15/6/11

Kenzaburo Oe -Nuôi thù (2)

Kenzaburo Oe
Nuôi thù

Diễm Châu dịch


SÁNG HÔM SAU CHA LẲNG LẶNG ĐÁNH thức tôi dậy. Bấy giờ mới hồng đông. Một thứ nắng gắt pha lẫn với màu xám nhờ nhờ len qua từng kẽ hở ở những tấm vách ván căn nhà chứa đồ. Lúc nuốt vội bữa ăn sáng lạnh tanh tôi hãy còn ngái ngủ. Cha, súng trên vai, cái gói cơm trưa thắt ngang hông, nhìn tôi ăn với đôi mắt một màu vàng đục thiếu ngủ. Chợt tôi nhận thấy kẹp giữa hai đầu gối của người có một bó chặt những da lông chồn quấn trong một cái sắc gai rách. Tôi nín thở — thế ra người sắp ra tỉnh. Thế nào người cũng trình sở chuyện thằng mọi đen.

Bao nhiêu câu hỏi xoắn xít cuốn lên cổ họng tôi không khéo dám làm tôi chậm bữa. Cứ trông cái cằm bành bạnh ra của người đưa đi đưa lại dưới lớp râu rậm và cứng tôi cũng biết bữa nay người bẳn tính và thần kinh căng thẳng vì thiếu ngủ. Tối hôm trước, cơm nước xong người thay đạn mới rồi đi gác đêm.

Em tôi hãy còn nằm thiêm thiếp, đầu rúc vào cái chăn bốc mùi cỏ mốc. Tôi kéo cái áo thung màu lá cây đậm nặng nề xuống lồng ngực trần, xỏ đôi giày bố mà tôi đã để dành cho những dịp đặc biệt. Rồi tôi khoác bó lông chồn của Cha lên vai, chạy xuống cầu thang.

Sương lan thấp dọc con đường ẩm ướt, và toàn thể khu làng ngủ vùi trong lớp mù nhẹ bốc. Mấy con gà đã lặng gáy và không một tiếng chó sủa. Tôi thấy có một người lớn tuổi đương đứng dựa trên thân cây mơ bên cạnh căn nhà chứa đồ, tay lăm lăm khẩu súng. Cha nói mấy câu với người đứng gác. Tôi kinh sợ liếc nhìn về phía ấy, chỗ khung cửa trổ trên hầm mở ra, đen như một vết thương, nửa như e ngại cánh tay của người da đen có thể thò ra mà tóm lấy tôi. Tôi muốn ra khỏi làng ngay tức khắc. Khi chúng tôi lặng lẽ lên đường, thận trọng từng bước cho khỏi trượt chân trên làn đá, mặt trời đã xuyên qua lớp sương dầy, tỏa ánh sáng chan hòa ấm áp xuống.

«Thầy ra tỉnh trình việc thằng mọi đen phỏng?» tôi hướng về tấm lưng mạnh mẽ của Cha hỏi.

«Hử?» Cha lầm bầm. «Ừ.»

«Liệu có người cảnh sát nào ngoài tỉnh tới không thầy?»

«Tao chưa biết ra làm sao cả», Cha lầu bầu. «Phải đợi đến khi tờ trình lên tới văn phòng tỉnh đã.»

«Tại sao mình cứ giữ nó ở trong làng lại không được hở thầy?» tôi nói. «Nó có nguy hiểm lắm không?»

Cha lặng thinh không đáp. Một lần nữa tôi lại thấy bốc lên trong người cái kinh ngạc và sợ hãi đã cảm thấy đêm trước, lúc họ đem tên phi công da đen về làng. Không hiểu bây giờ nó đang làm gì dưới hầm? Tôi dám chắc nó sẽ trốn thoát, sẽ giết hết mọi người, giết luôn cả lũ chó săn và phóng lửa đốt nhà nữa. Tôi thấy sợ run lên được, tôi không muốn nghĩ tới chuyện đó. Vượt qua Cha, tôi hổn hển chạy xuống sườn đồi dài dặc.

Khi chúng tôi ra tới tỉnh, tôi ép sát vai vào đùi Cha bước thẳng tới trước mặt, lờ đi hết mọi sự khiêu khích của lũ trẻ ngoài phố. Nếu không có Cha đi cùng chắc chúng đã cười nhạo tôi và ném đá. Tôi tởm gớm và khinh bỉ lũ trẻ con ngoài tỉnh như thể chúng là một thứ ròi bọ với hình thù mà mình không bao giờ có thể cảm thấy gần gũi được. Những đứa trẻ gầy guộc trong nắng trưa chan hòa với những đôi con mắt phản trắc không thể nào tin cậy được. Hãy cất đi những con mắt người lớn nhìn chúng tôi từ phía sau những cửa tiệm tối đen thời tôi dám chắc là tôi có thể ưa thích bất cứ đứa nào trong bọn chúng.

Tại văn phòng ngoài tỉnh lúc ấy đã tới giờ cơm trưa. Chúng tôi uống nước ở chỗ vòi nước ngoài công viên ngay trước mặt văn phòng, rồi ngồi chờ một lúc lâu trên chiếc ghế dài kê ở gần một khung cửa sổ mà những tia nắng bỏng cháy đương chiếu xuyên qua. Cuối cùng một ông công chức già xong bữa bước ra và thì thầm nói với cha tôi, rồi cả hai lẳng lặng mất hút trong văn phòng ông đầu tỉnh. Tôi đem mấy bộ lông chồn tới chỗ cái quầy có mấy cái cân nhỏ. Ở đây người ta đếm số lông chồn và ghi vào sổ cùng với tên Cha. Tôi cẩn thận trông chừng một bà cận thị đeo kính dầy viết số lông chồn vào quyển sổ.

Xong, tôi không còn việc gì làm nữa. Tôi đợi Cha một lúc lâu, không thấy người ra. Vì thế, tay xách giày, hai chân không lạch bạch trên nền hành lang như hai chân bằng cao-su của thợ lặn, tôi bỏ đi tìm người quen biết duy nhất của tôi ngoài tỉnh, đó là người thường đem tin tới làng. Ông ta có một cái chân giả, và ở làng, người lớn cũng như trẻ con đều gọi ông là «ông Ký», mặc dầu ông cũng còn là một thứ phụ tá cho bác sĩ mỗi khi chúng tôi có khám bệnh ở trường.

«A, Nhái! Mày cũng ra đây hả?» ông đứng dậy từ phía bên kia tấm vách ngăn kêu lên. Tôi hơi bực mình nhưng vẫn bước tới bàn ông Ký. Trẻ con trong làng kêu ông bằng «Ký», bởi thế chúng tôi khó lòng kêu ca gì được khi ông gọi chúng tôi là «Nhái». Tôi mừng vì đã tìm được ông.

«Thế là làng bay bắt được một tên da đen, phải thế không, Nhái?» Ông lạch cạch cái chân giả dưới gầm bàn.

«Dạ», tôi đặt hai lòng bàn tay lên bàn ông Ký đáp. Trên bàn ông có khẩu phần cơm trưa của ông quấn trong miếng giấy báo lấm chấm ố vàng.

«Giỏi quá há?» ông nói.

Nhìn đôi môi nhợt nhạt của ông Ký, tôi nghiêm nghị gật đầu theo kiểu người lớn. Tôi muốn kể cho ông nghe về tên da đen, nhưng tôi không sao tìm ra chữ để mô tả thằng da đen to lớn mà họ đã đem về làng lúc xẩm tối.

«Thằng mọi đen — liệu họ có giết nó không?» tôi hỏi.

«Không rõ», ông Ký hất hàm về phía văn phòng ông tỉnh trưởng đáp. «Tao hy vọng họ sẽ quyết định việc đó bây giờ.»

«Không hiểu họ có đưa nó ra tỉnh không», tôi nói.

«Tao cuộc là chú mày được nghỉ học thú lắm», ông tránh câu hỏi quan trọng đáp. «Mụ thầy chó lười ấy, lúc nào cũng kêu ca, nhưng không thấy mụ ấy tìm cách đi khỏi. Mụ bảo trẻ con trong làng sao mà dơ dáy và hôi hám...»

Tôi cảm thấy xấu hổ vì cái ngấn cáu ghét quanh cổ, nhưng tôi bướng bỉnh lắc đầu và cười to. Từ chỗ nó chòi ra dưới gầm bàn, cái chân giả của ông Ký vặn vẹo. Tôi thích nhìn ông Ký mỗi khi ông lò cò nhảy tới trên con đường đồi núi với cái chân thật, chân giả và một cái nạng duy nhất, thế nhưng khi ông ngồi trên ghế thời cái chân của ông nó gớm ghiếc và phản trắc y như lũ trẻ ngoài tỉnh.

Cha tôi ló ra từ văn phòng ông tỉnh trưởng, khẽ gọi tôi. Ông Ký vỗ lên vai tôi, vì thế tôi vỗ lại vào cánh tay ông và chạy ra khỏi phòng.

«Đừng để cho thằng tù xổng mất nghe, Nhái», ông gọi với theo tôi.

«Thầy với mấy ông quyết định làm gì nó?» Tôi hỏi Cha khi chúng tôi qua tỉnh trở về trong nắng chói.

«Lúc nào cũng cố trốn việc, quân khốn», người giận dữ đáp như thể lỗi ấy chính tại tôi. Bị chặn họng vì sự bẳn gắt này tôi nín thinh và chúng tôi lẳng lặng bước qua bóng râm của hàng cây còi kĩnh, xấu xí trên đường phố. Ngay cả đến cây cối ở tỉnh cũng phản trắc và thù nghịch như lũ trẻ ở đó.

Khi chúng tôi tới cây cầu ở ngoại ô, Cha ngồi xuống phía dưới thành cầu lặng lẽ mở gói cơm. Cố nén không hỏi một câu, tôi thò một bàn tay lem luốc ra phía gói cơm để trên đùi Cha. Chúng tôi ăn mấy nắm cơm không nói với nhau một lời.

Khi chúng tôi ăn gần xong bữa cơm trưa thì có một cô con gái, cái cổ tươi mát trắng trẻo như cổ chim, khởi sự qua cầu. Tôi vội soát lại áo quần và xem xét lại hình dạng. Tôi cho là tôi dễ coi hơn, xét chung khá hơn bất cứ đứa trẻ nào ở tỉnh. Tôi đưa hai bàn chân đi giầy ra trước mặt chờ cô gái đi qua. Hai tai ù ù máu nóng. Trong một lúc ngắn ngủi kỳ cục cô gái chau mày nhìn tôi rồi bỏ chạy. Đột nhiên tôi hết muốn ăn. Tôi cảm thấy mình khốn khổ và rách rưới quá.

Sau cùng, hai bắp chân đau rần và mặt mũi nhầy mỡ và bụi bặm, chúng tôi rời lối mòn trên đỉnh đồi, đi qua những cánh rừng ẩn tiết xuống lối vào làng. Ánh tà dương lúc này đã bao phủ khắp thung lũng nhưng hơi nóng mặt trời vẫn còn nấn ná trong thân thể chúng tôi và chúng tôi rất khoan khoái vì lớp sương mù dầy đặc đương thổi tới.

Cha đi trình việc ở nhà ông đầu làng. Tôi bỏ Cha, leo lên lầu nhì căn nhà chứa đồ. Em tôi đương ngồi trên giường thiu thiu ngủ. Tôi vươn cánh tay ra lay nó, thấy rõ khúc xương vai mỏng mảnh ngay dưới tay tôi. Lớp da bên dưới lòng bàn tay ắm áp của tôi hơi co lại, và mệt mỏi cũng như sợ hãi trút ra từ đôi con mắt nó lúc này đột ngột mở lớn.

«Nó thế nào?» tôi hỏi.

«Đương ngủ dưới hầm», em tôi đáp.

«Mày ở một mình có sợ không?» tôi dịu dàng hỏi. Nó lắc đầu, đôi mắt có vẻ nghiêm nghị.

Tôi mở hé cánh cửa ra vào và đứng trong khung cửa sổ đái xuống. Sương mù lan xuống như một vật sống động và bò vào mũi tôi mau chóng. Vọt ra thành một hình cầu vồng dài, nước tiểu của tôi tung tóe trên những tảng đá lót đường rồi rớt vào cái mái gỗ chòi ra từ tầng dưới và bắn ngược trở lại tôi, thấm vào hai bắp vế nổi da gà và đầu gối tôi âm ấm. Em tôi thò đầu ra ở bên hông tôi như một con thú con và nhìn xuống chỗ nước tiểu của tôi. Chúng tôi đứng như thế trong một phút. Những cái ngáp nho nhỏ thoát ra từ cổ họng nhỏ bé của chúng tôi; mỗi lần chúng tôi rùng mình nước mắt lại ứa ra, trong suốt và vô nghĩa.

«Thằng Sứt Môi đã trông thấy nó chưa?» tôi hỏi.

«Bao nhiêu trẻ con tới gần hầm đều bị họ la hét đuổi đi hết», nó tiếc rẻ nói. «Mấy ông ngoài tỉnh có tới đem nó đi không anh?»

«Tao không biết», tôi đáp.

Cha và người đàn bà bên tiệm thực phẩm bước tới dưới chân thang, chuyện trò to tiếng. Người đàn bà cứ nhất định rằng mình không thể đem đồ ăn xuống hầm cho thằng tây đen được. Bà ta là đàn bà, bà ta không thể...; tại sao Cha lại không bảo con đem xuống? Tôi đương cúi xuống cởi giầy, nhưng liền rướn thẳng người dậy. Bàn tay mềm mại của em tôi ấn lên lưng tôi. Tôi cắn môi đợi Cha lên tiếng. «Ê, xuống đây!» tôi thấy người la lên, liền quăng đôi giầy vào gầm giường và lao mình xuống cầu thang.

Cha lấy báng súng trỏ cái rổ thức ăn mà người đàn bà bỏ trên nền đất. Tôi gật đầu đáp lại và nắm chặt lấy cái rổ nhấc lên. Không nói một lời, chúng tôi ra khỏi căn nhà chứa đồ và bước qua đám sương mù lạnh lẽo bên ngoài. Những tảng đá lót đường dưới gan bàn chân chúng tôi còn phảng phất hơi ấm lúc ban ngày. Không có một người lớn nào đứng canh bên căn nhà ấy khi tôi nhìn thấy màu ánh sáng nhạt tỏa ra từ khung cửa nhỏ trổ trên nóc hầm. Tôi cảm thấy một nỗi mệt mỏi như chất độc lan khắp toàn thân. Tuy nhiên, dịp đầu tiên được thấy thằng da đen thật gần khiến tôi xúc động đến nỗi hàm răng đánh lập cập.

Cha mở cái khóa tròn nặng nề ở cửa hầm, nhòm vào bên trong và bắt đầu thận trọng trèo xuống một mình, tay súng hờm sẵn. Không khí ban đêm hòa lẫn với lớp sương mờ quấn lấy cổ tôi trong lúc tôi ngồi chờ đợi. Hai bắp chân nâu mạnh mẽ của tôi run lẩy bẩy, khiến tôi thấy hổ thẹn trước vô số những cặp mắt mà tôi có thể cảm thấy là đương theo rõi tôi ở phía sau.

«Xuống đây!» tiếng Cha gọi nghẹn tắc.

Tôi bước xuống mấy bậc thang, tay ôm sát cái rổ vào ngực. Đằng kia, in hình trong ánh sáng của một bóng điện yếu ớt, tên tù binh ngồi co quắp. Không tài nào cưỡng nổi, hai con mắt tôi bị hút về phía cái xích lớn bẫy heo rừng xích cái chân đen của nó vào cột. Hai đầu gối thu lại dưới cằm, nó ngẩng lên nhìn tôi với hai con mắt đỏ ngầu, cái nhìn thách thức và giễu cợt. Tất cả máu trong người tôi dồn lên hai tai và đập mạnh qua mặt tôi như những lớp sóng đỏ tía. Tôi quay đi và nhìn Cha đương đứng dựa tường, cây súng chĩa vào tên phi công da đen. Người đưa cằm ra hiệu cho tôi. Hai mắt hầu như nhắm nghiền lại, tôi tiến lên, đặt cái rổ thức ăn trước mặt thằng da đen. Khi tôi lùi lại, một nỗi sợ bất ngờ khiến ruột tôi đau thắt, và tôi đã phải nén cơn buồn nôn đương dâng lên như một lớp sóng. Tên phi công da đen trừng mắt nhìn, cha tôi trừng mắt nhìn, tôi cũng trừng mắt nhìn cái rổ thức ăn. Xa xa một con chó sủa. Bên ngoài khung cửa trổ ở phía trên, khoảng sân làng âm u lặng tờ.

Bỗng dưng tôi thấy mình chú ý tới cái rổ đựng thức ăn để trước mặt tên da đen. Lúc này tôi nhìn cái rổ ấy với cặp mắt đói khát của nó. Một vài nắm cơm lớn, một ít cá khô mỡ màng chảy tràn ra, đủ thứ rau lẫn lộn và sữa dê đựng trong một cái chai cổ rụt bằng thủy tinh chạm mờ. Nó ngồi nguyên như lúc tôi mới vào, trừng mắt nhìn cái rổ thức ăn lúc lâu, cho tới khi chính cái dạ dầy trống trơn của tôi cũng bắt đầu ta thán. Lẽ cố nhiên là tên da đen chê bữa cơm nghèo khổ mà chúng tôi dọn cho nó, tôi nghĩ thế, và khinh bỉ chúng tôi nữa mà không động tới thức ăn. Tôi cảm thấy xấu hổ. Nếu tên da đen không chịu tỏ ý muốn bắt đầu bữa ăn thì nỗi xấu hổ của tôi hẳn sẽ lây sang Cha. Mà Cha phải chịu nỗi xấu hổ của người lớn thì không khéo người sẽ khùng lên mất, và chỉ trong phút chốc thôi cả làng sẽ tràn ngập cái hung bạo của mấy người lớn, mặt tái đi vì hổ thẹn. Ai đã có thể có cái ý tưởng kỳ quặc là đem đồ ăn cho tên da đen ấy?

Nhưng, đột nhiên tên da đen vươn ra một cánh tay dài không thế nào tin được, nhấc cái chai lên bằng mấy ngón tay lông lá xù xì đen đủi, và kéo lại gần, ngửi ngửi. Thế rồi cái chai được dộng ngược, đôi môi dầy, như cao-su của thằng da đen toác ra để lộ hai hàng răng trắng lớn đều đặn như những bộ phận ở bên trong một cái máy, và tôi thấy sữa đổ ừng ực xuống cái miệng rộng lấp loáng hồng của nó. Từ cổ họng thằng da đen đưa lên tiếng động của bọt nước chảy xuống một lòng cống, và sữa chảy tràn ra cả ở hai khóe môi nó — đôi môi hầu như sưng phù lên đau đớn tựa một trái chín bị xiết vòng quanh bằng một sợi dây thật căng. Sữa chảy xuống cổ họng trần của nó, thấm ướt cánh áo sơ-mi mở phanh ra, đổ xuống lồng ngực và tụ lại trên làn da dầy đen nháy ở đây thành những giọt nhỏ nhấp nhánh như giọt dầu. Đôi môi khô đi vì xúc động, lần đầu tiên trên đời tôi nhận thấy sữa dê quả là một thứ chất lỏng tuyệt đẹp.

Thằng da đen ném cái chai vào rổ nghe đánh rắc. Bây giờ cử động của nó không còn cái ngập ngừng lúc ban đầu nữa. Những nắm cơm khum khum trong lòng hai bàn tay to lớn của nó trông như mấy viên kẹo nhỏ nhít. Miếng cá khô bị nghiền nát luôn cả đầu giữa hai hàm răng lấp lánh của nó nghe rau ráu. Đứng dựa tường bên cạnh Cha, tôi kinh ngạc ngó chừng đôi hàm răng mạnh mẽ của tên phi công da đen đương hoạt động. Nó quá mải ăn nên không để ý tới chúng tôi; bởi thế mà trong lúc cố nén cơn đói của chính mình tôi mới có thể có đủ bình tĩnh để xem xét kỹ lưỡng cái món tuyệt vời mà Cha và mấy người lớn bắt được. Quả thật nó là một món tuyệt vời.

Mớ tóc ngắn xoắn tít trên cái đầu tròn trịa của thằng da đen tạo thành những lọn tóc thật nhỏ, thật chặt bồng lên như những ngọn lửa muội đen trên hai vành tai vểnh ngược như tai chó sói. Lớp da ở họng và ở ngực nó như cuộn lại bên trong một ánh lửa âm u màu trái nho. Cái cổ to nhầy mỡ của nó cuốn hút đôi mắt tôi mỗi lần vặn vẹo tạo thành những nếp gấp thô bạo trên làn da. Và cái mùi thân thể nó, dai dẳng và tràn lan tựa cái nôn nao ghê gớm trào lên cổ họng, rỉ ra như một thứ chất độc soi mòn hết mọi sự chung quanh, làm cho đôi má tôi đỏ bừng lên và gọi dậy những cảm xúc hầu như điên dại.

Đôi mắt mờ nóng bỏng, tôi nhìn thằng da đen ngốn ngấu đồ ăn, và trong đôi mắt mờ nóng bỏng của tôi, những vật thực xoàng xĩnh kia đã biến thành cả một bữa tiệc thịnh soạn đầy hương vị lạ. Giả như lúc tôi mang cái rổ đi mà còn lại đôi chút đồ ăn nào thì hẳn tôi, với mấy đầu ngón tay run run vì thích thú ngấm ngầm, đã bốc vội lấy mà nuốt chửng. Nhưng tên lính da đen đã ăn hết mọi tí, lại vét sạch cả đĩa cháo.

Cha thúc vào cạnh sườn tôi. Hổ thẹn và giận dữ lẫn lộn như mình đã chiều theo những mơ màng bậy bạ, tôi bước tới chỗ thằng da đen và lấy cái rổ. Dưới mũi súng của Cha bảo vệ, tôi quay lưng lại nó và bắt đầu bước lên mấy bậc thang. Đúng lúc đó thì tôi nghe một tiếng ho khan trầm trầm từ phía thằng da đen. Bước chân tôi chuệnh choạng và toàn thân tôi hoảng hốt rụng rời.

Ngay trên đầu cầu thang ở từng thứ nhì căn nhà chứa đồ, một tấm gương méo mó mờ tối chao đi chao lại trong lỗ hổng của một cây cột. Khi tôi trèo lên, trong ánh sáng lờ mờ hiện ra khuôn mặt của một đứa bé Nhật Bản — một đứa bé có đôi má giật mạnh đuơng bặm đôi môi nhợt nhạt không còn lấy một hột máu, một hình ảnh vô thực hoàn toàn của một đứa bé. Hai cánh tay nặng nề buông thõng, xúc động mạnh đến ứa nước mắt ra, tôi mở cánh cửa buồng.

Em tôi đương ngồi trên giường; đôi mắt nó lừ sáng, nóng bỏng hồi hộp và hơi đờ đẫn vì sợ hãi.

«Mày đóng cửa phỏng?» tôi làm vẻ mặt hống hách để che giấu đôi vành môi lẩy bẩy.

«Dạ.» Em tôi cúi mặt hổ thẹn vì hèn nhát. «Thằng mọi đen, trông nó ra làm sao hở anh?»

Một nỗi mệt mỏi dâng lên mãi bao trùm lấy tôi. «Ồi, có gì đâu, nó hôi rì à», tôi đáp.


*


SÁNG HÔM SAU TÔI DẬY MUỘN, NGHE thấy tiếng lao xao từ khoảng sân trống đằng trước nhà. Cả em tôi lẫn Cha đều không có trong buồng. Tôi mở đôi mu mắt hầm hập ra nhìn lên tường. Đúng như tôi đã nghi, khẩu súng của Cha không còn đó. Lắng nghe tiếng rì rầm ở bên ngoài và nhìn giá để súng trống không tôi thấy trống ngực nện thình thịch. Tôi nhẩy ra khỏi giường và vớ lấy cái áo sơ-mi, chạy xuống cầu thang.

Mấy người lớn tụ lại thành một nhóm. Lũ trẻ trong đám ngước mắt nhìn họ, khuôn mặt nhỏ bé lem luốc của chúng ngây ra vì hồi hộp lo sợ. Cách đấy một chút em tôi và Sứt Môi đương cúi lom khom bên khung cửa nhỏ trổ ở phía bên trên hầm. «Chúng đương nhòm vào!» tôi tức giận nghĩ và đã toan chạy lại phía chúng thì thấy ông Ký chống nạng, đầu cúi xuống, ló ra từ trong hầm. Một cảm giác mệt mỏi đen tối mãnh liệt và tuyệt vọng trùm lên người tôi như một lớp sóng. Nhưng ngay sau lưng ông Ký không phải là một đám rước mang xác thằng phi công da đen mà là Cha tôi đương nói chuyện gì nho nhỏ với ông đầu làng, khẩu súng vác trên vai còn y nguyên trong bọc. Tôi buông một tiếng thở dài và mồ hôi ứa ra từ hai bên nách và háng. «Lại đây coi!» Sứt Môi la hét gọi tôi lúc tôi còn đương đứng đó. «Lại coi!»

Tôi nằm sấp trên những tảng đá nóng bỏng và nhòm vào qua khung cửa hẹp trổ ngay phía bên trên mặt đất. Dưới đáy sâu thăm thẳm tối thui, tên phi công da đen nằm lăn trên nền, thân hình gập lại rã rời như một con vật bị đánh gục. Tôi chống hai bàn tay đứng dậy.

«Họ đánh nó phải không?» tôi hỏi Sứt Môi, gịong run run vì giận dữ. «Có phải họ xích hai chân nó lại mà đánh cho nó không chạy được không?»

«Làm gì có!» Sứt Môi nói giọng tiếc rẻ.

«Họ chỉ vào nhìn nó có một tí. Chỉ có nhìn thôi mà thằng mọi đen như thế đó.»

Nỗi căm giận của tôi tan biến. Tôi lắc đầu một cách mơ hồ. Em tôi chằm chặp nhìn tôi. «Không sao», tôi bảo nó.

Một đứa trẻ trong làng cố chen với tôi để nhìn qua khung cửa bị Sứt Môi đá vào cạnh sườn khóc ré lên. Sứt Môi đã giành độc quyền coi thằng da đen qua khung cửa; hắn đâu chịu cho bất cứ đứa nào vi phạm cái quyền ấy.

Tôi bỏ Sứt Môi và mấy đứa khác lại đó, bước tới chỗ ông Ký đứng nói chuyện với mấy người lớn đương bao quanh ông. Ông Ký cứ tiếp tục nói, lờ hẳn tôi đi y như mấy đứa trẻ tầm thường trong làng mũi rãi khô quánh trên mép, khiến cho tôi bị chạm tự ái và hại lây đến cả cái cảm tình của tôi đối với ông. Nhưng bây giờ không phải là lúc bận tâm đến chuyện sĩ diện hay tự ái; lách qua đám chân người lớn, tôi thò đầu vào nghe ngóng những gì ông Ký và ông đầu làng đương nói.

Cả văn phòng lẫn cảnh sát ngoài tỉnh — ông Ký nói — không đâu biết làm gì ngay về việc đưa thằng phi công da đen bị bắt đi. Họ sẽ phúc trình vụ này lên vùng, nhưng từ nay cho đến lúc nhận được lời phúc đáp thì phải săn sóc cho nó, và đây là trách nhiệm của dân làng. Ông đầu làng phản đối. Ông nhắc lại rằng dân làng không được vũ trang để canh giữ tù binh. Ông lại nói thêm rằng việc áp giải một thằng da đen cực kỳ nguy hiểm qua một đoạn đường đồi núi xa như vậy cho đàng hoàng sẽ nhiêu khê lắm. Mùa mưa dài dặc và lụt lội đã khiến cho mọi việc đâm ra phức tạp và khó khăn.

Nhưng đến khi ông Ký bắt đầu dùng một cái giọng hách dịch, cái giọng quá trịnh trọng của một viên công chức quèn, thì mấy người lớn đều chịu thua dần. Ngay khi biết được là thằng da đen sẽ ở lại trong làng cho đến khi ở trên vùng người ta quyết định làm gì, tôi liền rời mấy người lớn, mặt mũi còn đờ ra đấy vì bực bội và bối rối, và chạy lại chỗ em tôi với Sứt Môi đương giữ độc quyền khung cửa sổ. Trong lòng tôi tràn đầy giải thoát, trông đợi, và một niềm day dứt khó chịu mà người lớn đã lây sang tôi.

«Ờ, họ không giết nó mà, đúng không?» Sứt Môi hớn hở nói. «Ta đã bảo mà, mọi đen đâu có phải quân địch.»

«Giết nó thì uổng quá», em tôi nói.

Ba đứa chúng tôi chụm đầu vào nhau nhòm vào khung cửa và thở dài khoan khoái khi thấy thằng da đen vẫn còn nằm xoài dưới hầm, cái ngực đưa lên đưa xuống theo nhịp thở. Có tiếng rì rầm khó chịu của mấy đứa trẻ đã bò tới ngay chỗ chúng tôi doãi chân trên mặt đất, lòng bàn chân ngửa lên phơi ngoài nắng. Sứt Môi vội nhỏm dậy la hét, và bọn chúng kêu ré lên bỏ chạy.

Cuối cùng, nhìn mãi thằng da đen nằm xoài nguyên một chỗ chúng tôi cũng mệt nhưng chúng tôi không chịu từ bỏ cái vị trí đặc quyền. Sứt Môi cho phép mấy đứa trẻ khác được ngó qua khung cửa một tí nhưng để bù lại, hắn bắt mỗi đứa phải nộp một vật gì đó — chẳng hạn mấy quả táo, mấy quả mơ, quả vả hoặc quả thị. Mấy đứa thường nhòm vào, đỏ mặt tía tai vì ngạc nhiên và khoái trá, rồi chúng đứng dậy đưa lòng bàn tay lên phủi bụi trên cằm. Trong lúc đứng dựa lưng vào tường căn nhà chứa đồ, ngắm mấy đứa trẻ phơi những đôi mông bé bỏng ngoài nắng, — bất kể tới việc Sứt Môi bóc lột — chú tâm đến cái kinh nghiệm lớn đầu tiên trong đời chúng đến như vậy, tôi cảm thấy một sự thỏa mãn và đầy đủ lạ lùng, một nỗi niềm hứng khởi vui sướng. Một con chó săn tách rời đám người lớn chạy lại phía chúng tôi. Sứt Môi đặt nó lên hai đầu gối mình bắt rận. Hắn lấy mấy đầu móng tay vàng vàng xiết mấy con rận tanh tách trong lúc vừa quát tháo ra lệnh cho lũ trẻ vừa xấc xược mắng chửi.

Sau khi mấy người lớn đã bỏ lên con đường mòn ở lưng đồi để tiễn chân ông Ký, chúng tôi vẫn tiếp tục cái trò chơi kỳ lạ ấy. Đôi khi lờ cả những giọng nói tức tối ở sau lưng, chính chúng tôi cũng ngó vào hầm thật lâu và thật chăm chú. Thằng phi công da đen vẫn nằm dài ra đó, chẳng có dấu hiệu động đậy gì cả, như thể chỉ nguyên một việc mấy người lớn nhìn nó cũng đã đủ gây thương tích cho nó.

Đêm hôm ấy, có Cha xách súng đi kèm và mang một cái nồi sắt nặng đựng món cháo và rau hầm xoàng xĩnh, tôi lại xuống hầm. Thằng da đen nhìn chúng tôi với hai con mắt dỉ vàng đóng ngấn lại, rồi thọc ngay mấy ngón tay lông lá vào nồi cháo nóng và bắt đầu ăn ngon lành. Tôi tha hồ ngắm nghía nó trong lúc Cha đứng dựa tường vẻ chán ngán, không buồn chĩa súng vào thằng da đen nữa. Nhìn xuống những đường gân to ở cổ thằng da đen run run, những bắp thịt của nó lúc căng lúc dãn bất thần, tôi bắt đầu cảm thấy là nó ngoan ngoãn, dễ bảo như một con vật dễ thương. Tôi ngó lên Sứt Môi và em tôi lúc đó đương nín hơi nhòm vào và phóng cho những cặp mắt lù mù lấp loáng của chúng một nụ cười mau lẹ, láu lỉnh. Tôi đã bắt đầu quen với thằng da đen; việc này đã gieo vào lòng tôi và nuôi dưỡng những hạt mầm hãnh diện vô cùng khoan khoái. Tuy nhiên mỗi lần thằng da đen cử động, nghiêng cái bẫy heo rừng và sợi dây xích khua loảng xoảng, nỗi kinh hoàng lúc trước của tôi lại ào tới, và ùa vào các mạch máu cho tới khi tôi cảm thấy khắp mình nổi da gà.

Từ bữa ấy trở đi, tôi được đậc quyền đem đồ ăn cho thằng lính da đen, một lần vào buổi sáng và một lần vào buổi tối. Cha vẫn đi theo nhưng người không còn đưa khẩu súng trên vai xuống chĩa vào thằng da đen nữa. Sáng sớm ra và vào lúc nhá nhem tối, khi tôi xuất hiện cùng với Cha bên căn nhà chứa đồ, tay mang cái rổ đựng thức ăn, bọn trẻ đã mỏi mắt trông chờ từ trước trên khoảng đất trống lại trút ra một tiếng thở dài lớn, tiếng thở dài bốc lên cao như một đám mây. Cau mày, tôi bước qua khoảng sân trống không buồn ngó đến lũ trẻ, như một kẻ thành thạo đã mất hết hứng thú trong công việc nhưng vẫn chăm chỉ thi hành tỉ mỉ. Em tôi với Sứt Môi hẳn là phải hài lòng khi cùng đi với tôi, mỗi đứa sát một bên, mãi tới lối vào hầm. Cha và tôi vừa bước xuống, hai đứa liền chạy vội qua khung cửa để nhòm vào. Dẫu cho có phải mệt mỏi vì công việc mang đồ ăn cho thằng da đen, chắc tôi cũng vẫn tiếp tục làm công việc ấy chỉ vì cái thú được nghe thấy những tiếng thở dài ghen tuông — gần như oán hận — mà lũ trẻ, kể cả Sứt Môi nữa, thường trút vào phía sau lưng tôi trong lúc tôi bước đi.

Tôi đã xin được với Cha đặc biệt cho phép Sứt Môi xuống hầm mỗi buổi chiều một lần để giúp tôi làm một công việc xét ra quá nặng đối với một mình tôi. Ở dưới hầm có đặt một cái thùng gỗ nhỏ, cũ kỹ sau một cây cột để cho thằng da đen dùng. Chiều chiều Sứt Môi và tôi thường cẩn thận khiêng nó lên mấy bậc thang, mỗi đứa một bên, bằng một đoạn giây thừng lớn xỏ qua hai cái tay quai, và đem tới đống phân trong làng để đổ cái chất sền sệt, thối hoắc, đánh lóp bóp lóp bóp trong lúc chúng tôi bước đi kia. Sứt Môi biểu lộ một sự hào hứng thái quá đối với công việc này; thỉnh thoảng, trước khi khiêng tới chỗ cái thùng lớn bên cạnh đống phân, hắn lại lấy một cái que ngoáy ngoáy, và giải thích tình trạng tiêu hóa của thằng da đen, đặc biệt là căn bệnh tháo dạ của nó mà hắn quả quyết là do những hột ngô lẫn trong cháo gây ra. Đôi khi cùng đi với Cha xuống lấy cái thùng, chúng tôi thấy thằng da đen tụt quần ngồi chồm hổm trên cái thùng nhỏ, hai cái mông đen bóng chổng lên như một con chó đương đi tơ. Chúng tôi thường phải chờ một lúc ở phía sau thằng da đen, và Sứt Môi hết sức kinh ngạc, đôi mắt xuất thần, thường bấu chặt lấy cánh tay tôi trong lúc chúng tôi lắng nghe tiếng khua động loáng thoáng của chiếc bẫy heo rừng xích hai chân thằng da đen ở hai bên cái thùng gỗ.

Trẻ con chúng tôi không còn quan tâm tới một sự gì khác hơn là thằng da đen, thằng da đen đã lấp đầy mọi xó xỉnh cuộc đời chúng tôi, tràn lan như một căn bệnh truyền nhiễm. Nhưng người lớn có công ăn việc làm của họ, không dễ gì lây những thứ bệnh truyền nhiễm của trẻ con. Người lớn không thể ngồi chơi chờ cho tòa tỉnh ra chỉ thị. Kịp đến khi Cha tôi — người có phận sự canh gác thằng da đen — cũng bắt đầu bỏ đi săn thì thằng da đen ở dưới hầm chỉ còn lại đó vì một mục đích duy nhất là để thỏa mãn những nhu cầu hằng ngày của lũ trẻ mà thôi.

Em tôi, Sứt Môi và tôi đâm quen thói đóng kín cửa ở dưới hầm với thằng da đen trong lúc ban ngày. Ban đầu chúng tôi còn cảm thấy cái tiếng trống ngực đập thình thình thật quyến rũ, cái thứ tiếng luôn luôn đi theo kèm mỗi khi mình phá bỏ luật lệ. Nhưng rồi chẳng bao lâu chúng tôi cũng quen đi và đâm tự mãn, làm như thể việc canh gác thằng da đen là một phận sự thiêng liêng mà người lớn đã trao phó cho chúng tôi trong lúc lên đồi hoặc xuống thung vắng. Khung cửa nhỏ để nhìn vào mà em tôi và Sứt Môi đã bỏ, giờ trở thành khu vực hoạt động của trẻ con trong làng. Dán sát bụng trên nền đất bụi bặm nóng bỏng, chúng thay phiên nhau ganh tị nhìn vào ba đứa chúng tôi đương ngồi quanh thằng da đen. Lâu lâu có đứa thèm quá chịu không nổi, cố tìm mọi cách theo chân chúng tôi xuống hầm để rồi bị Sứt Môi hạ quay lơ, hộc cả máu mũi vì tội ương ngạnh.

Vào lúc này chúng tôi chỉ còn mang cái thùng của thằng da đen lên tới đầu mấy bậc thang dẫn xuống hầm. Phần việc hôi hám đem ra đống phân công cộng dưới ánh nắng gay gắt, chúng tôi trao cho những đứa trẻ nào chúng tôi đặc biệt chiếu cố mà chỉ định công tác cho. Những đứa được chỉ định, hai gò má đỏ lên vì sung sướng, thường đưa cái thùng đi thật ngay ngắn, cố không để rớt ra ngoài một giọt cái chất lỏng vàng vàng đụng đục có vẻ hết sức quý báu đối với bọn chúng kia. Và sáng sáng, toàn thể bọn trẻ, kể cả chúng tôi, đều ngước lên lối mòn từ con đường trên đỉnh đồi đổ xuống qua cánh rừng mà cầu mong cho ông Ký đừng đi xuống với cái lệnh ghê gớm.

Cổ chân thằng da đen, nơi cái bẫy heo rừng ngoạm chặt, bị trầy da và sưng đỏ lên, và máu từ chỗ đó bết lại trên mu bàn chân nó như những lá cỏ héo khô. Chỗ da thịt bị trầy với vết thương đỏ hồng đó là mối lo thường trực của chúng tôi. Mỗi khi doạng chân ngồi trên cái thùng gỗ, thằng da đen thường nhe răng ra để dằn nỗi đau đớn, giống như một đứa bé toác miệng ra cười. Sau nhiều lần đưa mắt dò hỏi nhau và hỏi thăm ý kiến lâu lắc, chúng tôi quyết định tháo cái bẫy ở hai cổ chân cho nó. Thằng da đen chỉ ngồi im lặng dưới hầm như một con vật đen đủi, đần độn nào đó, hai tay bó gối, đôi mắt bao phủ một cái màng sền sệt có lẽ là nước mắt, cũng có lẽ là dỉ mắt đùn ra. Nó có thể làm gì hại đến chúng tôi được? Nghĩ cho cùng, nó cũng chỉ là một thằng mọi đen.

Tay nắm chặt cái chìa khóa mà tôi đã lấy ở trong hộp đựng dụng cụ của Cha, Sứt Môi cúi xuống tháo cái bẫy, vai hắn hầu như chạm vào đầu gối thằng da đen. Lập tức thằng da đen đứng dậy, thoát ra một tiếng gì như rên rỉ và nó lúc lắc hai ống chân. Sứt Môi vứt cái bẫy vào tường và bỏ chạy lên mấy bậc thang, nước mắt chảy ra vì khiếp đảm; em tôi với tôi chỉ biết bấu chặt lấy nhau không sao đứng dậy nổi, như bị một nỗi sợ mới đối với thằng da đen làm tê liệt hẳn. Nhưng thằng da đen không nhào xuống hai anh em chúng tôi như một con diều hâu: thay vì thế, nó lại ngồi xuống, hai bàn tay ôm lấy đầu gối và, đôi ngươi ẩm ướt nước mắt và dỉ mịt mờ, nó nhìn cắm vào cái bẫy rơi sát tường. Lúc Sứt Môi cúi đầu hổ thẹn trở lại hầm, em tôi với tôi mỉm cười dịu dàng đón hắn. Thằng da đen hiền như bất cứ một con vật nào nuôi trong nhà...

Mãi khuya đêm hôm đó, lúc Cha tôi khóa cái khóa tròn lớn ở cửa hầm, người nhìn vào hai cổ chân đã tháo bẫy của tên lính. Tôi lo sợ đến nghẹn thở, nhưng người không mắng mỏ gì như tôi tưởng. Thằng da đen hiền như một con vật đã thuần thục — vào khoảng này cái ý ấy đã lọt vào đầu óc của mọi người trong làng, trẻ con cũng như người lớn.

Sáng hôm sau, lúc cả ba đứa chúng tôi đem cơm sáng lại cho nó chúng tôi thấy thằng da đen đương loay hoay với cái bẫy heo rừng mà nó để trên lòng. Bộ phận sập xuống khi động bẫy đã bị gẫy nát lúc Sứt Môi ném vào tường, và thằng da đen đương coi lại với một vẻ chắc chắn, lành nghề như người thợ sửa bẫy vẫn tới làng vào mùa Xuân. Đột nhiên nó ngước cái trán đen bóng lên mà nhìn tôi và làm cử chỉ ra hiệu cho tôi biết nó muốn cái gì. Sứt Môi và tôi nhìn nhau, không sao dẹp nổi sự vui sướng đương xoa mềm hai gò má căng thẳng. Thằng da đen nói với chúng tôi, nói với chúng tôi cũng một cách y như loài vật nói với chúng tôi vậy...

Chúng tôi chạy tới nhà ông đầu làng và khiêng cái hộp dụng cụ của chung cả làng ra đem xuống hầm. Mặc dầu cái hộp đó có đựng những đồ có thể dùng làm khí giới, nhưng chúng tôi không ngần ngại trao nó cho tên lính da đen. Đối với chúng tôi, cái ý tưởng là thằng da đen, thằng da đen giống hệt như một con vật nuôi trong nhà này, từng là một người lính chiến đấu không sao tin được. Nó thách đố mọi sự tưởng tượng.

Thằng da đen trừng mắt nhìn cái hộp dụng cụ, rồi nhìn vào mắt chúng tôi. Chúng tôi ngắm nghía nó mà rùng mình thích thú; và lúc Sứt Môi ghé vào tai tôi thì thào «Thằng chả hệt như người ta!» tôi chọc vào mông em tôi và cất tiếng cười đến đau ruột, tôi cảm thấy hết sức sung sướng và hãnh diện. Qua khung cửa, tiếng thở dài trầm trồ của lũ trẻ ngồi ngoài bay vào như hơi sương.

Chúng tôi mang cái rổ đựng bữa ăn sáng đi. Khi chúng tôi quay trở lại hầm thì thằng da đen đã lấy từ trong hộp dụng cụ ra một cái mỏ-lết và một cái búa nhỏ và đặt tất cả gọn gàng trên một cái túi vải trải dưới đất. Nó nhìn chúng tôi khi chúng tôi tới ngồi bên cạnh nó. Bỗng dưng, hàm răng lớn đương vàng ra mau chóng của nó nhe ra, và hai má nó chùng xuống thành nhiều vết nhăn; lần đầu tiên chúng tôi hơi giật mình nhận ra là thằng lình da đen mỉm cười. Và chúng tôi thấy rằng chúng tôi được ràng buộc chặt chẽ với nó bằng một thứ liên kết thật sâu xa, thật mạnh mẽ gần như của «con người» với nhau vậy.

Chiều muộn. Sứt Môi đã bị người đàn bà ở nhà ông thợ rèn lôi về giữa tiếng chửi mắng thậm tệ, và đôi mông chúng tôi ngồi mãi ngay trên nền đất không cũng đã bắt đầu thấy đau, thế mà thằng da đen vẫn còn loay hoay với công việc, nó cố làm cho hai cái hàm bẫy ăn ngàm với nhau thật khít. Mấy ngón tay nó dính nhem lớp mỡ nhờn bụi bám lâu ngày ở cái bẫy và nó kỳ cạch sửa.

Tôi mê mải ngắm cái cách mảng thịt hồng, mềm mại ở hai lòng bàn tay nó bị cái lưỡi phập ở bẫy ấn trĩu xuống và cái ngấn dơ nhờn ghét trên cổ nó vặn vẹo thành một đường đen thui trong lúc nó động đậy. Tự nhiên cái đó gợi dậy trong tôi một sự nôn nao không phải là không thú vị, một cảm giác đột ngột có vướng vất nỗi thèm muốn. Thằng da đen chăm chú với công việc, phùng đôi má nung núc thịt như thể đương hát thầm trong cái miệng rộng lớn cho mình mình nghe. Em tôi tựa vào đầu gối tôi, ngắm những ngón tay nó hoạt động với hai con mắt sáng lên vì thán phục. Ruồi nhặng bu đầy chung quanh, tiếng cánh vù vù cùng với hơi nóng cuốn sâu mãi vào hai lỗ tai chúng tôi.

Với một âm thanh mỗi lúc một mạnh hơn, ngắn hơn và sắc hơn, cái bẫy cắn vào sợi thừng bằng rơm thô kệch để ở giữa cho đến lúc cuối cùng thằng da đen cẩn thận đặt xuống đất, nhìn chúng tôi với đôi mắt lờ đờ, ướt át, tươi cười. Những giọt mồ hôi long lanh chảy xuống cái trán đen bóng của nó. Em tôi với tôi mỉm cười đáp lại. Vẫn mỉm cười, chúng tôi nhìn thật lâu vào đôi mắt dịu dàng của nó, y như chúng tôi đã nhìn mấy con dê hay mấy con chó săn. Trời nóng nực. Người ướt sũng trong hơi nóng, chúng tôi mỉm cười với nhau, như thể cái nóng kia là một cái gì khoan khoái hai anh em cùng chia sẻ với thằng da đen, đã buộc chặt ba đứa chúng tôi lại với nhau.

Một buổi sáng, người ta đưa ông Ký về, bùn đất lắm lem và ở cằm có máu chảy. Ông bị ngã ở trong rừng, lộn nhào xuống một triền dốc ngắn và nằm chỏng chơ ở đó mãi cho tới khi người lớn trong làng lên đồi làm việc thấy ông mà đỡ dậy. Cái khúc chỗ da dầy và cứng ở cái chân giả của ông nối vào bằng một vòng sắt bị cong lại, và không chịu ăn khớp nữa. Ông Ký nhìn vào đó bối rối trong lúc ông đầu làng chữa chạy cho ông. Ông cũng không buồn thông báo những chỉ thị ở tỉnh nữa. Mấy người lớn đâm bực bội, trong lúc trẻ con chúng tôi lại nghĩ rằng, nếu như ông tới để bắt thằng da đen đi, thì thà ông chết đói ở dưới đáy cái dốc kia còn tốt hơn. Nhưng thật ra ông Ký tới là để giải thích rằng chưa có chỉ thị nào của các nhà chức trách ở trên vùng xuống. Chúng tôi sung sướng và lấy lại được thiện cảm với ông Ký rất mau. Chúng tôi xách cái chân giả của ông và hộp dụng cụ xuống hầm.

Thằng da đen nằm xoài trên nền đất ẩm ướt, cất giọng trầm ấm ca một bài ca sống động lạ lùng khiến chúng tôi như bị thôi miên, một bài ca trong đó nỗi phiền muộn và niềm vui sướng đã hờm sẵn để chồm tới chúng tôi bất cứ lúc nào. Chúng tôi đưa cho nó coi cái chân giả bị hư. Nó đứng dậy, trừng mắt nhìn cái chân giả một lúc, rồi bắt tay vào việc không chậm trễ. Một tiếng kêu khoái trá lọt vào qua khung cửa trổ trên nóc hầm từ đám trẻ con đương ngó xuống. Sứt Môi, em tôi và tôi lớn tiếng cười cho đến khi nghẹt thở.

Đến chiều, khi ông Ký xuống hầm thì cái chân giả lại tốt như mới. Ông buộc cái chân giả vào khúc chân cụt ngắn ngủn và đứng dậy cùng với tiếng kêu mừng rỡ của lũ trẻ. Ông nhẩy lên mấy bậc thang và bước ra khoảng đất trống bên ngoài xem cái chân đi đứng ra sao. Hai tay níu kéo thằng da đen, chúng tôi dựng nó dậy và không chút ngập ngừng, như một thói quen đã có từ lâu, chúng tôi đưa nó ra ngoài cùng với chúng tôi.

Hai lỗ mũi rộng lớn của nó phồng ra trong lúc nó hít lấy hít để cái không khí mát dịu của buổi chiều hè — cái không khí đầu tiên trên mặt đất mà nó hút thở kể từ khi trở thành tù binh. Rất chăm chú, nó ngắm những bước đi thử của ông Ký. Mọi sự đều hoàn hảo. Ông Ký chạy lại và lôi từ trong túi ra một điếu thuốc mà ông vấn lấy bằng lá rau nghé. Thứ thuốc này vấn rất thô, hơi khói xông vào mắt làm nhức nhối và khiến ta nhớ tới một đám cháy rừng. Ông Ký châm điếu thuốc rồi đưa cho thằng da đen cao lớn. Thằng da đen từ từ rít một hơi, rồi rít mau hơn, bàn tay nắm lấy cổ họng ho sặc sụa. Ông Ký bối rối phác một nụ cười ân hận, nhưng lũ trẻ con chúng tôi thì cười ầm lên. Thằng da đen ngay người lại đưa bàn tay to lớn lên chùi nước mắt, rồi rút từ trong cái quần vải bó sát lấy đôi mông tròn lẳn ra một cái ống vố đen bóng và đưa cho ông Ký.

Ông Ký nhận món quà tặng, thằng da đen gật đầu hài lòng; một vạt nắng đổ xuống, rủ trên người họ những bóng tối tím thẫm của buổi chiều. Chúng tôi vây quanh họ, la hét tới đau cả cổ họng và cười lên như điên dại.

Kenzaburo Oe -Nuôi thù (1)

Kenzaburo Oe
Nuôi thù

3 kì
Diễm Châu dịch

(1)

Lời người dịch: Trong văn chương hiện đại của xứ «Mặt trời lặn», Kenzaburo Oe chiếm một vị trí riêng biệt và đặc biệt, không nguyên vì tính cách độc sáng của một bút pháp mới lạ, mà còn vì thái độ minh bạch của ông trước những vấn đề như chiến tranh, bộ đội chiếm đóng và quyền sống của con người...

Kenzaburo Oe sinh năm 1935, đã theo học Văn chương Pháp tại Đại học Tokyo (với đề tài thi tốt nghiệp: Jean-Paul Sartre). Ông khởi sự viết văn từ năm 1955 và tới nay đã có tám cuốn tiểu thuyết, hai tập tiểu luận và khá nhiều truyện ngắn.

Lớn lên trong chiến tranh và đã trải qua thời kỳ hỗn loạn kế tiếp chiến tranh, Kenzaburo Oe rất quan tâm tới điều mà ông gọi là «tình trạng tâm lý bất bình thường» hay đúng ra, là ngược lại.

Nhân vật trong truyện của Kenzaburo Oe thường là những sinh viên học sinh, những anh lính nước ngoài hoặc những cô gái điếm...

Phần lớn các sinh viên của ông đều nghèo, phải đi kiếm việc làm thêm và do đó đã gặp nhiều kinh nghiệm kỳ quặc: chẳng hạn như giết 150 con chó để làm thí nghiệm về y khoa trong truyện Việc lạ đời; hoặc vớt những thây người vô thừa nhận ngâm trong những bể nước hóa học của trường Thuốc di chuyển đi nơi khác trong Niềm kiêu hãnh của người chết,..

Các trẻ em học sinh cũng gặp nhiều trường hợp ngược ngạo bi đát, chẳng hạn như hai anh em trong một truyện khác của Kenzaburo Oe, được người lớn sử dụng đi phân phát truyền đơn chống chiến tranh trong một trại quân đội chiếm đóng, lại về sống với một anh lính nước ngoài và một cô gái điếm, nhân tình của anh ta. Hoặc như trong Nuôi thù...

Trước Nuôi thù, truyện Niềm kiêu hãnh của người chết đã được chọn để tranh giải Akutagawa lần thứ 38, và từ đó tên tuổi của Kenzaburo Oe mỗi ngày một sáng rõ trong văn giới Nhật Bản. Tuy nhiên, chính Nuôi thù mới là tác phẩm đã đem lại cho Kenzaburo Oe cái giải thưởng văn chương mà các văn nghệ sĩ Nhật Bản hằng mơ ước đó.

Nuôi thù (Shiiku) viết vào năm 1957, tức là vào thời kỳ Kenzaburo Oe còn đương theo học ở Đại học Tokyo, và qua tháng Bảy năm sau (1958) đã được một ban tuyển lựa gồm nhiều tiểu thuyết gia danh tiếng Nhật bản trao tặng Giải thưởng Văn chương Akutagawa lần thứ 39.

Gần đây, một tác phẩm khác của Kenzaburo Oe, cuốn Một chuyện riêng tư, lại đoạt giải Shinchosa, tức là giải thưởng văn chương của Nhật Bản dành cho tác phẩm tiểu thuyết hay nhất đã xuất bản trong năm.

Ngoài các tác phẩm tiểu thuyết, Kenzaburo Oe còn viết nhiều bài tiểu luận về văn hóa và chính trị. Những bài đăng báo gần đây nhất của Kenzaburo Oe như «Quyền chối từ Nhật bản» hoặc loạt bài về ý nghĩa sự tưởng niệm Minh Trị đã cho thấy một cây bút phê bình xã hội thật sâu sắc và tiến bộ.


Nuôi thù của Kenzaburo Oe có hai bản dịch Anh văn của cùng một dịch giả John Bester, — cả hai bản đều chưa được in thành sách — bản trước đăng trên một tạp chí ngoại văn của Nhật Bản vào đầu năm 1959 và bản sau đăng trên một tạp chí Hoa Kỳ vào tháng Hai năm 1967. So với bản dịch đầu tiên, bản dịch năm 1967 đầy đủ hơn và có một vài thay đổi nhỏ.

Bản Việt văn này căn cứ trên bản Anh văn mới nhất nhưng cũng có tham chiếu bản đầu tiên. Trong bản Việt văn có một vài chữ hoặc đôi khi cả một câu đã phải... tự ý cắt bỏ trước, vì một vài lẽ tương tự như những điều đã thưa cùng bạn đọc trong phần «Ghi chú» ở cuốn Con voi (Trình bầy, 1969).

Ngoài ra, trong Hòa ngữ, chữ Shiiku chỉ có nghĩa là nuôi (thú vật) như nuôi gà, nuôi heo hoặc nuôi ngựa, nuôi bò,...; trong bản Việt văn có thêm một chữ thù cho… êm tai. Và cũng vì lý do âm thanh đó, hai chữ Nuôi thù đã được dùng thay vì Nuôi địch. Ước mong bạn đọc hiểu «nuôi thù» như «nuôi địch» mà thôi.


*


EM TÔI VỚI TÔI LÚC BẤY GIỜ Ở chỗ hỏa thiêu tạm dưới lòng thung, một nơi hỏa thiêu thô sơ đã được tạo thành thật giản dị bằng cách phát đi mấy cái bụi rậm và vượt lên một lớp đất mỏng. Chúng tôi đương lấy que bới lớp đất mềm trên mặt, lớp đất bốc mùi mỡ và tro. Thung lũng lúc này đã chìm trong ánh hoàng hôn và một lớp sương mù lạnh lẽo như một con suối ngầm chảy xối trong rừng. Thế nhưng khu làng nhỏ nơi chúng tôi cư ngụ ở phía trên sườn đồi thoải xuống lòng thung thì lại đắm trong một thứ ánh sáng màu trái nho. Tôi đứng thẳng người dậy, há miệng ngáp lớn uể oải. Em tôi cũng đứng dậy, ngáp khẽ và nhìn tôi mỉm cười.

Chúng tôi thôi không lượm nữa và, quăng mấy cái que vào đám cỏ rậm rạp mùa hè, hai anh em bá vai nhau bắt đầu theo con đường mòn mà đi trở lên khu làng. Chúng tôi tới chỗ hỏa thiêu là để kiếm mấy miếng xương còn lại có hình thù khả dĩ đeo trên ngực làm phù hiệu, nhưng bọn trẻ trong làng đã lượm hết, và chúng tôi hoàn toàn không kiếm được chút gì. Tôi tính có lẽ phải đánh lộn với một thằng bạn nào đó cùng học lớp tiểu học để giật lấy một cái. Tôi nhớ tới hai hôm trước đã nhìn qua cả một rặng đen nghịt những chân người lớn, coi họ hỏa thiêu một người đàn bà mới chết trong làng. Mụ nằm đó, trần truồng giữa ánh lửa, với cái bụng lật ngửa tênh hênh sưng tấy lên như một trái đồi nhỏ và một vẻ mặt buồn bã. Lúc này tôi thấy sợ kinh hồn. Tôi nắm lấy cánh tay gầy guộc của em tôi mà rảo bước. Dường như cái mùi người chết, một lần nữa, lại đánh lên hai lỗ mũi tôi, một cái mùi tương tự như thứ chất lỏng dinh dính của loài gián nhỉ ra khi ta xiết chúng trong mấy đầu ngón tay.

Làng chúng tôi bó buộc phải hỏa thiêu người chết ngoài trời vào kỳ mưa kéo dài trước mùa hè năm ấy, lúc mà những cơn mưa dài dặc, dai dẳng tiếp nối nhau mãi cho đến khi lụt lội xẩy ra thường ngày. Một vụ đất lở làm sập mất cây cầu treo tức là lối tắt từ trong làng ra tỉnh khiến cho chi nhánh trường tiểu học địa phương ở làng chúng tôi phải đóng cửa, thư từ không tới được và người lớn trong làng có việc cần ra tỉnh bắt buộc phải đi vòng theo một con đường mòn nhỏ hẹp không được an toàn ở phía trên đỉnh đồi. Bởi đó đem người chết ra chỗ hỏa thiêu ngoài tỉnh không còn thành vấn đề nữa.

Tuy nhiên đối với làng chúng tôi, một khu làng được lập ra để khai khẩn đất hoang trong vùng và đã lâu đời rồi mà vẫn chưa được phát triển đầy đủ thì dẫu có bị hoàn toàn cắt đứt với thành phố cũng chẳng lấy gì làm khó khăn nghiêm trọng cả. Dân ngoài tỉnh khinh thị chúng tôi như thể chúng tôi là thứ súc vật dơ dáy; và tất cả những gì chúng tôi cần tới thường ngày nhất nhất đều dồn đều nhét cả vào đám nhà hỗn độn nhỏ bé ở phía sườn đồi nhìn xuống cái thung lũng hẹp kia. Ngoài ra, lúc bấy giờ mới là đầu mùa hè và trẻ con chúng tôi rất khoái chí vì chi nhánh trường học địa phương trong làng chúng tôi phải đóng cửa.

Ngay tại chỗ khởi sự con đường trải đá mòn ở lối vào làng, Sứt Môi đương đứng ôm một con chó. Tôi bám lấy vai em tôi, chạy qua vùng bóng râm tối của mấy gốc mơ già lại coi con chó trong tay Sứt Môi.

«Ê, coi đây này!» Sứt Môi nói, tay hất hất con chó con mãi khiến nó gừ gừ. Cánh tay hắn giơ về phía tôi đầy những vết cắn bê bết máu và lông chó. Trên ngực hắn và cả ở phía sau cái cổ to mà ngắn ngủn của hắn, những vết cắn còn hằn rõ như những nụ hoa. «Coi đây!» hắn long trọng nhắc lại.

«Mày hứa đi bắt chó rừng với tao,» tôi nghẹn giọng vì ngạc nhiên và tức tối nói. «Thế mà mày đi một mình phải không?»

«Ta có lại đón mi», Sứt Môi nói vội. «Nhưng mi đâu có đó!...»

«Chắc mày bị cắn bộn», tôi lấy đầu ngón tay chọc con chó con nói. Hai lỗ mũi con chó phồng lên, đôi mắt nó dữ tợn như hai con mắt chó sói. «Phải mày bò vào tận ổ không?»

«Trước khi đi ta đã quấn một miếng da quanh cổ để chúng không tài nào cắn vào họng được», Sứt Môi đáp với một giọng đầy kiêu hãnh.

Trong màu tím của hoàng hôn ở sườn đồi và trên con đường trải đá, tôi có thể hình dung rõ rệt Sứt Môi với miếng da che cổ, bị lũ chó rừng cắn cùng khắp khi hắn bò từ trong cái ổ đầy những cỏ và cành khô ra, tay ôm con chó con.

«Bao lâu chúng không động tới cổ họng mình được là không sao hết», Sứt Môi nói vẻ tự tin. «Vả lại, ta chờ mãi cho tới khi chỉ còn có lũ chó con thôi.»

«Nó trắng và xinh lắm», tôi nói, cố không để lộ cái giọng ghen tuông.

«Bố nó cặp với chó sói đấy.» Cái kiểu nói địa phương Sứt Môi dùng thật thô tục nhưng sống động ghê gớm.

«Chà!» em tôi mơ mộng nói.

«Nó quen với ta lắm rồi.» Sứt Môi nói tiếp vẻ quá tự tin. «Bi giờ thời nó chả về với lũ chó rừng kia nữa đâu.»

Tôi với em tôi im lặng.

«Chúng bay coi!» Sứt Môi đặt con chó xuống đường buông tay ra mà nói.

«Coi!»

Nhưng thay vì nhìn xuống con chó, chúng tôi lại nhìn lên trời, vòm trời chụp lấy cái thung lũng hẹp. Một chiếc máy bay lớn không thế nào tin được đang bay ngang qua vòm trời với một tốc độ khủng khiếp. Trong giây lát, toàn thân chúng tôi bị ngợp trong tiếng ầm ầm to lớn tràn đầy và rung chuyển lớp không khí. Chúng tôi đứng sững trong cái tiếng động kia như những côn trùng có cánh bị dính phải dầu.

«Máy bay địch đấy!» Sứt Môi la lớn. «Có địch tới!»

Chúng tôi giương mắt nhìn trời và la lớn cho đến khi khản cả tiếng. «Máy bay địch!..»

Nhưng bây giờ trên vòm trời chả còn gì nữa ngoài những đám mây lấp lánh nâu trong ánh tà dương. Khi chúng tôi hoàn hồn, thời thấy con chó của Sứt Môi đương phóng thật nhanh xuống con đường đầy sỏi đá. Thế rồi con chó nhỏ ăng ẳng nhẩy vào rừng mất tăm, bỏ lại Sứt Môi miệng há hốc, thân hình như muốn chồm tới đuổi theo. Em tôi và tôi cười sằng sặc như người say rượu, và đến chính Sứt Môi, dầu hết sức tức tối, cũng phải bật cười.

Chúng tôi bỏ Sứt Môi đó, chạy về căn nhà chứa đồ ngồi «chồm hổm» trong ánh hoàng hôn như một con thú lớn. Cha đang ở trong chỗ tối không có sàn lót, sửa soạn bữa ăn cho chúng tôi.

«Tụi con thấy một cái máy bay!» em tôi kêu lớn sau lưng Cha. «Một cái máy bay địch lớn hết sức.» Cha lầu bầu không quay lại. Tôi gỡ khẩu súng săn nặng nề của Cha trên vách ván xuống, và vác lên vai, tay khoác tay em tôi, trèo lên những bậc thang tối.

«Tiếc quá, con chó rông mất», tôi nói.

«Cả cái máy bay nữa», em tôi nói.

Chúng tôi sống trong một căn buồng nhỏ ngày trước đã từng dùng làm nơi nuôi tằm, trên lầu hai của một ngôi nhà chứa đồ công cộng ngay giữa làng. Chúng tôi không có lấy một chút đồ đạc gì là của riêng. Khẩu súng săn của Cha ánh mờ, sáng lên tưởng chừng như cái báng gỗ nhoáng bóng dầu mỡ kia đã biến thành sắt cứng như cái nòng súng, cứng đến độ tay đập vào đó sẽ bị tê đi. Khẩu súng này khiến cho căn nhà nghèo khổ của chúng tôi có một chỗ chú mục. Khẩu súng đó củng với mấy tấm lông chồn phơi khô treo thành chùm từ mấy cái sà để mộc rủ xuống và mấy cái bẫy đủ loại là tất cả những gì chúng tôi có. Cha đã xoay sở nuôi chúng tôi bằng cách đi săn thỏ rừng, chim chóc và — vào những mùa đông tuyết phủ — cả heo rừng nữa, và bằng cách phơi khô những bộ lông chồn mà người bẫy được và đem bán ở sở mua bán địa phương ngoài tỉnh.

Trong lúc lau chùi khẩu súng bằng một miếng giẻ rách tẩm dầu, em tôi với tôi ngó lên khoảng trời tối đen qua khe hở trong cánh cửa gỗ, như ngóng đợi nghe thấy cái tiếng ầm ầm của chiếc máy bay kia một lần nữa. Nhưng máy bay bay qua làng chúng tôi là chuyện hết sức bất thường. Chúng tôi đặt khẩu súng lại cái giá gỗ trên tường, rồi bò lên giường nằm sát vào nhau, chờ Cha đem nồi cơm với súp và rau lên, trong bụng đói cào cấu.

Em tôi với tôi cũng như những hạt giống nhỏ bị bao chặt trong lớp vỏ cứng và khoảng nhân dầy, những hạt xanh bọc trong một lớp màng quá mềm mại và tươi non khiến chỉ phơi ra ánh sáng bên ngoài thôi cũng đủ làm cho nó rung chuyển và tróc đi mất... Bên ngoài cái vỏ cứng, kế mặt biển vươn dài như một sợi băng lấp lánh, nhỏ hẹp xa xa, chiến tranh đương nôn mửa lớp khí tanh tưởi xuống thành phố. Cuộc chiến tranh tiếp diễn quá lâu ấy ngày càng thêm rộng lớn và nặng nề như truyện hoang đường. Thế nhưng đối với chúng tôi, chiến tranh chỉ có nghĩa là thiếu bóng những thanh niên trai tráng trong làng và thỉnh thoảng lại một vài bức điện báo tin tử trận mà người đưa thư phân phát. Từ bấy đến giờ chiến tranh vẫn chưa ngấm qua được cái vỏ cứng và lớp nhân dầy. Ngay cả địch... Ngay cả máy bay địch mới đây đã bắt đầu bay qua làng, đối với chúng tôi, cũng chỉ như một thứ chim lạ nào đó.

Gần sáng chúng tôi choàng dậy vì tiếng một vật gì rớt xuống nặng nề và khủng khiếp. Tôi thấy Cha ngồi nhỏm dậy trên tấm chăn trải trên giường và ngất ngư ở đó, đôi mắt thao láo thèm muốn, như một con thú dữ núp trong rừng đêm toan chồm tới vồ mồi. Nhưng thay vì nhảy tới, người lại ngả xuống giường và ngủ lại rất mau.

Tôi chờ một lúc lâu, đôi tai như muốn tróc ra, nhưng tiếng ầm ầm kia không trở lại nữa. Tôi kiên nhẫn chờ đợi, lặng lẽ hít thở cái không khí ẩm ướt sáng lên do ánh trăng nhạt chiếu xuyên qua khung cửa cao ngất trổ trên mái căn nhà chứa đồ, cái không khí nặng mùi ẩm mốc và những con thú nhỏ. Một thời gian dài đã trôi qua lúc em tôi đương thiếp ngủ, vầng trán đẫm mồ hôi ép sát bên người tôi, đột nhiên buông một tiếng nức nở yếu ớt. Cả em tôi nữa hẳn cũng đã đợi chờ mặt đất ầm lên vang dội, và cái hồi hộp đợi chờ quá đáng ấy khiến nó chịu không nổi. Nó nằm đó, cái cổ gầy gò và mảnh mai như một cuống cây non: tôi ép lòng bàn tay vào gáy nó và nhẹ nhàng đung đưa để trấn an nó. Thế rồi, nguôi ngoai vì cái cử động nhè nhẹ của chính cánh tay tôi, tôi cũng thiếp đi nốt.

Khi tôi tỉnh dậy, ánh sáng ban mai tràn trề ùa vào qua từng khe hở trên vách ván và trời đã nóng. Cha không có đó. Và khẩu súng cũng không có trên tường. Tôi lay em tôi dậy và mình hãy còn để trần tới ngang hông, chúng tôi ra ngoài con lộ ngay phía trước mặt căn nhà chứa đồ. Những tảng đá lát trên đường cũng như những bậc cấp bằng đá bập bềnh trong ánh sáng gay gắt ban mai và mấy đứa trẻ đứng ngoài đó hoa mắt, chớp chớp. Những đứa khác đè mấy con chó ra bắt rận hay la lối đuổi nhau lên lên xuống xuống con đường. Nhưng tuyệt nhiên không thấy mấy người lớn đâu cả. Em tôi với tôi chạy lại chỗ người thợ rèn ở dưới gốc một cây long não cành lá xum xuê, nhưng không thấy lò than phừn phựt tuôn ra những ngọn lửa sáng ngời trên nền đất thâm u, không thấy một tiếng bễ lò rèn, và không thấy người thợ rèn đất cát ngập tới ngang hông nhấc miếng sắt nóng đỏ với cánh tay cháy nắng héo khô một cách kỳ quặc của ông. Lúc bấy giờ đã giữa buổi mai, thế mà ông thợ rèn không có mặt trong xưởng! Chuyện chưa từng xẩy ra bao giờ. Chúng tôi lặng lẽ theo con đường lót đá mòn bước trở lại, những cánh tay trần vòng lấy nhau. Ở khắp cả làng, chúng tôi không thấy bóng một người lớn. Mấy người đàn bà chắc đang luẩn quẩn đâu đó ở phía trong tăm tối của mấy căn nhà, nhưng ngoài này chỉ có lũ trẻ đắm trong ánh nắng tràn lan. Tôi cảm thấy rùng mình lo ngại.

Sứt Môi đương ngả người trên mấy bậc đá dẫn xuống con suối nơi dân làng thường kín nước, chợt thấy chúng tôi liền chạy tới vẫy vẫy. Hắn ra dáng quan trọng lắm, bọt rãi trắng nhem nhép phùn ra ở chỗ môi sứt.

«Ê, tụi bay có nghe thấy gì không?» hắn đập vào vai tôi hét lớn. «Nghe thấy gì không?»

«Hử?» tôi đáp trống không.

«Cái máy bay bữa qua ấy, nó rớt xuống đồi hồi hôm rồi», hắn nói. «Họ đang đi kiếm mấy tên phi công địch đó. Mấy người lớn đều xách súng đi lùng bọn chúng.»

«Không hiểu họ có bắn chúng nó không?» em tôi hỏi, giọng căng thẳng. «Bọn lính địch đó?»

«Ta nghĩ họ chả bắn chúng nó đâu. Đạn bi giờ thiếu», hắn vui vẻ giải thích. «Bắt sống bọn chúng tốt hơn.»

«Thế cái máy bay có việc gì không?» tôi hỏi.

«Nó lao xuống rừng thông nát tan tành», Sứt Môi đáp. Hắn nói thật nhanh, hai con mắt lóe sáng. «Kế nhà ông đưa thư có thấy rồi. Mi biết chỗ đó mà, phải không?»

Tôi biết chỗ đó. Ngay lúc này đây có dễ hoa thông đương nở như những bông cỏ lơ thơ. Độ cuối hè, trái thông hình trứng chim rừng sẽ thành hình sẵn trên cuống nhánh chờ chúng tôi tới hái làm đạn dược. Cứ nhá nhem hay tảng sáng những viên đạn nâu lại bay vào căn nhà chứa đồ của chúng tôi lốp đốp, lốp đốp.

«Thế nào?» Sứt Môi toác cái miệng ra, nhe hai hàng lợi sáng hồng. «Mi biết chỗ đó, phải không?»

«Biết chứ, sao không?» tôi đáp, đôi môi bịm lại. «Mày có đi bây giờ không?»

Sứt Môi nheo mắt nhìn tôi với một nụ cười ranh mãnh khiến chỗ da quanh đôi mắt hắn nhíu lại thành vô số những nếp nhăn.

«Mày có đi thì tao đi lấy cái áo thung tức thì», tôi cau mày nhìn hắn mà nói. «Mày cứ đi trước đi, chút xíu là tao bắt kịp.»

Khuôn mặt Sứt Môi dãn ra khoan khoái. «Không, mi không có đi đâu hết», hắn nói với một cái giọng như khó nén được thỏa mãn. «Con nít cấm không được lên đồi. Nhỡ ngưới ta tưởng nhầm là phi công ngoại quốc, bắn chết bỏ.»

Tôi cúi đầu, nhìn trừng trừng vào đôi chân trần với những ngón ngắn ngủn, mập mạp bấm sát lấy những tảng đá lót đường nóng bỏng dưới ánh mặt trời buổi sáng. Bực bội ộc lên người tôi như nhựa trào dâng trong thân cây, dồn máu lên da thịt tôi lúc ấy hâm hấp nóng như bộ ruột một con gà con mới giết.

«Em không hiểu quân địch trông nó ra làm sao», em tôi nói.

Chúng tôi bỏ Sứt Môi lại đó, đi trở lại con đường, tay tôi vòng lên vai em tôi. Quân địch trông ra làm sao, thật sự tôi cũng không hiểu nữa, mà chúng ẩn nấp như thế nào ngoài đồng rừng? Đột nhiên tôi thấy như tất cả những cánh rừng bao quanh làng chúng tôi sống động hẳn lên với bọn lính địch đương nín hơi ẩn nấp, và tiếng thở nhè nhẹ của bọn chúng có thể sẽ bùng lên thành tiếng gầm vang ghê sợ bất cứ lúc nào. Chỉ một chốc là lớp da nhớp nháp mồ hôi và cái mùi gớm ghiếc từ thân thể của chúng sẽ trào lên khắp thung lũng, như mùa tới.

«Em mong chúng nó đừng chết», em tôi mơ mộng nói. «Em mong họ bắt sống chúng nó mang về.»

Đờm rãi tắc nghẹn trong cổ họng chúng tôi dưới ánh nắng tràn ngập, và cái đói gặm mãi sâu trong bụng chúng tôi. Cha chắc đến tối mới về: chúng tôi phải đi kiếm thức ăn lấy cho mình thôi. Chúng tôi đi xuống phía giếng nước có cái sô bể ở đằng sau căn nhà chứa đồ; và hai tay bám lấy thành giếng ẩm lạnh lẽo phồng lên như bụng một con nhộng, chúng tôi uống nước. Chúng tôi kín nước vào một cái chậu sắt nông, mồi lửa, rồi thọc tay vào đống trấu ở phía sau căn nhà chứa đồ lấy trộm mấy củ khoai. Lúc chúng tôi rửa bằng nước lạnh, mấy củ khoai cứng như đá trong lòng bàn tay chúng tôi.

Bữa ăn tiếp theo những khó nhọc ngắn ngủi của chúng tôi đó thật giản dị nhưng cũng tươm tất dồi dào. Em tôi, hai tay nắm củ khoai ăn ngon lành như một con thú, trầm ngâm nghĩ ngợi. «Không hiểu mấy tên phi công có ở trên cây thông không», nó nói. «Em thấy có con sóc ở trên cành thông ấy mà.»

«Hừm... Thông bây giờ đương ra hoa, làm chỗ nấp thì tốt lắm», tôi nói.

«Con sóc cũng vậy, nó thấy em là trốn liền!» em tôi mỉm cười nói.

Ngay lúc này, tôi nghĩ, mấy người lính ngoại quốc chắc đương lẩn khuất đâu cao trong đám thông, trên những cành thông có hoa phơi phới như những bông cỏ mềm; và qua những chùm kim thông mầu lục xinh xắn họ đương ngó xuống nhìn cha tôi và những người khác. Hoa thông bám vào những bộ đồ bay lót bông dầy cộm khiến trông họ như những con sóc xù lông ra để ngủ suốt một mùa đông.

«Bọn chúng có trốn trên cây đi nữa nhất định mấy con chó cũng đánh hơi thấy và sủa ầm lên», em tôi nói giọng yên trí lắm.

Đầy bụng rồi, chúng tôi ngồi xuống chỗ mấy bậc cấp ở đằng sau căn nhà chứa đồ, bỏ mặc cái nồi với chỗ khoai thừa và một dúm muối trên nền đất tối thui phía bên trong. Trong lúc lâu chúng tôi ngồi ngứa ngáy không yên trên bậc cấp, kịp đến khi chiều tới hai anh em bỏ ra suối tắm.

Ngoài suối Sứt Môi đương duỗi chân duỗi tay nằm (...) trên một tảng đá nhẵn nhụi và lớn nhất, để mặc cho mấy đứa con gái nhỏ đùa nghịch với (...) của hắn như đùa nghịch với một con búp-bê nhỏ. Cái mặt hắn đỏ tía và chốc chốc hắn lại cất tiếng cười líu ríu như chim, vỗ vào mông mấy đứa con gái đen đét.

Em tôi ngồi xuống bên cạnh Sứt Môi, trịnh trọng quan sát cái lễ nghi vui nhộn này. Tôi té nước vào mấy đứa trẻ dơ dáy đương phơi nắng hoặc ngụp lặn ven suối, rồi khoác áo lên người, không phơi phóng gì hết, và trở về chỗ mấy bậc cấp phía sau căn nhà chứa đồ, để lại những vết chân ướt trên những tảng đá lót đường. Được một lúc khá lâu tôi ngồi yên không nhúc nhích, tay bó gối, với một thứ dự tưởng nóng bỏng và say sưa lạo xạo dưới làn da.

Mơ màng tôi hình dung mình đương mê mải với cái trò chơi kỳ quặc mà Sứt Môi ham thích một cách bất thường ấy. Nhưng mỗi khi mấy đứa con gái đi tắm trở về trần truồng, đôi mông lắc lư theo từng bước, (...), tôi lại chửi um lên và liệng đá răm rào rào dọa nạt chúng.

Tôi đợi mãi tới lúc buổi chiều tà đắm đuối phủ ngập lòng thung và biến những đám mây phấp phới trên trời thành những ngọn lửa rực rỡ ngoài nội, nhưng mấy người lớn vẫn chưa chịu về. Tôi phát điên lên được với dự tưởng.

Hoàng hôn đã phai màu, một cơn gió hiu hiu mát rượi, thật dễ chịu cho lớp da mới bị xém nắng, từ dưới thung lũng trổi lên, và những bóng tối đầu tiên của chiều muộn đã len vào khắp các xó xỉnh lúc mấy con chó ăng ẳng và người lớn trở về khu làng lặng lẽ, một khu làng muốn phát điên lên vì khắc khoải trông đợi. Cùng với lũ trẻ tôi chạy vội ra đón họ và trông thấy người da đen khổng lồ mà họ đương bao quanh. Một nỗi sợ bất ngờ, rõ rệt khiến tôi choáng váng mặt mày.

Người lớn vây quanh tên tù binh. Những đôi môi mím lại long trọng như khi họ đi săn heo rừng vào mùa đông, họ bước tới phía chúng tôi, lưng gập xuống, hầu như buồn bã. Tên tù binh không vận bộ đồ phi công màu xám, không đi giày ống bằng da thuộc màu đen mà mặc một cái áo, một cái quần màu lá cây đậm và đi một đôi giày thô kệch nặng nề. Nó lê một chân tới, cái mặt đen bóng ngửa lên hướng về phía những tia nắng cuối cùng. Chung quanh gót chân nó có buộc chặt một cái xích sắt bẫy heo rừng, khi nó đi cái dây xích kêu loảng xoảng. Trẻ con chúng tôi cũng im lặng như thế đi thành một nhóm theo sau đám rước của mấy người lớn và tên tù binh.

Đám rước ấy từ từ tiến tới khoảng đất trống trước mặt ngôi trường ngánh ở làng, rồi lặng lẽ dừng lại. Tôi chen tới phía trước đám trẻ, nhưng ông lý trưởng già đã la hét ầm ĩ đuổi chúng tôi đi. Chúng tôi rút về phía mấy cây mơ trong một góc sân, nhất quyết dừng lại đó nhòm qua bóng tối dầy đặc xem người lớn họp hội đồng. Mấy người đàn bà đứng ở lối ngưỡng cửa hướng về phía sân trống, tay khoanh lại để dưới những tấm áo choàng trắng. Chồng con họ vừa đi một chuyến nguy hiểm trở về cùng với tên tù, họ dỏng tai nghe ngóng xem thiên hạ nói gì, và lấy làm bực dọc vì mấy người đàn ông nói nhỏ quá. Sứt Môi đập vào sườn tôi một cái mạnh, kéo tôi ra xa đám trẻ con, vào trong vùng bóng tối cây long não. «Nó mọi đen, đúng không? Tao biết ngay mà», hắn nói giọng run run vì hồi hộp thú chí. «Một thằng mọi đen thật!»

«Không hiểu họ làm gì nó. Bắn bỏ nó chắc», tôi nói.

«Bắn bỏ nó ý à?» Sứt Môi kêu lên, giọng nói đứt hơi vì ngạc nhiên. «Bắn một thằng mọi đen thứ thật chính cống hãy còn sống nguyên ấy à?»

«Nhưng mà nó là quân địch», tôi nhấn mạnh, không tin tưởng lắm.

«Quân địch? Nó mà là quân địch?» Sứt Môi khản cả tiếng lắp bắp, nước miếng từ chỗ môi sứt của hắn phùn đầy vào mặt tôi. «Nó là thằng mọi đen! Thế mà là quân địch!»

«Ê, ê!» giọng nói đầy kích thích của em tôi từ đám trẻ con đưa tới. «Coi kìa!»

Sứt Môi và tôi quay lại, chằm chặp nhìn tên phi công da đen. Vai lom khom, nó đứng cách mấy người lớn một khoảng ngắn, đái ra đấy. Mấy người lớn nhìn nó đái ngượng lắm. Không biết làm sao nữa. Cái mình đen thui của nó dần dần nhòe vào bóng tối mỗi lúc một sâu thêm, chỉ còn lại có cánh áo và cái quần màu lục đậm trông như quần áo thợ. Nó cúi đầu đái thật xa; thế rồi, vừa lúc ở phía đám trẻ con đứng nhìn bốc lên tiếng thở dài, nó uể oải lắc đôi mông thôi đái.

Một lần nữa mấy người lớn lại vây kín lấy người phi công da đen và lại từ từ bắt đầu cất bước. Chúng tôi theo sau cách một khoảng xa xa trong một đám rước lặng lẽ. Đám rước ấy dừng lại trước cánh cửa bên hông của căn nhà chứa đồ công cộng nơi người ta thường rỡ hàng xuống.

Ở đây, tối hù như một miệng hang thú, lối vào hầm mở rộng. Hằng năm chúng tôi thường lựa riêng ra những hạt dẻ chín vào mùa Thu thứ tốt nhất, khử sâu bọ dưới lớp vỏ của chúng bằng thán toan, và chất trong cái hầm này để dành mùa Đông. Nghiêm trang như thể lúc bắt đầu một thứ lễ nghi gì đó, mấy người lớn cùng với người da đen đi giữa từ từ chìm vào miệng hầm và những cánh tay phất phới trắng của họ đóng cửa hầm nặng nề lại từ phía trong.

Tai vểnh lên, chúng tôi chăm chú nhìn làn ánh sáng màu da cam lấp lánh trườm ra ngoài khe cửa nhỏ hẹp trổ ở hầm, giữa sàn căn nhà chứa đồ và mặt đất. Nhưng chúng tôi không thể thu hết can đảm để thực sự nhìn qua khung cửa trổ, và thời gian chờ đợi nghi hoặc vắn vỏi khiến chúng tôi mỏi mệt vô cùng. Thế mà tịnh không một tiếng súng nổ. Thay vào đó, là cái khuôn mặt của ông đầu làng lờ mờ xuất hiện trong cánh cửa hầm hé mở và la hét chúng tôi, vì thế chúng tôi đành phải thôi không trông chừng khung cửa trổ nữa dẫu là từ phía xa xa. Tuy vậy không một đứa nào than phiền, và lũ trẻ chạy xuống phía con đường lát đá, ngực phưỡn lên với cái khoan khoái được nếm trước một đêm đầy ác mộng kinh hoàng, gợi ra do chính tiếng bước chân ồn ào đuổi theo chúng khi bỏ chạy.

Em tôi với tôi để mặc Sứt Môi nấp lại trong vùng bóng cây mơ bên căn nhà chứa đồ — hắn vẫn nhất quyết theo rõi hoạt động của mấy người lớn và tên tù binh — đi vòng ra phía trước mặt căn nhà chứa đồ và bám vào cái tay thang bốn mùa ẩm ướt mà trèo lên chỗ chúng tôi ở trên căn buồng sát mái.

Thế là chúng tôi lại được sống trong cùng một căn nhà với tên tù binh ! Lẽ dĩ nhiên, một tiếng kêu từ dưới hầm khó lòng lọt tới tai chúng tôi ở mãi trên căn buồng sát mái, dù chúng tôi có cố lắng tai nghe thế nào chăng nữa, nhưng chúng tôi đương ngồi trên giường, ngay phía bên trên cái hầm mà người ta nhốt thằng da đen, một việc thật thú vị, ớn xương sống và đối với chúng tôi hầu như không thể nào tin được. Răng tôi đánh lập cập vì hào hứng, ghê sợ và khoan khoái. Em tôi, cái chăn trùm trên đầu, hai đầu gối co lại, đương run rẩy như bị cảm nặng. Chúng tôi mỉm cười với nhau trong lúc chờ Cha về. Đây thực là một dịp may lạ lùng.

Vừa lúc chúng tôi bắt đầu nhai chỗ khoai còn lại cứng ngắc và lạnh toát — không phải là để xoa dịu cái đói cào cấu cho bằng để dập tắt, với cánh tay đưa lên hạ xuống và những cử động chăm chú đưa đẩy hàm, nỗi xôn xao khuấy động trong lồng ngực — thì Cha leo lên cầu thang. Toàn thân run rẩy, chúng tôi đăm đăm theo rõi Cha gác khẩu súng lên giá và ngồi xuống tấm chăn trải trên nền nhà trống, nhưng Cha vẫn im lặng, chỉ đưa mắt liếc nhìn cái nồi đựng chỗ khoai mà chúng tôi đương ăn. Cha mệt mỏi rã rời và bực bội, tôi nhủ thầm. Nhưng chúng tôi là trẻ con, không thể làm gì đỡ người được.

«Hết gạo rồi à?» Cha hỏi. Người trừng mắt nhìn tôi, cằm trễ xuống khiến lớp da lởm chởm ở cổ họng phùng ra như một cái bao.

«Dạ», tôi trầm giọng đáp.

«Lúa mì cũng hết sao?» Cha lầu bầu giận dữ.

«Không còn thứ gì hết.» Lúc này thì tôi cũng bực mình.

«Cái tầu bay có việc gì không thầy?» em tôi rụt rè hỏi.

«Nó bắt lửa. Suýt cháy rừng.»

«Cháy hết mọi tí hở thầy?» em tôi hỏi với một tiếng thở dài.

«Còn có mỗi cái đuôi.»

«Cái đuôi... !» nó say sưa nhắc lại.

«Mấy người khác có sao không?» tôi hỏi. «Có mình nó trên tầu bay thôi hở thầy?»

«Hai tên phi công khác bị chết. Còn nó nhảy dù xuống.»

«Nhảy dù... !» em tôi lặp lại như bị lôi cuốn.

Tôi quyết định đánh bạo. «Thế họ định làm gì nó?» tôi hỏi.

«Nuôi nó cho đến khi mình biết ở tỉnh họ tính làm gì nó.»

«Nuôi nó?» tôi ngạc nhiên hỏi. «Như súc vật?»

«Nó thì có hơn gì súc vật.» Cha long trọng tuyên bố. «Hôi cùng khắp như bò.»

«Con muốn đi coi nó», em tôi nhìn vào mặt Cha nói, nhưng Cha đã bỏ xuống cầu thang, đôi môi lộ vẻ bực bội.

Tôi cảm thấy vui sướng. Chúng tôi sẽ nuôi một tên lính da đen! Tôi dám xé tung quần áo và la hét lớn. Nuôi một tên da đen như nuôi một thứ súc vật...

Lệ Thần Trần Trọng Kim - Một cơn gió bụi (5)

Lệ Thần Trần Trọng Kim
Một cơn gió bụi

Hồi kí

Chương 11
Về Sài Gòn

Sau cuộc nói chuyện với ông Cousseau, ông Bảo Ðại bảo tôi rằng: "Trong cái tình thế này, cụ nên về tận nơi, trực tiếp với mấy người cầm quyền của Pháp xem tình ý của họ như thế nào. Nếu thật làm được, thì cụ lại trở ra, ta sẽ trù tính mọi việc".

Tôi nói: "Ðây là mới gặp ông Cousseau, ta đã tin gì mà về. Một mình tôi về, có bị sao cũng không ngại mấy, nhưng công việc chưa ra gì mà đã mắc lừa thì dại quá". Ông nói:
"Nước mình đang lâm vào cảnh khổ vì chiến tranh, nay có cơ hội may ra có thể cứu được nước mà mình do dự không làm gì thì sao cho phải, cụ nên nghĩ kỹ".

Khi ấy ông Cousseau ở lại Hương Cảng để chờ tin bên Ðông Dương, tôi về ăn tết nguyên đán ở Quảng Châu. Trước khi về, ông Bảo Ðại biết tôi không tiền, có đưa giúp tôi 500 dollars, nhưng hôm sau ra nhà trạm xe lửa bị kẻ cắp lấy mất. Rõ là vận đen, làm việc gì cũng đen.

Sau tết nguyên đán được dăm hôm, ông Bảo Ðại cho người bảo tôi đem cả gia quyến ra Hương Cảng. Chúng tôi đi tàu thủy ra tới nơi, đến gặp ông Bảo Ðại. Ông nói rằng: "Cụ về rồi, tôi có nói chuyện thêm với ông Cousseau, tôi tưởng cụ nên về Sài gòn và nhân tiện đem cả gia quyến về, chứ để nheo nhóc ở bên này chẳng có ích gì".

Tôi nghĩ: một mình tôi ở ngoài này đã vậy, lại có vợ con chạy ra đây, thiếu thốn đủ mọi đường. Nay đã có cơ hội đem cả về cho yên chỗ là phải. Còn về việc nước, thì người Pháp đã muốn điều đình và có ý nhận cho nước Việt Nam thống nhất tự chủ, người mình có đánh nhau đến cùng cũng không thể đòi hơn được. Chi bằng ta cứ về cho biết rõ tình thực. Nếu thuận tiện làm được gì thì làm mà không thì thôi, cũng không sao.

Sau tôi gặp ông Cousseau, ông cũng nói: "Nếu cụ bằng lòng về thì tôi thu xếp giấy má xong ngay, rồi chờ có chuyến tàu thủy thì chúng ta cùng về cả. Về bên ấy cụ sẽ có nhà ở và không phải lo gì cả".

Tôi nói: "Tôi về chỉ cần gặp được ông cao cấp ủy viên để nói chuyện cho rõ ràng rồi cho tôi trở sang trình bày cho cựu hoàng biết, lúc ấy có làm gì mới làm được. Về bên ấy tôi muốn gặp mấy người như ông Hoàng Xuân Hãn, ông Vũ Văn Hiến, để hỏi ý kiến và việc làm". Ông nói: "Việc ấy rất dễ, và lúc nào cụ trở sang cũng được".

Công việc định như thế rồi, chờ tàu Champollion ở Thượng Hải đến là về cả. Lúc ấy có ông Ðinh Xuân Quảng và Phan Huy Ðán ở Thượng Hải mới về Hương Cảng, biết rõ công việc bàn định ấy, đều cùng xin về với chúng tôi.

Trước khi đi, ông Bảo Ðại có dặn cách gửi thư cho ông và lại đưa cho cái thư, bảo tôi về gặp bà Didelot, là chị hoàng hậu, mà đưa tận tay cho bà ấy. Tôi hỏi rằng: "Về bên ấy rồi, người Pháp không cho tôi trở sang lại thì saỏ" Ông nói rằng: "Nếu họ không để cho cụ sang thì tôi còn bên này, cụ đừng lo".

Tôi hỏi như thế là vì tôi vẫn không tin lời ông Cousseau nói, vả lại có một người quen của ông ấy nói với tôi rằng: ông Cousseau nói với người ta rằng: "Ông Kim đừng mơ tưởng". Tôi mơ tưởng cái gì? Tôi về nếu mà người Pháp thành thực, thì là việc giúp nước trong lúc nguy nan, ngược bằng có ý lừa dối thì thôi, chứ tôi có mưu cầu danh lợi gì đâu mà bảo đừng mơ tưởng.

Việc đã định rồi thì cứ về. Sáng ngày mùng 2 tháng hai năm 1947 chúng tôi xuống tàu Champollion, đến ngày mùng 5 đến Sài gòn, nhưng đến sáng mùng 6 mới lên bờ.

Trước khi đi ông Cousseau đã giao hẹn về đến Sài gòn sẽ có nhà ở. Nhưng từ khi đến nơi xem ra bộ ông lúng túng, tôi bảo ở đây tôi quen ông Trịnh Ðình Thảo, chúng tôi hãy tạm lên ở đấy. Thế là chúng tôi thuê xe về cả nhà ông Thảo.

Ông Trịnh Ðình Thảo từ khi ở Huế về, đóng cửa trong nhà, không làm việc gì cả. Bất thình lình thấy chúng tôi kéo đến, rất lấy làm ngạc nhiên và lo sợ. Lo sợ là không biết chúng tôi về làm gì. Sau khi tôi nói chuyện tình đầu cho ông nghe, ông mới yên bụng.
Ở đấy được vài hôm, ông Cousseau nói chưa tìm được nhà. Ông Quảng và ông Ðán đi tìm chỗ khác ở. Nhà tôi tìm thấy người anh ruột là ông cử Bùi Khải rồi cũng về đó ở. Tôi ở lại nhà ông Thảo, vì tôi về Sài gòn là đã giao hẹn từ trước nên giữ kín đừng cho ai biết, chờ đến khi biết rõ sự thực rồi trở sang Hương Cảng, bấy giờ có làm việc gì mới làm. Thế mà cách mấy hôm đã có người đến tìm tôi. Tôi phải từ chối không tiếp ai cả.

Mấy hôm sau nữa, ông Pignon lúc ấy làm ủy viên coi việc chính trị, đến gặp tôi ở nhà ông Thảo, ngồi nói chuyện rất ôn hòa và cho tôi biết ông cũng đồng ý về mấy điều tôi đã đưa cho ông Cousseau khi ở bên Hương Cảng, nhưng vì cao cấp ủy viên Pháp là trung tướng D'argenlieu phải về Pháp, chờ cho đến khi ông trở sang mới nói chuyện được. Tôi có nhắc lại chuyện cho tôi được gặp những người như ông Hiến, ông Hãn và ông Khiêm, thì ông Pignon nói rồi sẽ đưa những người ấy vào gặp tôi. Nói thế nhưng rồi sau chẳng thấy ai cả.

Tôi xem cái tình thế trong nước phía bên người Pháp, thì có mấy phái. Có phái thì muốn lập lại chủ quyền như trước, chỉ thay đổi có cái tên gọi mà thôi. Có phái thì muốn chủ trương sự lập Ðông Cung mới 11 tuổi lên làm vua, để bà Hoàng Hậu nhiếp chính. Có phái thì muốn ít ra cũng tách nước nam bộ đặt dưới quyền điều khiển ngấm ngầm của họ. Rồi mỗi phái có một bọn người Việt Nam, vì quyền lợi riêng cũng phụ họa thêm vào. Song những người Việt Nam ấy là một thiểu số ít ỏi lắm, mỗi khi họ muốn hội họp để biểu tình gì đó, chỉ thấy có độ vài ba trăm người là cùng.

Phía bên người Việt Nam thì có phái Việt Minh, phái quốc gia và cái phái tôn giáo như Thiên Chúa giáo, Cao Ðài giáo và Hòa Hảo giáo v...v... Song hoạt động hơn cả là phái Việt Minh, nào tuyên truyền, nào thóa mạ, nào ám sát là việc họ thường làm rất táo bạo và hăng hái. Cái phái khác tuy không ưa Việt Minh, nhưng cũng vì Việt Minh có cái danh nghĩa chống Pháp để đòi lại nền độc lập, cho nên có nhiều người khuynh hướng về mặt trận kháng chiến. Tôi nghe thấy nhiều người nói rằng: "Chúng tôi chẳng ưa gì cộng sản, nhưng họ đã có cái tổ chức để kháng chiến, thì hãy đi kháng chiến đã, rồi sau nếu mà thành công, thì ta sẽ liệu với nhau, chứ cúi đầu làm nô lệ cho Pháp như trước, thà chết thì thôi chứ không bao giờ chịu". Còn một phần hoặc vì quá ghét Việt Minh hoặc vì Việt Minh áp chế để chuyên giữ độc quyền, cho nên thành ra có phe nọ đảng kia, chia rẽ giết hại lẫn nhau.

Ông Nguyễn Văn Sâm trước là người đã được bổ làm nam bộ khâm sai, thường đến gặp tôi nói chuyện. Tôi nói với ông rằng: "Theo cái tình thế này, thì làm thế nào rồi ta cũng phải điều đình với nước Pháp mới xong việc. Xong muốn cho sự điều đình có lợi cho nước nhà thì người trong nước phải đoàn kết chặt chẻ với nhau mới được. Nếu không thì chỉ mắc mưu người ta lợi dụng rồi chẳng được gì cả". Ông Sâm nói: "Mình muốn đoàn kết nhưng Việt Minh đâu có thật lòng đoàn kết! Họ chỉ muốn mình theo họ để làm tay sai cho họ củng cố địa vị mà thi hành cái chủ nghĩa cộng sản của họ, chứ thực ra họ có thiết gì đến quốc gia. Như vậy thì đoàn kết sao được". Tôi thấy thế rất lấy làm buồn và chán nản.
Người Pháp thì không hiểu cái tâm lý của người Việt Nam, lại ỷ thế có sức mạnh, muốn làm cho người ta sợ, nào bắt bớ, nào cướp bóc, dâm hiếp, rồi nói "chiến tranh là chiến tranh". Làm như thế, cái lòng phẫn uất của người ta càng ngày càng tăng thêm lên. Họ không biết rằng sự sợ có giới hạn, khi đã quá lắm, khi người ta đâm liều, mà đã liều thì không có gì ngăn cản được nữa.

Một bên thì gian ác, hiểm độc ai cũng biết, nhưng lại mượn được cái danh nghĩa rõ ràng. Một bên thì quyền mưu giả dối, mà lại bạo ngược tàn ác, trái với lòng người. Như thế làm thế nào mà đem lại hòa bình được.

Theo cái tư tưởng của người đời xưa bên Á Ðông ta, có câu rằng: "Công thành bất như công tâm", nghĩa là đánh thành trì không bằng đánh lấy lòng người. Người Pháp chỉ biết lấy võ lực mà đàn áp, chứ không biết cách làm cho người ta kính phục. Những người họ đem ra làm việc với họ phần nhiều là những người xu nịnh, chỉ muốn thừa thời cơ mà làm sang làm giàu, chứ không nghĩ gì đến liêm sỉ, tiết nghĩa. Những người ấy người Pháp có thể sai khiến, nhưng đối với dân chúng trong nước, không những là không có uy tín gì, mà lại gây thêm cái lòng oán ghét. Vì người Pháp làm những việc thất sách như thế cho nên cái thế Việt Minh vẫn mạnh và giữ vững được mặt trận kháng chiến.

Có người Pháp nói rằng: "Nếu người Việt Nam không mến người Pháp, sao những nơi thuộc quyền kiểm soát, dân cư càng ngày càng đông hơn trước. Họ lấy thí dụ như khu Sài gòn, Chợ Lớn trước khi có sự chiến tranh chỉ có 500.000 người mà đến năm 1949 có đến 1.500.000 người. Ðó không phải là cái chứng xác đáng về sự lòng dân mến người Pháp. Người ta về chỗ thành thị thuộc người Pháp kiểm soát cũng bị nhiều sự bắt bớ cực khổ, nhưng chỉ có bị một bên thôi, còn ở phía thuộc quyền Việt Minh kiểm soát thì đã bị Việt Minh đàn áp, lại bị quân Pháp đến đánh phá, bắn giết, thành một cổ đôi tròng, cho nên người ta phải tìm đến chỗ hại ít mà lánh mình. Hãy hỏi những người thường ở những nơi thành thị, thì ai cũng nói ở chỗ bị một cái khổ còn hơn ở chỗ bị hai cái khổ. Tựu trung trong những người về ở chỗ đô hội đó, cũng có một số người vì quyền lợi muốn theo Pháp, nhưng không phải là ai cũng mến Pháp mà về.

Khi tôi còn chờ đợi ở nhà ông Thảo, có người Pháp đến bảo tôi rằng: "Chính phủ ở đây có tiền, có nhà in sẵn sàng, cụ nên ra mặt làm việc đi". Tôi nói: "Tôi về đây cốt để biết rõ cái ý định người Pháp và xem tình hình trong nước thế nào, rồi ra nói cho cựu hoàng Bảo Ðại biết, lúc ấy có làm gì hay không mới quyết định được". Người Pháp thấy tôi không chịu làm gì, bèn nói nọ nói kia. Một hôm tôi thấy trong một tờ báo Sài gòn, đăng một đoạn rằng: người Pháp đem tôi về, là cốt để tôi không mưu mô bên cạnh ông Bảo Ðại. Cái ý ấy có lẽ đúng sự thực. Vì xem ý người Pháp lúc ấy là muốn lợi dụng ông Bảo Ðại, mà để tôi gần ông sợ có điều bất tiện, nên mới hứa hẹn đủ mọi điều để đem tôi về. Nếu có lợi dụng được thì dùng mà không thì để cho xa cách ông Bảo Ðại ra, rồi đưa những người thân tín của họ ra làm việc cho dễ. Tôi lại thấy bao nhiêu điều hứa hẹn của ông Cousseau là không có gì cả. Những người tôi muốn gặp đều không có ai, mà lại thấy những người như ông Phan Văn Giáo, ông Trần Ðình Quế, thường muốn đến gặp tôi, tôi không tiếp ai cả. Rồi đến những người cùng về với tôi như ông Ðinh Xuân Quảng và ông Phan Huy Ðán đều đi làm việc với ông Quế và ông Giáo.

Khi tôi mới về Sài gòn, tôi có đến gặp ông cố đạo Moreau do ông Bảo Ðại giới thiệu, nói chuyện rất tử tế. Tôi nói: "Cựu hoàng Bảo Ðại có cái thư riêng, bảo tôi đưa tận tay cho bà Didelot, nhờ cố giới thiệu hộ". Cố nói: "Bà ấy bây giờ ở Ðà Lạt, độ một tuần lễ nữa mới về. Khi nào bà ấy về, sẽ báo cho ông biết". Ðộ hơn một tuần lễ sau, tôi nghe nói bà ấy đã về, tôi cho người hỏi cố Moreau, cố nói: "Bà ấy đã về nhưng bận lắm, không biết bà ấy có tiếp được không". Cố lại thêm rằng: "Bà ấy chỉ yêu cháu bà ấy thôi".

Khi ấy có ông Phạm Khắc Hòe, nguyên đổng lý văn phòng của vua Bảo Ðại trước, đang ở Sài gòn, tôi nhờ ông Hòe đến hỏi bà ấy xem bà ấy có tiếp thì tôi đến đưa cái thư của ông Bảo Ðại cho bà ấy. Ông Hòe đi rồi về nói rằng: "Bà ấy nói không tiếp người làm việc chính trị, nhưng ông Kim có muốn gặp thì chỉ tiếp trong năm phút thôi".

Tôi sở dĩ muốn gặp bà Didelot là vì có cái thư của ông Bảo Ðại nhờ tôi đưa tận tay cho bà ấy, chứ có cầu cạnh gì đâu. Tôi thấy thái độ của bà ấy như thế, tôi không đến và nhờ ông Hòe đem cái thư ấy lại cho bà ấy. Tôi kể cái chuyện lặt vặt ấy là vì có một sự gì u ẩn mà tôi chưa rõ.

Có một điều tôi lấy làm lạ rằng là ở Sài gòn dưới quyền kiểm soát của người Pháp mà lại có nhiều báo chí Việt Nam công nhiên ra mặt bênh vực Việt Minh. Có người viết trong báo rằng: "Tôi lấy làm hân hạnh được là người của Việt Minh". Tôi hỏi sao ở đây người Pháp đối với những báo ấy lại rộng rãi như thế? Người ta chỉ cười mà không đáp lại.

Việc làm của người Pháp thật là ngoắc ngoéo khó hiểu. Họ đánh nhau với Việt Minh mà lại dung túng người của Việt Minh. Họ nói muốn điều đình với những người trong phái quốc gia, mà lại cản trở việc làm của phái quốc gia. Trong phái này có ông Nguyễn Văn Sâm ra mặt chống Việt Minh, thì bị người Pháp ghét và bị Việt Minh hăm dọa. Khi tôi gặp ông, tôi khuyên ông rằng: "Tôi xem tình thế khó lắm, ông có làm việc gì phải thận trọng, đừng có khinh xuất mà mắc mưu gian". Ông Sâm nói: "Tôi cũng biết thế, nhưng không lẽ vận nước gian nan mà mình ngồi nhìn, thà chúng ta cứ đứng ra thành lập mặt trận quốc gia thống nhất để cho người ngoài biết trong sự hành động kháng chiến không phải ai cũng là Việt Minh cộng sản hết cả. Rồi đây chúng tôi sẽ tái bản tờ báo Quần Chúng đã bị đóng cửa từ trước, để bày tỏ ý định chúng tôi". Tôi nói: "Việc ấy tùy ông, nhưng không nên vội vàng nông nổi mà hại cho việc các ông làm. Còn tôi thì đã nhất định không dính dáng đến việc gì cả".

Hải quân trung tướng D'Argenlieu về Pháp bị cất chức, chính phủ Pháp cử ông Bollaert sang thay. Khi ông sang đến nơi, thì đổi ông Pignon đi làm ủy viên nước Pháp ở Cao Miên, để ông Didier Michel quyền chức ủy viên coi việc chính trị, tôi thấy ủy viên nước Pháp muốn thay đổi chính sách, tôi nghĩ mình đã định không làm gì nữa, ở lâu nhà ông Thảo vô ích và có điều không tiện, tôi bèn về nhà ông Bùi Khải. Bấy giờ là ngày 29 tháng tư năm 1947.

Cao cấp ủy viên Bollaert sang hứa hẹn lờ mờ chưa rõ là ý định của chính phủ Pháp là thế nào. Sau khi ông đi kinh lý các nơi ông cho ông Paul Mus, giám đốc trường hải ngoại nước Pháp, đi gặp ông Hồ Chí Minh để thương thuyết, nhưng hình như muốn bắt Việt Minh đầu hàng. Thành ra không xong. Cao cấp ủy viên lại về Pháp được toàn quyền hành động để đem lại cuộc hòa bình ở Ðông Dương. Ông trở sang, định ra Hà Nội đọc bài diễn văn ấy ở Hà Ðông, đại ý nói sẽ cho nước Việt Nam thống nhất và được độc lập trong liên hiệp Pháp theo mấy điều kiện, và cái điều kiện quan trọng nhất là bắt quân Việt Minh phải nộp khí giới mà đầu hàng. Thế là bao nhiêu hy vọng của mấy người còn tin tưởng ở cái chính sách mới của ông Bollaert mất hết.

Ngày mùng 8 tháng năm, mấy hôm trước khi ông Bollaert ra bắc, ông Didier Michel hẹn đến gặp tôi ở nhà ông Thảo. Hai lần trước tôi gặp ông Pignon, câu chuyện không có gì, nhưng còn có ý vị, lần này tôi gặp ông Didier Michel thì nhạt nhẽo lắm. Ông nói: "Sao ông không ra hành động đi, ông còn đợi gì nữả"

Tôi nói: "Hành động gì? Cái mục đích của tôi về đây là để biết rõ cái ý chính phủ Pháp định đối với Việt Nam thế nào rồi tôi ra nói cho ông Bảo Ðại biết, và đến nay tôi chưa thấy gì là rõ rệt cả".

„Ông không đọc những lời diễn văn của ông Ramadier, thủ tướng nước Pháp, và những lời bố cáo của ông Bollaert đã nói à?“

„Tôi có đọc, nhưng đó chỉ là lời diễn văn thôi, chứ chả có gì là thiết thực.“

„Thế thì ông muốn thế nào?“

„Tôi muốn có sự thành thật rõ ràng rồi mới có thể làm việc được.“

„Bây giờ tôi vội về có việc, để sau ta sẽ nói chuyện.“

Từ đó rồi thôi, tôi không gặp người Pháp nào nữa, rồi thấy có những người như ông Phan Văn Giáo, Trần Ðình Quế và những người khác, hoặc ở nam hoặc ở trung, hay ở bắc, tấp nập đi lại Sài gòn-Hương Cảng-Sài gòn.

Ông Nguyễn Văn Sâm cũng sang Hương Cảng gặp ông Bảo Ðại, đến khi trở về được mấy ngày thì bị ám sát. Ông vốn là người ôn hòa trầm tĩnh, ngay chính và hết lòng lo việc nước. Nhưng vì ông quá tin người ta xui dục làm việc vội vàng quá thành ra bị tai vạ, thật là đáng thương tiếc.

Qua đầu năm 1948 ở Nam Kỳ cộng hòa quốc, Lê Văn Hoạch phải từ chức. Người Pháp đưa thiếu tướng Nguyễn Văn Xuân về thay. Ông Xuân nhận chức chủ tịch ít lâu rồi để Trần Văn Hữu lên thay và đứng ra lập Việt Nam Trung Ương lâm thời chính phủ. Ðến ngày mùng 5 tháng sáu năm 1948 thì có hội nghị giữa ông Bollaert và ông Bảo Ðại ở vịnh Hạ Long, chuẩn định sự hứa hẹn cho nước Việt Nam được thống nhất và độc lập ở trong khối liên hiệp Pháp.

Xong cuộc hội nghị ở vịnh Hạ Long, ông Bảo Ðại về từ biệt Hương Cảng, đi qua nước Anh chữa mắt, rồi về ở Thụy Sĩ. Ðến khi người Pháp đem cựu hoàng hậu và các con sang Pháp thì về ở nhà riêng ở thành Cannes gần Nice.

Khi thiếu tướng Nguyễn Văn Xuân lên làm chủ tịch trung ương lâm thời chính phủ, có viết thư mời tôi về làm cố vấn, nhưng vì tôi già yếu và lại có bệnh tật, tự biết không làm được việc gì ích lợi cho thế cục, nên tôi từ chối. Lúc ấy tôi đã ở Nam Vang được mấy tháng rồi.




Chương 12
Lên Nam Vang

Khi tôi về Sài gòn, trong lưng chỉ còn có 20 đồng bạc Ðông Dương. Ông Cousseau thấy vậy có đưa tiền, nhưng tôi không lấy. Sau tôi gặp những người quen biết có giúp đỡ ít nhiều để mua thuốc thang và may vá lặt vặt. Tôi đến nhờ ông cử Bùi Khải, ông vì tình anh em, tiếp đãi một cách thành thực và tử tế, các cháu đều hết lòng kính mến. Nhưng vì cả gia quyến bốn năm người đến ở đấy lâu ngày, ăn không ngồi rồi, nghĩ cũng khó coi. Con gái tôi biết tiếng Anh, có nhiều người muốn học, định đi thuê nhà để dạy học, nhưng không thuê được nhà. Sài gòn cũng như ở bên Tàu, cái nạn khan nhà thật là điêu đứng. Muốn thuê một cái nhà nhỏ, ít ra cũng phải trả tiền trà mất một vài vạn bạc, thì lấy tiền đâủ Sau hai vợ chồng con tôi gặp những người quen nói ở trên Nam Vang, bên Cao Miên, cơm gạo rẻ và dễ thuê nhà, chúng nó mới xin giấy lên Nam Vang. Lên ở nhà khách sạn được mấy ngày chẳng may con tôi bị bỏng suýt chết. Nhờ có những người quen biết trông nom giúp đỡ nên không việc gì.

Nhà ở Nam Vang lại có phần khó thuê hơn ở Sài gòn, thành ra nhà vẫn chưa thuê được, con tôi phải về ở nhà ông Phạm Chí Tùng trong khi chờ đợi có nhà ở.

Ông Phạm Chí Tùng là người rất hiền hậu, thấy con tôi lên ở nơi xa lạ, hết lòng giúp đỡ, coi như anh em trong nhà vậy.

Con tôi đi Nam Vang chờ đến ba tháng, nhờ ông Pignon can thiệp mấy lần, hội đồng coi việc nhà cửa mới thuê cho được một căn nhà, mở lớp dạy học tiếng Anh, lần hồi cũng đủ ăn tiêu.

Tôi ở Sài gòn, có cóp nhặt những sách của tôi, định tìm nhà xuất bản cho in lại. Lúc ấy tôi gặp ông Trần Văn Văn đến thăm tôi. Khi tôi ở Huế, ông có ra làm việc ở bộ kinh tế với ông Hồ Tá Khanh, cho nên đã quen từ trước. Ông thấy tôi ở trong cái hoàn cảnh rất eo hẹp, ông liền cho tôi vay một món tiền khá lớn và ông nhận việc tìm nhà xuất bản để in những sách của tôi.

Trong lúc nguy nan, gặp được người bạn như ông Trần Văn Văn đến thăm tôi thật là ít có. Ấy cũng là một sự may mắn, nhờ trời dun dủi làm cho đỡ được bao nỗi đau buồn khổ não.

Vào khoảng tháng chín năm 1947, thì cậu Bùi Nam, anh em nhà tôi ở Hà Nội vào Sài gòn thăm chúng tôi, biết rõ tin tức người nhà. Lúc ấy nhạc mẫu tôi đau nặng chưa biết thế nào, cậu Nam được tin vội vàng ra ngay, ra đến nơi buổi trưa, thì buổi chiều mẹ tôi mất. Tình mẹ con, nỗi đau đớn, nhà tôi rất sầu khổ. Cái sầu khổ lúc ấy lại có phần tăng thêm là vì phải khi loạn lạc, mình phiêu lưu ở đất khách quê người, không thấy được mặt mẹ trong phút cuối cùng.

Sau tôi nghĩ ở Sài gòn cũng ngồi không mà con thì ở trên Nam Vang một mình, ngày dạy học vất vả, bỏ cháu không ai trông coi. Nhà tôi muốn lên ở trên ấy, để cha mẹ con cái cùng ở một chỗ. Vậy nên chúng tôi định qua tết nguyên đán năm Mậu Tý (1948) thì lên Nam Vang.

Ðến quãng đầu tháng ba năm 1948, thì rể tôi về đón chúng tôi, rồi đến ngày mùng 6 tháng ba tức là ngày 26 tháng giêng năm Mậu Tý, chúng tôi lên xe hơi chở hành khách lên Nam Vang.

Lên đến nơi một tuần lễ, tôi đến gặp ông Pignon là ủy viên nước Pháp, xin cái giấy được lưu trú ở đất Cao Miên. Vì ở xứ ấy bấy giờ, những người Việt Nam đi lại rất khó mà ai muốn ở lâu phải có giấy cho ở mới được. Ông Pignon chuyện trò một cách vui vẻ và cho giấy một cách rất dễ dàng.

Ở Nam Vang được yên ổn hơn Sài gòn, ngày đêm tự do, không có cấm đoán gì cả, chỉ phải nóng nực khó chịu. Tôi lên đây nhờ có ông Phạm Chí Tùng và mấy người khác cho mượn sách vở, nhất là những sách vở nói về đạo Phật và đạo Ấn Ðộ, tôi xem cũng nguôi được nhiều điều phiền não. Mỗi khi trời mát mẻ, chiều đến tôi chống cái gậy ra đứng bờ sông trông nước chảy, mà nghĩ cuộc đời cũng xoay vần trôi nổi có khác gì dòng nước chảy xuôi.

Cuộc đời của tôi đi đến đấy đối với người ngoài cho là thật hiu quạnh, song tự tôi lại thấy có nhiều thú vị hơn là những lúc phải lo toan làm công việc nọ kia, giống như người đóng tuồng ra sân khấu, nhảy múa nhọc mệt rồi hết trò, đâu lại vào đấy. Ðàng này ngồi yên một chỗ, ngắm rõ trò đời và tự mình tỉnh sát để biết cái tâm tình của mình. Tôi nhớ lại câu cổ nhân đã nói: "Hiếu danh bất như đào danh, đào danh bất như vô danh". Muốn có danh không bằng trốn danh, trốn danh không bằng không có danh.

Người có trí tuệ mà biết giữ mình ở chỗ vô danh là bậc cao sĩ tuyệt bậc, nhưng mình đã trót đeo lấy cái danh vào mình, thì phải tìm cách trốn danh vậy.

Danh với lợi ở đời là những cái mồi nó dử mình vào cạm bẫy để hành hạ cái thân mình, chung quy chỉ là một cuộc mộng ảo, chẳng có gì là thực. Khi đã mắc vào thì lắm lúc lại phải đi vào những nơi hôi thối, phải bưng mắt bịt mũi, thật là khổ.

Tôi nương náu ở đây chờ cho tình thế yên yên, thì thu xếp về bắc, là nơi có bà con, bạn bè để khi vui buồn có nhau, còn hơn là chỗ xa lạ.

Ðến tháng ba năm 1949, thấy ông Bảo Ðại đã điều đình với chính phủ Pháp công nhận nước Việt Nam được thống nhất và độc lập trong khối liên hiệp Pháp, đại khái theo cái nguyên tắc ông Bảo Ðại và tôi đã đưa cho người Pháp khi chúng tôi còn ở Hương Cảng. Giá hai năm trước, chính phủ Pháp đi hẳn vào con đường ấy, có lẽ đỡ được bao nhiêu thì giờ và sự tổn hại. Song cái tính con người ta bao giờ cũng thế, cứ để cho đến khi bất đắc dĩ mới chịu làm những việc phải làm, còn thì cứ muốn bám lấy cái lợi một lúc, rồi cứ xoay quanh mãi thành ra hư hỏng việc lớn. Lòng tham của người ta không có bờ bến, nếu không đem cái lòng công minh chính trực mà ngăn ngừa lòng tư dục, thì thường hay có những sự tàn ác, gây ra nhiều nỗi đau buồn.

Việc ông Bảo Ðại điều đình đã được kết quả, như thế cũng đã lợi cho nước Việt Nam rồi nhưng đó mới là phần giao kết, cần phải chờ đợi sự thực hành xem có đúng lời giao kết hay không.

Khi sự độc lập và sự thống nhất đã thực hiện rõ ràng rồi, thì ông Bảo Ðại phải có cái chính sách cương quyết và biết lựa chọn lấy những người ngay chính đứng đắn ra giúp ông mà làm mọi việc. Nếu lại để cho những người muốn thừa cơ hội mà làm giàu làm sang, thì khó lòng mà đem lại lòng tín nhiệm của dân chúng. Việc thành bại sau này, là một bên ở cái lòng thành thực của người Pháp, một bên là cái chính sách ngay thẳng của ông Bảo Ðại.

Tôi nay già rồi, không có hăng hái làm được việc gì nữa. Tôi chỉ mong được yên ổn, để về nghỉ ngơi cho trọn tuổi già, ấy là cái sở nguyện chân thực của tôi. Vả trong quãng đường tôi vừa đi qua, trải bao những cảnh huống đau buồn khổ sở, may như Trời Phật cứu giúp, tôi duy trì được đến bây giờ, mà không trụy lạc vào đâu cả, thật là cái phúc lớn vậy. Cho nên tôi thường nhớ bài thơ của một nhà thi sĩ Ấn Ðộ mà người ta dịch ra tiếng Pháp như sau này:

La barque à la dérive Au millieu du fleuve de vie, Périlleux et fouetté de vent, Ma barque, sans rames, ballotte, Flottait à la dérive, Mais ton invisible main, Secourable dt pitoyable, A giudé la barque sans voiles Parmi les rochers, au milleu des orages, Jusqúau rivage de sécurité

Tôi lược lấy ý trong bài thơ ấy mà dịch ra bài thơ song thất lục bát sau này:

Chiếc thuyền vô trạo

Sông nhân thế nước trôi cuồn cuộn,
Giữa dòng sông gió cuốn ào ào.
Chiếc thuyền vô trạo lao đao,
Lênh đênh đây đó biết đâu bến bờ.
Tay tế độ trong cơ huyền bí,
Thuyền không buồm e lệ ngoài khơi,
Ðưa qua sóng gió thác ngòi,
Ðến bên bến nọ là nơi yên lành.

Nhân khi ngồi rồi tôi giở quyển nhật ký ra xem rồi viết thành cuốn sách này để sau ai xem thì biết rõ sự tình và công việc của tôi làm trong mấy năm đây đó.

Bản tâm là tôi viết truyện riêng của tôi, song tôi phải nói đến chính trị của chính phủ Việt Minh và sự hành động của người Pháp ở Ðông Dương, là vì những việc ấy quan hệ với nhau, không nói không ai hiểu manh mối việc tôi làm thế nào.

Việc người Pháp làm ở Ðông Dương có nhiều lầm lỗi, ngay từ lúc đầu không chịu thay đổi cái thái độ với người Việt Nam, cứ tưởng lấy võ lực mà đàn áp và dùng quyền mưu mà lừa dối để đem người ta vào tròng như ý mình muốn, không biết rằng lòng người đã thay đổi, nhân trí đã biến thiên, không thể lấy thế lực mà bắt người ta đi lại con đường cũ được. Phàm cái quyền mưu lừa dối là chỉ dùng được khi người ta không biết, nhưng khi người ta biết rõ cái mưu thuật của mình thì cái mưu thuật ấy không có công hiệu nữa.
Người Pháp lại có cái tính hay cậy sức mạnh của mình rồi có khi có xảy ra việc gì, thì để cho quân lính đi tàn phá giết hại, có ý muốn cho người ta sợ. Cái phương pháp ấy đối với cái tâm lý của dân tộc khác thể nào tôi không biết, nhưng đối với dân tộc Việt Nam mà chỉ dùng sức mạnh để tàn phá, thì sự tàn phá càng tàn nhẫn bao nhiêu, sự thù oán ghét giận lại càng tăng thêm bấy nhiêu.

Theo cái tâm lý người Việt Nam, thì người ta ưa cái chính sách trong sạch ngay chính, không có phá bậy giết càn. Hễ người Pháp không hiểu chỗ ấy, thì bề ngoài thế nào mặc lòng, bề trong không ai phục, thì làm việc gì rồi cũng thất bại. Vì vậy cho nên việc người Pháp muốn đem lại sự hòa bình ở xứ Ðông Dương, mà cứ ngoắt ngoéo không cho nước Việt Nam độc lập và thống nhất, lại không thành thực thi hành những điều giao kết, thì khó lòng mà giải quyết được cái tình thế ngày nay.

Về phương diện chính trị của người Việt Nam thì chính phủ Việt Minh đã thất sách từ lúc đầu, chưa gì đã đem áp dụng cái chủ nghĩa cộng sản một cách đường đột quá, thành ra ở trong thì dân tình ta thán, mà ở ngoài thì không có ai muốn giúp đỡ. Trước thì họ trông cậy ở nước Nga và ở đảng cộng sản ở bên Pháp, sau thì nước Nga vì xa cách không giúp được họ việc gì, đảng cộng sản bên Pháp thất thế, thành ra mình cô lập, thế bất đắc dĩ nên phải lập ra mặt trận kháng chiến. Chính phủ Việt Minh tuy biết lợi dụng cái lòng ái quốc của quốc dân và nhờ có sự tổ chức chu đáo và sự tuyên truyền khôn khéo, nhưng vẫn không đủ sức để ngăn cản được sự tiến hành của quân địch. Cái chủ nghĩa cộng sản về đườn luận thuyết cũng có điều bảo thủ, như là muốn chữa những điều bất công trong xã hội, nhưng về đường kinh tế, thì lại áp chế quá, làm lắm điều hà khốc và dùng những thủ đoạn quỷ quyệt giả dối, khiến người ta mất lòng tin cậy. Ðem cái bất công bình nọ mà phá cái bất công bình kia thì dù có thắng lợi đi nữa, cũng không chắc đã vững bền.
Trong việc làm của Việt Minh cộng sản có hai điều trở ngại. Một là đem cái phương sách hành động ở các nước bạn tây phương sang thi hành ở Việt Nam, có nhiều điều không thích hợp với hoàn cảnh và tính tình của nhiều người trong nước cho nên thành ra có nhiều chỗ trái ngược. Ðó là một điều trở ngại khá lớn. Hai là vì cái vị trí nước Việt Nam ở trong cái phạm vi Anh Mỹ theo cái hiện tình bây giờ, thế nào người ta cũng không để đất này thành cộng hóa. Chỉ trừ khi nào trống mái rõ rệt, thì thiên hạ hoặc là đều bị cộng hóa cả, hoặc là đều sống ở trong cái chế độ tư bản cả. Lúc ấy dù muốn hay không cũng chẳng làm gì được. Trong khi hai cái lý tưởng còn đối lập, thì mình chưa sao thoát khỏi cái thế lực của Anh Mỹ. Như vậy mình cố chấp muốn cộng hóa, thì tất là chỉ có phần thiệt hại mà thôi, chứ khó lòng thành công được.

Ðã hay rằng đảng cộng sản có cái tính cách tôn giáo, phải mê và tin, tin là chỉ có mình là phải, còn người ta là sai lầm hết cả, song những người làm chính trị có quan hệ đến vận mệnh một nước, phải hiểu thời thế mà tùy cơ ứng biến. Theo ý tôi thì đó là chỗ những người cầm quyền trong đảng Việt Minh phải liệu mà hành động.

Dù hay dở thế nào mặc lòng, đảng Việt Minh đã có cái công lớn tổ chức được cuộc kháng chiến ấy mà nước Pháp phải cho nước Việt Nam được độc lập và thống nhất. Song trong cái tình thế quốc tế hiện thời, thì đảng Việt Minh chỉ làm được đến đấy thôi, không làm hơn được nữa. Nếu cố chấp muốn làm cho được như ý muốn thì chỉ làm khổ dân hại nước mà không chắc đạt được cái ý của họ. Vả cái mục đích ấy định đi đến đâủ Tại sao người mình đã phơi xương đổ máu trong sáu bảy mươi năm trời từ khi có cuộc bảo hộ của nước Pháp đến giờ? Có phải là tại người mình muốn sống cái đời sống tự chủ của mình, chứ không làm nô lệ ai không? Lẽ nào ta lại theo một cái lý tưởng chưa thực hiện được mà đem mình làm nô lệ một dân tộc khác. Dù ta có say mê một lý tưởng nào nữa, thì cũng nên đi từ từ để cho thời gian dũa mòn bớt góc cạnh có thể gây ra nhiều đau khổ. Ðời chưa đủ khổ hay sao, mà còn muốn gây thêm ra nữa.

Hiện nay đảng Việt Minh có nước cờ đáng rất cao, là tự mình lui bước đi, để cho đảng chân chính quốc gia đứng ra thực hiện sự độc lập và thống nhất của nước nhà, rồi lập thành một chính thể theo đúng cái nghĩa dân chủ đang thịnh hành ngày nay. Cho các đảng phái được công nhiên lấy nghĩa lý mà tranh đấu trên trường ngôn luận, nhưng không được dùng võ lực mà tranh quyền cướp thế. Làm được như thế, tất nhiên là họ giúp cho nước Việt Nam sẽ có cái địa vị rõ ràng trong quốc tế, không ai xâm phạm được nữa. Khi ấy mọi người trong nước phải quả quyết đi vào con đường kiến thiết, ai nấy đem hết tài lực của mình mà học tập và làm việc để đem nước đến cái trình độ cường thịnh như các nước khác.

Cứ như thiển kiến của tôi, thì đó là cái phương sách cứu nước rất ngay thẳng và có phần mau chóng hơn cả, không biết các bậc cao minh trong nước nghĩ sao?

Tôi đem cái ý kiến ấy mà phô bày ra đây, là theo cái tình thế hiện thực mà nói, chứ không phải là một điều mơ tưởng. Mà cũng không phải là tôi thiên vị chủ nghĩa nào, hay đảng phái nào, tôi đã nhứt quyết không mưu cầu danh lợi gì hết, chỉ mong người trong nước bỏ bớt cái lòng tư tâm tư lợi mà ra sức giúp cho nước nhà chóng được yên ổn và thịnh vượng, để cùng với thế giới đi lên con đường tiến bộ. Cũng bởi tấm lòng vì dân vì nước ấy và thấy khi quốc gia gian nan, không lẽ ngồi nhìn, nên tôi tự biết mình đã già yếu kém cỏi không làm gì được, nhưng ít ra cũng theo cái lương tâm mà đem những sự tôi đã biết và đã thấy mà phô bầy ra, để mọi người suy xét cho đúng sự thực. Dù ai có bảo đó là lời nói của một anh hủ nho, tôi cũng cam tâm mà tự cho mình đối với cái tâm của mình đã làm hết bổn phận làm người vậy.

- Hết -


Nguồn: Xuất bản lần đầu tại NxB Vĩnh Sơn, Sài Gòn 1969

Lệ Thần Trần Trọng Kim - Một cơn gió bụi (4)

Lệ Thần Trần Trọng Kim
Một cơn gió bụi
Hồi kí
1 2 3 4 5

Chương 9
Đi sang Tàu

Hà Nội, tôi trông thấy cách hành động của người Pháp và của Việt Minh, biết là thế nào cũng có xung đột lớn. Tôi nghĩ: ở đây rồi trong cuộc binh lửa, ngọc đá đều tan thì ở sao được. Một bên Việt Minh, một bên quân Pháp, trong cuộc chiến tranh, ai biết là ai. Mà đi thì đi đâu? Bấy giờ tôi có biết mấy người Quốc dân đảng, họ nói rằng: "Chúng tôi có đủ các cơ quan làm việc bên Tàu, nay nhân có ông Bảo Ðại ở bên ấy và nghe nói ông đang vận động với các nước đồng minh để củng cố địa vị nước Việt Nam. Cụ nên sang bên ấy rồi cùng ông Bảo Ðại làm việc, may ra có ích lợi cho nước. Nếu cụ bằng lòng đi, thì chúng tôi có thể thu xếp mọi việc cho cụ đi".

Tôi nói: "Bây giờ tôi già rồi và lại có bệnh tật chẳng làm gì được nữa, nhưng tôi cũng muốn đi, để tránh cái họa binh lửa sắp đến đây. Vậy để tôi nghĩ xem thế nào, rồi tôi trả lời". Tôi thấy những người bên Tàu về nói lại là họ có các cơ quan tổ chức chu đáo ở bên ấy và họ muốn giúp đỡ tôi, nên tôi đã có cái hứng thú muốn đi.

Tôi đem chuyện ấy nói với mấy người bạn thân, người thì bảo nên đi, người lại bảo đi chẳng ích gì, dù sao Việt Minh cũng phải nhượng bộ, chắc không đến nỗi có chiến tranh. Song tôi thấy cái không khí không sao tránh khỏi sự chiến tranh được, và muốn ra ngoài xem những công việc của các nhà cách mạng xưa nay tuyên truyền rầm rĩ, nếu có thật mà làm được việc gì càng hay, nếu không cũng là một dịp cho ta ra khỏi cái hoàn cảnh nguy hiểm này. Tôi bèn quyết định đi và nhờ mấy người Quốc dân đảng thu xếp mọi việc cho tôi đi.

Trước tôi còn muốn đem mấy người bạn thân cùng đi với tôi. Việc đi như thế là phải giữ kín, nhưng không ngờ mấy người lo liệu việc ấy làm lộ chuyện, thành ra không đi được. Vì vậy mà Việt Minh để ý đến tôi và cho người rình mò ở gần nhà tôi.

Lúc ấy ông Hồ Chí Minh sửa soạn sang Pháp và cử một phái đoàn có ông Nguyễn Tường Tam, bộ trưởng bộ ngoại giao, cũng sang Pháp dự hội nghị Fontainebleau để giải quyết vấn đề Việt Nam. Ðến ngày cuối cùng, ông Nguyễn Tường Tam cáo bệnh ở lại và xin từ chức. Chính phủ Việt Minh cử Phạm Văn Ðồng lên thay làm chủ tịch phái đoàn. Phái đoàn đi thì đi, nhưng không ai chắc đã thành công được.

Bấy giờ là cuối tháng 5 năm 1946, quân Tàu đã rút về gần hết, những người Quốc dân đảng đến dục tôi hãy đi trước một mình đã, rồi những người khác sẽ đi sau. Họ cử một người y sĩ là ông Nguyễn Văn Mão đi với tôi, lấy vé tàu bay sang Côn Minh rồi lên Trùng Khánh. Mọi việc thu xếp đâu đấy, đến ngày mai đi, tối hôm trước tôi tới nhà một người Quốc dân đảng, sáng hôm sau đi lên phi trường bay Gia Lâm, thì được tin phi công bên Tàu đình công, tàu bay không có, chờ chuyến tàu bay sau. Tôi trở về nhà không tiện, lại phải đến ở nhà một người Quốc dân đảng khác.

Chờ đến sáu bảy ngày mà tàu bay vẫn không có. Mấy người Quốc dân đảng đến bảo tôi rằng: "Cụ đã định đi mà chùng chình mãi không nên. Hay là chúng tôi lấy xe hơi đưa cụ đi đường bộ lên Lạng Sơn, rồi từ đó đi thẳng sang Nam Ninh. bên ấy có ông Nguyễn Hải Thần, sẽ trù liệu mọi việc cho cụ đi Nam Kinh gặp ông Bảo Ðại. Lúc ấy ông Nguyễn Hải Thần đã bỏ chính phủ Việt Minh chạy sang ở bên Tàu rồi.

Bấy giờ tôi rất phân vân, đi cũng dở, về cũng dở, sau thấy mấy người nói mãi, tôi mới thuận. Họ liền đi điều đình với quân đội Tàu, cho một người trung hiệu Tàu làm thông ngôn đưa chúng tôi đi. Lúc đi các bạn đưa cho tôi một vạn bạc Ðông Dương để làm lộ phí, bảo rằng: "Sang bên Tàu đã có trụ sở cung cấp đủ cả, không phải lo ngại gì". Ông Mão cũng đem đi độ bốn năm ngàn. Tất cả đổi ra được hơn tám vạn quan kim tiền Tàu.
Chiều hôm mùng 2 tháng sáu năm 1946, bốn người chúng tôi lên chiếc xe hơi của Quốc dân đảng đi đến phủ Lạng Thượng thì xe hỏng, phải cho xe trở lại. Người sĩ quan Tàu gặp đoàn sáu chiếc xe vận tải của quân đội Tàu, mới điều đình với quản đoàn xe ấy, cho tôi đi nhờ lên Lạng Sơn, nhưng phải đợi chữa xong xe mới lên được. Chờ ở phủ Lạng Thượng mất ba ngày ở khách sạn, đến ngày mùng 6 tháng sáu mới đi Lạng Sơn.

Thành Lạng Sơn bấy giờ thuộc quyền đội quân phục quốc đóng giữ mà chung quanh thì bị quân Việt Minh bao vây. Ðội quân phục quốc do một người thổ hào tên là Nông Quốc Long cai quản. Cả đội quân ấy độ vài trăm người có đủ súng ống, nhưng không hòa hợp với các đội quân khác của Quốc dân đảng.

Chúng tôi lên đến Lạng Sơn, nghe nói ông Nguyễn Hải Thần ở Nam Kinh đã trở về đấy. Tôi tìm cách gặp ông ấy. Từ trước tôi chưa gặp ông ấy bao giờ, chỉ biết ông và những người Quốc dân đảng khác theo quân Tàu về nước, tuyên truyền huyên thuyên mà không thấy làm được việc gì ra trò. Những người trong đám Phục quốc quân ở Lạng Sơn vì không có lương thực cũng tìm cách lấy tiền chi dụng cho qua ngày. Tôi biết những người ấy không làm nỗi việc gì, nhưng có những người đi theo ông Nguyễn Hải Thần ở bên Tàu đã lâu quen biết nhiều người Tàu, tôi muốn gặp ông và rủ ông đi lên Nam Kinh để gặp ông Bảo Ðại, vì lúc ấy mọi người đều yên chí ông Bảo Ðại đã ở Nam Kinh rồi. Trước là để tụ họp hết các đảng phái làm một cho có tính cách duy nhất trong việc hành động, sau là để khi làm việc gì, có tổ chức chắc chắn, không đến nỗi rời rạc như mọi người đã trông thấy.

Tôi gặp ông Nguyễn Hải Thần ở Lạng Sơn cùng với Vũ Kim Thành và mấy người khác nữa. Ngồi nói chuyện qua loa rồi hẹn đến hôm sau sẽ nói chuyện dài. Sáng hôm sau ông Nguyễn Hải Thần đến thăm tôi ở khách sạn. Mới nói được vài câu, thì tướng Tiêu Văn cho người đến mời ông đi. Trước khi đi, ông hẹn sẽ cho xe đến đón chúng tôi đến Ðồng Ðăng để nói chuyện cho tiện.

Chúng tôi chờ đến 2 giờ chiều không thấy xe đến, chúng tôi thuê xe hàng mất 1.500 bạc quan kim lên Ðồng Ðăng, nghĩa là mất hơn 300 bạc Ðông Dương mà chỉ có 15 cây số.
Ðến Ðồng Ðăng, nói chuyện với ông Nguyễn Hải Thần thì thấy ông là một người lão thực, mà tinh thần kém cỏi lắm rồi. Ông có tiếng là người làm cách mệnh đã lâu năm, mà công việc làm cũng chẳng thấy gì xuất sắc lắm. Tôi ngỏ lời rủ ông đi Nam Kinh. Ông ưng thuận nhưng lại nói rằng: "Mấy hôm trước có người Quốc dân đảng lên bàn với tôi về việc ấy. Tôi bảo phải trù liệu cho tôi 120.000 đồng để tôi lập một đoàn đại biểu 9 người cùng đi với tôi. Vậy ta hãy chờ xem họ trả lời thế nào, rồi cùng đi một thể. Ông lại nói: "Vả tôi còn phải điện lên Nam Kinh để lấy xe hơi về đón chúng ta lên".

Chúng tôi ở lại Ðồng Ðăng chờ đến chín, mười ngày, không thấy tin Hà Nội lên mà cũng không thấy xe ở Nam Kinh xuống đón. Sau cùng ông Nguyễn Hải Thần phải đi điều đình với người sĩ quan coi việc vận tải của quân đội Tàu để đi nhờ xe của họ. Sáng sớm ngày 17 tháng sáu mới lên đường. Người sĩ quan Tàu để ông Nguyễn, tô, và cháu ông Nguyễn cùng ngồi với y trên cái xe jeep. Còn bọn ông Vũ Kim Thành, Hương Ký, Nghiêm Xuân Việt đi mấy cái xe cam nhong đi trước; để ông Mão , người sĩ quan và người thông ngôn đi với chúng tôi ở lại chờ một xe cam nhong sắp đến. Chúng tôi đi từ Ðồng Ðăng đến Nam Kinh chỉ độ hơn 200 cây số mà phải mất hai ngày, tức là đến chiều tối ngày 18 mới tới nơi.

Ðến Nam Kinh tôi vào ở khách sạn, chờ ông Mão mất hai ngày mới thấy ông và hai người kia đến. Hỏi ra mới biết ra mới biết rằng cả ngày 17, chúng tôi đi rồi không thấy xe cam nhong đã hẹn đến. Chờ hôm sau cũng không thấy, bọn ông Mão phải thuê xe khác mà đi. Dọc đường ông Mão gặp mấy cái nạn rất nguy hiểm, may là thoát khỏi.

Trong khi chờ đợi mấy người kia, tôi có dịp biết cả ông Nguyễn Thiện Thuật ở gần Nam Kinh.

Ông trước làm Tán tương quân vụ cuối đời Tự Ðức, rồi sau đứng chỉ huy quân Cần Vương chống với quân Pháp ở Bãi Sậy.

Bấy giờ tôi bàn với ông Nguyễn Hải Thần xem đi Nam Kinh thì đi đường nào tiện hơn. Ði lối Côn Minh rất khó và có nhiều trộm cướp, lối Liễu Châu rồi cũng không có tàu bay. Nếu không có tàu bay, thì ra Hương Cảng đi tàu thủy lên Thượng Hải. Trước sau ông Nguyễn Hải Thần vẫn nói là cùng đi với chúng tôi.

Mấy hôm tôi ở Ðồng Ðăng và ở Nam Kinh, tôi thường nói chuyện với ông Vũ Kim Thành, thấy ông là người chơn thực và lại nói thạo tiếng Quảng Ðông. Tôi bàn riêng với ông đi lên Nam Kinh với tôi, vì đến Nam Kinh người sĩ quan Tàu và người thông ngôn ở lại. Vũ Kim Thành bằng lòng. Chúng tôi nhất định đến ngày 24 tháng sáu khởi hành.

Sáng ngày 23, ông Nguyễn Hải Thần còn đến bàn tính cách đi, nhưng đến 6 giờ chiều ông đến khách sạn nói rằng: "Ngày mai tôi sẽ đưa cụ ra Quảng Châu rồi sẽ thu xếp cho cụ đi Nam Kinh. Tôi còn phải trở về trù tính việc đánh lấy lại thành Lạng Sơn đã vào tay Việt Minh rồi, sau họ giao lại cho quân Pháp".

Tôi biết ý ông Nguyễn Hải Thần không muốn đi với tôi, hoặc là trước ông có ý định đi, nhưng sau ông bị bọn người Tàu muốn giữ ông lại để lợi dụng sang cướp phá bên biên giới. Ðến 11 giờ đêm, ông lại bảo tôi ông có việc đi gấp, ông không đi Quảng Châu được, để cho Vũ Kim Thành đưa chúng tôi đi.

Sáng ngày 24, chúng tôi lên xe hơi chở hành khách đi đến chiều tối tới Quí Huyện. Sáng ngày 26 thuê cái xe con đi Nhung Hí, nhưng vì gặp mưa to và đường xấu, phải ngủ ở cái quán dọc đường. Sán ngày 27 đến Nhung Hí rồi xuống đò đi đến Ngô Châu. Ðến nơi xuống thẳng tàu thủy đi Quảng Châu. Ðến 5 giờ chiều tàu mới chạy và đến 10 giờ sáng hôm sau mới tới nơi. Vào khách sạn rồi Vũ Kim Thành đi tìm người quen để tính việc đi Nam Kinh.

Chẳng may lúc ấy những người quen với Vũ Kim Thành đi vắng cả, tàu bay không lấy được, chúng tôi định đi Hương Cảng. Rồi đến ngày mùng 4 xuống chiếc tàu của người Trung Hoa đi Thượng Hải.

Khi đi trên tàu, chúng tôi gặp một người hạ sĩ quan Tàu từ Nam Kinh về Quảng Châu rồi trở lên, người ấy vui lòng nhập bọn với chúng tôi để chỉ dẫn đường lối. Nhờ có người bạn ngẫu nhiên gặp đó, chúng tôi đỡ nhiều nỗi khó khăn.

Ngày mùng 7, tàu vào đậu ở cửa sông Hàng Phố. Sáng ngày mùng 8, tàu vào Thượng Hải. Chúng tôi lên bờ, đem đồ hành lý ra gửi ở nhà trạm xe lửa, rồi đi ăn cơm, đến chiều xe lửa đi Nam Kinh. Sáng ngày mùng 9 đến nơi, nhờ người bạn dọc đường chỉ dẫn cho mới thuê được cái phòng ở khách sạn Ðại Ấn đường Thái Bình Lộ, giá thuê phòng là 7000 bạc quốc tệ Tàu một ngày. Ngày 11 tôi cùng Vũ Kim Thành đến Hải ngoại bộ hỏi thăm tin tức ông Bảo Ðại. Gặp ông bộ trưởng ấy là Trần Khánh Vân, nói rằng: "Ông Bảo Ðại không có ở Nam Kinh. Việc ấy phải sang hỏi ông Bí thư trưởng Quốc dâng đảng là ông Ngô Thiết Thành".

Ngày 12, chúng tôi đến gặp ông Ngô nói chuyện được ông cho biết ý chính phủ Tàu muốn ông Bảo Ðại đến Nam Kinh. Tôi hỏi:

„Hiện nay ông Bảo Ðại ở đâu?“

„Nghe nói ông ấy đi từ Trùng Khánh đến Hương Cảng. Ông có thể làm bức điện mời ông ấy về đây, để tôi gửi đi ngay thì chóng hơn.“

Tôi bảo Vũ Kim Thành thảo ngay bức điện tín đưa cho người thư ký ở tổng bộ Quốc dân đảng gửi đi. Thế là bao nhiêu sự mong mỏi trong khi đi khó nhọc vất vả dọc đường đến đó là tiêu tan tất cả.

Nam Kinh lúc đó chẳng có một người Việt Nam nào khác. May nhờ có ông Ngô Thiết Thành cho người đưa giúp cho 500.000 bạc quốc tệ Tàu (5.000 bạc Ðông Dương) mới có tiền ở chờ tin ông Bảo Ðại.

Thành Nam Kinh là một nơi thắng cảnh bên Tàu, vì là một thành đã từng đặt làm kinh đô trong thời Lục Triều, tức là Ngô, Tấn, Tống, Tề, Lương, Trần (222-420) rồi đến khoảng đầu thế kỷ XIV, nhà minh lúc đó mới dựng nghiệp cũng lập kinh đô ở đó và xây thành bao bọc chung quanh dài đến hơn 30 cây số. Thành ấy đến nay hãy còn nguyên, song những cung điện cũ chẳng còn gì cả, chỉ thấy chỗ hoàng thành cũ còn một mẩu đá hình rồng, người ta nói khi xưa đó là cái cầu trong các cung điện.

Trong thành có sông có núi, có nhiều chỗ là ruộng đất. Còn các dinh thự và phố xá ở một khu cũng khá rộng. Song sự sinh hoạt và buôn bán không được náo nhiệt như ở Thượng Hải hay ở Quảng Châu. phía đông bắc ngoài thành có cái hồ Huyền Vỏ là một nơi đến mùa nực, người ta đi du ngoạn rất tấp nập.

Những nơi cổ tích mà những thi nhân đời Ðường như Lý Thái Bạch, Lưu Vũ Tích và Ðỗ Mục nói trong thơ văn là Phượng Hoàng Ðài, Bạch Lộ Châu, Thạch Ðầu, Ô Ly Hạng, thì nay chỉ còn tên không, chứ không có di tích gì nữa. Sông Tần Hoài chảy từ phía nam thành rồi vòng qua phía tây trước khi chảy vào Trường Giang. Phía nam sông Tần Hoài có một nhánh từ thành chảy ra. Phía hữu ngạn nhánh sông ấy có những phố xá cũ đông đúc và dưới sông có nhiều thuyền chơi để những khách làng chơi đến đêm đem những ca kỷ xuống hát xướng chơi bời.

Sau khi chúng tôi đến Nam Kinh được mấy ngày, Tổng bộ Quốc dân đảng Tàu có cho người đem xe đến đưa chúng tôi đi xem lăng Tôn Dật Tiên ở cách thành Nam Kinh độ 10 cây số. Ðường đi rất sạch sẽ và ở chỗ gần lăng người ta trồng rất nhiều cây thông. Lăng ở trên núi, làm theo kiểu mới có vẻ tráng lệ lắm. Những bậc thang lên lăng làm rất rộng lớn và khi đến trên lăng trông xuống phong cảnh rất vĩ đại.

Cách chỗ ấy độ vài ba cây số, có lăng vua Minh thái tổ, làm ở chân núi trong một khoảng đất rộng lớn, sự kiến trúc cũ kỹ và có phần đã đổ nát. Những tượng người cùng voi ngựa và lạc đà bằng đá ở xa xa mé ngoài cũng đã sứt mẻ, không mấy cái còn nguyên vẹn.

Trước kia ở Hà Nội, tôi có gặp ông Lưu Bá Ðạt, là người Việt Nam sang bên Tàu đã lâu và cố mời tôi sang với ông Bảo Ðại đã về Nam Kinh và đã có cơ sở làm việc. Ðến lúc tôi sang đến nơi, thì chẳng có gì cả, hỏi ra, thì Lưu Bá Ðạt và Lưu Ðức Trung ở Thượng Hải. Tôi liền điện đi Thượng Hải mời Lưu Ðức Trung lên để bàn tính mọi việc.

Lúc chúng tôi chờ tin Lưu Ðức Trung chúng tôi ngẫu nhiên gặp một người đàn bà Việt Nam lấy một người Thượng hiệu Tàu, mới trở về Tàu được vài tháng và cùng ở chung một khách sạn. Người ấy gặp chúng tôi mừng rỡ lắm, nói là người ở phố hàng Nón, Hà Nội. Hai người vợ chồng ấy thường đi lại nói chuyện, sau thấy tôi mắc bệnh đau bụng, lại ngày ngày nấu cháo và làm cơm cho chúng tôi ăn. nơi xa lạ, gặp được người xứ sở thật là quý hóa.

Chiều ngày 14 tháng bảy, Lưu Ðức Trung và Trần Quang Tuyên ở Thượng Hải lên, gặp nhau mừng rỡ quá. Ông Lưu đi lấy buồng ở khách sạn Tân An thuộc con đường Trung Sơn Bắc Bộ, rộng rãi và mát mẻ hơn. Hai hôm sau ông Lưu trở về Thượng Hải, để ông Trần Văn Tuyên ở lại với chúng tôi và nói mấy ngày nữa có bốn người ở Trùng Khánh là Ðinh Xuân Quảng, Phan Huy Ðàn, Ðặng Văn Sung, và Thường sắp đến Nam Kinh vào quãng ngày 20 tháng bảy. Mấy người ấy đến, cùng ở một khách sạn với chúng tôi. Ai nấy đều ngong ngóng được tin ông Bảo Ðại.

Trước khi sang Tàu, tôi biết thế nào rồi Việt Minh và Pháp cũng đánh nhau, nên tôi có dặn nhà tôi và con tôi rằng: hễ tôi đi rồi, có những người Quốc dân đảng đã hứa sẽ tìm cách đưa gia quyến tôi sang Tàu, để ở tạm vùng biên giới ít lâu, chờ cho yên ổn rồi hãy về. Vì lúc ấy, theo lời những người Quốc dân đảng nói thì ở biên giới Tàu có các tổ chức sẵn sàng của họ. Ngờ đâu là một chuyện vu vơ, chứ không có một chút gì gọi là có tổ chức. Tôi lên đến Ðồng Ðăng tôi biết là nhỡ việc rồi, chưa biết tính thế nào mà báo cho vợ con biết để đừng đi nữa. Vả lúc tôi đi con tôi còn đau nặng, tôi chắc là không đi được. Sau nhân có bọn Hương Ký mà mấy người nữa chạy từ Móng Cái qua đất Tàu, rồi lên Nam Kinh mà trở về Ðồng Ðăng. Trong bọn đó có con Hương Ký về Hà Nội, tôi viết mấy chữ nhờ đưa cho nhà tôi, bảo đừng đi đâu cả. Nhưng người con Hương Ký về lại không đưa cái giấy ấy. Thành ra khi tôi đang ở Nam Kinh, thì vợ con tôi đi đường bộ không được, ra Hải Phòng đi tàu thủy tới Hương Cảng, ấy là không may mà lại hóa may, chứ đi đường bộ thì không biết chết sống thế nào. Khi tôi đi qua Hương Cảng vào ngày mồng 4 tháng bảy, chính là lúc gia quyến tôi và ông Bảo Ðại đã ở Hương Cảng rồi, mà tôi không biết, cứ đi thẳng lên Thượng Hải.

Chúng tôi ở Nam Kinh đến ngày 28 tháng bảy, có người bí thư của trung ương đảng bộ Quốc dân đảng Tàu đem cái điện tín của ông Bảo Ðại gửi cho tôi, nói rằng: "Tôi không có tiền lên Nam Kinh được, gia quyến của cụ cũng ở Hương Cảng". Ðược tin ấy tôi giật mình. Trong cái tình cảnh eo hẹp này, một mình tôi còn chưa biết xoay xở ra sao để sống được, nay lại cả gia quyến cùng ra nữa thì làm thế nào? Thật là lo quá.

Lúc ấy tôi xem lại cái ý những người trong chính phủ Tàu muốn ông Bảo Ðại cùng ít yếu nhân Việt Nam sang lập một chính phủ Lưu Vong ở Nam Kinh. Song ông Bảo Ðại thấy rõ tình thế nước Tầu, cho nên ông không đi qua Nam Kinh mà bỏ về Hương Cảng. Tôi biết cái ý của người Tàu. Tôi đến trung ương đảng bộ Tàu nói giúp tiền cho tôi đi Hương Cảng để gặp ông Bảo Ðại, rồi nếu thuận tiện, tôi sẽ mời ông ấy đến Nam Kinh.

Quốc dân đảng Tàu cho tôi vay 1.000.000 bạc quốc tệ (một vạn bạc Ðông Dương) và tặng tôi thêm 500.000 bạc (5000) để làm lộ phí. Chiều ngày 30 tháng bảy hồi 4 giờ chiều chúng tôi đi xe lửa qua Thượng Hải. Sáng hôm sau đến nơi, chúng tôi đến khách sạn chỗ Lưu Ðức Trung ở. Tôi nói tình hình cho ông Lưu nghe và nhờ đi lấy vé tàu bay. Nhờ có giấy của trung ương đảng bộ giới thiệu, nên việc lấy vé tàu bay cũng nhanh chóng.

Trước chúng tôi định lấy vé tàu bay đi cả ba người, nhưng từ đầu thánh tám trở đi, giá vé tàu bay phải trả gấp đôi, mỗi người phải trả 270.000 bạc quốc tệ, mà tiền chúng tôi chỉ còn hơn triệu bạc quốc tệ. Tôi bảo lấy hai vé để Vũ Kim Thành đi với tôi, còn ông Mão thì bảo ông chịu khó đi tàu thủy với bọn ông Thường. Ông Mão tỏ ý không bằng lòng, nhưng vì tình thế bắt buộc không làm sao được.

Sáng ngày mùng một tháng tám, Vũ Kim Thành và tôi lên tàu bay, 8 giờ tàu bay cất cánh, bay được một giờ tự nhiên nghe một tiếng nổ, nhưng tàu vẫn bay, chỉ thay đổi phương hướng. Thì ra tàu bay hỏng, phải quay về Thượng Hải nhưng không ai biết. Khi trở về tới nơi mới có giấy báo tàu bay hỏng phải quay trở lại. Ðến 10 giờ hơn chúng tôi phải quay trở lại nhà khách sạn. Ai cũng lấy làm lạ, vì đã thấy tàu bay rồi, sao lại trở về. Ấy cũng là may, người cầm lái là người Mỹ, đã thạo việc, biết máy hỏng mà quay trở lại ngay, nếu không mà cứ đi thì có lẽ chết cả.

Sáng hôm sau, 6 giờ lại ra trường bay đi Hương Cảng. Ðến 1 giờ trưa đến nơi. Ðem hành lý vào để nhà khách sạn rồi tôi cùng Vũ Kim Thành đến Quốc dân đảng bộ hỏi thăm chỗ ông Bảo Ðại ở. Viên thư ký Quốc dân đảng hết lòng tử tế, đưa chúng tôi đến khách sạn ông Bảo Ðại và gia quyến tôi ở. Ðến đó gặp vợ con rất là mừng rỡ, nhưng cái mừng lúc ấy chỉ có được một lát thôi, vì cái lo đến ngay. Lo về nỗi làm thế nào mà sống ở cái xứ sinh hoạt đắt gấp mười lần bên nước nhà.

Hôm sau tôi gặp ông Bảo Ðại, lời đầu tiên ông nói: "Chúng mình già trẻ mắc lừa bọn du côn". Tôi đem tình thực trình bày rằng:

„Ngài không về ở Nam Kinh là phải lắm, vì xem tình thế nước Tàu đang có nạn cộng sản, chính phủ Tàu còn gỡ không ra, họ làm thế nào mà giúp chúng ta. Tuy bề ngoài thì họ đối đãi tử tế và nói những chuyện giúp đỡ nọ kia, nhưng sự thực thì họ không thể giúp ta được việc gì ra trò đâu. Vậy chúng ta cứ đứng ở ngoài chờ xem tình thế biến đổi ra sao sẽ liệu“, ông Bảo Ðại cũng đồng ý như vậy.

Ông lại nói thêm: "Chưa biết chừng bọn Tưởng Giới Thạch cũng phải cuốn gói chạy ngày nào đấy".

Ấy là câu chuyện nói đầu tháng 8 năm 1946 mà sau hóa ra đúng thật.

Tôi cùng gia quyến ở tạm khách sạn, mỗi ngày là 15 dollars Hương Cảng, giá mỗi dollars lúc ấy là 7 đồng Ðông Dương, còn tiền ăn không kể, tức là mỗi ngày phải tiêu đến 30 dollars. Vợ con có gì bán đi để tiêu dùng. Ngày ngày đi tìm thuê một gian nhà ở, và để cho con đi kiếm việc làm.

Cách ba hôm sau, bọn ông Mão, Sung và ông Thường về Thượng Hải. Ông Mão đòi về Hà Nội. Tôi thấy ông chán nản lắm rồi, tôi cũng nghĩ ông trở về là phải.

Ông Bảo Ðại ở khách sạn được 10 hôm sau khi tôi đến gặp ông, rồi ông nhờ một người Tàu thuê cho ông một căn nhà gần trường đua ngựa, ông dọn đến ở đấy. Tôi đi tìm nhà thuê không được. Một căn nhà rất nhỏ hẹp ở chung với một gia đình người Tàu mà cũng phải trả bảy tám chục dollars một tháng. Ấy là không kể lúc đến thuê phải trả một thứ tiền gọi là tiền trả cho người có nhà, ít ra là bảy tám chục dollars nữa. Nhà thuê không được, công việc con đi làm cũng không có. Làm thế nào?

Ðặng Văn Sung và Vũ Kim Thành vào Quảng Châu để tìm việc làm. Chúng tôi bàn định nếu ở bên Việt Nam Quốc dâng đảng có tiếp tế sang được, thì vào cả Quảng Châu lập một cơ sở rồi tụ tập hết thảy những thanh niên chạy sang Tàu, và thu xếp cho ai đi học thì đi học, ai làm nghề gì thì tìm việc cho làm, còn ai làm nghề buôn bán thì lo việc buôn bán v...v... Song đó là những điều dự đoán như vậy mà thôi, trăm việc phải có tiền mới làm được. Tin tức ở trong nước đợi mãi chẳng thấy gì cả. Sau thấy ông Ðỗ Ðình Ðạo ra Hương Cảng cũng ra tay không, thành ra ai cũng ngong ngóng tưởng đợi có tiền đưa ra thì khởi đầu tổ chức mọi việc.

Sau thấy Vũ Kim Thành và Ðặng Văn Sung ở Quảng Châu ra bảo tôi vào để gặp tướng Trương Phát Khuê là chủ nhiệm quân sự cả vùng Quảng Ðông và Quảng Tây để xem có thể thực hiện được cái chương trình của chúng tôi đã dự định không. Hôm 19 tháng tám, tôi vào Quảng Châu lại bị tướng Tiêu Văn ở bên Việt Nam trước,làm mọi điều khó dễ, thành ra tôi lại phải trở ra Hương Cảng không gặp họ Trương.

Lúc ấy ông Bảo Ðại ở cái nhà mới thuê không tiện, ông để cái nhà ấy cho tôi ở, chỉ phải trả mỗi tháng 120 dollars mà không mất tiền trà. Song chủ nhà giao hẹn chỉ được ở ba tháng thì phải trả lại cho người thuê cũ.

Cách ít lâu nghe tin ông Nguyễn Tường Tam ở Côn Minh đã lên Nam Kinh, rồi lại thấy ông Nguyễn Hải Thần cũng ra Quảng Châu và cho người mời tôi ra nói chuyện. Tôi vào gặp ông, mới biết ý ông muốn lên Nam Kinh. Lúc ấy quốc hội Trung Hoa sắp họp để chuẩn bị hiếp pháp mới.

Ngồi nói chuyện với ông Nguyễn Hải Thần, tôi nói: "Tôi xem nước Tàu không giúp ta về đường thực tế và ngoại giao đâu, cụ đi vô ích. Nhưng nếu cụ đã định đi, thì nên xin chính phủ Tàu cho chúng ta một cơ sở ở Quảng Châu để tụ tập các thanh niên Việt Nam chạy sang đây được ở với nhau và nuôi nhau cho khỏi đói khổ". Ông Nguyễn nhận lời làm việc ấy. Ông lại bảo tôi nên vào gặp tướng Trương Phát Khuê.

Tôi vào Quảng Châu lần này, có gặp một người đàn bà nói là cháu ông Tôn Thất Thuyết. Khi ông chạy sang Tàu đến cư trú ở vùng Nam Hùng phía bắc tỉnh Quảng Ðông, và mất ở đấy, con cháu thành ra người Tàu cả.

Tôi trở về Hương Cảng, quanh quẩn đã sắp hết hạn ba tháng thuê nhà. Tìm đâu cũng không thuê được nhà khác. Con tôi vẫn không tìm được việc làm. Tình thế rất bối rối, Ðặng Văn Sung định tìm cách về nước xem thế nào. Ðến khi đi chiếc tàu con của người Tàu Bắc Hải, chiếc tàu ấy chở đồ nặng quá, ra khỏi Hương Cảng được ít lâu thì tàu đắm. Ông Sung may khỏi chết đuối, lại trở về quần áo mất sạch.

Khi ấy ở Hương Cảng tôi có biết một người Trung Hoa họ Lý, có nhà buôn bán xuất nhập cảng ở Hà Nội và Hải Phòng, có giúp tôi hai lần, mỗi lần 2.000 dollars, lúc ấy tính vào khoảng hơn ba vạn bạc Ðông Dương. Nhờ có món tiền ấy tôi mới duy trì được mấy tháng. Sau tôi nghĩ ở Hương Cảng ăn tiêu đắt quá mà nhà không thuê được, chi bằng dọn vào Quảng Châu ở, cơm gạo còn rẻ hơn. Tôi đem việc ấy bàn với Ðặng Văn Sung và Vũ Kim Thành, hai người đều đồng ý kiến như vậy.

Ðến cuối tháng 10 năm 1946, chúng tôi đến Quảng Châu, nhờ người họ Từ thuê cho được cái nhà ở khu Hoàng Xá, gần Sa Diện, mất 120.000 bạc quốc tệ (120 dollars) tiền trà và mỗi tháng trả tiền thuê nhà là 60.000 quốc tệ (60 dollars).

Tôi về Quảng Châu ở mấy hôm thì Ðặng Văn Sung và Vũ Kim Thành đi Nam Kinh rồi về Ðông Hưng bên Móng Cáy, cốt để tìm cách liên lạc với các bạn trong nước, mong lấy được tiền để đem ra làm những việc đã định.

Trước khi đi Vũ Kim Thành đưa Nguyễn Dân Thanh đã nói ở trên đến ở với tôi để giúp tôi trong khi có giao thiệp với người Tàu và khi tôi có đi đâu, thì đi làm thông ngôn cho tôi. Rồi sau lại có ông Ðỗ Ðình Ðạo ở Hương Cảng cũng vào ở với chúng tôi.

Quảng Châu là một thành thị lớn lao vào hạng nhì hạng ba ở nước Tàu, dân cư trù mật, buôn bán phồn thịnh. Phố xá có nơi đường phố sạch sẽ, nhà cửa rộng lớn, nhưng có nhiều nơi đường xá còn giữ nguyên vẻ cũ. Giữa đường cứ cách độ trăm thước tây lại có một khải hoàn môn bằng đá đục chạm theo kiểu cổ, đề những khoa thi tiến sĩ đời xưa, chắc là để mừng những người thi đỗ về vinh quy. Còn có những đường, những ngõ lát đá tảng, hai bên có cống rãnh bẩn thỉu, nhà cửa lụp sụp và không được sạch sẽ lắm.

Phía dưới, giáp bờ sông có một khu đất gọi là Sa Diện, chung quanh có con sông nhỏ bao bọc, ở trong là những lãnh sự quán, nhà ngân hàng và nhà buôn bán của ngoại quốc. Ðường xá khu ấy sạch sẽ và không cho xe cộ đi lại.

Ngoài thành thị có thể gọi là Phiên Ngung, tức là nơi Triệu Ðà đóng đô ngày xưa, nay thấy có mấy cái đồi và mấy cái nhà làm theo kiểu mới. Người ta nói đó là nơi Tôn Dật Tiên đóng trụ sở hồi Quốc dân đảng mới khởi lên. Ði xa một đoạn nữa là Hoàng Hoa Cương nơi chôn 72 liệt sĩ trong đảng cách mệnh nổi lên đánh nhà Thanh vào khoảng hơn 40 năm về trước. Nay hàng năm đến ngày 29 tháng ba dương lịch có lễ kỷ niệm những liệt sĩ ấy ở đó. Bên cạnh Hoàng Hoa Cương, bên kia con đường có cái ngôi mộ một người Việt Nam tên Phạm Hồng Thái. Ngày 19 tháng sáu năm 1925 lấy danh hiệu một phóng viên nhà báo, đến ném tạc đạn vào đám tiệc của người Pháp đãi viên Ðông Dương toàn quyền Merlin, khi viên ấy sang Sa Diện. Phạm Hồng Thái ném xong chạy trốn, nhảy xuống sông, chết đuối. Người Tàu đem chôn ở chỗ bây giờ, có dựng cái bia do Hồ Hán Dân viết. đấy đi xuôi một quãng xa, thì đến khu trường đại học làm trên những ngọn đồi, cây cối sầm uất, đường xá mát mẻ.

Nước Tàu thì ai cũng biết là một nước rộng lớn và có rất nhiều người, nhưng có đi qua các nơi mới thấy rõ sự rộng lớn của nước ấy và sự trù mật của dân nước ấy. Xe chở hành khách chạy trung bình 25 cây số một giờ mà phải chạy năm sáu giờ mới hết địa hạt một huyện, và có nhiều làng rất trù mật. Những làng bên Tàu không như bên ta có lũy tre bao bọc chung quanh. Nhà cửa ở các làng làm thành dẫy ở hai bên đường như ở các thành thị, chen chúc giáp mái nhau. Những nhà mái lợp ngói, tường xây bằng gạch sống xếp chồng lên không có vôi hồ, rồi quét ngoài vôi trắng. Nhà làm theo lối một cửa trước và một cửa sau, còn thì không có cửa sổ hay cửa nào khác nữa, trông xa còn khá, nhưng đến gần thì thấy tiều tụy, vào trong nhà lại thấy tối tăm và gà lợn ở lẫn với người, thật là bẩn thỉu.

Người Tàu thường ưa ở những cái buồng nhỏ hẹp, khi thấy cái buồng nào rộng, thì họ lấy gỗ ngăn thành mấy phòng nhỏ để mấy người hay mấy gia đình ở chứ không thích những buồng rộng rãi và khoáng đãng. Tôi gặp những người đã sang ở bên ta, nói ta làm nhà để buồng là phí đất. Xem cách làm nhà cửa và những nghệ thuật về đường trang sức của người Tàu hình như nó phản chiếu cái hình tượng của nước Tàu. Nhà cửa hay miếu mạo thường làm to lớn vững chắc, có nhiều buồng nhiều ngõ, và có những kiểu trang sức rậm rạp.

Những người ở thôn quê thì làm ruộng làm vườn rất chăm chỉ. Ði qua thấy ở chỗ đồng áng có người làm ruộng tát nước như ở bên ta, nhưng họ không tát nước bằng gầu, mà chỉ tát bằng thứ guồng nhỏ đạp bằng chân. Những người ấy trông có vẻ đói rách khổ sở. Ðó cũng có lẽ là vì sự chiến tranh và nổi loạn trong mấy chục năm mà gây ra cái hoàn cảnh thê thảm ấy.

Những nơi thành thị lớn gần mé biển, như Thượng Hải hay Quảng châu, thì sự sinh hoạt rất náo nhiệt nhưng xét kỹ ra thì còn kém về đường tổ chức. Còn ở nội địa như ở Nam Kinh cũng có nhà máy điện song những đèn không sáng hơn ngọn đèn dầu của ta ngày trước. Những cột đèn thì thường làm bằng cây tre nhỏ, tưởng có gió to thì đổ hết cả. Dân ở đấy thì dùng nước sông đầy bùn. Tôi còn nhớ ở khách sạn Nam Kinh, sáng dậy người ta cho một chậu nước rửa mặt, để một lát thì bùn đọng ở đáy chậu một lớp khá dầy. Trời nực ai muốn tắm mất độ 300 bạc quốc tệ, mà người ta chỉ cho vào cái thùng gỗ độ chừng hai ba thau nước. Người Tàu gọi tắm là lấy khăn dúng vào nước rồi lau mình, chứ không phải là dúng mình vào nước hay là lấy nước dội lên mình.

Một hôm tôi mới đến Nam Kinh, trời nóng mấy người rủ nhau đi đến nhà tắm công cộng, mỗi người phải trả 450 quốc tệ. Người ta đưa cho mỗi người một cái khăn tắm, giống như cái khăn lau bát của mình. Ðến lúc vào đến buồng tắm, trời ơi, thấy một cái bể tắm nước đục như nước rửa bát mà có đến năm sau người đầy những mụn nhọt, ghẻ lở, đang hì hụp trong cái bể ấy. Trông thấy mà rùng mình rồi, còn ai dám tắm nữa. Song người Tàu quen như thế rồi, không cho là ghê tởm, dơ bẩn nữa.

Tính người Tàu rất cẩu thả, không có làm việc gì cho đúng hẹn. Xe hàng hẹn đúng 6 giờ sáng chạy, thì ít ra cũng phải đợi đến 8, 9 giờ mới bắt đầu đi. Khi có việc cần kíp đánh điện tín đi chỗ nào, tưởng chừng năm ba ngày là chậm, thế mà phải đợi hàng tháng mới tới nơi, có khi lại không bao giờ tới. Lúc đầu tôi mới đến Quảng Châu, liền nhờ một người bạn của Vũ Kim Thành, trong chi bộ Quốc dân đảng, đưa đến sở bưu điện đánh cái điện tín lên Nam Kinh hỏi một việc, chờ đến mấy ngày không thấy có tin trả lời. Sau tôi đã lên đến Nam Kinh được hơn hai tuần lễ cái điện ấy mới đến nơi. Xem thế thì mới biết công việc làm ăn ở sở bưu điện của Tàu hỗn độn và cẩu thả chừng nào.

Thượng Hải, tôi thấy một người làm trong sở quan thuế nói rằng những tiền thu vào được mười phần thì chính phủ chỉ được có ba phần là cùng, còn thì các công chức trong sở ấy chia nhau mất cả. Một chính phủ mà công chức làm việc như thế, thì làm gì mà không đổ nát.

Việc cá nhân đối với nhau cũng vậy, trừ khi nào người ta có những việc quan hệ tới quyền lợi hay tiền bạc, còn thì ít khi người ta giữ đúng lời hẹn. Trước ta thường nghe người Pháp gọi sự hàm hồ cẩu thả của người Tàu là "Chinoiserie", thật có sang bên Tàu mới hiểu rõ cái tiếng chế nhạo ấy.

Xưa ta học đạo Nho, ta tưởng nước Tàu là nước đạo gốc ấy, tất người Tàu dù sao cũng còn giữ được cái căn bản nhân nghĩa, lễ trí, ngờ đâu cái nền học cũ đã tiêu diệt mất hết cả, chỉ thấy rặt những sự đa trí xảo, lừa dối. Nhất là những nơi thành thị lớn gần miền bể, người ta đắm đuối vào cuộc sống vật chất hèn kém, không thấy gì là lễ nghĩa liêm sỉ cả. Các công chức thì bất cứ việc gì cũng có mánh khóe để ăn hối lộ và những thanh niên phần nhiều xem ra rất xa hoa phù phiếm, và hầu hết đều muốn bắt chước sự hành động, cử chỉ của người Âu, người Mỹ. Nhưng hình như chỉ có cái vẻ Âu, Mỹ ở bề ngoài, kỳ thực thì Âu Mỹ chẳng phải Âu Mỹ mà Tàu thì thật chẳng phải Tàu như ta vẫn tưởng tượng. Cái cảnh bề ngoài nước Tàu ngày nay chẳng thấy gì là cảnh tượng một nước đã thấm nhuộm lâu đời trong cái đạo học của nho giáo. Tôi nói cái cảnh tượng bề ngoài mà thôi, vì tôi là người đi qua đường, thấy thế nào thì nói thế nấy, chứ hoặc giả còn nhiều cái tốt đẹp ẩn nấp ở bề trong nữa, thì không thể biết được. Dù sao cái cảm tưởng của một người ở phương xa đã từng học theo đạo nho và chỉ biết nước Tàu nói trong sách cổ, thì thật là một cái cảm tưởng rất ngao ngán cho giống người học một đàng làm một nẻo.



Chương 10
Cuộc Pháp Việt chiến tranh

Trong lúc chúng tôi còn ở Hương Cảng, thì ông Hồ Chí Minh và phái đoàn Việt Nam đang hội nghị ở bên Pháp. Cuộc hội nghị ở Fontainebleau khởi đầu vào khoảng giữa tháng năm, mãi đến tháng chín mà không xong được việc gì cả. Khi người Pháp và người Việt đang bàn cãi ở bên Pháp, thì ở Ðông Dương, cao cấp ủy viên là Hải quân trung tướng D'Argenlieu họp hội nghị kinh tế ở Ðà Lạt có đại biểu Nam kỳ Cộng Hòa quốc, đại biểu Cao Miên, và đại biểu Ai Lao bàn định mọi việc, coi như không có nước Việt Nam. Vì vậy mà cuộc hội nghị bên Pháp lại càng gay go thêm, rút cuộc hội nghị ấy không thành kết quả gì cả. Ðến cuối thượng tuần tháng chín các phái viên Việt Nam xuống tàu thủy về nước. Ông Hồ Chí Minh ở lại đến ngày 14 tháng chín năm 1946, ký thỏa hiệp án (Modus vivendi) với ông Marius Moutet, bộ trưởng bộ hải ngoại Pháp.

Thỏa hiệp án ấy, đại ý nói theo những điều trong hiệp ước sơ bộ trước mà giữ thái độ thân thiện cho đến thánh giêng năm 1947, là kỳ hạn cuối cùng, hai bên phải họp hội nghị để giải quyết các vấn đề cho thành bản điều ước nhất định.

Ông Hồ Chí Minh ký bản thỏa hiệp ấy rồi chính phủ Pháp cho chiếc tàu binh đưa ông về nước. Thế là sau hai kỳ hội nghị ở Ðà Lạt và ở Fontainebleau, việc nước Việt Nam không sao giải quyết được.

Ông Hồ Chí Minh về đến Hải Phòng vào quãng tháng giêng, Việt Minh tổ chức việc đón tiếp rầm rĩ, nhưng thực tình thì nhiều người ngậm ngùi vì tình thế mỗi ngày một nguy ngập. Dân khí tức giận, thà chết còn hơn quay trở lại làm nô lệ như trước.

Quân Pháp ở Bắc Bộ thì sẵn sàng tấn công cho nên mới có sự xung đột ở Hải Phòng vào quãng cuối tháng một. Vì thế lực không đủ, lẽ tất nhiên là quân Việt Minh thất bại phải lui ra ngoài Hải Phòng. Hai bên đều xuống lệnh đình chiến, nhưng quân hai bên vẫn cứ đánh nhau.

Việc dai dẳng như thế đến mấy ngày, trước ngày 19 tháng chạp dương lịch, thì người Pháp gửi tối hậu thư cho chính phủ Việt Minh bắt phải giao sở công an cho họ, hẹn đến ngày 20 là hết hạn. Chính phủ Việt Minh biết là không sao tránh khỏi sự tấn công của quân Pháp bèn mưu sự đánh trước một ngày để mong được thắng lợi trong khi bất ngờ. Xem như vậy thì người Pháp cũng có một phần khá lớn trong cái lỗi đã gây ra cuộc Pháp Việt chiến tranh kéo dài cho đến ngày nay. Trước ngày 19 tháng chạp năm 1946, các yếu nhân trong chính phủ, quân chính quy Việt Minh đã rút ra ngoài cả rồi, chỉ có các đội quân tự vệ ở lại để đánh phá và bắt người Pháp và những người Việt Nam theo Pháp.
Quân tự vệ chống với quân Pháp trong thành Hà Nội được hai tháng mới rút lui. Trong khi hai bên chống cự nhau phần thì quân Pháp bắn phá, nhà cửa phố xá bị đốt rất nhiều. Những phố như hàng Hòm, hàng Thiếc v...v... bị đốt phá gần hết. Những nhà nào chủ nhà bỏ chạy, thì quân Pháp vào lấy đồ đạc, của cải, rồi sau lại cho bọn người Tàu vào cướp phá. Cái nhà của tôi ở phố nhà Rượu cũng bị quân tự vệ đốt cháy. Thành ra bao nhiêu sách vở của tôi, có lắm quyển rất cổ, rất quí, tích trữ trong mấy chục năm, đều hóa ra tro tất. Tôi vẫn chưa hiểu vì lẽ gì mà họ đốt nhà tôi, hoặc là vì đốt nhà bên cạnh mà cháy lây sang, hoặc là Việt Minh thấy tôi bỏ đi, họ giữ không được, họ cho lệnh đốt nhà cho bõ tức.

Cái chiến lược của Việt Minh khi ấy là nếu chiến đấu thắng thì thôi, không thì rút ra ngoài, rồi sẽ dùng phương sách du kích và tiêu thổ, nghĩa là đốt phá hết sạch những nhà cửa dinh thự, chỉ để lại đám đất không.

Ðối với nghĩa quân Việt Minh thì cái phương sách thứ hai có hai chủ đích: một là gây sự cản trở cho quân địch, đi đến đâu không có chỗ cư trú, tiện lợi cho sự du kích của mình. Hai là làm cho dân cư ở những phố phường trong các thành thị mất cả nhà cửa cơ nghiệp, rồi đói khổ điêu đứng, chỉ có theo cộng sản là sống mà không theo là chết. Vì thế cho nên có nơi họ phá hoại từ xưa tới nay chưa từng có bao giờ.

Khi việc chiến tranh đã bùng nổ ở Bắc Bộ, chúng tôi ở bên Quảng Châu ai cũng ngơ ngác, không biết nghĩ sao. Một bên người Pháp cố tình muốn lập lại chủ quyền như cũ, việc ấy dù muốn che đậy thế nào mặc lòng, người ta đã trông thấy rõ khi quân Pháp đổ bộ lên Hải Phòng và Hà Nội. Một bên là Việt Minh đã trải bao phen hứa hẹn giữ nền độc lập của nước nhà, không lẽ lại bó tay chịu hàng phục người Pháp. Thành ra hai bên tuy có hội nghị ở Ðà Lạt và ở Fontainebleau, nhưng kỳ thực là dùng mưu thuật để lừa nhau, chứ không có cái gì là thành thực thì không sao tránh khỏi chuyện xung đột được.
Trong cái tình thế ấy, những người ngay chính vì nước rất khó nghĩ. Việt Minh thì chỉ muốn dùng cách áp chế để củng cố địa vị của mình. Ai theo họ thì họ để yên, ai không theo họ thì bị bắt bớ, chém giết, mà theo họ thì nhiều người không làm được những việc họ làm. Pháp thì dùng võ lực mà đàn áp và dùng quyền mưu để lấy thắng lợi. Người Việt Nam ai đã có lòng yêu nước thì không sao theo Pháp được, trừ ra một bọn xu danh trục lợi không kể. Trong cái hoàn cảnh bối rối đau đớn ấy chúng tôi lại thấy những nhà cách mạng ở bên Tàu như bọn ông Nguyễn Hải Thần tuy có lòng tốt, nhưng không đủ tài năng mà cáng đáng việc lớn. Chúng tôi quay về mặt nào cũng không thấy có phương pháp nào giúp được nước.

Một hôm vào khoảng cuối tháng giêng năm 1947, tức là mấy ngày trước tết nguyên đán năm Ðinh Hợi, ông Bảo Ðại vào Quảng Châu, có gặp tôi nói chuyện về việc nước nhà. Ông rất băn khoăn về việc bắc bộ. Tôi nói rằng: "Tuy Việt Minh đã có nhiều điều lầm lỗi, nhưng nay họ đã đứng về phương diện kháng chiến để dành độc lập, thì họ có cái thế danh chính ngôn thuận, ai làm trái ngược lại là dân chúng không theo. Chúng ta đành phải để thời cơ biến chuyển ra sao rồi sẽ tính. Nay việc chiến tranh đã xảy ra, tức là có bên được bên thua, chờ đến khi tình thế rõ rệt, ta sẽ liệu có thể làm được việc gì ích lợi cho nước". Ông Bảo Ðại ở Quảng Châu mấy ngày rồi trở ra Hương Cảng.

Lúc ấy tôi đang ở trong cái hoàn cảnh nguy ngập, tiền thì sắp hết, ở trong thì đã đánh nhau, thì không mong có sự tiếp tế được nữa. Tôi tính chỉ còn đường về Sài gòn, có bạn bè và bà con có thể tư trợ cho được ít lâu. Tính như thế nhưng biết là thế nào mà về được. Ðột nhiên ông Bảo Ðại cho người ra Quảng Châu mời tôi ra Hương Cảng có việc cần.

Tôi ra Hương cảng gặp ông Bảo Ðại, ông nói rằng: "Có một người Pháp bên Ðông Dương sang đây, muốn gặp chúng ta để nói chuyện về việc bên nước ta, cho nên tôi mời cụ qua để bàn tính cho kỹ về việc ấy. Người Pháp ấy là ông Cousseau, trước có biết cụ".
Hôm sau ông Bảo Ðại với tôi gặp ông Cousseau, nói chuyện chiến tranh ở bắc bộ, ai bị bắt, ai bị giết... Sau ông nói rằng: "Cao cấp ủy viên Pháp bên Ðông Dương muốn hết sức điều đình để đem lại cuộc hòa bình, nhưng vì Việt Minh lừa dối, nên mới có sự chiến tranh, thật là thiệt hại cho cả hai bên".

Tôi nói: "Cuộc chiến tranh này, do sự tôi biết, là phần lớn tại các ông gây ra. Nước Việt Nam chúng tôi là một nước từ Nam chí Bắc có tính cách duy nhất, đồng một ngôn ngữ, một phong tục lịch sử, mà các ông đem chia từng mảnh, rồi lại lập ra Nam Kỳ Cộng Hòa Quốc và gây những sự trêu chọc, thật rõ rệt là các ông không muốn hòa bình".

„Ðó là những việc tạm bợ nhất thời mà thôi, vì có nhiều nơi không theo Việt Minh. Nếu có những người quốc gia đứng đắn ra điều đình thì nước Pháp sẽ sẵn sàng nhượng bộ.“

„Việc điều đình bây giờ, muốn cho thành công, thì phải có toàn dân ưng thuận mới được. Mà nay số nhiều dân chúng đã theo Việt Minh, đứng