3/3/13

Những bài học về cuộc chiến Việt-Trung 1979



    
26.02.2013

 bởi  Nguyễn Hưng Quốc

Cuộc chiến tranh biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc năm 1979 là cuộc chiến tranh đầu tiên giữa hai nước trong thời hiện đại; là một trong hai cuộc chiến tranh đầu tiên giữa hai quốc gia xã hội chủ nghĩa (cuộc chiến kia là giữa Việt Nam và Campuchia năm 1978); là một trong những cuộc chiến tranh ngắn ngủi nhất trên thế giới (tính từ ngày Trung Quốc bắt đầu tấn công Việt Nam 17/2 đến lúc Trung Quốc tuyên bố kết thúc cuộc tấn công 5/3 là 17 ngày; đến ngày Trung Quốc rút hết quân khỏi Việt Nam, 16/3, là 27 ngày), nhưng đồng thời cũng là một trong những cuộc chiến tranh đẫm máu nhất, với trên 20.000 người bị giết chết mỗi bên; (nếu chia đều số người bị chết này cho thời gian thực sự của cuộc chiến, con số tử vong hàng ngày rất cao). Đó là chưa kể các thiệt hại khác về cơ sở vật chất và đời sống của dân chúng.

Tại sao Trung Quốc, nước từng viện trợ cho Việt Nam trên 20 tỉ đô la suốt cả cuộc chiến tranh trước 1975 lại quyết định tấn công Việt Nam? Họ thường nêu lên bốn lý do chính: Một, đập tan giấc mộng bá quyền của Việt Nam ở Đông Nam Á; hai, trừng phạt Việt Nam về tội quấy phá ở vùng biên giới của hai nước; ba, trả thù việc Việt Nam đối xử tàn tệ đối với các Hoa kiều (trấn áp, tịch thu tài sản và xua đuổi họ ra khỏi nước); và bốn, dằn mặt việc Việt Nam ký hiệp ước liên minh với Liên Xô để mở rộng ảnh hưởng của Liên Xô ở Đông Nam Á. Các nhà bình luận chính trị quốc tế nêu lên ba mục tiêu chính của Trung Quốc: Một, tấn công có giới hạn một số vùng đất dọc biên giới để trừng phạt Việt Nam; hai, tạo sức ép để Việt Nam phải rút quân khỏi Campuchia; và ba, để Việt Nam - và từ đó, các nước khác - hiểu là không thể tin cậy vào sự liên minh với Liên Xô, từ đó, có thể cắt đứt mối liên minh ấy để quay về với Trung Quốc.

Trung Quốc thành công hoàn toàn ở mục tiêu đầu, dĩ nhiên với một giá rất đắt về nhân mạng. Nhưng hai mục tiêu sau thì họ lại thất bại: Việt Nam không những không rút quân khỏi Campuchia mà còn đóng chiếm ở đó trên 10 năm; Việt Nam không những không bất mãn Liên Xô mà còn tiếp tục giữ liên minh chặt chẽ với Liên Xô đến tận lúc Liên Xô sụp đổ vào năm 1990.

Đối với cuộc xâm lược của Trung Quốc, bộ máy tuyên truyền của Việt Nam có hai thái độ hoàn toàn trái ngược nhau: Trước, họ lên án Trung Quốc một cách kịch liệt; sau, họ hoàn toàn im lặng và bắt buộc mọi người phải im lặng theo. Trước, họ xem Trung Quốc như một tên đế quốc luôn luôn có tham vọng bá quyền và bành trướng; sau, họ lại xem Trung Quốc là một láng giềng tốt và một đồng chí tốt. Ở cả hai giai đoạn và với hai thái độ khác nhau ấy, Việt Nam đi từ cực đoan này sang cực đoan khác. Và cực đoan nào cũng nguy hiểm như nhau. Cái nguy hiểm nhất là chúng ngăn chận người ta học được những bài học cần thiết.

Trong số những bài học cần thiết ấy, theo tôi, bài học đầu tiên cần được nhấn mạnh là: Đừng ngây thơ.

Quan sát và/hoặc tìm hiểu cuộc chiến tranh biên giới năm 1979, hầu như mọi nhà nghiên cứu đều ghi nhận một điểm giống nhau: Việt Nam hoàn toàn bị bất ngờ trước sự tấn công của Trung Quốc. Lúc lính Trung Quốc tràn qua biên giới Việt Nam, lực lượng phòng thủ của Việt Nam chủ yếu là bộ đội địa phương; còn trong giới lãnh đạo thì cả Phạm Văn Đồng lẫn Văn Tiến Dũng đều đang đi thăm Campuchia. Trong cuốn Bên thắng cuộc, Huy Đức kể, những người được phỏng vấn về cuộc tấn công ấy cũng đều cho là Việt Nam hoàn toàn không chuẩn bị trước. Với giới quan sát và nghiên cứu, cảm giác bất ngờ của Việt Nam quả là điều… bất ngờ. Nhiều người kể, ngay trước năm 1975, Lê Duẩn vừa nhận viện trợ của Trung Quốc lại vừa nghi ngại Trung Quốc; sau năm 1975, ông cũng biết rõ là nếu Việt Nam tấn công Campuchia, Trung Quốc sẽ tấn công Việt Nam. Vậy mà, lạ, lúc Trung Quốc tấn công Việt Nam, ông cũng như toàn bộ giới lãnh đạo Việt Nam vẫn thấy bất ngờ. Tại sao? Người ta giải thích: Giới lãnh đạo Việt Nam vẫn tin là Trung Quốc chỉ doạ dẫm chứ sẽ không đánh họ; vẫn tin là tình đồng chí giữa hai nước xã hội chủ nghĩa, tuy bị thử thách nghiêm trọng, vẫn đủ để ngăn chận một cuộc xâm lược.

Kể ra, sau khi đã từng bị Campuchia, một nước xã hội chủ nghĩa anh em khác, tấn công và sau khi đã dẫn quân tràn qua biên giới càn quét người anh em xã hội chủ nghĩa ấy, mà vẫn còn tin như thế được quả là một sự ngây thơ đáng kinh ngạc. Ngây thơ đến dại dột.

Nhưng ở đây, có đến hai sự ngây thơ. Ngoài sự ngây thơ đối với tình đồng chí xã hội chủ nghĩa của Trung Quốc, còn có sự ngây thơ đối với tình đồng chí của Liên Xô. Trước đó, Việt Nam đã từng ký kết hiệp ước hữu nghị và hợp tác quốc phòng với Liên Xô, những tưởng Liên Xô sẽ ra tay bảo vệ Việt Nam trước sự xâm lược của Trung Quốc. Chính Trung Quốc cũng tưởng như vậy nên, để hoá giải sự trả đũa của Liên Xô, họ đề ra ba sách lược chính: Một, đi vận động sự ủng hộ của Mỹ, Nhật và các nước Đông Nam Á cho chiến dịch đánh Việt Nam, để các nước này, sau đó, có thể ủng hộ họ trong trận đối đầu với Liên Xô nếu Liên Xô nhảy vào bênh vực Việt Nam; hai, tuyên bố cuộc chiến tranh nhằm “dạy cho Việt Nam một bài học” chỉ là một cuộc chiến tranh giới hạn về cả quy mô (không dùng không quân), mục tiêu (chỉ nhắm tiến sâu vào lãnh thổ Việt Nam khoảng vài chục cây số) và thời gian (trong vòng vài tuần) để Liên Xô không có cớ chính đáng gây chiến với Trung Quốc; và ba, chọn thời điểm mở đầu cuộc tấn công vào giữa tháng Hai để, một mặt, tránh được mùa mưa (thường bắt đầu vào tháng Tư) và, mặt khác, đã qua hết mùa đông - băng trên các dòng sông dọc biên giới Trung Quốc và Liên Xô đã tan chảy hết - , tránh tình trạng Liên Xô có thể dễ dàng xua quân tràn qua mặt sông đóng băng cứng để tấn công Trung Quốc. Nhưng cả Việt Nam lẫn Trung Quốc đều đoán sai. Khi quân Trung Quốc tràn qua biên giới đánh chiếm Việt Nam, Liên Xô vẫn án binh bất động.

Bởi vậy, ngay sau khi chiến tranh biên giới bùng nổ, giới bình luận chính trị trên thế giới đều nhận ra một điều: quyền lợi quốc gia quan trọng hơn hơn ý thức hệ nhiều. Không nên tin vào cái gọi là tình đồng chí quốc tế.

Bài học thứ hai là cần tìm hiểu kỹ hơn về Trung Quốc. Hầu như ai cũng biết: mặc dù sống sát cạnh Trung Quốc, chịu ảnh hưởng nặng nề của Trung Quốc và thường xuyên đánh nhau với Trung Quốc, sự hiểu biết của Việt Nam về Trung Quốc, kể cả trong giới học giả, lại rất giới hạn. Cuộc tấn công của Trung Quốc năm 1979 cho thấy một yếu kém nghiêm trọng khác của Việt Nam: tình báo. Lâu nay, giới truyền thông thường làm ồn ào về tài tình báo của Việt Nam ở miền Nam: Họ lọt vào cả những chức vụ quan trọng nhất trong guồng máy chính quyền miền Nam. Tuy nhiên, với Trung Quốc thì họ lại hoàn toàn mù mờ. Từ giữa năm 1978, giới lãnh đạo Trung Quốc đã bắt đầu bàn luận về kế hoạch tấn công Việt Nam: Họ hoàn toàn không biết. Từ cuối năm 1978, Trung Quốc bắt đầu lên kế hoạch tấn công: Họ cũng không biết. Cũng từ cuối năm 1978 và đầu năm 1979, Trung Quốc liên tục đàm phán với Mỹ, Nhật và một số nước Đông Nam Á, như Thái Lan và Malaysia, về việc tấn công Việt Nam: Họ cũng không biết. Tệ nhất là sự kiện: để điều động trên 300.000 quân với vũ khí và lương thực đến biên giới, Trung Quốc cần ít nhất là ba tháng, với cả hàng trăm ngàn dân công: Họ cũng không biết.

Đến lúc Trung Quốc chính thức nổ súng, họ vẫn không biết gì về kế hoạch đánh mạnh, phá sạch và rút nhanh của Trung Quốc cả. Trong khi Trung Quốc chỉ đặt chỉ chỉ tiêu là tiến sâu vào khoảng 30-40 cây số, chiếm hai tỉnh lỵ Cao Bằng và Lạng Sơn là rút quân về nước ngay, Việt Nam vẫn chuẩn bị cho phòng tuyến hai, nhằm bảo vệ Hà Nội, để mặc cho dân quân và một số ít bộ đội chủ lực chống chọi với Trung Quốc ở biên giới.

Việt Nam bị hớ trong việc phòng thủ biên giới. Họ lại hớ lần nữa trong việc phòng thủ Hà Nội, nơi Trung Quốc không hề có ý định tấn công. Cả hai lần hớ ấy đều xuất phát từ một nguyên nhân: Thiếu tin tức.

Bài học thứ ba: Trong lúc giới lãnh đạo ngây thơ và hớ hênh trong chiến lược phòng thủ như vậy, những kẻ thực sự có công đầu trong việc đánh chận quân xâm lược Trung Quốc chính là các dân quân du kích và bộ đội địa phương ở các tỉnh biên giới. Toàn bộ bộ đội và du kích Việt Nam là khoảng 100.000 người trong khi bộ đội Trung Quốc lên đến khoảng 300.000 người. Như vậy, một người lính Việt Nam phải chọi lại ba người lính Trung Quốc. Họ không đủ khả năng ngăn chận được Trung Quốc. Họ chỉ làm được hai điều: Một, làm chậm bước tiến của quân Trung Quốc; và hai, gây thiệt hại nặng nề cho lính Trung Quốc. Trong khi đó, hầu hết quân chủ lực của Việt Nam thì hoặc đang ở Campuchia hoặc đang canh giữ phòng tuyến hai gần Hà Nội.

Theo các nhà phân tích quân sự và chính trị quốc tế, sở dĩ bộ đội và du kích ở các tỉnh biên giới chiến đấu giỏi như vậy là nhờ bốn yếu tố chính: Một, họ quen thuộc với địa hình núi non hiểm trở ở vùng biên giới; hai, họ có thật nhiều kinh nghiệm chiến đấu sau hai cuộc chiến tranh kéo dài cả ba mươi năm; ba, vũ khí của họ tối tân hơn hẳn Trung Quốc (chủ yếu là nhờ nguồn vũ khí tịch thu ở miền Nam năm 1975); và bốn, tinh thần yêu nước và sự dũng cảm của họ rất cao.

Xin lưu ý: trong bốn yếu tố tạo nên ưu thế của quân đội Việt Nam năm 1979, yếu tố thứ hai và thứ ba hoàn toàn trở thành vô hiệu theo thời gian. Năm 1979 bộ đội và cả tướng lĩnh Trung Quốc bị xem là thiếu kinh nghiệm chiến đấu vì cuộc chiến tranh gần nhất mà họ tham gia là ở Triều Tiên, trước đó 26 năm (1953). Đó cũng là trường hợp của bộ đội và tướng lĩnh Việt Nam hiện nay: Cuộc chiến tranh lớn mà họ tham gia, ở Campuchia năm 1978 và ở biên giới Việt-Trung năm 1979, cách đây đã trên 30 năm. Còn yếu tố thứ tư thì bị chính chính quyền Việt Nam ra tay đập phá triệt để bằng nhiều biện pháp khác nhau: một, ngăn cấm mọi biểu hiện của tình thần yêu nước, từ việc phát biểu bằng lời đến việc bày tỏ thái độ qua các vụ biểu tình; hai, vu khống và nhục mạ những người bộc lộ lòng yêu nước và lên án các hành động uy hiếp hay sách nhiễu của Trung Quốc; ba, ngăn cấm mọi hình thức kỷ niệm hay tưởng niệm chiến tranh chống Trung Quốc; và bốn, tuyên truyền cho một thứ chủ nghĩa đầu hàng được nguỵ trang dưới chiêu bài láng giềng tốt và đồng chí tốt.

Ở trên, tôi nêu lên ba bài học chính. Bạn thử nghĩ xem: chính quyền Việt Nam học được mấy bài?

***
Chú thích: Các sự kiện và số liệu sử dụng trong bài viết này được lấy từ nhiều nguồn khác nhau, nhung nhiều nhất là từ bài “China’s 1979 war with Vietnam: A reassessment” của Xiaoming Zhang trên The China Quarterly 2005, tr. 851-874.

* Blog của Tiến sĩ Nguyễn Hưng Quốc là blog cá nhân. Các bài viết trên blog được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.

Theo : VOA

2/3/13

Lộ trình xây dựng một hiến pháp dân chủ – Phần I


Tháng 3 2, 2013
Mai Thái Lĩnh

Hạ tuần tháng 1 năm 2013, trước Tết Nguyên đán, đã xảy ra một sự kiện gây chấn động dư luận. Đó là việc 72 vị nhân sĩ, trí thức đã cùng nhau ký một bản kiến nghị có tên là “Kiến nghị về sửa đổi Hiến pháp 1992” (đề ngày 19-1-2013)[1]. Điều đáng  chú ý là trong danh sách những người khởi xướng, có ít nhất một nửa là đảng viên cộng sản, trong đó có những người đã từng giữ chức vụ cao hoặc đã từng làm cố vấn cho các nhà lãnh đạo cao cấp trong hệ thống chính trị hiện hành. Lướt qua nội dung của kiến nghị cũng như bản dự thảo Hiến pháp đính kèm (được coi như một tài liệu để tham khảo và thảo luận), chúng ta dễ dàng nhận thấy những người ký kiến nghị đã bày tỏ một quan điểm về hiến pháp chẳng những vượt ra khỏi khuôn khổ của hiến pháp hiện hành (tức Hiến pháp 1992 – bản sửa đổi năm 2001) mà còn vượt xa bản hiến pháp đầu tiên do Đảng Cộng sản soạn thảo dưới danh nghĩa của tổ chức Việt Minh (tức Hiến pháp 1946).

Được công bố trên trang mạng Bauxite Vietnam đầy uy tín, chỉ tính cho đến ngày 28-2-2013, tức là chưa đầy một tháng rưỡi kể từ ngày công bố, đã có hơn 6 ngàn chữ ký được thu thập để ủng hộ bản kiến nghị này. Đây là một kết quả không thể xem thường, nhất là trong hoàn cảnh của một chế độ toàn trị nổi tiếng là khắt khe bậc nhất trên thế giới. Không thể giữ im lặng trước sự kiện này, vào hạ tuần tháng 2 năm 2013, trong một chuyến thăm và làm việc tại tỉnh Vĩnh Phú, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã phát biểu như sau:

“… Vừa rồi đã có các luồng ý kiến thì cũng có thể quy vào được là suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống chứ gì nữa… Xem ai có tư tưởng là muốn bỏ Điều 4 Hiến pháp không, phủ nhận vai trò lãnh đạo của đảng không? Muốn đa nguyên đa đảng không? Muốn “tam quyền phân lập” không? Hả? Muốn “phi chính trị hóa quân đội” không? Người ta đang có những quan điểm đấy!… Đưa cả lên phương tiện thông tin đại chúng đấy. Thì như thế là suy thoái chứ còn gì nữa! Chỉ ở đâu nữa nào?… Tham  gia đi khiếu kiện, biểu tình, ký đơn tập thể… thì nó là cái gì?!… Cho nên các đồng chí quan tâm xử lý cái này.”

Qua phát biểu của người đứng đầu đảng cầm quyền, chúng ta có thể thấy rõ sự khác biệt về quan điểm trong nội bộ những người cộng sản, một khoảng cách chênh lệch rất xa giữa một bên là quan điểm thủ cựu của Bộ Chính trị Đảng Cộng sản – bộ máy quyền lực cao nhất của Đảng, và phía bên kia là quan điểm của những đảng viên cộng sản có tư tưởng cởi mở, tiến bộ – phản ánh phần nào ý chí, nguyện vọng của nhân dân.

Nhưng một sự kiện khác xảy ra sau đó lại làm nổi bật mâu thuẫn trầm trọng hơn giữa ý chí của Đảng và nguyện vọng của nhân dân: ngay sau khi kênh truyền hình trung ương VTV1 phát đoạn video này trong chương trình thời sự 19h ngày 25-2-2013, nhà báo Nguyễn Đắc Kiên làm việc tại báo Gia đình & Xã hội đã phản ứng bằng một bài viết đăng trên blog của anh, qua đó anh công khai phản đối ý kiến của ông Tổng Bí thư và tuyên bố ủng hộ đa nguyên, đa đảng. Trong vòng chưa đầy 24 giờ, anh bị tòa báo đuổi việc.

Điều đáng chú ý là trong bài viết của mình, nhà báo Nguyễn Đắc Kiên đã đưa ra lời tuyên bố gồm 5 điểm trong đó điểm đầu tiên thể hiện một lập trường hết sức dứt khoát về vấn đề hiến pháp: “Tôi không chỉ muốn bỏ Điều 4 trong Hiến pháp hiện hành, mà tôi muốn tổ chức một Hội nghị lập hiến, lập một Hiến pháp mới để Hiến pháp đó thực sự thể hiện ý chí của toàn dân Việt Nam, không phải là ý chí của đảng cộng sản như Hiến pháp hiện hành.”[2]

Đây không phải chỉ là ý kiến riêng của nhà báo trẻ Nguyễn Đức Kiên mà còn là ý kiến của rất nhiều người Việt yêu nước, yêu dân chủ. Chính vì thế, chỉ vài ngày sau đó, vào ngày 28-3-2013, lời tuyên bố của công dân Nguyễn Đắc Kiên đã trở thành Lời tuyên bố của các công dân tự do với 5 điểm có nội dung tương tự, chỉ khác nhau một điểm căn bản: thay cho đại từ “tôi” là đại từ “chúng tôi”. Kết thúc bản tuyên bố là một lời mời gọi: “Xin hãy chung tay để cho LỜI TUYÊN BỐ CÔNG DÂN TỰ DO này trở thành sợi dây bền vững kết nối hàng triệu triệu trái tim Việt Nam”. Cùng với bản kiến nghị do 72 nhân sĩ, trí thức đề xướng, lời tuyên bố này –xuất phát từ sáng kiến của các blogger trẻ, càng thể hiện rõ nguyện vọng thật sự của toàn thể nhân dân Việt Nam trong vấn đề hiến pháp.[3]

Bài viết này được viết với mục đích cung cấp thêm những nền tảng lý luận và cơ sở thực tế của vấn đề sử dụng quyền lập hiến, một mặt cốt để làm rõ vấn đề “sửa đổi hiến pháp hay viết lại hiến pháp”, và đó cũng là cách góp phần tìm kiếm một giải pháp, một lộ trình phù hợp với hoàn cảnh của đất nước ta trong giai đoạn đặc biệt quan trọng hiện nay.

Phần I: Sửa đổi hiến pháp hay viết lại hiến pháp?

Trước tiên, để có thể hiểu rõ sự xung đột về quan điểm xung quanh vấn đề hiến pháp, chúng ta cần tìm hiểu đôi chút về khái niệm “quyền lập hiến”.  Mặc dù ngành luật học ở nhiều quốc gia trên thế giới đều có bộ môn Luật Hiến pháp (droit constitutionel, constitutional law), nhưng không phải ở đâu giới luật học cũng quan tâm đến vấn đề “quyền lập hiến”. Trong bài này, tôi sẽ dựa vào những nghiên cứu luật học của nước Pháp, một quốc gia tuy là cái nôi của cuộc cách mạng vĩ đại làm rung chuyển toàn bộ thế giới, nhưng lại là một trong những quốc gia phải trải qua rất nhiều truân chuyên trên con đường ổn định hệ thống chính trị dân chủ (tính từ cuối thế kỷ 18 đến nay, nước Pháp đã có tổng cộng 17 bản hiến pháp).

Hai loại quyền lập hiến

Emmanuel-Joseph Sieyès (một lý thuyết gia của cuộc Cách mạng Pháp) là người đầu tiên nêu ra khái niệm “quyền lập hiến”. Trong tác phẩm nổi tiếng Đẳng cấp thứ ba là gì? (Qu’est-ce que le Tiers-État?) công bố năm 1789, ông viết:  “Trong mỗi bộ phận, hiến pháp không phải là kết quả của quyền hiến định, mà là kết quả của quyền lập hiến”.

Sự khác biệt là ở chỗ: quyền lập hiến (pouvoir constituant) là “quyền làm ra hiến pháp”, trong khi quyền hiến định (pouvoir constitué) là “quyền lực được tạo ra bởi hiến pháp”. Như chúng ta đã biết, do ảnh hưởng chủ yếu của Montesquieu, người ta thường chia quyền lực nhà nước thành ba nhánh chính: quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp. Ba quyền lực đó là quyền lực hiến định, chúng được tổ chức và vận hành dựa theo hiến pháp, trong khuôn khổ của hiến pháp. Quyền lập hiến là nguồn gốc của các quyền hiến định, đương nhiên phải cao hơn các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.

Tuy nhiên, quyền lập hiến không phải lúc nào cũng thể hiện giống nhau. Nếu quan sát kỹ lịch sử của các quốc gia trên thế giới, chúng ta thấy có khi quyền lập hiến được sử dụng để “làm ra một hiến pháp mới”, có khi chỉ được sử dụng để “sửa đổi, bổ sung một hiến pháp đã có sẵn”.

Việc phân biệt hai loại quyền lập hiến này là thành quả nghiên cứu của thế kỷ 20, và người đầu tiên khám phá ra sự khác biệt này là Raymond Carré de Malberg (1861-1935) – nhà luật học và hiến pháp học nổi tiếng đã khởi xướng trường phái thực nghiệm trong luật học (positivisme juridique) tại Pháp. Trong tác phẩm Góp phần vào lý thuyết tổng quát về nhà nước (Contribution à la théorie générale de l’Etat) xuất bản năm 1922, Carré de Malberg phân biệt giữa “quyền lập hiến trong việc thiết lập hiến pháp đầu tiên của nhà nước” và “quyền lập hiến trong một nhà nước đã hình thành”. Theo ông, vấn đề quyền lập hiến trong việc thiết lập hiến pháp đầu tiên của nhà nước không phải là vấn đề thuộc lĩnh vực pháp lý: “việc hình thành đầu tiên của một nhà nước, cũng như tổ chức đầu tiên của nó, chỉ có thể được xem như một sự kiện thuần túy – không thể xếp vào bất kỳ phạm trù pháp lý nào, vì sự kiện đó không bị chi phối bởi những nguyên tắc của luật học”.

“Quyền lập hiến trong việc thiết lập hiến pháp đầu tiên của nhà nước” về sau được đặt tên là quyền lập hiến nguyên thủy (pouvoir constituant originaire) và “quyền lập hiến trong một nhà nước đã hình thành” được gọi tên là quyền lập hiến phái sinh (pouvoir constituant dérivé). Nói một cách dễ hiểu hơn, quyền lập hiến nguyên thủy là quyền làm ra một bản hiến pháp mới, còn quyền lập hiến phái sinh là quyền sửa đổi một bản hiến pháp đang có hiệu lực.

Nhiều nhà luật học sau đó (như Georges Burdeau, Roger Bonnard, Guy Héraud, Georges Vedel) đã góp phần làm rõ các đặc điểm của hai loại quyền lập hiến này:

Quyền lập hiến nguyên thủy là một quyền lực không có giới hạn, bởi vì khi làm ra một hiến pháp mới, nó không bị hạn chế bởi bất cứ bản hiến pháp nào có trước nó, không bị lệ thuộc vào bất cứ quy định pháp lý nào có trước nó. Nó sinh ra từ một khoảng trống pháp lý (vide juridique), do chỗ không có một hiến pháp hoặc hiến pháp đã bị hủy bỏ. Còn quyền lập hiến phái sinh là một quyền lực bị hạn chế, bởi lẽ nó là một quyền lực sinh ra từ quyền lập hiến nguyên thủy, có được thẩm quyền pháp lý là nhờ vào trật tự pháp lý hiện hành – trước hết là dựa vào một bản hiến pháp có trước. Những điều kiện để sửa đổi hiến pháp (vd: ai được quyền sửa đổi hiến pháp, sửa đổi hiến pháp phải dựa theo thủ tục nào, v.v…) thường đã được quy định bởi chính bản hiến pháp sẵn có.

Các nhà luật học người Pháp phân biệt hai loại khoảng trống pháp lý:

- Loại thứ nhất được gọi là khoảng trống pháp lý đã hiện hữu (vide juridique déjà existant) xuất hiện trong những hoàn cảnh nảy sinh một nhà nước mới, một quốc gia mới. Trong tình hình như thế, quyền lập hiến nguyên thủy lấp đầy khoảng trống pháp lý bằng cách làm ra một hiến pháp mới, thiết lập một nhà nước mới. Nhà nước mà nó thành lập là một nhà nước hoàn toàn mới không tồn tại trước đó; hiến pháp mà nó thiết lập cũng là hiến pháp đầu tiên của nhà nước. Một khoảng trống pháp lý như thế có thể xảy ra trong các hoàn cảnh như: chiến tranh, giải trừ chủ nghĩa thực dân, chiến tranh giành độc lập, sự hợp nhất giữa các quốc gia độc lập thành một liên bang, sự giải thể của một nhà nước, v.v…

- Loại khoảng trống pháp lý thứ hai được gọi là khoảng trống pháp lý được tạo ra (vide juridique créé), xuất hiện trong hoàn cảnh thay đổi chế độ trong một nhà nước đã tồn tại. Trong trường hợp này, đã có sẵn một trật tự pháp lý hiện hành. Quyền lập hiến nguyên thủy trước hết phải hủy bỏ một hiến pháp đã tồn tại, tạo ra một khoảng trống pháp lý và sau đó, lấp đầy khoảng trống ấy bằng cách làm ra một hiến pháp mới. Nói cách khác, quyền lập hiến nguyên thủy trước hết làm động tác phá hủy, sau đó mới làm động tác tái xây dựng. Hiểu theo nghĩa đó, người ta có thể nói quyền lập hiến nguyên thủy có hai mặt: một có tính phủ định (hủy bỏ hiến pháp) và một có tính xây dựng (thiết lập hiến pháp). Guy Héraud gọi phương diện phủ định của quyền lập hiến nguyên thủy là quyền giải trừ hiến pháp (pouvoir déconstituant). Trong giả thuyết này, người ta không tạo ra một nhà nước mới mà chỉ làm mới lại nền tảng của nhà nước hay nói cách khác, thay đổi chế độ trong một nhà nước đã tồn tại. Các nhà luật học ghi nhận rằng một khoảng trống pháp lý như thế có thể xảy ra sau một cuộc cách mạng, một cuộc đảo chính hay một cuộc chiến tranh đã lật đổ chế độ chính trị hiện hành.

Điều cần nhấn mạnh là trong khi quyền lập hiến phái sinh rút thẩm quyền pháp lý từ quyền lập hiến nguyên thủy, từ trật tự pháp lý hiện hành, từ một bản hiến pháp đã có hiệu lực, thì quyền lập hiến nguyên thủy không cần dựa vào bất cứ cái gì khác ngoài bản thân nó. Mặt khác, trong khi quyền lập hiến phái sinh (tức là quyền sửa đổi hiến pháp) là một đối tượng nghiên cứu của luật học thì quyền lập hiến nguyên thủy (tức là quyền làm ra một bản hiến pháp hoàn toàn mới) lại là một sự kiện nằm ngoài phạm vi của luật học.

Sửa đổi hiến pháp hay viết lại hiến pháp mới?

Vận dụng quan niệm về hai loại quyền lập hiến vào hoàn cảnh hiện nay của nước ta, chúng ta thấy điều gì?

Trước hết, cuộc “sửa đổi Hiến pháp 1992” mà Đảng Cộng sản Việt Nam đang tiến hành hiện nay chỉ gói gọn trong phạm vi “sửa đổi Hiến pháp”, tức là phạm vi của quyền lập hiến phái sinh.

Trong “Thông báo Hội nghị lần thứ 5 BCHTW Đảng khoá XI” (tháng 5 năm 2012), Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nói rõ: “… sau 20 năm thi hành Hiến pháp năm 1992 (có bổ sung, sửa đổi năm 2001), Đại hội XI của Đảng đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), có nhiều vấn đề mới được đặt ra, một số quy định của Hiến pháp năm 1992 đã bị thực tiễn vượt qua, không còn phù hợp. Việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992 là yêu cầu khách quan, cần thiết để thể chế hoá Cương lĩnh của Đảng và là công việc đặc biệt quan trọng, nhạy cảm phải có quan điểm toàn diện, biện chứng, lịch sử cụ thể và thực tiễn.

Ban Chấp hành Trung ương đã thảo luận, phân tích toàn diện và nhấn mạnh việc nghiên cứu sửa đổi Hiến pháp phải căn cứ vào Cương lĩnh, Nghị quyết Đại hội XI của Đảng, tình hình của đất nước; trên cơ sở tổng kết thực tiễn 20 năm thi hành Hiến pháp năm 1992 và kế thừa những quy định còn phù hợp của các bản Hiến pháp (1946, 1959, 1980, 1992).”

Ông nhấn mạnh: “Chỉ sửa đổi những vấn đề đã rõ, được thực tế chứng minh là đúng, đã đủ cơ sở và tạo được sự thống nhất cao.”[4]

Điều đó cho thấy việc sửa đổi Hiến pháp 1992 có một số đặc điểm như sau:

- Vẫn dựa vào quan niệm truyền thống của tất cả các đảng cộng sản xưa nay (Hiến pháp chỉ là cụ thể hóa, thể chế hóa Cương lĩnh của Đảng Cộng sản cầm quyền);

- Vẫn dựa vào truyền thống lập hiến của Đảng Cộng sản Việt Nam từ trước đến nay (các bản Hiến pháp 1946, 1959, 1980 và 1992);

- Thủ tục sửa đổi vẫn căn cứ bản hiến pháp hiện hành (Hiến pháp 1992, phiên bản sửa đổi năm 2001). Điều 147 của bản hiến pháp này ghi rõ: “Chỉ Quốc hội mới có quyền sửa đổi Hiến pháp. Việc sửa đổi Hiến pháp phải được ít nhất là hai phần ba tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành.” [5]

Ngược lại, xét về yêu cầu khách quan của sự phát triển của đất nước và nguyện vọng chung của nhân dân thì việc sửa đổi Hiến pháp theo tinh thần như trên là hoàn toàn bất cập. Tất cả những ý kiến trên các trang mạng phi-chính thống hiện nay đã cho thấy rõ điều đó. Và hàng ngàn chữ ký ủng hộ Kiến nghị sửa đổi Hiến pháp 1992 của các nhân sĩ, trí thức cũng như sự xuất hiện Lời tuyên bố của công dân ngày 28-2-2013 càng cho thấy rõ điều đó.

Cách đây hai năm, trong một bài phỏng vấn của đài VOA, tôi đã nêu nhận định: “Hiến pháp phải được sửa đổi một cách căn bản chứ không thể chỉ sửa đổi một cách lặt vặt hay chỉ dừng lại ở một số chi tiết nhỏ nhặt.”[6] Căn cứ vào diễn biến của quá trình sửa đổi hiến pháp do Đảng Cộng sản tiến hành trong thời gian vừa qua, căn cứ vào lý thuyết lập hiến của các luật gia nổi tiếng của nước Pháp vừa được trình bày tóm lược trên đây, và nhất là căn cứ vào nguyện vọng của nhân dân thể hiện qua các ý kiến cực kỳ phong phú được thể hiện trên mạng Internet, tôi nghĩ rằng cần phải diễn đạt lại ý kiến nói trên một cách rõ ràng và phù hợp với khoa học hơn:

“Đã đến lúc cần phải viết lại một Hiến pháp mới thay vì sửa đổi Hiến pháp cũ.”

Có một số lý do khiến cho nước ta cần phải viết một bản Hiến pháp mới:

- Tất cả các bản hiến pháp do Đảng Cộng sản Việt Nam soạn thảo và ban hành từ trước đến nay đều phạm phải những khuyết điểm nghiêm trọng. Ngay cả những nhân vật cao cấp nhất như ông Nguyễn Văn An (nguyên ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Chủ tịch Quốc hội) cũng phải thừa nhận: các bản hiến pháp về sau như các Hiến pháp 1959, 1980 và 1992 đều kém hơn so với Hiến pháp 1946. Mà ngay cả bản hiến pháp đầu tiên (Hiến pháp 1946) thì cũng đã phạm phải những khuyết điểm nghiêm trọng, như tôi đã phân tích trong bài viết “Những khuyết điểm nghiêm trọng của Hiến pháp 1946” công bố cách đây nửa năm.[7]

- Tất cả các bản hiến pháp nói trên đều không mở đường cho sự hình thành một chế độ pháp trị hiện đại (rule of law)[8]. Bất cứ trong giai đoạn nào (kể cả giai đoạn 1946-1954) cũng đều có những cá nhân hay tổ chức đứng trên luật pháp, định đoạt luật pháp. Có thể lấy ngay bản Hiến pháp 1946 làm ví dụ. Luật cải cách ruộng đất năm 1953 là do sự đề xuất của Chủ tịch Chính phủ Hồ Chí Minh (chức vụ Chủ tịch Chính phủ thực chất là Chủ tịch Nước kiêm Thủ tướng), bản dự thảo luật là do Phó Thủ tướng Phạm Văn Đồng chịu trách nhiệm. Thế nhưng, vào năm 1956, khi tiến hành kiểm điểm về những sai lầm trong công tác cải cách ruộng đất, người ta chỉ thấy kiểm điểm về phía Đảng chứ không thấy kiểm điểm nghiêm túc nào về phía Chính phủ. Vào ngày 30-10-1956, tại cuộc họp của Mặt trận Tổ Quốc Hà Nội, Luật sư Nguyễn Mạnh Tường đã đề nghị thành lập “một ủy ban điều tra gồm các vị đại biểu Quốc hội, Mặt trận, Đảng Lao động với sự cộng tác của các vị thẩm phán cao cấp, giàu kinh nghiệm để lập một hồ sơ theo phương pháp pháp lý để nhận định, trên quá trình đi từ lãnh đạo qua chỉ đạo đến chỗ thực hiện chính sách, trách nhiệm ở chỗ nào và do những ai phải chịu.”[9] Đề nghị hợp lý này đã hoàn toàn bị bỏ qua. Việc kiểm điểm và thi hành kỷ luật cũng chỉ làm cho chiếu lệ, không đúng với nguyên tắc của một Nhà nước tự nhận là “dân chủ cộng hòa”.

Kể từ bản Hiến pháp 1959 trở về sau, tình trạng Đảng đứng trên pháp luật ngày càng lộ liễu, thậm chí còn được hợp pháp hóa bằng điều 4 của các Hiến pháp 1980 và 1992, một điều khoản công khai bác bỏ nguyên tắc “thượng tôn pháp luật” (la primauté du droit) – nguyên tắc căn bản của mọi chế độ pháp trị hiện đại.

- Nhìn chung, tất cả các bản hiến pháp trong quá khứ đều bị vô hiệu hóa ở một mức độ nào đó, vì Hiến pháp không phải là văn bản pháp lý cao nhất ở nước ta. Trong thực tế,  bên trên Hiến pháp còn có một văn bản pháp lý cao hơn nữa: đó là Cương lĩnh của Đảng. Mỗi lần Đảng thay đổi cương lĩnh (tức là một chương trình hành động trong một thời gian dài), Đảng lại chỉ đạo sửa đổi hiến pháp, nghĩa là viết lại hiến pháp để phục vụ cho một “giai đoạn cách mạng mới”. Hiến pháp 1946 ra đời nhằm phục vụ cho một giai đoạn trong đó Đảng Cộng sản khoác chiếc áo “dân tộc” để giành quyền lãnh đạo cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân. Sau khi đã nắm quyền trên một nửa nước, cảm thấy chiếc áo “dân tộc” không đủ ấm, Đảng đã tiến hành thay thế hiến pháp cũ bằng một bản hiến pháp mới nhằm thiết lập chế độ tập trung dân chủ trên toàn miền Bắc, khoác thêm chiếc áo “chủ nghĩa xã hội” để công khai nhận viện trợ của Liên Xô, Trung Quốc nhằm tiếp tục cuộc chiến tranh chiếm trọn quyền lực trong cả nước – dưới danh nghĩa “chống Mỹ, cứu nước”. Năm 1980, sau khi giành được chính quyền trong cả nước, Đảng công khai mặc chiếc áo “chủ nghĩa xã hội” cho cả nước bằng bản Hiến pháp 1980 – trong đó có điều 4 hợp pháp hóa vai trò độc quyền lãnh đạo của Đảng. Khi tình trạng kinh tế ngày càng suy thoái, hệ thống cộng sản sụp đổ trên phạm vi toàn thế giới, Đảng đành phải quay trở lại với con đường phục hồi kinh tế thị trường, từng bước hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu để hòng cứu vãn “sự lãnh đạo của Đảng”; đó chính là lý do ra đời của bản Hiến pháp 1992.

Điều đáng nói là trong khi cởi mở về kinh tế để thu nhặt từng đồng đô-la, Đảng vẫn quyết tâm siết chặt trong lĩnh vực chính trị cũng như trong lĩnh vực văn hóa – tư tưởng. Đó chính là nguyên nhân sâu xa khiến cho nền giáo dục ngày càng suy đồi, luân lý đạo đức xuống cấp trầm trọng, nạn tham nhũng có cơ hội phát triển tràn lan.

Có thể nói những hạn chế của bản Hiến pháp 1992 cũng như của bản Dự thảo sửa đổi do Quốc hội hiện hành soạn thảo đều bắt nguồn từ chỗ: Cương lĩnh của Đảng quyết định Hiến pháp của quốc gia. Một khi cương lĩnh của Đảng chưa thay đổi thì Hiến pháp cũng không bao giờ có thể thay đổi. Đó chính là hậu quả của chế độ “đảng trị” – một chế độ mà Đảng đứng trên Nhà nước, Cương lĩnh của Đảng đứng trên Hiến pháp, kỷ cương của Đảng đứng trên pháp luật.

Chính vì thế, để có một bản hiến pháp đáp ứng được các yêu cầu khách quan của sự phát triển của đất nước, vừa đáp ứng được nguyện vọng của nhân dân vừa phù hợp với các yêu cầu của thời đại, không thể dừng lại ở việc sửa đổi Hiến pháp mà phải viết lại hoàn toàn một bản Hiến pháp mới. Và để viết một bản Hiến pháp mới, không thể sử dụng quyền lập hiến phái sinh (tức quyền sửa đổi hiến pháp) mà phải sử dụng quyền lập hiến nguyên thủy – tức là quyền viết một bản hiến pháp mới, không lệ thuộc vào bất cứ bản hiến pháp nào có trước.

Như trên đã nói, quyền lập hiến nguyên thủy chỉ được thực hiện trong hoàn cảnh có sự thay đổi về tương quan lực lượng chính trị trong thực tế, ví như sau một cuộc đảo chính (tức chuyển đổi quyền lực từ bên trên) hay một cuộc cách mạng (tức là chuyển đổi quyền lực từ bên dưới). Nhưng ở nước ta, cho đến nay, vẫn chưa xảy ra một cuộc cách mạng hay một cuộc đảo chính nào cả. Vậy làm thế nào để có thể thực hiện quyền lập hiến nguyên thủy mà không diễn ra những xáo trộn không cần thiết, những đổ vỡ không đáng có nhằm tạo điều kiện cho việc thực hiện quyền lập hiến nguyên thủy, thiết lập một bản hiến pháp mới?

Để trả lời câu hỏi đó, cần vạch ra một lộ trình phù hợp với tình hình hiện tại, một lộ trình khả thi nhưng phải bảo đảm được quyền làm chủ của nhân dân, không dựa trên cơ chế “xin-cho”, không khoán trắng tương lai đất nước cho bất kỳ một cá nhân hay một lực lượng chính trị nào cả. Chúng ta sẽ bàn đến lộ trình ấy trong phần sau của bài viết.

Đà Lạt ngày 2 tháng 3 năm 2013

© 2013 Mai Thái Lĩnh & pro&contra

--------------------------------------------------------------------------------

[1] “Kiến nghị về sửa đổi Hiến pháp 1992”, Bauxite Vietnam, 28/02/2013: http://www.boxitvn.net/bai/44588

[2] Nguyễn Đắc Kiên, “Vài lời với TBT ĐCS VN Nguyễn Phú Trọng”, Blog Anh Ba Sàm 26-2-2013: http://anhbasam.wordpress.com/2013/02/26/vai-loi-voi-tbt-dcs-vn-nguyen-phu-trong/

[3] Chỉ tính đến 9h40 ngày  02.03.2013, đã có 1 400 người ký vào Lời tuyên bố của các công dân tự do (tháng 2 dương lịch chỉ có 28 ngày).

[4] “Thông báo Hội nghị lần thứ 5 BCHTW Đảng khoá XI”, Cổng Thông tin điện tử Chính phủ, 15/05/2012:

http://baodientu.chinhphu.vn/Home/Thong-bao-Hoi-nghi-lan-thu-5-BCHTW-Dang-khoa-XI/20125/138101.vgp

[5] Cần lưu ý: người ký vào bản Hiến pháp 1992 sửa đổi này chính là ông Nguyễn Văn An, vào năm 2001 là Ủy viên Bộ chính trị, Chủ tịch Quốc hội.

[6] “Hiến pháp Việt Nam cần được sửa đổi một cách căn bản” (Phỏng vấn ông Mai Thái Lĩnh về vấn đề sửa đổi hiến pháp và trưng cầu dân ý), Duy Ái – VOA  Thứ Ba, 1 tháng 3 năm 2011:

http://www.voanews.com/vietnamese/news/focus/hien-phap-viet-nam-can-duoc-sua-doi-1-cach-can-ban-03-01-11-117157143.html

[7] Mai Thái Lĩnh, Những khuyết điểm nghiêm trọng của Hiến pháp 1946, Pro&Contra 13-7-2012:

http://www.procontra.asia/?p=743

[8] Song song với quan niệm chế độ pháp trị (rule of law) của các quốc gia theo hệ thống thông luật (common law) như Anh và Hoa Kỳ, tại các quốc gia châu Âu theo hệ thống dân luật (civil law), đã hình thành một quan niệm được gọi là Nhà nước pháp quyền (Rechtsstaat trong tiếng Đức, État de droit trong tiếng Pháp). Ngày nay, hai quan niệm này ngày càng gần gũi nhau, có thể gọi chung là chế độ pháp trị hiện đại (rule of law) - để phân biệt với chế độ pháp trị thời thượng cổ và trung cổ (rule by law).

[9] Trăm hoa đua nở trên đất bắc, Mặt trận Bảo vệ Tự do Văn hóa, Saigon 1959, trang 311.

Blogger Huỳnh Ngọc Chênh được đề cử Giải Công dân Mạng 2013



28.02.2013

 bởi Trà Mi-VOA

Một trong những blogger có nhiều ảnh hưởng tại Việt Nam, ông Huỳnh Ngọc Chênh, được đề cử giải thưởng Công dân Mạng 2013.

Đây là giải thưởng quốc tế do tổ chức bảo vệ nhân quyền mang tên Phóng viên Không biên giới (RSF) có trụ sở tại Pháp phối hợp với đại công ty internet Google tổ chức hằng năm nhằm đánh động sự quan tâm của mọi người về nhu cầu cần phải bảo vệ quyền tự do bày tỏ quan điểm trên mạng internet qua việc vinh danh những ngòi bút mạng đã bất chấp sự đàn áp, can đảm đấu tranh cho dân chủ-nhân quyền tại các nước trên thế giới.


Blogger Huỳnh Ngọc Chênh sinh năm 1952 tại Đà Nẵng, làm việc cho báo Thanh Niên từ năm 1992 đến khi về hưu vào tháng tư năm ngoái.

Ông bắt đầu viết blog từ năm 2008. Các bài blog của ông về dân chủ, nhân quyền, vấn đề Biển Đông, và các cuộc biểu tình chống Trung Quốc xâm lược thu hút đông đảo độc giả trong và ngoài nước.

Tôi là chủ một trang blog mà tôi viết cũng hơi nặng nề, nên cũng có thể tôi ở trong danh sách ‘tế nhị’. Vì vậy, nếu được giải thưởng đó thì vinh dự, nhưng cũng có đôi chút lo lo. Lo không phải vì sợ mình bị này khác, nhưng lo là mình không có điều kiện để được viết lách nữa...
Dù trang blog của ông thường bị nhà nước khóa chặn, nhưng hiện mỗi ngày vẫn có chừng 15.000 người đọc ghé thăm.

Từ hồi còn làm ký giả cho báo Thanh Niên, ông từng bị cảnh cáo về nội dung các bài viết mà ông đăng tải trên nhật ký điện tử cá nhân và các trang blog trước nay của ông đã nhiều lần bị buộc phải đóng cửa.

Trong phần mô tả về blogger Huỳnh Ngọc Chênh của Việt Nam, tổ chức Phóng viên Không biên giới nói những bài blog trên trang cá nhân của ông Chênh cũng là nguyên nhân của các cuộc sách nhiễu, đe dọa, theo dõi, nghe lén điện thoại từ phía chính quyền đối với chính tác giả.

RSF nói 9 ứng cử viên của Giải Công dân Mạng năm nay trong đó có blogger Huỳnh Ngọc Chênh được đề cử vì những nỗ lực bất chấp rủi ro, góp phần bảo vệ và thăng tiến quyền tự do thông tin, tự do ngôn luận, và tự do internet của công dân trên toàn cầu.

Chia sẻ cảm nghĩ với VOA Việt ngữ, blogger Huỳnh Ngọc Chênh nói ông ngạc nhiên khi biết tin mình được đề cử giải thưởng quốc tế này:

“Cũng hơi bất ngờ vì mình cũng không nghĩ là được đề cử như vậy. Cũng cảm thấy vinh dự lắm, nhưng nghĩ rằng nhiều người khác còn xứng đáng hơn. Tôi là chủ một trang blog mà tôi viết cũng hơi nặng nề, nên cũng có thể tôi ở trong danh sách ‘tế nhị’. Vì vậy, nếu được giải thưởng đó thì vinh dự, nhưng cũng có đôi chút lo lo. Lo không phải vì sợ mình bị này khác, nhưng lo là mình không có điều kiện để được viết lách nữa.”

Để khuyến khích sự quan tâm của cộng đồng mạng thế giới, năm nay lần đầu tiên người đoạt Giải Công dân Mạng sẽ do cư dân mạng khắp nơi bình chọn.

Kể từ ngày 27/2 đến hết ngày 5/3, người dùng net trên toàn cầu có thể bỏ phiếu cho các ứng viên được RSF đề cử trên trang web của tổ chức Phóng viên Không biên giới.

Ứng cử viên nhận được nhiều phiếu bình chọn nhất sẽ được công bố vào ngày 7/3, và sau đó được mời sang dự lễ trao giải tại trụ sở của công ty Google ở Paris (Pháp) vào ngày 12/3.

Giải thưởng thường niên khởi sự từ năm 2008 này thường được trao vào 12/3 hằng năm để kỷ niệm Ngày Thế giới Chống lại Sự kiểm duyệt trên mạng.




Source : VOA

28/2/13

GS. TƯƠNG LAI: THƯ NGỎ GỬI ÔNG TBT NGUYỄN PHÚ TRỌNG

 





Thứ năm, ngày 28 tháng hai năm


THƯ NGỎ GỬI ÔNG NGUYỄN PHÚ TRỌNG,
TỔNG BÍ THƯ BCH ĐẢNG CỘNG SẢN VN
Kính thưa anh Nguyễn Phú Trọng,

Tôi dùng cách xưng hô này để tiện cho nội dung thư sẽ viết với tư cách của một người có hân hạnh được quen biết Anh. Đúng hơn là biết, chứ chưa dám nói là quen, vì tôi cũng chỉ gặp và nói chuyện với anh đôi ba lần kể từ dạo anh làm Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản và có mặt trong buổi tôi báo cáo với Tổng bí thư Đỗ Mười và Bộ Chính trị về cuộc Khảo sát xã hội học về Cơ cấu xã hội và Phân tầng xã hội, một đề tài nghiên cứu khoa học cấp nhà nước. Theo lời thuật lại của Chu Hảo, lúc ấy là Thứ trưởng Bộ KH và CN ngồi cạnh Anh, thì anh đã nhận xét về tôi “Tay này báo cáo với Tổng Bí thư và Bộ Chính trị mà cứ nói khơi khơi như nói trước Hội đồng Khoa học của Viện không bằng !”.
Lần gặp gần đây nhất là ngày 17 tháng 1 năm 2011 tại Hội trường Hội nghị Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ở Hà Nội. Có thể Anh quên vì bận nhiều việc nên tôi xin được nhắc lại : Hôm ấy, khi tôi đi đăng ký phát biểu ý kiến với Đoàn Chủ tịch Hội nghị, ngang qua chỗ Anh ngồi, Anh đã chủ động đứng dậy chào gọi và bắt tay tôi. Tôi cảm kích về cử chỉ thân thiện này, biết rằng thế là Anh vẫn nhớ tôi, nên đã bắt tay Anh rất chặt và nói “Xin chúc mừng Tân Tổng Bí thư“.
Anh cười và hỏi : “Chúc mừng cơ à?”. Tôi đoán biết và mang máng hiểu ra Anh đang nghĩ gì và định nói gì, nên cũng vui vẻ trả lời “Phải chúc mừng chứ. Hãy cứ chúc mừng đã. Và rồi tôi sẽ dõi theo công việc của Anh làm, hành động và ứng xử của Anh với tư cách Tổng Bí thư, để rồi có tiếp tục chúc mừng hay không là chuyện về sau, còn bây giờ thì phải chúc mừng đã”.  Cả Anh và tôi cùng cười. Những người đứng cạnh cũng cười vì tôi vốn nói to, mọi người đều nghe và nhìn thấy. Nhắc lại chuyện này để nói rằng, hai năm qua, dõi theo những công việc Anh làm, quả thật tôi nghĩ là phải rút lại lời chúc mừng đã đưa ra với Anh hai năm trước. Vì sao? 
Vì chưa lúc nào vận mệnh của đất nước lại bấp bênh, chao đảo như hiện nay khi mà bàn tay của Trung Quốc đã thọc quá sâu vào mọi hoạt động của Đảng và Nhà nước, của đời sống đất nước ta. Chính vì thế, chưa bao giờ uy tín của Đảng xuống thấp đến vậy. Điều này liên quan trực tiếp đến trách nhiệm của Tổng Bí thư. Thực trạng này được phơi bày quá rõ ràng mà chính Anh, cũng như nhiều người giữ vị trí cao trong bộ máy cầm quyền, đã nhiều lần trực tiếp hoặc gián tiếp nói ra, chứ chẳng phải do “những phần tử thù địch” nào bôi nhọ cả!
Đành rằng với nguyên tắc “lãnh đạo tập thể“, cả Bộ Chính trị, và toàn thể BCHTƯĐ phải chịu trách nhiệm, tuy nhiên, với trách nhiệm là người đứng đầu BCHTƯ, Tổng bí thư là người phải gánh vác, không thể đổ cho ai được cả.
Trong bức thư này chưa thể nói nhiều về thực trạng của đất nước mà người Tổng bí thư phải chịu trách nhiệm, xin chỉ nêu lên hai điều trực tiếp nhất và gần đây nhất đã làm trầm trọng thêm sự mất uy tín của Đảng, gây bức xúc trong lòng dân: Một là phát biểu tùy tiện của Tổng Bí thư tại Vĩnh Phúc gây phẫn nộ trong công luận, và hai là sự câm lặng của Đảng, Nhà nước và cả Hệ thống chính trị trong ngày 17 tháng 2! Cái ngày mà cách đây 34 năm, hơn nửa triệu quân Trung Quốc xâm lược theo lệnh của Đặng Tiểu Bình đã tấn công toàn tuyến biên giới phía Bắc, gây nên tội ác tày trời đối với đồng bào ta, hàng van chiến sĩ ta đã hy sinh trong cuộc chiến đấu đánh trả quân xâm lược, buộc chúng phải tuyên bố rút quân.
Trong phạm vi bức thư ngắn này, tôi chỉ đề cập đến hai vấn đề nói trên để mong được Anh xem xét và cho tôi câu trả lời.
Quả thật, tôi quá sửng sốt khi nghe anh nói: “Vừa rồi đã có các luồng ý kiến thì cũng có thể quy vào được là suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống. Chứ gì nữa? Xem ai có tư tưởng là muốn bỏ Điều 4 Hiến pháp không? Phủ nhận vai trò lãnh đạo của đảng không? Muốn đa nguyên đa đảng không? Muốn ‘tam quyền phân lập’ không? Hả? Muốn ‘phi chính trị hóa quân đội’ không? Người ta đang có những quan điểm đấy. Đưa cả lên phương tiện thông tin đại chúng đấy. Thì như thế là suy thoái chứ còn gì nữa! Chỉ ở đâu nữa nào? Tham  gia đi khiếu kiện, biểu tình, ký đơn tập thể, thì nó là cái gì…ì? Cho nên các đồng chí quan tâm xử lý cái này.”
Sửng sốt vì không thể hình dung được đây là lời của Tổng Bí thư, một người vốn tính thận trọng, lại tùy tiện quy kết một cách hồ đồ như vậy. Sẽ quá dài dòng và có lẽ cũng chưa là thật sự cấp bách vào lúc này để chỉ ra sự lẫn lộn, nếu không muốn nói là đánh tráo khái niệm, khi Tổng Bí thư nói đến “các luồng ý kiến” được nêu lên trong dịp các tầng lớp nhân dân đóng góp ý kiến vào Dự thảo Sửa đổi Hiến pháp theo Nghị quyết và lời kêu gọi của Quốc hội, lại là “suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống“.
Là một trong những người đã ký vào Kiến nghị về sửa đổi Hiến pháp 1992, tham gia vào đoàn đại biểu do ông Nguyễn Đình Lộc làm trưởng đoàn đến 34 Hùng Vương Hà Nội để trao bản Kiến nghị đó cho Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 kèm theo một Dự thảo Hiến pháp mới để tham khảo, tôi hết sức bất bình về quy kết hồ đồ của Tổng Bí thư đối với một số điểm trong nội dung của 7 vấn đề mà bản Kiến nghị của chúng tôi đã chuyển cho Ủy ban Dự thảo nói trên. Tuy vậy, trong thư ngỏ này, tôi chỉ nói ý kiến của riêng tôi và chịu trách nhiệm về những điều tôi nói trong bức thư này.
Phải nói thêm là, đoàn đại biểu chúng tôi đã được Ủy ban Dự thảo tiếp đón trọng thị và tiếp nhận Kiến nghị có 72 chữ ký cùng với Dự thảo Hiến pháp 2013. Một số phóng viên báo đến dự và sau đó một số báo đã đưa tin về cuộc gặp này. Trong thư gửi ông Nguyễn Đình Lộc, người dẫn đầu đoàn đại biểu đến trao Kiến nghị, ông Ủy viên Ủy ban, Trưởng Ban Biên tập đã cho biết là “những điều nêu trong Kiến nghị nói trên sẽ được tập hợp, nghiên cứu trong quá trình chỉnh lý dự thảo sửa đổi Hiến pháp”. Vậy thì, khi Tổng Bí thư quy kết ” vừa rồi đã có các luồng ý kiến thì cũng có thể quy vào được là suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống. Chứ gì nữa? ” liệu có phải là nhằm vào những vấn đề mà bản Kiến nghị của chúng tôi nêu lên không? Nếu vậy thì Nghị quyết và lời kêu gọi toàn dân góp ý kiến vào việc Sửa đổi Hiến pháp của Quốc hội còn có giá trị gì nữa khi mà những ý kiến trái tai lãnh đạo thì bị quy là suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống! Là một đại biểu Quốc hội, Tổng Bí thư phải trả lời với Quốc hội và với cử tri về kết luận hồ đồ nói trên. Ít nhất, Tổng Bí thư cần giải thích rõ những ý kiến mà Tổng Bí thư dẫn ra, vì sao gọi đó là suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống.
Là nhà lý luận, lại từng là Chủ tịch Hội đồng lý luận Trung ương, Tổng Bí thư cần giải thích rõ nội hàm của khái niệm đạo đức, lối sống và tư tưởng chính trị để từ đó mà nói rõ những “kiến nghị…” dẫn ra ở trên là suy thoái đạo đức, lối sống,suy thoái về tư tưởng chính trị như thế nào? Một nhà lý luận sao lại có thể giải thích tùy tiện và hồ đồ rằng : “Người ta đang có những quan điểm đấy. Đưa cả lên phương tiện thông tin đại chúng đấy. Thì như thế là suy thoái chứ còn gì nữa!“. Vậy thì đã thừa nhận người ta nêu lên “quan điểm” thì cần phải tranh luận để làm sáng tỏ đúng sai, sao lại quy kết đó là “suy thoái” và đòi phải “ xử lý“? Sẽ không đúng lúc nếu lại đưa ra tất cả những điều mà Tổng Bí thư cho đó là suy thoái về tư tưởng, đạo đưc, lối sống, xin chỉ đề cập đến mấy vấn đề sau đây:
Ở đâu thì tôi không rõ, chứ trong 7 điểm nêu trong Kiến nghi về sửa đổi Hiến pháp 1992, thì kiến nghị bỏ Điều 4 của Hiến pháp không đồng nghĩa với “phủ nhận sự lãnh đạo của Đảng” theo cách hiểu của Tổng Bí thư. Xin nhắc lại nguyên văn nội dung của kiến nghị đó trong văn bản đã được trao cho Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 :” … Chính vì vậy chúng tôi đề nghị bỏ Điều 4 của Dự thảo. Việc tiếp thu đề nghị này tạo cơ hội cho Đảng Cộng sản Việt Nam lấy lại niềm tin đã từng có trong dân để thực sự trở thành lực lượng lãnh đạo chính trị được xã hội chấp nhận“.
Một vấn đề nữa được Tổng Bí thư nêu lên: “Muốn ‘tam quyền phân lập’ không? Hả?” và quy kết đó là “suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống” thì lại càng hồ đồ hơn nữa. Xin nhắc lại rằng, đây là quan điểm chúng tôi đã nêu hơn mười năm trước trong nhiều Hội thảo Khoa học do các cơ quan Nhà nước tổ chức và đã đăng công khai trên nhiều tờ báo. 
Xin chỉ dẫn ra một ví dụ ; trong bài “Nhà nước pháp quyền và Xã hội dân sự” đăng trên báo “Người Đại biểu Nhân dân“, tiếng nói của Quốc Hội và Hội đồng Nhân dân,  ngày 26.5.2006 và bài “Hành trình từ “chuyên chính vô sản” đến “Làm chủ tập thể” và “Nhà nước pháp quyền“ cũng đăng trên “Người Đại biểu Nhân dân” ngày 10.6.2013, tôi đã trình bày về vấn đề “tam quyền phân lập” như sau :
“Vấn đề cơ bản nhất của nhà nước pháp quyền là pháp quyền ở trên nhà nước. Theo nguyên lý của tư tưởng pháp quyền đó, nhà nước phải được tổ chức theo nguyên tắc “tam quyền phân lập”. Mục đích của sự phân quyền đó là trong cơ cấu quyền lực phải có sự kiểm tra, kiểm soát lẫn nhau nhằm tránh sự độc quyền, lạm quyền. Nhà nước và công chức chỉ được làm những điều luật pháp cho phép, còn dân thì được làm tất cả những điều mà luật pháp không cấm, thể hiện rõ nguyên lý quyền lực chính trị và quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân, nhân dân có quyền tham gia vào việc hoạch đinh pháp luật, giám sát và kiểm soát hoạt động và nhân sự của bộ máy nhà nước. Đây là điểm quy chiếu để xác lập sự khác biệt giữa nhà nước pháp quyền và nhà nước không pháp quyền…Ở các kiểu loại nhà nước không pháp quyền thì quyền lực được tập trung vào độc quyền cá nhân [nhà vua] hay một nhóm người định đoạt mọi vấn đề của đất nước. Sự chuyển giao quyền lực giữa các chủ thể quyền lực là cơ chế nối truyền [gia đình, dòng tộc, các nhóm quyền lực cùng chung lợi ích, nhân dân đứng ngoài tiến trình này, hoặc chỉ là vật trang sức để lừa mị mà thôi".
Vậy thì dựa vào cơ sở nào để quy kết rằng nói đến "tam quyền phân lập" là " suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống" xin Tổng Bí thư chỉ rõ ra đặng chúng tôi nâng cao nhận thức. Cũng xin nói thêm rằng, hai bài báo nói trên lại nằm trong cụm bài trong mục "Đàm luận sáng thứ hai" của tôi đã được tặng thưởng báo chí về Đề tài Quốc hội và Hội đồng Nhân dân năm 2006. Ban tổ chức đã động viên tôi bay ra Hà Nội nhận giải thưởng bằng việc cho biết là Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Phú Trọng sẽ là người đứng ra trao giải thưởng đó. Tôi đã gửi thư cám ơn và in lỗi đã không ra Hà Nội được, và bức thư đó đăng trên báo. [Xin nói thêm là tiếp năm sau, tôi lại được tặng thưởng lần thứ hai giải báo chí về Đề tài Quốc hội và Hội đồng Nhân dân năm 2007 cùng với hai tác giả khác là ông Nguyễn Văn An, nguyên Chủ tịch Quốc hội và hòa thượng Thích Chơn Thiện, đại biểu Quốc hội] ! Vậy mà nay tôi lại bị Tổng Bí thư quy kết là “suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức và lối sống” vì đã có tư tưởng về “tam quyền phân lập” thì xem ra tôi khó mà tiếp thu sự khiển trách của Tổng Bí thư về sự “suy thoái” của mình.
Đành tự an ủi với quan điểm tôi đã viết trong bức thư nói trên [đăng trên báo Người Đại biểu Nhân dân ngày 31.12.2006 với đầu đề do Tòa soạn đặt : "Dùng ngòi bút của mình chiến đấu cho lý tưởng cao cả".  Quan điểm đó là : "Nhằm giữ cho ngòi bút của mình không thẹn với chính mình, phải có sự lao tâm khổ tứ để chọn ý, chọn lời, chọn cách diễn đạt để sao cho những cá nhân nào đó khỏi động lòng, khiến họ có thể dùng thói độc quyền chân lý, áp đặt tư duy, tùy tiện quy kết, gây khó khăn cho tờ báo đã đăng bài của mình...Nhưng rồi nghề nào cũng có nghiệp ấy, "đã mang lấy nghiệp vào thân" thì cũng phải bằng mọi cách mà đi cho trọn con đường đã chọn...tôi sẽ tiếp tục chiến đấu bằng ngòi bút trung thực của chính mình...!".
Vả chăng, thưa anh Nguyễn Phú Trọng, tôi chỉ là hạt cát nhỏ nhoi trong biển cả nhân dân, sự bị xúc phạm của tôi chưa là gì so với điều mà anh đã xúc phạm đến nhân dân, trong đó có những bậc lão thành cách mạng đáng kính, những trí thức tâm huyết, những người từng giữ trọng trách, nay tuy đã về hưu, tuy tuổi cao sức yếu, vẫn cố gắng tham gia soạn thảo và ký vào Kiến nghị về sửa đổi Hiến pháp 1992.
Họ làm điều ấy với lòng mong mỏi đóng góp vào việc soạn thảo một Hiến pháp ngang tầm với đòi hỏi của thời đại, đáp ứng được khát vọng của cả dân tộc muốn hội nhập vào quỹ đạo phát triển của thế giới trong bối cảnh của nền văn minh mới thế kỷ XXI. Trong số đó, có người từng được Anh mời đến góp ý kiến với Hội đồng lý luận Trung ương, mà nếu tôi nhớ không nhầm, thì rất nhiều lần Anh tỏ ý kính phục và trân trọng trí tuệ và tâm huyết của những đóng góp ấy với tư cách là Chủ tịch Hội đồng lý luận TƯ. Những người như vậy mà Anh dám quy cho họ là "suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống" sao?
Anh Trọng ạ, nếu thật sự muốn chỉ ra sự suy thoái ấy thì phải tìm vào trong những kẻ vong ân bội nghĩa với đồng bào, đồng chí từng ngã xuống trong cuộc chiến tranh biên giới cách đây 34 năm! Vong ân bội nghĩa bằng sự câm lặng trong ngày 17 tháng 2 để khỏi phải phạm vào "điều cam kết" với những kẻ đã từng xua hơn nửa triệu quân xâm lược tràn vào các tỉnh biên giới năm 1979, tàn sát dân lành, tiêu hủy nhà cửa, đốt phá làng mạc, kể cả việc đặt bom phá khu di tích Păc bó. Vì vậy, nói về "suy thoái tư tưởng chính trị" thì không thể chỉ quy chiếu vào sự trung thành hay không trung thành với một hệ tư tưởng được áp đặt, khi mà thực tiễn đã chứng minh những giáo điều từng được học thuộc lòng về hệ tư tưởng ấy đã gây tai họa cho sự nghiệp của đất nước ghê gớm như thế nào. Thì chẳng phải "Đổi Mới" được xem là một cột mốc trong đời sống của dân tộc ta vì nó đã đưa đất nước vượt qua thảm họa của sự sụp đổ những năm 80 do sự áp đặt mô hình được xây nên bằng những giáo điều tai hại đó sao!
Cho nên, trung thành vơi truyền thống không có nghĩa là quay về những thế kỷ đã lụi tàn để ngắm một dãy dài những bóng ma, mà trái lại phải đem hết sức mình tiến về phía trước, như dòng sông chỉ có  chảy ra biển mới gọi là trung thành với ngọn nguồn của nó. Còn nói về tư tưởng chính trị của Đảng thì có lẽ nên tham khảo cách định nghĩa về "đảng chính trị" của Đại Bách khoa Toàn thư Pháp :" Nhìn chung, một đảng chính trị có thể được định nghĩa như thể là một tập thể xã hội tìm kiếm sự ủng hộ của nhân dân nhằm trực tiếp thực thi quyền lực, và tập thể này được tổ chức theo thời gian và không gian sao cho nó có thể vượt qua được ảnh hưởng cá nhân của người lãnh đạo. Định nghĩa này vận dụng ba yếu tố: nền tảng của đảng, cơ cấu tổ chức và nhiệm vụ của nó mà người ta xem xét trước khi xem xét những đảng được định nghĩa như vậy đã hình thành trong lịch sử như thế nào".
Ấy vậy mà, đã từ lâu, ở ta, thường quen dùng và thích dùng khái niệm "Đảng ta", xem đấy như là một lời phong tặng về uy tín của Đảng trong lòng dân, biến khái niệm đảng chính trị thành một thứ "bái vật giáo", mà quên mất rằng, khi là đảng cầm quyền, thì cũng như mọi thực thể quyền lực khác, đều không tránh khỏi sự tha hóa. Biểu hiện rõ nhất của sự tha hóa ấy chính là sự suy thoái về tư tưởng chính trị : ngày càng xa dân, cưỡi lên đầu lên cổ dân do cơ chế toàn trị, không muốn và không dám tiếp nhận sự phản biện xã hội [vì không có tự do tư tưởng, không có tự do báo chí, không cho phép quyền tư do lập hội...]. Và sự tha hóa ấy bộc lộ rõ quy luật đã được lịch sử đúc kết “quyền lực có xu hướng tham nhũng, quyền lực tuyệt đối thì tham nhũng cũng tuyệt đối“! Câu chuyện về “một bộ phận không nhỏ” thoái hóa biến chất cứ ngày càng to dần lên, càng chống càng phình to ra như một căn bệnh ung thư đã di căn vô phương cứu chữa, mới đích thực là sự “suy thoái về tư tưởng chính trị” gắn liền với “suy thoái về đạo đức lối sống” đáng sợ nhất.
Thưa anh Nguyễn Phú Trọng,
Sự suy thoái mà Anh vừa nói, trước hết được biểu hiện quá rõ mà “triệu con mắt đều nhìn vào, triệu ngón tay đều chỉ vào” trong ngày 17.2. 2013 vừa rồi : Đó là sự quay lưng lại với đồng chí, đồng bào đã chết dưới họng súng của quân Trung Quốc xâm lược. Máu của hàng vạn đồng bào và chiến sĩ ta đã thấm đẫm giải đất biên cương. Máu người đâu phải là nước lã, ấy vậy mà để giữ “cam kết” với thế lực hiếu chiến Bắc Kinh, người ta đã chỉ đạo quán xuyến từ trên xuống dưới không có một nén hương, một vòng hoa tưởng niệm? Cần phải nói thêm rằng, thế lực hiếu chiến mà ai đó đã “cam kết” lại đã ngang nhiên tổ chức rầm rộ lễ kỷ niệm về ngày 17.2, ngày chúng mở cuộc chiến tranh xâm lược, nhưng lại rao rêu khắp cả nước, đưa cả vào sách giáo khoa dạy trẻ em Trung Quốc, rằng đó là cuộc chiến tranh tự vệ nhằm “dạy cho Việt Nam một bài học”! Thế lực hiếu chiến mà ai đó “cam kết” lại đang dung dưỡng cho chủ nghĩa dân tộc cực đoan, công nhiên đưa lên bảng hiệu trong cửa hàng Beijing Snacks tại Bắc Kinh dòng chữ ngạo ngược :” không phục vụ người Việt Nam, Philippines, Nhật Bản và chó!”.
Vậy thì ai đã đưa ra lời “cam kết” với bọn xâm lược là “không nhắc lại quá khứ” để tuyệt đối câm lặng trong ngày 17.2 vừa rôi?  Ai đã làm chuyện xấu hổ và dại dột ấy? Ai? Xin Tổng Bí thư chỉ ra.
Thực hiện sự “cam kết” đó, cùng với hương tàn khói lạnh trên các nghĩa trang liệt sĩ trong ngày 17.2, là sự câm lặng trên toàn bộ báo chí chính thống và hệ thống truyền thông theo một cây gậy chì huy thống nhất, là sự ngăn chặn, cản trở, đe dọa bắt bớ và trấn áp những ai đã dâng hương hoa tưởng niệm những người đã hy sinh trong cuộc chiến đấu chống quân xâm lược ở biên giới phía Bắc, biên giới phía Tây Nam, ở Hoàng Sa năm 1974 và ở trận Gạc Ma, Trường Sa năm 1988. Còn sự suy thoái tư tưởng nào bằng sự vong ân bội nghĩa ấy thưa anh Nguyễn Phú Trọng. Có sự sa đọa về đạo đức và lối sống nào bằng sự vong ân bội nghĩa ấy thưa Tổng Bí thư?
Mặt khác, nếu muốn rao giảng về đạo đức thì chính là đạo đức đích thực khi dám vượt qua mọi sự đe dọa, trù dập, trấn áp cho đến những thủ đoạn thấp hèn quen thuộc là đuổi việc, đuổi học, vẫn quyết theo tiếng gọi của lương tâm, phạm trù cơ bản nhất của đạo đức, quyết dâng vòng hoa tưởng niệm tại Đài Liệt sĩ trên đường Bắc Sơn, thắp nén hương tại tượng Quang Trung nơi Gò Đống Đa, giương cao vòng hoa trắng quyết không cho những bọn vô sỉ giành giật và bóc xé dòng chữ tưởng niệm tại tượng đài Cảm Tử bên hồ Hoàn Kiếm, vượt qua mọi sự rình mò và soi mói để trang trọng dâng hoa và những dòng chữ tưởng niệm nhân ngày 17.2.2013 dưới chân tượng Đức Thánh Trần gần bến Bạch Đằng, quận I, thành phô Hồ Chí Minh. Chính là đạo đức, khi trong mỗi ngôi nhà, không phân biệt là nhà cao tầng, biệt thự hay nhà tranh vách đất, người ta thành tâm thắp một nén hương, bày bình hoa trên ban thờ với dòng tưởng niệm những người đã chết trong cuộc chiến đấu chống quân xâm lược nhân ngày 17.2. Cũng chính là đạo đức, khi nêu cao một lối sống không chịu khuất phục, dám ngẩng cao đầu để biểu thị chính kiến của mình như nhà báo trẻ nọ ”làm báo từ năm 2006 đến giờ. Tôi nhận thức được hệ quả sẽ đến với tôi.” Biết rõ như vậy, nhưng nhà báo ấy vẫn nói lên tiếng nói trung thực của chính mình, “hoàn toàn do mệnh lệnh đạo đức của tôi ” như anh khẳng định.
Thưa anh Nguyễn Phú Trọng,
Liệu sau khi nhỡ lời, anh có thấy hối tiếc vì mình đã xúc phạm đến những người được nhân dân kính trọng, vị tướng lão thành từng là Đại sứ đặc mệnh toàn quyền của Việt Nam tại Trung Quốc, năm nay đã 98 tuổi, đã suy nghĩ, nghiền ngẫm từng chữ từng lời, thêm bớt, bổ sung trước khi ký vào Kiến nghị về sửa đổi Hiến pháp 1992, và ngày 17.2 vừa qua đã cùng với một số người đáng kính khác ký vào Kiến nghị ấy đã mang hoa đến tưởng niệm các liệt sĩ ngã xuống vì sự tồn vong của Tổ quốc? Nếu có, thì Anh nên xin lỗi họ, cũng tức là xin lỗi nhân dân. Chuyện nhất thời có sự hồ đồ thiếu tỉnh táo cũng là chuyện thường tình, cho nên xin lỗi là một cử chỉ văn minh trong lối sống của người có hiểu biết và có đạo đức. Người có “tư tưởng chính trị” vững vàng chính là người có bản lĩnh dám nhận sai lầm.
Vả chăng, hơn lúc nào hết, khi con thuyền của đất nước đang chao đảo, là người giữ trọng trách lèo lái thì biết thu phục nhân tâm, trân trọng hiền tài phải là cái đức của người biết mình, biết người. Trót hồ đồ, nói thiếu cân nhắc, xúc phạm những người đáng lý phải trân trọng, gây phẫn nộ trong công luận, thì việc lắng nghe để bình tĩnh nhận ra chân lý, có ứng xử thích hợp, luôn là điều đáng làm.
Đến một vị vua từng nằm gai nếm mật, mười năm lãnh đạo cuộc kháng chiến chống giặc Minh, lên ngôi đại định, mở đầu cho một triều đại vẻ vang thế kỷ XV, vua Lê Thái Tổ vẫn một lòng khiêm nhường kính cẩn : “Nay trẫm gánh vác trách nhiệm nặng nề, sớm khuya kính cẩn lo sợ, như đi trên băng mỏng, như đứng bờ vực thẳm chỉ vì chưa kiếm được hiền tài giúp đỡ việc trị nước…”. Còn vua Lê Thánh Tông, gặp khi có thiên tai đã chỉ dụ rằng “Bởi chính trị có thiếu sót, nên trời chỉ cho bằng tai biến. Đó là do lỗi lầm của trẫm mà chuốc lấy họa chứ trăm họ có tội gì đâu? Có phải vì trẫm đức tin chưa đến dân, lòng thành chưa thấu tới trời mà đến nỗi như thế chăng?”.  Cũng trên cái mạch tư duy ấy, vua Minh Mạng thế kỷ XIX khi nghe tâu về vỡ đê, dân tình cơ cực đã xót xa tự vấn :” Nghĩ tấm thân lạm ở trên trăm họ, không biết tu đức để trời cho hòa khí, đến nỗi dân ta bị tai họa ấy, thực là một điều lỗi lầm của ta“! Thì ra, cha ông ta xưa đã không mắc phải điều mà ngày nay đã trở thành ca dao hiện đại : “mất mùa bởi tại thiên tai, được mùa bởi tại thiên tài đảng ta“!
Gợi lên vài dòng lịch sử chi nhằm nói thêm với người gánh vác trọng trách quốc gia rằng : phải biết “kính cẩn, lo sợ, như đi trên băng mỏng, như đứng bên bờ vực” chứ không thể tùy tiện phán bảo và quen thói bịt miệng dân, chỉ muốn dân cúi đầu tuân phục “chỉ thị, nghị quyết”, cho dù thực tiễn cho thấy có quá nhiều chỉ thị nghị quyết sai lầm gây bao tai họa cho dân. Và rồi, cái cách lớn tiếng đe dọa “lợi dụng việc góp ý kiến vào Hiến pháp để phá hoại đường lối chính sách, làm mất uy tín và vai trò lãnh đạo của Đảng” của một vài người có trọng trách trên báo chí và trên tivi mấy ngày qua đã không hù dọa được ai! Trái lại, chỉ làm cho lòng dân thêm phẫn nộ. Điều này mong Tổng Bí thư cần lưu ý.
Đối với riêng tôi, khi tham gia soạn thảo và ký vào Kiến nghị về sửa đổi Hiến pháp 1992 mà Tổng Bí thư đã phê phán nặng lời, tôi chỉ muốn nói rằng, tôi đã thực hiện lời chỉ dẫn của Các Mác “ trí thức là người nói sự thật, phê bình không nhân nhượng về những gì đang hiện hữu. Không nhân nhượng với nghĩa rằng họ không lùi bước trước kết luận của chính mình, hoặc trước xung đột với quyền lực, bất cứ quyền lực nào”.
Cho nên dù bị quy kết thế nào đi chăng nữa, tôi cũng thấy là chẳng có gì đáng bận tâm. Bởi lẽ, là người am hiểu và tôn trọng phép biện chứng, chắc Tổng Bí thư nhớ nằm lòng ý tưởng của Hégel được Ph. Angghen dẫn ra để nói về biện chứng của sự phát triển : “mỗi bước tiến mới sẽ tất yếu biểu hiện ra như là một sự xúc phạm tới cái thiêng liêng, là một sự nổi loạn chống lại trạng thái cũ, đang suy đồi nhưng được tập quán thần thánh hoá”.
Người am hiểu về biện chứng như Tổng Bí thư chắc sẽ bình tâm suy nghĩ về “những bước tiến mới” mà đời sống đất nước đang chứng kiến, để với cương vị của mình, thúc đẩy cho những ý tưởng mới phát triển nhằm đẩy lùi trạng thái cũ đang suy đồi nhưng được tập quán thần thánh hóa. Làm được như vậy thì dấu ấn để lại trong lòng người và cho lịch sử sẽ không là sự cáo chung của lực lượng bảo thủ cố duy trì cái cơ chế đã đưa đất nước vào ngõ cụt, mà là người đem lại sự canh tân, thuận với quy luật phát triển, đáp ứng được lòng dân.
Kính gửi Tổng Bí thư lời chào trân trọng.
TP Hồ Chí Minh ngày 28.2.2013
Tương Lai
Nguồn: Ba Sàm.

27/2/13

Phục sinh





Phục sinh 

                                   Tặng  những người con Việt yêu chuộng tự do  

 Trong đêm tối  đã ẩn tàng ánh sáng
màn đêm không thể che mãi   mặt trời
chấn  song sắt không thể nào nhốt được
những tâm hồn yêu tự do 
như những cánh chim yêu bầu trời xanh  
 thân xác  có thể  không còn
Nhưng  trái tim khát vọng
sẽ hóa thân
thành cánh chim     
vút bay
đến tận chân trời :
tự do

( Bởi Sự Sống
phục sinh từ cái Chết

Ánh sáng  
phục sinh từ bóng tối

  Và Tự do
được phục sinh
từ những đêm dài nô lệ ! )


Những anh hùng:
Trần Hưng Đạo
Lý Thường Kiệt
Lê Lợi
Quang Trung...
Hãy phục sinh

và dựng lại
đường gươm giữ nước 
đã thất truyền 

Đất nước ơi !
Hãy phục sinh !


Trần Hồ Dũng . Washington . USA.

26/2/13

Hoàng Hạc lâu - 黃鶴樓

 

Hoàng Hạc lâu - 黃鶴樓

                   Thôi Hiệu - 崔顥 



昔人已乘黃鶴去,
此地空餘黃鶴樓。
黃鶴一去不復返,
白雲千載空悠悠。
晴川歷歷漢陽樹,
芳草萋萋鸚鵡洲。
日暮鄉關何處是,
煙波江上使人愁。


(phiên âm ) 
Tích nhân dĩ thừa hoàng hạc khứ,
Thử địa không dư Hoàng Hạc lâu.
Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản,
Bạch vân thiên tải không du du.
Tình xuyên lịch lịch Hán Dương thụ,
Phương thảo thê thê Anh Vũ châu.
Nhật mộ hương quan hà xứ thị,
Yên ba giang thượng sử nhân sầu.


Lầu Hoàng Hạc
Người dịch: Tản Đà



Hạc vàng ai cưỡi đi đâu ?
Mà nay Hoàng Hạc riêng lầu còn trơ.
Hạc vàng đi mất từ xưa,
Nghìn năm mây trắng bây giờ còn bay.
Hán Dương sông tạnh cây bày,
Bãi xưa Anh Vũ xanh dày cỏ non.
Quê hương khuất bóng hoàng hôn.
Trên sông khói sóng cho buồn lòng aỉ.


( Nguồn: tạp chí Ngày nay, số 80, 10-10-1937 )
---------------------------------------------------


Bản dịch của TRẦN HỒ DŨNG
( following original version : 7 words / 8 sentences )  


LẦU HOÀNG HẠC

Người xưa  cưỡi  hạc vàng đi mất

Lầu hạc còn trơ lại chốn này

Hạc vàng đi biệt từ xưa ấy 

Ngàn năm mây trắng lửng lờ bay

Hán dương sông tạnh cây bày bóng

Bãi thơm Anh Vũ cỏ xanh phơi

Chiều rơi tràn nhớ niềm cố quận

Khói sóng trên sông giục khách sầu    
tranhodung.saigon 1985 - washington 2012