14/3/11

Bùi Vĩnh Phúc - Trên những đường bay của chữ

Trên những đường bay của chữ
Bùi Vĩnh Phúc


Bài viết này muốn đóng góp một vài ý nhỏ vào câu chuyện ngôn ngữ được thảo luận trong thời gian qua trên diễn đàn Da Màu. Đặc biệt, tôi cũng muốn chia sẻ và bổ túc một số những suy nghĩ được trình bày trong bài "Ngôn Ngữ Ngậm Ngùi" của anh Lê Hữu.

Ngôn ngữ là công cụ để giao tiếp. Nói "ngôn ngữ" là "công cụ" có nghĩa là xem ngôn ngữ, ở một khía cạnh nào đó, như cái đục, cái cưa, cái bào, thậm chí cái khẩu súng, cái máy bay, v.v…, để con người sử dụng trong ý hướng của mình. Là một công cụ, nhưng, không như những công cụ khác, ngôn ngữ lại là một công cụ gắn chặt với cuộc sống con người và, rất nhiều khi, cho cái cuộc sống ấy một ý nghĩa. Bởi thế, ta cũng thường nghe thấy những phát biểu như, "Ngôn ngữ làm nên con người", hay "Anh nói năng ra sao thì con người anh hiển hiện ra đó".

Tạm thời, ở đây, chúng ta không bàn đến khía cạnh đặc thù của ngôn ngữ trên phương diện khảo sát nhân chủng học (cho rằng chính ngôn ngữ, nói chung, đã khiến con người tự thể hiện mình bằng cách tách biệt mình ra khỏi các bầy đàn khác; cũng như, một phần lớn, chính sự giải phóng hai chi trên, để con người có thể đứng thẳng trên hai chân, đã khiến nó vượt cao hơn các con vật khác, trở thành homo erectus, và từ đó, giúp nó tiến bộ và trở nên một con vật "có văn hoá"). Trong bài này, ta chỉ nhấn mạnh đến sự gắn bó của ngôn ngữ với cuộc sống của con người. Nó không chỉ như một vật thiết thân mà ta lúc nào cũng mang giữ bên mình (như có người ví von, ngôn ngữ như một tấm chăn rách, tẩm đẫm mùi khai mà thằng bé con–là chúng ta đây– lúc nào cũng muốn lôi theo người, không chịu rời bỏ). Ngôn ngữ cũng không chỉ như một lớp áo, lớp quần, phủ lên thân xác để, từ đó, bầy ra, để hiển lộ ra, hình ảnh, phong cách của một con người. Một cách nào đó, ngôn ngữ chính là một lớp da bám sát vào ta. Con người không thể cởi bỏ hay thay đổi nó trong một sáng một chiều được. Bởi thế, ngôn ngữ chính là con người trong mọi lốt vỏ của nó.

Nói như Heidegger, ngôn ngữ là ngôi nhà của hữu thể. Con người (nói chung) và mỗi người (nói riêng) xây dựng cái thế giới của mình qua mắt nhìn từ ngôi nhà đó.

Từ, ngữ là những sinh thể. Chúng có cuộc sống của mình: được sinh ra, phát triển/lớn lên, già cỗi, rồi chết đi. Trong một số trường hợp, một số từ ngữ cũng có thể tái sinh, trong những hoàn cảnh đặc thù của chúng. Nếu, có lúc, nhìn thấy sự tàn tạ hoặc biến mất dần dần của một lớp từ ngữ nào đó, chẳng hạn một số từ ngữ của miền Nam, thời trước 1975, ta ngậm ngùi bảo: "(…) ‘tiếng Việt cũ’ từng làm nên văn hoá miền Nam một thời, nay chìm dần trong lãng quên… " (1) , thì cái "ngậm ngùi" đó là một sự ngậm ngùi rất tự nhiên, thậm chí rất "cảm tính", khởi đi từ lòng thiết tha đến những kỷ niệm cũ, gắn bó với những cung cách ăn nói cũ, gắn bó với một số khía cạnh văn hoá, xã hội mà những từ ngữ kia mang chứa trong mình.

Đó là một phản ứng tự nhiên, vì con người, xét về mặt văn hoá, nói chung, luôn muốn tiếp xúc với sự quen thuộc. Ngoài ra, cái quen thuộc, xét về mặt mỹ học cũng như sinh học, thường đem lại cho ta những cảm giác bình yên, thoải mái, hạnh phúc. Ngược lại, cái khác lạ, đem đến sự căng thẳng. Nó làm tăng lượng adrenalin trong máu, dẫn đến sự bực bội, hồi hộp, khó chịu. Từ đó, cũng không có gì lạ khi, trong vấn đề thẩm thức nghệ thuật nói chung, và trong tiếp cận văn học nghệ thuật nói riêng, người ta dễ bị "dị ứng", thậm chí từ chối những cái mới, những cái thường làm cho con người vấp vào những kinh nghiệm của sự căng thẳng , "lên máu".

Nhưng, nếu, giả sử, những hoàn cảnh lịch sử , chính trị, xã hội tạo nên biến cố 30 tháng Tư 1975 khác đi, và nếu, lại giả sử, miền Nam Việt Nam vẫn tiếp tục cuộc sống của nó như từ trước tháng Tư 1975 đến bây giờ, liệu tất cả những từ ngữ, thành ngữ, lời ăn tiếng nói, thậm chí một số nét văn hoá phản ánh xã hội miền Nam thời tiền-tháng Tư 1975, có còn được gìn giữ nguyên vẹn hay không? Hay chắc chắn là, cũng như hoàn cảnh thực tế hiện tại, nhưng với những mức độ gia giảm khác nhau, một số từ ngữ, thành ngữ, lời ăn tiếng nói, thậm chí một số nét văn hoá phản ánh xã hội đó, cũng sẽ tàn tạ hay dần dần biến mất, để thay vào đó là một số những lớp từ ngữ mới, những nét văn hoá mới, phản ánh những thay đổi về mặt đời sống xã hội mà, lại chắc chắn, theo quy luật tự nhiên của bất cứ một xã hội nào, cũng sẽ xảy ra.

Tóm lại, điều tôi muốn nói là, trong nhãn giới của xã hội học, văn hoá học và ngôn ngữ học xã hội (sociolinguistics), một cách khách quan, những sự chuyển biến về văn hoá của một xã hội, trong đó bao gồm cả sự chuyển biến về mặt ngôn ngữ, là một lẽ tất yếu, một sự phải xẩy ra, cho dù là lịch sử có sự can thiệp của nó, để những sự chuyển biến kia có sự tăng tốc hay giảm tốc tương ứng, tuỳ vào hướng tới và tiến trình thay đổi hay quành quặt của lịch sử.

Trở lại với sự thảo luận về vấn đề từ ngữ. Trước hết, xin có một vài chia sẻ về vấn đề khái niệm mà tôi muốn đóng góp ở đây.

Thứ nhất là về những khái niệm "văn phạm" và "ngữ pháp". Đúng là trước 1975, đa số sách vở miền Nam dùng từ "văn phạm", chứ không dùng từ "ngữ pháp", để diễn tả khái niệm tương ứng "grammar" (trong tiếng Anh) và "grammaire" (trong tiếng Pháp). Hiện giờ, trong nước dùng từ "ngữ pháp", và, ngoài nước, trong đa số trường hợp, cũng dùng từ này. Sự khác biệt hay thay đổi ấy, theo tôi, không phải chỉ thuần là sự thay đổi từ ngữ. Mà nó chính là một sự thay đổi nội hàm của khái niệm.

Trước, có lẽ các cụ ta xem việc dạy "văn phạm" không những chỉ là dạy phép tắc đặt câu, cách phân biệt các từ loại và sự sử dụng chúng trong câu, v.v…. , mà còn là dạy luôn về các phép tắc để làm văn, viết câu sao cho hay, cho khéo, cho đẹp. Như thế, "văn phạm" như có vẻ muốn lấn sang phạm vi của Rhetoric ("art of using words in speaking or writing" –Thorndike Barnhart Comprehensive Desk Dictionary / "nghệ thuật dùng ngôn ngữ trong việc nói và viết"), trong đó có dính líu đến cả những nghệ thuật tu từ ("figures of speech"). "Phạm", trong nghĩa của từ "quy phạm" chẳng hạn, là để nói về "khuôn phép, cách thức" (Một nghĩa của"phạm", theo Đào Duy Anh, là "khuôn", là "phép tắc", và một nghĩa khác nữa là "khuôn bằng tre"). Tuy thế, cụ Đào không định nghĩa "văn phạm" hay "ngữ pháp" là gì, mà chỉ định nghĩa "văn pháp" là "quy luật để làm văn".

Còn cách sử dụng từ "ngữ pháp" bây giờ, cả ở trong lẫn ngoài nước, theo tôi, là sự giới hạn việc giảng dạy, như môn "Grammaire" và "Grammar" của tiếng Pháp và tiếng Anh, vào những khuôn phép, quy tắc đặt câu, hành từ, vào việc học biết về các từ loại và cách thức sử dụng chúng trong câu mà thôi. "Pháp", theo cụ Đào, là "phép tắc nhất định". Trong Hán-Việt Tự-Điển của Nguyễn Văn Khôn thì "phạm" cũng được định nghĩa là "khuôn bằng tre", còn "pháp" là "phép, khuôn phép". Cụ Nguyễn định nghĩa "văn phạm" là "mẹo luật làm văn", "văn pháp" là "phép làm văn"; còn "ngữ pháp" là "phép tắc của ngôn ngữ".

Với sự tiến bộ và phát triển của ngành ngữ học nhiều thập niên qua, kéo theo nó là sự phân ngành, chuyên biệt hoá trong các ngành, dạy "ngữ pháp" bây giờ, nói chung, trong sự hiểu biết của tôi, là dạy về các quy tắc căn bản của ngôn ngữ như đã nói. Người ta muốn tách riêng, và giới hạn, nó vào những công việc chính yếu như thế mà thôi. Còn những việc sâu xa hơn trong vấn đề nói và viết sao cho hay, cho khéo thì đã có những môn học khác, như đã đề cập ở trên, cũng trong lĩnh vực văn chương, bổ túc. Vậy, sự thay đổi từ "văn phạm" sang "ngữ pháp" là một sự thay đổi sâu xa cả về nội hàm của khái niệm, chứ không phải chỉ là về mặt từ ngữ.

Khái niệm thứ hai là khái niệm về "từ", trong thế đối sánh với "chữ". Cũng giống như sự khác biệt giữa "văn phạm" và "ngữ pháp", sự khác biệt giữa "từ" và "chữ" không phải chỉ là sự khác biệt về cái vỏ âm thanh bên ngoài hay về cách dùng từ ngữ. Trước 1975, tại miền Nam, để nói về một tập hợp từ ngữ chưa diễn tả được một ý trọn vẹn, có nghĩa là tập hợp này, xét về mặt ngữ pháp, cao hơn cấp từ nhưng chưa đến cấp câu, chúng ta thường dùng "nhóm chữ". Bây giờ, trong các bài viết, các tài liệu giáo khoa hay sách vở bàn về ngôn ngữ, cả trong lẫn ngoài nước, thường, cũng để chỉ tập hợp đó, ta thấy sự xuất hiện của "cụm từ".

"Từ" là một khái niệm rất phức tạp, khó có một định nghĩa chung nhất, được sự đồng thuận của tất cả các nhà ngôn ngữ. (2) Dù sao, nói chung, nó là một đơn vị của ngôn ngữ, phản ánh một sự vật hay một hiện tượng của thế giới khách quan bên ngoài vào nhận thức của con người. Đứng riêng lẻ, biệt lập, nó đã là một bức tranh hoàn chỉnh về thực tại, vì, qua một vỏ ngữ âm [(enveloppe sonore (P.), sound envelope (A.)], bằng một cách thâu tóm cô đọng nhất, nó cho thấy nhận thức của con người về một sự vật, một hiện tượng trước mắt.

Trong cái nhìn truyền thống, tuy thế, "từ "ở vào một cấp độ ngôn ngữ cao hơn "chữ". Trong tiếng Việt, "tiếng" gắn với "âm tiết", còn "chữ" gắn với "hình vị", "từ". Nhưng một từ lại có thể bao gồm nhiều chữ. Nhà, cửa, râu, tóc… là những chữ, đồng thời cũng là những từ; nhưng cô đơn, sạch sẽ, thiết tha, ngây thơ, sạch sành sanh ("Sạch sành sanh vét cho đầy túi tham", Kiều), tất tần tật, tiềm thuỷ đĩnh, v.v…, thì là những từ bao gồm trong nó hai hay ba chữ. Chính vì thế, khi đọc những câu thơ như của Hàn Mặc Tử, Chiều nay chẳng có mưa dầm / Mình sao nước mắt lại đầm đầm tuôn (Nỗi buồn vô duyên – Cẩm Châu Duyên), hay của Du Tử Lê, Ngày tôi. Trôi trên lưng đời / Cây khô gốc đợi, lá bồi hồi, reo (Khúc 19 tháng Chín), ta phải thấy "đầm đầm" là một từ và "bồi hồi" là một từ. Ta không thể, theo quán tính, bập vào nhịp chẵn bình thường của lục bát để cắt hai từ "đầm đầm" ra khỏi nhau. Cũng thế với từ "bồi hồi" của Du Tử Lê. Ở đây, hai nhà thơ đã gieo nhịp lẻ. Những kiểu từ như "bồi hồi", "xao xuyến" như thế, bao gồm hai chữ, nhưng chỉ là một từ; chúng phải gắn bó vào nhau, làm thành một khái niệm, một ý nghĩa riêng biệt. Ngoại trừ khi tác giả, đặc biệt trong thơ, cố tình chơi chữ, kiểu Biết bao bướm lả ong lơi / Cuộc vui đầy tháng trận cười thâu đêm (Kiều), hay Làm người phải đắn phải đo / Phải cân nặng nhẹ phải dò nông sâu (Ca dao), thì những chữ như "lả", "lơi" và "đắn", "đo" mới được xem là những từ riêng biệt, có ý nghĩa thi ca riêng của nó. Cái hay, cái đẹp và cái cuốn hút của văn thơ cũng bật ra từ những cách dùng chữ thần tình như thế.

Khi nói "nhóm chữ", để chỉ khái niệm "phrase" trong tiếng Anh, hay "syntagme" trong tiếng Pháp (3), ngày xưa, có thể chúng ta chưa phân biệt sự khác nhau có tính cách khá phức tạp giữa "từ" và "chữ" đó. Lê Văn Lý không dùng cả "cụm từ" lẫn "nhóm chữ", mà dùng từ "ngữ tuyến", một từ Hán-Việt, tránh khỏi sự vướng mắc đặt ra giữa "từ" và "chữ". Bây giờ, ở trong nước, trong sự tìm hiểu của tôi, ít nhất chúng ta có những từ/cụm từ sau: ngữ, ý đoạn, cụm từ, nhóm từ, ngữ đoạn, từ tổ… để chỉ khái niệm đó. Vì thế, một "adverbial phrase" trong tiếng Anh có thể được dịch thành một "ngữ trạng từ", một "trạng ngữ", hay một "cụm trạng từ". Cũng thế với một "adjective/noun/verb/prepositional phrase". Sự thay đổi từ "nhóm chữ" sang "cụm từ", như thế, không hẳn chỉ là một sự thay đổi bên ngoài. Nó còn là một sự thay đổi suy nghĩ bên trong nữa.

Khái niệm thứ ba là về từ láy. "Từ láy" hay "từ lấp láy" không hẳn chỉ gồm "một chữ có nghĩa, chữ kia chỉ là đệm vào cho xuôi tai chứ chẳng có nghĩa gì cả" [Xin xem lại bài của Lê Hữu, chú thích (1)]. Thật ra thì từ láy có thể được dùng để làm cho lời văn uyển chuyển, dịu dàng hơn, mà cũng có thể làm cho lời văn mạnh mẽ, dồn dập hơn, tuỳ trường hợp và tuỳ cách láy. Cùng với từ kép, từ láy làm cho lời văn tiếng Việt trở nên giàu sắc điệu hơn, nghĩa là làm cho lời văn có nhiều mầu sắc và nhịp điệu để thể hiện ý tứ, tình cảm và tâm tư của người viết. Từ kép có thể là danh từ (chợ búa, cửa nhà…), mà cũng có thể là động từ (cáu gắt, la mắng…), hay tính từ (giận dữ, vui tươi, buồn chán…), hay theo lối lắp ghép (một tính từ cộng một động từ: buồn thương, vui cười…), v.v…; còn từ láy thường là tính từ, và có thể nói hầu hết từ láy là từ thuần Việt. Ngoài tính từ, những từ loại khác rất hiếm khi được tìm thấy trong dạng từ láy, mặc dù cũng có thể có (như nghỉ ngơi, chạy nhảy, nảy nở…).

Có thể xét từ láy theo những tiêu chuẩn sau:

* Về mặt cấu tạo:

- Láy phụ âm đầu: lả lơi, tơi tả, tức tối, toe toét, buồn bã, thắc thỏm…

- Láy vần: lang thang, tần ngần, bắng nhắng, lông bông, loanh quanh…

- Từ lặp: ầm ầm, đo đỏ, xanh xanh, tim tím, mền (mệt) mệt…

* Về mặt ý nghĩa:

- Một chữ có nghĩa (chữ gốc) + một chữ vô nghĩa (chữ đệm): nhỏ nhắn, ngoan ngoãn, sạch sẽ, sợ sệt…

- Hai chữ đều có nghĩa: thở than, tung toé, tươi tốt …

- Hai chữ đều vô nghĩa: lóng ngóng, ngô nghê, thỏ thẻ, thậm thụt…

Từ láy là một đề tài lớn và cũng là một nét đặc thù của tiếng Việt/ngôn ngữ Việt. Chúng ta chưa xét đến các kiểu láy cá biệt khác ở đây. Tạm thời, tôi xin phép chỉ đưa ra mấy khái niệm "chìa khoá", cũng như một vài kiến giải căn bản để, khi cần, chúng ta có một vài điều thiết yếu nhất về khái niệm này để chia sẻ, hướng dẫn những ai cần tìm hiểu về nó, nhất là đối với những người nước ngoài.

Bàn về sự khác biệt giữa cách dùng từ, đặt câu của thời tiền-1975 và bây giờ, ở cả trong nước lẫn ngoài nước, chắc chắn là phải nhắc đến những sự khác biệt và thay đổi. Dù sao, ta nên nhìn thấy và phân biệt những mặt tiêu cực và tích cực của những thay đổi hay khác biệt ấy. Để ý tìm hiểu về nguồn gốc của những sự khác biệt hay thay đổi, ta mới có thể nhìn ra được những mặt mạnh và yếu của chúng. Trong cái nhìn của tôi, tiếng Việt/ngôn ngữ Việt mà người Việt chúng ta mang ra khỏi nước, đặc biệt từ thời điểm 1975, có thể, ở một số giác độ và mức độ nào đó, cũng giống như trường hợp của tiếng Pháp/ngôn ngữ Pháp mà những người Quebec gốc Pháp đã và đang sử dụng từ một vài thế kỷ nay, hay giống loại tiếng Pháp/ngôn ngữ Pháp của những bậc cha ông, chú bác chúng ta hiện đang sống tại Việt Nam (nếu không có sự cập nhật, chẳng hạn bằng cách nghe đài phát thanh hoặc xem các chương trình truyền hình tiếng Pháp, hoặc đọc sách báo mới của Pháp) sử dụng khi có dịp.

Nói một cách hình tượng và có ít nhiều đau đớn, một số người trong chúng ta xem những ngôn ngữ đó gần như chỉ còn là những bộ xương, phần thịt da tươi tắn đã không còn nữa. Nó đã bị mục nát theo thời gian. Chúng là những thân xác không còn được tiếp tục bồi bổ bằng những dưỡng chất sống, hay đúng hơn, những dưỡng chất đưa đến sự sống. Cái sự sống của một sinh thể vẫn tiếp tục phát triển và nhận chịu những ảnh hưởng của môi trường sống chung quanh. Ngôn ngữ, tôi lại muốn lặp lại, là một sinh thể. Và chính là vì nó là một sinh thể, nó có thể phát triển èo uột hay cường tráng. Và nó cũng có thể bị đau ốm, nhiễm trùng, quặt quẹo. Những bộ xương thì không thể, nếu thật sự là những bộ xương. Hay, nếu không phải là xương cốt, những ngôn ngữ không còn thay đổi, không còn những vấn đề, những vấn đề bật ra trong tự thân chúng như là những "phản ứng" của một sinh thể, một ngôn ngữ sống, với môi trường xung quanh, không còn sinh sôi nảy nở ra những từ, những ngữ mới, những cách nói mới, những lối diễn đạt mới, không còn được phát triển hoặc bị "nhiễm trùng", bị "quặt quẹo" vì những hoàn cảnh xã hội, vì lối sống của những nhóm xã hội khác nhau, những groups và những sub-groups khác nhau, may lắm, để lặp lại, nếu không phải là những bộ xương, chúng có thể trở thành những mummies, những "xác ướp Ai-Cập". Như những mummies mà người ta vừa tìm thấy tại Sicily. (4) Có thể là chúng còn giữ được nguyên vẹn hay gần nguyên vẹn thân xác cũ ngày xưa, nhưng sự sống thì không còn nữa. Sự sống đã xa rời thân xác.

Tiếng Việt/ngôn ngữ Việt ở ngoài nước, trong cái nhìn của tôi, cho dù ta có khách quan hay bi quan mà nhìn ngắm nó, có lẽ cũng không rơi vào tình trạng đáng buồn này. Ở một mức độ nào đó, nó vẫn còn đang sống và có sự thay đổi. Với ảnh hưởng của ngôn ngữ các quốc gia sở tại. Với sự cố gắng bồi đắp của một số hiếm hoi những người Việt, hay những nhà ngôn ngữ Việt sống ở nước ngoài, muốn tạo những tân từ để diễn đạt những khái niệm mới mà trước đây tiếng ta không có. Nhưng nếu không có những cố gắng bồi đắp của những thế hệ kế tiếp, viễn tượng "hoá thạch" của tiếng Việt/ngôn ngữ Việt ngoài nước là một điều khó tránh khỏi, có những người có thể nói như thế. Tôi nghĩ, một vật hoá thạch có thể chỉ có giá trị lịch sử, xã hội, hay nhân chủng; nhưng một ngôn ngữ như tiếng Pháp, hay tiếng Việt, dù có bị mang ra khỏi quê hương hằng trăm năm, tôi không nghĩ những ngôn ngữ ấy sẽ trở nên "bất động" hoàn toàn. Còn có sự tiếp xúc, trao đổi, với môi trường xung quanh là còn có sự sống. Cho dù sự sống ấy thể hiện ra bằng cách nào đi nữa.

Với ý thức rõ rệt về sự tồn tại của ngôn ngữ Việt mà người Việt đã mang theo khi rời quê nhà, ngoài sự gìn giữ, bảo bọc và trau dồi cần thiết, phần lớn sự tồn tại này gắn bó với những thay đổi, phát triển, hoặc những "trở mình", những "cơn sốt" nặng hay nhẹ do sự "nhiễm trùng" hay "tiếp máu" từ sự tiếp xúc với môi trường xung quanh, qua những ngôn ngữ bản xứ hay ngôn ngữ gốc từ quê nhà, chúng ta có lẽ không nên buồn bã hay hốt hoảng khi nhìn thấy hay nhìn ra những sự thay đổi đó. Mà, ngược lại, có lẽ chúng ta nên mừng mới đúng. Vì đa số, nếu không nói là tất cả, những sự "thay hình đổi dạng" ấy chính là dấu chỉ của sự sống. Của phản ứng. Của tự vệ và hoà nhập. Để phát triển và vươn lên. Chính sự bất động mới nên là điều đáng lo. Vì nó chỉ cho thấy sự giữ lại mà không có sự trao đổi, tiếp xúc. Một cơ thể sống là một cơ thể cho thấy những chỉ dấu kia. Điều này, nói chung, đúng trong sinh học mà cũng đúng trong ngôn ngữ nữa.

Tiếng Việt/ngôn ngữ Việt trong nước, theo sự quan sát của tôi, cũng không thoát, không ra khỏi tiến trình đó. Thời "mở cửa" và … "hậu mở cửa" mà! Và cũng có những tiếng nói lo ngại trong nước đã, đang, và chắc chắn sẽ vẫn tiếp tục cất lên , đòi hỏi sự bảo tồn trong sáng cho tiếng Việt. Những lời kêu gọi cả ở trong lẫn ngoài nước như thế, nhằm vào sự bảo tồn tiếng Việt, là những tiếng nói thiết tha và có tâm huyết. Chúng cần thiết trước những hiện tượng làm biến chất tiếng Việt, làm mất đi sự trong sáng của nó. Nhưng, có lẽ, người ở trong nước và cả ở ngoài nước, cũng nên để ý đến những "cơn sốt", nặng hay nhẹ, vì "sự "nhiễm trùng" kia. Lên tiếng cảnh báo là điều tốt, và nhiều lúc lại là một sự cần thiết nữa, nhưng có lẽ chúng ta cũng nên hiểu rằng một ngôn ngữ còn sống, còn sinh động, là phải có trong mình những sự phát triển và "vật vã" như thế, của những sự du nhập, kết hợp và tiếp biến. Ngôn ngữ là văn hoá, và, cũng như văn hoá, nó cũng cần trải qua những quá trình tương tự. Nhìn trong nhãn tuyến đó, chúng ta sẽ không quá lo lắng về những mặt biểu hiện sinh động kia của ngôn ngữ nữa.

*

Sau khi đã nói được những điều trên rồi, dưới đây tôi sẽ thử đưa ra một số cách hành từ, dùng câu trong tiếng Việt/ngôn ngữ Việt, tạo nên sự khác nhau giữa trong và ngoài nước, hoặc giữa giai đoạn tiền-1975 và giai đoạn sau đó. Hy vọng, qua sự trình bày, và, có lúc, thử phân tích, ở đây, ta có thể nhìn ra, ít nhất, một vài cái lý của sự sử dụng đó. Những sự trình bày và phân tích, nếu có, này chỉ là một nỗ lực giải thích trong hiểu biết giới hạn của tác giả bài viết. Chúng không biểu tỏ một thái độ hay một cái nhìn mang tính chung quyết nào, mà chỉ mang ý hướng chia sẻ, trong thiện chí tìm hiểu về tiếng Việt mến yêu của tất cả chúng ta mà thôi.

* "Tính từ". Đa số mọi người, cả trong lẫn ngoài nước, bây giờ đều dùng từ này để dịch từ "adjective" (A.) và "adjectif" (P.). Ngày xưa, chúng ta dùng "hình dung từ" để dịch "adjectif qualificatif" trong tiếng Pháp. Sau, ta dùng "tĩnh từ" để đối lại với "động từ" . Giờ, khi thấy rằng tính từ được dùng không chỉ để chỉ hình dung của một sự vật, sự việc mà thôi, mà còn được dùng, chủ yếu, để chỉ tính chất nữa; ngoài ra, cũng vì thấy rằng nhiều tính từ không hề "tĩnh", mà lại rất động, chẳng hạn "náo loạn" (một khung cảnh), "ầm ĩ" (một cuộc cãi vả), "tán loạn" (một cuộc tháo lui), "kinh hoàng" (một trận chiến), "quằn quại" (một cơn đau), v.v… (5), nên từ "tính từ" đã được dùng để thay thế những tên gọi cũ.

* "Dân oan". Đây là một từ mới được sáng tạo và sử dụng sau này, sau những đợt dân đen nghèo khổ khiếu kiện vì đất đai, nhà cửa của họ bị chiếm dụng mà không được đền bù gì, hoặc không được đền bù hợp lý. Tôi nghĩ đây là một từ hay. Gọn và rõ. Mang nhiều tính biểu hình. Nó cho thấy hình ảnh sắc nét và cụ thể của một (lớp) người dân. Nó rõ hơn, và cũng sinh động hơn cụm từ "dân đen", chỉ dân nghèo nói chung; từ "dân đen", phần nào đã bị mòn đi, bị cliché-hoá vì dùng nhiều. Nếu "trình độ" hơn, hay sính dùng tiếng Hán-Việt hơn, ta có thể biến nó thành từ "oan dân". Xin lưu ý: cả hai từ "oan" và "dân" đều là từ Hán-Việt, nhưng khi đặt nó chung lại là "dân oan", với cấu tạo thuần Việt về mặt từ pháp, trong đó cả hai từ "dân" và "oan" đều đã được dùng như những từ được Việt hoá ở một cấp độ cao, thì nó là một cụm từ. "Oan", là một tính từ, hay một quá khứ phân từ được dùng như tính từ (trong nước gọi là động tính từ quá khứ: quá khứ phân từ được dùng như tính từ), bổ nghĩa cho "dân" là một danh từ. Kết hợp này khiến nó trở thành một cụm, chứ không phải là một từ. Cụm "dân đen" cũng được đặt theo cách ấy. Nhưng, nếu lật ngược lại để đặt theo từ pháp Hán-Việt, là "oan dân", thì, bấy giờ, nó sẽ là một từ. Một từ Hán-Việt. Nó cũng là một từ theo cấu trúc từ pháp như những từ "oan gia","lê dân" (dân đen), hay "xích tử" (con đỏ), v.v….

* "Biểu diễn" / "Thể hiện": Từ trong nước. Trước 1975, người Việt trong Nam dùng từ "trình diễn". Bây giờ, ngoài "biểu diễn" ra, nhiều người trong nước còn dùng từ "thể hiện", có thể là dịch hay lấy ý tưởng từ cụm "interpreted by" trong tiếng Anh. "Xin mời quý vị nghe bài ‘Mắt Nai’ (hay nghe bài…’Trăng Rụng Xuống Cầu’) qua sự thể hiện đáng yêu của ca sĩ H.N." (vỗ tay). Tôi thấy từ này cũng đặc biệt, thậm chí "dễ thương", không có vấn đề gì.

* "Tản mạn", được dùng theo nghĩa là một động từ, có nghĩa là "nói chuyện lan man", không tập trung hoặc không đào sâu vào một đề tài nhất định. Đây là một từ được dùng theo lối biến chuyển từ loại, từ tính từ biến thành động từ. Ai thích (vì thấy nó mới, nó sinh động, nó nên thơ) thì dùng. Ai "nhậy cảm" hoặc theo chủ trương bảo thủ, "giữ nếp cũ", thì có thể dùng "mạn đàm" (nếu ngồi trong khi "mạn đàm" thì dùng "toạ đàm", chẳng hạn như trong "toạ đàm văn học"). Nếu không, dùng "trò chuyện" hay "phiếm đàm", "phiếm luận" đều tốt.

* "Nằm cứng", "nằm mềm", những từ dùng trong nước, nói gọn lại, để chỉ những loại vé (đi xe lửa) khác nhau. "Nằm mềm", nghĩa là nằm trên giường có lót nệm, giá vé cao hơn. Ngược lại là "nằm cứng", nghĩa là nằm trên giường "chay", không có nệm lót, xương xẩu sẽ chịu sự ê ẩm; bù lại, giá vé sẽ "mềm" hơn. Ấy là một sự éo le hay "tréo ngoe" về ngôn ngữ: nằm "giường cứng" thì lại được "giá mềm". ("Giá mềm", đây cũng là một từ mới được phát sinh sau này, ý chỉ "giá rẻ" hay "giá cả thoải mái": "Mua bộ bàn ghế này đi anh, em sẽ để cho anh một giá rất mềm"). Trước đây, ta chỉ có "nằm sấp", "nằm ngửa", "nằm nghiêng" (như tên một tập thơ của một thi sĩ trong nước, hay từ dùng trong một câu thơ cũng của một thi sĩ khác trong nước, "Nằm ngửa nhớ trăng, nằm nghiêng nhớ bến / Nôn nao ngồi dậy nhớ lưng đèo" – Phạm Tiến Duật), thậm chí "nằm ườn", "nằm ưỡn" hay "nằm phễnh (bụng)"; bây giờ, ngoài những lối nằm trên, phải ghi nhận thêm sự xuất hiện của "nằm cứng" và "nằm mềm" nữa. Cho dù là những lối nằm trước đó là dựa vào cách thế nằm; còn hai lối nằm dưới là dựa vào "túi tiền" có căng hay không của… chủ thể nằm.

* "Tiếp đất", từ trong nước, được một số "bộ phận" dân chúng dùng. Từ này, được dùng thay thế hoặc dùng thay đổi qua lại với từ "hạ cánh" (liên hệ đến máy bay) thường được dùng trước đây, cả trong Nam lẫn ngoài Bắc. "Cất cánh" ("take off") được dùng đối với "hạ cánh" là đẹp. Nhưng từ "tiếp đất" này, dịch rất sát từ "landing" trong tiếng Anh, cũng là một từ hay. Nó đi vào sự cụ thể, không trừu tượng (vớ vẩn) hay dùng hình ảnh, chữ nghĩa thơ mộng nữa. Nó chỉ rõ: bánh xe của máy bay tiếp xúc với mặt đất, chạm đất.

* "Khủng" / "Siêu khủng". Từ trong nước, được một "bộ phận" giới trẻ và giới báo chí dùng. Từ cũ là "kinh khủng" hay " khủng khiếp" (dịch từ "awful" / "awfully" trong tiếng Anh). Bây giờ, người ta cắt gọn lại cho nó "khủng" hơn. Thí dụ: nói về một món hàng, một thiết bị công nghệ "tối tân", "mới ra lò" chẳng hạn, toà báo có thể chạy tít, "Microsoft vừa tung ra thị trường một thiết bị ’siêu khủng’". Hoặc, thậm chí, tít chạy trong một bản tin xã hội hay giải trí: "Mười mỹ nhân sở hữu vòng một ‘khủng’ nhất thế giới", hay "Những người đẹp có vòng ba ‘khủng’ nhất hành tinh" (!!!).

Ngoài ra, cách nói tóm gọn như thế ở trong nước cũng được thấy trong việc dùng các từ sau:

- "Sĩ" , thay cho "sĩ diện (hão)", như trong tên một vở kịch của Lưu Quang Vũ, "Bệnh sĩ". Vợ chồng có thể càu nhàu nhau: "’Sĩ’ lắm nữa! Thật, tôi khổ vì ông"

- "Vất" , thay cho "vất vả", như trong "Cuộc sống của chúng tôi bây giờ ‘vất’ quá. Không còn được thảnh thơi như ngày xưa."

- "Phát", thay cho "phát biểu" (như trong, "Xin mời anh ‘phát’ cho. Chúng tôi đang chờ.)

- "Quyết", thay cho "quyết định" (như trong, "Anh lớn ‘quyết’ cho một cái, để đàn em yên tâm!)

- "Máu", thay cho "hăng máu", "hăng tiết" (vịt hay không vịt, tính sau). "Máu", bề ngoài nhìn như một danh từ, nhưng thật ra lại là một tính từ. Xin xem thí dụ về "máu" ngay sau đây.

- "Cực", thay cho "cực kỳ", "rất", "thậm", như trong, "Thằng đó máu cực!", hay "Thằng đó cực máu!", (có nghĩa là "thằng đó rất ‘hăng máu’, chơi ‘tới bến’ luôn, không cản nổi). Người ta chỉ dùng từ "cực" chứ không dùng từ "thậm" để chỉ sự "rất" và "quá mức" này ("quá độ" thì lại có thể bị hiểu nhầm sang một phạm vi khác, phạm vi lịch sử, được dùng như một tính từ, chỉ một giai đoạn "chuyển tiếp"). Từ "thậm" thường được dùng với một từ Hán-Việt khác, như trong "thậm tệ" hoặc "thậm phồn". Từ "thậm phồn" có lẽ được Hoàng Ngọc-Tuấn dùng đầu tiên trong kết hợp "hiện thực thậm phồn" khi giới thiệu về chủ nghĩa hậu hiện đại (dịch rất hay cụm "hyper reality" trong tiếng Anh; từ "thậm phồn" để dịch tiếp đầu tố "hyper", và còn mạnh hơn cả "hyper" nữa vì kết hợp được cả hai từ "thậm" và "phồn", vốn, tự bản chất, mỗi từ đều đã chứa nội hàm "hyper" trong mình. "Hiện thực thậm phồn" nghe rất… "phồn thực"; từ đó, có thể nói đến một thứ "văn bản thậm phồn"( "hypertext"): đó chính là một loại văn bản liên tục sản sinh ra những văn bản khác, chồng chéo, bám víu vào nhau và bám víu vào văn bản chính. Hyper reality được Đào Tuấn Ảnh, trong nước, dịch khá rõ và chân phương là "hiện thực phì đại") .

Những từ được cắt gọn thế này có thể còn nhiều nữa, và chúng tạo một "hiệu ứng" rất mạnh khi được phát biểu. Dù sao, xem xét lại, cho đến giờ, từ cắt gọn mang tính chất "khủng" nhất có lẽ lại chính là từ "khủng". Dù cho nó có thể "chờn vờn" dẫn đến những khái niệm hay hình ảnh khác như "khủng long", "khủng bố", "khủng cụ", v.v … , làm hoang mang đầu óc người nghe, đi chăng nữa.

Lối nói vừa "khủng" vừa "ngộ nghĩnh" này cũng làm tôi nghĩ đến những kiểu nói lóng và những cách chế từ của những người trẻ trong nước. Lúc đầu, chắc hẳn là chúng chỉ được lưu hành trong một nhóm nhỏ, một sub-sub-group nào đó. Rồi từ từ, chúng ăn lan ra, vượt ra khỏi giới hạn vòng sử dụng nguyên thuỷ của chúng, thành một thứ tiếng lóng không còn chịu sự bó hẹp của một nhóm xã hội nhỏ bé. Chúng đòi quyền có tiếng nói trong một tập thể rộng lớn hơn.

Những từ/cụm từ như đứt cước (thất bại hay hỏng việc); nộp tiền ngu (nộp lệ phí thi lại); Trần văn Chuồn (trốn, bỏ đi); vitamin T (tiền), vitamin E (phụ nữ, mấy em); pro, kute, kul, chuối, khoai (để chỉ những ý niệm chuyên nghiệp, xinh đẹp, dễ thương, xấu xí, ngu ngốc), v.v…, thường được thấy dùng trong một số nhóm trẻ. Cũng thế là lối nói "nhỏ như con thỏ", "sến như cây nến", "xấu như con gấu", "gầy như con cầy", "chán như con gián", v.v… Thì đó cũng giống một lối nói vui theo kiểu Gút-bai, crô-crô-đai ("Goodbye, crocodile") của tuổi trẻ Mỹ mà thôi.

Ở một khía cạnh nào đó, như một người vừa nghiêm chỉnh vừa hồn nhiên theo dõi ngôn ngữ trong cái nghĩa khách quan, cũng như trong môi trường tự nhiên của nó, tôi thấy những từ ngữ ấy cũng có cái vui nhộn và đáng yêu của chúng. Chúng tôi còn tuổi trẻ, xin cho chúng tôi được vui nhộn tí chút. Đừng bắt chúng tôi nghiêm trang quá! Nghe như có những tiếng nói cất lên như vậy. Các nhà đạo đức và những người muốn giữ chuẩn có thể lên tiếng cảnh báo và nghiêm nghị theo dõi. Điều ấy, theo một cách nhìn nào đó, cũng là điều đúng và cần, như tôi đã có dịp nói. Nó tạo nên một đối trọng cần thiết đối với một sự sử dụng ngôn ngữ có thể là sẽ đi đến chỗ bừa bãi, một thứ phanh để bảo đảm (?), hay đúng hơn, đế tránh cho chiếc xe ngôn ngữ không tuột dốc. Nhưng, tôi nghĩ, ngôn ngữ có sức mạnh, có con đường riêng và cũng có cơ chế tự điều chỉnh riêng của nó. Tôi không lo sợ lắm. Nhưng điều gì ta thấy cần làm thì vẫn phải làm.

* "Hoành tráng", với nghĩa là "có quy mô đồ sộ (nhằm thể hiện những đề tài lớn)". Từ này bị lạm dụng rất nặng. Bất cứ một điều gì cũng có thể được gán ghép với thuộc tính này. "Sân khấu" cũng "hoành tráng", mà vòng một hay vòng ba của một "nữ nhân" cũng có thể "hoành tráng". Trong một số văn cảnh, đôi khi, "hoành tráng" cũng có thể được dùng theo nghĩa "đẹp nức nở" hoặc "rực rỡ, tráng lệ", như: "Bức chân dung của em trông ‘hoành tráng’ quá". Nó cũng có thể là "căng đầy", "mập mạp", như, "Cái ví của anh hôm nay, sau khi lãnh lương, trông thật ‘hoành tráng’", hay "Thân hình ‘hoành tráng’ của bà chủ, sau khi nạp vào bữa điểm tâm cũng ‘hoành tráng’ không kém, uốn éo đi ra khỏi cửa". Và, còn gì ‘hoành tráng’ nữa trong cuộc sống hôm nay?!!

* "Mộc" , dùng trong nước. Để chỉ sự tự nhiên, không sơn phết hay trang điểm gì. Như ,"Hôm nay, cô ấy để mặt mộc ra đường". Hoặc, chiếu mộc, vải để mộc (không nhuộm). Tuy nhiên, từ "mộc" cũng đã được dùng tại miền Nam trước 1975 trong những cụm từ như "đôi guốc mộc" hay "đôi đũa mộc" (có nghĩa là guốc hay đũa để "chay", không sơn phết hay tô điểm gì cả). Tôi thích cách dùng từ "mặt mộc" này ở trong nước. Nhưng, cẩn thận, phải đánh dấu thanh cho đúng; bởi lẽ, "mặt mốc" thì lại mang một nghĩa khác hẳn!

* "Phản hồi", từ được dùng rộng rãi cả ở trong lẫn ngoài nước. Nó có thể thay thế cho "hồi đáp", "ý kiến", "phản ứng", v.v…, tuỳ theo văn cảnh. Nó dịch từ "feedback" của tiếng Anh. Tôi nhớ, khoảng gần 30 năm trước, vì nhu cầu làm việc, tôi cũng có ý muốn dịch từ này. Và tôi thấy một nhà ngôn ngữ ngoài nước, bác sĩ Trần Ngọc Ninh, tác giả của "Cơ Cấu Việt Ngữ" xuất bản tại miền Nam trong nước trước 1975, trong một bài viết tại Mỹ, đã dịch nó là "nghịch dưỡng" (rất sát về mặt từ nguyên của "feedback", với "nghịch" để dịch "back" và "dưỡng" để dịch "feed"). Dù sao, tôi vẫn cảm thấy có sự không an tâm, vì tuy "back" có thể là "nghịch", là "ngược", nhưng "dưỡng", ở đây, lại không thật sự là "dưỡng" ("nuôi nấng"). Nhưng rồi tôi nhớ lại là người xưa có từ "dưỡng khấu", là "nuôi giặc" (có nghĩa là "nuôi thành hoạ hoạn cho mình", có thể là nuôi một thói quen xấu chẳng hạn). Vậy thì "nghịch dưỡng" thì có sao, đặc biệt khi từ này được dùng trong lĩnh vực gốc của nó là công nghệ máy tính; nhất là trong từ gốc, feedback, đã có "feed" được dùng theo nghĩa bóng rồi. Nhưng rồi tôi cũng thử nghĩ một từ khác.

"Feedback", khởi nguyên, chỉ là một từ phát xuất từ lĩnh vực computer mà ra. (6) Vì thế, theo định nghĩa gốc của nó trong tiếng Anh, tôi thử dịch lại là "hồi dưỡng". Sau, bỏ "dưỡng" đi, tập trung vào "sự quay ngược lại" (như từ "phản hồi" bây giờ đã làm như vậy), tôi dịch lại là "hồi nghịch"; rồi, cuối cùng, đổi lại là "nghịch hồi". Khi dịch như thế, tôi nghĩ đến các từ nghịch phong (gió ngược) và nghịch lưu (dòng nước chảy ngược). Trong nét nghĩa chính, "feedback" liên quan đến một tiến trình quay ngược lại. Từ "phản hồi" hiện đang được sử dụng phổ biến là một từ khá hay, cho dù trong ý nghĩa cũ, vẫn được dẫn trong các tự điển Hán-Việt, nó chỉ có nghĩa gọn là "trở về". Như thế, có nghĩa là nó cũng chỉ tập trung vào từ "back" mà bỏ đi từ "feed".

Tôi cũng nghĩ đến một từ khác, từ cũ thôi (cũng như "phản hồi" là một từ cũ), nhưng diễn được khá rõ ý của từ "feedback", là từ "phản hưởng" (có nghĩa là "tiếng vang lại", "tiếng dội lại"). Tôi chưa thấy ai dùng nó để dịch "feedback", nhưng tôi thấy nó diễn được rất sát ý của "feedback" mà từ "phản hồi", hiện nay, đang được dùng trong lĩnh vực truyền thông. Trước 1975 tại miền Nam Việt Nam, trong mục "Thư độc giả" của một vài tờ báo, người ta cũng có khi dùng cụm "Tiếng vang", để nói về những ý kiến dội lại từ phía người đọc. Dù sao, hiện tại, "phản hồi" đã có một nghĩa mới và một đời sống mới trong truyền thông thời @. Nó nhận được sự yêu thích của một số đông người đọc và người làm việc trong lĩnh vực truyền thông. Tôi nghĩ , "phản hồi" sẽ tiếp tục sống hùng và sống mạnh.

(Một điều cũng nên ghi nhận ở đây là, dân tộc Pháp, với sự bảo thủ nổi tiếng về mặt ngôn ngữ, thường tránh tối đa những trường hợp phải dùng, phải mượn tiếng nước ngoài, và luôn tìm cách tránh tối đa để không bị "nhiễm trùng" về mặt ngôn ngữ, lại dùng feed-back như một danh từ giống đực để "dịch" từ feedback của Mỹ. Từ weekend của Mỹ cũng được "dịch" là week-end, cũng là một danh từ giống đực (như "week-end prolongé: long weekend; partir en week-end: to go away for the weekend"). Dù sao, đối với weekend, người Pháp còn có cụm "fin de semaine". Nhưng tuổi trẻ Pháp chắc thích nói vắn gọn là week-end hơn.)

* "Nhắc nhở" / "Nhắc nhớ". Trước đây, có thể là trước cả thời điểm 1975, người ta dùng "nhắc nhở"; sau này, có người chợt thấy ra là "ý nghĩa nằm bên trong" của từ này là "nhắc" để cho người khác "nhớ", đừng quên một chuyện gì đó, nên đã sửa lại là "nhắc nhớ". Từ đó, "nhắc nhớ" lan tràn. Rất nhiều người đã dùng nó, có lẽ vì nghĩ rằng khi dùng như thế, mình cho người nghe thấy được là mình đã hiểu vào "cốt lõi" của từ "nhắc nhở". Thật ra, đúng là trong "nhắc nhở" có ý nghĩa của việc "nhắc" cho "nhớ", nhưng, qua biện pháp biến âm để làm cho từ được phát ra một cách mềm mại hơn ("nhắc nhớ" có hai âm trắc, không gẫy, nghe không êm tai), như "tím tím" được đổi thành "tim tím", trắng trắng" thành "trăng trắng", "mệt mệt" thành "mền mệt", "đỏ đỏ" thành "đo đỏ", v.v… , ông bà ta đã làm cho nhiều từ được dùng một cách mềm mại hơn. (7)

Tôi nghĩ, chính vì lý do vừa nói, ta không nên đổi từ "nhắc nhở" rất dịu dàng sang từ "nhắc nhớ" khá chói gắt. Cho dù, khi đổi như thế, ta bóc được cái "cốt lõi" của nó ra.

* "Phản biện", từ dùng trong nước lan ra đến ngoài, có nghĩa là "biện luận, đối đáp ngược lại". Ai đã chấp nhận từ "phản hồi" thì cũng dễ chấp nhận từ này. Từ cũ có thể là "tranh luận", "tranh biện" hay "bút chiến", tuỳ theo ngữ cảnh.

* "Tiếp thị", từ dùng trong nước lan ra đến ngoài, dịch từ "marketing" của Anh Mỹ. "Thị " là để dịch "market" thì đúng rồi; nhưng chữ "tiếp" của từ này được sử dụng rất khéo. Vỹ tố -ing, trong marketing, gợi ý "đưa vào market, đưa vào thị trường". Theo tôi, dịch "tiếp" là rất hay. Nó chuyển được cái ý mời mọc của từ gốc, làm cho tiến trình "chào mời hàng hoá, sản phẩm, dịch vụ…" được trơn tru, dễ dàng hơn.

* "Thông tin thương mại", cũng thế, từ dùng trong nước lan ra đến ngoài, là một lối nói "mềm" đi, nói "khéo" hơn. Một thứ uyển từ, uyển ngữ (euphemism). Có lẽ cũng phải để cho những nhà buôn "ăn nói khéo léo" một tí chứ, cho dù gọi như thế thì hình như người ta đã không "gọi đúng sự vật bằng cái tên của nó". Dù sao, cách dùng này vẫn còn đỡ hơn cách dùng những cụm từ như "kế hoạch hoá gia đình", "diễn biến hoà bình", "Việt Nam hoá chiến tranh", v.v… Thật sự, George Orwell cũng đã trình bày rất kỹ về cách nói vòng, nói tránh này, đặc biệt trong lĩnh vực chính trị, với những hệ quả hết sức tiêu cực của nó. (8)

* "Ấn phí", đã được dùng rất lâu ở ngoài nước, ít nhất là trên dưới hai mươi năm nay. Không biết phát xuất từ trong hay ngoài. Cũng là một thứ uyển ngữ, hiểu theo một cách nào đó. Nhưng, có lẽ đúng hơn, đó là một lối "nói giảm" (understatement). Giống như kiểu nữ hoàng Anh khi được hỏi ý kiến về một số việc làm hay thái độ "rất gây phiền, gây nhiễu" cho hoàng gia của công nương Diana khi cô còn sống, thay vì nói thẳng là "Tôi rất bực (vì chuyện ấy)", bà chỉ nói nhẹ đi là "Tôi không vui" ("I am not amused"). "Ấn phí" là một lối nói giảm, nhưng lại mang tính "cường điệu". Vì nếu giá đề trên cuốn sách chỉ là "ấn phí" (tiền in) mà thôi, không bao gồm tiền lời trong ấy, thì ai còn dám "in ấn", bán buôn gì nữa.

* "Cường điệu", từ dùng sau 1975, cả ở trong nước lẫn ngoài nước. Để dịch từ "hyperbole" trong tiếng Anh. Nó có nghĩa là dùng giọng điệu mạnh lên, và đồng nghĩa với "phóng đại", "thậm xưng". Biện pháp tu từ "phóng đại", vì thế, còn được gọi là "cường điệu", "thậm xưng" và "ngoa dụ". Ngoài ra, nó còn được gọi là "nói quá" ("overstatement"), ngược lại với biện pháp "nói giảm" (understatement) ở trên.

* "Biện pháp tu từ" hay "tu từ pháp", từ dùng trong nước, mở rộng ra ngoài nước. Trong Nam, xưa, được gọi "mỹ từ pháp". Nhưng "tu từ" là một từ có trong tự điển được xuất bản tại miền Nam trước 1975. Cả hai từ đều hay. Dù sao, xét về mặt cấu tạo từ pháp, từ "tu từ pháp", với nghĩa là "phương pháp (sửa đổi để) làm đẹp từ ngữ", có vẻ hợp lý hơn là cấu tạo "mỹ từ pháp". "Mỹ" là một tính từ; "mỹ từ" là "từ đẹp". Vậy, "phương pháp từ đẹp" là gì? Có phải nó là hiểu ngầm của "phương pháp (làm cho) từ (ngữ) đẹp hơn/lên", hoặc "phương pháp làm đẹp từ ngữ". Nếu thế, ta lại sẽ trở về với ý nghĩa của "tu từ pháp", trong đó, "tu" là một động từ, có nghĩa là "sửa lại", "sửa sang cho tốt đẹp hơn", như "tu kỷ" là "sửa mình". Hán-Việt Tự -Điển của Nguyễn Văn Khôn định nghĩa "tu từ" là "sửa sang, trau chuốt văn chương cho trôi chảy, gọn gàng và sáng sủa"; còn Hán-Việt Từ-Điển của Đào Duy Anh thì định nghĩa "tu từ" là "sửa sang văn từ cho hay". Cả hai quyển sách này, dù không có từ "tu từ pháp" nhưng đều lại có từ "tu từ học". Quyển đầu định nghĩa "tu từ học" là "môn học nghiên cứu cách viết văn cho trôi chảy, gọn gàng và sáng sủa"; quyển sau định nghĩa là "môn học nghiên cứu các phép tắc để trau dồi từ cú cho hay (rhétorique)". Cả hai sách này đều không có những mục từ "mỹ từ" và "mỹ từ pháp".

* "Trọng tải" và "tải trọng". Từ đầu được dùng trong Nam trước 1975. Từ sau, được dùng trong Nam sau 1975, kèm với từ đầu, như một thứ chị em sinh đôi. Hai từ này tôi đã bàn kỹ trong một bài viết khác về ngôn ngữ của mình (9) mấy năm trước, nên tôi xin phép không trình bày lại ở đây nữa.

* "Khuyến mãi" / "khuyến mại". Hai từ này rất dễ bị dùng lộn. Ta thấy sự sai lầm này xảy ra rất thường xuyên trên báo chí và trên các đài phát thanh cũng như truyền hình cả trong lẫn ngoài nước. Mãi là mua và mại là bán. Khi mở một dịp promotion và quảng cáo để khuyến khích người ta mua hàng, thì đó là một "quảng cáo khuyến mãi". Rất hiếm khi có trường hợp "khuyến mại" (khuyến khích bán), cho dù rằng có thể cũng có trường hợp như thế xảy ra.

* "Mãi dâm" / "mại dâm" là hai từ cũng thường xuyên bị dùng sai vì sự lẫn lộn của người sử dụng giữa ý nghĩa của hai từ. Và tỷ lệ phần trăm mà hai từ này được sử dụng có thể nói là 50/50. Vì trong vấn đề này, phải có kẻ bán và người mua. Từ đó, có những từ "gái mại dâm" và "khách mãi dâm". Chứ không phải ngược lại.

Sự lẫn lộn giữa hai từ "mãi" và "mại" này, theo tôi, đã bắt đầu từ rất lâu rồi. Khi còn nhỏ, đi học, tôi hay được nghe cụm từ "mãi quốc cầu vinh", để răn dạy người đời không nên vì mối lợi mà phải đi bán nước để được "vinh thân phì gia". Lớn lên, tôi vẫn nghe nhiều người lớn nói như vậy. Cả trong sách giáo khoa cũng viết như thế. Trong khi đáng lẽ người ta phải nói và viết là "mại quốc cầu vinh" mới đúng. Để phân biệt hai từ "mãi" và "mại" này, ta có thể thử nhớ mấy từ sau đây (tuy tất cả gần như đều có nghĩa tiêu cực, nhưng chúng có thể giúp người ta nhớ lâu vì các ý nghĩa xa xôi, bóng bẩy của chúng): mại hôn: gả con gái mà đòi lễ cưới quá nhiều (một hủ tục xưa, coi như là bán con gái đi); mại nhãn/mại tiếu: con gái lấy mắt liếc, lấy môi cười cho người ta mê mẩn để kiếm tiền [cũng giống như mại xuân (đem cái xuân của mình bán đi cho khách mua hoa)]; và mãi tiếu: mua cười [cụ Đào Duy Anh thẳng thắn phụ chú thêm là "chơi đĩ" (sic)].

Chúng ta cũng có thể, thay cho những từ trên, thử nhớ một vài từ/cụm từ sau: mãi sơn: mua núi (tức "lui về ở ẩn"), mãi lân: mua láng giềng (tức là "lựa chọn láng giềng một cách cẩn thận". Việc chọn lựa kỹ láng giềng này làm ta nhớ đến tích "Mạnh mẫu trạch lân" của bà mẹ thày Mạnh Tử ); mại giao/mại hữu: bán giao tình, vì tư lợi của mình mà hy sinh bè bạn; và mại kiếm mãi ngưu: bán gươm mà mua trâu, ý nói bỏ nghề trộm cướp mà theo nghề làm ruộng.

* "Áo ấm" / "áo lạnh". Được dùng rộng rãi ở cả trong lẫn ngoài nước. Theo tôi, cả hai từ đều đúng, không từ nào sai. "Áo lạnh" có nghĩa là áo có mục đích, có khả năng ngăn chặn cái lạnh ở bên ngoài, giữ cho cơ thể được ấm; là cái áo mặc khi trời lạnh cho mục đích vừa nói. "Áo ấm" là áo giúp ta giữ lại hơi ấm cho cơ thể khi trời lạnh. Một đằng hướng đến sự chống trả; đằng kia, hướng đến sự giữ gìn. Nhưng mục đích đều là để giữ ấm. Ở một khía cạnh nào đó, cặp từ này khá giống trường hợp cặp "insure against" và "insure for" trong tiếng Anh. (Ấm và lạnh ngược hẳn nhau, cũng như against và for ngược hẳn nhau). Một đằng là "bảo hiểm để phòng chống lại một cái gì không hay có thể xảy ra (để mình có thể được đền bù khi nó xảy ra)", còn đằng kia thì là "bảo hiểm để tránh thua thiệt/để được đền bù (khi xảy ra một sự rủi ro gì)" (như trong insure against ill health while you are abroad và insure for personal accident injuries). Mục đích cuối cùng thì cũng là để được đền bù.

* "Ấn tượng", dùng như tính từ (to be impressed, theo kiểu Anh Mỹ), được một số người (đặc biệt là giới trẻ) trong nước dùng. Cách dùng như thế tạo một hiệu ứng nhấn mạnh, vì nó biến một danh từ thành tính từ. Chẳng hạn, "Màn trình diễn ấy rất ấn tượng". Cũng thế, với những đối tượng trên, từ "thần tượng", vốn là một danh từ, cũng có thể được sử dụng như một động từ (to idolize), "Chúng em rất ‘thần tượng’ nhà thơ X". Lối dùng này, đa số từ giới trẻ, nhiều phần là do ảnh hưởng về mặt từ pháp theo kiểu Anh Mỹ. Anh ngữ đang được một tầng lớp đông đảo người Việt Nam trong nước, đặc biệt là giới trẻ, ưa thích. Sự vay mượn này cũng là một điều dễ hiểu, và chính sự vay mượn như thế cũng nằm trong những quy luật của sự trao đổi và tiếp biến ngôn ngữ nói chung trên thế giới. Vấn đề còn lại chỉ là sự ý thức. Để không biến những biểu hiện của một quy luật chung thành một sự hào hứng, quá đà, có thể đi đến chỗ làm mất bản sắc ngôn ngữ dân tộc.

Thật sự, trong những bối cảnh khác, và trong những giai đoạn khác nhau của tiến trình trao đổi, vay mượn và tiếp biến ngôn ngữ, hiện tượng áp dụng từ pháp, cú pháp của những ngôn ngữ khác vào ngôn ngữ ta cũng không phải chỉ mới xảy ra gần đây. Và cũng không phải chỉ xảy ra trong giới trẻ ở trong nước. Trước 1975, chúng ta đã từng nhận thấy là có một số nhà văn, nhà báo trong Nam đã từng rập khuôn cú pháp của Anh Mỹ trong việc viết những câu theo kiểu "Cuộc chiến được mô tả là kinh hoàng" (theo mẫu " to be described as… "). Và cho đến bây giờ, có biết bao nhiêu người, cả ở trong lẫn ngoài nước, thuộc đủ mọi lứa tuổi, đã đặt nhiều câu văn của mình theo thể passive voice của Anh Mỹ một cách không cần thiết, trong khi các thầy cô dạy Anh văn tại các đại học Anh Mỹ thì lại luôn luôn phải nhắc bảo sinh viên của mình việc tránh sử dụng những câu theo dạng ấy khi không thực sự cần.

Tất cả chúng ta đều có những lúc bị vấp phạm vào những điều ấy. Lý do chỉ vì quán tính, vì chúng ta đã không để ý đủ. Ở ngoài nước, trên dưới 30 năm nay, tôi thường hay gặp cụm từ sau đây trong các trang quảng cáo bán nhà trong cộng đồng người Việt: "Nhà bán bởi chủ" (dịch từ "Home for sale by owner"). Sao không ai chịu dịch lại là "Nhà do chủ (đứng) bán" (cũng chỉ sử dụng bốn hay năm từ thôi). Còn rất nhiều câu quảng cáo bán nhà hết sức "lạ" mà, do giới hạn bài viết, tôi không tiện liệt kê hết ra đây.

Ngoài ra, chúng ta cũng có thể tìm thấy những kết cấu theo dạng "… như nó đã là." hay "như nó đã từng." để chấm dứt một câu văn. Kết cấu này chính là từ cụm "… as it was." hoặc "… as it had ever been.", một đặc điểm trong lối viết của cú pháp Anh, Mỹ. Như trong: "Hãy trả ngôn ngữ về vị trí độc lập như nó đã từng." , hay "Cần phải trả ngôn ngữ về với ngôn ngữ, về đúng vị trí và chức năng của nó, như nó đã từng." So với kết cấu "được mô tả là" đã nói ở trên, kết cấu này có nhiều phần xa lạ hơn. Hiện tại, nó chưa có nét Việt lắm (cụm "được mô tả là" bây giờ ta đã nghe khá quen); nhưng rồi dần dần, với thời gian, nếu được dùng rộng rãi, có thể nó sẽ trở nên Việt hơn.

Quan sát như thế để thấy rằng: những cách nói, cách viết ấy đang là một hiện thực ngôn ngữ. Những cách dùng từ, đặt câu, diễn ý mới. Chúng bám vào cách nói, cách viết, vào tập quán nói và viết của ta. Rồi dần dần, chúng trở nên những thói quen mới. Nhưng ngôn ngữ là một sự trao đổi, vay mượn, lan toả; ta khó chống cưỡng lại một khi đã nằm trong vòng ảnh hưởng của nó. Thời gian sẽ giúp ta làm công việc lọc lựa. Sự "nhập lưu" khá ồ ạt những yếu tố ngôn ngữ bên ngoài vào dòng chảy của ngôn ngữ Việt, đặc biệt là nơi một số thành phần giới trẻ (vì tuổi trẻ là tuổi dễ mở chính mình ra để tiếp nhận và thử nghiệm những cái mới), dù sao, có những mặt tích cực và tiêu cực của nó. Bởi thế, điều ta có thể làm là khêu lại cho sáng hơn ngọn lửa ý thức của chính mình. Nơi mỗi người. Để, trong khi ngụp lặn tắm táp và chơi đùa trong dòng, ta không để cho dòng chảy của ngôn ngữ cuốn siết mình qua mọi bãi bờ của nó, và vất đẩy chúng ta vào bất cứ nơi đâu. Điều tối thiểu ấy để tự gìn giữ những nét riêng của ngôn ngữ dân tộc, trong khi vẫn nhận ra nhu cầu hội nhập với toàn thể nhân loại, không hẳn là một điều "bất khả thi", nhưng nó đòi hỏi những nỗ lực của mỗi người và mọi người trong chúng ta, cả ở trong lẫn ở ngoài nước.

Ngược lại, việc thử nghiệm, tìm đến những cái mới, những cái lạ, những cái ở bên ngoài, không hẳn sẽ đưa ta mất dấu, xa lạc khỏi dòng sông ngôn ngữ Việt. Nó cũng có thể đưa ta đến những vùng đất phì nhiêu cho những mùa gặt hái tốt đẹp. Để ta làm giàu thêm cho tiếng nói, chữ viết quê hương. Và, để lặp lại, thời gian sẽ làm công việc của nó. Nó sẽ giúp ta lọc lựa, giữ lại những gì tốt đẹp và cần thiết cho sự phát triển của ngôn ngữ dân tộc.

*

Nhớ, trong "Tình Ca" của Phạm Duy, quê hương và tiếng quê hương đã là những nét dịu dàng và êm đẹp, nuôi dưỡng ta từ những lúc ta còn thấy mình bé dại bên chân mẹ cho đến khi ta hăm hở những bước vào đời. Từ những bài ca dao, những câu lục bát mềm mại như cánh cò cánh vạc, như con diều lơ lửng trên cao, đến những câu hò câu ví sóng sánh ngập lòng… Tất cả đã là những dưỡng chất nuôi ta lớn lên:

Một yêu câu hát Truyện Kiều
Lẳng lơ như tiếng sáo diều làng ta
Và yêu cô gái bên nhà
Miệng xinh ăn nói mặn mà có duyên (…)

Tôi yêu những sông trường
Biết ái tình ở dòng sông Hương
Sống no đầy là nhờ Cửu Long
Máu sông Hồng đỏ vì chờ mong (…)

(Tình Ca)

Cũng thế, trong thơ của Lưu Quang Vũ, tiếng Việt đã là tiếng mẹ gọi con thiết tha trong hoàng hôn khói sẫm, tiếng cha dặn lúc gieo mạ trên đồng, tiếng mưa dội vỡ oà trên mái cọ, tiếng kéo gỗ, tiếng gọi đò, tiếng cánh đồng rì rào, tiếng cau tre gió thổi. Nó ánh lên hình ảnh của vầng trăng ngọc, hay lấp lánh như những ánh sao rơi trong những đêm quê hương ngày cũ. Nó toả ra mùi đất cày ải ban trưa hay mùi lửa bếp những buổi chiều hôm. Nó mang mùi thơm của bùn đất ướt đẫm lưng trâu hay mùi thơm của những cánh đồng lúa chín… Trong tiếng nói của ta, từ đó vút bay lên thành những dòng chữ viết, có cả một bầu trời quê hương ấm áp. Và tiếng sáo diều vi vút mãi trên đê. Hãy đọc lại ít câu thơ cũ của người thi sĩ đã mất ấy:

Tiếng mẹ gọi trong hoàng hôn khói sẫm
Cánh đồng xa cò trắng rủ nhau về
Có con nghé trên lưng bùn ướt đẫm
Nghe xạc xào gió thổi giữa cau tre.
Tiếng kéo gỗ nhọc nhằn trên bãi nắng
Tiếng gọi đò sông vắng bến lau khuya
Tiếng lụa xé đau lòng thỏi sợi trắng
Tiếng dập dồn nước lũ xoáy chân đê.
Tiếng cha dặn khi vun cành nhóm lửa
Khi hun thuyền gieo mạ lúc đưa nôi
Tiếng mưa dội ào ào trên mái cọ
Nón ai xa thăm thẳm ở bên trời. (…)

Chưa chữ viết đã vẹn tròn tiếng nói
Vầng trăng cao đêm cá lặn sao mờ
Ôi tiếng Việt như đất cày, như lụa
Óng tre ngà và mềm mại như tơ.
Tiếng tha thiết, nói thường nghe như hát
Kể mọi điều bằng ríu rít âm thanh
Như gió nước không thể nào nắm bắt
Dấu huyền trầm, dấu ngã chênh vênh.
Dấu hỏi dựng suốt ngàn đời lửa cháy
Một tiếng vườn rợp bóng lá cành vươn
Nghe mát lịm ở đầu môi tiếng suối
Tiếng heo may gợi nhớ những con đường. (…)

(Tiếng Việt)

Hy vọng là tiếng Việt/ngôn ngữ Việt, với những chữ và nghĩa của chúng, sẽ giống như một cánh chim bay cao, đưa cặp mắt sáng của nó nhìn khắp núi sông bể cả của đất nước và của nhân loại. Hy vọng nó hít lấy hơi thở của đồng lúa và non sông Việt, cũng như mùi hương xa đem lại từ những phương trời thế giới. Và, hy vọng, với tất cả những của cải tinh thần ấy, những "dưỡng chất trần gian" ấy, nó sẽ đem lại cho chúng ta những niềm vui của cuộc lên đường. Lên đường làm một con người Việt.

Với tự tín, hạnh phúc và bình an.

Bùi Vĩnh Phúc

25 tháng X, 2009

Tustin Ranch, California

_________________________

Chú thích:

(1) Xem Lê Hữu, Ngôn Ngữ Ngậm Ngùi, tại diễn đàn Da Màu, ngày 21 tháng Mười, 2009, http://damau.org/archives/9635 [1] .

(2) Xem các ý kiến, suy nghĩ, thảo luận của Lê Văn Lý, Trương Văn Chình, Nguyễn Hiến Lê, Nguyễn Tài Cẩn, Cao Xuân Hạo, Nguyễn Kim Thản, Đỗ Hữu Châu, Trương Văn Tu, Trương Đông San, Trương Vĩnh Ký, Trần Trọng Kim, Nguyễn Thiện Giáp, Hồ Lê, L.C. Thompson, G. Aubaret, v.v…, trong những biên khảo hay giáo trình ngôn ngữ của họ.

(3) Hai từ "phrase’ trong tiếng Anh và tiếng Pháp là "những người bạn xấu" ("faux amis") của nhau. Trong tiếng Anh, nó có nghĩa là một cụm từ, diễn tả một ý chưa hoàn chỉnh; còn trong tiếng Pháp, nó là một câu, diễn một ý hoàn chỉnh. Nghĩa của "cụm từ", trong tiếng Pháp, trong cái nhìn phân tích ngôn ngữ, đặc biệt trong "ngữ pháp biến-tạo" (transformational grammar, hay transformational-generative grammar / TGG) xuất phát từ Chomsky, là "syntagme". Còn "locution" và "expression" thì cũng là một "cụm từ", nhưng là một cụm từ có sẵn, như một thứ thành ngữ, một dạng "cliché, stock phrase" hay một thứ "fixed colloquation" trong tiếng Anh. Còn "phrase" trong tiếng Pháp thì lại được dùng nhiều trong âm nhạc.

(4) Xem A.A. Gill, Where the Dead Don’t Sleep, trong National Geographic, số tháng Hai, 2009. Hình ảnh của Vincent J. Musi.

(5) Trong tiếng Việt/ngôn ngữ Việt, có nhiều từ có thể vừa là tính từ vừa là trạng từ (kể cả những từ kể trên), tuỳ thuộc vào vai trò của nó trong câu. Có nghĩa là tuỳ vào việc nó bổ nghĩa cho từ nào trong câu. Là một ngôn ngữ không biến hình, không có các vỹ tố, như đa số các ngôn ngữ Ấn-Âu, Việt ngữ không cần thay đổi về mặt hình vị cũng như âm vị khi chuyển một từ từ tính từ sang trạng từ hoặc ngược lại. Ngoại trừ khi người ta muốn thêm hai chữ "một cách" trước một tính từ khi biến nó thành trạng từ để nhấn mạnh (như: "một cách ngây thơ"). (Tuy nhiên, trong tiếng Anh, Pháp, trong đa số trường hợp, khi chuyển một từ từ tính từ sang trạng từ, một vỹ tố, là -ly (charming, charmingly), hay -ment (lente, lentement) sẽ được thêm vào.)

Chẳng hạn từ "ngây thơ", như trong "Đôi mắt nàng nhìn tôi ngây thơ" (trạng từ, nó bổ nghĩa cho "nhìn"), và "Đôi mắt ngây thơ của nàng nhìn tôi dò hỏi " (tính từ, nó bổ nghĩa cho "đôi mắt"). Tuy nhiên, nếu nói "Đôi mắt nàng ngây thơ nhìn tôi " thì phải cẩn thận hơn, vì câu nói này, về mặt ngữ pháp, có thể bị coi là "nhập nhằng", có hai nghĩa: hoặc "ngây thơ" bổ nghĩa cho động từ "nhìn" đứng ngay sau nó, hoặc nó bổ nghĩa cho nguyên cụm từ đứng ngay trước nó là "đôi mắt nàng". Trong ý kiến riêng của mình, đối với câu này, tôi nghiêng về việc cho "ngây thơ" là trạng từ, bổ nghĩa cho động từ "nhìn" đứng ngay phía sau nó. Nếu muốn dùng nó như tính từ, tốt hơn hết, nên viết là "Ngây thơ, đôi mắt nàng nhìn tôi ", hoặc "Đôi mắt nàng, ngây thơ, nhìn tôi ". (Câu cuối cùng này, nếu kéo dài phần vị ngữ ra,ta sẽ nhìn thấy vấn đề rõ ràng hơn: "Đôi mắt nàng, ngây thơ, nhìn tôi dò hỏi.").

Trong tiếng Anh, tiếng Pháp, khi chuyển một tính từ/danh từ sang một động từ (tiếng Việt ít có), có những trường hợp không thay đổi dạng từ (như từ "kiss" trong tiếng Anh), lại có những trường hợp khác đòi hỏi phải có sự thay đổi (như từ "blanc/ blanche" hay "noir" trong tiếng Pháp, thành "blanchir" (làm cho trắng), "noircir" (làm cho đen); hay như "idol" trong tiếng Anh, thành "idolize" (thần tượng hoá (một ai, một cái gì)).

(6) Định nghĩa của "feedback": " the process in which part of the output of a system is returned to its input in order to regulate its further output " (theo wordnetweb.princeton.edu/perl/webwn [2] .)

(7) Về mặt ngôn ngữ, đơn vị ngữ âm âm đoạn (segmental) nhỏ nhất là âm (âm tố), sau đó là âm tiết, âm tự, âm cú. Các đơn vị âm đoạn này luôn gắn với các âm vị siêu âm đoạn (suprasegmental) là thanh điệu, ngữ điệu, trọng âm. Thanh điệu được miêu tả bằng hai tiêu chí là cao độ và đường nét. Về mặt cao độ, trong tiếng Việt, có thanh điệu cao (ngang, ngã, sắc) và thanh điệu thấp (huyền, hỏi, nặng). Về mặt đường nét (âm điệu), có thanh bằng phẳng (ngang, huyền) và thanh không bằng phẳng hay thanh trắc (ngã, sắc, hỏi, nặng). Thanh trắc lại chia thành thanh gãy (ngã, hỏi) và không gãy (sắc, nặng).

Người viết văn, làm thơ, đến một độ nào đó, ý thức hay không ý thức, đều biết lợi dụng những tính chất về thanh điệu này của từ ngữ để tạo thêm, cũng như để kiểm soát, sắc điệu trong những câu văn, câu thơ của mình. Từ đó, đi đến việc tạo hiệu ứng mỹ học tối đa cho sự diễn đạt.

(8) Xem George Orwell, Politics and the English Language, in trong rất nhiều tuyển tập về ngôn ngữ và giáo trình văn học được sử dụng trong các đại học Mỹ.

(9) Xin xem Bùi Vĩnh Phúc, Chữ & Nghĩa, Quo Vadis?, đăng làm hai kỳ trên diễn đàn Talawas, ngày mồng 2 tháng Hai, 2005, tại http://www.talawas.org/talaDB/suche.php?res=3760&rb=06 [3] .

bài đã đăng của Bùi Vĩnh Phúc


Mấy Tưởng Khúc với/về Phạm Công Thiện - 14.03.2011
Dịch và... dịch: một thoáng nhìn - 30.12.2010
Những Giấc Mơ Trộn Lẫn... - 24.11.2010
Cao Xuân Huy, một ngọn gió đã bay xa (*) - 17.11.2010
Nhân vụ Trái Phá & Tình Yêu, bàn về chuyện chữ nghĩa, câu cú, dịch thuật, và phê bình - 20.10.2010
Tình Yêu & Con Tim trong Tình Sầu của Trịnh Công Sơn: một thoáng dư ba (góp ý với Đinh Từ Bích Thúy và Thái Kim Lan) - 20.04.2010
Trên những đường bay của chữ - 02.11.2009
Về liên hệ giữa người quan sát, thiết bị đo và vật được quan sát - 22.08.2009
Về Tính Vũ Đoán trong Viết, Đọc, và Thẩm Thức Văn Chương - 18.08.2009
Vấn đề thẩm thức một tác phẩm nghệ thuật - 12.08.2009
Nghệ Thuật Ngôn Ngữ Trong Ca Từ của Trịnh Công Sơn - 21.04.2009
Trên Những Lớp Sóng Của Mùa Biển Động - 27.03.2009
Nỗi Băn Khoăn Của Nguyễn Mộng Giác (*) - 25.03.2009
20 Comments (Open | Close)
20 Comments To "Trên những đường bay của chữ"

#1 Comment By Trinh – Trung Lap On 3 November 2009 @ 4:20 am

Thưa GS. Bùi Vĩnh Phúc !

Bài viết của GS. cũng như bài viết của Anh Lê Hữu vừa qua, có những dẫn dụ rất lôi cuốn, sinh động, và quan trọng nhất là rất hữu ích !

Bài viết thật chí lí, và chí tình ! Tôi có cảm tưởng GS. đã giải thích vấn đề ngôn ngữ(đang nóng trên Damau) chuyên nghiệp như 1 nhà ngôn ngữ học cũng như 1 nhà xã hội học ! (mặc dù tôi chưa có hân hạnh được biết GS. chuyên nghiên cứu lãnh vực nào!)

Tất nhiên có 1 số chi tiết trong bài viết của GS. thể hiện quan điểm khác với bài viết của Anh Lê Hữu nhưng điều đó “bình thường thôi”, vì như GS. nói “Ngôn ngữ làm nên con người” mà !

Tuy nhiên, bài viết của GS. và bài viết của Anh Lê Hữu có 1 điểm chung là chưa phân loại tách bạch 2 phong cách của ngôn ngữ “formal language” và “informal one”. Mong 2 tác giả nếu có điều kiện hãy viết thêm về 2 “styles” này cho độc giả thoả lòng mong đợi ! Ý kiến của tôi là trong những tình huống nào đó đòi hỏi người ta phải sử dụng “formal language”, như đàm phán chính trị, hợp đồng kinh tế, diễn thuyết 1 vấn đề nào đó,trình bày 1 vấn đề có tính nghiêm túc,….Nhưng có hằng hà sa số tình huống của cuộc sống mà chỉ bằng “informal lang.” mới làm cho người ta “đáng yêu hơn”, và cuộc sống “funny hơn” (như GS. BVP và Anh LH cũng có đôi chỗ đề cập vấn đề này).

Tôi nghĩ nếu phân loại rõ ra 2 văn phong/lối nói rõ ràng như vậy sẽ hữu ích hơn nữa cho độc giả, nhất là các cháu nhỏ “trong nuớc” và “hải ngoại” dùng “đúng” tiếng Việt hơn.

Tôi nhớ có 2 Linh mục Việt kiều kể 1 câu chuyện vui như sau :
“…1 người đến khoe với chúng tôi : “ 2 Cha ơi ! con của con bữa nay chào hỏi tiếng Việt giỏi lắm, 2 Cha hãy xem này” và ông ấy quay sang đứa bé, nói : “con chào 2 Cha đi con”.
Thật bất ngờ và thú vị, đứa bé quay sang nhìn chúng rồi nhìn bố nó và lanh lẹ tươi cười hỏi “Dạ vâng, nhưng con chào “đứa” nào trước ạ….!!!!!!!!”……??????

Câu chuyện của các vị Linh mục (về Việt nam chơi) hôm ấy đã làm cho cả nhà thờ phải cười “vỡ” chảy cả nước mắt….vì rất “đáng yêu” cho đứa bé ! hii hiii

Trân trọng chúc GS. và Anh Lê Hữu nhiều sức khoẻ và có thêm nhiều bài viết thú vị nữa về….ngôn ngữ. Xin chân thành cám ơn !

Yours faithfully !
(không dám diễn tả tiếng Việt vì sợ “sến” như anh Ngô Nguyên Dũng, nhân tiện chúc anh NND sức khoẻ ….tiếp tục nhé !)

TTL

#2 Comment By Bùi Vĩnh Phúc On 4 November 2009 @ 7:46 am

Kính gửi anh Trinh-Trung Lap,

Xin cám ơn lời khen tặng của anh. Tưởng chỉ viết lách cho vui, được anh cho biết là bài viết có ích, tôi rất cám ơn. Đã lâu, tôi cũng không viết gì về vấn đề ngôn ngữ. Nhân bài viết của anh Lê Hữu, đưa ra được nhiều vấn đề đáng thảo luận, tôi lại được đọc thêm một số chia sẻ đáng quý và thú vị của một số bạn đọc, nên tôi cũng có đôi chút hứng thú.

Anh hỏi, tôi xin đáp vắn gọn là tôi có được học và đào luyện trong cả hai ngành Xã hội học và Ngôn ngữ học, nhất là về ngôn ngữ. Nhưng cái học ở nhà trường, dù sao, cũng chỉ giúp ta có một cái nền, một căn bản để làm việc thôi. Tôi học được trong đời sống và trong sách vở nhiều hơn.

Câu hỏi của anh về "formal/informal language" là một câu hỏi rất rộng. Khó trả lời vắn tắt được. Anh dùng các từ tiếng Anh ("formal/informal language") đế hỏi, vậy tôi xin phép nói qua về vấn đề đó trong tiếng Anh, rất vắn tắt , rồi thử liên hệ chút ít qua tiếng Việt xem sao. Những điều sau đây là nói một cách tổng quát.

Trong tiếng Anh, "formal language" thường không dùng lối nói hay viết tắt ("contractions"): "I will see you later.", chứ không "I’ll see later."; hay "I have to use a different pen because this one is out of ink!", chứ không "I have to use a different pen cuz this one is outta ink!".

"Formal language" thường dùng ít/ít dùng những "phrasal verbs" (verbs đi với một "particle" như một preposition hay một adverb, hay với cả hai, như: eat out, eat up, eat away, eat in, get over with...). "Phrasal verbs" thường xuyên được dùng trong đàm thoại hàng ngày thay cho việc dùng những động từ gốc Latin; thí dụ, dùng “to put off” hơn là dùng “to postpone”, hay dùng “to get together” thay vì dùng “to congregate”, v.v… Đối với "formal language", các giáo sư Anh văn thường khuyên ta không nên dùng hoặc tránh dùng các "phrasal verbs", để giúp cho câu văn được trở nên trang trọng hơn. Dù sao, các "phrasal verbs" rất quan trọng trong tiếng Anh, vì chúng làm câu văn thêm mắm muối đậm đà với các ý nghĩa bóng bẩy, nhiều khi mang đầy chất ẩn dụ của chúng.

"Formal language" thường dùng nhiều từ vựng có gốc Latin và Pháp, đại khái là dùng chữ lớn, chữ nghiêm trọng, đôi khi có vẻ như "nổ" (Nói cho vui thôi! Dĩ nhiên là những từ được "nổ" đúng trong văn cảnh và ngôn cảnh của chúng thì sẽ được kêu là "chính xác" chứ không phải là "nổ" nữa). Người ta dùng nhiều thì quá khứ của trợ động từ hơn: dùng "should" thay vì dùng "must". Dùng ngôn ngữ gián tiếp (passive voice chẳng hạn) nhiều hơn để tạo sự gián cách, để không có vẻ cá nhân quá, hay "gần gũi" quá. Dùng nhiều tiếng đồng nghĩa ("synonyms") hơn để tránh phải lập lại các từ ngữ đã dùng. Và, câu nói hay lời viết được "tổ chức" một cách kỹ lưỡng và sâu sắc hơn.

Chuyển qua tiếng Việt, ta có thể tạm đưa ra thí dụ giản dị sau. Hãy xét những từ "xài", "dùng", và "sử dụng". Không xét vào những sắc thái khác biệt tế nhị ("nuances") giữa chúng mà gần như tất cả các từ đồng nghĩa đều có, so với nhau, một cách tổng quát thì cả ba từ này đều dùng để chỉ chung một khái niệm. Nhưng "xài" thì ít tính nghi thức nhất; ở đầu bên kia, có tính "nghi thức" nhiều hơn, là từ "sử dụng". "Dùng" nằm ở giữa hai cực đó; vì thế, nó có thể được dùng trong cả hai bối cảnh. Hai từ "đầu mút" kia không có được sự "thoải mái" đó.

Một từ gần gũi hơn: chết. Ta thử liệt kê ra đây một số từ/cụm từ, từ "ít nghi thức" nhất đến "hết sức nghi thức, trang trọng": ngủm củ tỏi, ngủm cù-đeo, đi mò tôm, chầu Diêm Vương, đi chầu tổ, đi bán muối, đi ăn xôi, chết, mất, qua đời, từ trần, thất lộc, đi theo các cụ, về với Chúa, về hưởng nhan thánh Chúa, về đất Phật, về Niết Bàn, về cõi Cực Lạc, về Thiên Đàng, v.v... Không thể trả lời người khác rằng "Bố tôi ‘ngủm củ tỏi’ rồi!" khi người ta hỏi, "Không dám, cho tôi hỏi ông cụ nhà anh có khoẻ không?". Trong trường hợp đó, ta không thể dùng "informal language" được, mà phải dùng một ngôn ngữ "formal" hay "very formal" để trả lời câu hỏi, thì mới được xem là người "tỉnh táo" và "có văn hoá". Phải dùng một trong những từ có tính phần nào trang trọng như "mất", "qua đời", "từ trần" trở đi, tuỳ hoàn cảnh cho thích hợp. Ngay trong một mẫu đơn tiếng Anh, hỏi về người thân của đương đơn, nếu người ấy đã qua đời, đương đơn phải ghi là "deceased", hay "passed away", chứ không thể ghi là "kicked the bucket" (!) được.

Nói về chuyện "chết chóc", không vui tí nào. Xin chia sẻ hai câu thơ dưới đây, cũng liên hệ đến "đề tài" chết, nhưng rất vui. Một lần, nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên, trong khi chở tôi đi lang thang, lòng vòng Hà Nội, đã đọc cho tôi nghe câu thơ lục bát "nổi tiếng" sau đây của Hà thành lúc ấy (trong đó câu bát rất đáng nhớ). Nhà phê bình chỉ đọc, không phụ chú, không "có lời bàn Mao Tôn Cương" chi cả, nhưng tôi hiểu và "suy rộng ra" là: câu thơ… khuyên bảo người ta phải ăn ở cho đàng hoàng, tử tế, cho nhân ái, trung hậu, vì, tất cả, ai rồi thì cũng sẽ phải "đi đến chỗ ấy": Rồi ra tất cả chúng ta / Đều lên nóc tủ …ngắm gà khoả thân (nếu tôi nhớ không nhầm thì là của nhà thơ Nguyễn Bảo Sinh).

Trong cuộc sống bình thường, vâng, đúng như anh nói, dùng "informal language" giúp chúng ta thư giãn và dễ thở hơn. Và, đúng thế, nhiều lúc nó làm cho chúng ta cười vui thoải mái nữa. Nhưng khi nào cần dùng "formal language" thì ta vẫn phải dùng nó. Dùng ngôn ngữ đúng ngữ cảnh cũng là một thứ quy ước xã hội.

Còn câu nói mà cháu bé hỏi bố trước khi trả lời hai vị linh mục trẻ, trong câu chuyện của anh, theo tôi, không phải là một thứ "informal language", nhưng là một cách nói chưa "thấm nhuần văn hoá", chưa "nhuyễn", vì sức học chưa tới, đối với một em nhỏ dùng tiếng Việt không phải như tiếng mẹ đẻ. Nó buồn cười và ngộ nghĩnh, thậm chí "đáng yêu"–như anh nói–, trong khung cảnh riêng của nó.

Trân trọng,

Bùi Vĩnh Phúc

#3 Comment By My Khanh On 4 November 2009 @ 10:44 am

Câu hỏi hay. Câu trả lời rất rõ ràng.

Cám ơn tác giả đã cho người đọc thêm nhiều kiến thức.

#4 Comment By Trịnh – Trung Lập On 4 November 2009 @ 6:19 pm

Kính thưa GS. Bùi Vĩnh Phúc !

Chân thành cám ơn GS. đã dành thời gian đọc và trả lời comment của tôi.

Những ví dụ minh hoạ của GS. về formal/informal language, đặc biệt trong tiếng Anh, thật tuyệt vời đối với tôi (người đang học tiếng Anh as a beginner ! ). Thật bổ ích với tôi, thưa GS. !

Cũng xin cám ơn GS. đã cất công “trích ngang chút xíu lý lịch” vì câu hỏi hơi đường đột (personal) của tôi… Do lâu nay, thấy các anh trên Damau rất vui tính, nên tôi sử dụng informal language hơi “bị nhiều” (nhất là từ khi anh Đặng Tiến cứ chủ trương “vui thôi mà”…). Nay, đọc comment của GS., cách GS. trả lời cho độc giả, tôi cảm nhận được 1 phong cách làm việc rất nghiêm túc và rất mô phạm của GS. Thưa GS. thật may, trong khi chờ đợi hồi âm của GS., tôi đã đọc được trên mạng về học vấn và quá trình làm việc, cũng như các bài viết (có liên quan đến ngôn ngữ) của GS. Xin được phép chân thành bày tỏ lòng cảm mến đối với GS. (nhất là những bài của GS. về Cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn).

Tôi cũng xin đính chính 1 chút nhầm lẫn trong cách diễn tả chưa rõ ràng của tôi về ví dụ đứa bé “Việt kiều” trong comment lần trước. Đó không phải là “informal language” như GS. đã trả lời. Tôi đưa ra ví dụ đó chỉ nhằm kết luận rằng 2 bài viết của GS. và Anh Lê Hữu quả rất hữu ích cho những người đang “sử dụng” (chứ không phải “nói”) tiếng Việt, nhất là những thế hệ thứ 2,3,4-người Việt đang sinh sống ở hải ngoại, nhiều khi nói tiếng Việt rất…buồn cười.

Cuối cùng, 1 lần nữa xin chân thành cám ơn GS. và mong được đọc nhiều hơn nữa những bài viết của GS.

Trân trọng kính chào GS !

Trịnh Trung Lập

#5 Comment By Túc Trí On 5 November 2009 @ 11:18 am

Bài viết của ông Bùi Vĩnh Phúc và của ông Lê Hữu, theo tôi, là hai bài có những đóng góp hữu ích về ngôn ngữ và tiếng Việt. Tôi đánh giá cao cả hai bài và không có ý định so sánh, tuy nhiên, do phản hồi của anh Trinh Trung Lap nói là “có một số chi tiết trong bài viết của GS. thể hiện quan điểm khác với bài viết của Anh Lê Hữu”, tôi thử tìm hiểu “quan điểm khác” ấy là gì?
– Ông LH nói : “Ngôn ngữ không làm nên con người”. Ông BVP nói : “Ngôn ngữ làm nên con người” (đúng ra, ông BVP viết là “ta cũng thường nghe thấy những phát biểu như, ‘Ngôn ngữ làm nên con người’”, nên không chắc lắm đấy là quan điểm của ông).
– Ông LH nói: “Đành ngậm ngùi cho ‘tiếng Việt cũ’ từng làm nên văn hóa miền Nam Việt Nam một thời, nay chìm dần trong lãng quên”. Ông BVP nói : “Cái ‘ngậm ngùi’ đó là một sự ngậm ngùi rất tự nhiên, thậm chí rất ‘cảm tính’, khởi đi từ lòng thiết tha đến những kỷ niệm cũ, gắn bó với những cung cách ăn nói cũ, gắn bó với một số khía cạnh văn hoá, xã hội mà những từ ngữ kia mang chứa trong mình.
Đó là một phản ứng tự nhiên, vì con người, xét về mặt văn hoá, nói chung, luôn muốn tiếp xúc với sự quen thuộc…”
Tôi thấy hai quan điểm ấy không hẳn là khác nhau, chỉ là một bên “ngậm ngùi”, một bên “giải thích” cái ngậm ngùi ấy.
Các khác nhau về quan điểm, nếu có, theo tôi là ở phần kết của hai bài : ông LH tỏ ra ngậm ngùi rằng ngôn ngữ đôi lúc đã khiến cho con người phải xa nhau: “Bao giờ cho đến bao giờ, những con người cùng chung tiếng nói, cùng một chữ viết không còn nữa những ‘bất đồng ngôn ngữ’, để cho ngôn ngữ không phải… ngậm ngùi”. Trong lúc ấy, ông BVP không đề cập gì đến chuyện “ngậm ngùi” ấy, và tỏ ra lạc quan : “Hy vọng là tiếng Việt/ngôn ngữ Việt, với những chữ và nghĩa của chúng, sẽ giống như một cánh chim bay cao….., nó sẽ đem lại cho chúng ta những niềm vui của cuộc lên đường”.
Không rõ kết luận ấy có phải là “thể hiện quan điểm khác với bài viết của Anh Lê Hữu” như anh Trinh Trung Lap nói?

Ngoài ra, những khác biệt về chi tiết ở hai bài ấy không có nhiều và không phải là “khác quan điểm”.
Nói về chi tiết, có một chỗ tôi cho là ông BVP hiểu “lệch” ý (không dám nói là sai ý) của ông LH, khi viết: “‘Từ láy’ hay ‘từ lấp láy’ không hẳn chỉ gồm ‘một chữ có nghĩa, chữ kia chỉ là đệm vào cho xuôi tai chứ chẳng có nghĩa gì cả’” [Xin xem lại bài của Lê Hữu, chú thích (1)]”. Theo chỗ tôi hiểu, ông LH không làm công việc “định nghĩa” từ láy. Câu ấy (“từ ngữ láy, một chữ có nghĩa, chữ kia chỉ là đệm vào cho xuôi tai chứ chẳng có nghĩa gì cả”) được ông LH cho vào trong ngoặc đơn, tiếp theo sau các từ “khe khẽ”, “nhẹ nhàng”, “êm ả”, “ồn ào”, “gần gũi”, “lạ lùng”…, là để chỉ ra cái tên gọi (từ láy), và cái “dạng” của từ láy ấy (một chữ có nghĩa, chữ kia không có nghĩa), nhằm thuyết phục người đọc chấp nhận những “từ láy mới” có cùng một cái “dạng” (form) láy y như thế, như “khẽ khàng”, “im ả”, “yên ắng”, “ồn ã”, “gần gụi”, “lạ lẫm”… (Nếu cách hiểu của tôi ở phần này là sai, xin ông LH cho biết).
Do cách hiểu như thế, ông BVP bèn đưa ra…định nghĩa, giải thích, phân loại từ láy.
Dù sao, qua hai bài viết về ngôn ngữ, chúng ta thấy hai tác giả đã gặp nhau ở điểm chung là tình yêu tiếng Việt/ngôn ngữ Việt.
Xin có một vài ý như trên về bài viết công phu của ông BVP.



#6 Comment By Bùi Vĩnh Phúc On 5 November 2009 @ 5:25 pm

Kính gửi ông/bà My Khanh,
Xin được cám ơn nhận xét và ý kiến quý báu của của ông/bà.
***
Kính anh Trinh-Trung Lap,
Thành thật cám ơn những đánh giá rộng rãi của anh về tôi. Tôi cũng rất trọng và quý sự chân thành của anh trong vấn đề cầu học. Trong sự học hỏi để tiến bộ mỗi ngày, chúng ta ai cũng phải cố gắng, vì mình có thể học được từ mọi người và từ mọi điều trong cuộc sống.


Lần trước, về vấn đề “formal/informal language”, tôi quên chưa chia sẻ thêm với anh là, trong tiếng Việt, ngôn ngữ mang tính nghi thức thường dùng nhiều từ Hán-Việt, vì lớp từ này, với những âm vang và dấu ấn của nó, thường đem lại sắc thái trang trọng, nghiêm cẩn cho ý tưởng được trình bày hay diễn đạt. “Xài” với “sử dụng”, hay “chết” với “thất lộc”, khác nhau là ở chỗ đó. Điều ấy cũng giống như trong tiếng Anh, từ ngữ gốc Latin nghe trang trọng hơn những từ bình thường; từ đó, “to congregate” (Middle English, gốc Latin) nghe “trang trọng” và “nhã nhặn” hơn “to get together”. Cho dù, mỗi từ và mỗi cách dùng đều có giá trị và chỗ đứng của nó trong ngôn ngữ. Vấn đề là dùng đúng chỗ, đúng văn cảnh hay ngôn cảnh thôi.

Trong văn chương Việt, phong cách và ngôn ngữ của Hồ Xuân Hương và Bà Huyện Thanh Quan cho thấy khá rõ sự đối chọi đó và giá trị của chúng. “Một đèo, một đèo, lại một đèo…”, hay “Bác mẹ sinh ra phận ốc nhồi / Đêm ngày lăn lóc đám cỏ hôi / Quân tử có thương thì bóc yếm / Xin đừng ngó ngoáy lỗ trôn tôi” thì khác hẳn ” Gác mái ngư ông về viễn phố / Gõ sừng mục tử lại cô thôn” và “Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo / Nền cũ lâu đài bóng tịch dương”… Hai lớp ngôn từ khác hẳn nhau, đưa đến những cảm xúc, những giá trị văn chương cũng khác nhau. Nhưng cả hai đều có chỗ đứng của chúng.
Ngoài ra, một chuyện khác. Cách dùng từ “ấn tượng” ở Việt Nam. Trong bài, tôi trình bày chưa thật kỹ. Dùng theo kiểu Anh Mỹ, như một thứ động từ (thể thụ động), to be impressed with : “He cannot fail to be impressed with her new ‘ao dai’.” (“Hắn không thể nào không ấn tượng với chiếc áo dài mới của nàng.”–Nàng chỉ mong được khoe áo mới, hắn mà không “ấn tượng” thì chết với nàng. Sẽ phụng phịu đòi “nghỉ chơi” ngay!). Người ta có thể dễ dàng bắt gặp kiểu nói “Tôi thật ấn tượng với cách trình diễn của ca sĩ X” nơi những người trẻ trong nước. Còn dùng theo lối tính từ, impressive : “Điệu nhảy ấy thật là ấn tượng!” (theo kiểu tiếng Anh: “Bali Dance is very impressive for me for its unique style.”).
Một lần nữa, cám ơn những ý kiến của anh. Về cung cách trình bày, diễn đạt, tôi nghĩ mỗi người có thể có một phong cách khác nhau. Tôi thấy anh, cũng như các anh chị khác, mỗi người mỗi cách, góp những ý kiến hữu ích, vui, và thú vị lắm.
Trân trọng,
Bùi Vĩnh Phúc

#7 Comment By Bùi Vĩnh Phúc On 5 November 2009 @ 7:21 pm

Kính anh Túc Trí,
Cách nhận xét của anh cho thấy anh đã đọc các bài vở rất kỹ.
Nhận xét về bài viết của anh Lê Hữu và bài của tôi, anh Trinh-Trung Lap cho là có một số chi tiết trong bài viết của tôi thể hiện quan điểm khác với bài viết của anh Lê Hữu, còn anh thì cho là quan điểm của hai bài viết “không hẳn là khác nhau”. Nếu được phép có ý kiến, tôi cho là anh TTL có cái lý của anh ấy, và anh cũng thế. Chỉ là góc độ nhìn và cách nhìn.
Cũng như ta có những câu “Không Thày đố mày làm nên“, và “Muốn sang thì bắc phù kiều / Muốn con hay chữ thì yêu lấy Thày”, nhưng lại cũng có “Học Thày không tày học bạn”. Không phán đoán hay chia sẻ nào về vai trò của thày, của bạn, hay về cái nhìn về vị trí của người thày, người bạn trong cuộc sống ta, nơi những câu nói trên là sai, mặc dù, nhìn trên mặt chữ, câu tục ngữ đầu và câu ca dao có vẻ như đưa ra những phát biểu khác với câu tục ngữ cuối. Ngôn ngữ, văn hoá cũng giống như một viên kim cương. Nó có nhiều mặt khác nhau. Các cụ ta không “ba phải” hay tự mâu thuẫn khi đưa ra những “phát biểu” có vẻ trái chiều nhau này. Chỉ là các cụ nói về những khía cạnh khác nhau của vấn đề.
Cũng thế, hai cách nói “Ngôn ngữ không làm nên con người” và “Ngôn ngữ làm nên con người”, theo tôi, cũng là hai cách nhìn về một vấn đề, với hàm ý nhấn mạnh vào góc độ nhìn. Còn quan điểm của những người đưa ra hai cách nhìn (có vẻ trái chiều) như thế về vai trò (quan trọng) của ngôn ngữ (trong cuộc sống con người) thì chưa chắc là khác nhau. Cùng một sự kiện, chỉ có cách nhìn là khác nhau thôi. Cũng như nói “Ly nước cam này đã vơi một nửa!”, và nói “Ly nước cam này còn một nửa.” thì cũng không khác nhau đâu, trong cái nhìn sự kiện. Thật sự, chúng chỉ khác nhau ở cái dấu chấm thường và cái dấu chấm than thôi. Những cái dấu biểu tỏ cảm xúc và thái độ của người nhìn, người phát biểu.
Tóm lại, chỉ là những cái nhìn, từ những góc độ khác nhau, về cùng một vật, một sự. Vậy thì anh TTL cũng có lý, mà anh cũng rất sắc, nhìn ngay ra sự có thể nói là “đồng thuận” ấy nơi quan điểm của hai bài viết.
Về chuyện từ láy, cũng cám ơn nhận xét của anh. Tôi cũng không cho là anh LH trình bày không đúng hay hiểu sai về từ láy, nhưng tôi ngại là cách trình bày trong bài của anh LH có thể đưa đến việc có những người sẽ hiểu từ láy một cách quá giới hạn. Anh LH viết: “Công bằng mà nói, bên mình có những từ ngữ “khe khẽ”, “nhẹ nhàng”, “êm ả”, “gần gũi”, “lạ lùng”… (từ ngữ láy, một chữ có nghĩa, chữ kia chỉ là đệm vào cho xuôi tai chứ chẳng có nghĩa gì cả) thì cũng phải cho người ta… “. Nếu câu giải thích trong ngoặc đơn ấy là: “(từ ngữ láy, theo dạng một chữ có nghĩa, chữ kia chỉ là …)” thì ta sẽ loại trừ được khả năng có thể có người sẽ hiểu sai đi, cho rằng “từ láy” chỉ có một cách kết hợp. Chính vì thấy câu giải thích của anh LH không sai (chỉ có thể là chưa đủ), nên tôi đã cẩn thận viết trong bài của mình: “‘Từ láy’ hay ‘từ lấp láy’ không hẳn chỉ gồm ‘một chữ có nghĩa, chữ kia chỉ là đệm vào cho xuôi tai chứ chẳng có nghĩa gì cả’” [Xin xem lại bài của Lê Hữu, chú thích (1)]”. Tôi in nghiêng cụm “không hẳn” ở đây. Tôi đã tránh dùng cụm “không phải”, và trình bày đôi chút về “từ láy” trong bài của mình, vì những suy nghĩ tôi đã trình bày ở trên.
Bài của anh LH là một bài viết thiết tha, tâm huyết, lại đưa ra được những vấn đề đáng quan tâm, cho dù là từ những khía cạnh và góc độ khác nhau. Còn phần góp ý của anh đã đưa ra nhiều nhận xét thích đáng và quý báu.
Xin cám ơn anh Lê Hữu. Xin cám ơn anh Túc Trí. Chúc các anh luôn vui mạnh.
Trân trọng,
Bùi Vĩnh Phúc

#8 Comment By Trinh – Trung Lap On 5 November 2009 @ 8:09 pm

Ông Túc Trí nói : “……..– Ông LH nói : “Ngôn ngữ không làm nên con người”. Ông BVP nói : “Ngôn ngữ làm nên con người” (đúng ra, ông BVP viết là “ta cũng thường nghe thấy những phát biểu như, ‘Ngôn ngữ làm nên con người’”, nên không chắc lắm đấy là quan điểm của ông).”

-Ông Lê Hữu nói : “…….Ngôn ngữ là tài sản chung của dân tộc, chắc không ai phủ nhận điều này. Ngôn ngữ là sản phẩm của con người, chứ không… làm nên con người. Tiếng Việt cũng không ra khỏi lẽ ấy. Tiếng Việt dùng chung cho cả nước. “Người phát minh” ra tiếng Việt không hề có ý định cấp giấy phép cho “bên” nào đặc quyền sử dụng; vì vậy, thiết tưởng ta cũng không nên làm cho tiếng Việt–ngôn ngữ của nước ta–trở nên “phức tạp” 1.
Nếu ta có thể “nhất trí” được với nhau, tiếng Việt là những “tiếng” được ghi lại trong các bộ tự điển tiếng Việt của cả miền Bắc lẫn miền Nam thuở trước (tất nhiên những bộ tự điển này luôn cần được bổ sung) thì không có chữ nào, tiếng nào là độc quyền của “bên” nào. Bên nào xài cũng được, miễn là chịu khó xài cho đúng…..”

- Ông Bùi Vĩnh Phúc nói : “……Ngôn ngữ là công cụ để giao tiếp. Nói “ngôn ngữ” là “công cụ” có nghĩa là xem ngôn ngữ, ở một khía cạnh nào đó, như cái đục, cái cưa, cái bào, thậm chí cái khẩu súng, cái máy bay, v.v…, để con người sử dụng trong ý hướng của mình. Là một công cụ, nhưng, không như những công cụ khác, ngôn ngữ lại là một công cụ gắn chặt với cuộc sống con người và, rất nhiều khi, cho cái cuộc sống ấy một ý nghĩa. Bởi thế, ta cũng thường nghe thấy những phát biểu như, “Ngôn ngữ làm nên con người”, hay “Anh nói năng ra sao thì con người anh hiển hiện ra đó”….”

-Theo Trịnh Trung Lập hiểu :
1. Ý Ông Lê Hữu : Ngôn ngữ là tài sản chung (từ chung có nghĩa tợ tợ như “của chồng công vợ vậy”), không được và càng không nên phân chia Việt nam bằng những vĩ tuyến ngôn ngữ
2. Ý Ông Bùi Vĩnh Phúc : Ngôn ngữ phản ánh quan điểm, tính cách,…….nói chung là những gì rất “personal” của người phát ra/viết ra nó. Và trong 1 nghĩa rộng hơn (có thể là từ lí trí tự do liên tưởng của độc giả) ngôn ngữ địa phương, sự phân chia ngôn ngữ do ranh giới chính trị, tính giai cấp của ngôn ngữ,…… có thể phản ánh một cách hiển hiện con người địa phương, con người chính trị, bản chất giai cấp của con người đó.

Ông Túc Trí có thể nhầm lẫn ở chỗ, khi Tác giả BVP trích dẫn : “….Bởi thế, ta cũng thường nghe thấy những phát biểu như, “Ngôn ngữ làm nên con người”, hay “Anh nói năng ra sao thì con người anh hiển hiện ra đó”….” tức là Ông BVP đã đồng ý với quan điểm đang được trích dẫn.

Thật ra những liên tưởng của tôi có thể không nằm trong ý định diễn tả của 2 tác giả. Thế nhưng, cái tuyệt vời của văn chương là chỗ ấy “Khơi gợi lí trí tự do nơi người đọc” và cứ thế những hệ quả (xin lưu ý không phải là hệ luỵ) của những định đề văn chương cứ tiếp diễn trên diễn đàn này và trong sáng tạo nghệ thuật…

#9 Comment By Lê Hữu On 5 November 2009 @ 11:50 pm


Xin được trả lời anh Túc Trí: anh đúng, và anh Bùi Vĩnh Phúc đúng. Người sai là tôi.
Câu ấy lẽ ra phải viết như câu anh Bùi Vĩnh Phúc đề nghị, hoặc: “… (một dạng từ ngữ láy: một chữ có nghĩa, chữ kia chỉ là đệm vào cho xuôi tai chứ chẳng có nghĩa gì cả)…” Nói/viết mà người nghe/đọc không hiểu, không hiểu rõ, không hiểu đúng… là cái lỗi của người nói/viết. Xin nhận lỗi này. Cái sai của tôi cũng là cái sai của người không sử dụng thành thạo “công cụ ngôn ngữ”.
Tôi cũng “nhất trí” với anh Trịnh Trung Lập và anh Túc Trí là nội dung hai bài có khác chút chút về quan điểm, và tôi cho là có “khác” như vậy mới vui, mới thú vị và mới bổ ích (hơn là “mình nói mình nghe” thì chán chết!). Hơn nữa, nếu anh Bùi Vĩnh Phúc “nhất trí 100%” nội dung bài tôi viết thì anh ấy đã chẳng viết ra làm gì, và như thế thì thiệt thòi cho chúng ta biết mấy!!! Có phải không hai anh?

Phần diễn giải về formal/informal language của anh BVP rất rành rẽ và lý thú!
Xin cám ơn anh Bùi Vĩnh Phúc đã dành thì giờ đọc bài tôi “tản mạn về tiếng Việt”, và phát triển thêm nhiều ý mới trong bài viết của anh. Nhân nói về cái tính từ “tản mạn”, nhất trí với anh là ta có thể “dùng theo nghĩa là một động từ, có nghĩa là ‘nói chuyện lan man’”; tuy nhiên, cách dùng này vẫn chỉ là…“informal” (và chỉ trở thành “formal” khi nào cái “nghĩa mới” ấy được chính thức thừa nhận và được cập nhật trong tự điển tiếng Việt). Có một trường hợp tính từ được dùng theo nghĩa là một động từ, có nghĩa là “đấu hót”, “chuyện trò linh tinh lang tang” mà tôi rất “chịu”, đó là cái từ “lai rai” trong tựa sách “Lai rai chén rượu giang hồ” (Tiểu luận về Kim Dung, Huỳnh Ngọc Chiến), nghe rất là “khẩu khí Kim Dung”. Và chỉ có “lai rai” thôi, chứ không “lai rai về…” Tôi thích nói “Lai rai tiếng Việt trong và ngoài nước” hơn là nói “Tản mạn về tiếng Việt trong và ngoài nước”. Tuy nhiên cả hai cách nói này đều là…“informal language”.

Và cũng “tản mạn” thêm một chút về từ “biểu diễn” mà anh đề cập trong bài. Cái từ này theo tôi biết, từng được người ngoài Bắc sử dụng từ ngày xửa ngày xưa, và đến nay vẫn tiếp tục sử dụng. Nói “Đoàn văn công biểu diễn phục vụ bộ đội trong chiến dịch ĐBP” nghe được hơn là nói “Cô văn công biểu diễn bài ‘Ngày mùa’ của Văn Cao”. Biểu diễn, theo tôi, nghiêng về động tác hơn là lời. Ta vẫn nghe “biểu diễn ảo thuật / đu bay / múa rối dưới nước / khiêu vũ trên băng…” Về các tiết mục văn nghệ, ta nói “biểu diễn” một điệu múa, một nhạc cụ, hơn là biểu diễn một bài hát, một bài thơ… (ngoại trừ nhái giọng muông thú, giả giọng nhân vật nào đó…). Giới thiệu một màn đơn ca, MC thường nói: “Ca sĩ TT sẽ trình diễn/trình bày/diễn tả/thể hiện một ca khúc…” (hơn là “‘biểu diễn’ một ca khúc”).

Chỉ xin “trao đổi” chút chút với anh cho vui vậy. Cá nhân tôi vẫn chủ trương “thông thoáng”, “mềm dẻo”, “linh hoạt” (tôi thích những từ “mới” này) trong việc sử dụng ngôn ngữ, có nghĩa là muốn nói, muốn viết thế nào tùy nghi, miễn sao đối tượng “get the message thru” là ok. (Tất nhiên “chủ trương” này không áp dụng cho…formal language).
Trân trọng.

#10 Comment By Điền L. On 6 November 2009 @ 6:36 am

Cám ơn GS Bùi vĩnh Phúc về bài viết rất hữu ích và nhất là với giọng văn lôi cuốn. Tiện đây tôi cũn chia xẻ một kinh nghiệm về đề tiếng Việt trước vả sau 75.
Một lần về VN tôi tỏ ra khó chịu với những từ như “bóng đá” thay thế cho “đá banh”, “đăng ký” cho “ghi tên” và những từ dùng tiếng Hán Việt thay vì dùng tiếng thuần Việt như “bức xúc” thay vì “khó chịu”. Tôi than phiền với ông anh họ. Tưởng ông đồng ý với tôi, ai ngờ ông hỏi vặn “nếu gọi bóng rổ, bóng chuyền, bóng bàn được thì bóng đá có gì sai?”. Ông bảo tôi “đăng ký” là register còn “ghi tên” là enrolment. Còn “tổng cuộc túc cầu” mà bảo hay hơn “liên đoàn bóng đá” thì có thể, nhưng bảo sai hay thuần Việt thì không đúng. Tôi không cãi được.

#11 Comment By Huỳnh Phan On 8 November 2009 @ 7:56 am

Bài viết của tác giả với việc đưa ra mốt số khá niệm,/quy luật ngôn ngữ cơ bản cùng với việc mổ xẻ một số ví dụ cụ thể có tác dụng refresh kiến thức ngôn ngữ, làm sáng tỏ thêm những bàn luận trong bài viết “Ngôn ngữ ngậm ngùi” của anh LH, nhất là cho thấy rõ hơn tiếng Việt là một thực thể sống động chớ không tĩnh tại.

Về từ “văn phạm” và “ngữ pháp” xin có vài ý bàn thêm với anh. Theo tôi, từ “văn phạm”’ bên cạnh khả năng xuất phát cách quan niệm của các cụ như tác giả đã nêu cũng có thể còn do “các cụ” dịch từ “grammaire” (tiếng Pháp) bằng cách truy từ gốc grammatike techne (nghệ thuật viết) tiếng Hi Lạp (dù đã có cụ “đi trước” dịch là “ngữ pháp”). Đồng ý với anh là ‘sự thay đổi từ “văn phạm” sang “ngữ pháp” là một sự thay đổi sâu xa cả về nội hàm của khái niệm, chứ không phải chỉ là về mặt từ ngữ’, Tuy nhiên, nói rằng ‘cách sử dụng từ “ngữ pháp” bây giờ…. là sự giới hạn việc giảng dạy….vào những khuôn phép, quy tắc ‘đặt câu, hành từ, vào việc học biết về các từ loại và cách thức sử dụng chúng trong câu mà thôi’ có lẽ cân bàn bạc thêm. Bởi vì phạm vị nghiện cứu của ngữ pháp hiện nay, nhờ những thành tựu trong các ngành có liên quan, đặc biệt ngành IT, đã cho phép phát triển theo cả hai chiều rộng lẫn chiều sâu nên nội hàm ngữ pháp bây giờ rộng hơn rất nhiều, các cụ có muốn đưa vào cũng chưa available. Nói riêng về ngữ pháp dạy trong trường phổ thông hiện nay, nếu tôi không lầm, thì vẫn còn bao gồm cả phép tu từ (nhờ bạn đọc nào ở trong nước xác nhận lại dùm) như trong “văn phạm” của các cụ..
Cũng xin góp thêm một ý nữa vể ý ”Feedback”, khởi nguyên, chỉ là một từ phát xuất từ lĩnh vực computer mà ra. Vì thế, theo định nghĩa gốc của nó trong tiếng Anh, tôi thử dịch lại là “hồi dưỡng . Theo tôi biết, ít ra từ feedback đã được dùng trước đó trong điện tử (phần nghiên cứu vê máy khuếch đại [âm thanh]), từ này còn được dùng cả trong cơ học, sinh học…nhưng tôi không chắc trước hay sau trong điện tử. Cũng xin mách thêm là trước 1975, trong giáo trình các ngành tương ứng ở trường ĐH Khoa học SàiGòn và Kĩ Thuật Phú Thọ, từ này cũng đã được dịch là “hồi dưỡng” (như tác giả đã thử dịch). Hiện nay từ này được dùng trong rất nhiều ngành và trong nước dịch là hồi tiếp, hoàn ngược, phản hồi… (xem thêm http://tratu.vn/dict/en_vn/Feedback )
Cũng xin giới thiệu ở đây một bài viết có liên quan “Tiếng Việt SOS” của Dương Tường về việc sử dụng tiếng Việt trong nước để bạn đọc nào có quan tâm tham khảo thêm.

#12 Comment By Bùi Vĩnh Phúc On 8 November 2009 @ 1:38 pm

Xin cám ơn anh Lê Hữu về “phản hồi” của anh. Tôi cũng thích từ “trình diễn” hơn, khi dùng để giới thiệu một ca sĩ ra hát. Đặc biệt là đối với “lỗ tai” của người miền Nam, nghe “trình diễn” thấy “hay” và “hợp lý” hơn. Hợp lý, như cách anh đã phân tích và trình bày. Khi tôi liệt kê “mục từ” “Biểu diễn”/”Thể hiện” trong bài của mình, tôi chỉ muốn cho thấy đó là những từ khác biệt đối với người miền Nam, so với từ “trình diễn” mà họ đã quen thuộc. Sau đó, tôi tập trung nói về từ “thể hiện”. Kết của “mục” đó, tôi viết: “Tôi thấy từ này cũng đặc biệt, thậm chí “dễ thương”, không có vấn đề gì”. Đó là tôi đưa ra nhận xét về từ “thể hiện”. Còn, như đã nói ở trên, tôi cũng thích dùng từ “trình diễn” (hơn là “biểu diễn”. Có chuyện “phân biệt đối xử” ở đây hay không, hay là vì một lý do khác, tôi sẽ giải thích sau) để giới thiệu một “tiết mục hát” của một ca sĩ. Ngoài ra, “thể hiện”, như tôi nghĩ và viết trong bài, cũng là một từ hay, dùng cũng tốt. Rất nhiều MC trong nước sử dụng từ này.
Dù sao, chuyện thích “trình diễn” hơn là “biểu diễn” của đa số người sống trong Nam (đặc biệt để giới thiệu một ca sĩ), tôi nghĩ, cũng là một vấn đề thói quen và “dấu ấn” của thói quen. Nghĩa là gắn bó với một “khung văn hoá” nào đó. Ta đã quen dùng “trình diễn” để giới thiệu một ca sĩ hát , và dùng “biểu diễn” cho những mục giải trí khác, có gắn bó nhiều với những động tác khi “trình diễn”, như anh giải thích: “‘biểu diễn’ ảo thuật / đu bay / múa rối dưới nước / khiêu vũ trên băng…” và “‘biểu diễn’ một điệu múa, một nhạc cụ…”. Sự quen dùng như thế, tôi cho là do một “khung văn hoá” quy định, chứ không hẳn là do sự chính xác, hoặc đúng hay sai, của hai từ đó. Cho dù về mặt sắc thái ngữ nghĩa (giữa các từ đồng nghĩa), có một sự khác biệt giữa chúng.
Trong Từ Điển Tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên (Nhà xuất bản Đà Nẵng, 2007), định nghĩa 1 của “biểu diễn” ghi: “diễn [các loại hình nghệ thuật hay võ thuật] cho công chúng thưởng thức: biểu diễn văn nghệ; biểu diễn một điệu múa; biểu diễn vài đường quyền”. Sau đó, có ghi từ đồng nghĩa là “trình diễn”. Ở mục từ “trình diễn”, ta thấy ghi định nghĩa: “đưa ra diễn trước công chúng: trình diễn thời trang; màn trình diễn xiếc; vở kịch đang trình diễn ở rạp”. Sau đó, cũng có ghi từ đồng nghĩa là “biểu diễn”. Đặc biệt, trong mục từ “trình diễn” có ghi chú thêm [trtr], có nghĩa là “trang trọng”.
Trong Hán-Việt Từ Điển của Đào Duy Anh, “Trình”, 呈 , được giải thích là “bày tỏ; lộ bày ra; đưa lên kẻ trên”, và “Biểu”, 表 , được giải thích là “bày ra ngoài; cái đồ tính giờ, như đồng hồ; cái bảng chia loài mà chép cho dễ nhận biết; tờ tấu đưa cho vua”. Như thế, “Trình” hay “Biểu” gì thì cũng là “bày tỏ; lộ bày ra; bày ra ngoài”. Không có sự phân biệt là “bày ra” với “động tác” hay không” (và, nếu có, thì cái nào gắn với nhiều động tác hơn!). Sách của cụ Đào không thấy những mục từ “trình diễn” và “biểu diễn”. Hán-Việt Tự Điển của Nguyễn Văn Khôn cũng không có mục từ “trình diễn”, còn định nghĩa của “biểu diễn” trong sách đó là “bày ra ngoài, phô diễn ra cho người ta xem”.
Tóm lại, tôi nghĩ, việc thích sử dụng “trình diễn” hơn “biểu diễn” (trong việc giới thiệu một người ca sĩ ra hát chẳng hạn), như trong trường hợp của chúng ta, và, tôi nghĩ, của nhiều người miền Nam khác, là do cái “khung văn hoá”, “khung sống”, của miền Nam quy định. Trong “khung” đó, có thể có cả thái độ “trang trọng” mình đặt vào lời giới thiệu và cung cách thưởng thức (trang trọng) của giới thưởng ngoạn. Trong quyển Từ Điển do Hoàng Phê chủ biên, cho dù xem hai từ là đồng nghĩa, vẫn ghi nhận sắc thái “trang trọng” của “trình diễn” so với “biểu diễn”.
Cách “xử lý” từ của anh như vậy là hợp lý, cho thấy sự quan sát rất kỹ của anh về mặt “ngữ dụng học”, cho dù có thể anh chưa quan tâm (đủ) đến sắc thái “trang trọng” hay “không trang trọng” giữa hai từ. Còn trong nước, trong cái “khung văn hoá” của thời kỳ “mở cửa” và “hậu mở cửa”, cũng có thể có đôi chút khác biệt. Đặc biệt trong sự sử dụng của người dân nơi công cộng, so với sự sử dụng của những người kỹ hơn, hay chuyên môn hơn, trên sách báo.
Một lần nữa, xin cám ơn các ý kiến của anh.
Trân trọng,
Bùi Vĩnh Phúc

#13 Comment By Bùi Vĩnh Phúc On 9 November 2009 @ 3:44 am

Kính anh Điền L.,

Xin cám ơn những nhận xét quý báu và lời khen của anh. Vâng, cho dù là có một số từ ngữ bị lạm dụng đến độ nhiều khi gây “phản cảm” cho nhiều người, như những từ “khẩn trương”, “nhất trí”, “bức xúc”, “tranh thủ”, “động viên”, “vụ việc”, v.v…, phải công nhận là có nhiều từ sau này được dùng hay và sáng, như “vùng trời”, “vùng biển” (“không phận”, “hải phận”), “chữ cái” (“mẫu tự”), “đường băng” (“phi đạo”), “tàu sân bay” (“hàng không mẫu hạm”), v.v… Những từ cũ cũng rất hay, nhưng, giờ đây, chúng ta có thêm những từ mới nữa. Như thế, từ ngữ và chữ nghĩa của chúng ta càng phong phú hơn.
Riêng vụ “đá bóng”, “đá banh” [trong "đi xem 'đá bóng' (hay 'đá banh')"] so với “bóng đá” [trong "đi xem 'bóng đá'"], tôi cũng thấy là dùng “bóng đá” thì thống nhất về vấn đề từ pháp hơn (khi ta đã chấp nhận dùng “bóng rổ, bóng chuyền, bóng bàn”).
Xin cám ơn anh, một lần nữa, vì những đóng góp quý báu.
Trân trọng,


Kính anh Lê Hữu,
Tôi mới chợt nhớ ra là, thường, để giới thiệu một ca sĩ ra hát một bài nào đó, trong miền Nam, trước đây, từ hay được dùng nhiều nhất là “trình bày”: “Xin mời quý vị nghe một ca khúc do ca sĩ TT trình bày.”. “Trình diễn” cũng được dùng, nhưng, tôi nghĩ, ở một tần số ít hơn.
Bùi Vĩnh Phúc


#14 Comment By Trinhj – Trung Lap On 10 November 2009 @ 6:39 am

Nhân đọc comment của Ông, có đoạn viết : “….Nói riêng về ngữ pháp dạy trong trường phổ thông hiện nay, nếu tôi không lầm, thì vẫn còn bao gồm cả phép tu từ (nhờ bạn đọc nào ở trong nước xác nhận lại dùm) như trong “văn phạm” của các cụ……”

Tôi xin được xác nhận với tư cách là 1 độc giả trong nước theo yêu cầu của Ông như sau :
Ở trong nước chúng tôi được học rằng : “……Ngôn ngữ gồm ba bộ phận là ngữ âm, từ vựng và ngữ pháp. Trên cơ sở đó, hình thành ba bộ môn ngôn ngữ học khác nhau: ngữ âm học, từ vựng học và ngữ pháp học. Ngữ âm học là bộ môn nghiên cứu mặt âm thanh của ngôn ngữ. Ngữ âm có mặt tự nhiên và mặt xã hội của nó. Mặt tự nhiên của ngữ âm là những thuộc tính về âm học (cao độ, trường độ, âm sắc…) và những thuộc tính về cấu âm (hoạt động của bộ máy hô hấp và chuyển động của các cơ quan phát âm như môi, lưỡi… tạo ra một âm nào đó) của chúng. Mặt xã hội hay chức năng của ngữ âm là những quy định, những giá trị mà cộng đồng người sử dụng chung một ngôn ngữ gán cho các đặc trưng âm thanh. Ngữ âm học nghiên cứu toàn bộ phương tiện ngữ âm trong tất cả những hình thái và chức năng của nó và mối liên hệ giữa hình thức âm thanh và chữ viết của ngôn ngữ. Từ vựng học là bộ môn ngôn ngữ học nghiên cứu các từ và các đơn vị tương đương với từ (cụm từ cố định, thành ngữ, quán ngữ) trong các ngôn ngữ. Nội dung của từ vựng học rất phong phú và đa dạng, do đó đã hình thành một số phân môn như từ nguyên học, ngữ nghĩa học, danh học và từ điển học. Ngữ pháp học là một bộ môn ngôn ngữ học nghiên cứu các hình thức biến đổi từ, các mô hình kết hợp từ và các kiểu câu trong sự trừu tượng hoá khỏi ý nghĩa vật chất cụ thể (ý nghĩa từ vựng) của các từ, cụm từ và câu. Nói cách khác, ngữ pháp học nghiên cứu cách thức và phương tiện cấu tạo từ và câu. Ngữ pháp học bao gồm Từ pháp học và Cú pháp học. Từ pháp học nghiên cứu các phương diện cấu tạo từ. Cú pháp học nghiên cứu các cụm từ và câu. Ngoài ba bộ môn cơ bản (ngữ âm học, từ vựng học, ngữ pháp học) ứng với ba bộ phận cấu thành ngôn ngữ là ngữ âm, từ vựng và ngữ pháp, ngôn ngữ học còn bao gồm một bộ môn nữa có liên quan đến cả ba bộ phận kể trên. Đó là phong cách học. Nhiệm vụ của phong cách học là:
· Nghiên cứu tất cả các phong cách khác nhau, bao gồm cả các phong cách cá nhân lẫn phong cách thể loại · Nghiên cứu các thuộc tính biểu cảm và bình giá của các phương tiện ngôn ngữ khác nhau cả trong hệ thống ngôn ngữ lẫn trong quá trình sử dụng chúng ở những phạm vi giao tiếp khác nhau. ……..”

Về các phép tu từ như Ông đã đề cập, chúng tôi học trong chủ đề Phong cách học tiếng Việt đã nói ở trên.

Tuy nhiên Ông Huỳnh Phan nói đúng ở chỗ, thời bao cấp ở Việt nam (1975 - 1986), ở các trường tiểu và trung học, đại học, sinh viên và học sinh học những phép tu từ, nhưng lúc ấy chưa được xếp riêng trong chủ đề Phong cách học như bây giờ, mà nó nằm rải rác trong phần ngữ pháp tiếng Việt.

Vì vậy theo ý kiến riêng của tôi, từ “Văn phạm” nên được sử dụng như 1 đồng nghĩa của từ “Ngữ pháp”, vấn đề nội hàm của 2 khái niệm đó hay phạm vi đề cập của 2 khái niệm đó tuỳ thuộc vào giáo trình của học giả viết ra nó chứ không phải tự bản thân 2 từ đó định ra những giới hạn.

Đúng là “Phong ba bão táp không bằng ngữ pháp Việt Nam” !

Có lẽ chúng ta đừng nên làm cho vấn đề rắc rối thêm, ngay cả nguồn gốc tiếng Việt cũng có các giả thuyết rất khác nhau …….Ý kiến trước tiên phải kể đến là ý kiến của Taberd (1838): “tiếng Việt chỉ là một nhánh bị thoái hoá của tiếng Hán” , ý kiến thứ hai là những ý kiến xếp tiếng Việt vào họ ngôn ngữ Nam Đảo. Đó là ý kiến của Bình Nguyên Lộc với hai cuốn Nguồn gốc Mã Lai của dân tộc Việt Nam (Sài Gòn, 1972) và Lột trần Việt ngữ (Sài Gòn, 1973), và gần đây là ý kiến của tác giả Hồ Lê (1996), ý kiến thứ ba, đáng chú ý hơn cả, cho rằng tiếng Việt là một ngôn ngữ thuộc họ ngôn ngữ Thái…..

Hiện nay, trong nghiên cứu ngôn ngữ tiếng Việt, đang có quá nhiều quan điểm, trường phái, vậy thì hãy chọn những cái gì được nhiều người đồng ý nhất, phổ biến nhất để giảng dạy trong trường phổ thông cho các em, đừng đưa các quan điểm đang tranh luận ra dạy các em để rồi các em không biết thế nào là… phổ thông.

Tất nhiên có những ngoại lệ như “Phù thuỷ ngôn ngữ Trịnh Công Sơn”, cứ mặc sức làm mây làm gió trong “ca từ”, hoặc có thể đến độ ”Super Sonic” như Hàn Mặc Tử trong thi ca, đi sai cả lề đưòng, sai cả truyền thống như “ngôn tại, ý ngoại” mà vẫn say đắm bao com tim nhân loại !



#15 Comment By Bùi Vĩnh Phúc On 10 November 2009 @ 5:49 pm

Kính anh Huỳnh Phan,
Xin cám ơn những ý kiến của anh. Về chuyện “văn phạm” và “ngữ pháp”, xin được trả lời anh như sau:
Sau tháng Tư, 1975, tôi được “lưu dung” và dạy ở trường NBT (sau đổi lại thành BTX), Saigon. Tôi rời nước vào cuối năm 1977. Tôi dạy Việt văn và Pháp văn trong khoảng thời gian trên hai năm đó. Về Việt văn, tôi nhớ lúc ấy môn Ngữ Pháp chỉ được dạy từ lớp 6 đến hết lớp 9, trong đó đa phần tập trung vào việc học về các từ loại và phân tích câu. Chỉ ở phần cuối sách Ngữ Pháp lớp 9 mới có khoảng hai hay ba bài tiếp nối nhau giảng qua về một số biện pháp tu từ. Tôi nhớ những điều ấy vì môn ngữ pháp dạy theo cách đó (rất hay, phân tích câu theo kiểu phân tích chủ và vị ngữ, cùng với việc xác định các thành phần và vai trò của chúng trong câu) là rất mới đối với đa số các thày cô, đặc biệt là những thày cô tương đối lớn tuổi. Tôi có giúp một số thầy cô soạn giáo án để hướng dẫn học sinh môn đó. Lúc đó, môn ngữ pháp tại trung học phổ thông cho dạy thêm chút ít về các biện pháp tu từ, như tôi đã nói, ở cuối năm lớp Chín. Còn bây giờ, cám ơn anh TTLập đã cho một “sự cập nhật” rất rõ.
Qua Mỹ, sau khi học chuyên môn xong, tôi dạy tiếng Việt và tiếng Anh tại đại học trên 20 năm nay. Các sách dạy Grammar tiếng Anh không có phần dạy các biện pháp tu từ, chỉ dạy những điều như tôi đã có dịp thưa. Chỉ trong phần giảng văn, các thày cô mới tuỳ chỗ đưa kiến thức về cách viết văn ra để hướng dẫn cho sinh viên. Các sách về grammar tiếng Pháp, tiếng Đức, và tiếng Tây-ban-nha mà tôi có cũng chỉ có vậy. Không có phần dạy về tu từ và cách viết văn. Chỉ có những quyển theo dạng English Handbook chẳng hạn thì mới giảng rộng ra nhiều điều không chỉ giới hạn trong phần grammar.
Các sách về ngôn ngữ và ngữ pháp tiếng Việt mà tôi có cũng định nghĩa ngữ pháp gần như cách tôi đã thử trình bày. Xin tạm ghi lại ở đây một số định nghĩa về ngữ pháp trong một vài cuốn:
Hồ Lê: “Đã có một thời gian dài (trước thế kỷ XX), mọi người hiểu “ngữ pháp” là tất cả những phép tắc trong ngôn ngữ, từ những phép tắc về phát âm, ghép âm, phép tắc về chính tả, phép tắc về cấu tạo từ cho đến những phép tắc về đặt câu.
“Grammaire” hoặc “Grammar” vốn từ tiếng Hy Lạp “Grammatike techne” là “nghệ thuật viết đúng”. Người Trung Quốc dịch ra thành “ngữ pháp” chính là theo cái nghĩa nguyên thủy ấy của nó. Ta đã nhập thuật ngữ “ngữ pháp” của tiếng Hán vào những năm 50. Trước đó, từng tồn tại ở tiếng Việt những thuật ngữ như “mẹo”, “văn phạm”, “văn pháp”.
Những thuật ngữ này nay không còn dùng nữa vì nó không tạo ra được sự minh xác trong khái niệm: “mẹo” có ngoại diện quá rộng (…) “Văn phạm”, “văn pháp” gắn với văn thì lại thiên về cách viết, có thể gồm cả cách trình bày một bài văn, cách cấu tạo một bài văn, v.v… Do đó, các nhà ngữ học Việt Nam hiện nay chấp nhận thuật ngữ “ngữ pháp” để chỉ một nội dung như sau: “‘Ngữ pháp’ là tổng hợp các quan hệ giữa những đơn vị có nghĩa trong ngôn ngữ mà từ những quan hệ đó có khả năng tạo ra hoặc những tập hợp mang nghĩa, hoặc những đơn vị có nghĩa lớn hơn.” (Dẫn luận ngôn ngữ học, Nxb của Bộ Giáo Dục và Đào Tạo, 1994)
Nguyễn Kim Thản nói gọn hơn, và rõ hơn: “… xét cho cùng, ngữ pháp là sự tổng hợp các qui tắc tổ chức câu. Theo sự hiểu biết thông thường, ngữ pháp gồm có hai bộ phận: từ pháp và cú pháp. Từ pháp chuyên nghiên cứu các qui tắc biến hình của từ và các đặc tính ngữ pháp của các loại từ, cùng sự cấu tạo của từ. Cú pháp nghiên cứu cách ghép từ thành ra những từ tổ và câu.” (Nghiên cứu Ngữ Pháp Tiếng Việt, Nxb Giáo Dục, 1997)
Bùi Khánh Thế: ” …ngữ pháp [là] một bộ môn của ngôn ngữ học, chuyên nghiên cứu hệ thống biến hoá từ, các mô hình cấu tạo từ, các công thức cấu tạo cụm từ và các kiểu loại câu.” (Nhập môn ngôn ngữ học, Nxb Giáo Dục, 1995)

Về từ “feedback”, xin cám ơn anh đã cho biết về nguồn gốc của nó. Anh đúng rồi. Trước đó, tôi tra gốc, thấy trong một tài liệu ghi: “(Electronics & Computer Science / Telecommunications): the return of part of the sound output by a loudspeaker to the microphone or pick-up so that a high-pitched whistle is produced”. Rồi lại thấy một ví dụ về “feedback” trong một từ điển Oxford: “The feedback from the computer enables us to update the program”. Hai nguồn có từ “computer” đó đã tạo ấn tượng cho tôi là gốc của từ này phát sinh từ lĩnh vực máy tính. Vâng, như chia sẻ của anh, tôi tin là nó khởi nguyên từ ngành điện tử (rồi có thể từ đó áp dụng vào computer); sau đó tiếp tục tràn sang những ngành khác như y, sinh, tâm lý, viễn thông, truyền thông, giao tế, thương mại, v.v… Những từ hoàn ngược, hồi tiếp cũng hay. Và, theo “link” của anh, tôi cũng thấy trong nước dùng cả từ hồi dưỡng, rồi lại có cả bồi dưỡng (trong ngành Hoá học & Vật liệu) nữa. Chưa nói đến liên hệ ngược (dùng chung trong kỹ thuật). Thuật ngữ trong nước hiện nay như vậy là khá phong phú!

Anh Trịnh Trung Lập có những đóng góp, cho biết về một số mặt giáo dục cụ thể trong các ngành chuyên biệt của bộ môn ngôn ngữ; điều ấy, thật quý cho những người ở ngoài nước muốn hiểu biết thêm về vấn đề này.


Xin cám ơn tất cả các anh/chị, một lần nữa, vì những chia sẻ quý báu. Và cũng xin cám ơn các anh chị trong BBT Da Màu đã cố gắng xây dựng một diễn đàn tốt, tạo cơ hội phát biểu, chia sẻ, và cùng học hỏi chung cho tất cả mọi người, trong một tinh thần thân ái và tương kính.

Trân trọng,

Posted by Bùi Vĩnh Phúc on 2 November 2009


----------------------------------
#16 Comment By Lê Hữu On 11 November 2009 @ 8:47 am

Tôi ngẫm nghĩ thấy anh Bùi Vĩnh Phúc nói về “dấu ấn” của thói quen nằm trong cái “khung văn hóa” quả có đúng. Cái “dấu ấn” đậm nét mà thói quen để lại ấy đã hằn sâu thành một nếp nghĩ, khiến những gì đi ra ngoài cái “khung” ấy đều khó mà chấp nhận được .
Đúng là cái dấu ấn thói quen của tôi (và của nhiều người khác nữa) đã không chịu cho cô MC nói “Sau đây là phần biểu diễn của ca sĩ LT trong ca khúc ‘Ngậm ngùi’”. “Biểu diễn”, theo cách hiểu (mang nặng “dấu ấn” thói quen) của tôi, là cho khán giả “xem” chứ không “nghe”, trừ một vài ngoại lệ như: “Michael Jackson biểu diễn ca khúc ‘Thriller’” (khán giả vừa được “nghe” vừa được “xem” chàng ca sĩ hát, kết hợp các bước nhảy đẹp mắt).
Đúng là cần phải thật thoáng, cần phải cởi mở đầu óc, cần phải điều chỉnh nếp nghĩ (hay “đổi mới tư duy”) từ cái “khung văn hóa” cũ kỹ nào đó, mới mong hiểu thấu đáo và hội nhập ngôn ngữ.
Tôi cũng thích từ “thể hiện” (một ca khúc) thưa anh, như là một sự trình bày mang “tính nghệ thuật”.
Vâng, đúng là người miền Nam ngày trước nói “trình bày một nhạc phẩm” hơn là “trình diễn một ca khúc” (những từ “trình diễn” và “ca khúc” chỉ mới thông dụng về sau này).
Tôi cũng nhất trí với anh Huỳnh Phan, ngôn ngữ là “sống”, là “động”, là biến đổi không ngừng như một dòng chảy róc rách, chứ không chịu đứng yên một chỗ, “tĩnh” lặng như mặt nước ao tù.
Các phân tích, dẫn giải cặn kẽ về từ ngữ, cũng như bài viết lý thú của anh Bùi Vĩnh Phúc, đã tạo niềm hứng khởi cho những ai muốn tìm biết và “đào sâu” thêm về chữ nghĩa tiếng Việt.
Trân trọng.

#17 Comment By Huỳnh Phan On 12 November 2009 @ 6:16 pm


@Ông Trịnh – Trung Lập: đúng là tôi đã nhớ nhầm thời kì sau 1975 nhưng trước CCGD. Khi CCGD tiến lên các lớp đầu bậc trung học, học sinh được dạy các phép tu từ riêng trong môn Phong cách học như ông đã trình bày. Xin cám ơn về đính chính này.

@Ông Bùi Vĩnh Phúc: Xin nói thêm một tí về từ “ngữ pháp”. Đồng ý với tác giả là hiện nay nhiều sách vẫn còn định nghĩa ngữ pháp theo quan điểm truyền thống (chỉ gồm từ pháp và cú pháp). Tôi viết phản hồi trước, trong mối liên hệ với bài của anh LH (phân biệt với “văn phạm”), và tôi hiểu “ngữ pháp” theo ý nghĩa khái quát hơn (chẳng hạn như trong Wikipedia: “Grammar is the study of the rules governing the use of a language”) và hơn nữa hoạt động ngôn ngữ của con người không chỉ thực hiện ở cấp độ từ và câu (dù có thể là chủ yếu) mà còn ở cấp độ nhỏ hơn như hình vị hay âm vị (như trong thi ca chẳng hạn) và cả ở cấp độ lớn hơn như văn bản/diễn ngôn. Vì thế, tôi đã cho rằng những ngành như âm vị học, hình thái học, ngữ pháp văn bản, phong cách học, ngữ pháp chức năng, ngữ pháp lời… cũng đều thuộc… ngữ pháp (và chắc chắn có không ít nội dung trong những ngành này chưa available thời “các cụ”). Tôi viết ngữ pháp hiện đại có nội hàm rộng hơn và sâu hơn trong ý nghĩa đó. Tôi cho rằng giới học thuật “phe kia” sử dụng từ “ngữ pháp” (thay vì từ “văn phạm”) có lẽ vì thấy nó phản ánh tốt hơn nội hàm của ngành nghiên cứu này.
Tôi nhất trí với anh Lê Hữu là phân tích về “dấu ấn” của “khung văn hoá” (và cả ngữ nghĩa nữa) của các từ “biểu/trình diễn” của tác giả là rất thoả đáng. Trong tiếng Anh, cũng có những ví dụ tương tự, chẳng hạn như các cặp từ friend/mate, bathroom/toilet… (ở Úc nói mate, toilet… là chuyện thường nhưng sang các nước nói tiếng Anh khác thì ít ra cũng có thể bị một cái nhíu mày….)


#18 Comment By Bùi Vĩnh Phúc On 14 November 2009 @ 4:26 pm

Kính anh Huỳnh Phan,


Xin cám ơn những chia sẻ và suy nghĩ của anh. Nhân tiện, tôi cũng xin được góp thêm một vài điều nhỏ về những ý kiến đó, cho dù, trên căn bản, tôi đồng tình với nhiều ý kiến anh trình bày.


Trong văn cảnh của cuộc thảo luận, cả trong bài của anh Lê Hữu lẫn bài của tôi, tôi nghĩ chúng ta đã nói về sự thay đổi/khác biệt của trong và ngoài, của thời tiền-1975 và thời sau đó, của hai từ “văn phạm” và “ngữ pháp”, trong cái nhìn quy chiếu ngầm vào việc giảng dạy cụ thể môn học này cả ở trong lẫn ngoài nước, cũng như trong nhiều ngôn ngữ khác nhau. Nói chung là trong cái nhìn của ngữ pháp truyền thống, phần lớn được coi là gắn với ngữ pháp biến-tạo (transformational-generative grammar) của Chomsky. [Trong bài, tôi viết là: "Với sự tiến bộ và phát triển của ngành ngữ học nhiều thập niên qua, kéo theo nó là sự phân ngành, chuyên biệt hoá trong các ngành, dạy "ngữ pháp" bây giờ, nói chung, trong sự hiểu biết của tôi, là dạy về các quy tắc căn bản của ngôn ngữ như đã nói", là "sự giới hạn việc giảng dạy (…) vào những khuôn phép, quy tắc ‘đặt câu, hành từ, vào việc học biết về các từ loại và cách thức sử dụng chúng trong câu mà thôi’ .]


Wikipedia định nghĩa “ngữ pháp” như sau: ” In linguistics, grammar is the set of logical and structural rules that govern the composition of sentences, phrases, and words in any given natural language. The term refers also to the study of such rules, and this field includes morphology and syntax, often complemented by phonetics, phonology, semantics, and pragmatics.” ( http://en.wikipedia.org/wiki/Grammar ). Như thế, cũng giống như trong những định nghĩa trong những sách tiếng Việt mà tôi đã trình bày lần trước, “Ngữ pháp” gắn với việc trình bày những luật tắc mang tính cơ cấu và hợp lý, khuôn định cách tạo từ, cụm từ và câu. Nó bao gồm “Hình thái học” (“Morphology”, thường cũng được gọi là “Từ pháp học”) và “Cú pháp học” (“Syntax”). Còn việc nghiên cứu, khảo sát về ngôn ngữ nói chung, trên căn bản, được thực hiện qua ba ngành “Ngữ âm-âm vị học”, “Từ vựng-ngữ nghĩa học”, và “Ngữ pháp học”, chưa kể đến một số ngành liên hệ khác. Những ngành này có liên hệ hữu cơ với và có thể bổ sung cho (nhưng không thống thuộc) ngành “ngữ pháp học”


Anh viết “hoạt động ngôn ngữ của con người không chỉ thực hiện ở cấp độ từ và câu (dù có thể là chủ yếu) mà còn ở cấp độ nhỏ hơn như hình vị hay âm vị (như trong thi ca chẳng hạn) và cả ở cấp độ lớn hơn như văn bản/diễn ngôn. Vì thế, tôi đã cho rằng những ngành như âm vị học, hình thái học, ngữ pháp văn bản, phong cách học, ngữ pháp chức năng, ngữ pháp lời… cũng đều thuộc… ngữ pháp (…)”. Tôi hoàn toàn đồng ý với anh ở câu thứ nhất. Nhưng khái niệm về “hình vị” đã được trình bày và nghiên cứu trong phần “hình thái học” (“từ pháp học”), tức là đã nằm sẵn trong “ngữ pháp truyền thống”. Còn “âm vị” thì được khảo sát trong ngành “âm vị học” (“Âm vị” chỉ có giá trị ngữ âm, không có giá trị ngữ pháp). Hoạt động ngôn ngữ của con người là một hoạt động phức tạp, và, chính vì thế, ngôn ngữ học không chỉ khảo sát “ngữ pháp”, mà còn tìm hiểu về mặt “ngữ âm-âm vị” và “từ vựng-ngữ nghĩa”. Liên hệ đến những ngành trên, có nhiều ngành học khác như “Phong cách học” (“Stylistics”) ["Tu từ học" nằm trong này (từ từ Rhetorike của Hy Lạp), còn được gọi là "Diễn từ học" / "Từ chương học"], “Ngữ dụng học”/”Dụng pháp học” (“Pragmatics”), và, thậm chí, “Thi pháp học” (“Poetics”), v.v… Với ý kiến trong câu thứ hai của anh, tôi e rằng, như thế, nội hàm của môn “Ngữ pháp học” được mở hơi rộng [bao gồm luôn cả "âm vị học" và "phong cách học"; còn "hình thái học" (bao gồm khái niệm về "hình vị") thì đã nằm sẵn trong môn "ngữ pháp" (truyền thống) như tôi đã trình bày ở trên rồi.] Nếu thay vì nói các ngành học trên cũng thuộc/nằm trong “ngữ pháp”, ta nói rằng các ngành học trên có liên hệ hữu cơ, chặt chẽ với môn học về ngữ pháp, có lẽ sẽ hợp lý hơn chăng?


Anh có nhắc đến “ngữ pháp văn bản”, “ngữ pháp chức năng”, và “ngữ pháp lời” (và đều muốn gộp chúng vào trong môn/ngành/khái niệm “ngữ pháp”). Những chia sẻ của anh thật quý, có khả năng mở rộng sự thảo luận của chúng ta về đề tài “ngữ pháp”. Đúng là có khuynh hướng muốn đưa “Ngữ pháp văn bản” (“Text grammar”) vào dạy chung trong môn “Ngữ pháp” (truyền thống) để khảo sát các văn bản, diễn ngôn. Dù sao, nỗ lực “đưa vào” này chưa thành công, chưa đạt được sự phổ dụng. Còn “Ngữ pháp chức năng” (“Functional grammar”) thì dĩ nhiên là “ngữ pháp” rồi. Nhưng đây lại thuộc một phạm trù khác. Phạm trù của các lý thuyết, phương pháp, quan điểm, khuynh hướng khảo sát, nghiên cứu ngữ pháp khác nhau. Tôi nghĩ “Ngữ pháp chức năng” không thuộc [môn/ngành/khái niệm] “ngữ pháp”, mà nó là “ngữ pháp”, với phần căn bản là sự khảo sát câu dựa trên khung đề-thuyết, chứ không phải trên khung chủ-vị. Nó là một quan điểm nghiên cứu ngữ pháp khác, trong thế đối sánh với quan điểm nghiên cứu của “ngữ pháp biến-tạo” chẳng hạn. “Ngữ pháp lời” (“Grammar of Speech”) cũng thế. Có thể coi nó là một loại “ngữ pháp” bắt nguồn từ “Ngữ pháp chức năng”.


Vài suy nghĩ góp thêm với anh. Xin cám ơn anh lần nữa về những chia sẻ quý báu.


Trân trọng,


Bùi Vĩnh Phúc

#19 Comment By Huỳnh Phan On 18 November 2009 @ 6:54 pm


Kính tác giả Bùi Vĩnh Phúc,
Cám ơn tác giả đã đọc và trả lời cặn kẽ, chi tiết vể khái niêm ngữ pháp theo quan điểm của phần đông các nhà chuyên môn. Xin được phép nói thêm lần nữa về điều này. Trước nhất có mấy điều sau đây mà tôi nghĩ đã ảnh hưởng đến suy nghĩ của tôi khi tôi viết “văng mạng “ như trong phản hồi trước:
- tôi vốn là kẻ “ngoại đạo” nên đã chỉ dùng các hiểu biết phổ thông về ngôn ngữ của mình cùng cách gộp nghĩa riêng của hai từ đơn trong từ “ngữ pháp” để hiểu nó, và cũng có thể bị “méo mó nghề nghiệp” kiểu như “đại số sơ cấp”, “đại số cao cấp”, “đại số tuyến tính”, “đại số đồng điều”… đều là… đại số (chỉ phân biệt để tiện nghiên cứu, học tập…).
- nội dung các sách ngữ pháp tiếng Việt “mới” mà tôi có dịp biết qua có nhiều điều “mới lạ” so với cái tôi đã học.
- sự kiện “ngữ pháp văn bản” đã được đưa vào chương trình học phổ thông trong nước vào khoảng đầu những năm 1990 (dù tôi không rõ những người chủ trương có coi “ngữ pháp văn bản” là “ngữ pháp” hay không ).
Ngoài ra, khi viết PH trước tôi cũng có tham khảo mốt vài nguồn tài liệu và “cảm thấy” có một số nguồn có quan điềm có vẻ gần với mình. Tôi đã trích dẫn một trường hợp mà cho tôi cho là dễ chấp nhận và dễ tìm. Rất tiếc tôi chỉ ghi nguồn trích dẫn (Wikipedia) nhưng sơ sót không ghi thêm link và cũng không cẩn thận kiểm lại nên khi đọc PH của tác giả tôi khá bất ngờ về sự khác biệt. Tôi đã thử tìm lại trong phần history ỏ Wikipedia thì thấy rằng câu trích dẫn của tôi thuộc phiên bản đã có ít ra từ năm 2003, còn câu trích dẫn của tác giả trong phiên bản hiện nay. Tôi cũng đã thử google với câu trích dẫn trong ngoặc kép thì được 48 900 kết quả và nếu google câu trích cùng với chữ Wikipedia thì được 15 400 kết quả (tôi chắc hẵn đã dùng 1 trong số 15 400 nguồn cấp hai này). Tôi không biết nguồn nào là gốc trong số 33 500 nguồn còn lại, có thể nguồn từ Wikipedia phiên bản cũ cũng thuộc loại cấp hai thôi. Nhân tiện tôi cũng thử tìm định nghĩa của “ngữ pháp” từ nhiều nguồn khác thì đúng là phần lớn có quan điểm gần với tác giả hơn. Tuy vậy, cũng có một số nguồn có định nghĩa gần giống với câu tôi đã trích dẫn, chẳng hạn:
- nguồn wiktionary: cũng của Wikipedia: ” A system of rules and principles for speaking and writing a language….”
- nguồn Centre National des Resources Textuelles et Lexicales :“ensemble de règles conventionnelles (variables suivant les époques) qui déterminent un emploi correct (ou bon usage) de la langue parlée et de la langue écrite…”
- nguồn từ đại từ điển thuật ngữ Québec Canada
“Science qui a pour objet l’étude des règles d’usage d’une langue
Note(s) :La notion de « grammaire » varie selon les théories linguistiques. Pour certains auteurs, la grammaire est la description complète de la langue, qui regroupe notamment la phonétique, l’orthographe, la morphologie et la syntaxe. Pour d’autres, elle ne décrit que la morphologie et la syntaxe.”
- nguồn từ điển bách khoa StateMaster “Grammar is the study of the rules governing the use of a given natural language, and, as such, is a field of linguistics. Traditionally, grammar included morphology and syntax; in modern linguistics these subfields are complemented by phonetics, phonology, semantics, and pragmatics.” Nguồn này trình bày khá giống với Wikipedia nhưng theo tôi, cách viết rạch ròi hơn khiến người đọc không thể lầm lẫn là ngoài 2 ngành con truyền thống là hình thái học và cú pháp, ngữ pháp hiện đại có thêm các ngành con như ngữ âm,âm vị, ngữ nghĩa và ngữ dụng học.
- nguồn tự điển bách khoa Larousse “Ensemble des règles qui président à la correction, à la norme de la langue écrite ou parlée… Phần giải thích thêm ngôn ngữ học ở đây và bài viết đóng góp của Claudine Day (enseignant-chercheur) có lẽ quan điểm cũng không khác lắm với nguồn StateMaster và hình như cũng “thoáng” hơn quan điểm của số đông…
Cũng qua tìm tòi trên mạng tôi gặp được bài viết đáng để ý Grammar: defying definition beyond two millennia của Hoffman, Melvin J.(Jun 22, 2005 Academic Exchange Quarterly) có tóm tắt như sau:
“No consensus has been reached regarding the definition of grammar since the term came into existence more than two millennia ago. The article illustrates how terminology has developed, changed and always presented problems from ancient times to the present. Problems have included both its definition and what to call its practitioners regardless of the definition of grammar. Consequently, grammar is a problem term when discussing it, reading about it, or teaching it. Definitions and approaches are presented and discussed, particularly the author’s classroom use.”
Như vây, sự khác biệt về cái nhìn của chúng ta có lẽ cũng nằm trong cái chung này.Thật ra, đây chỉ là một nôi dung bàn thêm khi thào luận về việc sử dụng 2 từ “ngữ pháp” và “văn phạm” từ bài viết của anh Lê Hữu. Và theo tôi, về điều này có lẽ chúng ta đã có được thống nhất là nếu dùng tiêu chí ngữ nghĩa thì từ “ngữ pháp” có vẻ đạt hơn, còn nếu theo tiêu chí thói quen và tính võ đoán của ngôn ngữ thì dùng từ “văn phạm” hay “ngữ pháp” đều “That’s OK, no problem.”
Xin lỗi đã hơi bị… dài dòng và chi tiết trong trao đổi lần này.
Trân trọng.






























#20 Comment By Bùi Vĩnh Phúc On 20 November 2009 @ 12:16 am

11/19/09

Kính anh Huỳnh Phan,

Đọc “phản hồi” của anh rất thú. Qua phản hồi, tôi thấy rằng anh là người thích thảo luận, chia sẻ và tìm tòi, trong tinh thần thiện chí, để cùng đi tìm “sự thật”. Anh bảo mình là một người “ngoại đạo”. Nhưng được chia sẻ, thảo luận với một người “ngoại đạo”, mà vẫn cố gắng đi tìm cái “đạo”, như anh, một cách đầy thiện chí, thì đó là một điều, nói như Kim Thánh Thán, “chẳng cũng khoái ư!” Để, từ đó, thấy rằng, chẳng có ai mong đạt được “sự thật” mà không đã từng là một kẻ đứng bên ngoài. Thật sự, tất cả chúng ta, những người cầu học, đều là những kẻ đang đi trên đường, đều là những kẻ “ngoại đạo”, hiểu theo một nghĩa nào đó. Rồi, từ sự tìm hiểu, chúng ta dần dần tiếp cận được gần hơn cái “lý” của sự vật , sự việc. Người còn đang đi trên đường luôn là người hạnh phúc, phải không anh?

Lần trước, tôi cũng có một sơ ý khi viết: “(… việc giảng dạy cụ thể môn học này cả ở trong lẫn ngoài nước, cũng như trong nhiều ngôn ngữ khác nhau.) Nói chung là trong cái nhìn của ngữ pháp truyền thống, phần lớn được coi là gắn với ngữ pháp biến-tạo (transformational-generative grammar) của Chomsky.” Ngay sau khi gửi phản hồi đi, tôi thấy là đáng lẽ tôi nên viết rõ hơn, hay nên cho vào ngoặc kép cụm “ngữ pháp truyền thống”, sợ có người hiểu không đúng ý mình. ”Ngữ pháp truyền thống”, mà tôi viết ở đây, chỉ là trong cái nhìn quy chiếu, đối sánh với các “loại ngữ pháp” được phát triển sau này, như “ngữ pháp văn bản”, “ngữ pháp chức năng”, “ngữ pháp lời”, v.v… Chứ so với “ngữ pháp truyền thống” thật sự, theo cái nghĩa chặt chẽ của khái niệm, thì nó lại là hiện đại.

Thật sự thì việc dạy về ngữ pháp, nói chung, bây giờ, cả ở Việt Nam (tiếng Việt), cũng như ở Mỹ (tiếng Anh), đều có sự pha trộn giữa hai “truyền thống”: vừa “truyền thống” vừa “hiện đại”, cho dù, thường là các quan điểm của ngữ pháp hiện đại được chú ý nhấn mạnh hơn (một tác giả đã cho rằng “All grammar is traditional”, có nghĩa là không có gì “khác biệt” giữa “traditional grammar” và “modern grammars” cả). Ở trong nước, sau 1975, thời tôi còn ở Việt Nam, Ngữ pháp được dạy tại trung học từ lớp Sáu đến hết lớp Chín. Nếu tôi nhớ không nhầm, chương trình từ khoảng giữa lớp Bảy cho đến gần hết lớp Chín là tập trung vào việc học về các dạng câu/các dạng cụm từ (đoản ngữ), cùng là học cách phân tích câu. Một câu như “Các học sinh ngoan không nói chuyện trong lớp.”, sẽ được phân tích thành: “Các học sinh ngoan”: Chủ ngữ (CN); “không nói chuyện trong lớp”: Vị ngữ (VN). Trong phần CN, “học sinh”, một danh từ, một từ khoá (key word) trong danh ngữ (noun phrase) “Các học sinh ngoan”, đứng làm chủ từ trong CN đó; những từ “các” và “ngoan” đứng làm bổ từ cho “học sinh”. Trong phần VN, “nói chuyện” là động từ, còn “không”, một trạng từ phủ định, đứng làm bổ từ cho “nói chuyện”; “trong” là giới từ, “lớp” là danh từ bổ túc cho “trong” (object of the preposition); và “trong lớp” là một “giới ngữ” (prepositional phrase) đứng làm trạng từ, cũng bổ nghĩa cho “nói chuyện”. [Nguyên cụm "nói chuyện trong lớp" cũng được xem là một "động ngữ" (verb phrase) đứng làm vai trò vị ngữ]. Cách phân tích như thế là theo kiểu phân tích “Phrase Structure” (Cấu trúc câu—chia câu (S) ra làm NP và VP, rồi từ đó tiếp tục phân tích mỗi thành phần ra thành những thành tố nhỏ hơn nữa) của ngữ pháp tạo sinh (generative grammar), theo truyền thống Chomsky. Từ lúc khởi đầu vào cuối thập niên ’50 đến nay, loại ngữ pháp này cũng đã “già” hơn nửa thế kỷ rồi. Cũng đã “truyền thống” lắm rồi!

Nói chuyện ngôn ngữ, ngữ pháp… thì có thể nói mãi, nói hoài mà vẫn thú, vẫn có những điều có thể cùng nhau chia sẻ. Xin cám ơn các ý kiến và sự tìm hiểu để chia sẻ của anh Huỳnh Phan. Và cũng xin cám ơn tất cả những ý kiến và chia sẻ khác của tất cả các anh chị độc giả. Trong thảo luận, với thiện chí tìm hiểu, chia sẻ và học hỏi, và với sự tương kính, tất cả chúng ta đều có lợi và có được niềm vui từ chính sự sẻ chia, tìm hiểu đó, cũng như từ chính sự tiếp nhận những chia sẻ của người khác.

Trân trọng,

Bùi Vĩnh Phúc






Article printed from Tạp chí Da Màu – Văn Chương Không Biên Giới: http://damau.org

URL to article: http://damau.org/archives/9781

Click here to print.

© 2008 damau.org - Damau Literary Portal. All rights reserved.

Bùi Vĩnh Phúc - Mấy Tưởng Khúc với/về Phạm Công Thiện

Mấy Tưởng Khúc với/về Phạm Công Thiện
By Bùi Vĩnh Phúc On 14 March 2011













Phạm Công Thiện đã ra đi. Tôi muốn ghi lại ở đây một chút kỷ niệm và gắn bó mà chúng tôi, ở một giai đoạn nào đó, trong đời, đã có với nhau. Những kỷ niệm có thể đơn sơ, nhưng vẫn là những ngọn lửa cháy. Mềm mại đỏ. Và bền bỉ.

Có những chữ vừa viết xong, sau khi biết anh đã lên đường. Có những chữ đã viết, đã chia sẻ với nhau từ thật nhiều năm trước. Tôi gom lại ở đây, như những tưởng khúc, gửi cho chàng tuổi trẻ, một-chàng-tuổi-trẻ-muôn- đời trong trái tim thơ mộng của mình, như một chút chia sẻ cho cuộc lên đường đi theo những bè mây trắng của chàng, hôm nay.

Xin giã biệt.

BVP

(10 tháng III, 2011)




. I .



Phạm Công Thiện thân mến,

Anh lại vừa lên đường rồi, phải không? Lại làm một màn somnambule ballad mà anh từng thách tôi dịch ra tiếng Việt theo thể điệu của Federico García Lorca. Và tôi đã dịch cái tựa đề này thành "Rong khúc mộng du". Bây giở thì chính anh lại đang thực hiện một cuộc đi chơi rong đầy tính cách mộng mị như vậy!

Nhớ những lần chúng ta cùng nhau đi thư viện mượn sách về đọc. Cả hai khệ nệ bê hai chồng sách cao nghệu ra xe, ngất ngưởng đi bộ trên con đường có cỏ mọc um tùm hai bên. Và cũng có mấy con bướm non thơ thẩn tung cánh trên cỏ hoa nữa. Y hệt như chúng mình. Nhưng chúng có thể khôn hơn bọn ta. Chúng đi tìm hoa chứ không đi lục sách như anh và tôi. Không biết chúng nó có thật là "những con bướm non" không? Thôi, hãy cứ nghĩ như thế cho đời có thêm chút thơ và mộng. Thì chúng ta lúc đó cũng đâu còn "non" gì nữa. Thậm chí chúng ta còn hay đùa và gọi nhau là "cụ". (Thoáng cái thế mà đã trên đưới 20 năm rồi!) Nhưng hạnh phúc của mình khi ôm đống sách ấy ra khỏi thư viện thì hẳn là vẫn đầy chất thơ dại. Lòng chúng ta lúc ấy không hề vướng… mùi tục lụy của trần gian, phải không? Buổi chiều ấy nắng vàng như son, sơn phết mềm mại trên những bờ tường thành phố, lên trên những lá cây, vỏ cây, thân cây, lên trên cả những mái nhà đen đủi cổ lỗ bám đầy rêu lục. Và lên cả những trái tim chứa đầy những nỗi niềm thơ mộng thiết tha.

Và rồi mặt trời hôm ấy đã rớt trên hồ nước sóng sánh hơi thu trước mặt anh và tôi ở Newport Beach. A, Le soleil cou coupé.* Anh nói, nhớ lại một câu thơ loang máu hiện đại của Apollinaire. Một câu thơ tàn bạo trong hình ảnh và ấn tượng, và xuất sắc trong diễn tả tâm trạng. Còn tôi thì nói, đó là một thứ "L’Isolé Soleil" ** của Daniel Maximin mang đầy âm điệu jazz ngẫu hứng. Cái tên tiểu thuyết này, "L’Isolé Soleil" cũng tạo một hiệu ứng âm học thật đặc biệt: những âm [l] chòng chành, lung linh sóng sánh, bọc lấy những âm [z] (trong "L’Isolé" ) và [s] (trong "Soleil" ). Nó tạo nên một ấn tượng rung, một hình ảnh nhảy múa sóng sánh của mặt trời. Cuốn sách chứa đựng bi kịch, huyền thoại, lịch sử, chính trị, v.v… của các đảo xứ vùng West Indies. Nhưng, trên hết, đó là âm nhạc. Mặt trời kia, nó đang sóng sánh trên dòng nước đỏ. Đó chính là một sự điên dại dịu dàng. Và chúng ta cùng cười phá lên vì những liên tưởng đầy chất man dại của mình.

Mây vẫn đang bay ngỗ ngược trên trời. Và chim, quá nhiều chim, cũng còn bay xao xác trong mầu chiều hồng thẫm.

Tôi vẫn nhớ có những năm, vào ngày đầu năm mới, từ những chốn xa xôi nào, anh đã gọi điện cho tôi để nói những lời thăm hỏi đầu năm. Cám ơn anh. Chỉ là mấy lời thăm hỏi. Anh không nói gì về những quyển sách cũ của mình. Anh chỉ nói bây giờ tôi là một người làm vườn. Tưới nước, bắt sâu, và chơi với hoa lá. Dù sao, anh lừa tôi sao được! Tôi biết anh yêu cuộc sống mới của mình, anh yêu cả sâu bọ, vườn tược và lá hoa. Nhưng tôi cũng biết là anh vẫn còn thiết tha với những cơn mộng cũ. Lửa than vẫn còn đó, ngun ngún đỏ dưới những tàn tro kia.

Bây giờ, anh lại lên đường một lần nữa. Thật như vậy sao? Tôi nhớ những quyển sách anh tặng tôi. Những quyển sách mà anh đã viết trong những cơn điên dại thơ mộng của mình. Hay đó lại chính là những lúc anh sáng suốt và hạnh phúc nhất. Những quyển sách mà anh đã đưa tận tay cho tôi với chữ ký tặng còn tươi mới, hay những quyển sách được anh gửi đến tận nhà từ những địa chỉ xa xôi. Có những quyển mới viết sau này, nhưng cũng có những quyển cũ đã viết từ những ngày xưa. Dù sao, tôi vẫn thường để chung chúng lại với nhau để, lâu lâu, lấy ra một quyển nào đó, và đọc lại đôi chỗ. Nhất là những quyển sách cũ. Để nhớ lại những ngày hoang tàn lửa khói. Và cũng để nhớ lại dịu dàng những mây gió trong đời.

Mây gió đã chảy qua đời ta, và khói lửa đã đốt sạch hết rồi những ngày tháng cũ. Cháy và Chảy, phải không? Cháy và Chảy đi tất cả những mộng mị, những thiết tha, những điên cuồng, những thơ dại của biết bao ngày tháng cũ. Cháy và Chảy đi tất cả những cánh chim và những bóng mây, những bông hoa thơ dại và những con bướm trắng, những bình minh vụt nở và những đêm tối lụi tàn. Cháy và Chảy đi đôi mắt lấp lóa nhìn đời để thấy đời sống chỉ là những gì nằm trong một chiếc kính vạn hoa vĩ đại. Và Cháy và Chảy đi trái tim lúc nào cũng ngun ngún những ngọn lửa say đời.

Bây giờ, tất cả sẽ chỉ là một chút tịch mịch hồng còn sót lại.

Hãy lên đường, Phạm Công Thiện, như anh vẫn thường muốn ra đi như thế. Rồi chúng ta, mọi người và mỗi người, tất cả chúng ta đều sẽ có lúc phải nói với nhau những lời chia biệt. Nhưng chia biệt cũng chính là để gặp gỡ lại một ngày.

Bạn ơi,

Hãy lên đường với nụ cười hồn nhiên.

Và hãy nhớ mang theo với mình một chùm mây trắng.

bvp

* "Mặt trời bị cắt cổ": câu cuối trong bài Zone của Apollinaire.

** "Mặt trời đơn độc" (bản dịch tiếng Anh là Lone Sun) của Daniel Maximin, một nhà thơ, một tác giả tiểu thuyết và một tiểu luận gia, sinh tại Saint-Claude, Guadeloupe, vào năm 1947. Cùng gia đình di cư sang Pháp, học ở Sorbonne. Từ 1980 đến 1989 làm chủ biên văn học tạp chí Présence Africaine. Trở về Guadeloupe vào năm 1989, làm Giám Đốc Vùng về Văn hóa, và được phong tước hiệp sĩ Légion d’honneur vào năm 1993.





. II .



Bài bên dưới được viết cách đây 22 năm. Phạm Công Thiện lúc đó còn đang ở tại thành phố Garden Grove, thuộc Nam California của nước Mỹ. Garden Grove, mà ông ví von giống như cái cái holy grove linh hiện ở làng Colonus, quê hương của thiên tài Hy Lạp Sophocles, "cái grove linh hiện, linh địa, nơi ông vua mù mắt ăn mày Oedipus được thần linh phù trợ tiếp dẫn đưa đi mất, không dấu vết, lìa bỏ cõi đời hiu quạnh." Biệt xứ và sang sống tại Pháp, từ đó cho đến khi làm cuộc ra đi vĩnh viễn, Phạm Công Thiện đã liên tục xê dịch và sống tại nhiều nơi trên thế giới, đặc biệt ở Úc và Mỹ. Là một người không bao giờ lái xe, không bắt điện thoại, không dùng computer, và, dĩ nhiên, không sử dụng e-mail, trước khi mất, ông sống tại một tiểu bang ở nước Mỹ, hạnh phúc với việc làm vườn và đọc sách. Một thế sống cách ly với “xã hội văn minh” của loài người như thế làm cho ta nghĩ đến trường hợp của J. D. Salinger, tác giả của The Catcher in The Rye (Bắt trẻ đồng xanh).



Yeachin Tsai, Splash Ink Landscape (Mực Tóe (thành) Phong Cảnh)

Khi viết bài dưới đây lúc 22 năm trước, cũng như bây giờ, tôi nhớ lại những lần Phạm Công Thiện và tôi ngồi nói chuyện văn chương với nhau, những lần đi chơi chung, nhất là lần Phạm Công Thiện, Nguyễn Trọng Khôi (hoạ sĩ) và tôi ngồi trong một quán cà phê lúc gần hai giờ khuya cùng ca hát hạnh phúc. Quán gần như chỉ còn có ba chúng tôi. Nguyễn Trọng Khôi vừa đàn vừa hát. Anh hát thật hay và có thể lực. Anh hát Trịnh Công Sơn, như đã có những lần anh cùng đi hát với Trịnh Công Sơn như thế, “Lòng ta có khi tựa như vắng ai. Nhiều khi đã vui cười, nhiều khi đứng riêng ngoài. Nhiều đêm muốn đi về con phố xa. Nhiều đêm muốn quay về xoè diêm đốt mái nhà” (chữ nghiêng là do Nguyễn Trọng Khôi tự sửa ca từ của Trịnh Công Sơn: “Nhiều đêm muốn quay về ngồi yên dưới mái nhà”). Phạm Công Thiện thì lâu lâu hứng chí chỉ “hực lên” một vài câu, của một vài bài nào đó, theo cái kiểu của riêng ông… Bài này đã được viết trong những hồi tưởng đáng yêu đó. Về bạn bè. Nó cũng được viết với một số hồi ức thật đẹp mà tôi còn giữ được về tuổi trẻ của mình những ngày còn sống hạnh phúc và thiết tha tại Việt Nam. Khi viết Ði cho hết một đêm hoang vu trên mặt đất, Phạm Công Thiện ở vào tuổi 47. Khi viết bài dưới đây về Phạm Công Thiện và quyển sách này của ông, tôi cũng chỉ mới 36. Rất nhiều nước đã trôi dưới chân cầu và rất nhiều đám mây đã trôi qua đời ta. Khi bài này được đăng lần đầu trên tạp chí Văn Học ở Mỹ, Phạm Công Thiện đọc được và nói với tôi theo giọng của ông, “Bài này là một thứ fire for fire”. Rồi ông dịch luôn, “lửa đáp lửa”. Và ông bảo đây là bài viết của “một thi sĩ viết cho một thi sĩ” (sic). Nhiều năm sau gặp lại, ông vẫn nói là bài viết này đã giúp ông hiểu chính mình hơn. Ðó là lối nói rất đáng yêu của tác giả Ý thức mới trong văn nghệ và triết học.

Tôi cho đăng lại bài này như một lời tưởng niệm Phạm Công Thiện và như một sự chia sẻ với độc giả khắp nơi về sự ra đi của nhà thơ. Tôi xin cám ơn các độc giả nếu, trong sự rộng lượng của mình, quý vị cũng đồng ý với Phạm Công Thiện cho phép tôi được làm “thi sĩ” chứ không phải làm một nhà phê bình trong bài viết này. Cho dù, ở một số góc cạnh nào đó, bài viết này cũng không đi ra khỏi cái nhìn phê bình của nó.



. III .




Ðêm và ngày, và Phạm Công Thiện, và bốn mươi bảy năm trôi qua trên mặt đất
(Ðọc và nhìn lại Phạm Công Thiện qua "Ði cho hết một đêm hoang vu trên mặt đất")


1.

Trước hết là màu đen. Màu đen của khu vườn đêm trĩu những hoa và trái kỳ lạ. Hương thơm của chúng chín như mật ong làm choáng những bước chân. Những bước chân thả hoang vào thiên điạ đắm hoang mang. Ði. Ði như một con tàu say. Con tàu hụ vào đêm sương những bước đi chuếnh choáng của giông gió cuộc đời. Ði. Ði hút vào đêm đen theo một tiếng gọi kỳ lạ như Céline đã đi. Voyage au bout de la nuit. Ði vào một mùa Xuân đen, một printemps noir (black spring) tàn bạo và ngây ngất thần trí như Henry Miller. Ði cho rách những đêm hoang, những đêm hoang rách rưới nhưng thơ mộng như những bài thơ rách nát rút ra từ đời sống. Những bài thơ như những cánh chim thả vào đêm tối những hải đảo hoang vu của Xuân Hạ Thu Ðông. Những cánh chim bỗng lóe hồng theo một dòng mặt trời vừa mọc. Ánh sáng đã ra đời.

Cánh cửa sổ dựng đứng một cây cam, trái vàng cây, trái đỏ lá (…) Một người đang ngồi viết. Ánh sáng California đang tưới qua trang giấy trắng. Trang giấy trắng nằm trên cái bàn viết; cái bàn viết đứng bốn chân trước mặt cửa sổ có một cây cam say gió mai, sai quả nặng trĩu như ngày hôm nay thơ mộng đầy phù chú hiển hiện từ trời cao đổ giộc trút xuống gian phòng… (trang 13), một gian phòng có cây cam sai trái mọc hỏng chân trên khung cửa sổ.



Serson, Spirit – Freedom (Hồn -Tự Do)

Hình ảnh ban đêm là hình ảnh của tôi. Hình ảnh ban ngày với cây cam sai trái là hình ảnh của Phạm Công Thiện. Cây cam ấy đứng hỏng chân trên khung cửa sổ. Và khung cửa sổ mở ra mở vào phất phơ cái đời sống ngút say như khói của Phạm Công Thiện. Khung cửa sổ làm mở ra trên ba trăm trang sách thơ mộng như những con kiến đi ra đi vào một cái lỗ nhỏ nào đó trên một cành cây mùa Xuân mùa Thu mùa Ðông mùa Hạ. Những dòng chữ là những con kiến đen di động và gật đầu chào nhau giữa cuộc đời. Những dòng chữ nói lên cả một đời người hay là chẳng nói lên một điều gì cả. Ðiều đó không cần thiết. Cái đáng nhớ là có một sự di động. Từ sự di động đó, mọi thứ gặp gỡ và chào hỏi nhau và tất cả làm ra sự sống.

Ði cho hết một đêm hoang vu trên mặt đất là một cuốn sách viết về sự sống. Sự sống di động và thở ra thở vào như những lá cây mùa xuân. Ðây là một quyển sách Phạm Công Thiện làm ngạc nhiên nhiều người vì tính chất gần gũi với đời sống của nó. Nhưng thật ra, chính là đời sống làm ngạc nhiên. Nó làm ngạc nhiên chúng ta mỗi giây mỗi phút. Chúng ta không ai làm ngạc nhiên ai mà chỉ chứng kiến đời sống làm ngạc nhiên mỗi người và mọi người.

Ði cho hết một đêm hoang vu trên mặt đất là cuốn sách mới của Phạm Công Thiện. Không kể một số bài viết không đều đặn của tác giả, có một số nét đặc biệt riêng nhưng không tạo được một hơi thở chung, đã xuất hiện rải rác trên một số báo từ 1975 đến nay (và phần lớn trên nguyệt san Quê Mẹ tại Pháp do nhà thơ Thi Vũ chăm sóc), đây là cuốn sách đầu tiên của Phạm Công Thiện, viết “sau 17 năm trời bỏ viết tiếng Việt”, với một dòng văn nhất quán, một hơi thở liên tục, được xuất bản tại Hoa Kỳ vào tháng 5, 1988.

Cuốn sách gồm 37 chương dài ngắn khác nhau, và một chương kết, được viết bên một cây cam sai trái (trái vàng cây, trái đỏ lá), với hình ảnh xuất hiện nhiều lần của một bầy quạ đen (có vài con trọc đầu) đi chuếnh choáng (có khi trượt chân té). Và tiếng lóc cóc của những chiếc xe thổ mộ được dùng làm nhạc đệm. Trong khung cảnh đó, người ta ngửi được mùi thơm (có khi thơm ủng) của những trái cam, người ta thấy được một khoảng trời xanh (có cây cam mọc hỏng chân), những con quạ đi đi lại lại (như tìm kiếm một ý nghĩa nào đó của đời sống?), trượt té (bắt gặp chân lý?), người ta nghe thấy tiếng gõ lóc cóc của cuộc đời (cuộc đời trong ta hay cuộc đời ngoài kia?). Và cũng có những khi người ta bắt gặp bóng dáng của một người nữ, một con loan, một con phượng mái. Một con phượng mái rù rì nhỏ nhẹ thiên thanh. Và những khe nước róc rách chảy. Và những búi cỏ dại hoang mang phơ phất trong đêm. Rồi có một con quạ làm bộ ho khan dăm tiếng vào đời sống. Tất cả những hình ảnh âm thanh màu sắc hương vị đó trộn lại với nhau làm ra ý nghĩa của cuộc đời. Ngửi một mùi thơm, người ta nhớ lại bao nhiêu cảnh đời đã sống, bao nhiêu xuân xanh đã vụt qua, bao nhiêu mộng tưởng đã bay thành khói chiều. Và những con người, những quyển sách, những ngày tháng đã đi qua, những nơi chốn đã trở thành ký ức, những rượu mạnh của tuổi trẻ, những nhiệt hứng của những ngày chân đạp trên gió sớm để bước vào đời. Tất cả những mùi vị những trái cây những rượu ngon của cuộc đời đó bỗng bây giờ trở lại khi người ta hơn bốn mươi bảy tuổi, người ta ngồi bên khung cửa sổ nhìn ra cây cam sai trái và những con quạ trọc đầu trượt chân té lên té xuống và tiếng lóc cóc của những con ngựa gõ vào trí nhớ. Người ta ngồi và viết ra những con kiến nhỏ của cuộc đời. Những con kiến đi vào mọi thứ ngõ ngách, mọi thứ lỗ hổng của đời sống. Những con kiến hồn nhiên, vui tươi, say mê, thô tục, lãng mạn, phất phơ, ngờ nghệch, thông minh, sáng sủa, u tối, mệt mỏi, ngạo mạn, tự chế, tự phúng, tự hào, tự mãn, tự ái, tự kiêu, tự hạ, tự tri, tự túc. Những con kiến hay có ý nghĩ tự tử nhưng luôn luôn tự triển hạn. Những con kiến, cũng như những dòng chữ kia, chưa muốn tự xoá. Chúng vẫn còn tiếp tục muốn đi trên những cành cây xuân hạ thu đông lưu dấu cuộc đời. Ði, như là một hành động để tìm kiếm ý nghĩa đích thực của sự sống.

Ði cho hết một đêm hoang vu trên mặt đất có một nhịp thở khác với những nhịp thở mà Phạm Công Thiện đã thở ra thở vô (đôi khi thở mạnh, thở gấp tạo thành những cơn ho vào đời sống; hoặc đôi khi chỉ là những tiếng ho khan cho vui) trong suốt cuộc đời của ông. Ðây là một hơi thở dịu dàng khỏe mạnh có pha mùi chuếnh choáng thơ mộng đáng yêu của một người vừa uống xong một ly rượu nho. Hay chính hắn là một ly rượu nho, ai biết? Một ly rượu nho màu đỏ bordeaux có mùi vị say sưa mềm mại của nắng thơm màu hổ phách, có mùi gió biển ngất ngây của những hải ngạn xa xôi, có những đêm sâu ủ mùi nguyệt bạch. Tịch mịch hồng. Và có mặt trời (nếu mặt trời có thực) quay lông lốc theo vòng thiên địa. Ực một hớp rượu ấy vào người, nếu người ta đang yêu đời, đang yêu những cây trái trần gian, người ta sẽ thấy là đời có thêm vị ngọt. Nhưng nếu người ta đang chán nản, mệt mỏi, và đang muốn chấm dứt một sự di động hay những sự di động, người ta sẽ dễ bị cái hớp rượu kia làm hoang mang thần trí và, vì thế, có thể càng làm cho người ta thấy mông lung hơn khi người ta đang muốn tìm một chỗ để bám víu vào đời sống.

Ðây là cuốn sách mà, tôi nghĩ, tác giả tự phơi bày mình một cách chân thật nhất so với tất cả những cuốn sách mà ông đã viết. Phạm Công Thiện của tuổi mười chín, hai mươi và những năm trong tuổi hai mươi có cái say, cái bốc, cái hào, cái ngông, cái sáng của một người tuổi trẻ. Một người tuổi trẻ từng nhiều lần nhận mình là thiên tài (Phạm Công Thiện cho in quyển Anh ngữ tinh âm từ điển năm 16 tuổi làm học giả Nguyễn Hiến Lê phải ngạc nhiên; viết Ý thức mới trong văn nghệ và triết học ở tuổi trên dưới hai mươi). Tất cả những nét sắc cạnh, bùng bốc ấy như một ngọn lửa cháy. Bén và sắc và bùng và như có lân tinh. Nó đẹp và dễ làm cho tuổi trẻ say mê. Cùng lúc, nó như có tính cách phá hủy. Mà không phá hủy sao được khi người ta hai mươi tuổi, khi bốn trời thì hoang tàn lửa khói mà người cứu chữa thì hầu như chẳng có một ai. Phá hủy (nếu có thể nói được như vậy), chỉ là một lối tự biểu hiện khả năng tự tồn, tự cứu trước cuộc đời hoang tàn khói lửa. Có khi người ta phải đốt cả một cánh rừng để chặn một cơn bão lửa đang tràn đến. Trong ý thức, người ta đốt. Trong vô thức, người ta đốt. Hành động đốt, làm bốc lửa ấy, ý thức hay không ý thức, biết hay không biết, nhiều khi chỉ là một phản ứng của đời sống vào chính đời sống. Con người chỉ là kẻ chứng kiến sự phản ứng ấy mà thôi. Tôi yêu những ngọn lửa cháy vì tôi hiểu chính chúng là những phản ứng của cuộc đời đối với chính nó. Chính những ngọn lửa làm đời sống tiếp tục đổi mới và sinh thành. Nhưng tiếng lửa nổ, sự cháy, sự nóng và sự sáng hung hãn có thể làm nhiều người không thích. Sự phản ứng của họ trước ngọn lửa lại là một phản ứng khác của cuộc đời với chính cuộc đời. Và phản ứng ấy cũng góp phần tạo nên đời sống theo nghĩa biện chứng của nó.

Phạm Công Thiện tuổi của những năm cuối bốn mươi không phải là một ngọn lửa cháy trong một môi trường vật lý và làm tạo ra những tác dụng có tính cách vật lý như sự nổ, hơi nóng, sự sáng và, có thể, sức đốt, sức phá hủy. Tôi nghĩ không phải ông không còn khả năng để tiếp tục sống-một-sự-cháy-vật-lý, một sự cháy nhiều lúc cho thấy có sự nhảy múa của những tia lửa, những ánh lửa. Một sự nhảy múa làm nhiều khi người ta tưởng rằng ngọn lửa không có thực (như cái mặt trời choáng váng thiên địa kia). Tôi nghĩ ông đã (hoặc đang muốn) bắt tay chào biệt với sự cháy ấy. Cái làm cho nóng, cháy, say sưa, bùng bốc ngưòi khác, bây giờ, trong chữ viết và ý tưởng của Phạm Công Thiện, là cái mềm mại chuếnh choáng ấm nóng của nắng, của gió, của những hải ngạn xa xôi, là cái hung bạo ngọt ngào của những mùa đêm ủ sâu mùi nguyệt bạch. Ðó là cái hớp rượu, cái sự cháy làm nóng lên lồng ngực, là cái chuếnh choáng ngất ngư bốc người ta bay lên, đẩy người ta đi mãi vào những đêm dài vô tận của chữ nghĩa, văn chương và của những hồi tưởng réo gọi ôm vẫy quấn quít.

Cả cuốn sách Ði cho hết một đêm hoang vu trên mặt đất của Phạm Công Thiện là một hơi rượu dài, làm choáng váng ngất ngây thần trí trong những hồi tưởng liên tiếp miên man như một cơn mộng chưa muốn bay thoát về trời. Ðó là một tiếng chuông đánh mãi vào trong những giấc mơ của đời sống, làm lên men tất cả những mộng tưởng xa và gần của một người (hay của những người) lúc nào cũng thấy cháy bập bùng trong quả tim mình những ánh lửa trần gian. Ðây là cuốn sách của một kẻ thơ mộng muốn đi ngược về những khoảng trời mây trắng cũ, và muốn đi xuôi, đi tới về những nẻo đường trần gian ít ai chịu lai vãng. Có phải vì thế mà, nhiều khi, thi sĩ chính là những kẻ chịu nhận kiếp lưu đầy. Phải thế không, hỡi kẻ thi sĩ kia?



2.


Ði cho hết một đêm hoang vu trên mặt đất có cái chủ đề quán xuyến (motif) là hình ảnh của cây cam sai trái mọc hỏng chân trên cái cửa sổ mở ra những tiếng lóc cóc của cuộc đời, là những con quạ trọc đầu đi té lên té xuống hết từ trang sách này qua trang sách khác (thử đếm một ít trang: 22, 23, 24, 25, 49, 82, 105, 119, 260…), là con phượng mái hoá thành cô con gái Huế đi làm năm ngày một tuần từ sáu giờ sáng đến bốn giờ chiều để cho một con quạ ngồi ở nhà ho phất phơ vào đời sống, là trí nhớ dan díu với đời sống lãng mạn biến ra những cuộc mộng du vòng quanh trái đất và vòng quanh văn chương chữ nghĩa của con người. Những hình ảnh vừa nói, làm nên cái nhạc tố kỳ lạ này trong cuốn sách (như một thứ trường khúc) của Phạm Công Thiện, đã giống như những ánh lửa ngọt ngào mê muội cháy lóe lên và cứ bập bùng đâu đó, như thế, trong suốt cuộc du hành của tác giả vào trong lòng đêm tối hoang vu kia. Những con quạ, và những bước chân trật té của chúng, và tiếng kêu khô giọng ngắn sắc của chúng vào trong cái không gian yên tĩnh của ban mai, sự lặp đi lặp lại hình ảnh những con quạ thơ mộng huyền bí làm ta bỗng nhớ đến những con quạ đầu đen và những con chim gõ mõ nổi tiếng của Carl Sandburg (1878-1967) trong bài “Những con đường sông nước”:

Hãy cứ để cho lũ quạ bay qua với những tiếng kêu quạ quạ của chúng
Chúng đã bơi qua những đêm tối mịt mùng của những mỏ than đâu đó
mơ hồ
Hãy cứ để cho chúng kêu lên những tiếng quạ quạ hoang vu
Hãy cứ để cho con chim gõ kiến mổ bung bung vào gốc cây hồ đào
Nó đã bơi qua những hồ đỏ những hồ xanh đâu đó cả những trăm năm
Và màu xanh đã bay lên cánh nó, còn màu đỏ thì bay lên đầu
Hãy cứ để cho cái đầu đỏ kia đập hoài những tiếng bung bung

(“River Roads”, Bùi Vĩnh Phúc tạm dịch)

Ði cho hết một đêm hoang vu trên mặt đất, theo tôi, có một giọng văn, một hơi văn vừa hiên ngang, đầy sinh lực và ngổ ngáo của Henry Miller trong Printemps noir (Mùa Xuân đen), lại vừa có cái hơi thở say sưa, mộng mị và cái sức cuốn hút vào một thứ chiều sâu không đáy của đêm dài kỳ bí trong Voyage au bout de la nuit (tạm dịch, Du hành vào đêm tối không cùng) của Céline. Nó lại có cái giọng tự thuật, tự quán chiếu hết sức thơ mộng và đắm đuối và tha thiết và bừng nhụy đơm hoa của Rainer Maria Rilke trong Die Aufzeichnungen des Malte Laurids Brigge (Hồi ký của Malte Laurids Brigge). Cái chất thơ mộng rất Rilke khi nhìn vào đời sống ấy đã được Phạm Công Thiện thở ra khi ông viết Mặt trời không bao giờ có thực khoảng hai mươi năm trước. Với những men nồng và ngây ngất vừa kể, cộng với một sắc thái đặc biệt rất riêng tư, rất Việt Nam, rất Phạm Công Thiện, Ði cho hết một đêm hoang vu trên mặt đất cho thấy Phạm Công Thiện với một hơi thở mãnh liệt hơn, thơ mộng hơn, và đắm đuối say sưa, hồn nhiên, thông minh, đáng mến… hơn Phạm Công Thiện ở những cuốn sách của một hai thập niên trước… Ngọn lửa bây giờ đã cháy đằm, cháy ngọt. Và nhiều khi, cùng với sức nóng mềm mại ấm áp của ngọn lửa mà người ta cảm thấy nó để lại trên da thịt mình, người ta còn ngửi thấy, trong ngọn lửa, mùi thơm hoang dại ngất ngây của gió đời. Trong mùi thơm trộn lẫn của gió đời và lửa ấm ấy, người ta ngửi được mùi của những bến tàu ướt lạnh trong đêm, những náo nức của từng ban mai bừng nhụy nơi những thành phố gió (những thành phố cũ mà người ta đã đi qua và đã để rơi lại trong ký ức vẩn vơ của người ta), những hiu quạnh thiết tha của đời sống đã từng nắm lấy và quấn chặt trái tim người ta bằng những sợi dây dịu dàng điêu đứng…

Có người có thể cho rằng Phạm Công Thiện sẽ không thể viết được nếu ông không đụng vào một tác giả, một cuốn sách, một tư tưởng nào đó của một người nào đó, và tất cả những điều này kéo ông đi mãi vào những suy nghĩ chằng chịt của chính mình. Ðiều này, nhìn ở một góc cạnh nào đó, có thể đúng. Sức đọc của Phạm Công Thiện mạnh, sức nhạy cảm và rung động cũng như tấm lòng thiết tha muốn chia sẻ nơi ông quá mãnh liệt và quá sắc. Chính cái bản chất đó, ngọn lửa đó nơi con người ông đã làm cho ông đi (và dẫn chúng ta đi) vào cuộc du hành của chữ nghĩa và ý tưởng.

Nhưng, tất cả văn chương, tư tưởng, triết lý, suy nghĩ, mộng mị… của con người đã chẳng là một sự đụng chạm, đụng vào, đụng đến… đó sao? Sẽ không có một quyển sách nào ra đời nếu, trước đó, tác giả của nó đã không đụng vào một dòng chữ, một suy nghĩ nào đó, của một người nào đó sống trước ông ta hoặc cùng thời với ông ta. Sẽ chẳng có một quyển sách nào ra đời nếu, trước đó, tác giả của nó đã không đụng vào một kinh nghiệm sống riêng tư của ông ta như một con người trong cuộc đời. Một con người sống thật trong cuộc đời là một con người sẵn sàng đứng giữa để cho mọi thứ chung quanh đụng chạm vào mình. Ðó cũng là một con người không hề sợ sệt khi phải đụng chạm, sờ mó vào mọi thứ quanh mình để có thể rung động, khóc cười, đau khổ, hạnh phúc, hèn yếu, mạnh mẽ, hiên ngang, bi thiết… và sống một cách đích thực. Marcel Proust đụng vào tách trà, và thế là mấy ngàn trang sách được bôi đen kịt kia trở thành một kiệt tác của nhân loại. À la recherche du temps perdu. Ði tìm thời gian đã mất. Cả một cuộc đời sống dậy. Ngôi làng xa xưa cùng với nhà cửa cây cối vườn tược con người chim chóc hoa lá mặt trời dần dần nở lại như những mầu nhiệm của đời sống được tái hiện, được sống lại một lần nữa, trong cõi thời gian xa lạc kia. Tolstoy đụng vào lịch sử, đụng vào con người, và mấy ngàn trang sách Chiến tranh và Hoà bình mở ra. Mở ra cùng với nó là đời sống hôi hổi nhiều mặt của con người muôn thuở và muôn nơi; là ý nghĩa của sự sống, của cái chết con người; là những tình cảm tế vi nhất của con người trong mọi sắc độ, mọi gam màu của nó. Anais Nin đụng vào cuộc sống và vài ngàn trang sách của năm cuốn nhật ký (với những rung động, những nhận xét sâu sắc, đầy tính khai thị về đời sống, về giá trị của đời sống, về thẩm mỹ của đời sống) ra đời. Có thể nói nhật ký của Anais Nin là một trong vài cuốn nhật ký có giá trị văn chương nhất của con người hiện đại.

Phạm Công Thiện đã đụng chạm, đã sờ mó vào những tư tưởng, những chữ nghĩa thơ mộng thắm thiết đầy sức cuốn hút kỳ diệu của văn chương nhân loại. Nhiều người đã nhìn Phạm Công Thiện như một triết gia. Và họ có cái lý của họ. Chính Phạm Công Thiện, trong một giai đoạn nào đó của đời sống, hay trong những góc cạnh nào đó của đời sống, cũng đã để hé lộ và hiển lộ ra cái cách thế hiện sinh này của mình. (Hiển hay hé đều là những dụng ý của Phạm Công Thiện, và chính là chấp vào những cái dụng ý này, người ta đã khen hoặc chê Phạm Công Thiện hết lời). Ðối với tôi, tôi không nghĩ ông là một triết gia (theo thể điệu triết lý của Parménide chứ không phải theo nhịp suy tư của Héraclite) mặc dù chắc chắn ông cũng là một người yêu mê triết và đã từng ăn nằm với triết. Cả Ðông lẫn Tây. Nếu hỏi, “Phạm Công Thiện LÀ gì?” thì câu trả lời vắn gọn “LÀ triết gia”, nhìn theo lối lý giải của Héraclite, thì sự hiện sinh như là một triết gia ấy của Phạm Công Thiện là một dịch thể. Nhưng nếu nhìn theo nhịp thở của Parménide, thì sự hiện sinh ấy là một thường thể (là thể tính). Vậy, tùy theo cách nhìn dịch hay thường, ta sẽ thấy Phạm Công Thiện có là triết gia hay không. Thật ra, hai nhịp nhảy của Héraclite và Parménide cũng chỉ giống như hai nhịp đập của trái tim mà thôi. Thường hay dịch thì cũng trở về với Anaximandre, nghĩa là trở về với Tính (Song thể – dịch và thường – nằm trong Tính nghĩa).
Ðể trở lại với Phạm Công Thiện, tôi muốn nhìn ông như một nhà văn, một nhà thơ (hết sức cuồn cuộn và phá vỡ và thơ mộng và đắm đuối và thiết tha) theo cái nhìn thường thể của Parménide. Thể tính hay thường thể của con người Phạm Công Thiện chính yếu nằm trong năm tính từ chỉ định vừa kể (thêm nữa cũng được, nhưng cũng chỉ dan díu vào đó mà thôi). Còn con người triết gia của ông, theo nhịp nhảy của Héraclite, theo tôi, là dịch thể. Cái thể này thay đổi, biến hóa, và, tôi nghĩ, không phải là cái phần hồn thật sự của Phạm Công Thiện, mặc dù nó cũng là ông theo một nhịp nhảy múa nào đó như vừa phân tích. Qua Ði cho hết một đêm hoang vu trên mặt đất, Phạm Công Thiện đã sống hết con người của ông, chính yếu, như một nhà thơ, một nhà văn. Dĩ nhiên, ta không thấy thiếu những suy tư có tính triết lý được bóp vụn ra như thủy tinh (hay như lân tinh?) chiếu sáng lấp lánh chập chờn quyến rũ trong suốt cuộc hành trình vào (hay qua?) đêm tối của ông. Nhưng tất cả những suy tư ấy đều được diễn ra bằng một hơi thở cuả Thơ, bằng một cái nhìn thơ mộng lãng mạn tha thiết đắm đuối hồn nhiên mở mắt vào đời. Chính cái đặc tính kỳ lạ này nơi quyển sách của Phạm Công Thiện đã khiến cho bài viết của tôi không thể trở thành một bài phê bình theo kiểu bình thường với những lý luận, phân tích, bình giải tăm tắp theo đường thẳng. Làm sao người ta có thể phân tích và phê bình một cặp mắt (và một tâm hồn) thơ mộng đắm đuối thiết tha lãng mạn hồn nhiên chan chứa nhìn vào cuộc đời. Có thể nói Phạm Công Thiện đã bỏ cả đời để yêu thương chan chứa lãng mạn hồn nhiên (và cũng có những lúc ngây thơ) với cuộc đời như thế. Ðiều đó đáng yêu chứ. Và điều đó đã thể hiện hết sức rõ rệt qua quyển sách này.

Tôi yêu biết bao cái hình ảnh của thanh niên Phạm Công Thiện, của chàng thi sĩ mơ mộng 23, 24 tuổi ngày nào cùng với người bạn trẻ trạc tuổi, Eduardo Zalamea – một thi sĩ châu Mỹ Latinh – đi lang thang trong khu phố Greenwich Village tại thành phố New York để bán những bài thơ mình làm trong các quán cà phê từ công trường Washington Square đến Sheridan Square. Ôi, mỗi bài thơ bán chỉ có một dollar cốt đủ tiền để mua sữa tươi và gà nướng ăn qua đêm. Vậy mà nhiều lúc không ai thèm mua thơ, để hai kẻ đắm đuối thơ mộng phải ngồi run lạnh dưới đèn đường. Và rồi hai thằng bán thơ bước đi lầy lội trong những con đường khuya tuyết rã (trang 127)!

Tôi cũng yêu những câu thơ của các thi sĩ châu Mỹ Latinh được Phạm Công Thiện trích dẫn và dịch ra. Ðọc những câu thơ, những bài thơ này, tự nhiên trái tim tôi nhói đau như khi mình bất chợt đụng chạm vào những hạnh phúc mỏng manh xa xăm vời vợi. Những bài thơ mình đã đọc trong những đêm tuổi trẻ nào của quá khứ đã mịt mùng, của quê nhà đã trùng trùng chia cách, bây giờ, bất chợt sống lại. Những bài thơ mình đã đọc trong những đêm tối gió thổi và mưa rơi lắc rắc trên sân thượng của căn nhà cũ và mùi hoa ngọc lan lẫn hoa huệ trắng cùng đủ loại hoa dại phất phơ và tha thiết trong bóng tối của tuổi mười tám, hai mươi, bây giờ, cũng như những đóa hoa, lại khe khẽ mở nhẹ từng cánh nõn nà sương đêm. Ôi, những bài thơ đã làm cho ta nhói đau. Trái tim. Trái tim như một mặt hồ vỡ ánh trăng non xanh mướt. Nó run lên, vỡ ra dịu dàng chan chứa, cùng với những bài thơ. Hãy đọc lại Federico García Lorca. Xanh lá cây, ta muốn em xanh lá cây. Cơn gió xanh lá cây. Cành cây xanh xanh. Con thuyền trên biển và con ngựa trên đỉnh non cao… (Verde que te quiero verde./ Verde viento. Verde ramas./ El barco sobre la mar/ y el caballo en la montana…) ("Rong khúc mộng du"/ Somnambule Ballad). Phạm Công Thiện chỉ trích dẫn ngần ấy thơ của bài thơ này và tôi đã không thể không lấy tuyển tập thơ của García Lorca (The Selected Poems of Federico García Lorca) ra để đọc lại và để nhớ, để mộng về những ngày tuổi trẻ hoang dại của mình. Bài thơ vừa trích, rất dài và rất thơ mộng bi thiết, có thể nói là một trong những bài thơ hay nhất của García Lorca. Hãy đọc thêm vài câu nữa. Với bóng mờ ngang eo, Nàng đứng mơ mộng trên ban công. Da thịt nàng xanh mướt và tóc nàng xanh xanh. Và đôi mắt thì màu bạc lạnh. Xanh lá cây, ta muốn em xanh lá cây. Dưới ánh trăng gipsy lang bạc, mọi vật đều nhìn ngắm nàng. Nhưng nàng chẳng hề thấy chúng… (Con la sombra en la cintura/ ella suena en su baranda, / Verde carne, pelo verde, / con ojos de fría plate / Verde que te quiero verde./ Bajo la luna gitana, / las cosas están mirando / y ella no puede mirarlas…) Cuối cùng, vì cuộc tình nào mà nàng chết? Một trụ băng làm bằng ánh trăng lạnh giá đã nâng thân mình nàng lên khỏi mặt nước. Ðêm trở nên thân mật vỗ về như một hình vuông nhỏ… Em ơi, xanh lá cây, ta muốn em xanh lá cây.

Tôi cũng rất yêu những đoạn Phạm Công Thiện nói về chữ nghĩa Việt Nam (chương 17, trang 151), về cô con gái Huế, về con phượng mái rù rì nhỏ nhẹ thiên thanh (ở nhiều chỗ), về sách vở chữ nghĩa nói chung (trang 70), về thi sĩ (trang 71, 72)… Có rất nhiều đoạn đáng yêu trong cuốn sách, và đoạn này lôi kéo bồng bế dan díu với đoạn kia khiến cuốn sách trở thành một sự liên tưởng thơ mộng kéo dài chằng chịt miên man vào đêm tối của trí nhớ hoang vu. Có một chương (chương 32, trang 279), Phạm Công Thiện chỉ viết toàn những câu 4 chữ (chừng hơn 200 câu) mà kể được gần hết cái đời sống tịch mịch hồng và náo loạn của mình. Chương này, cùng với chương 8 (trang 75) là chương Phạm Công Thiện chỉ đặt những câu hỏi Tại sao? (chừng vài trăm câu hỏi thơ mộng và bùng vỡ), đã nói được hết cả cuộc đời, con người, và nỗi đam mê của chính tác giả. Ðây là hai chương kỳ dị nhưng rất nên thơ và đầy tính phá phách, đi lạc và đi lệch của họ Phạm.

Ngoài ra, chương sách nói về miền quê Mỹ Tho, nơi tác giả sinh trưởng (chương 23, trang 207) cũng là một chương hết sức đáng yêu. Mỹ Tho, với tất cả những dáng vẻ hồn hậu và thơ mộng của nó, được vẽ lại chen kẽ với những suy tư đầy tính lang thang và triết lý và đắm đuối thiết tha của Phạm Công Thiện. Trong đoạn này, có một câu tả cầu tàu Mỹ Tho rất đẹp. Và buồn, thật buồn.

Có những buổi chiều cầu tàu Mỹ Tho vắng bóng người, trời đỏ hồng bên kia cù lao Rồng, nó ngồi đọc Leopardi, “Bây giờ mi có thể an nghỉ vĩnh viễn, hỡi trái tim mệt mỏi của ta. Ảo vọng cuối cùng đã chết… An nghỉ vĩnh viễn đi. Mi đã thoi thóp nhiều rồi…”

Ðoạn quê nhà Mỹ Tho sông nước này làm tôi nhớ đến lá thư của một người bạn văn nghệ tài hoa (mà tôi tình cờ quen biết trong một cuộc lữ hết sức bất ngờ). Người bạn ở Mỹ mười mấy năm mà vẫn chỉ dằng dặc một nỗi nhớ nhà. Trong thư gửi cho tôi, kể chuyện đi thăm vườn cây cảnh quốc gia National Arboretum ở Washington D.C. bốn mùa Xuân Hạ Thu Ðông, ở đoạn mùa Hạ, chàng viết:

Có năm tôi thấy trồng một giò huệ trắng nõn, đẹp và thơm như mùi thơm năm xưa vào những ngày rằm có cúng giỗ. Tất cả kỷ niệm cũ xô đẩy trở về qua mùi hương bông huệ trắng; nước mắt bỗng chảy ngược trở lại trong lòng. Trời nóng mà phải lau mặt bằng nước mắt khô của ngày cũ. Năm sau, cũng vào một ngày hè, tôi trở lại tìm giò huệ mọc chỗ này năm ngoái. Huệ cũ không thấy, mắt rán tìm chỉ thấy một đìu hiu. Ðìu hiu ta hãy một đìu hiu. Ngày xưa tôi đã đi khắp xứ Mỹ và không thấy đâu trồng bông huệ. Chẳng biết bây giờ ở California / Florida đã có người Việt nào gây giống trồng bông huệ chưa? Có những mùi hương hay làm rộn trí nhớ như hương của mái tóc gội bồ kết hay xức dầu dừa, hương của mùi mồ hôi chất mái trên chiếc áo gối nhồi bông gòn, của hơi thở một thiếu nữ ngồi cùng chuyến đò chật, ngang trên nhánh sông ở Sa Ðéc, vào ngày lộng gió. Tay nàng cầm một bó huệ trắng.

(Phạm Hiếu, thư riêng, viết vào những ngày đầu Xuân 1988 khi hoa kim hương vàng bắt đầu nở.)



3.

Ðể kết luận bài viết về Phạm Công Thiện, một phần nào dựa vào cuốn sách mới ra Ði cho hết một đêm hoang vu trên mặt đất của tác giả, tôi muốn nói, trước hết, rằng, Phạm Công Thiện là một nhà thơ, một nhà thơ với đúng nghĩa thơ mộng đẹp đẽ và đáng yêu đáng mến của danh vị này. Dù viết lách ở lãnh vực nào, qua chữ nghĩa và cách diễn tả, Phạm Công Thiện, như tôi nhìn thấy, vẫn nổi bật và đẹp nhất như một nhà thơ trọn nghĩa. Ðây là một người Việt Nam đã từng ăn nằm với chữ nghĩa một cách hết sức chung thủy mà tôi được biết, và bởi thế, Phạm Công Thiện, theo cách nhìn của tôi, là một trong ít người sử dụng chữ nghĩa Việt một cách tinh tế, sâu sắc và hết sức điêu luyện. Ông có viết trong quyển sách là ông đang học lại tiếng Việt. Một cách nào đó, điều này đúng. Chỉ có những người luôn luôn tìm tòi, học hỏi, học mãi mới có thể làm tinh tế cái nghệ thuật mà họ theo đuổi. Tôi nghĩ Phạm Công Thiện đã coi chữ nghĩa nói chung và, đặc biệt, chữ nghĩa Việt Nam nói riêng là một nghệ thuật để ông trau giồi suốt đời. Bởi thế, tôi không lấy làm lạ khi nhận ra rằng ông có tài dùng chữ Việt Nam một cách tuyệt diệu. Hãy nhìn lại điều đó trong tất cả những cuốn sách mà ông đã viết. Chính điều này làm cho tôi yêu mến Phạm Công Thiện hơn bất cứ một điều nào khác nơi con người của ông.

Cuốn sách, không kể một vài thay đổi nhỏ trong hướng nhìn triết lý của tác giả Ý thức mới trong văn nghệ và triết học (chẳng hạn trong nhịp suy tư của tác giả về “Hư vô chủ nghĩa” khi cho nó nhập cuộc với đời sống thiết thân trong giai đoạn hiện tại của chính mình. Có giống như Hemingway trước và sau For Whom the Bell Tolls?), tác giả vẫn cho người đọc thấy một Phạm Công Thiện đắm đuối, thiết tha và bùng vỡ. Tuy nhiên, tất cả những tính chất này đã được làm cho lên men (làm dậy lên và say ngất và mềm ngọt đi) sau 47 năm tác giả đã tự để mình trôi qua trên mặt đất. Dùng đại danh từ “nó” suốt cuốn sách để nói về mình, tác giả như đã dự định làm một cuộc “tự xoá” qua một lối nhảy lui từ ngôi thứ nhất xuống… ngôi thứ ba (!). Hay đấy chỉ là một lối nhảy lui hai bước để nhảy tới ba bước khác theo một thứ tu từ pháp mới? Có những đoạn tác giả đã tự cật vấn chính thái độ sống của mình bằng một cái nhìn phúng thích có tính cách tự trào. Sự cật vấn này, dù ở mức độ nào, sắc thái nào, dù được vẽ với gam màu nào, hoặc có khi chỉ là một sự ngụy luận, ngụy trào đi chăng nữa, cũng đã cho thấy một Phạm Công Thiện thiết tha và dịu dàng, hiểu biết với mình với người hơn. Tôi thật sự cảm thấy ông đáng yêu nhiều sau khi tôi buông quyển sách xuống. Quyển sách ông viết vào năm bốn mươi bảy tuổi.

Bốn mươi bảy năm như khói chiều trôi qua lãng đãng. Còn lại, chỉ là một dòng mây tha thiết phất phơ. Chớ hỏi đám mây kia sẽ trôi về đâu. Hãy để lòng ta trôi xa đi cùng mây trắng, rồi, một mai, rơi xuống muôn nẻo đời xa lạ, gặp gỡ chạm mặt mọi vui buồn của cuộc sống, khóc cười đôi chút với cuộc đời, rồi lại bốc hơi bay đi. Bay đi man mác vào những đêm tối hoang vu của trần gian thi thiết.
Hãy cứ để những dòng mây trôi đi thi thiết trên cuộc đời tóc trắng này.
Mồng 3 Tết Kỷ Tỵ, 1989

Bùi Vĩnh Phúc

Tustin Ranch, Calif.

10. III. 2011

26/2/11

Chân dung Nguyễn Du (1)

( Sách xuất bản tại miền Nam trước 1975 )

Chân dung Nguyễn Du
(Khảo luận của Vũ Hoàng Chương – Nguyễn Sỹ Tế – Nguyễn Văn Trung – Trần Bích Lan – Đinh Hùng – Doãn Quốc Sỹ – Việt Tử – Trần Thanh Hiệp – Phạm Thếng – Thanh Tâm Tuyền – Vũ Khắc Khoan – Nguyễn Thị Sâm)



Nguyễn Du (1765 – 1820)
1765.– Năm sinh của Nguyễn Du.
1767.– Trịnh Doanh mất, Trịnh Sâm lên.
1771.– Khởi nghĩa Tây Sơn.
1775.– Nguyễn Nghiễm, thân sinh Nguyễn Du mất.
1782.– Trịnh Sâm mất. Loạn Kiêu binh ở Thăng Long.
1783-84.– Nguyễn Du đỗ Tam trường. Làm một chức quan võ nhỏ ở Thái Nguyên.
1786.– Nguyễn Huệ ra Bắc dứt họ Trịnh. Lê Hiển Tông mất, Lê Chiêu Thống lên ngôi.
1787.– Vũ Văn Nhậm ra Bắc. Lê Chiêu Thống chạy sang Trung Hoa. Nguyễn Du khởi nghĩa chống Tây Sơn thất bại, bị bắt giam 2 tháng.
1788.– Nguyễn Huệ lên ngôi lấy đế hiệu Quang Trung.
1789.– Trận Đống Đa.
1790.– Nguyễn Huy Tự, tác giả Hoa Tiên truyện mất.
1792.– Vua Quang Trung mất.
1797.– Sau mười năm phiêu bạt ở Bắc Hà, Nguyễn Du về quê nhà ẩn dật.
1798.– Nguyễn Gia Thiều, tác giả Cung oán ngâm khúc mất.
1800.– Phạm Thái viết Chiến Tụng Tây Hồ Phú trả lời Tụng Tây Hồ Phú của Nguyễn Huy Lượng.
1801.–..............................
1802.– Gia Long lên ngôi ra Bắc. Nguyễn Du làm Tri huyện Phù Dục (Thái Bình).
1804.– Phạm Thái viết Sơ kính tân trang.
1806.– Thăng Đông Các đại học sĩ.
1809.– Lâm Bố Chính tỉnh Quảng Bình. Nguyễn Huy Hồ viết Mai Đình mộng ký.
1913.– Thăng Cần Chánh đại học sĩ, đi sứ Trung Hoa, viết Bắc hành thi tập.
1814.– Nguyễn Du thăng Lại Bộ hữu tham tri.
1819.– Gia Long mất. Nguyễn Công Trứ đỗ Giải nguyên.
1820.– Minh Mạng lên ngôi, Nguyễn Du mất.

Thân thế và thời đại Nguyễn Du

Nguyễn Du sinh vào thời Lê Mạt, vào lúc xã hội đang trải qua cơn khủng hoảng trầm trọng, lịch sử dồn dập những biến cố đảo điên. Cơ nghiệp nhà Lê bắt đầu từ Lê Thái Tổ lên ngôi năm 1428 hoàn toàn sụp đổ. Năm 1787 khi Vũ Văn Nhậm ra Bắc diệt Nguyễn Hữu Chỉnh và Lê Chiêu Thống chạy sang cầu viện nhà Thanh. Trên thực tế nhà Lê đã mất từ đầu thế kỷ XVI năm 1527 khi Mạc Đăng Dung cướp ngôi của Lê Chiêu Tông, sử chép: “… Từ khi nhà Lê Trung Hưng lên trở về sau, họ Nguyễn hùng cứ ở phương Nam, họ Trịnh xưng chúa xứ Bắc; trên tuy còn tôn vua nhưng mà quyền về cả nhà chúa. Trong nước ta đã có vua lại có chúa, làm thành ra vua không phải là vua, tôi không phải là tôi, ấy là một thời loạn. Đến sau ở trong Nam thì có Trương Phúc Loan chuyên quyền làm bậy, ở ngoài Bắc thì có kiêu binh làm loạn, giết hại quan đại thần, vua chúa phải nhún mình mà chiều đãi, đình thần phải khoanh tay mà chịu một bề, ấy lại là một lúc đại loạn vậy” [1] .

Chế độ tập quyền thiết lập từ nhà Đinh ở thế kỷ thứ X đến hết thế kỷ XV thì bắt đầu tan rã. Nguyên nhân thứ nhất có thể kể đến là nước Việt Nam không sợ bị nạn ngoại xâm đe doạ ở phương Bắc, Trung Hoa đang bị bối rối về sự phân tranh giữa Minh và Thanh; nguyên nhân thứ hai là sự bành trướng đất đai về phương Nam, công cuộc Nam Tiến từ nhà Lý coi như đã thành tựu dưới thời Lê, các chúa Nguyễn sau này chỉ kế tiếp việc bỏ dở không gặp sự kháng cự nào đáng kể. Suốt từ thế kỷ XVI đến cuối thế kỷ XVIII là sự tranh chấp phân chia quyền hành liên miên, hết Nam Bắt triều đến Trịnh – Nguyễn, tới thời Nguyễn Du sự tranh chấp ấy diễn ra cảnh chia xẻ nát bét: Tây Sơn khởi nghĩa đuổi Nguyễn diệt Trịnh, anh em Tây Sơn chia rẽ nhau. Có lúc trên một lãnh thổ thiết lập ba triều đình khác nhau: luẩn quẩn khi Gia Định khi Phú Quốc là triều đình Nguyễn Phúc Ánh, ở Phú Xuân là triều đình anh em Tây Sơn, ở Thăng Long là triều đình nhà Lê. Cái tinh thần dân tộc thống nhất hùng mạnh dưới những đời Lê – Lý – Trần – Lê không còn nữa, Nguyễn Nhạc lúc đuổi theo Nguyễn Huệ ra Thăng Long để gọi em về, đã nói với Lê Chiêu Thống những lời sau này: “Vì họ Trịnh hiếp chế, cho nên chúng tôi ra giúp nhà vua; nếu bằng đất nước họ Trịnh thì một tấc cũng không để lại, nhưng mà của nhà Lê, thì một tấc cũng không dám lấy. Xin mong nhà vua gắng sức làm việc, giữ yên cõi đất, để đời đời giao hiếu với nhau, ấy là cái phúc của hai nước đấy”.

Xét riêng xã hội Bắc Hà vào cuối thế kỷ XVIII dưới các triều chúa Trịnh cuối cùng là một xã hội mục nát hoàn toàn không phương cứu vớt. Trong gia đình nhà Trịnh, việc phế trưởng lập thứ của Trịnh Sâm gây mầm nội loạn tranh chấp, anh em mưu hại lẫn nhau. Bọn quan lại suy đốn trốn tránh nhiệm vụ, phỉnh nịnh luồn lọt người trên, tàn bạo hà hiếp dân lành, bọn kiêu binh lộng hành uy hiếp nhà chúa, trừ diệt những người đối lập, cướp bóc ức hiếp dân chúng [2] . Một vài sự kiện điển hình của thời đại bấy giờ, sử chép “Lệ cứ tứ phẩm trở xuống ai nộp 600 quan thì được thăng chức một bậc, còn những người chân trắng mà ai nộp 2.800 quan thì được bổ tri phủ, 1.800 quan thì được bổ tri huyện”, đó là tình hình quan trường. “Đến năm Canh Ngọ (1750), đời Cảnh Hưng, nhà nước thiếu tiền, lại đặt ra lệ thông kinh, hễ ai nộp ba quan thì được đi thi, mà không phải khảo hạch. Thành ra lúc bấy giờ những người đi làm ruộng, đi buôn, đi bán thịt, ai cũng được nộp quyển vào thi, đến nỗi lúc vào thi, người tranh nhau vào trường xéo đạp lẫn nhau, có những người chết. Vào ở trong trường người thì dùng sách, kẻ đi thuê người làm bài, học trò với quan trường thì thông với nhau, thành ra cái “chợ thi”, đó là quang cảnh cuộc tưởng lựa nhân tài giúp việc trong bộ máy cai trị. “Từ đó quân kiêu binh kéo nhau hàng trăm hàng nghìn đi cướp phá các làng. Hễ có đứa nào đi lẻ loi thì dân làng lại bắt giết đi, thành ra quân với dân xem nhau như cừu địch, mà các văn thần võ tướng cũng bó tay mà chịu không làm sao được”, đó là tình trạng an ninh của dân chúng. Tóm lại xã hội Bắc Hà bấy giờ không còn một chút kỷ cương giềng mối nào nữa, một xã hội ngắc ngoải chờ chết. Đám dân lành phải gánh chịu mọi tai ương: thuế khoá nặng nề, mất mùa đói kém, giặc giã chiến tranh. Khâm định Việt sử nói về thời đại ấy đã ghi: “Chính sự hư hỏng, thuế khoá nặng nề, lòng người ước ao sự loạn lạc”.

Nguyễn Du lớn lên trong xã hội ấy.

Dòng dõi trâm anh, tư chất thông minh, nếu sinh vào thời bình, Nguyễn Du cũng sẽ hiển đạt như cha và anh – tiến sĩ Nguyễn Nghiễm tước Xuân quận công, tiến sĩ Nguyễn Khản chức Tham Tụng. Điều nhạc hầu Nguyễn Điều trấn thủ Sơn Tây – chẳng may sinh vào thời loạn – Nguyễn Du phải trải trăm nghìn cay đắng. Thi Hương đỗ Tam trường, làm Chánh thủ hiệu ở Thái Nguyên, lúc Tây Sơn ra Bắc, Chiêu Thống chạy sau lưng Trung Hoa, Nguyễn Du về quê vợ ở làng Hải An huyện Quỳnh Côi tỉnh Sơn Nam (nay thuộc Thái Bình) mưu đồ khôi phục nhà Lê nhưng thất bại. Trong mười năm trời, lưu lạc trốn tranh ở đất Bắc, nếm đủ mùi gian nan: nghèo túng, bệnh hoạn. Về sau thấy sức mình không xoay nổi thời thế, ông tìm đường vào Nam định mượn tay Nguyễn Ánh diệt Tây Sơn, nhưng việc tiết lộ, ông bị bắt giam ở Vinh, ít lâu thì được tha. Từ đấy ông về quê sống cuộc đời ẩn dật. Già nửa đời người sống trong cảnh loạn lạc, bất đắc chí với những kinh nghiệm bản thân chịu đựng đã có ảnh hưởng gần như quyết định trong sự nảy nở của thiên tài bất hủ về thi ca của Nguyễn Du.

Khi Gia Long thống nhất đất nước, xã hội tạm thời ổn định nhưng lòng người, nhất là ở Bắc Hà, vẫn còn hoang mang chưa tin tưởng. Sự nghi kỵ giữa triều đình nhà Nguyễn đối với con cháu và đám cựu thần nhà Lê, càng làm tăng thêm bầu không khí bất mãn của đám nho sĩ đất Bắc. Trong giai đoạn thứ hai của đời Nguyễn Du, mặc dầu ra làm quan với Gia Long nhưng ông không tỏ ra sốt sắng, nhiều lần cáo bệnh xin về, ở trong triều, theo sách Chính Biên liệt truyện, ông ít nói năng, nhà vua đã có lần quở trách. Cũng theo sách này Nguyễn Du là người bề trong có ý trợ phụ, mà bề ngoài thì thật thà cẩn thận; khi thi sĩ mắc bệnh nặng, không chịu uống thuốc, lúc biết mình sắp chết, chỉ nói một tiếng “được”, không trối lại điều gì cả.

Sinh thời Nguyễn Du là một người học thức rộng: ông học Nho, nhưng sách Phật, Lão đều có đọc, văn chương cổ kim Trung Hoa và của ta ông đều biết. Ông còn là một người tài hoa, từng sống cuộc đời phong lưu công tử ở chốn đế đô khi học ở Thăng Long, lúc về ẩn dật thường sang chơi bên Trường Lưu với Nguyễn Huy Hổ (tác giả Mai Đình mộng ký, con trai Nguyễn Huy Tự, cháu ngoại Nguyễn Khản), có khi cùng nhau đi nghe phường vải ở đấy hát suốt đêm nên những câu ca lời hát trong những cuộc gặp gỡ gái trai ở nông thôn cũng như giọng hát cung đàn trên chiếu rượu ông đều thông thuộc. Rồi những năm lưu lạc ở đất Bắc, ông từng trải nhiều nên thông cảm sâu sắc được mọi cảnh ngộ éo le, sự khổ cực của người đời. Cuộc đời phức tạp sóng gió của Nguyễn Du đã giúp ông tạo được những tác phẩm giàu tính cách nhân đạo, nghệ thuật tuyệt vời.


Tình hình văn học thời Nguyễn Du

Nếu phân chia thời kỳ văn học dựa vào tinh thần thời đại phản chiếu trong tác phẩm, ta phải xếp Nguyễn Du vào thế kỷ XVIII. Thế kỷ XVIII là thời phồn thịnh trong lịch sử văn chương Việt Nam, có một tinh thần độc đáo mà kết tinh đặc biệt nhất của tinh thần ấy là Đoạn trường tân thanh của Nguyễn Du. Xét như thế sẽ nhận định được rằng về phương diện văn học, sự xuất hiện tác phẩm của Nguyễn Du không phải là đột ngột, Đoạn trường tân thanh chỉ là một bước trong quá trình phát triển của văn chương Việt Nam trong thế kỷ XVIII.

Văn chương chữ nôm từ thế kỷ XIII đến thế kỷ XVII còn nghèo nàn khuôn sáo về nội dung, vụng về non nớt về hình thức. Tới thế kỷ XVIII, mở đầu là Chinh phụ ngâm, rồi Cung oán ngâm khúc, văn chương chữ nôm đã trở thành một ngôn ngữ thi ca đáng kể diễn tả được những tình cảm tư tưởng tinh vi tế nhị. Các tác phẩm tiến sát gần tới đời sống, ghi lại được mọi khía cạnh phức tạp của đời người trong hoàn cảnh lịch sử. Tổng quát mà nói các tác giả ở thế kỷ XVIII đều bi quan, tác phẩm của họ phần lớn đều bi đát.


I. Những tác giả chính trong thế kỷ XVIII
Đoàn Thị Điểm (1705-1748): Dịch Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn
Nguyễn Gia Thiều (1741-1798): Cung oán ngâm khúc
Nguyễn Huy Tự (1743-1790): Truyện Hoa tiên
Phạm Thái (1777-1813): Chiếu tụng Tây Hồ phú, Văn xuôi Khóc Trương Quỳnh Như, Sơ kính tân trang.
Hồ Xuân Hương (?): Thơ
Nguyễn Du (1765-1820): Đoạn trường tân thanh, Văn tế thập loại chúng sinh

II. Những tác giả phụ
Nguyễn Bá Lân (1701-1785): Giai cảnh hứng tình phú, Ngã ba hạc phú
Nguyễn Cư Trinh (1716-1767): Sãi vãi
Lê Quý Đôn (1726-1784): Văn sách kinh nghĩa, Thơ
Nguyễn Huy Lượng (?): Tụng Tây Hồ phú
Nguyễn Hữu Chỉnh (? – 1787): Quách tử nghi phúc, Ngôn ẩm thi tập, Cung oán thi, Bài văn tế chị
Lê Ngọc Hân (1770-1799): Văn tế vua Quang Trung, Ai tư vãn
Phan Huy Ích (1750-1822): Dụ am văn tập, Dụ am ngâm tập
Nguyễn Huy Hổ (1783-1841): Mai Đình mộng ký


Bia kỷ niệm Tiên Điền Nguyễn Tiên Sinh của Hội Khai Trí Tiến Đức [3] Bài bia kỷ niệm Tiên Điền Nguyễn Tiên Sinh

Tiếng nào đã làm được văn không phải là tiếng tầm thường, người nào đã hay về văn cũng không phải là người tầm thường, đất nào đã có người hay văn lại không phải là đất tầm thường.

Tiếng ta phần nhiều căn cứ ở chữ Tàu, tư tưởng cũng hấp thụ ở văn Tàu, song vẫn tự có một thể tài riêng, một tinh thần riêng, xem những ca dao ngạn ngữ truyền đến ngày nay nhiều câu thật thà mộc mạc mà ý vị sâu xa, chắc rằng cái mầm sống văn ta đã nảy nở từ thời kỳ tối cổ. Đến đời Trần, ông Nguyễn Thuyên, ông Nguyễn Sĩ Cố đem lối thi phú làm bằng tiếng nôm, văn ta một ngày một thịnh, dù học hiệu chưa giảng, khoa cử chưa dùng, song Hán học thịnh lên bao nhiêu thì cái kho văn liệu của tiếng ta càng giàu thêm bấy nhiêu, cho nên các bậc tiền bối thâm về Hán học, như ông Tiều Ấu, ông Ức Trai, ông Bạch Vân Am, ông La Sơn đều nổi tiếng về quốc văn cả. Nay thử kể qua những tập văn nôm cũ, chất phác như Trê Cóc, nghiêm chỉnh như Trinh Thử, lâm ly như Cung Oán, diễm lệ như Hoa Tiên đều là cái lịch sử rực rỡ vẻ vang của văn chương tiếng Việt. Ai bảo rằng một giải đất con con ở dưới ánh sáng lập lòe sao Dực Chẩn lại không đủ tinh hoa linh tú để chung đúc được bao nhiêu Lý, Đỗ, Hàn, Tô hay sao.

Song xét cho kỹ, quốc văn từ Lê về trước thì chất thắng, từ Lê về sau thì văn thắng, tìm một nhà chiết trung cả chất văn, để làm tiêu biểu cho Hán học, thì Tiên Điền Nguyễn Tiên sinh là bậc đệ nhất vậy.

Tiên sinh huý là Du, tự là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên, biệt hiệu là Hồng sơn Liệp hộ, sinh năm Ất Dậu niên hiệu Cảnh Hưng thứ 26 (1765), mất ngày mồng mười tháng Tám, năm đầu niên hiệu Minh Mệnh (1820), con thứ bảy ông Hoàng Giáp Xuân, Quận công Nguyễn Nghiễm, người làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, trấn Nghệ An. Tiên sinh vốn thiên bẩm cao, hậu về tình, hào về khí, hùng và tài lại bác thâm về học vấn, ma chiết về cảnh ngộ, nên văn chương dung hoá, thấu lý nhập thần không kể những tập viết bằng chữ Hán như Bắc hành thi tập, Nam trung tập ngâm, Thanh Hiên tiền hậu tập, còn ngâm vịnh trứ thuật bằng quốc âm cũng nhiều, mà thứ nhất tập Đoạn trường tân thanh (tức là Truyện Kiều) thật là một cuộc văn kiệt tác trước sau chưa có bao giờ.

Hội ta nghĩ rằng: Hán văn đã một ngày một lui để nhường cái đặc vị chính đáng cho quốc văn, thì quốc văn tất có cái tương lai, rất quan hệ, rất mật thiết với nước ta, mà một bậc sở trường về quốc văn không ai bằng tiên sinh, giá trị quốc văn nay tôn lên cũng nhờ ngọn bút tiên sinh. Nay quốc dân đương cổ vũ về quốc văn há lại quên một bậc đã có công với quốc văn hay sao? Đã hay những bậc huân nghiệp đời trước, không phải một mình tiên sinh, song Hội ta sùng bái tiên sinh, chủ ý chuyên trọng về quốc văn, mong sau này quốc văn có một ngày hưng thịnh; mà cả tư tưởng học thuật đều bởi đó đằng tiến mãi lên, vậy thì một bậc đã có công to với quốc văn tức là có công to với nước vậy.

Tiên sinh lúc lâm chung có khẩu chiếm một câu rằng: “Bất tri tam bách dư niên hậu, thiên hạ hà nhân khấp Tố Như”, dẫu danh nhân tâm sự giãi với giang sơn, lời đổng khốc để đợi người thức giả, song nay vì tiếng vì đất mà nhớ đến người thì bài bia này dù không dám đương được chữ “khấp” cũng gọ là chữ “truyện” hay chữ “ký” để thay một nén hương chung của quốc dân vậy.

Minh rằng:

Đất đục, trời trong, hoà tan làm mực.
Nước biếc non xanh, tả nên đây bức.
Đã sẵn tài tình quản gì phong sắc?
Hồn văn đi về, cho thơm sực nức.
Kiếm gác bên đền, gió mưa vẫn sắc.
Bút tựa mặt hồ, trăng sao vằng vặc.
Cảnh ấy bia này nghìn thu dằng dặc.

Ngày rằm tháng hai năm Kỷ Tỵ, Hội Khai Trí Tiến Đức cẩn chi.



Sắc Nguyễn Du, Đời Gia Long [4] Vịnh Kiều

I.
Giọt nước Tiền đường chẳng rửa oan,
Yên hoa bao trắng nợ hồng nhan?
Lòng tơ còn vướng chàng Kim Trọng;
Gót ngọc chưa tiêu chốn Thủy quan.
Nửa giấc đoạn trường tan gối điệp;
Một giây bạc mệnh dứt cầm loan.
Cho hay những kẻ tài tình lắm,
Trời bắt làm gương để thế gian.

(Dịch nguyên Hán văn của Hoa đường Phạm Quý Thích)

II.
Đã biết má hồng thời phận bạc,
Trách Kiều nhi chưa vẹn tấm lòng vàng.
Chiếc quạt thoa, đành phụ nghĩa Kim lang;
Nặng vì hiếu nhẹ vì tình thời cũng phải.
Từ Mã Giám Sinh cho đến chàng Từ Hải,
Cánh hoa tàn đem bán chốn thanh lâu.
Bây giờ Kiều còn hiếu vào đâu?
Mà bướm chán ong chường cho đến thế?
Bạc mệnh chẳng lầm người tiết nghĩa;
Đoạn trường cho đáng kiếp tà dâm!
Bán mình trong bấy nhiêu năm,
Đố đem chữ “hiếu” mà nhầm được ai!
Nghĩ đời mà chán cho đời.

(Nguyễn Công Trứ)

III.
Kiều nhi giấc mộng bặt như cười.
Tỉnh dậy xuân xanh quá nửa rồi!
Số kiếp bởi đâu mà lận đận?
Sắc tài cho lắm cũng lôi thôi!
Cành thoa vường Thuý hương còn bén;
Non nước sông Tiền nợ chửa xuôi.
Không trách chàng Kim đeo đẳng mãi,
Khăng khăng vớt lấy một phần đuôi.

(Yên Đổ Nguyễn Khuyến)

IV.
Than ôi! Một bước phong trần, mấy phen chìm nổi!
Trời tình mù mịt, bể hận mênh mông.
Sợi tơ mành theo gió đưa đi, cánh hoa rụng chọn gì đất sạch!
Ai dư nước mắt khóc người đời xưa? Thế mà giống đa tình luống những sầu chung, giọt lệ Tầm dương chan chứa; lòng cảm cựu ai xui thương mướn? Nghe câu Ngọc thụ não nùng. Cho hay danh sĩ giai nhân, cũng kiếp hoa nghiêm nặng nợ. Ngán nỗi non xanh đất đỏ, để riêng ai lưu lạc đau lòng.

(Trích bài tựa Hán văn để Thanh Tâm tài nhân thi tập của Chu Mạnh Trinh, Đoàn Tư Thuật dịch)

V.
Tiếng sóng ân tình bốn mặt ran,
Tướng quân chi tiếc cánh hoa tàn!
Đôi hàng nước mắt, đôi làn sóng;
Nửa đám ma chồng, nửa tiệc quan,
Tổng đốc ví thương người bạc phận,
Tiền đường chưa chắc mả hồng nhan,
Chờ chờ nấm đất bờ sông nọ,
Hồn có nghe chăng mấy giọng đàn?

(Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu)


Cảm đề Đoạn trường tân thanh

I.
Oan nghiệp khư khư buộc lấy mình,
Xót cho tài sắc lại đa tình.
Gió mưa năm ngón hai dòng lệ,
Cát bụi mười phương một chữ trinh.
Giữa cuộc bao phen liều nhắm mắt,
Trong mơ nửa kiếp đã in hình,
Đoạn trường tiếng ấy nghìn thu mới,
Trang Cảo Thơm còn dấu hiển linh.

II.
Trăng xế hoa gần, đêm tịch liêu,
Sử Phong Tình ngát, sóng tình xiêu.
Văn Hà Tĩnh, chuyện đời Gia Tĩnh,
Nhớ Át Kiều, thương nghiệp Thuý Kiều.
Hòn đá ba sinh lăn lóc mãi,
Tấm lòng thiên cổ vấn vương nhiều,
Mua vui cũng được… ai người khóc?
Hoài cảm riêng mình thử nói điêu.

III.
Ý đã cao mà bút đã tinh,
Nòi si vạn thuở một giây tình.
Cảm thông đến cả trời Nam Quốc,
Luân lạc riêng gì gái Bắc Kinh?
Hạt bụi nhớ quên lòng đại khối,
Hoa đèn thức ngủ bướm Trang Sinh.
Ấy ai soi tấm gương “tài luỵ”,
Có thấy hồn ai nhập bóng mình?

IV
Ôi Thuý Kiều xưa khóc Đạm Tiên,
Hoàng lang giờ lại khóc Tiên Điền.
Dây thông cảm buộc từ ba kiếp,
Số đoạn trường ghi chẳng một tên.
Xác mới đây còn thân cũ nhớ,
Trời xanh đâu chỉ má hồng ghen.
Bốn trăm năm lẻ tình khôn dứt,
Lệ trước mồ chưa ráo trước đèn.

V.
Ai rằng u hiển với quan san,
Trích địa tây thiên một nỗi hàn
Song nở mai, ngờ sen động giấc
Thơ rơi lệ, tưởng máu loang đàn.
Gối chăn lạnh đầy hoa kiểu sử,
Vòng xuyến về chưa nguyệt thế gian.
Tình-cách-đời nghe lòng sực thức,
Trầm luân biết có bể vơi oan?

(Trích tập thơ Rừng phong của Vũ Hoàng Chương)


Bình Kiều

I.
Đem bút mực tả lên tờ giấy những câu vừa lâm ly, vừa ủy mị, vừa đốn toả, vừa giải thư, vẽ hệt ra một người tài mệnh trong mười mấy năm trời, cũng là vì cái cảnh lịch duyệt của người ấy có lâm ly ủy mị, đốn toả, giải thư, thì mới có văn tả hệt ra như thế vậy.

(Trích bài Tựa của Phong Tuyết, chủ nhân Thập thanh thi, viết tháng 2 năm Mậu Tý, hiệu Minh Mệnh, 1828, Bùi Kỷ và Trần Trọng Kim dịch)

II.
Ta lúc nhàn đọc hết cả một lượt, mới lấy làm lạ rằng:

Tố Như tử dụng tâm đã khổ tự sự đã khéo, tả cảnh đã hệt, đàm tình đã thiết, nếu không phải có con mắt trông thấu cả sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt cả nghìn đời, thì tài nào có cái bút lực ấy?

(Trích bài Tựa của Tiên Phong, Mộng liên đường chủ nhân, viết tháng 2 năm đầu hiệu Minh Mạng, 1820, Bùi Kỷ và Trần Trọng Kim dịch)

III.
Người ta thường nói: con trai không nên xem Tam quốc truyền kỳ, con gái không nên xem Kim Vân Kiều, là sợ có phong hại cho đạo học mà động lòng dâm. Song không phải như thế. Còn nhỏ khi tôi mười bốn tuổi, phú nghĩa đã thông mà tứ văn chưa hoạt. Có người tiền bối bảo nên đọc truyện Thuý Kiều thì sau dễ viết hơn, tôi bèn lấy đọc. Tuy chỉ thông được đại ý, điển tích sâu xa, chưa có thể hiểu rõ, nhưng tứ văn quả nhờ thế mà thành hoạt bát hơn.

(Trích bài Lệ Ngôn bản tân khắc Đoạn trường tân thanh, hiệu Thành Thái năm thứ 14, 1902, của Kiều Oánh Mậu, Đào Duy Anh dịch)

IV.
Tả Vân thì:

“Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da”.

Đến tả Kiều thì:

“Làn thu thủy nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh”.

Trên nói “thua”, “nhường”, sắc trung chi hiền, đến chữ “ghen”, chữ “hờn” thì rõ là sắc trung chi thánh. Trong sắc giới mà có phân bậc thánh bậc hiền thì mấy chữ đó chính là tác giả đã khổ tâm chọn lựa, nấu nướng, un đúc để tả ra cho rành không lẫn nhau.

(Ý kiến của Thái Sơn Đặng Nguyên Cần do Tùng Ngư thuật lại, xem Tiếng dân, ngày 9 Févrer 1937)

V.
Nói về văn chương quốc âm của ông Nguyễn Du, thì vẫn là hay thật, song cái lối văn vận, ngâm nga ngợi hát, chỉ là một lối trong đạo văn chương. Văn tuy hay mà truyện là một truyện phong tình thì có vẻ ai dâm sầu oán, đạo dục tăng bi, tám chữ ấy không tránh đằng nào cho khỏi. Cái bản ý ông Nguyễn Du làm truyện Đoạn trường tân thanh (tức là Truyện Kiều) chỉ là mượn văn chương mà ngụ chút tâm sự mình; cho nên ông đã có câu:

“Lời quê góp nhặt nên bài,
Mua vui cũng được một vài trống canh”.

(Trích ở bài “Chánh học cùng Tà thuyết” của Tập Xuyên Ngô Đức Kế đăng trong Hữu thanh tạp chí, số 21, ngày 21 Septembre 1924)

VI.
Phong tình mà tiết nghĩa, cả cái tâm lý cô Kiều là gồm trong bốn chữ ấy. Lịch sử không thiếu gì những gương đàn bà tiết liệt, nhưng các bậc ấy cao nghiêm quá, chỉ khiến cho người ta kính sợ, không cho người ta mến yêu. Ở đời không thiếu gì những kẻ trăng hoa, nhưng các bậc ấy bỉ tiện quá, chỉ khiến cho người ta khinh nhờn, không khiến cho người ta quý chuộng. Có cái đức nghiêm của người liệt nữ, mà lại có cái vẻ tình của khách phong lưu, đức hạnh đủ khiến tính, tài tình đủ khiến yêu, giá trị đủ khiến quý, thân thế đủ khiến thương, vì cảnh ngộ phải nặng kiếp đào hoa, trong tình ý vốn ra người tiết nghĩa, ở nơi ô trọc mà vẫn giữ được tiết thanh cao, gặp cảnh gian nan mà không hề đến nỗi đắm đuối, Kiều nương thật gồm được cả bấy nhiêu tính cách, nên ai đọc truyện cũng phải kính, phải thương, phải yêu, phải trọng.

(Trích bài “Truyện Kiều” của Phạm Thượng Chi trong Nam Phong tạp chí, số 30, Déc. 1919)



[1]Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim, trang 368.
[2]Đọc Hoàng Lê Nhất Thống Chí
[3]Tài liệu trích trong Văn hoạ kỷ niệm Nguyễn Du
[4]Tài liệu trích trong Văn Đàn Bảo Giám

Nguồn: Chân dung Nguyễn Du, in tại nhà in Nam Sơn, 36 Nguyễn An Ninh, Sài Gòn. Kiếm duyệt số 401/XB ngày 08-3-1960.

THƠ- Rimbaud, Arthur

thơ

Rimbaud, Arthur
Những nguyên âm | Con tầu say


Bản dịch của Lê Huy Oanh
Trần Hữu Dũng sao lục

Trong giai phẩm Văn số chuyên đề “Rimbaud, con phượng hoàng của thi ca thế giới’’ (bìa sau ghi “Giấy phép số 304/74/BDVCH/KSALP/GP. Sàigòn ngày 08-7-1974”), từ trang 7 đến trang 18 có in năm bài thơ của Rimbaud do Lê Huy Oanh dịch, gồm: “Quán Au Cabaret-Vert, năm giờ chiều”, “Những nguyên âm”, “Những hội hè của sự đói”, “Từ biệt” và “Bán xôn”.

Dưới đây là bài “Những nguyên âm”:


Bản dịch của Lê Huy Oanh
Những nguyên âm


A đen, E trắng, I đỏ, O xanh dương: những nguyên âm
Ít lâu sau ta sẽ nói tới sự ra đời ngấm ngầm của bọn ngươi:
A, yếm đen rậm lông của lũ ruồi rực rỡ
Đang bay ào ào quanh những đống hôi thối hung dữ,

Những vịnh bóng tối; E, mầu trắng tinh khiết của những
đám hơi nước và những lều vải.
Những đỉnh núi nhọn đầy tuyết vươn ngạo nghễ, những
ông vua trắng, những cái rùng mình của đám hoa ombelles;
I, mầu tía, máu khạc, tiếng cười thoát ra từ những cặp môi đẹp
Đang trong cơn giận dữ hoặc trong những cơn say đầy vẻ sám hối;

U, những chu trình, những nét rung chuyển huyền diệu của
những biển xanh lá cây,
Sự bình yên của những cánh đồng có đầy mục súc đứng
gặm cỏ rải rác, sự bình yên của những nếp nhăn
Mà thuật luyện đan in vào những vầng trán hiếu học;

O, tiếng kèn thần thánh đầy nốt cao gắt kỳ lạ.
Những niềm im lặng trải suốt các Thế giới và các Thiên thần;
- O, chữ Oméga, tia tím của đôi Mắt Nàng!

Nhận xét của người dịch: – Bài “Voyelles” là một trong những bài thơ danh tiếng nhất Rimbaud. Bài này cũng còn được coi như một thứ thi nghệ (art poétique). Đây là một sự toàn thắng của trí tưởng tượng. Lần đầu tiên một người nhìn thấy mầu sắc và những hình ảnh do các nguyên âm gợi ra. Đây là những ảo giác đầy thực chất. Nếu không biết gây xáo trộn cho các cảm quan, bắt chúng phải tương ứng với nhau thì làm sao có được những ảo giác tuyệt vời, phong phú và thực đến thế. Rimbaud không những nhìn thấy các nguyên âm qua những hình ảnh bất ngờ đó mà còn nghe thấy, ngửi thấy những chữ đó.

Chẳng hạn: lũ ruồi rực rỡ đang bay ào ào (thuộc về thính giác) quanh những đống hôi thối hung dữ (thuộc về khứu giác). Một sự kiện nữa liên quan đến thính giác: O, tiếng kèn thần thánh đầy những nốt cao gắt kỳ lạ.

Khi đọc bài “Voyelles” người ta không khỏi liên tưởng đến bài “Correspondances” của Baudelaire, trong đó có câu “Les parfums les couleurs et les sons se répondent” (Những hương thơm, những mầu sắc và những âm thanh giao hưởng nhau) và câu “Il est des parfums fres comme des chairs d’enfants – Doux comme les hautbois, verts comme les prairies” (Có những hương thơm tươi mái như da thịt những trẻ con – Êm như những tiếng kèn ô boa, xanh như những đồng cỏ).

Về hiện tượng này Baudelaire gọi là “Unité des sens” hoặc “correspondances entre les sensations”; còn Rimbaud gọi là “Dérèglement des sens”.


_________

Và trong bài “Rimbaud, con tầu say” (trang 19 đến trang 39), tác giả Lê Huy Oanh có dịch vài đoạn của bài “Le Bateau ivre” (Con tầu say) như sau:


Bản dịch của Lê Huy Oanh
Con tầu say [trích đoạn]

Khi tôi đi xuôi những con sông điềm tĩnh thản nhiên
Tôi không còn cảm thấy những người kéo tầu lôi tôi đi nữa
Những tên Da đỏ đang hò hét om xòm đã nhắm bắn vào
những người đó
Và đã lột truồng họ ra đóng đanh họ lên những cột cờ.
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

Tôi biết những bầu trời rạn nứt những ánh chớp và những cột nước
Và những đợt sóng vỗ và những dòng thủy lưu; ban đêm, tôi biết
Ánh rạng đông tỏa lên giống như cả một bầy bồ câu,
Và đôi khi tôi thấy cái mà người khác ngỡ là ảo ảnh.

Tôi đã thấy vầng mặt trời thấp có điểm những vết
kinh khủng huyền bí
Phóng tỏa ra những vệt máu đọng dài tím ngắt;
Giống như những diễn viên trong những bi kịch rất cổ xưa
Những làn sóng làm di chuyển từ xa những nét rung rinh
giống như những đợt nắng lọt qua kẽ cửa xếp.

Tôi đã mơ ước cái đêm xanh dương có tuyết rực rỡ chói chang,
Nụ hôn chậm chạp dâng lên từng đợt ở những mắt biển,
Sự lưu thông của những chất nhựa lỏng dị thường,
Và sự thức giấc vàng và xanh lam của những chất
lân tinh đang ca hát!

. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

Như vậy, tôi, con tầu lạc lõng dưới những mớ tóc
của những vịnh nhỏ
Bị dông bão thổi dạt trong khoảng thinh không bát ngát
không có bóng chim,
Nếu như có bị sóng đánh tan nát thì cái khung đẫm nước của tôi
Chắc hẳn sẽ chẳng được cái chuyến thuyền nhỏ và các tầu
buôn cứu vớt đâu;

Là con tầu tự do, bốc khói, trên boong chỉ có những
đám sương mù mầu tím
Tôi húc thủng nền trời đo đỏ đang dựng như một bức tường;
Là một thứ ngon mắt cho các nhà thơ chân chính,
Tường đó mang trên mình những mảnh rêu mặt trời và
những nhớt mũi thanh niên;
Tôi di chuyển, thân tôi điểm đầy những vết trắng tỏa ra tia điện,
Là lớp gỗ điên rồ, tôi được những con hải mã ngư bơi theo hộ tống,
Khi những tháng Bẩy dùng những cây gậy lớn
Phang đổ sập những bầu trời siêu-hải-tính có những lỗ trũng ác liệt;

Tôi run rẩy khi cảm thấy từ một khoảng cách năm chục dặm
Những tiếng rên rỉ vì nứng tình của những con quái vật Béhémots và
những vực xoáy nước Maelstróm dầy dặc;
Là kẻ quay tơ vĩnh viễn của những cảnh im lìm mầu xnh dương,
Tôi luyến tiếc Âu Châu nơi có những thành cầu cũ kỹ.


Source : Tiền Vệ

Bích Khê (1916-1946)

Bích Khê (1916-1946)
(Thứ Sáu, 18 Tháng Hai-2011)

Tác giả : THỤY KHUÊ



Bích Khê tên thật là Lê Quang Lương, sinh ngày 24/3/1916 tại quê ngoại, xã Phước Lộc, quận Sơn Tịnh, nhưng lớn lên tại quê nội thị xã Thu Xà, xã Nghiã Hoà. Hai nơi đều thuộc tỉnh Quảng Ngãi. Mất ngày 17/1/ 1946, tại Thu Xà.
Là con út trong gia đình tám anh chị em (4 chị, 3 anh), cha là Lê Mai Khê một nhà nho mất sớm và mẹ là bà Phạm Thị Đoan. Thủa nhỏ Bích Khê học ở Thu Xà, rồi Đồng Hới và lên trung học vào trường dòng Pellerin Huế. Sau ra Hà Nội học tú tài, ban Triết. Năm 1934, Bích Khê bỏ học, cùng người bạn vào Phan Thiết mở trường tư, vừa dạy vừa sáng tác trong 2 năm (1934-1936). Mắc bệnh phổi từ 1935 (19 tuổi). Phải điều trị ở bệnh viện lao Pasquier, Huế, trong hơn một năm (1936-1937). 1938 trở lại Phan Thiết mở trường dạy học lần thứ nhì (1938-1939) và xuất bản tập thơ đầu tiên : Tinh huyết (1939) do Hàn Mặc Tử viết tựa.
Năm 1941 về Huế dạy học, được ít lâu, bệnh phổi tái phát, lại phải trở vào bệnh viện Pasquier điều trị lần thứ nhì, năm 1942. Mất năm 1946, ở tuổi ba mươi, đúng lúc cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ.
Làm thơ từ 15 tuổi (1931), theo các thể cổ điển như: Đường luật, từ khúc, hát nói, đăng trên các báo Tiếng dân (Huế), Phụ nữ tân văn (Sàigòn), và Đông Tây (Hà nội). Khoảng 1936, Bích Khê chuyển sang Thơ mới.
Tập Tinh huyết (1939) là tác phẩm duy nhất được in khi Bích Khê còn sống.

Thơ ông không được nhắc đến trong một thời gian dài ở miền Bắc, phần vì người ta không hiểu thơ Bích Khê, nhưng lý do chính là chính trị: Bích Khê dịch cuốn Retour de L’U.R.S.S (Ở Nga về) của André Gide, viết năm 1936, kể nỗi thất vọng sau khi đi thăm «thiên đường cộng sản». Mặc dù chưa in, nhưng việc dịch này, kèm thêm sự kiện Bích Khê tỏ ý bất bình khi nghe tin Tạ Thu Thâu bị ám sát, đã khiến người ta liệt Bích Khê vào hàng ngũ phản động Trotskiste, và tên tuổi ông bị chính thức loại ra khỏi danh sách những nhà thơ tiền chiến.
Năm 1966, tại Sàigòn, báo Văn (do Trần Phong Giao quản nhiệm) làm số tưởng niệm Bích Khê (số 64, ra ngày 15/ 8/ 1966), với những tư liệu do gia đình cung cấp và bạn thân viết. Nhờ những bài của bà Lê Ngọc Sương (chị ruột nhà thơ), của Tam Ích, của Quách Tấn... mà chúng ta biết rõ thêm nhiều chi tiết về cuộc đời Bích Khê, một số bài thơ của ông cũng được đến với độc giả.
Tập Tinh hoa xuất bản sau này, gồm những bài thơ làm sau Tinh huyết và một số bài đã có trong Tinh huyết, được sửa lại, hoặc cắt ngắn đi.
So sánh hai tác phẩm, Tinh huyết vẫn là chính. Những sáng tạo mới đều nằm trong Tinh huyết. Tinh hoa trở lại gần với thơ truyền thống. Tinh huyết là thời kỳ sung mãn, có Hàn Mặc Tử khuyến khích. Bích Khê xuất hiện sau Hàn Mặc Tử vài năm, chịu ảnh hưởng thơ Hàn Mặc Tử. Tác phẩm của Bích Khê cũng chịu những chìm nổi, đau thương, như tác phẩm của Hàn Mặc Tử. Tuy nhiên, trong Tinh huyết, Bích Khê đã hình thành cấu trúc thi ca của riêng mình, một cấu trúc hiện đại, khác hẳn các nhà thơ mới, mà cũng không giống thi pháp của Hàn Mặc Tử.

Thi pháp Bích Khê

Thơ Bích Khê là sự giao lưu giữa cổ điển và hiện đại, trong kiến trúc âm nhạc và hội họa. Đặc biệt trong lối tạo hình, ông đã sử dụng một phương pháp mới, lúc ấy chưa thịnh hành ở Việt Nam: phương pháp cắt dán (collage).
Bài Tỳ bà của Bích Khê là một khúc ngâm mới, dựa trên tinh thần Tỳ bà hành.
Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị, bản dịch của Phan Huy Thực (nhiều nơi vẫn còn ghi là của Phan Huy Vịnh, con trai Phan Huy Thực) có những lời tuyệt bút:
Nước suối lạnh, dây mành ngừng đứt,
Ngừng đứt nên phút bặt tiếng tơ.
Ôm sầu, mang giận ngẩn ngơ,
Tiếng tơ lặng ngắt, bấy giờ càng hay.
Bình bạc vỡ tuôn đầy dòng nước
Ngựa sắt giong, xô xát tiếng đao.
Cung đàn trọn khúc thanh tao,
Tiếng buông xé lụa, lựa vào bốn dây.
Thuyền mấy lá đông tây lặng ngắt,
Một vầng trăng trong vắt lòng sông (Tỳ bà hành diễn nôm)

Tỳ bà hành là sự giao hoà âm nhạc và cảnh sắc trong một bút pháp thần diệu. Bích Khê mượn tinh thần Tỳ bà hành, tức là tinh thần giao hoà âm nhạc và cảnh sắc, nhưng thay đổi toàn diện bối cảnh, kiến trúc âm nhạc và kiến trúc hình ảnh, để tạo ra một tác phẩm hiện đại:

Vàng sao nằm im trên hoa gầy
Tương tư người xưa thôi qua đây
Ôi! nàng năm xưa quên lời thề
Hoa vừa đưa hương gây đê mê

Tôi qua tim nàng vay du dương
Tôi mang lên lầu lên cung Thương
Tôi không bao giờ thôi yêu nàng
Tình tang tôi nghe như tình lang

Yêu nàng bao nhiêu trong lòng tôi
Yêu nàng bao nhiêu trên đôi môi
Đâu tìm Đào Nguyên cho xa xôi
Đào Nguyên trong lòng nàng đây thôi

Buồn lưu cây đào xin hơi xuân
Buồn sang cây tùng thăm đông quân
Ô! Hay buồn vương cây ngô đồng
Vàng rơi! Vàng rơi: Thu mênh mông (Tỳ bà)

Phạm Duy - vẫn Phạm Duy - là người duy nhất nghe được tiếng nhạc lạ trong bài Tỳ bà và ông đã tạo ra một ca khúc réo rắt, âm hưởng giao thoa kim cổ. Phải nghe Thái Thanh hát Tỳ bà mới thấm được cõi nghệ thuật linh diệu của ba thiên tài: Bích Khê, Phạm Duy, Thái Thanh.
Kiến trúc âm nhạc trong Tỳ bà của Bích Khê dựa trên âm bằng (dấu huyền hoặc không có dấu). Toàn bài hầu như không có âm trắc (sắc, hỏi, ngã, nặng). Lối lập âm này, trong thơ mới, có một số người đã làm (đặc biệt Phạm Huy Thông), nhưng không mấy ai thành công như Bích Khê. Vì chỉ có âm bằng nên nhạc trong thơ đổi cung bậc, không còn điệu cổ điển và cũng khác hẳn thơ mới.
Về mặt tạo hình, lần đầu tiên, trong Tỳ bà, một nghệ sĩ Việt áp dụng thủ pháp cắt dán: các hình ảnh được «cắt dán» rồi ghép cạnh nhau, cho nên ảnh sau không «liên hệ» gì đến ảnh trước. Ví dụ, trong câu Vàng sao nằm im trên hoa gầy, hai hình ảnh vàng sao và hoa gầy, chẳng dính dáng gì với nhau, nhưng được nhà thơ cho nằm im trên nhau. Sự kiện này hầu như không có trong thơ cổ điển và thơ mới. Vì trong cấu trúc cổ điển và lãng mạn, chữ thường đôi với nghĩa, cho nên các yếu tố chữ luôn luôn có liên hệ chặt chẽ, để tạo thành một câu «có nghiã». Trong khi «vàng sao nằm im trên hoa gầy» của Bích Khê là một câu gần như «vô nghiã».
Còn một điểm nữa: việc Bích Khê đem hình ảnh sao vàng ở trên trời xuống, cho nó nằm im trên hoa gầy (dưới đất) là một động tác cắt dán; không giống với động tác của Hàn Mặc Tử trong những câu « Bóng nguyệt leo song rờ rẫm gối» hay «Bỗng đêm nay trước cửa bóng trăng quỳ / Sấp mặt xuống uốn mình theo dáng liễu» là những động tác của tưởng tượng. Và lại cũng không giống câu: «Bóng gương lồng bóng đồ mi chập chùng» của Nguyễn Gia Thiều; vì tiên sinh dùng biện pháp ẩn dụ: bóng gương để chỉ nhà vua, bóng đồ mi, người cung nữ.
Tóm lại, cùng mô tả một cảnh «mây mưa», mỗi nhà thơ có một thủ pháp khác nhau.
Những phương pháp khác nhau đó, phản ánh thời đại, lối viết, và cá tính của nhà thơ: Ôn Như Hầu dùng ẩn dụ, phong cách tạo hình trong thơ cổ điển. Hàn Mặc Tử dùng tưởng tượng, phong cách sáng tạo hiện đại phát triển từ Thi sơn (Parnasse). Và Bích Khê dùng phương pháp cắt dán (collage) trong hội hoạ hiện đại (Matisse). Nhưng việc đặt những yếu tố hoàn toàn khác nhau cạnh nhau, còn là phương pháp của Siêu thực nữa.
Cho nên có thể nói rằng ngay từ năm 1936, Bích Khê đã áp dụng những phương pháp rất mới của Tây phương để làm thơ, trong một tinh thần hết sức Đông phương.

Cấu trúc gián đoạn

Hình ảnh trong thơ Bích Khê là do cắt dán lắp ghép. Hình ảnh trong thơ Hàn Mặc Tử là do tưởng tượng. Nhìn bề ngoài có vẻ giống nhau nhưng thật ra rất khác: Tuy Hàn Mặc Tử là «thày» của Bích Khê, nhưng thơ Bích Khê «hiện đại» hơn thơ Hàn, vì có thêm kỹ thuật cắt dán và siêu thực, mà Hàn chưa kịp tiếp thu. Nhưng cùng trong hoàn cảnh bệnh hoạn, Bích Khê không cô đơn, tuyệt vọng như Hàn, nên thơ Bích Khê không đạt mức đớn đau tuyệt đỉnh và tuyệt tác như thơ Hàn Mặc Tử.
Biện pháp siêu thực trong thơ Bích Khê hiện rõ ở cả chữ, lẫn câu: Nhà thơ không chỉ để hai hình ảnh khác nhau cạnh nhau, mà còn để cả hai câu thơ hoàn toàn khác nhau cạnh nhau, như:
Vàng sao nằm im trên hoa gầy
Tương tư người xưa thôi qua đây.
Câu trên là sự khăng khít xác thịt: Vàng sao nằm im trên hoa gầy
Câu dưới: Tương tư người xưa thôi qua đây, là sự tan vỡ.
Nói đúng hơn, vừa đang yêu: tương tư, vừa tan vỡ: người xưa thôi qua đây.
Bích Khê đã đảo lộn trật tự thời gian sống, để tạo nghịch cảnh, nghịch lý: thường thì người ta tương tư, rồi khăng khít và sau cùng mới lìa nhau; đằng này, người ta khăng khít trước, rồi mới tương tư, rồi xa nhau.
Tóm lại câu thơ của Bích Khê không có logique, vì vậy mà Hoài Thanh và nhiều người khác đọc không hiểu. Hoài Thanh ca tụng câu:
Vàng rơi! Vàng rơi: Thu mênh mông!
Vì đó là câu thơ hay, dễ hiểu. Sau này người ta chép lại lời Hoài Thanh như cái máy, mà ít ai tìm hiểu kỹ càng về thơ Bích Khê.
Tỳ bà là một trong những bài thơ đầu tiên của Việt Nam có cấu trúc gián đoạn: Bích Khê dán những chữ không liên lạc gì với nhau cạnh nhau, dán những câu không liên lạc với nhau lại gần nhau, để tạo ra những hình ảnh tuyệt vời, hoàn toàn siêu thực, như: tay-đêm, giăng-mền, trăng-đan, mây-nhung, thuyền-hồn...

Nàng ơi! Tay đêm đang giăng mền
Trăng đan qua cành muôn tay êm
Mây nhung phơi màu thu trên trời
Sương lam phơi màu thu muôn nơi

Cây đàn yêu đương làm bằng thơ
Dây đàn yêu đương run trong mơ
Hồn về trên môi kêu: em ơi
Thuyền hồn không đi lên chơi vơi

Thu ôm muôn hồn chơi phiêu diêu
Sao tôi không màng kêu: em yêu
Trăng nay không nàng như trăng thiu
Đêm nay không nàng như đêm hiu. (Tỳ bà)

Mỗi câu thơ là một đứt đoạn: Bích Khê là nhà thơ tiên phong, đã đi trước thời đại, thể hiện sự đứt đoạn trong không gian và trong tâm hồn. Sự đứt đoạn của đời sống là một trong những khám phá của nghệ thuật hiện đại trong toàn bộ thơ, văn, nhạc, hoạ, từ đầu thế kỷ XX. Bởi mỗi ý nghĩ của chúng ta là một đứt đoạn, mỗi hình ảnh chúng ta nhìn thấy trong đời sống là một đứt đoạn.
Bích Khê đã nhìn thấy sự đứt đoạn đó từ những năm 1936-39. Bẵng đi một thời gian dài, mãi sau này, ở miền Nam mới thấy xuất hiện trong thơ Thanh Tâm Tuyền, trong ca từ Trịnh Công Sơn, và ở miền Bắc, trong thơ Lê Đạt.
*
Không nên đọc thơ Bích Khê như ta đọc thơ cổ điển hoặc thơ mới, vì Bích Khê không làm thơ theo logique truyền thống, nghiã là thơ có mạch lạch có nghiã. Nên đọc thơ ông như xem tranh: khi ấn tượng, khi lập thể, khi siêu thực, khi trừu tượng... tranh có nhạc đệm.
Khó phân biệt được lúc nào Bích Khê dùng bút để viết, lúc nào ông vung cọ để vẽ, lúc nào ông vung đũa để đánh nhạc.
Nhạc trong thơ Bích Khê khác với nhạc trong thơ Hàn Mặc Tử: Nhạc trong thơ Hàn là nhạc thầm trong mỗi chữ. Nhạc trong thơ Bích Khê là nhạc nổi trong thanh âm lạ, âm bằng.
Thơ Bích Khê là sự hoà âm giữa các điệu nhạc cổ, như điệu Hoàng hoa, điệu Mộng cầm, với những màu sắc tân kỳ của hội hoạ hiện đại :

Lam nhung ô! màu lưng chừng trời;
Xanh nhung ô! màu phơi nơi nơi.
Vàng phai nằm im ôm non gầy;
Chim yên eo mình nương xương cây.
Đây mùa Hoàng hoa, mùa Hoàng hoa :
Đông nam mây đùn nơi thành xa...

Oanh già theo quyên quên tin chàng!
Đào theo phù dung: thư không sang!
Ngàn khơi, ngàn khơi, ta, ngàn khơi:
Làm trăng theo chàng qua muôn nơi;
Theo chàng ta làm con chim uyên;
Làm mây theo chàng bên nhung yên.

Chàng ơi! hồn say trong mơ màng,
- Hồn ta? hay là hồn tình lang?
Non Yên tên bay ngang muôn đầu...
Thâm khuê oan gì giam xuân sâu?
- Ai xây bờ xanh trên xương người?!
- Ai xây mồ hoa chôn đời tươi?!
(Hoàng hoa)

Bài Hoàng hoa thể hiện rõ sự giao hưởng giữa thơ và họa. Nhà thơ như một cánh chim, bay qua những khung cảnh khác nhau, vẽ lại trước mắt ta những bức tranh khác nhau, trong cùng một khoảnh khắc: Vàng phai nằm im ôm non gầy / Chim yên eo mình nương xương cây / Đây mùa Hoàng hoa, mùa Hoàng hoa / Đông nam mây đùn nơi thành xa...
Những bức tranh trên đây (phần nhiều là ấn tượng) chỉ gợi cảm xúc, mà không mô tả. Ví dụ, trong bức đầu: Vàng phai nằm im ôm non gầy.
Người đọc, người xem, người nghe, không thể thấy rõ hiện tượng «vàng phai nằm im ôm non gầy» nó như thế nào, mà chỉ mơ hồ cảm thấy một ấn tượng nào đó.
Những câu thơ kế tiếp cũng thế: Chim yên eo mình nương xương cây, rồi Đông nam mây đùn nơi thành xa, toàn là những bức ấn tượng, mơ hồ như sương phủ.

Ấn tượng mờ sương

Vì đâu có cảm tưởng mờ sương toả lên từ những bức tranh?
Khảo sát kỹ hơn, trong Vàng phai nằm im ôm non gầy, sự mờ sương toả ra ở bốn chữ vàng phai nằm im.
- Ai nằm im?
- Một màu nằm im
- Màu gì?
- Màu vàng. Không hẳn thế, màu vàng phai.
Nhưng không ai biết và không ai có thể định nghĩa được màu vàng phai ấy như thế nào?
Và cũng không ai có thể «khẳng định» vụ vàng phai nằm im ôm non gầy đó, nó như thế nào? Chỉ cảm. Ấy là chưa kể: non gầy là gì?
Các vị kiểm duyệt thơ hoặc phê bình thơ nhưng không biết thơ, thường hay phê câu này, câu kia vô nghĩa, là vì thế.
Cho nên, nếu không phải là thi-họa sĩ, thì không thể vẽ được những hình ảnh như Vàng phai nằm im ôm non gầy, ấy.
Sự gợi hình trong thơ Bích Khê, luôn luôn bắt nguồn từ hội hoạ, từ cách tạo ấn tượng trong lòng người xem trước, rồi mới nghe và đọc.
Bài Hoàng hoa, không chỉ bắc cầu giữa hội hoạ và âm nhạc, mà còn là nhịp cầu kim cổ. Hoàng Hoa, vùng đất Trung Hoa, thời Chiến quốc và đời Đường thường có «rợ» Hồ quấy nhiễu. Hoàng Hoa là bãi chiến trường.
Hoàng hoa còn là cúc vàng. Hoa cúc nở mùa thu, mùa lá vàng và cũng là lúc các thanh niên, thời Chiến quốc, đến tuổi đi lính phải nhập ngũ, đi «quân dịch», năm sau mới về. Vì vậy Hoàng hoa vừa là cúc vàng, vừa là bãi chiến trường, vừa là thời đi lính.
Trong Chinh phụ ngâm có câu :
Xót người lần lữa ải xa
Xót người nương chốn Hoàng hoa dậm dài
Chữ Hoàng hoa trong Chinh phụ ngâm có hai nghiã: vừa là hoàng hoa thú (người lính thú ở chiến trường), lại còn có thể là trại cúc vàng, nơi người chinh phụ tựa cửa nhớ chồng ngoài quan ải.
Vì vậy, hai câu: Đây mùa hoàng hoa mùa hoàng hoa/ Đông nam mây đùn nơi thành xa... tưởng như không có gì liên hệ với nhau, nhưng thực ra đó chính là khúc chinh phụ ngâm mới của Bích Khê, ngẫu hứng từ những câu: Xót người nương chốn Hoàng hoa dậm dài và Trống tràng thành lung lay bóng nguyệt trong Chinh phụ ngâm.
Người chinh phụ ngày xưa, ngâm:
Thủa lâm hành oanh chưa bén liễu
Hỏi ngày về ước nẻo oanh ca
Nay quyên đã giục oanh già
Ý nhi lại gáy trước nhà líu lo
Thủa đăng đồ mai chưa dạn gió
Hỏi ngày về chỉ độ đào bông
Nay đào đã quyến gió đông
Phù dung lại đã bên sông bơ xờ (Chinh phụ ngâm)

Và người chinh phụ ngày nay, trong thơ Bích Khê, hát:
Oanh già theo quyên quên tin chàng!
Đào theo phù dung: thư không sang!
Ngàn khơi, ngàn khơi, ta, ngàn khơi:
Làm trăng theo chàng qua muôn nơi;
Theo chàng ta làm con chim uyên;
Làm mây theo chàng bên nhung yên

Cùng bối cảnh nhớ chồng đi chinh chiến, nhưng hai khúc ngâm, xưa và nay, khác nhau.
Và đây, cảnh chết chóc nơi chiến trường, trong Chinh phụ ngâm:
Non Kỳ mộ chỉ trăng treo
Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò
Hồn tử sĩ gió ù ù thổi
Mặt chinh phu trăng dõi dõi soi
Chinh phu tử sĩ mấy người
Nào ai mạc mặt nào ai gọi hồn?

Trong thơ Bích Khê, sa trường là sự giao hưởng giữa những hồn ma trong cơn ác mộng của người chinh phụ:
Chàng ơi! hồn say trong mơ màng,
- Hồn ta? hay là hồn tình lang?
Non Yên tên bay ngang muôn đầu...
Thâm khuê oan gì giam xuân sâu?
- Ai xây bờ xanh trên xương người?!
- Ai xây mồ hoa chôn đời tươi?!


Ánh sáng trong thơ Bích Khê

Thơ Bích Khê là sự hoà tan hai không gian cổ điển và hiện đại trong lòng chữ. Nhìn một lõa thể, một cảnh thu, một vũ khúc, Bích Khê không vẽ lại những ấn tượng ấy trong hiện tại mà ông đẩy lùi chúng về hàng trăm năm, hàng ngàn năm trước, rồi mới đem chúng vào thơ.
Ví dụ, nhìn một điệu múa, Bích Khê viết :

Ô trời hôm nay sao mà xanh!
Ngọc trăng xây vàng trên muôn cành,
Nhung mây tê ngời sao kim cương,
Dạ lan tê ngời say men hương;

Lầu ai ánh gì như lưu ly?
Nụ cười ai trắng như hoa lê?
Thủy tinh ai để lòng gương hồ?
Không gian xà cừ hay san hô? (Nghê thường)

Vũ điệu trong thơ không còn là vũ điệu trước mắt ta nữa mà đã trở thành vũ điệu nghê thường của Đắc Kỷ, Bao Tự... trên cung Quảng.
Những khơi gợi ấy, ở đây, đến từ ánh sáng. Thứ ánh sáng mơ hồ huyền ảo của một đêm trăng giữa ban ngày: Ô trời hôm nay sao mà xanh! / Ngọc trăng xây vàng trên muôn cành / Nhung mây tê ngời sao kim cương. Tất cả những chữ: trời, xanh, ngọc, trăng, vàng, mây, ngời, sao, kim cương... trong ba câu thơ trên đều có khả năng tỏa sáng. Trong luồng sáng huyền ảo ấy, một đoá lan đêm (dạ lan) gây hương lạ trong câu thơ nối tiếp, chia thế giới làm hai: thế giới của ánh sáng và thế giới của bóng tối, qua một chữ dạ (nghiã là đêm): Dạ lan tê ngời say men hương. Rồi tiếp theo đó là một chuỗi những ánh sáng lạ khác:
Lầu ai ánh gì như lưu ly?
Nụ cười ai trắng như hoa lê?
Thủy tinh ai để lòng gương hồ?
Không gian xà cừ hay san hô?
Không thể biết những luồng sáng như ánh lưu ly, ánh hoa lê, ánh thuỷ tinh, ánh gương hồ, ánh xà cừ, ánh san hô... chiếu vào người đẹp trên lầu hay chính người đẹp trên lầu toát ra những ánh sáng huyền ảo ấy. Sự bí mật nằm trong ánh sáng và thơ dựa vào ánh sáng để hiện hữu, y như trong hội hoạ ấn tượng. Nhà thơ chưa vẽ, chưa đả động gì đến người đẹp, nhưng nàng đã xuất hiện: một sự xuất hiện liêu trai, mờ ảo, nghê thường, qua ánh sáng của vật chất chung quanh.
Và đó là lối tạo chân dung bằng ánh sáng trong thơ Bích Khê.
Trong bài Hiện hình, lại một chân dung khác, vẽ theo lối hiện thực hơn:
Tôi ráp lại xem. Ồ! sự lạ!
Một người thiếu nữ hiện trong trăng.
Khăn hồng chùi lệ ngấn đôi mắt;
Da thịt phô bày ý tuyết băng.
Nường hé môi ra. Bay điệu nhạc
Mát như xuân mà ngọt tợ hương:
Ôi sao là khúc Ba sinh lụy
Rào rạt như đầy nỗi cảm thương
Tiếng ngọc, màu trăng quấn quýt nường
Phút giây người lộ mỏng như sương
- Nường tan ra nhạc? - tan ra nhạc!
Khung trắng trời mây trắng lạ thường!
(Hiện hình)

Người con gái trong bức tranh này hội tụ hai yếu tố tiếng và màu: tiếng ngọc,màu trăng.
Nhưng không thể biết chân dung nàng được vẽ bằng nhạc hay nàng chính là âm thanh?
Dường như bút lông của hoạ sĩ chấm vào nghiên nhạc để vẽ nàng. Rồi cát bụi, nàng lại trở về với cát bụi:
- Nường tan ra nhạc? - tan ra nhạc!
Khung trắng trời mây trắng lạ thường!
Mỗi chân dung người đẹp mà Bích Khê phác lên, thường có nét Bích câu kỳ ngộ. Bức Tranh loã thể là Giáng Kiều khoả thân trong óc người con trai mới lớn đầy khát vọng nhục tình :
Nàng ở mô? Xiêm áo bỏ đâu dây?
Đến triển lãm cả tấm thân kiều diễm.
Nàng là tuyết hay da nàng tuyết điểm?
Nàng là hương hay nhan sắc lên hương?
Mắt ngời châu rung ánh sóng nghê thường;
Lệ tích lại sắp tuôn hàng đũa ngọc.
Đêm u huyền ngủ mơ trên mái tóc
Vài chút trăng say đọng ở làn môi.
Hai vú nàng! hai vú nàng! chao ôi!
Cho tôi nút một dòng sâm ngọt lộng.
Ôi lồ lộ một toà hoa nghiêm động!
Tôi run run hãm lại cánh hồn si...
Ồ hai tay rơi chén ngọc lưu ly;
Ồ hai chân nở màu sen ẻo lả;
Cho tôi nàng! cho tôi nàng! tất cả...
Tôi miên man uống lại mộng quỳnh dao
Cho đê mê, chới với, hồn lên cao,
- Một tinh cầu sẽ tan ra biển lệ.
(Tranh lõa thể)
Tranh lõa thể, một tác phẩm tuyệt vời mà âm nhạc và màu sắc dâng lên theo nhịp rung thể xác. Chàng trai xem triển lãm, trước bức tranh khoả thân có dáng dấp xưa, chàng vào mộng, trở lại hàng ngàn năm trước, sống lại giấc mơ Tú Uyên- Giáng Kiều? Hay chàng chính là Tú Uyên, đứng trước bức họa Giáng Kiều mình vừa hoàn tất, xao động bối rối, sống một giấc mơ mới mà nhịp độ thể xác đồng tiến với đam mê, với âm nhạc, màu sắc và thời gian?
Chàng là ai mà dám vượt vòng lễ giáo cổ truyền để tiến tới tự do nghệ sĩ? Chàng là ai mà dám phô bày nhục cảm xác thịt của mình trên trang giấy? Chàng là Tú Uyên đã «hiện đại hoá tư tưởng» của mình qua thơ Bích Khê? Hay chàng là Bích Khê, nói hộ người xưa những ẩn ức dục tình qua tiếng thơ thời nay?

Đôi mắt Bích Khê

Châu, bài thơ cuối trong tập Tinh huyết là một trường khúc, diễn tả hành trình sáng tạo của Bích Khê, hành trình biến hoá từ chữ sang châu. Bài thơ có ba phần:
Phần I, định nghiã cái đẹp: Đẹp câm trong pho tượng. Đẹp huyền ảo của người trong mộng. Đẹp rã rượi của tiếng đàn, của đôi mắt mùa thu. Đẹp đau thương trong đôi mắt lệ biến thành giọt châu.
Phần II, sự chuyển hoá từ cái đẹp sang cảm xúc và rung động trong tâm hồn.
Phần III, sự biến hoá những tinh lực, những rung động trong tâm hồn nhà thơ thành những giọt châu.
Đối với Bích Khê mắt là tác nhân chính và châu là thành quả của sáng tác.
Bích Khê coi mắt và châu như những tinh thể của thi ca.
Mắt nơi Bích Khê, tương đương với tưởng tượng nơi Hàn Mặc Tử.
Nếu Hàn Mặc Tử dùng óc tưởng tượng để sáng tạo thì Bích Khê dùng mắt để làm thơ.
Tất cả tinh anh nơi Bích Khê tụ vào đôi mắt. Gần Bích Khê, chắc không thể nào tránh khỏi bị cuốn hút bởi đôi mắt. Ngày nay, chúng ta chỉ còn lại tấm ảnh duy nhất: chân dung một thiếu niên, có đôi mắt to đen đẹp tuyệt vời.
Bích Khê đã diễn tả hành trình sáng tạo của mình như sau: Trước tiên nhà thơ tiếp nhận những cảm xúc của thiên nhiên và đời sống, rồi nhập đồng trong tâm hồn:
Tôi dường nghe trong một phút mê man
Hồn thanh thiên cho đến phách dương gian
Đều vỡ lở cho rung rinh thần thức
- Một thế giới mờ đi trong sáng đục
Và im hơi cho xuất khí âm hư...
Từ vùng đồng thiếp ấy, đánh lên những âm giai và màu sắc. Những yếu tố này đọng lại trong ánh mắt. Rồi từ tinh cầu mắt đó, biến thành những giọt châu thơ:
Sao? Màu nàng vấn vít lấy màu thơ
Với tình tiết và tên hoa vô thượng
Với đôi mắt đẹp câm trong sắc tượng
Biến ra châu nguyên vẹn cốt thiên đàng
Nên Thiên Tài đang tắm ở suối vàng
Theo trực giác bay lên nguồn ngọc lệ

Như thế, mỗi lần nhả châu trong mắt ngọc, thiên tài phải chết đi trong đê mê huyền bí, trong giếng loạn của tâm hồn:
Cho đã khát trong đê mê huyền bí
Ánh tiên tri nức nở sóng anh linh
Đường kinh tuyến hút nhiễm chất vô hình
Dẫn địa ngục đi vào đôi giếng loạn?

Đỉnh hoang loạn thể xác và tâm hồn cũng là đỉnh thơ: muốn đạt tới thơ, tức cõi châu, nhà thơ phải thăng hồn tới cực điểm của đớn đau hoang loạn, tới sự mất trí, tới sự rã rời thể xác, tới xuất huyết, tới địa ngục và thiên đàng:
Tôi chết ngay đây chẳng nói rằng
Cả mình lạnh khớp đến hàm răng
Thần gì đã xuất ra đôi mắt
Vội đẩy hồn tôi tới bóng giăng

Một bóng giăng rồi một bóng giăng
Hồn vẫn phiêu lưu rất nhẹ nhàng
Đến mút không gian là bát ngát
Một trời thơ mộng đẹp mê man

Và trong vùng ánh sáng và âm thanh huyền diệu ấy, đôi mắt thần tiên hiện ra:
Bỗng khúc dương cầm nấc tiếng thu
Bỗng đôi mắt ngọc hiện xanh mờ...
Và châu và báu và thanh khí
Nức nở tan thành vạn giọt thơ

Đạt đến cõi thơ, mọi sự lại bắt đầu trở lại.
Toàn bài thơ là hành trình của sáng tác, trong một vòng tử sinh huyền bí:
Tối hôm nay mùa thu đang ảo não
Trong gió rên và trong lá vàng bay
Mỗi gân trắng rúng rẩy một luồng say
Mỗi hơi thở hoa hồng vang nức nở
Và mạch máu không gian dường vỡ lở
Hú ma điên... kinh động vạn hồn đau

Muôn u phiền đầy đặc ứ trong đầu
Muôn sầu hận xây mồ ngay giữa phổi
Tôi ngây ngất trong bể lòng sôi nổi
Để hồn mê trôi dạt cõi xa mơ
Mình lặng ngồi trên tảng đá trơ vơ
Tình khóc mướt trong đêm thu ấp ủ

Đôi mắt Bích Khê chính là nguồn sáng tạo, nguồn khổ đau và hạnh phúc. Chưa ai hỏi mắt mình: Người là ai? Nhà thơ chắc cũng không biết rõ nguồn sáng trong đôi mắt ấy từ đâu đến và sẽ dẫn mình đến đâu? Đôi mắt là cửa sổ của linh hồn như người ta thường nói, nhưng linh hồn Bích Khê là một cõi huyền bí xa lạ, của một cuộc đời ngắn ngủi trên dương gian, nhưng vô tận ở cõi siêu hình:

Hỡi đôi mắt! Nơi người là ngọc thạch
Nơi giếng người phản chiếu ảnh thiên thần
Nơi suối người giữ kín tiếng châu ngân
Nơi triển lãm cả một bầu tiên động
Nơi rung rinh cả một trời thơ mộng
Người là ai?Người hỡi! Người là ai?
- Nhưng đôi mắt lờ lặng và mê say
Nhìn đắm đuối không một lời náo nức

Nhạc khiêu vũ đâu đây lan sóng múa
Tôi tưởng chừng... da thịt biến ra thơm
Những đầu lâu rã hết khí xanh dờn
Những xiêm áo bay rờn trong cảnh mộng
Cả địa ngục đi vào trăm lỗ hổng
Bắn tinh ra trộn trạo giữa nguồn hương

- Hỡi đôi mắt! hồ thuỷ tinh trong suốt
Soi trần gian địa ngục vạn đời ma
Hãy nói tên thần bí của muôn hoa
Hãy kể hết nhiệm mầu muôn thế giới
Những bí quyết khí nhạc lên vời vợi
Những màu thiêng khi đau khổ lên cao
Những thơm ngào phối hiệp giữa trăng sao
Những khoái trá truyền qua hai xác thịt
Bằng hơi điện - bằng hơi điên tha thiết
Người là ai? người hỡi! người là ai?
- Nhưng đôi mắt lờ lặng và mê say
Nhìn đắm đuối, không một lời náo nức

Bích Khê, ngàn đời sau vẫn còn là vì sao mới, chiếu vào cõi thơ, bằng đôi mắt ngọc của một thiên thần, biến chữ thành châu.

Thụy Khuê











Copyright © 2011 hopluu.net. All rights reserved