dũng cho biết các mục tiêu của kế hoạch ban đầu của Bộ Tổng Tham mưu là tiêu diệt từ ba đến năm lữ đoàn lĩnh Mỹ và từ ba đến năm sư đoàn quân đội Việt Nam Cộng hòa, giải phóng từ tám đến mười triệu người, và “tăng cường” đấu tranh chính trị tại các khu vực thành thị.

[14] Cục Tác chiến, Lịch sử cục tác chiến 1945-2000, phần 8.

[15] Hồ Kháng, The Tet Mau Than 1968 Event in South Vietnam (Hà Nội: Thế Giới Publishers, 2001), 28-29.

[16] Cục Tác chiến, Lịch sử cục tác chiến 1945-2000.