NGỠ NGÀNG VỀ VỚI HUẾ
PHAN MỘNG HOÀN
Thiếu nữ xinh thật xinh, cao lênh khênh, xếp hàng gần cuối cùng trong đội múa dân tộc. Cô bé vừa dành nhau với lũ bạn ngồi bệt xuống dưới chân hàng ghế sắt xếp cao dần tít trên kia lúc này đã chật như nêm. Đêm Huế mùa lễ hội sao nóng bức, gió không thấy đâu, hay trốn mãi trên kỳ đài ngất cao? Anh ngồi ở hàng ghế khách mua vé, bỗng nao nức nghe tiếng ríu rít của bầy chim vành khuyên áo lục thắm. Bầy thiếu nữ dễ thuơng ghê, họ lao xao cười đùa với nhau, không xa lắm dưới chân anh.
“Cỏ thơm! ơi Cỏ thơm!” Người đàn bà gọi lớn tiếng hướng về bầy vành khuyên áo lục. Anh quay lại nhìn bà ta. Bà nói: Xin lỗi! xin lỗi! Âm thanh giọng Huế nghe ngộ nghĩnh. Anh nhận thấy bà ta và bà bạn sát vai nhau ngồi hàng ghế trên anh đều đã đứng tuổi nhưng thấp thoáng hương sắc ngày xưa còn đọng lại trong nụ cười. Bà vừa cất tiếng nhanh nhẹn bước xuống, len lách giữa đám sinh viên áo đỏ bọn anh, và phút giây đã lẫn vào những cô gái trẻ đang ngồi chen nhau dưới ấy. Hình như bọn con gái nhỏ này đang chờ lúc đến phiên ra sân khấu. Tự nhiên anh tò mò dõi theo xem...
Bà mẹ khẽ ôm vai con gái, thì thầm nói gì. Cỏ thơm, Joe đoán thế, quay đầu ngước lên phiá anh. Joe thoáng rung động. Ánh mắt sao mà đen láy, xênh xếch và reo vui. Cô bé đưa tay nhẹ vẫy. Anh ngạc nhiên tưởng cô ta chào mình, nên Joe cũng vẫy tay chào trả lại. Nào ngờ thiếu nữ rụt tay và nghiêm mặt không cười nữa. Có lẽ, cô bé vẫy chào bà bạn của mommy ngồi hàng ghế sau lưng Joe. Anh hơi ngỡ ngàng. Joe nghĩ thầm sao người ta khó tính thế, chào vu vơ thì đã sao nhỉ. Nhưng Joe đã quên điều này, người ta dân Huế gốc, như me cậu hay kể- thật lòng khó làm quen!
Nghỉ hè năm nay, Joe từ Monterey qua Pháp chơi với gia đình người em họ của me cậu, gặp lúc đoàn hướng đạo của Dân con trai của cậu Kiêm tổ chức về Việt Nam dự Festival mở ra ở Huế; thế là Joe gọi phone về Mỹ thưa với ba me cho cậu tháp tùng đoàn Scout này về quê hương luôn. Quê me nghe nói ở Kim Long nhưng nào Joe biết đâu mà tìm. Khi gia đình Ba me cậu theo diện HO của ông ngoại qua định cư ở Mỹ cậu bé Quỳnh vừa lên 10. Đến nay 2008 Joe hay Quỳnh tròn 23 tuổi, tiếng Việt Nam nói không ngọng tuy nghe hay hay vì không có dấu trầm dấu bổng như kiểu ba me vẫn phát âm. Còn chữ viết thì chỉ lỏm bỏm nhớ nhớ quên quên. Vì bất ngờ về thăm nên Joe không hề được chuẩn bị chu đáo. Từ lâu me hứa hẹn sẽ đưa các con về thăm quê nhà nhưng chưa phải là đột xuất như lần này.
Joe tên Việt là Quỳnh, nhưng các bạn Mỹ gọi là Joe cho dễ phát âm. Nguyễn Nam Quỳnh trắng trẻo xinh trai, chưa có bạn gái. Sau hè này Joe thực sự vào Standford để theo học ngành Y. Qua Pháp ham theo Dân sinh hoạt scout, Quỳnh không có dịp để làm quen cô đầm non nào. Về VN mới hai hôm nay, cậu tính cùng Dân tìm lên Kim Long chơi, nhưng vì đi theo đoàn bận viếng thăm nhiều thắng cảnh của cố đô nên hết có cơ hội. Me tối hôm trước gọi cell phone về nhắc chừng con trai nhớ rủ Dân đi thăm mộ ông bà nội ở Nguyệt Biều. Lại thêm một cái tên lạ hoắc khó lòng viết cho khỏi trật.
Trước sân chầu mênh mông bây giờ nô nức. Đoàn biểu diễn nghệ thuật nước ngoài đang gây xôn xao. Bà con cười reo trước cảnh mấy chục cặp chân cẳng cà khêu, cái cao nhất dễ 5, 6 mét tây đang nhịp nhàng bước. Với Joe thì bình thường. Ca-vũ-nhạc-kịch-ảo thuật ở đâu bên ấy cũng có, cậu không hào hứng mấy. Nhưng ở đây thì khác, thiên hạ mê say nhìn những sãi chân dài năm thước cùng tiến cùng lui, quanh co uốn lượn trông thiệt ngoạn mục. Người xem la ó quá chừng. Quỳnh chỉ mãi tìm bóng áo lục. Dân hiểu ý chuyền cho anh cái ống dòm. Quỳnh điều chỉnh ống kính. Anh thấy cô gái nhăn nhăn mày ngước mặt nhìn lên mẹ, trông thương quá. Bà gìa cô đang ham theo dõi lũ chân cẳng cà khêu nên không hay biết gì. Quỳnh liền quay lại trao cho bà ta chiếc viễn vọng kính. Cậu nói:
-Con gái bác muốn nói gì với bác dưới kia.
Bà mẹ sửng sốt ngó trân chàng trai áo đỏ. Trông chàng thanh niên mặt mày sáng sủa dễ thương nhưng giọng nói, sao âm thanh nghe không có dấu thiệt tức cười. Quỳnh lịch sự giải thích:
- Bác xem cô ấy ở kính viễn vọng này.
Cô gái cười rạng rở khi thấy mẹ dơ tay vẫy mình rối rít. Chà! mẹ còn ngó trong ống dòm nữa kìa. Tên áo đỏ ngồi gần mẹ đúng là người hồi nãy chào mình. Cô bèn nhìn lơ sang đám bạn. Quỳnh vừa kịp gửi nàng cái hôn gió. Cỏ Thơm nóng bừng cả hai má tưởng như ai đang hôn vào mặt mày cô.
Bây giờ là lúc đoàn nghệ sĩ Pháp tiến ra sân khấu trình diễn. Lập tức suốt mấy dãy ghế quan khách là hàng mấy chục sinh viên nam nữ mặc đồng phục đỏ, liền đứng phắc dậy gập mình chào rồi sau đó ngồi xuống và cùng loạt dơ cao và mở rộng hai tay. Không ai bảo ai, họ nghiêng người qua phải rồi nghiêng sang trái, uốn lượn nhịp nhàng cách đều nhau làm thành động tác như chuyển động hình sin, như làn sóng to nhỏ nhấp nhô trông thật ngoạn mục. Đoàn áo đỏ đang cổ động phe nhà của thói quen hải ngoại. Bà mẹ Huế cũng vui lây cảm thấy trẻ lại mấy chục tuổi đời, bà uốn qua uốn lại dơ cao tay như bầy trẻ nước ngoài. Từ đó về sau nhóm bà mẹ Cỏ Thơm và các chàng trai từ Pháp về trở nên thân mật.
-Các cậu là người Việt Nam ở bên Tây về?
Quỳnh thưa:
-Bọn cháu là Mỹ là Pháp gốc Việt.
Bà mẹ bạn nhanh nhẩu tự giới thiệu:
-Tôi từ San Diego về, người Huế chính cống.
Thấy Joe tròn mắt không hiểu cho hết câu nói. Mẹ Cỏ Thơm dịch:
-Là người Mỹ gốc Huế trăm phần trăm đó cháu.
Dân lúc này mới xen vô góp chuyện với ba bác cháu Quỳnh;
-Cháu và Joe, à... Quỳnh, ba mẹ đều là người Huế. Tụi cháu gia đình ngày xưa ở làng Kim Long. Là đâu hả bác?
Bà San Diego chậm rải nói:
-Kim Long cách làng chúng tôi một dòng sông.
-Thưa là Rivière de Parfum là Hương giang phải không ạ.
-Đúng rồi đó là con sông đẹp nhất thế gian này.
Bà mẹ bạn mơ màng nhắm hờ mắt lại và hãnh diện nói như thế. Dân liến thoắng tiếp lời:
-Ba mẹ cháu cũng thường bảo rằng sông Seine đẹp thật nhưng thua xa Hương River...nghe không thằng Mỹ con Quỳnh! À, Tụi cháu dịp này về đây, ba me đều muốn phải lên thăm mộ ông bà nội ở Làng Quán Nguyệt Biều. Chắc là xa xôi lắm phải không ạ?
Mẹ Cỏ Thơm hí hửng nói:
-Vậy thì ngày mai gia đình chúng tôi mời hai cháu về nhà chơi. Sẽ làm món Cơm Hến khao các cháu gọi là chốn thân tình.
Bà mẹ bạn nói rõ hơn:
-Nhà bạn Diệu Chân đây ở sát nách làng Nguyệt Biều, trên con đường Huyền Trân Công Chuá.
Hai tên áo đỏ cùng reo lên:
-Wonderful! Merveilleux!
Khi bầy chim vành khuyên cánh lục biếc bay tỏa ra sân, bây giờ đến lượt hai bà mẹ Huế nồng nhiệt đứng lên chào, và hét to:
-Cỏ Thơm, Cỏ Thơm...
Nàng áo lục xếp hàng cuối cùng không quay đầu lại nhưng khẽ nghiêng vai và dơ cao cánh tay mềm mại vẫy. Quỳnh rồi Dân nhanh tay điều chỉnh máy ảnh, sao cho thật gần để bấm tí tách cố thu cho được dáng vẻ thanh mảnh của cô gái Huế tóc vấn gọn trong tấm khăn vàng. Các cô áo lục này bay lượn chung quanh đoàn áo dài tha thướt vũ lượn trên sân khấu. Bao nhiêu tơ lụa vàng lấp lánh. Những xiêm y lộng lẫy nổi trôi bồng bềnh giữa mây trắng chập chờn. Khăn hoàng hậu, xếp nếp vành cao, và hàng trăm nhan sắc yêu kiều của Huế của cố đô thanh lịch khiến thiên hạ chao đảo hồn trí.
Festival 2008 của Huế mở ra theo thông lệ 2 năm một lần. Nhờ thế khoảng thời gian sau nầy, xứ Huế ngoi ngóp hồi sinh. Từ sau 75, khi toàn lãnh thổ Việt Nam được thống nhất và hết cảnh nội chiến Nam Bắc, nhưng dân chúng lại trở nên vô cùng khốn khổ đói rách. Gần đây với chính sách cởi mở của nền kinh tế thị trường và riêng cố đô triều Nguyễn Việt Nam nhờ thừa hưởng việc UNESCO trùng tu cung điện, đền đài nên Huế đã có cơ hội để đón tiếp khách nước ngoài về du lịch tham quan. Huế phần nào thoát cảnh lầm than.
Khắp nơi từ thành phố đến thôn quê, làng xã, đường sá được sửa sang, tráng nhựa cho khỏi lồi lõm ổ gà ổ vịt. Du khách di chuyển bằng xe taxi có máy lạnh, tiền lại không mắc. May ra như thế Huế không bị bỏ rơi, tụt hậu. Từ đó kinh tế có chút hơi hưởng giúp dân chúng sinh hoạt kiếm miếng cơm no mùa nắng. Dân Huế lao động cực nhọc khi trời khô ráo, mong sao dành dụm khỏi đói rét vào mùa mưa gió bão lụt.
Khoảng 11 giờ đêm chương trình văn nghệ chấm dứt, quan khách ai mua vé giá cao tiếp tục vào nội điện để xem ca vũ nhạc cung đình. Tuy nhiên hai chàng trai trẻ không theo đoàn sinh viên Scout Pháp của họ. Quỳnh và Dân luẩn quẩn với nhóm hai bà bạn già đợi chụp hình chung với mấy cô gái của bầy chim vành khuyên áo lục. Cỏ Thơm mắc cở đứng chen lẫn đàng sau các bạn. Bà mẹ lôi tay cô ra phiá trước. Cỏ thơm phụng phịu mặt mày, Quỳnh thấy sao vẫn đáng yêu. Cậu và Dân liền ngồi sụp xuống trước chân các nàng, như kiểu cầu thủ bóng đá. Khi return lại máy hình Quỳnh tức cười vì bắt gặp Cỏ Thơm đang cúi xuống nhìn mình. Cần cổ thiên nga nghiêng nghiêng...trong khi đám bạn cô lao xao luyến xuyến cười hét vang rân. Giọng Huế của các nàng nghe sao vui tai, líu lo như chim hót. Quỳnh không làm sao hiểu cho rõ các cô gái đang nói gì với nhau.
Chụp hình xong, cả bầy con gái rủ nhau ùa chạy đến chỗ chất đầy hằng trăm hoa sen trang hoàng cho đêm văn nghệ. Cô nào cũng tham lam ôm đầy tay những đoá sen đủ màu. Quỳnh ham thu hình cảnh “ăn trộm” hoa của các cô gái nhỏ nên chẳng có bông sen nào cho mình. Cuối cùng anh cũng có phần. Bởi vì bà mẹ Huế đã order con gái:
-Hay chưa tề, sao không ai chia cho các bạn mới rứa hè!
Cỏ Thơm rụt rè lấy bớt hai bông sen, một hồng một trắng và dúi mạnh vào tay Quỳnh. Dân kịp thu vào máy ảnh cảnh tặng hoa ấy. Rồi mọi người chào từ giã nhau. Mẹ cô gái dặn hai anh nhớ trưa mai lên nhà bà chơi, ăn cơm hến.
*
Hai chàng trai nhẹ nhàng trong bộ áo quần ngắn kaki của đồng phục hướng đạo, chân mang giày vải. Các anh rời khách sạn thuê chung với đoàn Scout, bọn họ mãi còn chìm trong giấc ngủ vì đêm qua 2 giờ sáng đoàn mới trở về. Đôi bạn rủ nhau chạy bộ từ sáng sớm.
Sông Hương mơ màng trôi chảy, đỏm dáng cài những hoa sen khổng lồ, lớn cỡ một chiếc thuyền nhỏ. Nghe nói mùa lễ Phật Đãn năm nay Huế tổ chức đại hội quốc tế đón tiếp đại biểu từ mấy chục quốc gia về tham dự, nên khắp nơi thành phố diêm dúa điểm trang. Những cổng chào uốn vòm, đan hoa văn gắn đầy hoa sen. Dọc con đường Lê Lợi ngang qua các trường Quốc Học – Đồng Khánh tên xưa, giăng mắc những chiếc lồng đèn bằng lụa đỏ vui mắt. Ngắm những cánh hoa màu đỏ hồng tươi tắn bềnh bồng giữa dòng sông xanh thắm, Quỳnh cảm thấy Huế giảm bớt nét thi vị của cố đô thanh lịch trầm lặng. Nhà nước lợi dụng kéo dài cảnh trí trang hoàng mùa lễ Phật, dùng lại cho Festival 2008, nên chợt làm cho thành phố nổi tiếng trầm mặc hóa ra cải lương bình dân.
Theo lời hướng dẫn của sách du lịch bỏ túi, nếu cứ đi cặp theo bờ sông Hương dần lên phía Bắc họ sẽ đến Phường Đúc. Với số điện thoại có được của các bà bạn quen cho nhân đêm ca vũ nhạc tối hôm qua làm gì hai du khách trẻ không tìm tới nhà họ để được đãi ăn món Huế.
Hai chàng mỗi người 1 chiếc balô đeo gọn gàng sau lưng, chứa bao nhiêu thứ dùng cho thời gian du lịch. Các chàng trai mới hôm trước mặt mũi còn sáng sủa trắng trẻo nay rám màu nâu hồng mạnh khỏe. Khi các anh chạy bộ ngang qua đâu vòng theo bờ sông Hương, họ cũng hấp dẫn đám trẻ con ùa chạy theo họ. Dân vừa chạy chầm chậm vừa lần tay với tìm sau lưng nơi túi ngoài của balô, lấy ra mấy thanh kẹo gum xanh đỏ. Anh vui vẻ làm quen và mời bầy nhóc da đen nhẻm cùng nhấm nháp với mình.
Từ múi cầu Gia Hội, bầy Việt dã bất ngờ gồm khoảng 7, 8 cậu bé cùng 2 chàng hướng đạo dừng chân. Quỳnh, bác sĩ tương lai tinh ý nhận thấy các em thở hồng hộc và da càng mét xanh đen tái hơn. Vậy là do đói. Anh lục balô tìm hộp cheese bò cười, bao kẹo chocolat MM đủ màu cùng gói bánh khô lấy ra chia cho các cậu nhỏ. Trong khi Dân đang sà xuống bên cô bán hàng rong, mua hai chục trái bắp luộc còn bốc hơi nóng thơm lừng. Anh chia đều cho cả bầy lớn bé. Các em háo hức nhai nuốt rộn ràng, mặt mày dần tươi tỉnh. Dân dò hỏi và biết đang mùa nghỉ hè, vừa là mùa lễ hội Festival, các em nghỉ học.
Anh chợt thấy trong đám trẻ có hai cậu bé buồn hiu. Anh phải tìm hiểu nguyên nhân. Cu Nam trã lời khi nghe anh Dân hỏi:
-Hết hè ni, em và cu Lì không phải đi học nữa.
-Tại sao lại bỏ học? chừng này tuổi đã chán đến trường hay sao?
Quỳnh thắc mắc và ngó thẳng vào mặt chú bé xinh xắn, làn môi giờ đã hồng lên nhờ có kẹo, bánh, chocolat và trái bắp luộc tiếp sức. Cu Lì đăm chiêu trã lời:
-Tháng trước mạ em đau nặng, tiền để dành cho học phí phải đổ sạch vô tiền thuốc nên...
Thằng Tuấn, đứa trẻ vạm vỡ nhất trong đám tiếp lời bạn:
-Sau kỳ hè, vô đầu niên khoá tụi em mỗi đưá phải đóng liền một lần 300 ngàn đồng, em rồi Kiên, Hùng, Minh, Ngọc tuy không dễ dàng chi nhưng gia đình cũng tạm lo được. Phần em, ba mạ em đã chuẩn bị rồi. Còn bạn Lì, hết thuốc chữa! rứa là nghỉ học thôi. Như bạn Nam nữa, cha thợ hồ xóm cầu Đông Ba, hết việc làm, lấy mô ra tiền cho hắn tiếp tục học!
Tuấn thở dài im lặng. Cả bọn trẻ mất vui. Quỳnh Dân kinh ngạc nhìn nhau. Trong phút chốc mắt họ chợt loé tia sáng giải quyết vấn đề. Quỳnh nói ngay:
-Anh và anh Dân sẽ giúp hai em tiền học phí niên học mới. Thôi, vui lên, ăn xong kiếm nước uống, anh em mình chạy tiếp, OK!
Một thoáng im lặng vì ngỡ ngàng, rồi chợt oà vỡ tiếng reo hò vui mừng của tụi nhóc mới lớn. Vừa tiếp tục chạy thong thả cho lũ trẻ không mất sức. Quỳnh vừa khẽ bàn với bạn:
-Lên nhà Cỏ Thơm, lát nữa tụi mình bàn với các bà mẹ Huế giúp dùm việc này. Vì chắc là chúng ta không có nhiều thời gian, phải không?
Dân gục gặt đầu đồng ý. Sinh viên như họ du lịch không nhiều tiền thật, nhưng nếu nhín tiêu bậy bạ, như không mua quà linh tinh đem về là có ngay số tiền để giúp cho cu Lì, cu Nam đi học. Mới 12 tuổi, bắt đầu lên trung học các em đã tắt ngúm tương lai cuộc đời, nghĩ thiệt tội nghiệp.
Khoảng 10 giờ, Quỳnh Dân chào từ giã các bạn nhóc mới quen. Anh em bịn rịn chia tay nhau. Dân xin địa chỉ hai em Nam và Lý tức cu Lì và hứa sẽ liên lạc với cha mẹ các cậu. Chiếc máy ảnh Digital của Dân được dịp bấm tí tách bao nhiêu là hình ảnh đám bạn trẻ vừa kết làm huynh đệ hè 2008. Quỳnh tươi cười hẹn với tụi nhỏ, vài năm nữa anh sẽ về chạy đua với các em.
Trên cầu Nguyễn Hoàng lộng gió, nắng hè lấp lánh vui, nhưng bầy trẻ mặt mày buồn xo. Chúng đứng vịn vai nhau nuối tiếc nhìn vói theo bóng hai người anh kết nghĩa dễ thương. Các anh đang nhanh chân bước rồi sau đó dần mất hút khi rẽ vào đường Lê Lợi hướng lên Nguyệt Biều.
*
Thỉnh thoảng đôi bạn trẻ dừng chân hỏi thăm bà con đường đi, và họ chạy dần ngang qua Ga Huế, rồi rảo bước chui dưới lòng cầu Lòn. Khoảng này Quỳnh rủ Dân quày trở lại để lên trên cao đứng ngắm trời đất. Đây là cầu Bạch Hổ, dưới kia sông Hương rộng bát ngát, dòng nước chảy miên man. Xa xa dăm con đò đang xuôi mái trôi giữa dòng êm như mơ. Vệt núi tím nhạt thấp thoáng cuối chân mây. Huế đẹp quá. Trong sách chỉ nam du lịch, bên kia sông Hương, anh em Quỳnh đọc thấy rằng đầu múi cầu là ngã ba, một hướng ra An Hòa Quảng Trị, một xuôi theo sông Hương chảy thẳng lên làng Kim Long. Vậy chắc chắn họ sẽ tìm được dấu tích của quê nội.
Con lộ từ cầu Lòn trở đi có một đoạn mở rộng ra và đắp bằng đá kiên cố. Người ta nói Huế khúc đường này thường bị lụt lội xói lở nên phải gia cố như thế. Hai chàng hướng đạo tóc tai áo xống ướt đầm đìa mồ hôi. Nửa giờ sau khi họ dừng chân trước ngôi thánh đường Phường Đúc, cũng là lúc trông thấy tấm bảng nhỏ cắm ở góc đường đầu kia mang tên: Huyền Trân Công Chúa. Đích thị đã gần đến nhà người đẹp áo lục. Quỳnh bổng cảm thấy tim anh đập rộn ràng...
*
Con đường Huyền Trân dâng cao dần, hai bên đường cây to bóng mát. Dăm chú bò lửng thửng dạo trên ven lộ, mãi chúi đầu gặm mớ cỏ xanh non. Dân nổi hứng muốn làm cowboy, anh lẹ làng chống hai tay lên lưng một chú bò tơ đu lên, rồi vắt vẻo cởi lên lưng con vật hiền lành. Quỳnh cầm máy “Kỹ thuật số” thu ngay hình ảnh ấy. Gió trưa thổi hây hẩy làm khô vạt áo hai chàng tuổi trẻ và đem cơn mát về. Cả hai không hẹn cùng kêu to: Quê hương ơi hạnh phúc quá! Rồi Quỳnh buồn hiu khi nhác trông thấy chú bé chăn bò gầy gò đen đủi từ phiá trong đám tre xanh ngắt ven đường tiến ra, chú ta ngơ ngác nhìn các người lạ đang vui vẻ cười đùa. Dân cười:
-Xin lỗi em! anh cởi bò có hề gì không?
Nó lắc đầu. Quỳnh liền rủ cu cậu chụp chung hình kỷ niệm. Mấy anh em và đám bò sau đó chia tay từ giã nhau. Dân không quên dúi vào túi áo chú chăn bò mấy phong kẹo gum làm quen và Quỳnh cho cậu ta hai gói kẹo chocolat MM nhỏ còn sót lại trong túi áo. Cậu bé cười lặng lẽ. Quỳnh chợt liên tưởng hai đứa Nam- Lỳ, cậu nhóc này e cũng đã bỏ ngang việc đến trường! Lòng anh cảm thấy buồn thương đám trẻ nghèo khổ của quê mẹ.
Quỳnh vừa đi vừa nghiêng ngó tìm nhà bác Diệu Châu theo địa chỉ bà đã cho tối hôm trước. Chợt một chiếc xe đạp của ai từ đầu dốc trên kia lao nhanh xuống. Hai chàng vội vã nhảy tránh vào vệ đường. Chiếc nón lá của cô gái đội trên đầu rơi xuống. Quỳnh cúi nhặt lấy và quày trở lui trả cho chủ nhân. Cô ta cũng vừa xuống khỏi xe. Cô gái trông ngờ ngợ, như đã gặp đâu rồi nhỉ? Anh trao cho cô ta chiếc nón lá vừa lượm được. Cô gái có đôi mắt to và cặp lông mày đen nhánh, cong cong thật xinh. Cô lí nhí cám ơn. Dân tiến tới gần và hỏi thăm lối về nhà bà bạn Huế:
-Chị có biết gia đình bà Diệu Châu ở đâu không?
Quỳnh thêm chi tiết:
-Bà ấy và cô con gái rất nice...
Cô gái lạï mặt cười tươi:
-Các anh theo tôi. Nhà họ ở gần đây.
Đôi bạn trẻ theo chân cô gái dắt bộ xe đi ngược con dốc cao chừng 10 phút, chợt cô ta dừng lại ven lộ trước một lối lên xây bằng những bậc đá thanh. Trên kia là một cổng sắt nhỏ uốn thành vòm bán nguyệt và bụi hoa giấy um tùm nở đầy những bông tím rưng rức xen lẫn lác đác vài sắc hoa trắng, hoa hồng nhàn nhạt bò quanh quất trông thật nên thơ. Cô gái gọi lớn vọng lên:
-Mẹ ơi! khách tới rồi...
Quỳnh nhìn Dân, thắc mắc đã được sáng tỏ vì sao cô gái rơi nón trông lại quen mặt thế. Bà Diệu Châu là maman các nàng xinh đẹp này!
Chưa đầy 1 phút sau, các anh thấy cô gái hôm qua vụt chạy ra rồi thoắt cái quay trở ngay vào nhà, ngôi nhà xinh xinh sơn màu hồng phấn và khuất sau lối đi nhỏ. Cô rơi nón hét to có vẻ giận:
-Cỏ Thơm! mẹ đâu?
Mãi mới thấy hiện ra bà San Diego thong thả bước, theo sau là bà Diệu Châu, toe toét cười chào vui vẻ:
-A, chào các em đã tới thăm tệ xá!
Dân còn bận thu hình lối lên chiếc cổng hoa tím thơ mộng. Bà mẹ Huế mau mắn giới thiệu mọi người với nhau. Cô rơi nón là Phương Anh, chị Cỏ Thơm. Phương Anh thưa:
-Mẹ, con đi chợ đã nghe. Mấy người ni lạc đường nên con phải dẫn về đây.
Nói xong cô gái mắt to thè lưỡi cười với mẹ, chiếc mũi cô khẽ trun lại, xinh ghê. Dân nhận ra điều này. Anh chàng vội đề nghị:
-Hay để tôi theo đi chợ với Phương Anh nhé!
Cô gái mở mắt to hơn và lắc lắc đầu hỏi:
-Bạn biết đi xe đạp không?
-Sure! Tôi sẽ chở cô!
Dân nắm chặt lấy ghi đông và ngồi ghé lên yên trước. Anh chờ cho cô gái yên vị vào porte bagage sau. Rồi dấn mạnh pédale, chiếc xe loạng quạng chuyển bánh, lạng ngay ra giữa lộ, con đường khúc này đổ dốc xuống khá gắt nên xe sẽ vút lao đi. Cô gái ngán quá vội nhảy rời khỏi yên sau xe, té nhẹ xuống nhưng không hề hấn gì. Dân tiếp tục lái xe ào đi giữa con đường Huyền Trân may sao giờ này vắng vẻ. Anh kịp điều chỉnh tay lái, nhẹ giãm thắng cho xe nép vào ven lối đi. Rồi anh dừng lại ở cuối con dốc, chờ cô bạn mới quen. Trong bụng tự cười thầm, quen lái xe auto, giờ dám cả gan đòi chở người đẹp bằng xe 2 bánh, mình liều mạng thật.
Bây giờ thì Phương Anh dành ghi đông, còn chàng cua rơ ngoan ngoãn ngồi đàng sau. Cô cho xe rẽ trái ở ngã ba Bùi Thị Xuân và Huyền Trân Công Chuá, để lên chợ Long Thọ. Mùa hè gặp dịp Festival nên hàng trái cây bày bán nhiều thứ ngó ngon mắt, người ta chở từ trong Nam ra. Dân nhờ cô gái chọn mua chùm vải thiều đỏ ửng và trái khóm chín vàng. Anh muốn góp phần buổi tiệc trưa nay. Phương Anh không từ chối việc này.
Cô ghé vào hàng thịt heo mua mấy lạng thịt nạc tươi rói, qua hàng tôm chọn mớ tôm thẻ tươi xanh, đến hàng rau lựa mua rau xà lách, rau thơm, giá sống. Cô gái tính thầm: trưa nay mình sẽ đãi họ ăn gỏi cuốn. Hồi sáng Dì San Diego đã giao việc bếp núc cho Cỏ Thơm, nó đã lo xong món cơm hến rồi. Cô không quên mua mấy lá bún tươi. Tất cả mớ rau thịt đã cho vào bao ni lông, cô đặt gọn gàng vào giỏ xe đàng trước. Cô giao phần trái cây cho anh chàng Việt Kiều mặt mũi sáng sủa, lo ôm lấy. Khi trở về, chỗ ngã 3, đoạn đường ở đầu dốc hướng lên nhà cổng hoa tím, Dân nói anh muốn đạp xe. Phương Anh gật đầu, nhường tay lái và vội lấy bao nilông đựng tôm thịt rau cỏ ra khỏi giỏ xe, và dành lấy xách trái cây từ tay Dân. Cô sợ cua rơ sẽ ném mọi thứ tan nát xuống đất! Chàng Pháp con khẽ nhún vai rất tây, cười xin lỗi người đẹp.
Cả nhà xúm quanh bàn tròn đã bày biện thức ăn khá thịnh soạn. Bác trai, bố của hai cô gái trịnh trọng mở chai rượu chát đỏ, quà của bà bạn San Diego mua dưới phố đem lên, ông rót rượu vào những chiếc ly nhỏ để uống khai vị. Quỳnh nhìn chăm chú vào bàn tiệc.
Bác Diệu Châu hướng dẫn quý khách dùng món cơm hến.
Bà báo trước sẽ khá cay, vì nếu không cay sẽ mất ngon, không còn hương vị Huế nữa. Rau đủ thứ xanh tươi đã xắt rối bỏ vào tô trước hết, đến cho cơm trắng vào tiếp theo sau, trên cùng là lớp hến nhỏ đã đảo chín màu vàng nâu, nhớ bỏ thêm nhúm đậu phụng rang óng ánh đỏ thắm vì đã được chiên qua với ớt. Bên cạnh mỗi người là một chén nhỏ nước hến luộc để đổ vào hỗn hợp cơm hến khi dùng tới.
Bác Mai Hồng, tên gọi bà San Diego, cầm đũa mời mọi người. Bà nói vài lời ngắn gọn chúc mừng cuộc hạnh ngộ của tất cả ai có mặt trưa nay. Quỳnh rồi Dân hăm hở cách ngại ngùng bưng tô cơm hến đã “bố trí” theo lời chủ nhà. Nhưng khi lùa một miếng nhỏ vào miệng, hai chàng trai cùng lúc rên rỉ:
-Trời ơi cay quá!
Cỏ Thơm vội chạy đi rót 2 ly nước cứu lửa đem tới cho hai người khách trẻ. Quỳnh đỏ mặt cười, cám ơn cô, Dân liếc xem người rơi nón, không là Phương Anh, cô ta tủm tỉm cười ngắm chàng cua rơ mắc nạn. Bác trai nhỏ nhẹ lên tiếng:
-Thôi, không nên ép các bạn trẻ ăn cay, từ từ mình tập sau nghe!
Món gỏi cuốn được khách chiếu cố tận tình. Hồi nãy về tới nhà là Phương Anh nhanh nhẹn làm ngay. Vật liệu đã có sẵn: rau muống, khoai lang luộc, bún vừa mua về. Hai chị em hợp tác món gỏi thiệt linh hoạt. Khách không mời cũng đã chui vào bếp để xem.
Quỳnh lăm lăm trên tay cái camera để thu hình. Tay các cô thoăn thoắt sắp dài xuống theo chiều rộng của mỗi chiếc bánh tráng, vài cọng rau muống đã rửa sạch, khoai lang cắt thành từng miếng nhỏ, và bún tươi. Xong họ cuốn lại thật chặt rồi cắt ra từng khoanh nhỏ cỡ 2 lóng tay. Các cô xếp quây tròn đều đặn vào dĩa bàn lớn. Bác gái mở sẵn hủ tôm chua cho con gái sắp lên trên cùng mẫu bánh cuốn. Dân để ý thịt heo luộc chín đã cắt mỏng thì đặt dưới con tôm hồng hào ướt rượt. Ôi chao sao mà rắc rối và công phu thế! Dân hít hà theo dõi màn trình diễn tinh tế món Huế này và đoán chắc hắn phải ngon tuyệt cú mèo!
Quỳnh suy nghĩ thiệt hung, sang năm phải rủ mom cùng về Huế mới được.
Bác Mai Hồng phụ trách món nước chấm. Có đến 2 loại sauces để khách tùy ý chấm bánh cuốn này. Loại 1 là lấy mắm ruốc lựa ruốc hạng nhất không bị cặn, hòa với nước ấm, cho vào đó tỏi băm nhuyễn, ớt tươi bằm mịn, bỏ vô chút đường cho dịu hỗn hợp, vắt chút chanh cho thơm, nêm vừa miệng là được. Xong là bắc lên bếp nấu cho sôi rồi tắt lửa ngay. Loại 2, dùng đậu nành đã nấu chín xay nguyễn, bỏ vào đó tỏi bằm, ớt băm nhỏ, hòa chút đường, thêm đậu phụng rang vàng giã cho dập dập, tất cả hòa vô nước chấm tương này, dì Mai Hồng (nay các bạn trai gọi bà San Diego theo chị em Cỏ Thơm là dì) biểu, phải sền sệt mới ngon. Nước sauce này cũng phải nấu sôi trước khi dùng. Như thế khỏi đau bụng. Hai chàng trai thử chấm gỏi cuốn vào mỗi thứ nước sauce, các anh nhận thấy sao mà thơm ngon, bùi béo ghê. Riêng Quỳnh nghĩ thầm, ước chi mình được ở đây lâu và ăn “như ri” hoài thì hạnh phúc quá.
Mới làm quen nhà dốc cổng hoa tím này có hai hôm, rồi chuyện trò huyên thuyên với bầy nhóc chạy bộ, nghe chừng các chàng Việt Kiều ưa phát âm rặt Huế!
Sau bữa cơm ngon và lạ miệng nhưng mà cay - đắng ấy, ( vì ngoài cơm hến còn có món canh mướp đắng- chao ơi đắng chi mà đắng quá trời!) các chàng hướng đạo mạnh dạn xin cả nhà góp ý cho họ về việc giúp đỡ 2 em Nam- Lỳ. Dì Mai Hồng cười tươi, nói rằng đó là sở trường của dì khi về quê hương. Bác Diệu Châu cho biết từ lâu rồi bác và một nhóm cựu nữ sinh Đồng Khánh hiện ở Huế đã là cộng tác viên đắc lực trong những công tác tình thương dì Mai Hồng ưa vẽ vời mỗi khi về thăm Huế.
Chương trình của họ giờ thêm chi tiết giúp Nam-Lỳ. Và để khỏi mất thời gian, ngay chiều nay sau bữa tiệc thân tình, Quỳnh và Dân sẽ đến thăm gia đình hai em. Dân bảo:
-Tụi cháu không biết đường đi ở Huế e là khó tìm nhà các em. Nhất là phương tiện có sẵn chỉ là cặp giò!
Phương Anh mau miệng:
-Rứa tui đây thì răng, Cỏ Thơm nữa hắn đang rảnh, mùa nghỉ hè mà.
Cỏ Thơm ngập ngừng lên tiếng:
-Em sắp sửa phải đi xa...
Quỳnh cảm thấy hơi thất vọng khi nghe thế. Nhưng bác trai vội góp lời:
-Bé Út cuối tuần sau mới bận rộn chuyện đi “thực tế”, dư sức phụ với chị bé Anh làm hướng đạo cho các anh ấy.
Quỳnh nghe hăng hái trở lại:
-Chỉ cần có xe đạp, phe con trai sẽ vận tải các con gái.
Bé Anh hỏi:
-Anh nói vận tải tụi tui, rứa tui và Cỏ Thơm là heo bò hay răng đây?
Hai bác và dì San Diego phá ra cười. Các chàng trai rời VN đi xa từ lúc còn nhỏ tí cho nên ngôn ngữ mẹ đẻ làm sao khỏi lúng túng ngỡ ngàng. Dân bắt qua chuyện cậu bé cowboy dốc đường Huyền Trân, các anh muốn tìm hiểu để có thể giúp đỡ phần nào. Phương Anh rành rẽ:
-A, đó là thằng cu Tơn tên thiệt là Tân, nhà ở xóm trên dốc Thành Lồi, con của thím Nga bán rau dưới chợ Long Thọ. Chú Lân ba cu Tơn chết năm tê vì bịnh gan, gia đình sinh túng quẫn, con cái bỏ học may cu Tơn được chân giữ bò kiếm thêm gạo phụ mẹ nuôi bầy em 3 đứa, đứa út vừa lên 3!
Quỳnh nghe mà hoảng, anh nghĩ thầm, sao nhà nghèo khổ còn ham đẻ thế! Dì Mai Hồng có ý kiến:
-Huế nghèo cực kể không ngạ, chúng ta chỉ có thể tiếp sức họ phần nào trong khả năng. Bởi vì Job cowboy dù sao cũng rất tốt bỏ thì uổng, nhưng không thể vừa đi học vừa giữ bò. Tôi nghĩ rằng, mình có thể cho họ gạo là thực tế.
Bác Diệu Châu phân công ngay:
-Vậy bố Văn ngày mai lo chạy tới tiệm bán gạo sĩ dưới Cống Trắng, mua cái phiếu gạo 15 kí. Bé Anh sẽ liên lạc thím Nga đến đó lãnh gạo. Chúng ta giúp cấp thời và kín đáo như thế đã, còn sẽ tính sau.
Dân và Quỳnh xế trưa hôm đó gọi taxi về khách sạn để thay áo sống và nhất là xin phép trưởng đoàn Hướng đạo cho hai anh xé lẻ vì bận việc nhà. Hai chị em Cỏ Thơm sẽ đến đón các anh bạn cùng đi tìm nhà Nam-Lỳ.
*
Vé máy bay vào Sàigòn ghi rõ sau mùa Festival, đoàn hướng đạo sẽ từ giã Huế rồi 2 ngày sau đó bay về Pháp. Phần Quỳnh chuyển chuyến bay bay về San Fransico.
Trước đó hai anh đã được hai cô gái thông minh xinh đẹp nhà ở đường Huyền Trân Công Chuá giúp họ tìm lên Nguyệt Biều để tảo mộ tổ tiên. Đường lên đây theo con lộ tráng nhựa, hai bên làng mạc ruộng nương trù mật, nhà cửa lác đác vài cái đã được tu sửa tử tế. Các anh ngắm sông Hương miệt nguồn xanh thẳm. Hai chàng tuổi trẻ đã dừng xe đạp bên một bờ sông cát vàng , liền nghỉ ngay đến chuyện phải tắm mát ở dòng sông quê hương. Hai cô gái Huế bằng lòng ngồi đợi mấy người bạn tính tình hồn nhiên như trẻ thơ ấy. Khi quay trở về, nhóm bạn trẻ giờ trở nên thân thiện, đã ghé thăm Hổ quyền với dấu tích ngày xưa voi cọp từng đấu nhau gay cấn trước mắt thưởng lãm của vua tôi nhà Nguyễn.
Qua hôm sau, các anh còn được hướng dẫn lên thăm Chùa Linh Mụ có ngôi tháp 7 tầng cổ kính, đứng soi bóng bên dòng sông Hương nước trong xanh, gờn gợn sóng êm đềm trôi chảy. Quỳnh và Dân đã dò tìm tới được ngôi từ đường họ Nguyễn, nằm sâu phía miệt vườn xanh um cây cỏ của làng Kim Long. Ông bỏ già, người làm của ông ngoại Quỳnh hiện đang trông coi ngôi nhà này. Ông lão ngoài thất tuần vẫn khang kiện ngày ngày chu đáo lo hương khói sớm hôm cùng tưới nước bắt sâu cho cây cỏ hoa lá trồng trong vườn tươi tốt.
Như vậy là hai anh em từ Pháp Mỹ về đã chu toàn bổn phận ba má giao. Họ đã du lịch những danh lam thắng cảnh nổi tiếng cố đô, đã giúp đỡ cho mấy em nhỏ túng nghèo và nhất là được may mắn kết nghĩa bạn bè với các người đẹp gốc gác đàng hoàng xứ Huế. Những người trẻ tuổi từ đáy lòng chợt bâng khuâng nghĩ ngợi...
Một mùa nghỉ hè ngắn ngủi mà chan hòa hạnh phúc; để rồi mai đây giây phút sắp phải chia tay họ càng nghĩ càng ngậm ngùi. Người ở lại trở về nếp sống an phận, kẻ ra đi xa đến nửa vòng trái đất. Hai nếp đời cách biệt ngàn trùng, cho nên không ai dám ngõ lời hứa hẹn. Bây giờ đám bạn trẻ chỉ dám mong ước một ngày không xa quá, họ sẽ gặp lại nhau cho tình bạn dễ thương vừa chớm không tàn lụn trong quên lãng.
San Jose ghi lại những ngày về Huế Hè 2008
------------------------------------------------------------
Source : www.art2all.net
Trang Phan Mộng Hoàn
25/7/11
PHAN MỘNG HOÀN - VỀ QUÊ CHỒNG
VỀ QUÊ CHỒNG
Ðầu năm 1998 hai me con tôi, tôi, cô dâu họ Hồ quê Yên Thành và con gái Mina Nhã Uyển, từ Huế là quê ngoại, đáp xe lửa về thăm Nghệ An. Trước khi ra đi, nhà tôi đã chuẩn bị chu đáo cho chúng tôi chuyến du hành đặc biệt về quê chồng này. Anh ấy đã mở lớp “huấn luyện cấp tốc” về gia phả dòng họ Hồ quê Tăng-Thành. Thật thà mà nói thì những chuyện này tôi đã biết rõ từ “khuya” nghĩa là từ “cái thuở ban đầu lưu luyến ấy”; chàng họ Hồ khi lưu lạc đến xứ Thần kinh thơ mộng của tôi, đã thật thà khai báo “thất tình” với những chi tiết “hỉ, nộ, ái, ố, sầu, bi, dục”… của đời chàng. Chu đáo ở đây tôi muốn nói là chàng “lì xì” khá rộng rãi cho hai me con đủ điều kiện vật chất để mạnh dạn thay chàng qui cố hương! Bởi vì chàng vẫn chưa có hứng khởi trở về. Nơi ấy đã gây ra lắm hệ lụy thương tâm mục não khiến trái tim chàng hay nhức nhối khó chịu mỗi lần nhớ tới quê hương!
Tại nhà ba tôi ở Phường Ðúc, Long Thọ, me con tôi bàn định việc rút ngắn thời gian lưu lại cố đô, để dành ngày cho việc thăm quê nội Mina. Ông ngọai Na ân cần gửi lời thăm hết thảy bà con của chàng rể họ Hồ. Từ mấy chục năm nay bố Na đã là rể quý của nhà họ Phan mà! Sau khi Nam Bắc phân chia giới tuyến, vào năm 1958 nhà tôi đã vượt tuyến qua đường Lào (leo rừng băng suối Trường Sơn) để tìm tự do ở miền Nam. Khoảng đầu năm 61, chúng tôi quen, thân và thương yêu nhau thời kỳ sinh viên thơ mộng ở Ðại học Huế. Ðám cưới đã xảy ra vui vẻ náo nhiệt dưới sự chứng kiến của các linh mục. Trước hết phải kể đến như Viện trưởng ÐH Cao Văn Luận, người cha đỡ đầu cho cả hai đứa tôi học ở Ðại học cho tới lúc tốt nghiệp. Rồi cha Nguyễn Hy Thích, giáo sư dạy tôi ở Văn khoa, vốn là người bạn vong niên thân thiết cuả gia đình. Hôm lễ cưới ngài đã mang tới tặng một cặp câu đối thiệt dễ thương. Tôi còn nhớ rõ hai câu thơ đối rất chỉnh, tự tay cha viết và đề trên hai mảnh sáo tre sơn màu xanh lục non trang nhã:
“Hồng lĩnh Lam giang Hùng tuấn kiệt.
Bình sơn Hương thủy Mộng Hoàn viên”
Ngoài ra có cha Phan Ðình Bố (bác ruột cô dâu) làm linh mục chủ tế, cha De Leffe thuộc Dòng Tên Pháp đại diện Nhà trai, chủ hôn, vì chàng rể vốn là sinh viên trưởng tràng ở Foyer Xavier, nơi ngài là giám đốc. Rồi đến cha Nguyễn Văn Trinh trẻ trung, là Tuyên úy đoàn Sinh viên Công giáo Ðại học Huế. Cha Hưng Bề Trên Dòng Chúa Cứu Thế Huế, người đỡ đầu chú rể từ cái hồi bơ vơ vào miền Nam cũng trong họ nhà trai! Tôi phải khoe ầm ĩ như rứa để nhấn mạnh rằng cuộc sống lứa đôi của chúng tôi đã được kết hợp keo sơn trong ơn nghĩa Chúa vì vây bọc quanh tụi tui toàn là cha cố! Câu chuyện tôi muốn viết lại hôm nay mở đầu sẽ dài dòng khi kê khai lý lịch với bạn đọc. Từ từ tôi sẽ nhẩn nha kể mấy chuyện vui vui trong chuyến Trung du này.
Chuyến tàu hỏa nhanh xuất phát từ Huế khởi hành vào khoảng 10 giờ tối hôm ấy, chúng tôi lấy vé loại “ghế mềm”, là ghế có bọc giả da và có thể nâng lên hạ xuống
để mình có thể nằm hay ngồi tùy ý. Vì gần đến Tết Âm lịch, nên khách đi làm ăn xa tận trong Nam đổ về quê ăn Tết chật ních các khoang. Tàu tên là nhanh nhưng chạy xình xịch, lắc lư êm êm như đưa võng nên tôi đánh được một giấc ngủ ngon lành. Nửa khuya đang mơ màng giấc điệp tôi choàng tỉnh vì mùi thức ăn bốc lên thơm lừng cả không gian và nhất là bởi âm thanh rao hàng vừa chua lét vừa nặng chình chịch của mấy cô ngoài ta đang hăng hái đẩy xe “bồi dưỡng” cháo gà ngoại vi (tức khách ăn phải trả tiền, vì trong vé chỉ phục vụ một bữa ăn tối sơ sài). Mọi người quanh tôi đều thức dậy hăm hở kêu và chờ thưởng thức, có vị hăng hái làm liền vài tô! Tôi cũng “đúng cái boại” lắm chứ, nhưng rụt rè không dám tham gia với bà con; lý do Mina ngầm ra dấu lắc đầu, và lưu ý tôi chú trọng vào cô hàng cháo.
Cô ta dáng người phốp pháp, tay chân lanh lẹ, cười nói thoải mái khi phục vụ thực khách. Cô ta mang tạp dề đàng hoàng đúng phép vệ sinh quốc tế, nhưng hai bàn tay cục mịch thoăn thoắt bốc thịt gà đã xé tơi từ cái mâm khổng lồ cho vào tô thì rõ ràng không chịu đeo găng bảo hộ! Tôi tiếp tục chìm vào giấc Nam kha, hình ảnh con gà mái tơ mượt mà thịt mỡ bóng nhẫy đang bay lượn cùng rau răm và tiêu muối hấp dẫn ngon lành. Trời bên ngoài xe lửa chìm trong bóng đêm, còn tôi mê mải giấc mơ màng.
Thời gian tàu chạy e đến cả chục tiếng đồng hồ mới tới nơi. Ga Vinh ồn ào náo nhiệt người đón kẻ đưa. Hai me con thong thả di chuyển loanh quanh dưới hàng cây xanh um trồng ngăn nắp trong khuôn viên láng xi măng sạch sẽ của sân ga thoáng mát. Tôi phải dạo chơi cho giãn gân cốt sau gần chục tiếng nằm cứng trên tàu. Lúc này mới 6 giờ sáng. Chúng tôi lạ nước lạ cái đâu dám tự ý xông pha như lúc về Huế là nơi thân quen của mình. Chú em Út ruột bên chồng hôm trước đã phôn dặn dò kỹ lưỡng rằng: “Chị và cháu “nhất trí” ở yên trong nhà khách thuê tạm trên lầu 2 khách sạn Ga, chờ em tới đón mới được ra khỏi phòng, “nhất trí” như thế nhé...!” Thế nên chúng tôi dư giờ tham quan. Chúng tôi không tốn tiền thuê phòng nhốt mình trong khách sạn khi phải “nhất trí” nghe theo lời chú em, trái lại lo “tranh thủ” giải quyết vấn đề vệ sinh húy tiếu cá nhân. Từ bên kia ½ quả đất tôi đã từng nghe các lời đồn đãi có thiệt, rằng nơi đây Rest room là chuyện phong kiến và hoàn toàn xa xi phẩm! Chắc chắn ở Ga sẽ không thiếu phương tiện tế nhị này. Nhưng mà bạn phải nhớ luôn luôn trữ sẵn tiền nhỏ trong túi ạ. Nhân viên trực diện ở đây sẽ vui vẻ thu lệ phí khi trao cho khách mẩu giấy báo in chữ đen xì, để mình vào xài free cầu tiêu. Tuy nhiên bạn sẽ không dám đụng chạm đến “hắn” (tức giấy báo) vì thế bạn luôn phải nhớ đem theo giấy “cuộn” bán khắp nơi. Những cuộn giấy súc xinh xinh nhuộm màu hồng, xanh lơ, lục thắm mát mắt và vô cùng tiện dụng mọi sự mọi việc cho du khách trên khắp nẻo đường đất nước.
Cuối cùng thì người hướng đạo viên cũng xuất hiện: chú Lĩnh.
Tôi còn nhớ như in sự tích người em chồng này qua lời kể lại khúc chiết của nhà tôi. Vào năm xảy ra cao trào đấu tố địa chủ và cải cách ruộng đất năm 1953, thì ông nội các con tôi là người đầu tiên lãnh án chết vì tội Ðịa chủ. Cụ phải xử bắn tại chỗ sau khi “được” nhân dân kể cả bà con xa gần tích cực hưởng ứng việc kể tội ông cụ. Những tội lỗi dựng đứng nên cốt để gây phấn khích cho người tham dự lễ “khai phóng nhân dân dành lại quyền làm chủ từ lâu nay đã lọt vào tay những kẻ giàu có”! Chú Lĩnh chào đời năm 1951 và mồ côi cha lúc lên ba. Sau đó mẹ chồng tôi vì uất ức lẫn thất vọng khi thấy mình bất lực vì cảnh đời cùng cực nheo nhóc của lũ con thơ, bà đã quẫn trí quyên sinh. Sau đó chú Lĩnh được lén lút cho làm con nuôi một nông dân nghèo hiếm muộn ở một làng xa trong Huyện. Chú phải thay tên đổi họ để may ra tồn tại trên quê hương khắc nghiệt của cha ông mình. Cuối năm 76, chú út họ Hồ đã chịu khó lặn lội từ quê xứ Nghệ tìm vào Nam xuống tận miền Tây (Tà Keo-Rạch Giá) để thăm ông anh cả, tức nhà tôi lúc đó đang mưu đồ tìm cách cho gia đình thoát vòng kiềm tỏa của chế độ XHCN-CS. Chú chỉ ở chơi tuần lễ rồi lộn trở ra Bắc, vì chú còn vợ con đùm đề ngoài ấy, đâu dám đành đoạn ở lại tham gia cuộc vượt biển của ông anh. Hồi đó tôi thấy người em chồng này vạm vỡ, to khỏe như chàng Samson, nghe đâu chú thím ấy đã có 4 mặt con dù tuổi đời mới 25! Thế mà nay, gặp lại sau 22 năm chia tay, trông chú Lĩnh già và khắc khổ đi nhiều. Với cuộc sống lam lũ của nghề nông, nhà một vợ 6 con, suốt ngày lăn lộn ngoài đồng ruộng để kiếm hột gạo, biểu làm sao chú ấy không cằn cỗi!
Từ Ga Vinh, chúng tôi ngồi xe ba-gác-đạp di chuyển đến trạm xe đò, cách đó khoảng 10 phút đồng hồ. Tôi ngồi trên thành gỗ xe lắc lư, nghiêng ngó quan sát thành phố đang phất lên sau chiến tranh. Nhà cửa toàn là những building kệch cỡm xây san sát bên nhau, nằm ven hai bên lề con đường rộng, xe cộ chạy ngược chiều nhau có vẻ trật tự, chứ không xô bồ hỗn tạp như Sài Gòn hay Hà Nội. Khi chờ chuyến bus về quê, tôi ngạc nhiên thấy mấy thiếu nữ diện như... Mỹ! Một cô mặc quần tây bó sát, chân mang “ghệt” da cổ ngắn, tóc tai thật bụi, dáng đứng nghênh ngang. Tôi lắng tai nghe, giọng nói vẫn mang âm sắc nặng-quê như mọi người đang lố nhố quanh mình. Mãi sau tôi mới vỡ lẽ rằng, Vinh là thành phố ngã ba giao lưu giữa những luồng văn minh hiện đại của Nam Bắc Việt Nam ngày nay. Hèn chi thanh niên ở đây lại không tránh khỏi ảnh hưởng, mà chưng diện theo kiểu dân nước ngoài.
Chiếc bus trờ tới, chúng tôi nhảy lên chiếm chỗ khoảng giữa xe. Nói là bus chứ thiệt tình chỉ là chiếc xe đò cổ lỗ sĩ mình quen thấy ở miền Nam, loại xe đò “cải tiến” chạy bằng than củi đốt sau 75. Xe hẹp bề ngang, ngắn đòn bề dài với những hàng ghế gỗ xộc xệch, lớp da giả bọc ngoài đã biến mất tiêu có lẽ từ cái thời kháng chiến chống Tây. Hai me con tôi ngồi cùng băng với hai người cán bộ ăn vận lịch sự. Trời nắng chang chang, hai vị diện complet đen sì. Mỗi người mang một cặp samsonite thiệt oách đặt khư khư trên đùi, tôi để ý trên quai xách của mỗi chiếc cặp có thắt một cái khăn lông trắng cỡ vừa. Xe chạy chừng nửa tiếng đã chật như nêm, vậy mà bà chủ xe vẫn tiếp tục từng lúc dừng lại để rước thêm khách và hàng. Dưới chân chúng tôi lèn chặt hàng chục bao muối to cỡ bao gạo 100 kilô. Xích lên vài ghế đằng trước là vài chục bao phân bón. Xa xa phiá sau kể không xiết bao nhiêu là lúa, gạo, hàng hoá linh tinh. Tôi đã kinh hoàng tột độ khi xe ngừng lại để mải miết bốc thêm những người và gồng gánh tôm, cá, rau, cỏ và tất cả người vật hàng hóa ấy đều được chất lên cho ngồi trên nóc xe! Lạy Chúa tôi! chắc là con chết mất vì cả “hương hoa” đất nước qui tụ hết nơi chuyến xe đò mùa xuân này!
Mina tái mét mặt mày vì ở mỗi khúc quành chiếc xe hàng lại nghiêng một góc độ đáng sợ, và không biết nó sẽ lăn kềnh ra lúc nào! Ðường từ Vinh về quê Tăng Thành gồ ghề, nhựa đường đã lóc ra từ đời thuở nào, trơ ra gạch đá lỗ chỗ như ổ trâu, nên xe chạy tha hồ xóc mình như người ta xóc rượu pha. Mina thì thầm, “Me! Mình xuống kiếm xe khác đi, nguy hiểm quá!” Tôi chịu không nổi đã la lên: “Dừng xe, trả tiền lại, tôi kêu công an phạt bây giờ!” Xe vẫn chạy, mụ chủ cười nhăn nhở, tiếp tục bay lên lượn xuống qua lại trên người hành khách để hăng hái thu tiền vé. Áo quần tôi ướt đẫm mồ hôi. Chúng tôi đã thay đồ bà ba trong chuyến đi này, cốt để tránh con mắt cú vọ của công an giao thông sẽ chém tiền mình gấp đôi! Khách nước ngoài về trên thực tế đã phải mua vé double! Trong khi thông cáo nhà nước chỉ thị rõ ràng: Mọi hành khách không phân biệt trong và ngoài nước đều hưởng đồng giá tiền trên mọi tuyến xe tàu!!! Càng trưa trời càng nóng bức. Thời tiết mùa xuân mà gay gắt như nắng hạ. Thêm hai ông cán cuốc ngồi sát mình, cứ oang oang chuyện trò, còn phì phà thở cho khói thuốc um lên và hôi như cú! Các vị ba hoa tán láo chuyện họp hành đảng điếc làm mình thêm sôi máu, muốn điên lên. Lâu lâu họ lôi cái khăn lông trắng từ quai chiếc samsonite lên lau cổ, lau ngực, lau mặt mày đang tuôn chảy mồ hôi dầm dề. Quả thật là tiện dụng với chiếc khăn lông máng trên quai samsonite!
Cuối cùng thì xe cũng ngừng cho chúng tôi xuống khi ngang nhà chú Lĩnh, sau gần 4 giờ đồng hồ trên đoạn đường chưa tới 60 cây số. Ngay xế trưa hôm đó, khi tôi vừa chợp mắt ngủ một chút thì bà con bên chồng đã nườm nượp kéo tới thăm hai me con tôi. Vì Mina năn nỉ, chúng tôi quyết định chỉ lưu lại quê nội tụi nhỏ 2 đêm 3 ngày (Mina đã dò hỏi ra chuyện ở đây “vắng nhà vệ sinh”, mà cô bé thì chỉ có thể “bế quan tỏa cảng” trong vòng vài bữa!). Chú Lĩnh huy động bà con nên tranh thủ tụ họp tại nhà chú để “xem mặt” chị dâu và cháu gái từ “Mỵ” về.
Nhà chính của chú Lĩnh là một căn nhà ba gian hai chái, xây bằng gạch vồ chắc chắn, trên một nền cao có ba bậc chạy dài trước hiên tô xi măng láng bóng. Tôi đã nghe nói rằng toàn bộ ngôi nhà này đã từng di động 3, 4 lần từ đồng bằng lên vùng núi rồi xuống trở lại đây. Chủ nhân và vợ con đã kiên trì chuyên chở rui mè, cột kèo, gỗ đá an toàn đi khắp nơi không biết mệt! Tôi cảm khái cho thành tích phi thường đó của “nhân dân” quê “bác”. Thời gian và trót đời của họ chỉ phấn đấu cho miếng cơm, manh áo và nơi trú ngụ. Vào nhà, nơi gian giữa trên một bệ ximăng cao hơn thước tây, có nắp đậy bằng gỗ, vuông vức khổng lồ choán hết gian, là chỗ đặt bàn thờ bố chồng tôi. Trong khuôn ảnh bán thân, ông cụ tóc hớt carê ngó vẻ phương phi của người nông dân chất phác, lương thiện. Trông ông không có chút chi là người đoản mệnh! Vậy mà cụ đã bị bắt phải chết đúng tuổi 53 vào năm 1953 vì tội địa chủ!
Mina lúi húi sắp xếp lên diã cúng nửa tá xâu nem chua Huế, và chồng gói mè xửng Song Hỷ của ông ngoại cháu gửi ra làm quà. Thấy tôi nhìn lạ lùng vào bệ thờ to tướng, thím em dâu liền giải thích, đó còn là kho thóc giống, nhà trữ sẵn cho mùa gieo luá sắp tới! Buổi trưa khi ngả lưng nghỉ mệt, tôi theo dõi mấy con chuột nhắt tự do leo trèo lên xuống vui vẻ khắp nơi. Mới ra Giêng mà khí trời oi bức, từng đàn nhặng xanh vù vù bay quanh quất. Ban ngày để an toàn ngủ, Mina phải xin được giăng mùng!
Xế trưa hôm ấy, tôi bị đánh thức vì tiếng la hét ồn ào của bầy trẻ con, là lũ cháu từ các nhà bà con kéo về thăm “mự”, thăm bác, thăm bà... (là tôi). Chúng chạy đuổi bắt nhau tưng bừng trong khoảnh sân ximăng tô phẳng phiu trước hiên nhà. Mina và cu Thỏa, con trai chú Út đang trải chiếu nơi sàn nhà để đổ ra trên đó cả núi áo quần, mà tôi đã đóng thành hai thùng mỗi cái hơn 30 kilô, theo giới hạn của hải quan, để mang về cho mọi người trong họ. Như kinh nghiệm bạn bè đã từng về thăm quê khuyên, quần áo là loại qùa thực tế không vô ích. Ai cũng hài lòng nhận tặng vật. Bộ veston sẫm màu vừa khít trên người chú em, cổ chú quàng cái khăn len kiểu cách. Chú đi lui đi tới, săm soi ngắm vuốt, hệt chàng trai mới lớn. Bà chị thứ hai của bố Mina, mặt mũi hiền lành, bà giống đúc my husband. Ðến thăm em dâu, bà diện áo dài nhung tím, tóc vấn khăn nhung đen, nhưng trông bà có vẽ hững hờ, ngồi lim dim theo dõi cuộc chia quà náo nhiệt. Tôi đến bên bà, cười lấy lòng người chị chồng coi bộ khó tính, rồi dúi vào tay bà hộp quà nhỏ bằng giấy bìa cứng, nhà tôi đã chọn riêng trước mắt hai cái ổ khóa kim loại trông thật “kiên cố” cho nhiệm vụ “bảo hộ” tài sản! Bà cụ chớp mắt, như muốn ngăn giọt lệ cảm động đang ứa ra, bà nói với tôi: “Mự” biết không, cậu ấy vẫn nhớ đến sở thích của bà chị già này. Lâu rồi khi kể về các chị em mình, nhà tôi vẫn cười về cái nết cẩn thận của chị thứ hai, luôn ước ao có ổ khoá thiệt “đảm bảo” để khóa tủ, khóa cửa!
Quanh tôi những thằng cu con hĩm bé lóc chóc cố mặc chồng lên người bao nhiêu váy áo màu sắc tươi vui đặc Mỹ. E đến non hai mươi đứa, mỗi đứa được ba bốn món. Tôi nhớ lại tháng trước tôi đã tỉ mỉ chọn lựa những quần áo đem về, cố nhét càng nhiều càng tốt lèn chặt vào thùng quà bao nhiêu là T-Shirt, quần Jean, sơ mi, áo đầm, veston, đồ len... Nay thì tôi vui vì công lao của mình không bị hất hủi, chê bai như vài thành viên trong gia đình tôi bên ấy đã bi quan tiên đoán.
Ngay lúc mới tới, tôi đã trao cho thím em dâu nhiệm vụ chiêu đãi bà con. Cho nên tối hôm đó sau nhà bếp đã nghe vang lừng âm thanh của lũ gà vịt bị chọc tiết. Bầy gia cầm mới hồi chiều còn thấy buộc chặt chân cẳng nằm la liệt đầy sân, chúng đưa mắt ngơ ngác dòm tôi, người khách lạ oan khiên, vì tôi, chúng sẽ bị hóa kiếp. Tinh mơ hôm sau trời còn nhá nhem tối, mấy mẹ con cu Thỏa đã lao xao sinh hoạt dưới căn bếp nhỏ mà qua cửa sổ nhà trên, tôi thấy ánh lửa bập bùng, tiếng nói chuyện rì rầm, giọng cười khe khẽ của các cô em dâu, em chồng hấp dẫn tôi chổi dậy, định xuống đó góp chuyện. Gà trong xóm thi nhau gáy râm rang, từng chặp rồi liên hồi. Lòng tôi nao nức theo âm sắc lanh lảnh ấy. Tiếng gà gáy, bếp lửa hồng, sương mai lãng đãng... tất cả cái ấy đã làm òa vỡ trong tôi nỗi thương nhớ vô bờ. Tôi đang thực sự hiện diện giữa lòng quê hương, tôi đang thở hít làn không khí trong lành nơi thôn xóm hiền hòa quê chồng. Nhưng chợt một lúc tim tôi nhói đau khi sực nhớ rằng không gian thanh bình này cách đây gần nửa thế kỷ đã từng u ám vì một tai họa khủng khiếp đã xảy ra. Ðại gia đình chồng tôi từ đó mà tan nát đến cùng cực, nhân cớ kinh hoàng ấy đã xui khiến nhà tôi rời bỏ nơi chôn nhau cắt rốn thân yêu, và đau đớn xa lìa quê cha đất tổ. Chàng thư sinh ẻo lả, ôm mộng vá trời lấp biển từ xứ Nghệ xa xôi vượt rừng leo núi, tìm đến miền Nam nắng ấm, chúng tôi đã gặp gỡ và nên duyên...
Cái nhân quả hệ lụy ấy mới xui khiến cho tôi phút giây này có mặt nơi đây. Tôi ngậm ngùi thương tiếc những người thân yêu đã khuất. Mơ hồ qua làn khói hương nơi bàn thờ, ánh mắt cụ thân sinh chồng tôi nghiêm buồn, hẵn giờ phút này hương hồn cụ đã khuây khỏa. Kỷ niệm chất ngất hận thù dần phôi pha. Kẻ ác, chế độ điên cuồng bất nhân rồi cũng phải bị bôi xóa theo định luật thời gian.
Buổi tối đầu tiên, tôi ra ngoài sân ngắm trăng. Chị Hằng nga mơ màng ngự giữa bầu trời trong vắt. Không gian bao la, lững lờ vài thoáng mây nhè nhẹ trôi. Gió đêm hây hẩy xua giùm tôi lũ muỗi ác ôn từ khắp nơi cứ chực xúm vô tấn công da thịt mình. Mina đã an toàn chui vào trong mùng để chống muỗi từ chặp tối. Hương đồng quê nồng nặc xông lên khi tôi đang thả hồn mơ mộng, vì trước mặt tôi là cánh đồng luá trải dài đến vô tận, sao mà thanh bình thế. Thím em dâu hét lanh lảnh biểu mấy đứa con, “Chất rơm nhiều nhiều nữa vô chuồng lợn, kẻo bác chết mất!” Cu Thỏa hớn hở cười với tôi vừa cầm cây nạng xóc rơm chạy đi tích cực thi hành mệnh lệnh.
Chuồng heo nằm cạnh gian bếp, là địa điểm của “kinh tế chủ lực” của gia đình chú em chồng. Nếu không có đàn lợn, họ sẽ vô cùng chật vật trong nếp sống hàng ngày. Nuôi lợn, sẽ có phân để tưới bón hoa màu phụ sau luá, lợn nái đẻ con sòn sòn, ta sẽ bán đàn con khi đã nuôi vỗ cho chúng lớn mập, như thế may ra kiếm thêm chút ít tiền để năm thì mười họa bưã cơm có tí thịt mỡ. Vì thế “dạ-trư-hương” đã khuấy động làn không khí trong lành của cảnh đồng quê thơ mộng của du khách tôi! Bởi vì, mặc dù quanh năm suốt tháng, chú Út dãi dầu mưa nắng ở ngoài đồng từ lúc trời chưa rạng mặt cho đến khi trời nhá nhem mới mò về nhà để ăn bữa tối, mà số lúa thu hoạch chỉ vừa giữ lại làm lúa giống và đủ nạp thuế cho nhà nước!!! Cũng vì hoàn cảnh sống cơ cực như thế, càng ngày dân quê càng tìm cách thoát khỏi làng xóm ra mưu sinh ở thành thị.
Chiều thứ hai ở quê nội Mina, khách phương xa liền được “lệnh sau” đòi. Tôi băn hăn bó hó không biết xoay xở làm sao. Mãi sau phải “bật mí” với cô em chồng nỗi niềm tâm sự. Cô Miều liền hướng dẫn khách ra chuồng heo.
Chuồng lợn gồm hai ngăn, mỗi ngăn láng xi măng và rộng chừng 3 mét vuông, ngăn bên kia nuôi heo, bầy heo đang sức lớn, thấy người lạ thi đua la eng éc. Ngăn bên này dùng chưá rơm rạ, sau mùa gặt nên chất cao như núi. Trong bóng hoàng hôn chập choạng, khách mơ hồ nhận ra mấy thanh gỗ dầy dặn bắc dọc dưới chân mình, hở ra từng kẽ hở song song cách nhau chừng gang tay. Khách hoảng hồn nhắm mắt làm “nghĩa vụ”, không dám trông ngang trông ngửa, tay lo níu chặt vào cọc rào trước mặt, cứ sợ dại lỡ hụt chân xuống... e chết mất! Tôi thở phào sung sướng sau 30 giây đứng tim. Tình huống đó đã làm tôi nhất quyết từ chối lời mời mọc tha thiết của lũ cháu, đã không dám ăn món khoai lang luộc nổi tiếng của quê chồng. Những củ khoai lang bột, tròn, chắc trồng ở đây, luộc chín, nóng hôi hổi gợi thèm, nhà tôi hằng quảng cáo là ngon nhất nước! Nếu tôi nhẩm xực, sẽ nhuận trường, sẽ tha hồ thăm viếng chuồng lợn, nơi trữ phân tươi rất thiên nhiên và vô cùng tiện dụng!!! Cũng vì lẽ đó, suốt thời gian còn lại ở quê Yên Thành, tôi chỉ cầm đũa để lịch sự mời bà con đến thăm, họ luôn có mâm cỗ ngon lành mà thím em dâu sẵn sàng dọn ra để chiêu đãi nồng hậu.
Mới 6 giờ sáng, gia đình người em họ của nhà tôi đã xuất hiện nơi ngưỡng cửa. Tôi quýnh quáng trở dậy, vội vàng đi xuống sân sau, nơi có đào cái giếng nhỏ, định lo làm vệ sinh cá nhân. Chú Út ngăn tôi lại và trịnh trọng đưa cho tách trà đựng nước trong. Chú nói, “em đã nấu nước sôi cho chị dùng đánh răng”. Tôi trợn mắt ngạc nhiên. Chú bảo, “nước giếng bẩn chỉ để rửa dọn. Nước sạch các cháu lên chùa lai về”. Chú tiếp khi đọc thấy vẻ ngại ngùng trong mắt người chị dâu. “Chùa cũng gần đây thôi, đạp xe chỉ vài phút là tới chị ạ”. Tôi nhìn trên mặt bàn kê đầu giường ngủ thấy một dãy phích nước sôi xếp hàng ngay ngắn cạnh nhau. Thì ra chú em đã chu đáo lo việc nước non thù tiếp khách phương xa. Hèn chi, trưa hôm chúng tôi vừa đến đây, người em dâu vội vàng phóng xe mất tăm, khi thím ấy về nơi yên sau thấy có đèo bình nhựa trắng lớn. Thì ra chủ nhà phải lấy nước sạch mất công như thế.
Họ đã đun nước sôi cho chúng tôi pha tắm. Tôi đứng trong phòng tắm lộ thiên có 3 bức vách che chắn ngang quá ngực mình, bức thứ tư khỏi cần lo ai dòm tới vì nó xoay về hướng cánh đồng bao la. Tôi vục gáo nước vào lu đã pha nước ấm, dội lên người mình, mấy cọng tàn rơm bám lên da cho tôi cảm nghĩ hương mùa gặt của quê chồng sao mà gần gũi và thân thương đến thế. Tôi bùi ngùi suy gẫm, cho mãi cuối thế kỷ 20, nơi chốn quê của lãnh tụ “bác”, nhân dân ta vẫn còn quanh quẩn sống nếp đơn giản của thời kỳ “hồng hoang thời đại”!
Trọn ngày thứ hai ở đây chúng tôi được gia đình người em họ, là cán bộ xã ấp “lai” bằng xe Dream đi nhiều nơi, thăm bà con gần, thăm mộ ông bà nội Mina. Khi đoàn xe ghé vào khu đất nơi xưa là cơ ngơi của ông Hồ Châu, tôi được kể cho biết khuôn viên mênh mông của gia sản họ Hồ Yên Thành nay chỉ còn một rẻo nhỏ, là mảnh đất tí teo nằm như khuôn in viền sít lấy ngôi từ đường của dòng họ mấy đời. Ngoài ra tất cả đã biến thành mây khói phù du vào tay nhân dân qua bao cuộc thanh toán từ cái hồi cải cách ruộng đất năm 53 đẫm máu.
Xe Dream đèo tôi lướt nhẹ trên con đường trải nhựa lỗ chỗ đất đá, dọc theo con kinh thoáng, nước chảy lặng lờ, ôm ấp bởi những bờ đê xây bằng đá là niềm hãnh diện của chính sách thủy lợi, chạy thẳng tắp suốt cả thị trấn. Tôi chưa được nhìn ngắm dòng sông Lam kiêu hùng với sóng vỗ cuồn cuộn của quê hương Uy Viễn tướng công (Nguyễn Công Trứ), tôi chỉ được thấy mơ hồ trong sương mai những nét núi nhạt nhoà của dãy Hồng Lĩnh trùng điệp, xứ sở bạt ngàn của Nguyễn Du. Quê hương của tác giả Truyện Kiều thực sự chỉ có trong ảo tưởng của thời cắp sách của mình. Hóa cho nên không gian ấy đã biến đổi đến đau lòng.
Trong mơ mộng tuổi học trò, tôi đã chỉ hình dung quê hương thi sĩ Tiên Ðiền qua những trang thơ Kim Vân Kiều Truyện! Thế nên qua cuộc thăng trầm dâu biển của nửa thế kỷ, quê chồng tôi, vẫn chỉ thô sơ với làng mạc nghèo nàn, hàng trăm ngôi nhà gạch thấp sát đất mái ngói đỏ au, luôn luôn đằng trước là khuôn sân ximăng nhỏ và bao giờ trên ấy cũng phơi phóng một thứ thực phẩm gì đó (đậu, mè, ngũ cốc...).
Chỉ có một lúc khi xe chạy qua trường cấp ba đang giờ tan học, tôi thấy lòng vui vui vì len lỏi giữa hàng trăm người tuổi trẻ, nữ sinh áo dài trắng, nam sinh sơ mi trắng quần tây xanh, các em nô nức nói cười vui vẻ. Nhưng liệu trong thực tế họ có nắm giữ được tương lai? Bởi vì chiều hôm cuối cùng ở đây, đứa cháu trai kêu tôi bằng mợ đã tâm sự về việc cậu bé đã từ lâu tốt nghiệp cấp ba, đã hai lần thi hỏng vào Ðại học. Lần tới sẽ chuyển đổi thi vào sư phạm, cậu ta chỉ ước ao may mà thi đậu, sẽ ra trường trở thành giáo viên phục vụ... miền núi. Thế nhưng theo như tôi thăm hỏi thì mặc dù gay cấn “đầu vào” nhưng “đầu ra” càng khó khăn gấp trăm lần. Bởi vì ăn chắc may ra chỉ có con nhà cán bộ giàu có, sẽ kiếm được job ngon lành!
Buổi xế trưa đứa cháu đèo tôi bằng xe đạp lên thăm Nhà thờ Bảo Nham. Ngôi Thánh đường kiến trúc theo kiểu Gothic, toàn khối đá màu xám buồn nằm bề thế trên một ngọn đồi cao. Tháp chuông thanh thoát vút lên giữa nền trời xanh lơ. Khi tôi tìm vào khuôn viên Nhà thờ, tôi thấy sân trước sân sau gì đều phơi kín trong những nong đan bằng cật tre lớn bao nhiêu là khoai lang xắt lát. Tôi len chân qua những nong khoai khô nằm la liệt ấy để tiến vào bên trong giáo đường. Tôi ngạc nhiên nhận ra toàn bộ kiến trúc của ngôi thánh đường được xây bằng đá lớn màu xám có chen vân trắng. Những bức tường xây bằng đá khối hình chữ nhật, hình vuông trơn láng sờ đến mát tay, tôi không hiểu làm thế nào người ta đã có thể chuyên chở lên tận trên cao này để xây dựng ngôi Thánh đường đồ sộ này?
Tôi qùy trước tượng Ðức Mẹ bồng Chúa Giêsu Hài đồng để cầu nguyện. Tôi chia trí khi nhìn thấy hầu hết tượng ảnh chưng khắp bên trong Nhà thờ giăng mắc những tơ nhện dơ bẩn. Hoa nilông cắm trong các bình gốm phủ đầy bụi. Hình như ít ai chú trọng đến việc săn sóc ở nơi phụng tự tôn nghiêm này. Tôi theo những bậc thang hẹp cũng được xây bằng đá lớn, leo loanh quanh theo tay vịn uốn khúc mãi, tìm lên tầng lầu cao chỗ dành cho ban Thánh ca. Căn gác nhỏ xinh xinh có lẽ ít được sử dụng đến vì tôi thấy bụi bặm phủ dày khắp nơi. Khi mở khung cửa hẹp mà cao lên tận trần gác, tôi ngó ra khoảng không gian bao la trước mắt mình. Dưới kia là nhà cưả ruộng đất nhỏ tí. Hàng trăm ngôi nhà gạch vuông vức thấp bé như nằm dí sát đất, và trông chúng giống nhau như khuôn đúc, đàng trước nhà nào cũng có mảnh sân phơi thóc. Những cánh đồng xanh tươi bát ngát chạy đến tận chân trời, hứa hẹn những mùa bội thu, vậy mà tại sao nông dân ở đây vẫn không no đủ? Tôi vừa băn khoăn lo nghĩ vừa leo xuống khỏi lầu nhạc theo hàng chục bậc thang đá cao và dốc ngược. Những bậc đá kiên cố này tự dưng xui tôi mơ màng đến những tháp chuông cổ kính thời phong kiến bên Âu châu, đến câu chuyện tình lãng mạn và đau thương của cặp tình nhân Roméo Juliette.
Trước khi về lại nhà chú Lĩnh, tôi ghé vào bưu điện gọi phone vô Huế tin cho bạn giờ ra đón hai me con ở Ga. Cô nhân viên nhanh nhẹn phục vụ khách, khác với cung cách làm việc của bà cán bộ sồn sồn bán vé ở Ga xe lửa Vinh vào Huế. Khi đến phiên mình, tôi đã phát hoảng vì bà ta la lên “Tiền giả!”. Tôi ngạc nhiên cãi lại, vì làm sao có được chuyện đó, bà cán bộ trợn mắt trừng trừng nhìn tôi rồi dơ cao tờ giấy bạc 50 ngàn VN lên trời, mụ ta không thèm nói chi thêm. Người khách đứng cạnh thúc mạnh vào hông tôi và nói sát vào lỗ tai, “chị khôn hồn thì im đi, kẻo họ nổi hứng giữ lại tra hỏi lôi thôi”. Thế là tôi ngoan ngoãn rút tờ bạc khác mới tinh thay vào tờ giấy bạc giả, để mua 2 “ghế cứng” và lui ra.
Sau đó chúng tôi săm soi quan sát “hắn”, hình “bác” in chìm đã không hiện ra khi mình đưa lên soi trên ánh sáng như những tờ giấy bạc thứ thiệt. Về sau tôi trả lại cho người bạn đã đổi từ tiền đô-la ra tiền VN cho mình để “bắt đền” lấy tờ khác. Nhưng chị bạn tái mặt chịu thua, bởi vì cái mụ-cô-bà cán bộ đã mạnh tay quẹt sổ tàn nhẫn bằng bút bic lên mặt tờ 50 ngàn tiền “bác” 2 chữ “bạc giả” to tướng! Tôi phải thông cảm người bạn không may, và chịu mất toi 4 đôla! Hồi đó giá 1 đô khoảng hơn 13 ngàn tiền “bác”. Chị bạn nói thỉnh thoảng cũng bị như thế, nhưng nếu tờ bạc còn nguyên lành, nghĩa là không bị “phê” ác như trên, chị sẽ giao lại cho người đổi tiền gốc để đòi tiền khác cho mình. Chị nói, giấy bạc giả xuất xứ do con buôn từ Lào đổ về!
Chú em theo lời tôi vội vàng chạy ra cưả hàng ngoài phố mua cho chúng tôi hai cái gối nhồi bông gòn, bởi tôi rất ngán khi nghe hình dung từ chỉ lô ghế mình sắp phải trải qua. Quả thật chuyến trở về Huế lần ni thiệt vô cùng đau khổ. Lần đi “ghế mềm” mua dễ, nhưng lần về đúng dịp bà con đi làm ăn xa kéo về quê ăn Tết nên dù có muốn mua chợ đen cũng đành chịu, tất cả đều dành cho cán bộ! Hai me con ngồi bó rọ trên băng ghế không có nệm và hoàn toàn sát nghĩa ghế cứng. Ðối diện là hai chú công nhân xây dựng từ Hà Nội. Ðó là hai anh thanh niên hiền lành, gốc Huế, ra Hà Nội làm việc, cuối năm mới về quê thăm vợ con. Họ ái ngại dòm chúng tôi cứ không ngừng xoay trở trên chiếc ghế hẹp. Tôi đã phải ngồi bắt chân lên choàng qua ghế đối diện, có khi tưởng nổi điên vì không chịu nổi tình cảnh này. Mọi người ngủ gật gù đầu cổ lắc lư va chạm vào nhau trông thiệt quái gở...
Còi tàu hụ lên hồi dài đánh thức chúng tôi dậy, năm phút sau tôi nhảy xuống sân ga, đêm Huế yên tĩnh đón tôi, làn gió mát từ sông Hương hôn lên má môi mình, thơm nụ hôn trìu mến.
Cuối tháng 5, Hè 2000, tại San Jose
Source : Hoàng hôn thôn Vỹ
Trang Phan Mộng Hoàn
art2all.net
Ðầu năm 1998 hai me con tôi, tôi, cô dâu họ Hồ quê Yên Thành và con gái Mina Nhã Uyển, từ Huế là quê ngoại, đáp xe lửa về thăm Nghệ An. Trước khi ra đi, nhà tôi đã chuẩn bị chu đáo cho chúng tôi chuyến du hành đặc biệt về quê chồng này. Anh ấy đã mở lớp “huấn luyện cấp tốc” về gia phả dòng họ Hồ quê Tăng-Thành. Thật thà mà nói thì những chuyện này tôi đã biết rõ từ “khuya” nghĩa là từ “cái thuở ban đầu lưu luyến ấy”; chàng họ Hồ khi lưu lạc đến xứ Thần kinh thơ mộng của tôi, đã thật thà khai báo “thất tình” với những chi tiết “hỉ, nộ, ái, ố, sầu, bi, dục”… của đời chàng. Chu đáo ở đây tôi muốn nói là chàng “lì xì” khá rộng rãi cho hai me con đủ điều kiện vật chất để mạnh dạn thay chàng qui cố hương! Bởi vì chàng vẫn chưa có hứng khởi trở về. Nơi ấy đã gây ra lắm hệ lụy thương tâm mục não khiến trái tim chàng hay nhức nhối khó chịu mỗi lần nhớ tới quê hương!
Tại nhà ba tôi ở Phường Ðúc, Long Thọ, me con tôi bàn định việc rút ngắn thời gian lưu lại cố đô, để dành ngày cho việc thăm quê nội Mina. Ông ngọai Na ân cần gửi lời thăm hết thảy bà con của chàng rể họ Hồ. Từ mấy chục năm nay bố Na đã là rể quý của nhà họ Phan mà! Sau khi Nam Bắc phân chia giới tuyến, vào năm 1958 nhà tôi đã vượt tuyến qua đường Lào (leo rừng băng suối Trường Sơn) để tìm tự do ở miền Nam. Khoảng đầu năm 61, chúng tôi quen, thân và thương yêu nhau thời kỳ sinh viên thơ mộng ở Ðại học Huế. Ðám cưới đã xảy ra vui vẻ náo nhiệt dưới sự chứng kiến của các linh mục. Trước hết phải kể đến như Viện trưởng ÐH Cao Văn Luận, người cha đỡ đầu cho cả hai đứa tôi học ở Ðại học cho tới lúc tốt nghiệp. Rồi cha Nguyễn Hy Thích, giáo sư dạy tôi ở Văn khoa, vốn là người bạn vong niên thân thiết cuả gia đình. Hôm lễ cưới ngài đã mang tới tặng một cặp câu đối thiệt dễ thương. Tôi còn nhớ rõ hai câu thơ đối rất chỉnh, tự tay cha viết và đề trên hai mảnh sáo tre sơn màu xanh lục non trang nhã:
“Hồng lĩnh Lam giang Hùng tuấn kiệt.
Bình sơn Hương thủy Mộng Hoàn viên”
Ngoài ra có cha Phan Ðình Bố (bác ruột cô dâu) làm linh mục chủ tế, cha De Leffe thuộc Dòng Tên Pháp đại diện Nhà trai, chủ hôn, vì chàng rể vốn là sinh viên trưởng tràng ở Foyer Xavier, nơi ngài là giám đốc. Rồi đến cha Nguyễn Văn Trinh trẻ trung, là Tuyên úy đoàn Sinh viên Công giáo Ðại học Huế. Cha Hưng Bề Trên Dòng Chúa Cứu Thế Huế, người đỡ đầu chú rể từ cái hồi bơ vơ vào miền Nam cũng trong họ nhà trai! Tôi phải khoe ầm ĩ như rứa để nhấn mạnh rằng cuộc sống lứa đôi của chúng tôi đã được kết hợp keo sơn trong ơn nghĩa Chúa vì vây bọc quanh tụi tui toàn là cha cố! Câu chuyện tôi muốn viết lại hôm nay mở đầu sẽ dài dòng khi kê khai lý lịch với bạn đọc. Từ từ tôi sẽ nhẩn nha kể mấy chuyện vui vui trong chuyến Trung du này.
Chuyến tàu hỏa nhanh xuất phát từ Huế khởi hành vào khoảng 10 giờ tối hôm ấy, chúng tôi lấy vé loại “ghế mềm”, là ghế có bọc giả da và có thể nâng lên hạ xuống
để mình có thể nằm hay ngồi tùy ý. Vì gần đến Tết Âm lịch, nên khách đi làm ăn xa tận trong Nam đổ về quê ăn Tết chật ních các khoang. Tàu tên là nhanh nhưng chạy xình xịch, lắc lư êm êm như đưa võng nên tôi đánh được một giấc ngủ ngon lành. Nửa khuya đang mơ màng giấc điệp tôi choàng tỉnh vì mùi thức ăn bốc lên thơm lừng cả không gian và nhất là bởi âm thanh rao hàng vừa chua lét vừa nặng chình chịch của mấy cô ngoài ta đang hăng hái đẩy xe “bồi dưỡng” cháo gà ngoại vi (tức khách ăn phải trả tiền, vì trong vé chỉ phục vụ một bữa ăn tối sơ sài). Mọi người quanh tôi đều thức dậy hăm hở kêu và chờ thưởng thức, có vị hăng hái làm liền vài tô! Tôi cũng “đúng cái boại” lắm chứ, nhưng rụt rè không dám tham gia với bà con; lý do Mina ngầm ra dấu lắc đầu, và lưu ý tôi chú trọng vào cô hàng cháo.
Cô ta dáng người phốp pháp, tay chân lanh lẹ, cười nói thoải mái khi phục vụ thực khách. Cô ta mang tạp dề đàng hoàng đúng phép vệ sinh quốc tế, nhưng hai bàn tay cục mịch thoăn thoắt bốc thịt gà đã xé tơi từ cái mâm khổng lồ cho vào tô thì rõ ràng không chịu đeo găng bảo hộ! Tôi tiếp tục chìm vào giấc Nam kha, hình ảnh con gà mái tơ mượt mà thịt mỡ bóng nhẫy đang bay lượn cùng rau răm và tiêu muối hấp dẫn ngon lành. Trời bên ngoài xe lửa chìm trong bóng đêm, còn tôi mê mải giấc mơ màng.
Thời gian tàu chạy e đến cả chục tiếng đồng hồ mới tới nơi. Ga Vinh ồn ào náo nhiệt người đón kẻ đưa. Hai me con thong thả di chuyển loanh quanh dưới hàng cây xanh um trồng ngăn nắp trong khuôn viên láng xi măng sạch sẽ của sân ga thoáng mát. Tôi phải dạo chơi cho giãn gân cốt sau gần chục tiếng nằm cứng trên tàu. Lúc này mới 6 giờ sáng. Chúng tôi lạ nước lạ cái đâu dám tự ý xông pha như lúc về Huế là nơi thân quen của mình. Chú em Út ruột bên chồng hôm trước đã phôn dặn dò kỹ lưỡng rằng: “Chị và cháu “nhất trí” ở yên trong nhà khách thuê tạm trên lầu 2 khách sạn Ga, chờ em tới đón mới được ra khỏi phòng, “nhất trí” như thế nhé...!” Thế nên chúng tôi dư giờ tham quan. Chúng tôi không tốn tiền thuê phòng nhốt mình trong khách sạn khi phải “nhất trí” nghe theo lời chú em, trái lại lo “tranh thủ” giải quyết vấn đề vệ sinh húy tiếu cá nhân. Từ bên kia ½ quả đất tôi đã từng nghe các lời đồn đãi có thiệt, rằng nơi đây Rest room là chuyện phong kiến và hoàn toàn xa xi phẩm! Chắc chắn ở Ga sẽ không thiếu phương tiện tế nhị này. Nhưng mà bạn phải nhớ luôn luôn trữ sẵn tiền nhỏ trong túi ạ. Nhân viên trực diện ở đây sẽ vui vẻ thu lệ phí khi trao cho khách mẩu giấy báo in chữ đen xì, để mình vào xài free cầu tiêu. Tuy nhiên bạn sẽ không dám đụng chạm đến “hắn” (tức giấy báo) vì thế bạn luôn phải nhớ đem theo giấy “cuộn” bán khắp nơi. Những cuộn giấy súc xinh xinh nhuộm màu hồng, xanh lơ, lục thắm mát mắt và vô cùng tiện dụng mọi sự mọi việc cho du khách trên khắp nẻo đường đất nước.
Cuối cùng thì người hướng đạo viên cũng xuất hiện: chú Lĩnh.
Tôi còn nhớ như in sự tích người em chồng này qua lời kể lại khúc chiết của nhà tôi. Vào năm xảy ra cao trào đấu tố địa chủ và cải cách ruộng đất năm 1953, thì ông nội các con tôi là người đầu tiên lãnh án chết vì tội Ðịa chủ. Cụ phải xử bắn tại chỗ sau khi “được” nhân dân kể cả bà con xa gần tích cực hưởng ứng việc kể tội ông cụ. Những tội lỗi dựng đứng nên cốt để gây phấn khích cho người tham dự lễ “khai phóng nhân dân dành lại quyền làm chủ từ lâu nay đã lọt vào tay những kẻ giàu có”! Chú Lĩnh chào đời năm 1951 và mồ côi cha lúc lên ba. Sau đó mẹ chồng tôi vì uất ức lẫn thất vọng khi thấy mình bất lực vì cảnh đời cùng cực nheo nhóc của lũ con thơ, bà đã quẫn trí quyên sinh. Sau đó chú Lĩnh được lén lút cho làm con nuôi một nông dân nghèo hiếm muộn ở một làng xa trong Huyện. Chú phải thay tên đổi họ để may ra tồn tại trên quê hương khắc nghiệt của cha ông mình. Cuối năm 76, chú út họ Hồ đã chịu khó lặn lội từ quê xứ Nghệ tìm vào Nam xuống tận miền Tây (Tà Keo-Rạch Giá) để thăm ông anh cả, tức nhà tôi lúc đó đang mưu đồ tìm cách cho gia đình thoát vòng kiềm tỏa của chế độ XHCN-CS. Chú chỉ ở chơi tuần lễ rồi lộn trở ra Bắc, vì chú còn vợ con đùm đề ngoài ấy, đâu dám đành đoạn ở lại tham gia cuộc vượt biển của ông anh. Hồi đó tôi thấy người em chồng này vạm vỡ, to khỏe như chàng Samson, nghe đâu chú thím ấy đã có 4 mặt con dù tuổi đời mới 25! Thế mà nay, gặp lại sau 22 năm chia tay, trông chú Lĩnh già và khắc khổ đi nhiều. Với cuộc sống lam lũ của nghề nông, nhà một vợ 6 con, suốt ngày lăn lộn ngoài đồng ruộng để kiếm hột gạo, biểu làm sao chú ấy không cằn cỗi!
Từ Ga Vinh, chúng tôi ngồi xe ba-gác-đạp di chuyển đến trạm xe đò, cách đó khoảng 10 phút đồng hồ. Tôi ngồi trên thành gỗ xe lắc lư, nghiêng ngó quan sát thành phố đang phất lên sau chiến tranh. Nhà cửa toàn là những building kệch cỡm xây san sát bên nhau, nằm ven hai bên lề con đường rộng, xe cộ chạy ngược chiều nhau có vẻ trật tự, chứ không xô bồ hỗn tạp như Sài Gòn hay Hà Nội. Khi chờ chuyến bus về quê, tôi ngạc nhiên thấy mấy thiếu nữ diện như... Mỹ! Một cô mặc quần tây bó sát, chân mang “ghệt” da cổ ngắn, tóc tai thật bụi, dáng đứng nghênh ngang. Tôi lắng tai nghe, giọng nói vẫn mang âm sắc nặng-quê như mọi người đang lố nhố quanh mình. Mãi sau tôi mới vỡ lẽ rằng, Vinh là thành phố ngã ba giao lưu giữa những luồng văn minh hiện đại của Nam Bắc Việt Nam ngày nay. Hèn chi thanh niên ở đây lại không tránh khỏi ảnh hưởng, mà chưng diện theo kiểu dân nước ngoài.
Chiếc bus trờ tới, chúng tôi nhảy lên chiếm chỗ khoảng giữa xe. Nói là bus chứ thiệt tình chỉ là chiếc xe đò cổ lỗ sĩ mình quen thấy ở miền Nam, loại xe đò “cải tiến” chạy bằng than củi đốt sau 75. Xe hẹp bề ngang, ngắn đòn bề dài với những hàng ghế gỗ xộc xệch, lớp da giả bọc ngoài đã biến mất tiêu có lẽ từ cái thời kháng chiến chống Tây. Hai me con tôi ngồi cùng băng với hai người cán bộ ăn vận lịch sự. Trời nắng chang chang, hai vị diện complet đen sì. Mỗi người mang một cặp samsonite thiệt oách đặt khư khư trên đùi, tôi để ý trên quai xách của mỗi chiếc cặp có thắt một cái khăn lông trắng cỡ vừa. Xe chạy chừng nửa tiếng đã chật như nêm, vậy mà bà chủ xe vẫn tiếp tục từng lúc dừng lại để rước thêm khách và hàng. Dưới chân chúng tôi lèn chặt hàng chục bao muối to cỡ bao gạo 100 kilô. Xích lên vài ghế đằng trước là vài chục bao phân bón. Xa xa phiá sau kể không xiết bao nhiêu là lúa, gạo, hàng hoá linh tinh. Tôi đã kinh hoàng tột độ khi xe ngừng lại để mải miết bốc thêm những người và gồng gánh tôm, cá, rau, cỏ và tất cả người vật hàng hóa ấy đều được chất lên cho ngồi trên nóc xe! Lạy Chúa tôi! chắc là con chết mất vì cả “hương hoa” đất nước qui tụ hết nơi chuyến xe đò mùa xuân này!
Mina tái mét mặt mày vì ở mỗi khúc quành chiếc xe hàng lại nghiêng một góc độ đáng sợ, và không biết nó sẽ lăn kềnh ra lúc nào! Ðường từ Vinh về quê Tăng Thành gồ ghề, nhựa đường đã lóc ra từ đời thuở nào, trơ ra gạch đá lỗ chỗ như ổ trâu, nên xe chạy tha hồ xóc mình như người ta xóc rượu pha. Mina thì thầm, “Me! Mình xuống kiếm xe khác đi, nguy hiểm quá!” Tôi chịu không nổi đã la lên: “Dừng xe, trả tiền lại, tôi kêu công an phạt bây giờ!” Xe vẫn chạy, mụ chủ cười nhăn nhở, tiếp tục bay lên lượn xuống qua lại trên người hành khách để hăng hái thu tiền vé. Áo quần tôi ướt đẫm mồ hôi. Chúng tôi đã thay đồ bà ba trong chuyến đi này, cốt để tránh con mắt cú vọ của công an giao thông sẽ chém tiền mình gấp đôi! Khách nước ngoài về trên thực tế đã phải mua vé double! Trong khi thông cáo nhà nước chỉ thị rõ ràng: Mọi hành khách không phân biệt trong và ngoài nước đều hưởng đồng giá tiền trên mọi tuyến xe tàu!!! Càng trưa trời càng nóng bức. Thời tiết mùa xuân mà gay gắt như nắng hạ. Thêm hai ông cán cuốc ngồi sát mình, cứ oang oang chuyện trò, còn phì phà thở cho khói thuốc um lên và hôi như cú! Các vị ba hoa tán láo chuyện họp hành đảng điếc làm mình thêm sôi máu, muốn điên lên. Lâu lâu họ lôi cái khăn lông trắng từ quai chiếc samsonite lên lau cổ, lau ngực, lau mặt mày đang tuôn chảy mồ hôi dầm dề. Quả thật là tiện dụng với chiếc khăn lông máng trên quai samsonite!
Cuối cùng thì xe cũng ngừng cho chúng tôi xuống khi ngang nhà chú Lĩnh, sau gần 4 giờ đồng hồ trên đoạn đường chưa tới 60 cây số. Ngay xế trưa hôm đó, khi tôi vừa chợp mắt ngủ một chút thì bà con bên chồng đã nườm nượp kéo tới thăm hai me con tôi. Vì Mina năn nỉ, chúng tôi quyết định chỉ lưu lại quê nội tụi nhỏ 2 đêm 3 ngày (Mina đã dò hỏi ra chuyện ở đây “vắng nhà vệ sinh”, mà cô bé thì chỉ có thể “bế quan tỏa cảng” trong vòng vài bữa!). Chú Lĩnh huy động bà con nên tranh thủ tụ họp tại nhà chú để “xem mặt” chị dâu và cháu gái từ “Mỵ” về.
Nhà chính của chú Lĩnh là một căn nhà ba gian hai chái, xây bằng gạch vồ chắc chắn, trên một nền cao có ba bậc chạy dài trước hiên tô xi măng láng bóng. Tôi đã nghe nói rằng toàn bộ ngôi nhà này đã từng di động 3, 4 lần từ đồng bằng lên vùng núi rồi xuống trở lại đây. Chủ nhân và vợ con đã kiên trì chuyên chở rui mè, cột kèo, gỗ đá an toàn đi khắp nơi không biết mệt! Tôi cảm khái cho thành tích phi thường đó của “nhân dân” quê “bác”. Thời gian và trót đời của họ chỉ phấn đấu cho miếng cơm, manh áo và nơi trú ngụ. Vào nhà, nơi gian giữa trên một bệ ximăng cao hơn thước tây, có nắp đậy bằng gỗ, vuông vức khổng lồ choán hết gian, là chỗ đặt bàn thờ bố chồng tôi. Trong khuôn ảnh bán thân, ông cụ tóc hớt carê ngó vẻ phương phi của người nông dân chất phác, lương thiện. Trông ông không có chút chi là người đoản mệnh! Vậy mà cụ đã bị bắt phải chết đúng tuổi 53 vào năm 1953 vì tội địa chủ!
Mina lúi húi sắp xếp lên diã cúng nửa tá xâu nem chua Huế, và chồng gói mè xửng Song Hỷ của ông ngoại cháu gửi ra làm quà. Thấy tôi nhìn lạ lùng vào bệ thờ to tướng, thím em dâu liền giải thích, đó còn là kho thóc giống, nhà trữ sẵn cho mùa gieo luá sắp tới! Buổi trưa khi ngả lưng nghỉ mệt, tôi theo dõi mấy con chuột nhắt tự do leo trèo lên xuống vui vẻ khắp nơi. Mới ra Giêng mà khí trời oi bức, từng đàn nhặng xanh vù vù bay quanh quất. Ban ngày để an toàn ngủ, Mina phải xin được giăng mùng!
Xế trưa hôm ấy, tôi bị đánh thức vì tiếng la hét ồn ào của bầy trẻ con, là lũ cháu từ các nhà bà con kéo về thăm “mự”, thăm bác, thăm bà... (là tôi). Chúng chạy đuổi bắt nhau tưng bừng trong khoảnh sân ximăng tô phẳng phiu trước hiên nhà. Mina và cu Thỏa, con trai chú Út đang trải chiếu nơi sàn nhà để đổ ra trên đó cả núi áo quần, mà tôi đã đóng thành hai thùng mỗi cái hơn 30 kilô, theo giới hạn của hải quan, để mang về cho mọi người trong họ. Như kinh nghiệm bạn bè đã từng về thăm quê khuyên, quần áo là loại qùa thực tế không vô ích. Ai cũng hài lòng nhận tặng vật. Bộ veston sẫm màu vừa khít trên người chú em, cổ chú quàng cái khăn len kiểu cách. Chú đi lui đi tới, săm soi ngắm vuốt, hệt chàng trai mới lớn. Bà chị thứ hai của bố Mina, mặt mũi hiền lành, bà giống đúc my husband. Ðến thăm em dâu, bà diện áo dài nhung tím, tóc vấn khăn nhung đen, nhưng trông bà có vẽ hững hờ, ngồi lim dim theo dõi cuộc chia quà náo nhiệt. Tôi đến bên bà, cười lấy lòng người chị chồng coi bộ khó tính, rồi dúi vào tay bà hộp quà nhỏ bằng giấy bìa cứng, nhà tôi đã chọn riêng trước mắt hai cái ổ khóa kim loại trông thật “kiên cố” cho nhiệm vụ “bảo hộ” tài sản! Bà cụ chớp mắt, như muốn ngăn giọt lệ cảm động đang ứa ra, bà nói với tôi: “Mự” biết không, cậu ấy vẫn nhớ đến sở thích của bà chị già này. Lâu rồi khi kể về các chị em mình, nhà tôi vẫn cười về cái nết cẩn thận của chị thứ hai, luôn ước ao có ổ khoá thiệt “đảm bảo” để khóa tủ, khóa cửa!
Quanh tôi những thằng cu con hĩm bé lóc chóc cố mặc chồng lên người bao nhiêu váy áo màu sắc tươi vui đặc Mỹ. E đến non hai mươi đứa, mỗi đứa được ba bốn món. Tôi nhớ lại tháng trước tôi đã tỉ mỉ chọn lựa những quần áo đem về, cố nhét càng nhiều càng tốt lèn chặt vào thùng quà bao nhiêu là T-Shirt, quần Jean, sơ mi, áo đầm, veston, đồ len... Nay thì tôi vui vì công lao của mình không bị hất hủi, chê bai như vài thành viên trong gia đình tôi bên ấy đã bi quan tiên đoán.
Ngay lúc mới tới, tôi đã trao cho thím em dâu nhiệm vụ chiêu đãi bà con. Cho nên tối hôm đó sau nhà bếp đã nghe vang lừng âm thanh của lũ gà vịt bị chọc tiết. Bầy gia cầm mới hồi chiều còn thấy buộc chặt chân cẳng nằm la liệt đầy sân, chúng đưa mắt ngơ ngác dòm tôi, người khách lạ oan khiên, vì tôi, chúng sẽ bị hóa kiếp. Tinh mơ hôm sau trời còn nhá nhem tối, mấy mẹ con cu Thỏa đã lao xao sinh hoạt dưới căn bếp nhỏ mà qua cửa sổ nhà trên, tôi thấy ánh lửa bập bùng, tiếng nói chuyện rì rầm, giọng cười khe khẽ của các cô em dâu, em chồng hấp dẫn tôi chổi dậy, định xuống đó góp chuyện. Gà trong xóm thi nhau gáy râm rang, từng chặp rồi liên hồi. Lòng tôi nao nức theo âm sắc lanh lảnh ấy. Tiếng gà gáy, bếp lửa hồng, sương mai lãng đãng... tất cả cái ấy đã làm òa vỡ trong tôi nỗi thương nhớ vô bờ. Tôi đang thực sự hiện diện giữa lòng quê hương, tôi đang thở hít làn không khí trong lành nơi thôn xóm hiền hòa quê chồng. Nhưng chợt một lúc tim tôi nhói đau khi sực nhớ rằng không gian thanh bình này cách đây gần nửa thế kỷ đã từng u ám vì một tai họa khủng khiếp đã xảy ra. Ðại gia đình chồng tôi từ đó mà tan nát đến cùng cực, nhân cớ kinh hoàng ấy đã xui khiến nhà tôi rời bỏ nơi chôn nhau cắt rốn thân yêu, và đau đớn xa lìa quê cha đất tổ. Chàng thư sinh ẻo lả, ôm mộng vá trời lấp biển từ xứ Nghệ xa xôi vượt rừng leo núi, tìm đến miền Nam nắng ấm, chúng tôi đã gặp gỡ và nên duyên...
Cái nhân quả hệ lụy ấy mới xui khiến cho tôi phút giây này có mặt nơi đây. Tôi ngậm ngùi thương tiếc những người thân yêu đã khuất. Mơ hồ qua làn khói hương nơi bàn thờ, ánh mắt cụ thân sinh chồng tôi nghiêm buồn, hẵn giờ phút này hương hồn cụ đã khuây khỏa. Kỷ niệm chất ngất hận thù dần phôi pha. Kẻ ác, chế độ điên cuồng bất nhân rồi cũng phải bị bôi xóa theo định luật thời gian.
Buổi tối đầu tiên, tôi ra ngoài sân ngắm trăng. Chị Hằng nga mơ màng ngự giữa bầu trời trong vắt. Không gian bao la, lững lờ vài thoáng mây nhè nhẹ trôi. Gió đêm hây hẩy xua giùm tôi lũ muỗi ác ôn từ khắp nơi cứ chực xúm vô tấn công da thịt mình. Mina đã an toàn chui vào trong mùng để chống muỗi từ chặp tối. Hương đồng quê nồng nặc xông lên khi tôi đang thả hồn mơ mộng, vì trước mặt tôi là cánh đồng luá trải dài đến vô tận, sao mà thanh bình thế. Thím em dâu hét lanh lảnh biểu mấy đứa con, “Chất rơm nhiều nhiều nữa vô chuồng lợn, kẻo bác chết mất!” Cu Thỏa hớn hở cười với tôi vừa cầm cây nạng xóc rơm chạy đi tích cực thi hành mệnh lệnh.
Chuồng heo nằm cạnh gian bếp, là địa điểm của “kinh tế chủ lực” của gia đình chú em chồng. Nếu không có đàn lợn, họ sẽ vô cùng chật vật trong nếp sống hàng ngày. Nuôi lợn, sẽ có phân để tưới bón hoa màu phụ sau luá, lợn nái đẻ con sòn sòn, ta sẽ bán đàn con khi đã nuôi vỗ cho chúng lớn mập, như thế may ra kiếm thêm chút ít tiền để năm thì mười họa bưã cơm có tí thịt mỡ. Vì thế “dạ-trư-hương” đã khuấy động làn không khí trong lành của cảnh đồng quê thơ mộng của du khách tôi! Bởi vì, mặc dù quanh năm suốt tháng, chú Út dãi dầu mưa nắng ở ngoài đồng từ lúc trời chưa rạng mặt cho đến khi trời nhá nhem mới mò về nhà để ăn bữa tối, mà số lúa thu hoạch chỉ vừa giữ lại làm lúa giống và đủ nạp thuế cho nhà nước!!! Cũng vì hoàn cảnh sống cơ cực như thế, càng ngày dân quê càng tìm cách thoát khỏi làng xóm ra mưu sinh ở thành thị.
Chiều thứ hai ở quê nội Mina, khách phương xa liền được “lệnh sau” đòi. Tôi băn hăn bó hó không biết xoay xở làm sao. Mãi sau phải “bật mí” với cô em chồng nỗi niềm tâm sự. Cô Miều liền hướng dẫn khách ra chuồng heo.
Chuồng lợn gồm hai ngăn, mỗi ngăn láng xi măng và rộng chừng 3 mét vuông, ngăn bên kia nuôi heo, bầy heo đang sức lớn, thấy người lạ thi đua la eng éc. Ngăn bên này dùng chưá rơm rạ, sau mùa gặt nên chất cao như núi. Trong bóng hoàng hôn chập choạng, khách mơ hồ nhận ra mấy thanh gỗ dầy dặn bắc dọc dưới chân mình, hở ra từng kẽ hở song song cách nhau chừng gang tay. Khách hoảng hồn nhắm mắt làm “nghĩa vụ”, không dám trông ngang trông ngửa, tay lo níu chặt vào cọc rào trước mặt, cứ sợ dại lỡ hụt chân xuống... e chết mất! Tôi thở phào sung sướng sau 30 giây đứng tim. Tình huống đó đã làm tôi nhất quyết từ chối lời mời mọc tha thiết của lũ cháu, đã không dám ăn món khoai lang luộc nổi tiếng của quê chồng. Những củ khoai lang bột, tròn, chắc trồng ở đây, luộc chín, nóng hôi hổi gợi thèm, nhà tôi hằng quảng cáo là ngon nhất nước! Nếu tôi nhẩm xực, sẽ nhuận trường, sẽ tha hồ thăm viếng chuồng lợn, nơi trữ phân tươi rất thiên nhiên và vô cùng tiện dụng!!! Cũng vì lẽ đó, suốt thời gian còn lại ở quê Yên Thành, tôi chỉ cầm đũa để lịch sự mời bà con đến thăm, họ luôn có mâm cỗ ngon lành mà thím em dâu sẵn sàng dọn ra để chiêu đãi nồng hậu.
Mới 6 giờ sáng, gia đình người em họ của nhà tôi đã xuất hiện nơi ngưỡng cửa. Tôi quýnh quáng trở dậy, vội vàng đi xuống sân sau, nơi có đào cái giếng nhỏ, định lo làm vệ sinh cá nhân. Chú Út ngăn tôi lại và trịnh trọng đưa cho tách trà đựng nước trong. Chú nói, “em đã nấu nước sôi cho chị dùng đánh răng”. Tôi trợn mắt ngạc nhiên. Chú bảo, “nước giếng bẩn chỉ để rửa dọn. Nước sạch các cháu lên chùa lai về”. Chú tiếp khi đọc thấy vẻ ngại ngùng trong mắt người chị dâu. “Chùa cũng gần đây thôi, đạp xe chỉ vài phút là tới chị ạ”. Tôi nhìn trên mặt bàn kê đầu giường ngủ thấy một dãy phích nước sôi xếp hàng ngay ngắn cạnh nhau. Thì ra chú em đã chu đáo lo việc nước non thù tiếp khách phương xa. Hèn chi, trưa hôm chúng tôi vừa đến đây, người em dâu vội vàng phóng xe mất tăm, khi thím ấy về nơi yên sau thấy có đèo bình nhựa trắng lớn. Thì ra chủ nhà phải lấy nước sạch mất công như thế.
Họ đã đun nước sôi cho chúng tôi pha tắm. Tôi đứng trong phòng tắm lộ thiên có 3 bức vách che chắn ngang quá ngực mình, bức thứ tư khỏi cần lo ai dòm tới vì nó xoay về hướng cánh đồng bao la. Tôi vục gáo nước vào lu đã pha nước ấm, dội lên người mình, mấy cọng tàn rơm bám lên da cho tôi cảm nghĩ hương mùa gặt của quê chồng sao mà gần gũi và thân thương đến thế. Tôi bùi ngùi suy gẫm, cho mãi cuối thế kỷ 20, nơi chốn quê của lãnh tụ “bác”, nhân dân ta vẫn còn quanh quẩn sống nếp đơn giản của thời kỳ “hồng hoang thời đại”!
Trọn ngày thứ hai ở đây chúng tôi được gia đình người em họ, là cán bộ xã ấp “lai” bằng xe Dream đi nhiều nơi, thăm bà con gần, thăm mộ ông bà nội Mina. Khi đoàn xe ghé vào khu đất nơi xưa là cơ ngơi của ông Hồ Châu, tôi được kể cho biết khuôn viên mênh mông của gia sản họ Hồ Yên Thành nay chỉ còn một rẻo nhỏ, là mảnh đất tí teo nằm như khuôn in viền sít lấy ngôi từ đường của dòng họ mấy đời. Ngoài ra tất cả đã biến thành mây khói phù du vào tay nhân dân qua bao cuộc thanh toán từ cái hồi cải cách ruộng đất năm 53 đẫm máu.
Xe Dream đèo tôi lướt nhẹ trên con đường trải nhựa lỗ chỗ đất đá, dọc theo con kinh thoáng, nước chảy lặng lờ, ôm ấp bởi những bờ đê xây bằng đá là niềm hãnh diện của chính sách thủy lợi, chạy thẳng tắp suốt cả thị trấn. Tôi chưa được nhìn ngắm dòng sông Lam kiêu hùng với sóng vỗ cuồn cuộn của quê hương Uy Viễn tướng công (Nguyễn Công Trứ), tôi chỉ được thấy mơ hồ trong sương mai những nét núi nhạt nhoà của dãy Hồng Lĩnh trùng điệp, xứ sở bạt ngàn của Nguyễn Du. Quê hương của tác giả Truyện Kiều thực sự chỉ có trong ảo tưởng của thời cắp sách của mình. Hóa cho nên không gian ấy đã biến đổi đến đau lòng.
Trong mơ mộng tuổi học trò, tôi đã chỉ hình dung quê hương thi sĩ Tiên Ðiền qua những trang thơ Kim Vân Kiều Truyện! Thế nên qua cuộc thăng trầm dâu biển của nửa thế kỷ, quê chồng tôi, vẫn chỉ thô sơ với làng mạc nghèo nàn, hàng trăm ngôi nhà gạch thấp sát đất mái ngói đỏ au, luôn luôn đằng trước là khuôn sân ximăng nhỏ và bao giờ trên ấy cũng phơi phóng một thứ thực phẩm gì đó (đậu, mè, ngũ cốc...).
Chỉ có một lúc khi xe chạy qua trường cấp ba đang giờ tan học, tôi thấy lòng vui vui vì len lỏi giữa hàng trăm người tuổi trẻ, nữ sinh áo dài trắng, nam sinh sơ mi trắng quần tây xanh, các em nô nức nói cười vui vẻ. Nhưng liệu trong thực tế họ có nắm giữ được tương lai? Bởi vì chiều hôm cuối cùng ở đây, đứa cháu trai kêu tôi bằng mợ đã tâm sự về việc cậu bé đã từ lâu tốt nghiệp cấp ba, đã hai lần thi hỏng vào Ðại học. Lần tới sẽ chuyển đổi thi vào sư phạm, cậu ta chỉ ước ao may mà thi đậu, sẽ ra trường trở thành giáo viên phục vụ... miền núi. Thế nhưng theo như tôi thăm hỏi thì mặc dù gay cấn “đầu vào” nhưng “đầu ra” càng khó khăn gấp trăm lần. Bởi vì ăn chắc may ra chỉ có con nhà cán bộ giàu có, sẽ kiếm được job ngon lành!
Buổi xế trưa đứa cháu đèo tôi bằng xe đạp lên thăm Nhà thờ Bảo Nham. Ngôi Thánh đường kiến trúc theo kiểu Gothic, toàn khối đá màu xám buồn nằm bề thế trên một ngọn đồi cao. Tháp chuông thanh thoát vút lên giữa nền trời xanh lơ. Khi tôi tìm vào khuôn viên Nhà thờ, tôi thấy sân trước sân sau gì đều phơi kín trong những nong đan bằng cật tre lớn bao nhiêu là khoai lang xắt lát. Tôi len chân qua những nong khoai khô nằm la liệt ấy để tiến vào bên trong giáo đường. Tôi ngạc nhiên nhận ra toàn bộ kiến trúc của ngôi thánh đường được xây bằng đá lớn màu xám có chen vân trắng. Những bức tường xây bằng đá khối hình chữ nhật, hình vuông trơn láng sờ đến mát tay, tôi không hiểu làm thế nào người ta đã có thể chuyên chở lên tận trên cao này để xây dựng ngôi Thánh đường đồ sộ này?
Tôi qùy trước tượng Ðức Mẹ bồng Chúa Giêsu Hài đồng để cầu nguyện. Tôi chia trí khi nhìn thấy hầu hết tượng ảnh chưng khắp bên trong Nhà thờ giăng mắc những tơ nhện dơ bẩn. Hoa nilông cắm trong các bình gốm phủ đầy bụi. Hình như ít ai chú trọng đến việc săn sóc ở nơi phụng tự tôn nghiêm này. Tôi theo những bậc thang hẹp cũng được xây bằng đá lớn, leo loanh quanh theo tay vịn uốn khúc mãi, tìm lên tầng lầu cao chỗ dành cho ban Thánh ca. Căn gác nhỏ xinh xinh có lẽ ít được sử dụng đến vì tôi thấy bụi bặm phủ dày khắp nơi. Khi mở khung cửa hẹp mà cao lên tận trần gác, tôi ngó ra khoảng không gian bao la trước mắt mình. Dưới kia là nhà cưả ruộng đất nhỏ tí. Hàng trăm ngôi nhà gạch vuông vức thấp bé như nằm dí sát đất, và trông chúng giống nhau như khuôn đúc, đàng trước nhà nào cũng có mảnh sân phơi thóc. Những cánh đồng xanh tươi bát ngát chạy đến tận chân trời, hứa hẹn những mùa bội thu, vậy mà tại sao nông dân ở đây vẫn không no đủ? Tôi vừa băn khoăn lo nghĩ vừa leo xuống khỏi lầu nhạc theo hàng chục bậc thang đá cao và dốc ngược. Những bậc đá kiên cố này tự dưng xui tôi mơ màng đến những tháp chuông cổ kính thời phong kiến bên Âu châu, đến câu chuyện tình lãng mạn và đau thương của cặp tình nhân Roméo Juliette.
Trước khi về lại nhà chú Lĩnh, tôi ghé vào bưu điện gọi phone vô Huế tin cho bạn giờ ra đón hai me con ở Ga. Cô nhân viên nhanh nhẹn phục vụ khách, khác với cung cách làm việc của bà cán bộ sồn sồn bán vé ở Ga xe lửa Vinh vào Huế. Khi đến phiên mình, tôi đã phát hoảng vì bà ta la lên “Tiền giả!”. Tôi ngạc nhiên cãi lại, vì làm sao có được chuyện đó, bà cán bộ trợn mắt trừng trừng nhìn tôi rồi dơ cao tờ giấy bạc 50 ngàn VN lên trời, mụ ta không thèm nói chi thêm. Người khách đứng cạnh thúc mạnh vào hông tôi và nói sát vào lỗ tai, “chị khôn hồn thì im đi, kẻo họ nổi hứng giữ lại tra hỏi lôi thôi”. Thế là tôi ngoan ngoãn rút tờ bạc khác mới tinh thay vào tờ giấy bạc giả, để mua 2 “ghế cứng” và lui ra.
Sau đó chúng tôi săm soi quan sát “hắn”, hình “bác” in chìm đã không hiện ra khi mình đưa lên soi trên ánh sáng như những tờ giấy bạc thứ thiệt. Về sau tôi trả lại cho người bạn đã đổi từ tiền đô-la ra tiền VN cho mình để “bắt đền” lấy tờ khác. Nhưng chị bạn tái mặt chịu thua, bởi vì cái mụ-cô-bà cán bộ đã mạnh tay quẹt sổ tàn nhẫn bằng bút bic lên mặt tờ 50 ngàn tiền “bác” 2 chữ “bạc giả” to tướng! Tôi phải thông cảm người bạn không may, và chịu mất toi 4 đôla! Hồi đó giá 1 đô khoảng hơn 13 ngàn tiền “bác”. Chị bạn nói thỉnh thoảng cũng bị như thế, nhưng nếu tờ bạc còn nguyên lành, nghĩa là không bị “phê” ác như trên, chị sẽ giao lại cho người đổi tiền gốc để đòi tiền khác cho mình. Chị nói, giấy bạc giả xuất xứ do con buôn từ Lào đổ về!
Chú em theo lời tôi vội vàng chạy ra cưả hàng ngoài phố mua cho chúng tôi hai cái gối nhồi bông gòn, bởi tôi rất ngán khi nghe hình dung từ chỉ lô ghế mình sắp phải trải qua. Quả thật chuyến trở về Huế lần ni thiệt vô cùng đau khổ. Lần đi “ghế mềm” mua dễ, nhưng lần về đúng dịp bà con đi làm ăn xa kéo về quê ăn Tết nên dù có muốn mua chợ đen cũng đành chịu, tất cả đều dành cho cán bộ! Hai me con ngồi bó rọ trên băng ghế không có nệm và hoàn toàn sát nghĩa ghế cứng. Ðối diện là hai chú công nhân xây dựng từ Hà Nội. Ðó là hai anh thanh niên hiền lành, gốc Huế, ra Hà Nội làm việc, cuối năm mới về quê thăm vợ con. Họ ái ngại dòm chúng tôi cứ không ngừng xoay trở trên chiếc ghế hẹp. Tôi đã phải ngồi bắt chân lên choàng qua ghế đối diện, có khi tưởng nổi điên vì không chịu nổi tình cảnh này. Mọi người ngủ gật gù đầu cổ lắc lư va chạm vào nhau trông thiệt quái gở...
Còi tàu hụ lên hồi dài đánh thức chúng tôi dậy, năm phút sau tôi nhảy xuống sân ga, đêm Huế yên tĩnh đón tôi, làn gió mát từ sông Hương hôn lên má môi mình, thơm nụ hôn trìu mến.
Cuối tháng 5, Hè 2000, tại San Jose
Source : Hoàng hôn thôn Vỹ
Trang Phan Mộng Hoàn
art2all.net
PHAN MỘNG HOÀN - NHỮNG DẶM ĐƯỜNG QUÊ HƯƠNG
NHỮNG DẶM ĐƯỜNG QUÊ HƯƠNG
Cuối tháng 5/ 94. Tôi đa mang quá đỗi. Hai cái vali lớn hết chỗ để nhốt kín những nhớ thương trìu mến. Bạn bè, chồng con ai cũng có một cái chi gửi gắm về bên nhà. Và cứ thế tôi quay về cố hương sau hơn 3 năm 6 tháng ở quê người.
Mồng 8 tháng 6/1994. Mưa từng giọt bay bay, tàu xình xịch trườn đi. Cỏ cây ướt đẫm, man mác. Màu xanh bỗng dịu xuống khi cơn mưa tới. Tôi thấy thương quá túp lều tranh đứng chơ vơ giữa cánh đồng đất đỏ, mái rạ xám màu nắng mưa. Mảnh ruộng non mơn mởn mỉm cười. Đất ướt mềm và mấy bông lau phất phơ trước gió. Không gian ngất ngây mây trắng và dải núi tím nhạt từ phía xa quét một nét mơ hồ trên nền trời buồn buồn.
Ga sông Pha - Đọc lên nghe âm hưởng một nốt nhạc thanh. Con tàu bương bả đã chậm dần khi tới sân ga nhỏ. Tôi nhìn ra khoảnh vườn con thấy bầy gà chíu chít dành ăn. Một cậu bé đứng tần ngần bên hiên cửa dòm theo con tàu đi. Đôi mắt đen láy hiền như buổi sớm và mùa hạ chợt dễ thương như thế khi mưa về. Tàu đi giữa khu rừng lá. Màu xanh khít rịt với những thân cây gầy đứng chen chân nhau. Vòm lá đan kín che sầm cả bầu trời đang gay gắt nắng. Từng lúc tôi mỗi rời xa, bỏ lại sau lưng chòm xóm yên phận. Mấy người đàn ông gân guốc tấm ngực trần, lơ đãng giữa ruộng xanh. Cảnh đời lam lũ chịu đựng nơi góc đời buồn hiu. Quê hương gầy guộc vì hằng trăm, hằng ngàn mẫu đất chưa được vỡ hoang.
Ga Mường Mán - Tôi tò mò theo dõi qua khung cửa sổ, dưới kia nơi sân lát đá nham nhở, khách đi tàu bu quanh một gánh cháo gà. Con gà luộc khô khan nằm chổng gọng trên mâm nhôm, thỉnh thoảng được lôi xuống rưới lên mặt lớp nước lèo vàng ngậy những mỡ. O bánh hàng lanh tay xé tơi những mớ thịt trắng bệch bạc rải lên mặt tô cháo đục lờ, không quên rắc thêm chút vụn hành ngò che chưa kín mấy lát thịt gà hiếm hoi... Tự dưng tôi hết thèm ăn dù bụng đang đói cồn cào. Thau nước váng mỡ, vuông thớt nhỏ tanh tao. Cả giang sơn nuôi sống một đời người thu gọn nơi gánh quà rong khiêm tốn. Còi tàu rúc một hồi dài mệt mỏi, tôi thở dài, buồn vô cớ từ giã sân ga quạnh hiu...
Khi tới ga Tháp Chàm tôi nghe vẳng tiếng loa phát thanh nhắc nhở khách phải hạ chấn song cửa sổ. Trẻ con ở ven đường sắt ưa ném đá thường gây tai nạn bể đầu sứt trán. Trong bóng hoàng hôn chập choạng dăm ngọn tháp sù sì khắc khổ nhô lên giữa trời chiều cô tịch.
Ga Nha Trang. Tàu đến đây lúc 9 giờ tối. Đèn điện thắp sáng choang hiện rõ cảnh bán buôn tấp nập. Một dãy cửa quán treo la liệt hàng tạp hóa nhập từ Trung Quốc. Tôi thấy mấy chàng du lịch Ba-lô tóc vàng mắt biếc đang khua tay mà cả. Ngất ngưởng sau lưng họ là túi hành trang cao xấp xỉ người họ. Những du khách trẻ trung từ các miền đất nước xa lạ càng lúc càng có khuynh hướng đổ xô về quê hương mình thời mở cửa. Với nền kinh tế trị trường, nhân dân nao nức kiếm ăn. Tôi chợt buồn hơn là vui, có một vẻ chi đó không ổn khó tả lắm.
Rồi tôi thiếp đi trong điệu ru êm ả của tiếng máy nổ đều đều. Nôi tàu lắc lư nhè nhẹ. Tôi mơ màng nhớ lại tuổi thơ nào xa ngun ngút thuở mẹ hiền hời hỡi đẩy đưa tôi giấc ngủ yên lành…
Mồng 9 tháng 6/94. Nhìn đồng hồ tôi thấy kim chỉ 3 giờ rưỡi. Trời còn nhá nhem giữa sáng và tối, đẩy ngày tới trong chuyếnh choáng bước tàu đi lặng lẽ. Ga Diêu Trì thoáng sạch. Vẵng trong đêm sâu tiếng cô hướng dẫn vang lên rành rọt. Âm hưởng làn hơi Hà Nội sau 75 khiến lòng tôi chùng lại chút cảm tình vưà ngùn ngụt dâng lên “Xin qúy khách khẩn trương lên tàu, vì trong chốc lát chuyến tàu Sàigon Thống Nhất sẽ chuyển bánh đến ga cuối cùng là ga Huế...” Khẩn trương-tranh thủ-bố trí là những trạng từ luôn luôn kêu réo con người hăm hở lao tới hòng dành dựt một vị trí để tồn tại.
5 giờ thiếu 15, tôi choàng tỉnh cơn ngủ ngầy ngật. Dạ dày chợt co thắt làm mình nôn nao khó chịu. Tôi nhai mẩu bánh mì để cố trấn an cái bao tử dễ ghét của mình. Vậy là tàu đã đi hơn 8 tiếng.
Từ xa cuối chân mây bầu trời lộng lẫy màu vàng cam. Mây lớp lớp sáng lòa, hớn hở đuổi theo dãy núi lam nhạt. Hàng cây ven quốc lộ chạy giật lùi, kéo chạy theo những trụ điện cao vênh váo, trên đỉnh có bầy chim trắng đứng chụm đầu ríu rít. Bầy chim ngửa cổ hót, và những sợi dây triền miên nối liền ánh điện xuyên suốt theo mình con tàu đi...
Ga Quảng Ngãi lúc 8 giờ sáng. Tôi lướt qua trên chiếc cầu đen thậm thượt dài. Dưới xa là bãi cát vàng mênh mông. Dăm chiếc thuyền nan gắn hững hờ trên sóng nước lăn tăn. Mấy đứa trẻ con mải mê ngụp lặn trong dòng nước xanh mát rười rượi, bên cạnh chúng có con trâu già. Người và thú hồn nhiên vui sống. Ơi dòng sông quê hương đã khiến tôi xao xuyến nỗi luyến thương tràn đầy.
Trưa đứng bóng, con tàu trôi chậm và dừng hẳn ở ga Đà Nẵng. Nỗi xúc động oà vỡ trong tôi, khi trước mắt là mươi cậu học trò bé bỏng ngày xưa, chừ vụt hoá thành người lớn. Họ đến ga đón cô giáo trẻ là tôi nay đã luống tuổi chợt quay về thăm thành phố cảng. Có lâu lắc chi, mới hơn 19 năm về trước đó là những chú bé nghịch tinh từng chọc ghẹo mình khi tôi vừa bắt đầu học đòi nghề làm thầy. Hết sức vụng dại là tôi. Ngỡ ngàng bên bảng xanh, rụt rè và nắn nót ghi lên dòng phấn trắng “Giao lại tuổi thơ” cho học trò lớp đệ ngũ “Em 15 tuổi, em tuổi 20 đừng để mất một cái gì mà không hưởng...” Một tuần lễ ở Đà Nẵng là thời gian ngắn ngủi và đầy ắp những thăm hỏi trìu mến. Cái nắng nung nấu thịt da của xứ Quảng đã làm con người tôi tưởng chừng bị đốt cháy.
12 tháng 6. Những đốm phượng hồng rung rinh đưa tôi lên thăm Cổ viện Chàm. Nét cổ tích đọng lại nơi tượng đá vô tri. Dáng vũ nữ uốn mềm cánh tay trần ủ ấp và môi cười lặng lẽ. Trưa hạ trắng, tôi âm thầm len lỏi giữa u uất triều đại nào hoang phế. Ngày ấy xe ngựa rộn rịp nay chỉ là vết mòn của tháng năm, ghi dấu ấn mơ hồ lên mặt đá đen xám u buồn. Tôi thấy vui khi bỗng nghe tiếng một con chim hót lảnh lót bên ngoài khuôn cửa sổ, âm thanh sáng loá, ngời theo đợt nắng long lanh đang kéo về.
Sắp từ giã Đà Nẵng. Buổi sớm rực lên vẻ sinh động của một thành phố chuyển mình. Xe cộ, người ngợm chỗ nào cũng đông đúc ồn ào. Tôi chóng mặt trước tất cả và chợt giận dỗi như thử lúc gặp lại Sàigòn sau đúng 3 năm rưỡi xa cách. Thủ đô nước VNCH thanh lịch với những kiến trúc hài hòa của nền văn hóa Tây phương. Vẫn còn đó những nẻo đường tráng nhựa đen bóng êm ả đổ về ngã Nhà thờ Đức Bà. Tượng Đức Mẹ trắng toát như mỉm cười âu yếm với thế nhân phần lớn vẫn còn khó nhọc lo kiếm miếng ăn từng ngày. Tôi không thích nói tới cái lối giàu có nhanh như một cú sút Mundial 94 của một cầu thủ mang số 10 nào đó vào khung thành địch. Sàigòn lối ấy tôi không ham. Bởi nó đã cố tình góp nét xấu xí cho thành phố tôi hằng yêu mến của năm 20 tuổi làm quen với hòn Ngọc Viễn Đông và gần đây với 11 năm ròng rã làm Mẹ Mốc chống chọi những con người thiếu trái tim. Sàigòn hỗn độn quá quắt. Thành phố bị phanh thây xẻ thịt. Khi để đối phó với nạn tăng tốc khủng khiếp về dân số, đã phải phóng đường (cào bỏ bớt nhà để tăng thêm đường mới), đã mở thêm hằng trăm con lộ rối rắm để may ra tạo huyết mạch cho người dân Sàigòn luân lưu. Có một lúc tôi đã điên cuồng muốn làm một Néron bạo tàn. Để giải thoát cơn cùng cực ấy cho Sàigòn, phải cần đến một mồi lửa thần tốc, đốt sạch tất cả và làm lại từ đầu!
Đà Nẵng nhu mì hơn, nhưng cũng trên đà hỗn loạn với nạn người xe ít lúc ngơi. Rất nhiều nhà cao tầng dồn dập mọc lên làm cho thành phố biến dạng. Đặc biệt của quê hương hôm nay là nét thanh nhàn cố ý bày ra nơi những khuôn mặt tuổi trẻ đăm chiêu. Từ 6 giờ sáng đến giữa trưa, họ đã tư lự trước tách cà phê đen đặc như nỗi buồn khó khuây giải. Ở đâu tôi cũng ngột ngạt và khó thở hít phải không khí quyện kín mùi Nicotin.
Khói thuốc, khói xe, rác rưởi bừa bãi... rồi người ngợm xe pháo quay cuồng. Hết thảy đã làm tôi ngậm ngùi xót xa thương khi nào hết đất nước mình!
15/6/94. Khi chiếc “xe con” bò thấu đỉnh đèo tôi đã muốn khóc vì thiên nhiên xinh đẹp dàn trải mênh mông trước mắt mình. Hải Vân quan cao ngất tưởng chạm tới trời xanh. Tôi mon men tìm lên thăm cổng thành xây bằng gạch đỏ, giờ đen sạm vì năm tháng. Gió tha hồ rủ mây bay về qua khoảng trống không đong đầy một màu xanh trong trẻo. Chênh vênh trên những gộp đá, tôi đắm nhìn vào cõi vô cùng. Thương hết sức những bông hoa xám nhạt ẩn hiện bên khe sâu. Xa xa dòng suối héo hắt bám trên vách đá dựng đứng. Những vệt dài mốc thếch vì nắng hạn vẽ chân rít lên mình đá u sầu. Đèo cao. Lũng sâu. Dưới kia là vết đường sắt vẫn chuyên chở những chuyến tàu xuyên Việt thanh bình đang lấp lánh dưới ánh nắng ban trưa rồi chìm khuất giữa cỏ cây một màu xanh mướt. Sóng nước từ xa khơi tung bọt trắng xóa dước cơn nắng gắt. Biển trời hội tụ quanh tôi và vây phủ bằng một màu xanh ngất ngây.
Khi xe quành xuống chỗ “cùi chỏ” gắt gao, nơi ngày xưa mỗi lần qua đó tôi thường lẩm nhẩm với linh hồn bạn Kim Trâm, người bạn học thân thiết cùng lớp những năm ở ĐK-QH. Bạn tôi đã bỏ mình cùng với chồng, một giáo sư trẻ đại học Huế, thuở Huế chạy loạn mùa hè Đỏ lửa 72. Ảo tưởng nào vẽ nên dáng dấp ẻo lả của người thiếu phụ xinh đẹp đã chết oan khuất nên hằng nuối tiếc cõi tục lụy.
Bây giờ xe đổ đèo ở khúc quành đẹp nhất. Bãi cát vàng óng ánh dưới kia, tháp chuông Nhà thờ Lăng Cô đen thẫm và vươn cao thanh thoát nổi bật giữa một xóm chài hiền hoà. Rải rác vài chiếc ghe thả lưới ngoài khơi. Mảnh lưới hình như lấp lánh vì những con cá vẩy bạc đang oằn oại quẫy mình... Xe tiếp tục băng mình về Huế giữa buổi xế trưa chang chang nắng và ngọn gió Lào thổi rát mặt. Lúc ngang qua khu vườn xanh um bóng dừa, xe tạm dừng bánh cho tôi có dịp thưởng thức hương vị ngọt thanh của ly nước dừa tươi. Hai cô chủ quán trẻ, tóc uốn cao đỉnh đầu. gọn nhẹ trong bộ váy áo hoa giản dị tôi không thấy họ chướng mắt chút nào mặc dù tự thâm tâm tôi thầm tiếc rẻ hình ảnh những cô thiếu nữ ngày ấy mái tóc đen mun xỏa mềm xuống bờ vai áo lụa tròn trĩnh. Theo cơn lốc thời gian, những cô gái nhỏ dịu dàng cũng biến hình trẻ trung với thời đại.
Ôi chao! nắng không trong veo như xưa mà trắng đục một màu xám buồn. Hôm nay bụi đường đã nhuộm nắng khác đi cho Huế nét chi ủ dột. Hình như ở đâu tôi cũng gặp những con người hốc hác đầy vẻ chịu đựng ngó buồn quá sức. Nhất là lúc xe đi hết con đường gập ghềnh đầy những sỏi đá lỗ chỗ từ dốc cầu An Cựu. Lòng đã quặn thắt khi thấy trước mắt mình ngổn ngang từng đống gạch vữa cao có ngọn nơi lối lên cầu Trường Tiền. Và từ thân cầu mới nhìn chếch về hướng Đập Đá tôi xót xa thấy thương vô cùng 6 vài cầu trắng bạc. Thuở mình xỏa tóc đó là chiếc nhẫn quý sáng lấp lánh khi ngày tới nắng lên. Cây cầu xinh đẹp nằm vắt ngang dòng sông Hương xanh trong mỹ miều... Hình ảnh thơ mộng ấy nay biến mất chỉ trơ lại mấy nhịp cầu đỏ quạch xám xịt với bộ xương sắt đâm chỉa trên nền trời đùng đục đến thảm hại.
Duy mỗi con đường Lê Lợi chìm trong bóng cây xanh phần nào dịu xuống nỗi hằn học khi mình mới đến Huế. Lúc đưa mắt lùng kiếm Văn khoa, tôi đã thất vọng não nề. Dãy lầu Morin thanh lịch ấy chừ là cư xá tập thể. Tường vôi loang lổ mốc thếch, những sợi dây kẽm phơi phóng hàng tá áo quần tơi tả... Cả một khối nhớp nhúa và rầu rĩ như muốn thách thức với nét thanh nhã kiều mị chốn đế đô! Tim tôi đã nhói buốt khi nhìn trên cao, nơi hành lang hẹp ngày xưa tôi thường ra đó mơ mộng... Gió từ Hương Giang tạt về vuốt ve làn tóc mềm thuở ấy, chừ có chăng chỉ một khung cửa hẹp đen đủi xô lệch mà thôi!
Đang là mùa hạ nên không còn thấy hàng soan ven lối đi dẫn lên trường Đồng Khánh nở những chùm hoa tim tím dễ thương. Nhưng nếu có nhằm mùa mưa chắc chắn tôi sẽ không bao giờ còn gặp nữa con đường xưa của kỷ niệm, với hoa soan tím ngát. Bởi qua bao mùa mưa bão tàn khốc, thiên nhiên hung ác đã làm gãy gục hàng cây của tuổi hồng thiếu nữ mất rồi!
Đêm đầu tiên ở Huế sau những năm dài xa cách tôi đã xúc động. Quanh tôi dâng lên lời dế nỉ non. Bóng tối huyền hoặc dấu kín nỗi thê lương trong xó vườn mà cỏ cây và tiếng côn trùng ôm choàng lấy nhau khắng khít.
Đêm yên tĩnh nên tôi dễ dàng nghe rõ âm thanh của đất mẹ. Ngoài sân lâu lâu vẳng lên tiếng chó sủa rời rạc và gió thì xào xạc dưới kia hồ sen, nghe như có tiếng thở dài giữa những tàng lá tỏa rộng. Tôi mường tượng những nụ hồng đang chúm chím mỉm cười. Hương sen thoang thoảng đâu đây. Tôi hít thật sâu vào lồng ngực mùi thơm thanh khiết ấy. Hồi xế trưa những đoá sen hồng duyên dáng nghiêng đầu chào tôi, người khách du từ xa thật xa đến nửa vòng quả địa cầu trở về đây để thăm chốn cũ.
Tôi chao đảo hồn trí không phải vì say bụi nắng dặm dài mà vì màu xanh lục biếc của vòm cỏ cây quanh quất đã làm tôi choáng ngợp. Dưới bờ hồ đất lở sụt xuống, màu nâu nhạt sẽ đậm hơn vì luỹ tre rậm bóng mát viền quanh khu vườn. Thân tre mềm oặt cao vút đong đưa những tàng lá xanh. Ngàn lá tre thuôn dài xênh xếch như mắt thiếu nữ Trung Hoa đang chúi xuống dịu dàng làm duyên. Tôi đã dạo một vòng để thăm hỏi tất cả. Mấy cây ổi lớn vụt lên cành trĩu nặng những trái tròn xinh căng mọng hứa hẹn âm thanh dòn tan khi cắn tới. Tôi đi cứ chực vấp ngã. Hai con Mực, Vá cứ quấn quýt theo chân mình mãi. Gần 4 năm rồi mà chúng còn quyến luyến người thân vừa đi xa về. Cây sabôchê đầy những trái có màu càphê nhạt lồng cẩn thận trong túi nylông. Gần bên là mấy gốc vú sữa lá dày đậm nhạt khác nhau. Hàng rào chè tàu được cắt xén vuông vức ngăn cách với nhà láng giềng mà những dây tơ hồng vương vít hoài trên ấy không chịu rời xa. Vài luống đất nhấp nhô bụi sả thơm lừng, đám rau lang bò rạp mình gần đó... Hết thảy đều xanh mởn mơ dù nắng hạ càng lúc càng như thiêu đốt xứ Huế nhỏ bé nghèo nàn này!
18 tháng 6. Tôi mệt nhoài sau mấy ngày liền tham lam công tác. Bạn bè ở thiệt xa bên ấy, giao phó cho tôi thay họ đem chút tình mật ngọt đến những người thương yêu bên nhà. Đứa cháu gái mảnh mai chở tôi bằng chiếc Honda đi khắp nơi. Ở đâu tôi cũng trân trọng lắng nghe những nhắn nhủ trìu mến đáp lễ người thân bên ấy. Tôi không ngăn nổi sự xúc động trước những giọt nước mắt ứa ra khi nhận được món quà gói trọn tình cảm ấy. Đến hôm nay vẫn còn quá nhiều ruột thịt của chúng tôi nhọc nhằn với nếp đời an phận. Mấy mẹ con T.C sống hẩm hút trong khu vườn trồng đầy cây ăn trái nhưng có lẽ thu hoạch không bao lăm. Ngày xưa những cô Tôn Nữ xinh tươi ấy khi đại gia đình còn sum họp đã khúc khích cười sau đám cây lá xanh ngần chắc là vui biết mấy... đâu có ngờ ngày mai đời họ tan tác... Nhìn vẻ khắc khổ in hằn lên những nếp nhăn ở cuối mắt và khóe môi mình như xót xa hơn hoàn cảnh của T.C. May mắn bạn tôi vẫn tồn tại nhờ tình thương đều đặn đổ về từ người chị dâu ở mãi bên trời Texas. KT đã tiện tặn tiêu pha, đã vui vẻ “cày” thêm ngày cuối tuần. Bạn KT của tôi quyết chí nuôi bầy cháu ăn học tới cùng. Cô muốn thay thế người cha lũ trẻ tưởng chừng như đã biến mất trên cõi đời này.
Ngồi trên nền nhà lát ximăng mát rượi chúng tôi tâm sự mãi. Thêm ngụm nước chè tươi trong như hổ phách với hương vị gừng cay cay đã tức khắc hạ cơn khát cứ mỗi lúc một tăng cường độ. Tôi không muốn buông rời tay bạn. Bàn tay nổi gân vì lao nhọc. Giã từ ngôi nhà thô thiển chìm khuất trong rẻo vườn đầy màu xanh tôi đã tự ghét mình. Hồi nãy tôi đã luôn miệng kêu rên nóng nực. Mới non 4 năm ở xứ người chưa chi tôi đã kệch cỡm hoá nên giống kẻ xa lạ nơi chính quê hương mình!
Nắng táp, gió Nồm và đời sống im lìm tủi nhục sau hàng cây xanh ngắt... Khoảnh đời khép kín ấy khiến cho trái tim tôi chìm xuống một nỗi rầu rĩ khôn nguôi.
19 tháng 6. Miệt vườn ngã lên Kim Long… tôi một phen bị xóc dữ dội trên yên sau chiếc xe gắn máy. Hôm nay đưá cháu trai kêu tôi bằng cô thay phiên đèo mình tiếp tục nhiệm vụ. Hắn chạy xe thiệt vững. Hai bánh xe chồm lên hung hăng vượt quãng đường đầy đất đá nhọn hoắt. Cuối cùng cũng tới nơi. Nhà người bà con sui gia ở tận ngóc ngách nơi mảnh đất nên thơ. Ông lão mới ngoài 60 mà đã móm xọm vì hết răng. Rè rè giọng nói cho chiếc máy ghi âm nhỏ xíu của tôi uống những lời tâm sự. Ông già tỉ tê kể chuyện với người em trai đang lập nghiệp ở San Diego. Dù tuổi đã về hưu nhưng ông vẫn ham chạy xe thồ. Hàng ngày phải cúi khom tấm thân gầy gò mải miết đạp chiếc xe cọc cạch từ Văn Thánh xuống chợ Đông Ba để may ra kiếm tiền nuôi mấy đứa cháu nội. Bởi cha chúng đang mắc chứng sạn thận không thể lao động nặng. Từ nửa năm nay anh bị nghỉ việc. Vì thế gánh gia đình đành trút xuống vai người cha già tôi nghiệp. Tôi lơ đãng ngồi nghe mẫu độc thoại da diết vừa đưa mắt ngắm mấy giò phong lan treo lủng lẳng nơi giàn mướp. Những cánh hoa trắng ngần cụp lại, khô héo vì thời tiết hạn hán. May thay vẫn còn những cành lá xanh xao rũ xuống yểu điệu...
Tôi nhìn ông lão xúng xính trong bộ pyjama kẻ sọc còn nguyên lằn xếp phẳng phiu. Chắc hẳn ông diện hắn chiều nay để đón khách phương xa sẽ đem niềm vui tới cho gia đình. Sau đó cả nhà lăng xăng quay ra xếp hàng chụp một lô bóng kỷ niệm cho tôi mang về bên ấy. Một giây phút chạnh lòng khi cô dâu trẻ níu lấy tôi nhờ nhắn nhủ với ông chú xin thương các cháu. Đó là những cháu ngoan bác Hồ học hành xuất sắc vượt chúng. Đáng lẽ chúng được lãnh phần học bổng từ trên ban xuống. Nhưng vì lý lịch lỡ có ông chú ở đế quốc Mỹ nên đành vuột mất.
Chiều xuống dần. Vài tia nắng èo uột rọi lên gộp đá gập ghềnh của hòn non bộ xinh xắn. Những cây tùng nhỏ xíu. Ông Lã Vọng ngồi trầm tư câu cá. Đàn cá đủ màu rực rỡ bơi lội tung tăng dưới làn nước trong leo lẻo của chiếc bể cạn bề thế. Tôi vui thú ngắm nhìn có khi quên mất cảnh đời buồn khổ trước mắt.
Chúng tôi bịn rịn chia tay nhau trong nỗi ngậm ngùi. Mươi hôm nữa tôi lại quay về với đời sống tiện nghi nơi một xứ sở thặng dư nhiều thứ. Rồi sẽ dần quên đi đời sống xác xơ nơi tít sâu miệt vườn Kim Long này.
20 tháng 6. Thêm một buổi quay trở lên gần ngả về Linh Mụ. Tôi còn phải giao cho xong món quà khá đậm đà của hội Thương Huế ở Bắc Cali và của mấy người bạn đàn chị gửi về cứu giúp một bệnh xá từ thiện. Cổng tu viện mở rộng ân cần đón tôi như từng đón hằng trăm bệnh nhân nghèo khổ từ các làng xã xa xôi hẻo lánh kéo về. Tôi ôm chầm lấy bạn, hai đứa reo hò ầm ĩ vui như lúc còn làm học trò trường Mai Khôi. Chừ bạn tôi là nữ tu bác sĩ đang trông coi cơ sở bác ái này. Mỗi tuần vào những ngày ba, năm, bảy các nữ tu dòng Con Đức Mẹ Vô Nhiễm sẽ chẩn bệnh, phát thuốc hoàn toàn miễn phí. Bạn tôi đã kêu gọi được vài vị bác sĩ trẻ tuổi mới ra trường tới phụ giúp. Họ là những thiên thần bằng xương bằng thịt đã ra sức chữa lành những con bệnh khốn khổ. Gần đây họ mới được phép hành nghề và đã âm thầm làm việc. Tất cả phương tiện thuốc men chỉ biết trông cậy vào Đấng Nhân Lành sẽ dẫn dắt những kẻ đầy lòng nhân ái đến với họ mà thôí.
Chúng tôi rủ nhau chụp chung một tấm hình ghi lại sinh hoạt có thực của viện tình thương. Có như thế lần sau “Cái bang tôi” mới mong xin thêm tiền cho cô bạn ma soeur tiếp tục làm việc thiện. Hai đứa tạm từ giã nhau, vì tôi còn hẹn trở lui ăn một bữa cơm thân mật mừng lễ bổn mạng soeur bề trên. Đó là soeur Cephas, cô giáo Pháp văn dạy mình năm học đệ tứ. Ngoài 60 tuổi người nữ tu ấy vẫn còn trẻ măng như ngày nào. Tôi bỗng cảm nhận hạnh phúc rằng tôi còn bé bỏng như lúc 15 tuổi làm học trò một trường tư thục Công giáo ở vùng Gia Hội.
21 tháng 6. Về đến Huế non tuần lễ mà tôi chưa thèm ghé thăm ngôi trường màu hồng của mình. Nhưng lần nào đi ngang qua đó tôi cũng mỏi cổ vì cứ ham ngoái đầu nhìn lui mãi hàng phượng tươi cười nở hoa đỏ thắm. Những lớp học thân yêu ngày xưa giờ im lìm. Cành phượng mềm mại lá xanh mướt sà xuống trước những khung cửa lớp của dãy lầu hai. Bây giờ mặt tiền của lầu đã bị sửa đổi. Với tôi thiệt là khó thương. Tôi bực tức không muốn nhìn tới hắn. Từ lâu tôi đã biết trước qua loạt hình bạn bè gửi về bên nầy. Nỗi giận hờn chỉ chực dâng lên như thử mình vừa bị tước đoạt một cái gì qúy báu nhất. Tên trường đổi thay đã làm tôi nhức nhối khó chịu, héo hon chút tình cảm vẫn dạt dào trong tim. Tôi ghét lây luôn danh tánh hai vị nữ anh hùng dân tộc một cách phi lý. Chỉ vì họ đã trám lên danh hiệu Đồng Khánh dấu yêu của tôi.
Buổi tối ở Huế tôi không đi đâu, thường ngồi nhà tiếp truyện mấy người bạn trẻ. Những chàng trai Huế hiền lành ít át. Cứ kêu tôi kể hoài về bạn gái họ chừ đang sống cách xa vời vợi. Khi nghe tôi trở về quê hương, các cô bạn nhỏ bên ấy đã gửi bao nhiêu là quà và những lá thư dày cộm gói ghém cả trời thương nhớ! Tôi lẩn thẩn nói gì đâu những nét sinh hoạt thường ngày của đời sống sinh viên xứ người. Thế mà, lạ chưa người nghe cứ bắt tôi nói mãi, kể tỉ mỉ những lúc đổi giờ học, chúng tôi phải chạy đua với cây kim đồng hồ để bắt kịp giáo sư cũng tất bật không kém chi mình... Giờ ăn chiều phải cố mà nuốt cho trôi lũ Hamburger chán ngấy để còn đủ sức vào lớp tối nữa. Đời sống sinh viên không dám mơ mộng. Bạn họ phải luôn tỉnh táo. Di chuyển ào ào. 8 giờ cày xong ở hãng là bết bát lao xe tới trường ngốn thêm có khi 8 tiếng đồng hồ. Con người lúc nào cũng căng thẳng như sợi dây đàn.
Rồi tôi chăm chú lắng nghe tâm tình của kẻ ở lại. Thì ra ở đâu thế hệ trẻ cũng phải nỗ lực học hành và làm việc kiếm sống. Để may ra dành lấy một tương lai sáng sủa cho bản thân. Ước mong đất nước hồi sinh cho những người trẻ thân thiết phải xa lìa nhau sớm có ngày hội ngộ.
Trưa 21 tháng 6. Chiều nay tôi tạm từ giã Huế tiếp tục cuộc hành trình ra Bắc. Tôi sẽ thăm Hà Nội mà nhóm Tự Lực Văn đoàn hằng ca ngợi. Tôi lo không biết mình có đủ can đảm để nhìn thấy một dãy phố phường hoang tàn là di tích của rộn rịp mùa xưa. Tôi có tìm ra dáng dấp u nhã của cây cầu Thê Húc cong cong dẫn lên đền Ngọc Sơn? Hồn thiêng đất nước có còn vẳng trên sóng nước Hồ Gươm. Hàng liễu còn êm đềm rũ bóng và Văn Miếu vẫn uy nghi với bia đá ghi khắc danh tiến sĩ?
Mà thôi, hãy cứ ra đi thử tìm lại niềm tin yêu từ lâu đã rạn nứt. Tôi chỉ gượng vui khi sống lại phần nào kỷ niệm ngày cũ. Huế của tôi chừ bốc lửa vì nắng hạ trắng, cỏ cây vẫn tươi xanh nhưng hồn xưa đã héo gầy. Buổi sớm tinh sương sân nhà vướng bóng một ông lão mình hạc xác ve. Mình ông đăm chiêu kiếm sống. Nhìn vai áo bạc màu của người ăn xin già cỗi, tôi đã ứa nước mắt khóc thương kiếp người cô đơn đến cùng cực trong tuổi chiều bóng xế...
Cuối tháng 6/94. Chưa đầy tuần lễ ở Hà Nội mà sao tôi thấy mình đã phí phạm thời gian đến thế. Rồi tôi vội vã quay trở lại Huế bằng chuyến tàu nhanh. Giã từ thủ đô của một nước Việt Nam Mới mãi mãi xa lạ với mình. Mặc dù trái tim chai cứng và trí óc thiển cận còn đủ sáng suốt ghi nhận một điều: đây là thành phố đẹp nhất nước! Với màu xanh tràn lan khắp nơi. Và mênh mông những mặt hồ lặng sóng. Dáng liễu mềm thướt tha đứng xỏa tóc soi bóng ven hồ lối vào chùa Trấn Quốc... Nhưng sao tôi thấy dửng dưng trước tất cả những kiến trúc cổ kính của Thăng Long một thời vang bóng ấy. Tim thì nhức nhối vì hình ảnh Chùa Một Cột phải nép mình tội nghiệp nơi một góc Ba Đình đồ sộ. Mộ bia nào của kẻ chết từ lâu sao cứ tồn tại trêu ngươi!?
Tôi rời bỏ Hà Nội không chút nuối tiếc. Chỉ thấy bàng hoàng nhớ lại nếp sống quay cuồng của giới trẻ. Họ ăn nói văng mạnh và mê mải kiếm đô la càng nhiều càng tốt. Quanh thủ đô chưa tới mươi cây số, hàng ngàn cao ốc ngất ngưởng mọc lên san sát. Kiểu cọ thiệt “hiện đại” nhiều lúc ngó bắt chướng mắt. Tôi có cảm tưởng thiên hạ đang hốt hoảng ra sức níu kéo lại khoảng thời gian gần 30 năm bị đánh cắp!
Tôi thở phào sung sướng khi tàu dừng lại thả mình xuống sân ga thoáng và sạch. Huế đây rồi, tôi ôm lấy không gian chan chứa mến thương tưởng chừng đã xa cách hằng thế kỷ...
Cuối tháng 6. Trời tự nhiên mưa, thêm những đợt gió từ miệt núi xa kéo về làm cỏ cây run rẩy và lòng tôi choáng ngợp một nỗi vui bất ngờ. Những sợi mưa đan mau như muốn xóa nhòa hết vẻ nghèo nàn của Huế. Tôi vội vàng ra phố dạo mưa như thuở nào còn xỏa tóc. Con đường Trần Hưng Đạo không còn nhếch nhác nữa vì thiên hạ rủ nhau núp mưa hết trơn. Nhưng trong tôi sống lại mãnh liệt tuổi học trò ngày ấy... Những chiều thứ bảy, con phố bỗng trở nên là điểm hẹn cho bao nhiêu người trẻ vừa đến tuổi mơ mộng. Những tà áo lụa óng ả hơn và nón bài thơ nghiêng nghiêng làm dáng. Mắt em dáng thuyền khiến lòng ai thêm chao đảo.
Mồng 2 tháng 7. Tôi “tranh thủ” thời gian. Muốn thăm viếng tất cả danh lam thắng cảnh chốn Cố đô yêu quý. Vài hôm nữa thôi đã phải lên đường trở về tổ ấm của mình nơi Quê người. Đang giữa mùa hè nhưng thời tiết choáng ngợp hơi thu. Có lẽ ảnh hưởng từ cơn bão rớt từ Vịnh Hạ Long kéo tới nên thinh không bát ngát mây trắng bay.
Bến đò Than buổi sớm vắng khách sang ngang. Tôi đã tìm qua thăm Điện Hòn Chén mãi hoài một màu xanh ngất ngây. Sóng nước sông Hương miệt nguồn xao xuyến quá
Và chiều hôm trước tôi đã lên thăm lăng Tự Đức. Ngồi đếm thời gian trôi chảy nơi gộp đá dẫn xuống khe suối nhỏ. Nhìn nắng chiều lên phơi phới và nhạc thông reo vi vu... Tôi chợt ao ước hòa tan vào không gian, hoá thân làm giọt nắng long lanh hay tiếng côn trùng ri rỉ lời ca ngợi chốn quê hương muôn đời xinh đẹp này.
Tôi quyến luyến không muốn rời chân vì hoàng hôn trên đồi Vọng Cảnh huy hoàng quá đã chiếu dọi dãy núi Kim Phụng lồng lộng xuống dòng Hương Giang mênh mông và đằm thắm.
Ơi Huế dấu yêu, trước sau chi thì tôi cũng xa lìa đất mẹ. Nhưng trái tim tôi nghiệp của tôi mãi mãi nhịp thổn thức vì Huế...
Viết tại Huế trước ngày 11 tháng 7-1994
Source :
Hoàng hôn thôn Vỹ
Trang Phan Mộng Hoàn
art2all.net
PHAN MỘNG HOÀN - NHẬT KÝ VIẾT MUỘN
NHẬT KÝ VIẾT MUỘN
Taipei, 19 tháng 6, 2001
Minhon con gái út của chúng tôi vừa đem từ khách sạn về điện thư của anh học trò PCT gửi cho me: “ Cô thương mến, cô đang ở đâu? VN có vui không? Em đang gom bài, cô đã viết cho tụi em chưa?.." .
Bây giờ là 3 giờ sáng, tôi trằn trọc không sao dỗ được giấc ngủ vì cái lỡ hẹn với ngày họp mặt sắp tới. Ba ngày ở Đài-Bắc mệt và vui bỗng nhiên vụt biến mất…Khoảng cuối tháng 5, giữa lúc tôi bận rộn sắp xếp cho chuyến đi xa, từ Houston Bác sĩ Nguyễn Văn Hào nhắn qua E Mail, “Chúc cô “qui cố hương” vui vẻ và đừng quên mất đường về- Em đã nhắn bạn bè, bọn học trò cũ của thầy cô, tụi hắn nao nức chờ vì hơn 25 năm thầy trò mình mới gặp lại nhau”. Vì thế tôi đã hăng hái hứa sẽ ghi lại tâm tình sống với quê hương từng ngày, sẽ gửi dần cho Houston. Nhưng hơn 3 tuần lễ dồn dập trôi nổi qua những dặm đường của đất nước tôi đã quên mất lời hẹn! Bởi vì khi quay trở lại chốn cội nguồn, bao nhiêu thương nhớ dâng trào cùng với nhịp đời quay cuồng trăn trở đã khiến tim tôi nhíu lại, xao xuyến, đã buồn nhiều hơn vui, đã xót xa trước những rẻo đời hiện ra ngay trước mắt mình từng phút từng giây.
Chuyến tàu hỏa S1, giường mềm, phòng riêng, chạy nhanh nhất nước, có máy lạnh v.v.. xình xịch, nhẩn nha đưa tôi đi. Từ Sàigòn ra Huế mất 18 tiếng đồng hồ.
“Tôi thấy tôi thương những chuyến tàu,
Ngàn đời không đủ sức đi mau.
Có chi vương vít trong hơi máy,
Mấy chiếc toa đầy nặng khổ đau"
Khi tàu chuyển bánh, Sàigòn rực rỡ ánh đèn. Sân ga thoáng, lát xi măng rộng rãi. Những quán sạch sẽ bày biện vui mắt đủ các mặt hàng. Không còn thấy đâu cảnh hỗn loạn với bọn con buôn chụp giựt trâng nháo. Còi hụ lên những hồi dài. Tôi đi vào bóng đêm êm ả. Từ lúc 5 me con tôi rời VN sang Mỹ đoàn tụ với bố con Vượt Tuyến cuối năm 90, tôi đã quay trở lại thăm quê nhà, lần này là lần thứ ba, cho nên nỗi háo hức không còn cao độ như những lần trước. Sáng hôm sau, tàu ngang qua ga Diêu Trì, rồi Nha Trang, tôi vẫn lười biếng nằm dài trên giường, mơ màng nhìn qua cửa sổ. Ngoài ấy thấp thoáng bầy chim trắng đứng chụm đầu với nhau trên hàng cột điện thân quen mà những lần trước tôi hằng gặp gỡ chúng.
Tôi không ra thẳng Huế như lịch trình đã ghi trên vé. Trái lại theo gợi ý khôn ngoan và thận trọng của vài người bạn và học trò thân ở Sàigòn, tôi xuống ga Đà Nẵng. Lý do ngoài ấy đang thời điểm “hot” vì vụ cha Lý. Tôi dân Catholic, chánh quán Dương Xuân Hạ, Hương Thủy, Thừa Thiên, quê nội là Phường Đúc, gần sát vách làng Nguyệt Biều. Như thế, biểu làm sao mọi người khỏi ớn giùm thân phận Việt kiều tôi! Chẳng thế trưa hôm nghe tôi báo tin, cô bạn Mười Một dưới Nam Cali la thất thanh trong ống liên hợp, bộ chị điên hay răng mà dè lúc ni chui đầu vô rọ?! Khi đi, bạn bè ai cũng chúc bình an và thêm, nhớ lẹ lẹ về với tổ ấm San Hô Thành nghe chưa mi!
Đón tôi ở ga Đà Nẵng, các em học sinh cũ của tôi hiện ra trước mắt với bó hoa hồng lộng lẫy đủ màu sắc và thơm ngát, khiến cho mình cảm động. Tôi không còn thấy thời tiết xứ Quảng oi bức. Trời đang khóc những giọt nước mưa bay bay mát rượi! Phe Áo Xanh có các anh Phạm Quang Vinh, Hà Ký. Bên PCT là các anh Võ Minh Trí và Trần Minh Thuấn. Trí nói, cô đảo lộn chương trình như ri, em không báo tin kịp cho bạn bè, chắc chắn tụi hắn sẽ giận oan em, cho em là độc quyền đón cô!
Bây giờ ĐN văn minh, có taxi chạy tính giờ bằng đồng hồ. Người tài xế liến thoắng giọng Quảng làm tôi ngỡ mình chưa hề rời xa thành phố này lúc nào. Xe chạy qua cầu Trịnh Minh Thế ngày xưa có tên cầu De Lattres nay trông nhỏ bé và tên mới gọi là gì tôi cũng không biết. Xa xa, lấp lánh trong nắng chiều nhịp cầu quay hiện đại, niềm hãnh diện của người dân sau thời “giải phóng”. Ngày đầu tiên ở đây tôi tạm trú nhà Vinh. Vợ Vinh dân Huế, hiền lành và ngó đảm đang ghê. Cô dâu Kỹ Thuật săn sóc tôi tận tình, ba đứa “cháu nội” xinh xắn, ngoan và học giỏi cứ quấn quanh bên mình, làm tôi nhớ bé Sông An- Zoe của chúng tôi ở Mỹ hết sức. Sáng hôm sau là Chúa nhật nên tôi quay về dự Thánh lễ ở Nhà thờ Chánh Tòa. Gặp đúng giờ lễ dành cho Thiếu nhi. Các em hát kinh xướng họa nghiêm trang. Ngôi thánh đường vang lừng nhạc thánh làm tôi quay quắt nhớ thời mình còn trẻ trung, bầy con nhỏ hằng tuần cùng ba me đến đây dâng Thánh lễ. Đã hơn 1/4 thế kỷ, cuộc đời dâu biển đến chóng mặt. Gia đình chúng tôi trôi dạt đến xứ người, may Chúa thương cho tất cả bình an và thành đạt. Tôi bùi ngùi vì quanh tôi không thấy có ai là người quen biết. Chuông ngân nga. Tiếng cầu kinh trong trẻo của các em nhỏ vang lên… Tôi nghĩ thầm, vậy là quê hương đang lúc hồi sinh.
Ngày 27/5, lớp 8 B2 PCT ngày xưa của tôi, chờ cô giáo Quốc văn ở quán nhậu, mà tên chủ quán là trưởng lớp Hồ Văn Trung năm tôi dạy họ nk 68-69. Tiếng anh Trần Đại Tăng hối thúc trong điện thoại, vì mãi sau 12 giờ trưa tôi vẫn chưa tới, trong lúc các em học sinh cũ đã họp mặt từ hồi 9 giờ sáng. Anh Tăng, anh Nguyễn Nguyên và Bùi Đình Nhuận là những bạn thân từng mở “cua” Toán-Lý-Hóa chung với nhà tôi dạo ấy. Giáo sư khét tiếng chuyên trị Đại số, vừa là thi sĩ sướt mướt của trường mình nay đẹp lão với mái tóc Ban Siêu trắng xóa. Anh nói, hôm nay còn có vài bạn đồng nghiệp nữa, như anh Lê Long Viên, Huỳnh Khải. Trời Đà Nẵng đổ mưa như trút hết nước. Như thế là ông trời cũng thương mình. Bia đã chảy như suối. Bao nhiêu là món nhậu hấp dẫn. Hèn chi tôi thấy cậu nào cũng tốt tướng với cái bụng...Đỗng Trác! Anh Huỳnh Khải, ngồi cạnh tôi, mặt rầu rầu vì bà xã ốm, nên không cùng đến tham dự. Anh Khải là giáo sư cố vấn lớp 10 B2, nk 70-71. Bấy giờ trưởng lớp là Trần Minh Thuấn, vì Hồ Văn Trung đã ra trường ngoài thi Tú Tài bán sớm hơn các bạn. Lúc này xảy ra tình trạng đôn quân, nên các em lớn tuổi sợ phải vào lính. Tôi lại phụ trách Quốc văn bầy học sinh năng nỗ này, nên tha hồ khai thác tài nghệ văn chương của họ. Năm đó các em sáng tạo tờ bích báo khổng lồ, do từ ý nghĩa “thanh sử”. Lê Quốc Việt, học rất giỏi vừa là tay hướng đạo nhà nghề nên đã huy động các bạn đốn tre. Tre chở từ Hòa Cầm về, được chẻ ra từng thanh nhỏ, rồi kết lại bằng dây thừng thành chuỗi dóng xuống như những hàng đều đặn trên các trang giấy. Những thân tre xanh biếc viền quanh như cuốn tập, gồm có 2 trang, 4 mặt giấy ghi đầy thơ văn, tùy bút... của các tác giả 10B2. Mỗi trang đo khoảng hơn 2 mét! Hôm khai mạc triển lãm nhân ngày đại lễ mừng kỷ niệm trường PCT 20 tuổi, nhà tôi đã chịu khó dùng chiếc xe truck của bên Kỹ Thuật để vận tải tờ bích báo có một không hai này đến PCT. Mọi người liếc thấy ai cũng tiên đoán, nó sẽ chiếm giải quán quân.
Các bạn Trần Đình Quân, Đông Trình, Trần Văn Thông, Dương Ngọc Tạo “háy, nguýt” PMH, họ phán rằng cô giáo mà chuyên môn ưng chơi trội!!! Khi thầy trò lớp 10B2 chúng tôi kéo nhau vênh vang đi chụp ảnh mừng chiến thắng, tôi điểm danh thấy vắng mặt những tên sừng sỏ như Lê Quốc Việt, Nguyễn Đình Xê...là những phóng viên trứ danh đã mất nhiều công lao cho tờ “Dấu Xanh” lừng lẫy ấy. Nghe kể rằng Lê Quốc Việt bận ngủ một giấc 3 ngày 3 đêm không ăn không uống để lấy lại sức sau 1 tuần gần như thức trắng, nỗ lực “vật lộn” với tờ báo!
Tôi vừa nhấm nháp món cua biển đầy ứ gạch ngon lành do tự tay trưởng lớp, í quên chủ quán “biên soạn”. Vừa ngắm mưa rơi ngoài kia, vừa mơ mộng nhớ lại thời mình còn làm cô giáo dạy văn ở PCT.
San Jose ngày 20 tháng 6 năm 2001
Đêm hôm qua “vườn khuya trăng sáng, hoa đứng im như mắt buồn...”, tôi thức mãi chờ giấc ngủ. Chuyển đổi giờ giấc từ hai nửa quả địa cầu càng như tăng thêm nỗi thương nhớ về quê mẹ mới đây còn trong tầm mắt, nay đã vời xa tựa dĩ vãng...
Theo thông lệ, người ở xa về có quyền hưởng chế độ “bao trọn gói” cho mọi buổi liên hoan họp mặt. Nhưng tôi là ngọai lệ. Các cậu học trò nói, tụi em đã đóng sở hụi rồi, cô khỏi bận tâm. Thế nên tôi đề nghị cho tôi làm một việc gì để ghi kỷ niệm với ĐN. Phạm Ngọc Văn liền gợi ý, thầy trò mình sẽ thăm Trại tâm thần Phước Tường, một trại tâm thần “mồ côi” vì không có thân nhân lui tới thăm nuôi. Tôi đồng ý ngày hôm sau sẽ cùng đi với phái đoàn thiện nguyện, mà nhóm Văn lâu nay quen tổ chức. Văn có bố là sĩ quan cải tạo đã qua Mỹ theo diện HO. Gia đình Văn ở lại, vì giỏi Anh ngữ nên Văn sống tạm tạm bằng nghề dạy tiếng Anh, với lương tiền đủ nuôi vợ con. Hằng tuần anh chạy đi làm việc Từ thiện. Bàn tay trái của anh thiếu mất 3 ngón, lý do Văn phải tự chặt bỏ để khỏi đi kinh tế mới. Gia đình cậu ta sau 75 nheo nhóc đến tận cùng.
Sáng 28/5, tôi ngồi trên chiếc xe van nhỏ chở đầy trái cây, chủ xe là Trương Thương, hôm đó ốm nên chú tài xế nhỏ làm công chạy thế. Mới hơn 7 giờ sáng mà ngọai ô ĐN đã tấp nập người xe như mắc cửi. Tôi mặc sức la hét đến khản cổ trước cảnh xe cộ chạy theo luật rừng. Đường sá thì ổ gà ổ vịt, xe nhằn xóc tưng bừng. Rứa mà không xảy ra tai nạn chết người cũng là phép lạ. Khi tôi đến địa điểm Trại thì mọi người trong phái đoàn đèo nhau bằng xe gắn máy đã tới từ lâu. Tôi ngồi trên lầu của văn phòng Trại uống nước trà đá, lơ đãng nghe mấy vị cán bộ kể về tổ chức Trại còn rất nghèo. Họ ước ao ân nhân từ xa ghé mắt đến thương lo cho bệnh nhân ở đây, vì quá cơ khổ. Tôi nhìn qua bên kia. Sau khung cửa sắt cao và chắc chắn, những người điên đàn ông trẻ và già đang bám tòn ten trên song sắt, họ chìa tay ra xin thuốc lá. Hèn chi tôi thấy quà đem lên có hàng trăm bao thuốc Đà Lạt. Trong sân lát xi măng những người điên khác, có cả phụ nữ đang rủ nhau rảo bước, tay ve vẩy đánh đàng xa. Mặt mũi tươi tỉnh một cách vô hồn.
Tôi đảo xuống nhà bếp. Lúc này khoảng hơn 9 giờ sáng mà các chị cấp dưỡng đã chuẩn bị sắp xong buổi ăn trưa. Căn phòng nhỏ mà nóng như địa ngục (!). Thoạt bước vào tôi đã muốn dội trở ra ngay, trong khi các chị cấp dưỡng vẫn vui vẻ làm việc. Họ chan mấy miếng thịt heo ba chỉ kho nước lên mặt tô cơm, tô nhôm chứa chừng 2 chén cơm. Tôi nếm thử thấy mặn miệng. Trong góc kia là những tô cơm còn có thêm rải rác mấy miếng dưa cải. Một chị giải thích, đó là phần dành cho các bệnh nhân mới vào có người nhà xin tăng thêm “chế độ” đặc biệt.
Tôi trở ra, rồi theo chân anh bảo vệ vào sâu phía trong nhà chính. Một mùi hôi của cống rảnh hực lên xông nồng nặc làm tôi ho sặc sụa và buồn nôn. Anh nhân viên nói, Sáng nay Trại đã được làm vệ sinh kỹ rồi đó chị. Sau đó tôi được anh Bác sĩ trẻ coi Trại cho biết sở dĩ Trại luôn bốc mùi hôi thối là bởi nhà nước cấp không đủ tiêu chuẩn (!) để được khai thông với hệ thống cống rãnh bên ngoài Trại!
Quành ra phía sau, tôi thấy một cô gái còn trẻ măng, mặt bịt mặt nạ bằng vải. Cô ta cầm vòi nước và xối nước vào người một bệnh nhân y phục Adam, tổ tiên loài người. Ông lão râu tóc bạc phơ, ngồi nép mình co ro bên bờ giếng. Khi trở ra, ngang qua một căn phòng mờ mờ tối, tôi thấy trong ấy có mấy người thanh niên tồng ngồng, cao lớn lực lưỡng, trông họ đẹp như những chàng người mẫu lớp Life Drawing, là lớp vẽ khỏa thân, hồi tôi còn theo học Art ở West Valley College- San Jose. Các chàng điên đang hăng hái đi lui đi tới không ngừng nghỉ theo kiểu diễn binh!
Qua các dãy phòng khác tôi ghê ghê trước hình ảnh những người điên già trẻ nam nữ, đang lộn xộn nằm ngồi ngửa nghiêng bên nhau trên những chiếc giường cá nhân nhỏ. Đeo vắt vẻo nơi thành cửa sổ phòng là vài chàng trai tay đưa ra, miệng nài nỉ tôi: “mẹ, mẹ, cho con tiền mua thuốc lá đi mẹ!”
Sau lúc phân phát xong quà gồm bánh, kẹo, trái cây, thuốc lá cho gần 300 bệnh nhân, chúng tôi rủ nhau chụp mấy tấm hình với các nhân viên phục vụ Trại. Gần 30 người, phần lớn là các cô còn trẻ. Họ phải lao động cật lực 10 giờ mỗi ngày với lương tháng chưa đến 20 đôla. Một anh y tá trẻ có chiếc mũi, sống mũi bị sập là do thành tích một chàng tâm thần thanh niên nổi máu uýnh cho vì hắn không thích bị chích thuốc lúc ốm nặng. Anh bảo vệ trực đêm, người nhỏ con nhưng trông rắn chắc, anh ta luôn sẵn sàng trong tư thế võ sĩ để vật lộn khi phải ép bệnh nhân khó trị uống thuốc...
Còn bao nhiêu chuyện cười ra nước mắt với cảnh đời eo hẹp nặng nhọc nơi những thiên thần sống động này. Họ đã tận tình chăm sóc những người điên bị thân nhân bỏ rơi. Những người điên vô tư sống giữa cảnh đời thực tế còn đầy dẫy đói khổ triền miên bên ngoài cổng Trại tâm thần. Tôi quyết định trích thêm 100 USD tiền của qũy “tình Thương” của nhóm chúng tôi ở hải ngoại để tặng bồi dưỡng cho anh chị em nhân viên phục vụ Trại tâm thần Phước Tường. Tôi xin phép được nói ít dòng về nhóm chúng tôi. Gồm bạn bè vốn cùng học ở Quốc Học Đồng Khánh Huế, từ 10 năm nay, chúng tôi quen lệ rủ nhau gom góp kẻ ít người nhiều, mỗi năm vài lần gửi tiền về giúp bà con khốn khổ bệnh tật, các em cô nhi khuyết tật, người cùi, người mù v.v...Tôi là một trong những trưởng lão cái bang, đệ tử của Hồng Thất Công, chuyên môn đi ăn mày tình thương nơi bạn bè. Chúng tôi thay nhau đem quà trực tiếp về giúp người đau khổ, tận tay cho họ và nhất định không mất một đồng xu nhỏ nào cho “Ai” ngoài kẻ cùng khốn.
Xế trưa cùng ngày, tôi vừa chợp được giấc ngủ ngắn ngủi giữa không khí ngột ngạt oi bức của ĐN thì bị đánh thức. Cậu học trò ngày xưa vẽ vời trang trí đẹp cho tờ báo lớp 10B2 là Phạm Danh. Hôm trước vì tôi hỏi thăm các em vắng mặt, Phạm Ngọc Quang BS cho tôi biết có Phạm Danh, nay rất đói khổ, vợ bỏ, anh phải nuôi bầy con 5 đứa, bữa đói nhiều hơn bữa no. Bình bạn thân từ lớp 1 với Danh, nhắn Danh đến gặp tôi. Tôi đã không cầm được nước mắt vì trước mặt mình là một con người tiều tụy, già e hơn tôi. Danh chỉ cho tôi 2 bao nilông đen khỗng lồ, trong đó chứa hằng trăm mẫu đồ chơi xinh xẻo do PD sáng chế từ những vật liệu phế thải, làm thành những món quà sinh nhật mỹ thuật để bán kiếm tiền nuôi con. Tôi ngắm ngôi nhà tí hon bằng nhựa, hoa lá vui tươi viền quanh, túp lều xinh xắn với bầy gà chíu chít trước sân, hoa bướm nhởn nhơ...tất cả là ảo ảnh không hề có trong cảnh đời cơ cực của cha con PD! Tôi liền thay các bạn mình bên ấy gửi tặng gia đình tội nghiệp này thêm chút vốn liếng để tồn tại, và phần nào bớt khổ. Tôi hẹn khi tôi ra Huế, Danh có thể tháp tùng ra ngoài đó bán hàng. Vì PD đã phải chạy đôn chạy đáo, ngược xuôi khắp nơi, ở ĐN, vào Hội An, ra Huế để kiếm thị trường tiêu thụ. Luôn dịp cậu ta có thể giúp tôi một tay để khuân vác bao nhiêu hành lý nặng nề tôi đã tải từ bên ấy về cho Huế nghèo khổ tội nghiệp của tôi. Tôi quên nói là mỗi món hàng xinh xinh anh bán ra cho người buôn giá chưa tới 50 xu Mỹ kim! (để họ bán ra cho khách hàng non 2 đô la).
Sáng 29/5, tôi có cái hẹn với vài người bạn đồng nghiệp PCT. Anh Vĩnh Quyền, Chị Phan Thanh Gia Lai, chúng tôi ôn lại những ngày còn dạy học vui vẻ ở đó. Rồi tôi ghé vào thăm trường cũ. Tôi đứng mãi nơi hành lang lầu 1, buồn tiếc không nguôi khoảng thời gian còn làm cô giáo của mình ngày ấy. Tôi lướt qua hành lang tầng dưới. Tôi nhớ rằng không có phòng học nào tôi không từng làm quen. Đã 8 niên khóa, bao nhiêu là nhớ thương!
Khi bước vào văn phòng Hiệu trưởng, bất ngờ tôi gặp lại người học trò rất thân ngày xưa lúc tôi mới về đây day học. Anh là Lê Phú Kỳ. Người học trò giỏi đều các môn học. Anh còn là trưởng lớp suốt những năm làm học trò PCT. Tính tình hiền lành nhưng nghiêm túc, Lê Phú Kỳ đã đọat giải thưởng Trưởng lớp xuất sắc toàn trường vào năm học cuối ở trường, ở lớp đệ nhất. Tôi xúc động khi nghe anh kể lại kỷ niệm giờ đầu tiên tôi đến với 4B2. Vì tôi được bổ nhiệm về PCT khi GS Huỳnh Mai Trác, là giám học đã xếp kín giờ cho các giáo sư khác. Tôi đành phải nhận 8 giờ công dân ở 4 lớp đệ tứ; 12 giờ sử địa ở 6 lớp đệ thất, không có giờ Việt văn nào dành cho tôi, mà Quốc văn là môn ruột tôi đã được đào luyện kỹ càng ở Đại học Văn khoa Huế!
LPK kể, “Hôm ấy, cô bước vào lớp em với bộ áo dài trắng đơn sơ, tóc xõa ngang vai, và mặt mũi không một chút phấn son. Trông cô trẻ quá. Em tưởng như một nữ sinh nào đi lạc vào trường mình. Tên L liền đứng bật dậy hỏi, xin cô cho biết quý danh. Cô im lặng, lạnh lùng bước lên bục giảng. Cô cầm viên phấn trắng rồi thong thả nắn nót viết lên bảng đen dòng chữ: Bà Phan Thị Mộng Hoàn. Em nhớ rõ là cô đã viết chữ Bà thiệt to! Tôi nghe mà cười thầm, vì hồi đó mình biết đem cái tôi đã là lady để dọa học trò con trai phải coi chừng không được hỗn nhé! Kỳ còn khoe với bà xã rằng dạo đó cậu ta thường đến nhà cô giáo ở Kỹ Thuật để được mượn sách đọc. Sách của cô nhiều lắm, đọc hoài không chán. Phải rồi, thuở đó, tôi nhớ mỗi lần lãnh lương là tôi đạp xe đạp đến tiệm sách mua bao nhiêu là sách truyện hay quý. Với chỉ số lương 470 tha hồ cho tôi khuân bằng hết sách về cho thư viện riêng của mình.
Trước lúc về PCT, tôi xin được vào dạy giờ ở Đồng Khánh. Năm đó tôi phải đem 2 con nhỏ ra Huế cho bà ngoại chúng trông nom, và tôi rảnh rang đạp xe đến Văn khoa học cho xong chứng chỉ cuối cùng của bằng Cử nhân Giáo khoa Việt Hán. Nhà tôi muốn tôi phải chững chạc khi ra làm cô giáo, anh ấy buộc tôi phải về Huế vừa học vừa tập sự nghề gõ đầu trẻ! Khi quay về ĐN, may mắn nhờ có “gốc lớn” tôi được tuyển vào PCT. Ông Hiệu trưởng PCT chính là giáo sư toán Thái Doãn Ngà của tôi. Chắc chắn khi nhận tôi vào làm cô giáo cho trường PCT, ông Hiệu trưởng đã đo lường được “sức vóc” của tôi. Ngày đó ở ĐK, thầy toán TDN đã có lần bị cô học trò tinh quái “chọc” một bữa “khiếp đảm” nhớ đời. Đó là hôm lớp tôi tổ chức liên hoan vào dịp Tết. Bọn chúng tôi bàn nhau “nhốt” thầy toán một mình trong phòng khánh tiết với cả bầy nữ quái. Tôi nhớ Giáo sư toán đã hét thất thanh, ra lệnh, “PMH mau mở cửa!” Hôm đó tôi và một đứa bạn nữa được chia cắt phận sự trấn chặt cửa lớn không cho thầy toán “thoát” ra ngoài! Tất nhiên thầy Hiệu trưởng quyết định cho tôi làm giáo sư PCT vì hồi đi học tôi rất năng nỗ hoạt động hiệu đoàn, lại khá môn toán, nên chi thầy tin rằng PMH sẽ đủ sức đối phó với đám “nhất qũy nhì ma thứ ba học trò” của trường PCT này. Tuy nhiên vì tình trạng hoc trò ưa gây sóng gió ở các lớp tôi phụ trách, nên Ông Hiệu trưởng đã huy động tất cả ban Giám thị, Tổng GT, Giám thị hành lang, rồi Giám học. Các anh ấy với cây roi mây trong tay đã siêng năng dạo trước hành lang các lớp PMH đang dạy học. Tôi giận lắm, nên đã bàn thảo với học trò mình, rằng tôi sẽ làm đơn từ chức ở PCT, nếu tôi cứ phải dạy học trong tình trạng canh gác như thế. Các em phải hợp tác với tôi bằng cách ngoan ngoãn học hành, để nhà trường xả giới nghiêm cho tôi! Cuối cùng họ đã đồng ý. Thế là từ đó trời yên bể lặng, thầy trò chúng tôi vui vẻ học tập với nhau trong hòa bình. Và 8 năm gắn bó với ngôi trường nam sinh áo trắng tinh khôi mỗi sáng thứ hai vào giờ chào cờ, là 8 năm ăm ắp kỷ niệm vui nhiều hơn buồn của PMH với trường PCT.
Tối 29/5, học trò trường Áo Xanh rủ nhau mời tôi đến họp mặt ở “Phì Lủ 2”. Có đến 4 cặp vợ chồng đều là học sinh Kỹ Thuật. Tôi là cô giáo Quốc văn của cả vợ lẫn chồng. Yến, phu nhân giám đốc Cảng ĐN, đài các trong bộ áo đầm in hoa kể lại “Ngày ấy bọn em thích kéo nhau đến chơi nhà thầy cô, để mơ mộng tương lai mình tươi sáng như thế. Nhà thầy cô là ngôi biệt thự xinh đẹp nằm giữa bãi cỏ xanh mát. Em mê phòng khách lịch sự, và mê nhìn cô chơi dương cầm. Em thích một nếp sống nhẹ nhàng như thế. Ngoài những bài giảng văn ở lớp, cô thường chăm chút bày vẽ cho tụi em cách ăn nói, dáng điệu và phong cách của con gái Huế, sao cho dịu dàng. Cô còn cho bọn em nghỉ 5 phút cuối giờ học để “làm dáng”, chải tóc cho mượt, vuốt ve lại tà áo dài cho thẳng. Mặc dầu trong giờ học cô bắt mọi người phải nghiêm chỉnh buộc gọn mái tóc, để tránh nạn... quay phim! Tôi nghe mà buồn cười, nhớ lại, thì ra mình đã từng là “khuôn mẫu” lý tưởng điệu nghệ như rứa! Học trò ngây thơ của mình đâu có hay cô giáo họ một thời từng là thứ ranh ma qủy quái!
Sau buổi tiệc chiêu đãi thịnh soạn, Thu-Yến mời tôi lên xe hơi để dạo một vòng tham quan thành phố về đêm. Phải công nhận Đà Nẵng đã phát triển ghê quá. Có lẽ với tốc độ cao nhất nước. Những đại lộ thoáng mát sạch sẽ, những building cao ngất đủ kiểu cọ. Thành phố rực rỡ ánh đèn, trông thật xa hoa lộng lẫy. Hai vợ chồng Thu Yến thi nhau đánh bóng chế độ ưu việt XHCN. Tôi lặng yên ngồi nghe họ thuyết minh. ĐN đã xóa đói giảm nghèo. Quận 3 ĐN nhân dân đói khổ đã thoát cảnh đời đói khổ, ai cũng có nhà cao cửa rộng. ĐN không còn Cầu Vồng, hai bên xóm ao rau muống và bùn lầy nước đọng được thay bằng nhà lầu san sát, không còn ai nghèo như xưa. Nhân dân đã được bù lỗ quá với sự đòi hỏi của họ. Tôi nghe giọng Yến trong trẻo cất lên trong bóng tối của chiếc xe đang đưa tôi đi thăm cho hết ĐN sung sướng tột đỉnh! “Cô thấy không? cô làm sao tìm được vết tích ĐN cơ cực thời trước 75?!”
Tôi ngậm ngùi thương, vì ĐN đã không tìm đâu nữa cho tôi hàng phượng vỹ rũ bóng êm đềm con đường Thống Nhất, cho bầy nữ sinh áo trắng thơ mộng, xinh hơn bao giờ lúc tan trường về. Tôi còn xót xa trước cảnh sống khốn cùng của cha con người học trò nhiều hoa tay nay từng bữa kiếm cơm khó nhọc. Tôi ngẩn ngơ buồn vì nét cong cong của chiếc Cầu Vồng nổi lên giữa thành phố thân thương nay đã biến mất. Những con đường nhỏ xinh giờ không một phút giây ngơi tiếng động cơ ầm ĩ . Chiếc xe con thả tôi xuống trước con hẻm nhỏ nhà Trí Lan. Tôi thở ra khoan khoái. Ngước mắt nhìn lên bầu trời long lanh những vì sao sáng, tôi thầm thì cầu ơn trên cho quê hương thực sự hết lầm than. Căn nhà nhỏ của Trí Lan trong kia xóm nhỏ, đang đợi tôi về. Gia đình dễ thương của họ đã cho tôi cảm giác an bình thực sự khi về thăm ĐN. Tôi tự trách mình, sao quá vô duyên khi hồi nãy tôi đã lên tiếng xin người học trò giờ là vị giám đốc Cảng giàu sang tột bực, rằng có cách chi kiếm job cho PD, học trò PCT của tôi. Anh đã giải quyết gọn lẹ, “với tuổi đó anh ta làm sao vác nổi bao bị, và nếu sụm ngả thì chắc đến phiên em chết trước quá!”
Sáng tinh mơ ngày 30 tháng 5 tôi từ giã Đà Nẵng để ra Huế. Tiễn tôi trên sân ga có Võ Minh Trí, Đoàn Ngọc Tri cùng Lê Thanh Minh của dân B1.
Hôm nay trông Phạm Danh tươi tỉnh khác hẳn hôm mới gặp. Danh báo cáo cho cô giáo rằng anh đã mua cho các con anh một lu gạo đầy ắp, mua nước mắm cùng gia vị, thêm ít đồ khô, để cho bầy con anh ở nhà tự lo lấy cơm nước. Tôi nghĩ thầm Danh đang là gà trống nuôi con.
Tôi quay qua hỏi thăm cậu bé Lê Thanh Minh. Tôi nhớ ngày xưa chú chàng xinh ngoan, lanh chanh như con chim sẻ yêu đời, tôi thích gọi cậu ta lên lau bảng. Vậy mà nay Minh già nua ốm yếu như thánh Gandhi, cao như cây tre miểu và da thì đen như người Miên đen nhất. Minh đã lỡ một đời vợ. Nay lấy vợ khác và vừa có một đứa con trai đau ốm oặt ẹo. Tôi chỉ còn biết an ủi Minh gắng sống, làm việc nuôi vợ con. Tôi dúi vào tay cậu học trò tội nghiệp 500 ngàn Việt Nam. Tôi chỉ có thể giúp từng ấy. Tôi tự hứa khi trở về bên kia, tôi sẽ cố xoay xở giúp thêm gia đình cậu học trò nghèo khổ này. Bởi vì quỹ Tình Thương của nhóm chúng tôi đã lên list dành cho nhiều điểm hẹn nghèo khổ khác ngoài Huế rồi.
Còi tàu hụ lên não nuột. Tôi tiếp tục cuộc hành trình ra với quê nội còn quá nhiều đắng cay.
Hai tuần lễ ở Huế, tôi vội vàng chạy đi chia sẻ quà thực tế (bằng tiền USD) cho nhóm Trẻ khuyết tật Nguyệt Biều. Tôi nghe các xơ Dòng Mến Thánh Giá ở đây cho biết NB là nơi khởi xướng công tác từ thiện, cứu các thai nhi khỏi bị giết bỏ vì các bà mẹ trẻ lỡ dại phá thai. Ngay sau khi vừa tới Huế, tôi đã theo bà con Giáo Xứ Nguyệt Biều và Phường Đúc ra Quảng Trị, hành hương viếng Linh địa La Vang. Tại đây tôi đã gặp được Linh Mục Nguyễn Hữu Giải, bạn đồng chí với Cha Lý, người khét tiếng khắp thế giới vì đã can đảm liều chết đứng lên lên tranh đấu cho Nhân quyền và tự do Tôn giáo ở Việt nam. Tôi gửi cha Giải 300 đô số tiền bạn bè tôi bên ấy muốn nhờ Cha giúp chương trình Cứu mẹ lẫn con các bà mẹ Trẻ Lỡ dại. La Vang có tiếng thông reo vi vu hòa theo lời kinh nguyện của hàng ngàn giáo dân đang tha thiết van xin Đức Mẹ ban ơn lành cho gia đình mình. Tôi lắng hồn với lời gió ngàn gửi tâm tình lên với Mẹ Nhân Ái.
Từ nhiều năm nay, tôi, PMH bị ghi tên vào sổ đen vì những bài viết về Huế với giọng lưỡi căm hờn xỏ xiên...Với tội lỗi ấy tôi đã bị mời lên trao đổi văn hoá trên Công An Tỉnh. Có lẽ nhờ tôi là thứ điếc không sợ súng, tôi đã làm mụ Đông Ba mồm loa mép giải cãi tưới hột sen. Không biết có phải vì tôi đã loanh quanh, luẩn quẩn lý giải một cách vô trật tự khiến cho người nghe mình nói phải điên cái đầu, rứa là họ đành phải tha cho tôi về, đi chỗ khác chơi cho rảnh nợ! Tuy nhiên sự theo dõi rình rập của người bạn thân thiết của dân, khiến tôi phát chán. Tôi muốn cắt ngắn thời gian ở với cha già để quay vào Đà Nẵng. May cho tôi, về sau anh công an thân mến đã biến mất vì bận công tác đi xa!
Những trang Nhật Ký Viết Muộn này coi bộ đã lòng thòng quá rồi. Tôi sẽ ngưng lập tức. Người đọc chán, người viết còn chán hơn. Nhất là cơn buồn ngủ đang kéo tới, tôi xin chào các bạn...
Viết xong tại San Jose, trưa ngày 22/6/01
Phan Mộng Hoàn
Source : Hoàng hôn thôn Vỹ
Trang Phan Mộng Hoàn
art2all.net
Taipei, 19 tháng 6, 2001
Minhon con gái út của chúng tôi vừa đem từ khách sạn về điện thư của anh học trò PCT gửi cho me: “ Cô thương mến, cô đang ở đâu? VN có vui không? Em đang gom bài, cô đã viết cho tụi em chưa?.." .
Bây giờ là 3 giờ sáng, tôi trằn trọc không sao dỗ được giấc ngủ vì cái lỡ hẹn với ngày họp mặt sắp tới. Ba ngày ở Đài-Bắc mệt và vui bỗng nhiên vụt biến mất…Khoảng cuối tháng 5, giữa lúc tôi bận rộn sắp xếp cho chuyến đi xa, từ Houston Bác sĩ Nguyễn Văn Hào nhắn qua E Mail, “Chúc cô “qui cố hương” vui vẻ và đừng quên mất đường về- Em đã nhắn bạn bè, bọn học trò cũ của thầy cô, tụi hắn nao nức chờ vì hơn 25 năm thầy trò mình mới gặp lại nhau”. Vì thế tôi đã hăng hái hứa sẽ ghi lại tâm tình sống với quê hương từng ngày, sẽ gửi dần cho Houston. Nhưng hơn 3 tuần lễ dồn dập trôi nổi qua những dặm đường của đất nước tôi đã quên mất lời hẹn! Bởi vì khi quay trở lại chốn cội nguồn, bao nhiêu thương nhớ dâng trào cùng với nhịp đời quay cuồng trăn trở đã khiến tim tôi nhíu lại, xao xuyến, đã buồn nhiều hơn vui, đã xót xa trước những rẻo đời hiện ra ngay trước mắt mình từng phút từng giây.
Chuyến tàu hỏa S1, giường mềm, phòng riêng, chạy nhanh nhất nước, có máy lạnh v.v.. xình xịch, nhẩn nha đưa tôi đi. Từ Sàigòn ra Huế mất 18 tiếng đồng hồ.
“Tôi thấy tôi thương những chuyến tàu,
Ngàn đời không đủ sức đi mau.
Có chi vương vít trong hơi máy,
Mấy chiếc toa đầy nặng khổ đau"
Khi tàu chuyển bánh, Sàigòn rực rỡ ánh đèn. Sân ga thoáng, lát xi măng rộng rãi. Những quán sạch sẽ bày biện vui mắt đủ các mặt hàng. Không còn thấy đâu cảnh hỗn loạn với bọn con buôn chụp giựt trâng nháo. Còi hụ lên những hồi dài. Tôi đi vào bóng đêm êm ả. Từ lúc 5 me con tôi rời VN sang Mỹ đoàn tụ với bố con Vượt Tuyến cuối năm 90, tôi đã quay trở lại thăm quê nhà, lần này là lần thứ ba, cho nên nỗi háo hức không còn cao độ như những lần trước. Sáng hôm sau, tàu ngang qua ga Diêu Trì, rồi Nha Trang, tôi vẫn lười biếng nằm dài trên giường, mơ màng nhìn qua cửa sổ. Ngoài ấy thấp thoáng bầy chim trắng đứng chụm đầu với nhau trên hàng cột điện thân quen mà những lần trước tôi hằng gặp gỡ chúng.
Tôi không ra thẳng Huế như lịch trình đã ghi trên vé. Trái lại theo gợi ý khôn ngoan và thận trọng của vài người bạn và học trò thân ở Sàigòn, tôi xuống ga Đà Nẵng. Lý do ngoài ấy đang thời điểm “hot” vì vụ cha Lý. Tôi dân Catholic, chánh quán Dương Xuân Hạ, Hương Thủy, Thừa Thiên, quê nội là Phường Đúc, gần sát vách làng Nguyệt Biều. Như thế, biểu làm sao mọi người khỏi ớn giùm thân phận Việt kiều tôi! Chẳng thế trưa hôm nghe tôi báo tin, cô bạn Mười Một dưới Nam Cali la thất thanh trong ống liên hợp, bộ chị điên hay răng mà dè lúc ni chui đầu vô rọ?! Khi đi, bạn bè ai cũng chúc bình an và thêm, nhớ lẹ lẹ về với tổ ấm San Hô Thành nghe chưa mi!
Đón tôi ở ga Đà Nẵng, các em học sinh cũ của tôi hiện ra trước mắt với bó hoa hồng lộng lẫy đủ màu sắc và thơm ngát, khiến cho mình cảm động. Tôi không còn thấy thời tiết xứ Quảng oi bức. Trời đang khóc những giọt nước mưa bay bay mát rượi! Phe Áo Xanh có các anh Phạm Quang Vinh, Hà Ký. Bên PCT là các anh Võ Minh Trí và Trần Minh Thuấn. Trí nói, cô đảo lộn chương trình như ri, em không báo tin kịp cho bạn bè, chắc chắn tụi hắn sẽ giận oan em, cho em là độc quyền đón cô!
Bây giờ ĐN văn minh, có taxi chạy tính giờ bằng đồng hồ. Người tài xế liến thoắng giọng Quảng làm tôi ngỡ mình chưa hề rời xa thành phố này lúc nào. Xe chạy qua cầu Trịnh Minh Thế ngày xưa có tên cầu De Lattres nay trông nhỏ bé và tên mới gọi là gì tôi cũng không biết. Xa xa, lấp lánh trong nắng chiều nhịp cầu quay hiện đại, niềm hãnh diện của người dân sau thời “giải phóng”. Ngày đầu tiên ở đây tôi tạm trú nhà Vinh. Vợ Vinh dân Huế, hiền lành và ngó đảm đang ghê. Cô dâu Kỹ Thuật săn sóc tôi tận tình, ba đứa “cháu nội” xinh xắn, ngoan và học giỏi cứ quấn quanh bên mình, làm tôi nhớ bé Sông An- Zoe của chúng tôi ở Mỹ hết sức. Sáng hôm sau là Chúa nhật nên tôi quay về dự Thánh lễ ở Nhà thờ Chánh Tòa. Gặp đúng giờ lễ dành cho Thiếu nhi. Các em hát kinh xướng họa nghiêm trang. Ngôi thánh đường vang lừng nhạc thánh làm tôi quay quắt nhớ thời mình còn trẻ trung, bầy con nhỏ hằng tuần cùng ba me đến đây dâng Thánh lễ. Đã hơn 1/4 thế kỷ, cuộc đời dâu biển đến chóng mặt. Gia đình chúng tôi trôi dạt đến xứ người, may Chúa thương cho tất cả bình an và thành đạt. Tôi bùi ngùi vì quanh tôi không thấy có ai là người quen biết. Chuông ngân nga. Tiếng cầu kinh trong trẻo của các em nhỏ vang lên… Tôi nghĩ thầm, vậy là quê hương đang lúc hồi sinh.
Ngày 27/5, lớp 8 B2 PCT ngày xưa của tôi, chờ cô giáo Quốc văn ở quán nhậu, mà tên chủ quán là trưởng lớp Hồ Văn Trung năm tôi dạy họ nk 68-69. Tiếng anh Trần Đại Tăng hối thúc trong điện thoại, vì mãi sau 12 giờ trưa tôi vẫn chưa tới, trong lúc các em học sinh cũ đã họp mặt từ hồi 9 giờ sáng. Anh Tăng, anh Nguyễn Nguyên và Bùi Đình Nhuận là những bạn thân từng mở “cua” Toán-Lý-Hóa chung với nhà tôi dạo ấy. Giáo sư khét tiếng chuyên trị Đại số, vừa là thi sĩ sướt mướt của trường mình nay đẹp lão với mái tóc Ban Siêu trắng xóa. Anh nói, hôm nay còn có vài bạn đồng nghiệp nữa, như anh Lê Long Viên, Huỳnh Khải. Trời Đà Nẵng đổ mưa như trút hết nước. Như thế là ông trời cũng thương mình. Bia đã chảy như suối. Bao nhiêu là món nhậu hấp dẫn. Hèn chi tôi thấy cậu nào cũng tốt tướng với cái bụng...Đỗng Trác! Anh Huỳnh Khải, ngồi cạnh tôi, mặt rầu rầu vì bà xã ốm, nên không cùng đến tham dự. Anh Khải là giáo sư cố vấn lớp 10 B2, nk 70-71. Bấy giờ trưởng lớp là Trần Minh Thuấn, vì Hồ Văn Trung đã ra trường ngoài thi Tú Tài bán sớm hơn các bạn. Lúc này xảy ra tình trạng đôn quân, nên các em lớn tuổi sợ phải vào lính. Tôi lại phụ trách Quốc văn bầy học sinh năng nỗ này, nên tha hồ khai thác tài nghệ văn chương của họ. Năm đó các em sáng tạo tờ bích báo khổng lồ, do từ ý nghĩa “thanh sử”. Lê Quốc Việt, học rất giỏi vừa là tay hướng đạo nhà nghề nên đã huy động các bạn đốn tre. Tre chở từ Hòa Cầm về, được chẻ ra từng thanh nhỏ, rồi kết lại bằng dây thừng thành chuỗi dóng xuống như những hàng đều đặn trên các trang giấy. Những thân tre xanh biếc viền quanh như cuốn tập, gồm có 2 trang, 4 mặt giấy ghi đầy thơ văn, tùy bút... của các tác giả 10B2. Mỗi trang đo khoảng hơn 2 mét! Hôm khai mạc triển lãm nhân ngày đại lễ mừng kỷ niệm trường PCT 20 tuổi, nhà tôi đã chịu khó dùng chiếc xe truck của bên Kỹ Thuật để vận tải tờ bích báo có một không hai này đến PCT. Mọi người liếc thấy ai cũng tiên đoán, nó sẽ chiếm giải quán quân.
Các bạn Trần Đình Quân, Đông Trình, Trần Văn Thông, Dương Ngọc Tạo “háy, nguýt” PMH, họ phán rằng cô giáo mà chuyên môn ưng chơi trội!!! Khi thầy trò lớp 10B2 chúng tôi kéo nhau vênh vang đi chụp ảnh mừng chiến thắng, tôi điểm danh thấy vắng mặt những tên sừng sỏ như Lê Quốc Việt, Nguyễn Đình Xê...là những phóng viên trứ danh đã mất nhiều công lao cho tờ “Dấu Xanh” lừng lẫy ấy. Nghe kể rằng Lê Quốc Việt bận ngủ một giấc 3 ngày 3 đêm không ăn không uống để lấy lại sức sau 1 tuần gần như thức trắng, nỗ lực “vật lộn” với tờ báo!
Tôi vừa nhấm nháp món cua biển đầy ứ gạch ngon lành do tự tay trưởng lớp, í quên chủ quán “biên soạn”. Vừa ngắm mưa rơi ngoài kia, vừa mơ mộng nhớ lại thời mình còn làm cô giáo dạy văn ở PCT.
San Jose ngày 20 tháng 6 năm 2001
Đêm hôm qua “vườn khuya trăng sáng, hoa đứng im như mắt buồn...”, tôi thức mãi chờ giấc ngủ. Chuyển đổi giờ giấc từ hai nửa quả địa cầu càng như tăng thêm nỗi thương nhớ về quê mẹ mới đây còn trong tầm mắt, nay đã vời xa tựa dĩ vãng...
Theo thông lệ, người ở xa về có quyền hưởng chế độ “bao trọn gói” cho mọi buổi liên hoan họp mặt. Nhưng tôi là ngọai lệ. Các cậu học trò nói, tụi em đã đóng sở hụi rồi, cô khỏi bận tâm. Thế nên tôi đề nghị cho tôi làm một việc gì để ghi kỷ niệm với ĐN. Phạm Ngọc Văn liền gợi ý, thầy trò mình sẽ thăm Trại tâm thần Phước Tường, một trại tâm thần “mồ côi” vì không có thân nhân lui tới thăm nuôi. Tôi đồng ý ngày hôm sau sẽ cùng đi với phái đoàn thiện nguyện, mà nhóm Văn lâu nay quen tổ chức. Văn có bố là sĩ quan cải tạo đã qua Mỹ theo diện HO. Gia đình Văn ở lại, vì giỏi Anh ngữ nên Văn sống tạm tạm bằng nghề dạy tiếng Anh, với lương tiền đủ nuôi vợ con. Hằng tuần anh chạy đi làm việc Từ thiện. Bàn tay trái của anh thiếu mất 3 ngón, lý do Văn phải tự chặt bỏ để khỏi đi kinh tế mới. Gia đình cậu ta sau 75 nheo nhóc đến tận cùng.
Sáng 28/5, tôi ngồi trên chiếc xe van nhỏ chở đầy trái cây, chủ xe là Trương Thương, hôm đó ốm nên chú tài xế nhỏ làm công chạy thế. Mới hơn 7 giờ sáng mà ngọai ô ĐN đã tấp nập người xe như mắc cửi. Tôi mặc sức la hét đến khản cổ trước cảnh xe cộ chạy theo luật rừng. Đường sá thì ổ gà ổ vịt, xe nhằn xóc tưng bừng. Rứa mà không xảy ra tai nạn chết người cũng là phép lạ. Khi tôi đến địa điểm Trại thì mọi người trong phái đoàn đèo nhau bằng xe gắn máy đã tới từ lâu. Tôi ngồi trên lầu của văn phòng Trại uống nước trà đá, lơ đãng nghe mấy vị cán bộ kể về tổ chức Trại còn rất nghèo. Họ ước ao ân nhân từ xa ghé mắt đến thương lo cho bệnh nhân ở đây, vì quá cơ khổ. Tôi nhìn qua bên kia. Sau khung cửa sắt cao và chắc chắn, những người điên đàn ông trẻ và già đang bám tòn ten trên song sắt, họ chìa tay ra xin thuốc lá. Hèn chi tôi thấy quà đem lên có hàng trăm bao thuốc Đà Lạt. Trong sân lát xi măng những người điên khác, có cả phụ nữ đang rủ nhau rảo bước, tay ve vẩy đánh đàng xa. Mặt mũi tươi tỉnh một cách vô hồn.
Tôi đảo xuống nhà bếp. Lúc này khoảng hơn 9 giờ sáng mà các chị cấp dưỡng đã chuẩn bị sắp xong buổi ăn trưa. Căn phòng nhỏ mà nóng như địa ngục (!). Thoạt bước vào tôi đã muốn dội trở ra ngay, trong khi các chị cấp dưỡng vẫn vui vẻ làm việc. Họ chan mấy miếng thịt heo ba chỉ kho nước lên mặt tô cơm, tô nhôm chứa chừng 2 chén cơm. Tôi nếm thử thấy mặn miệng. Trong góc kia là những tô cơm còn có thêm rải rác mấy miếng dưa cải. Một chị giải thích, đó là phần dành cho các bệnh nhân mới vào có người nhà xin tăng thêm “chế độ” đặc biệt.
Tôi trở ra, rồi theo chân anh bảo vệ vào sâu phía trong nhà chính. Một mùi hôi của cống rảnh hực lên xông nồng nặc làm tôi ho sặc sụa và buồn nôn. Anh nhân viên nói, Sáng nay Trại đã được làm vệ sinh kỹ rồi đó chị. Sau đó tôi được anh Bác sĩ trẻ coi Trại cho biết sở dĩ Trại luôn bốc mùi hôi thối là bởi nhà nước cấp không đủ tiêu chuẩn (!) để được khai thông với hệ thống cống rãnh bên ngoài Trại!
Quành ra phía sau, tôi thấy một cô gái còn trẻ măng, mặt bịt mặt nạ bằng vải. Cô ta cầm vòi nước và xối nước vào người một bệnh nhân y phục Adam, tổ tiên loài người. Ông lão râu tóc bạc phơ, ngồi nép mình co ro bên bờ giếng. Khi trở ra, ngang qua một căn phòng mờ mờ tối, tôi thấy trong ấy có mấy người thanh niên tồng ngồng, cao lớn lực lưỡng, trông họ đẹp như những chàng người mẫu lớp Life Drawing, là lớp vẽ khỏa thân, hồi tôi còn theo học Art ở West Valley College- San Jose. Các chàng điên đang hăng hái đi lui đi tới không ngừng nghỉ theo kiểu diễn binh!
Qua các dãy phòng khác tôi ghê ghê trước hình ảnh những người điên già trẻ nam nữ, đang lộn xộn nằm ngồi ngửa nghiêng bên nhau trên những chiếc giường cá nhân nhỏ. Đeo vắt vẻo nơi thành cửa sổ phòng là vài chàng trai tay đưa ra, miệng nài nỉ tôi: “mẹ, mẹ, cho con tiền mua thuốc lá đi mẹ!”
Sau lúc phân phát xong quà gồm bánh, kẹo, trái cây, thuốc lá cho gần 300 bệnh nhân, chúng tôi rủ nhau chụp mấy tấm hình với các nhân viên phục vụ Trại. Gần 30 người, phần lớn là các cô còn trẻ. Họ phải lao động cật lực 10 giờ mỗi ngày với lương tháng chưa đến 20 đôla. Một anh y tá trẻ có chiếc mũi, sống mũi bị sập là do thành tích một chàng tâm thần thanh niên nổi máu uýnh cho vì hắn không thích bị chích thuốc lúc ốm nặng. Anh bảo vệ trực đêm, người nhỏ con nhưng trông rắn chắc, anh ta luôn sẵn sàng trong tư thế võ sĩ để vật lộn khi phải ép bệnh nhân khó trị uống thuốc...
Còn bao nhiêu chuyện cười ra nước mắt với cảnh đời eo hẹp nặng nhọc nơi những thiên thần sống động này. Họ đã tận tình chăm sóc những người điên bị thân nhân bỏ rơi. Những người điên vô tư sống giữa cảnh đời thực tế còn đầy dẫy đói khổ triền miên bên ngoài cổng Trại tâm thần. Tôi quyết định trích thêm 100 USD tiền của qũy “tình Thương” của nhóm chúng tôi ở hải ngoại để tặng bồi dưỡng cho anh chị em nhân viên phục vụ Trại tâm thần Phước Tường. Tôi xin phép được nói ít dòng về nhóm chúng tôi. Gồm bạn bè vốn cùng học ở Quốc Học Đồng Khánh Huế, từ 10 năm nay, chúng tôi quen lệ rủ nhau gom góp kẻ ít người nhiều, mỗi năm vài lần gửi tiền về giúp bà con khốn khổ bệnh tật, các em cô nhi khuyết tật, người cùi, người mù v.v...Tôi là một trong những trưởng lão cái bang, đệ tử của Hồng Thất Công, chuyên môn đi ăn mày tình thương nơi bạn bè. Chúng tôi thay nhau đem quà trực tiếp về giúp người đau khổ, tận tay cho họ và nhất định không mất một đồng xu nhỏ nào cho “Ai” ngoài kẻ cùng khốn.
Xế trưa cùng ngày, tôi vừa chợp được giấc ngủ ngắn ngủi giữa không khí ngột ngạt oi bức của ĐN thì bị đánh thức. Cậu học trò ngày xưa vẽ vời trang trí đẹp cho tờ báo lớp 10B2 là Phạm Danh. Hôm trước vì tôi hỏi thăm các em vắng mặt, Phạm Ngọc Quang BS cho tôi biết có Phạm Danh, nay rất đói khổ, vợ bỏ, anh phải nuôi bầy con 5 đứa, bữa đói nhiều hơn bữa no. Bình bạn thân từ lớp 1 với Danh, nhắn Danh đến gặp tôi. Tôi đã không cầm được nước mắt vì trước mặt mình là một con người tiều tụy, già e hơn tôi. Danh chỉ cho tôi 2 bao nilông đen khỗng lồ, trong đó chứa hằng trăm mẫu đồ chơi xinh xẻo do PD sáng chế từ những vật liệu phế thải, làm thành những món quà sinh nhật mỹ thuật để bán kiếm tiền nuôi con. Tôi ngắm ngôi nhà tí hon bằng nhựa, hoa lá vui tươi viền quanh, túp lều xinh xắn với bầy gà chíu chít trước sân, hoa bướm nhởn nhơ...tất cả là ảo ảnh không hề có trong cảnh đời cơ cực của cha con PD! Tôi liền thay các bạn mình bên ấy gửi tặng gia đình tội nghiệp này thêm chút vốn liếng để tồn tại, và phần nào bớt khổ. Tôi hẹn khi tôi ra Huế, Danh có thể tháp tùng ra ngoài đó bán hàng. Vì PD đã phải chạy đôn chạy đáo, ngược xuôi khắp nơi, ở ĐN, vào Hội An, ra Huế để kiếm thị trường tiêu thụ. Luôn dịp cậu ta có thể giúp tôi một tay để khuân vác bao nhiêu hành lý nặng nề tôi đã tải từ bên ấy về cho Huế nghèo khổ tội nghiệp của tôi. Tôi quên nói là mỗi món hàng xinh xinh anh bán ra cho người buôn giá chưa tới 50 xu Mỹ kim! (để họ bán ra cho khách hàng non 2 đô la).
Sáng 29/5, tôi có cái hẹn với vài người bạn đồng nghiệp PCT. Anh Vĩnh Quyền, Chị Phan Thanh Gia Lai, chúng tôi ôn lại những ngày còn dạy học vui vẻ ở đó. Rồi tôi ghé vào thăm trường cũ. Tôi đứng mãi nơi hành lang lầu 1, buồn tiếc không nguôi khoảng thời gian còn làm cô giáo của mình ngày ấy. Tôi lướt qua hành lang tầng dưới. Tôi nhớ rằng không có phòng học nào tôi không từng làm quen. Đã 8 niên khóa, bao nhiêu là nhớ thương!
Khi bước vào văn phòng Hiệu trưởng, bất ngờ tôi gặp lại người học trò rất thân ngày xưa lúc tôi mới về đây day học. Anh là Lê Phú Kỳ. Người học trò giỏi đều các môn học. Anh còn là trưởng lớp suốt những năm làm học trò PCT. Tính tình hiền lành nhưng nghiêm túc, Lê Phú Kỳ đã đọat giải thưởng Trưởng lớp xuất sắc toàn trường vào năm học cuối ở trường, ở lớp đệ nhất. Tôi xúc động khi nghe anh kể lại kỷ niệm giờ đầu tiên tôi đến với 4B2. Vì tôi được bổ nhiệm về PCT khi GS Huỳnh Mai Trác, là giám học đã xếp kín giờ cho các giáo sư khác. Tôi đành phải nhận 8 giờ công dân ở 4 lớp đệ tứ; 12 giờ sử địa ở 6 lớp đệ thất, không có giờ Việt văn nào dành cho tôi, mà Quốc văn là môn ruột tôi đã được đào luyện kỹ càng ở Đại học Văn khoa Huế!
LPK kể, “Hôm ấy, cô bước vào lớp em với bộ áo dài trắng đơn sơ, tóc xõa ngang vai, và mặt mũi không một chút phấn son. Trông cô trẻ quá. Em tưởng như một nữ sinh nào đi lạc vào trường mình. Tên L liền đứng bật dậy hỏi, xin cô cho biết quý danh. Cô im lặng, lạnh lùng bước lên bục giảng. Cô cầm viên phấn trắng rồi thong thả nắn nót viết lên bảng đen dòng chữ: Bà Phan Thị Mộng Hoàn. Em nhớ rõ là cô đã viết chữ Bà thiệt to! Tôi nghe mà cười thầm, vì hồi đó mình biết đem cái tôi đã là lady để dọa học trò con trai phải coi chừng không được hỗn nhé! Kỳ còn khoe với bà xã rằng dạo đó cậu ta thường đến nhà cô giáo ở Kỹ Thuật để được mượn sách đọc. Sách của cô nhiều lắm, đọc hoài không chán. Phải rồi, thuở đó, tôi nhớ mỗi lần lãnh lương là tôi đạp xe đạp đến tiệm sách mua bao nhiêu là sách truyện hay quý. Với chỉ số lương 470 tha hồ cho tôi khuân bằng hết sách về cho thư viện riêng của mình.
Trước lúc về PCT, tôi xin được vào dạy giờ ở Đồng Khánh. Năm đó tôi phải đem 2 con nhỏ ra Huế cho bà ngoại chúng trông nom, và tôi rảnh rang đạp xe đến Văn khoa học cho xong chứng chỉ cuối cùng của bằng Cử nhân Giáo khoa Việt Hán. Nhà tôi muốn tôi phải chững chạc khi ra làm cô giáo, anh ấy buộc tôi phải về Huế vừa học vừa tập sự nghề gõ đầu trẻ! Khi quay về ĐN, may mắn nhờ có “gốc lớn” tôi được tuyển vào PCT. Ông Hiệu trưởng PCT chính là giáo sư toán Thái Doãn Ngà của tôi. Chắc chắn khi nhận tôi vào làm cô giáo cho trường PCT, ông Hiệu trưởng đã đo lường được “sức vóc” của tôi. Ngày đó ở ĐK, thầy toán TDN đã có lần bị cô học trò tinh quái “chọc” một bữa “khiếp đảm” nhớ đời. Đó là hôm lớp tôi tổ chức liên hoan vào dịp Tết. Bọn chúng tôi bàn nhau “nhốt” thầy toán một mình trong phòng khánh tiết với cả bầy nữ quái. Tôi nhớ Giáo sư toán đã hét thất thanh, ra lệnh, “PMH mau mở cửa!” Hôm đó tôi và một đứa bạn nữa được chia cắt phận sự trấn chặt cửa lớn không cho thầy toán “thoát” ra ngoài! Tất nhiên thầy Hiệu trưởng quyết định cho tôi làm giáo sư PCT vì hồi đi học tôi rất năng nỗ hoạt động hiệu đoàn, lại khá môn toán, nên chi thầy tin rằng PMH sẽ đủ sức đối phó với đám “nhất qũy nhì ma thứ ba học trò” của trường PCT này. Tuy nhiên vì tình trạng hoc trò ưa gây sóng gió ở các lớp tôi phụ trách, nên Ông Hiệu trưởng đã huy động tất cả ban Giám thị, Tổng GT, Giám thị hành lang, rồi Giám học. Các anh ấy với cây roi mây trong tay đã siêng năng dạo trước hành lang các lớp PMH đang dạy học. Tôi giận lắm, nên đã bàn thảo với học trò mình, rằng tôi sẽ làm đơn từ chức ở PCT, nếu tôi cứ phải dạy học trong tình trạng canh gác như thế. Các em phải hợp tác với tôi bằng cách ngoan ngoãn học hành, để nhà trường xả giới nghiêm cho tôi! Cuối cùng họ đã đồng ý. Thế là từ đó trời yên bể lặng, thầy trò chúng tôi vui vẻ học tập với nhau trong hòa bình. Và 8 năm gắn bó với ngôi trường nam sinh áo trắng tinh khôi mỗi sáng thứ hai vào giờ chào cờ, là 8 năm ăm ắp kỷ niệm vui nhiều hơn buồn của PMH với trường PCT.
Tối 29/5, học trò trường Áo Xanh rủ nhau mời tôi đến họp mặt ở “Phì Lủ 2”. Có đến 4 cặp vợ chồng đều là học sinh Kỹ Thuật. Tôi là cô giáo Quốc văn của cả vợ lẫn chồng. Yến, phu nhân giám đốc Cảng ĐN, đài các trong bộ áo đầm in hoa kể lại “Ngày ấy bọn em thích kéo nhau đến chơi nhà thầy cô, để mơ mộng tương lai mình tươi sáng như thế. Nhà thầy cô là ngôi biệt thự xinh đẹp nằm giữa bãi cỏ xanh mát. Em mê phòng khách lịch sự, và mê nhìn cô chơi dương cầm. Em thích một nếp sống nhẹ nhàng như thế. Ngoài những bài giảng văn ở lớp, cô thường chăm chút bày vẽ cho tụi em cách ăn nói, dáng điệu và phong cách của con gái Huế, sao cho dịu dàng. Cô còn cho bọn em nghỉ 5 phút cuối giờ học để “làm dáng”, chải tóc cho mượt, vuốt ve lại tà áo dài cho thẳng. Mặc dầu trong giờ học cô bắt mọi người phải nghiêm chỉnh buộc gọn mái tóc, để tránh nạn... quay phim! Tôi nghe mà buồn cười, nhớ lại, thì ra mình đã từng là “khuôn mẫu” lý tưởng điệu nghệ như rứa! Học trò ngây thơ của mình đâu có hay cô giáo họ một thời từng là thứ ranh ma qủy quái!
Sau buổi tiệc chiêu đãi thịnh soạn, Thu-Yến mời tôi lên xe hơi để dạo một vòng tham quan thành phố về đêm. Phải công nhận Đà Nẵng đã phát triển ghê quá. Có lẽ với tốc độ cao nhất nước. Những đại lộ thoáng mát sạch sẽ, những building cao ngất đủ kiểu cọ. Thành phố rực rỡ ánh đèn, trông thật xa hoa lộng lẫy. Hai vợ chồng Thu Yến thi nhau đánh bóng chế độ ưu việt XHCN. Tôi lặng yên ngồi nghe họ thuyết minh. ĐN đã xóa đói giảm nghèo. Quận 3 ĐN nhân dân đói khổ đã thoát cảnh đời đói khổ, ai cũng có nhà cao cửa rộng. ĐN không còn Cầu Vồng, hai bên xóm ao rau muống và bùn lầy nước đọng được thay bằng nhà lầu san sát, không còn ai nghèo như xưa. Nhân dân đã được bù lỗ quá với sự đòi hỏi của họ. Tôi nghe giọng Yến trong trẻo cất lên trong bóng tối của chiếc xe đang đưa tôi đi thăm cho hết ĐN sung sướng tột đỉnh! “Cô thấy không? cô làm sao tìm được vết tích ĐN cơ cực thời trước 75?!”
Tôi ngậm ngùi thương, vì ĐN đã không tìm đâu nữa cho tôi hàng phượng vỹ rũ bóng êm đềm con đường Thống Nhất, cho bầy nữ sinh áo trắng thơ mộng, xinh hơn bao giờ lúc tan trường về. Tôi còn xót xa trước cảnh sống khốn cùng của cha con người học trò nhiều hoa tay nay từng bữa kiếm cơm khó nhọc. Tôi ngẩn ngơ buồn vì nét cong cong của chiếc Cầu Vồng nổi lên giữa thành phố thân thương nay đã biến mất. Những con đường nhỏ xinh giờ không một phút giây ngơi tiếng động cơ ầm ĩ . Chiếc xe con thả tôi xuống trước con hẻm nhỏ nhà Trí Lan. Tôi thở ra khoan khoái. Ngước mắt nhìn lên bầu trời long lanh những vì sao sáng, tôi thầm thì cầu ơn trên cho quê hương thực sự hết lầm than. Căn nhà nhỏ của Trí Lan trong kia xóm nhỏ, đang đợi tôi về. Gia đình dễ thương của họ đã cho tôi cảm giác an bình thực sự khi về thăm ĐN. Tôi tự trách mình, sao quá vô duyên khi hồi nãy tôi đã lên tiếng xin người học trò giờ là vị giám đốc Cảng giàu sang tột bực, rằng có cách chi kiếm job cho PD, học trò PCT của tôi. Anh đã giải quyết gọn lẹ, “với tuổi đó anh ta làm sao vác nổi bao bị, và nếu sụm ngả thì chắc đến phiên em chết trước quá!”
Sáng tinh mơ ngày 30 tháng 5 tôi từ giã Đà Nẵng để ra Huế. Tiễn tôi trên sân ga có Võ Minh Trí, Đoàn Ngọc Tri cùng Lê Thanh Minh của dân B1.
Hôm nay trông Phạm Danh tươi tỉnh khác hẳn hôm mới gặp. Danh báo cáo cho cô giáo rằng anh đã mua cho các con anh một lu gạo đầy ắp, mua nước mắm cùng gia vị, thêm ít đồ khô, để cho bầy con anh ở nhà tự lo lấy cơm nước. Tôi nghĩ thầm Danh đang là gà trống nuôi con.
Tôi quay qua hỏi thăm cậu bé Lê Thanh Minh. Tôi nhớ ngày xưa chú chàng xinh ngoan, lanh chanh như con chim sẻ yêu đời, tôi thích gọi cậu ta lên lau bảng. Vậy mà nay Minh già nua ốm yếu như thánh Gandhi, cao như cây tre miểu và da thì đen như người Miên đen nhất. Minh đã lỡ một đời vợ. Nay lấy vợ khác và vừa có một đứa con trai đau ốm oặt ẹo. Tôi chỉ còn biết an ủi Minh gắng sống, làm việc nuôi vợ con. Tôi dúi vào tay cậu học trò tội nghiệp 500 ngàn Việt Nam. Tôi chỉ có thể giúp từng ấy. Tôi tự hứa khi trở về bên kia, tôi sẽ cố xoay xở giúp thêm gia đình cậu học trò nghèo khổ này. Bởi vì quỹ Tình Thương của nhóm chúng tôi đã lên list dành cho nhiều điểm hẹn nghèo khổ khác ngoài Huế rồi.
Còi tàu hụ lên não nuột. Tôi tiếp tục cuộc hành trình ra với quê nội còn quá nhiều đắng cay.
Hai tuần lễ ở Huế, tôi vội vàng chạy đi chia sẻ quà thực tế (bằng tiền USD) cho nhóm Trẻ khuyết tật Nguyệt Biều. Tôi nghe các xơ Dòng Mến Thánh Giá ở đây cho biết NB là nơi khởi xướng công tác từ thiện, cứu các thai nhi khỏi bị giết bỏ vì các bà mẹ trẻ lỡ dại phá thai. Ngay sau khi vừa tới Huế, tôi đã theo bà con Giáo Xứ Nguyệt Biều và Phường Đúc ra Quảng Trị, hành hương viếng Linh địa La Vang. Tại đây tôi đã gặp được Linh Mục Nguyễn Hữu Giải, bạn đồng chí với Cha Lý, người khét tiếng khắp thế giới vì đã can đảm liều chết đứng lên lên tranh đấu cho Nhân quyền và tự do Tôn giáo ở Việt nam. Tôi gửi cha Giải 300 đô số tiền bạn bè tôi bên ấy muốn nhờ Cha giúp chương trình Cứu mẹ lẫn con các bà mẹ Trẻ Lỡ dại. La Vang có tiếng thông reo vi vu hòa theo lời kinh nguyện của hàng ngàn giáo dân đang tha thiết van xin Đức Mẹ ban ơn lành cho gia đình mình. Tôi lắng hồn với lời gió ngàn gửi tâm tình lên với Mẹ Nhân Ái.
Từ nhiều năm nay, tôi, PMH bị ghi tên vào sổ đen vì những bài viết về Huế với giọng lưỡi căm hờn xỏ xiên...Với tội lỗi ấy tôi đã bị mời lên trao đổi văn hoá trên Công An Tỉnh. Có lẽ nhờ tôi là thứ điếc không sợ súng, tôi đã làm mụ Đông Ba mồm loa mép giải cãi tưới hột sen. Không biết có phải vì tôi đã loanh quanh, luẩn quẩn lý giải một cách vô trật tự khiến cho người nghe mình nói phải điên cái đầu, rứa là họ đành phải tha cho tôi về, đi chỗ khác chơi cho rảnh nợ! Tuy nhiên sự theo dõi rình rập của người bạn thân thiết của dân, khiến tôi phát chán. Tôi muốn cắt ngắn thời gian ở với cha già để quay vào Đà Nẵng. May cho tôi, về sau anh công an thân mến đã biến mất vì bận công tác đi xa!
Những trang Nhật Ký Viết Muộn này coi bộ đã lòng thòng quá rồi. Tôi sẽ ngưng lập tức. Người đọc chán, người viết còn chán hơn. Nhất là cơn buồn ngủ đang kéo tới, tôi xin chào các bạn...
Viết xong tại San Jose, trưa ngày 22/6/01
Phan Mộng Hoàn
Source : Hoàng hôn thôn Vỹ
Trang Phan Mộng Hoàn
art2all.net
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)