23/4/13

Đất nước những tháng năm thật buồn





NGUYỄN KHOA ĐIỀM

Đất nước những  năm thật buồn
 Nửa đêm ngồi dậy hút thuốc vặt
 Lần mò trên trang mạng tìm một tin lành
 Như kẻ khát nước qua sa mạc
 Chung quanh yên ắng cả
 Ngoài đường nhựa vắng tiếng xe lại qua
 Người giàu, người nghèo đều ngủ
 Cả bầy ve vừa lột xác
 Sao mình thức?
 Sao mình mải mê đeo đuổi một ngày mai tốt lành?
 Bây giờ lá cờ trên Cột cờ Đại Nội
 Có còn bay trong đêm
 Sớm mai còn giữ được màu đỏ?
 Bây giờ con cá hanh còn bơi trên sông vắng
 Mong gặp một con cá hanh khác?
 Bao giờ buổi sáng, buổi chiều nhìn ra đường
 Thấy mọi người nhẹ nhàng, vui tươi
 Ấm áp ly cà phê sớm
 Các bà các cô khỏe mạnh yêu đời
 Hớn hở tập thể dục
 Bao giờ giọt nước mắt chảy xuống má
 Không phải gạt vội vì xấu hổ
 Ngước mắt, tin yêu mọi người
 Ai sẽ nắm vận mệnh chúng ta
 Trong không gian đầy sợ hãi?
 Những cây thông trên núi Ngự Bình thấp thoáng ngọn nến xanh
 Đời đời an ủi
 Cho người đã khuất và người sống hôm nay …

22.4.2013

Nguồn : Quê Choa

22/4/13

Quảng Nam có văn học, văn chương từ bao giờ ?

    


Nguyễn Văn Xuân


Câu hỏi đó rất khó trả lời.

Vì người Quảng Nam thật sự xuất hiện và được biết tới là vào những thời Trần, Hồ, Lê, Mạc trong hai vùng Điện Bàn và Thăng Hoa (tên hai phủ của Quảng Nam xưa). Tên Quảng Nam chỉ xuất hiện để chỉ một xứ: xứ Quảng Nam bao gồm từ Thăng Hoa đến vùng nay là Bình Định - Điện Bàn thuộc về xứ Thuận Hoá (nay là Thừa Thiên Huế) bên kia Hải Vân.
Cho đến thời Nguyễn Hoàng mới rút Điện Bàn ra khỏi Thuận Hoá để thành Thăng - Điện. Sau 1802, khi lập tỉnh mới gộp hai phủ ấy lại thành tỉnh Quảng Nam.

Khi còn là Thăng, Điện, ở đây sự học chưa thực sự mở mang và những chức vụ lớn đều ở trong tay người Đàng Ngoài. Tuy vậy, theo các sách do người Pháp viết để lại, bấy giờ đã có diễn tuồng. Mà muốn diễn phải có tuồng bản. Sự thật văn tuồng có thể được xem là văn học cổ nhất, nhưng không thấy lưu lại bản nào. Còn văn học dân gian thì chắc đã có từ lâu, nào hò, nào vè, hò khoan, ca dao, tục ngữ. Ví dụ những câu sau đây cho biết tình trạng Hội An khi còn nghèo:

Hội An bán gánh, bán lều
Kim Bồng bán cải, Trà Nhiêu bán hành.

Cho tới khi Hội An giàu có thịnh vượng:

Hội An bán gấm, bán điều
Kim Bồng bán cải, Trà Nhiêu bán hành.

Kim Bồng là vùng cách Hội An một con sông. Vùng ấy về sau chuyên về xây dựng và nghề mộc khá tinh xảo. Còn Trà Nhiêu là một đầm rộng lớn để tàu thuyền ngoại quốc vào đậu. Cửa Đà Nẵng chỉ dành cho các tàu thuyền lớn có tính cách tiền cảng. Vào thời xa xưa, chưa có tàu thuyền lớn thì chắc chắn Hội An giữ vai trò chuyên biệt thương mại của Hội An.

Sự lớn mạnh của thương mại và xuất nhập của tỉnh Quảng Nam (chứ không còn là xứ Quảng Nam) bắt đầu từ triều Nguyễn.

Biết bao giờ trả cho hết nợ Cao Hoàng.
Đào sông Cao Nhí, đắp đàng Bông Miêu.

Câu ca dao nói lên thực tế xa xưa đó. Dưới thời Minh Mạng, đào sông Vĩnh Điện, sông này mở khẩu từ làng Câu Nhí nên cũng mang tên ấy và rất thuận lợi tiếp nối với sông Hàn, biến nơi này thành nơi tụ hội một hải đội chuyên xuất khẩu.

Từ Hội An ra cửa Hàn, sao bạn lại không lên đường đi chơi đèo Hải Vân và Hải Vân Quan. Tôi thấy mấy ông nhà văn, nhà thơ ngày trước như Nguyễn Tuân, Đoàn Phú Tứ, Lưu Trọng Lư... thỉnh thoảng vào Quảng Nam, lại rủ nhau lên đỉnh đèo uống rượu trước trời cao, biển rộng và mây trắng bay sau các lùm cây. Các tiệc rượu như thế thanh tao và thanh cao biết bao nhiêu. Các du khách còn được xem lại cửa ải xưa, nơi lập ra để ngăn chặn quân địch đổ bộ vào Đà Nẵng để kéo quân ra Huế đánh kinh đô.

Cũng tại con đèo núi tiếp núi này, nơi:

Chiều chiều ra đứng Hải Vân
Chim kêu ghềnh đá gẫm thân lại buồn.

Chắc đây là tiếng than thở của dân làng bị định cư tại lưng đèo để bảo vệ đèo hoặc của một phụ nữ nào đó sống trong quạnh quẽ, cô đơn. Tuy vậy, vào ngày nắng sáng mùa hè, chính mắt tôi đã từng trông thấy những lẵng hoa vĩ đại rực rỡ chói chang. Đó là một loại hoa màu mát dịu như hoa rau muống nhưng lớn hơn, trải khắp hết cụm núi này sang cụm núi nọ, dưới chân lại có loại hoa vàng đậm như để đan viền cho những tấm thảm khổng lồ, bất tận kia.

Tôi mời bạn đến với Ngũ Hành Sơn. Thời xa xưa, trước Minh Mạng có tên cúng cơm Non Nước trải qua nhiều thế kỷ. Cuối thế kỷ XVII, chúa Hiển Tông Nguyễn Phước Chu (1691 - 1725) có mời một đại sư Trung Quốc sang xứ Đàng Trong. Nhà sư đến Non Nước chơi và khi trở về có viết tập Hải ngoại ký sự - Viện đại học Huế ấn hành bản dịch năm 1963. Ông khen cảnh đẹp, cảm hứng làm nhiều bài thơ ca tụng Tam Thai (tức Non Nước). Ông cũng trách thi nhân ta đã không biết thưởng thức cảnh đẹp, không dùng đề tài ấy để ngâm vịnh.

Khi tôi lớn lên, không cần ông động viên (vì sách của ông chưa ai biết) thấy các sườn núi đã đầy ngập những thơ Hán, Nôm, dở hay, làng nhàng cũng đều có, thường dân, danh sĩ cũng có. Những người Quảng Nam thường thích đọc hai bài (không rõ có đục vào sườn núi hay không) của bà Bang Nhãn và ông Thái Duy Thanh.

Bài của bà Bang Nhãn có khẩu chí chân tình:

Núi chen sắc đá màu phơi gấm
Chùa nực hơi hương khói lộn mây

Bài của Thái Duy Thanh độc đáo:...

Ngó lại, ngó qua năm đống đá
Tu lên, tu xuống mấy ông thầy
Lên đài Vọng Hải trông xa tít;
Vào động Huyền Không ngó trống quầy
Lếu láo ngâm đưa đôi chén rượu,
Cõi trần khi cũng có tiên đây.

Ngũ Hành Sơn là cái tên mới đặt thời vua Minh Mạng. Đó là nơi vua Minh Mạng, Thành Thái đến xây dựng hoặc vãn cảnh. Lại có một bà công chúa đến tu. Đây là nơi người Quảng Nam rất tôn trọng, xem như “Địa linh nhân kiệt”, nơi tạo ra những nhân tài xuất chúng. Học trò thời trước thường đến vãn cảnh và trước khi ra Huế thi Hương, thi Hội vẫn có mặt ở đây để xin được phù trì. Những cảnh đẹp nào Huyền Không động, động Chiêm Thành, nào Vọng Hải Đài, Vọng Giang Đài, nào các chùa danh tiếng, nào những bậc cấp khéo xây, huyền thoại ly kỳ về con rắn biển đã tạo nên cửa Đà Nẵng, sông Hàn rồi đẻ trứng tại đây hoá thành núi... Một thi nhân cũ tặng cho Ngũ Hành Sơn một câu thơ đầy ý nghĩa “Núi thấp hơn hết mà danh cao hơn hết” (dịch).

Bạn đã biết các khu vực nổi tiếng qua ca dao. Nhưng thiếu sót biết bao nếu không ngược dòng Thu Bồn, viếng xem những cảnh trí khác cũng rất nổi tiếng thời xưa - chúng ta có thể từ Hội An ngược lên. Bạn sẽ thấy, trước hết cùng nước bao la xa đổ về biển. Ấy là vùng Trà Nhiêu. Cũng tại cái đầm vĩ đại mà chắc chắn thời Chiêm Thành lập kinh đô tại đây, nó cũng đóng vai trò Chiêm cảng. Ngược sông Thu Bồn đến cầu Câu Lâu, nhìn qua hướng bên phải là một dải đất rộng, nơi có những làng Phú Chiêm, Thanh Chiêm vốn rút từ Chiêm của Chiêm động ra.

Lại ngược sông nữa, bạn sẽ gặp một vùng gọi là Gò Nổi. Đây là vùng trù phú nổi tiếng về dệt các mặt hàng vải, tơ lụa. Cũng vì có tơ lụa nên có những ruộng dâu xanh ngắt. Các cô con gái làm nghề tằm tang quen ở trong bóng mát nên có tiếng xinh đẹp nhất.

Cũng vì có dâu xanh lúa tốt, nên Gò Nổi sản xuất biết bao danh nhân lững lẫy trong học vấn, trong chính trị - từ Hoàng Diệu đến Phạm Phú Thứ, từ Trần Cao Vân đến Phan Thành Tài. Riêng một họ Phan, về lớp sau cũng sản sinh những Phan Khôi, Phan Thanh... thú vị hơn nữa là những cô gái Bảo An xinh đẹp một thời.

Lại ngược dòng nữa, trải qua những di tích cũ-mới, ở đây có lễ hội hằng năm ở miếu thờ bà Thu Bồn - và các địa danh nổi tiếng.

Rồi bạn đến nơi có ca dao ai cũng biết:

Ngó lên Hòn Kẽm, Đá Dừng
Thương cha nhớ mẹ quá chừng bạn ơi!

Từ nguồn xa xôi, nước đổ về đây rồi dừng lại, chậm lại ở Hòn Kẽm, hai bên có đá dựng. Nước tạo nên một dải giống hệt một cái hồ tuyệt đẹp gợi cho chúng ta cảm tưởng “Non bồng, nước Nhược” cực kỳ êm ả. Nếu có một con thuyền nhỏ, bạn cùng người yêu đưa nhau đi trên hồ thiên tạo này, bạn sẽ cảm thấy thế giới “Kinh tế thị trường” dưới kia sao mà ồn ào, trần tục đến thế. Ở đây có bãi cát đẹp, bạn có thể đóng trại một hai hôm để thưởng thức tinh tuý tươi mát trong lành của trời đất.

Nói đến cảnh đẹp Quảng Nam mà quên “Hòn Kẽm Đá Dừng” cũng như quên “Mỹ Sơn thánh địa” của Chiêm Thành thì phải nói là chưa đủ đấy! Nhất là quần Tháp và các di vật lưu lại ở vùng thung lũng dưới sự chứng kiến đời đời của ngọn núi Quắp độc đáo mang tính thiêng liêng khó hiểu. Có đến Mỹ Sơn bạn mới có sự thông cảm sâu sắc hơn với cổ viện Chàm tại Đà Nẵng, một cổ viện không đồ sộ nhưng danh tiếng lớn. Một thi sĩ xưa vịnh câu này và Huỳnh Thúc Kháng coi là tuyệt hay “Núi thấp nhất nhưng danh vọng cao nhất” như đã nói, ta cũng có thể gán câu đó cho cổ viện Chàm.

Nói đến Quảng Nam, người ta hay nhắc chuyện học. Người Quảng Nam cũng tự tin, tự hào về mặt này.

Họ lại cũng hay nhắc về “Ngũ phụng tề phi”. Tôi nhớ trước kia, các sinh viên Quảng Nam có đề nghị tôi phát biểu về sự kiện này. Tôi cũng cho đó là điều đáng quan tâm qua những kỳ thi Hội, thi Đình ở một vài tỉnh. Ba tiến sĩ, hai phó bảng cùng đỗ một khoa thi thì cũng đúng là “năm con phượng cùng bay”. Nhưng trong việc học, bằng cấp cao đến đâu cũng chỉ đánh dấu sự khởi đầu... Điều quan trọng nhất của việc học hành, chính là đậu để làm gì? Để lập sự nghiệp. Năm nhà đại khoa đó có sự nghiệp chính trị, văn hoá, học thuật nào? Tôi không thấy. Vậy ta nên coi đó là giai thoại giúp cho các bạn trẻ phấn chấn hơn trong việc học hành. Học giỏi, đậu cao, phụng sự đất nước, có sự nghiệp xứng đáng, lưu danh là điều đáng quý, đáng trân trọng, noi gương. Song đã có “Lục phụng bất tề phi”. Phạm Phú Thứ (tiến sĩ), Phan Châu Trinh, Nguyễn Duy Hiệu (phó bảng), Trần Qúy Cáp, Huỳnh Thúc Kháng (tiến sĩ), Phạm Như Xương (Hoàng Giáp) và ngoại trừ Phạm Như Xương ít hiểu biết nên cho dù ông bỏ quan để theo Nghĩa hội Quảng Nam rồi sau đó là chỗ dựa bí mật và là cố vấn cho Quang Phục Hội (phong trào Đông Du của Tiểu La và Phan Bội Châu). Nếu nói học thì ông có học vị cao nhất khắp miền Nam, còn hành thì ông hành động như một đại trí thức.

“Lục phụng bất tề phi” mới thực sự nêu gương cho người Quảng Nam và Việt Nam để tuổi trẻ biết thế nào là học và hành”, bây giờ và cả trường kỳ lịch sử. Ví như Phạm Phú Thứ, đỗ song nguyên (cử nhân, tiến sĩ đầu) khi sang Pháp chuộc ba tỉnh miền Đông Nam Bộ, đã chuyên tâm viết bộ Du ký lừng lẫy (Tây hành nhật ký) đến nay còn giá trị đối với lịch sử trong nước và thế giới. Vậy mà lúc về, không quên mang theo về cái xe đạp nước kéo bằng trâu theo kiểu mẫu Ai Cập, gọi là xe trâu. Phan Châu Trinh khi ở Côn Đảo là tay câu cá giỏi, sang Pháp là “xếp” một câu lạc bộ câu cá và kiếm sống bằng nghề thợ ảnh đồng thời là tác giả bao nhiêu bộ sách chính trị vang động giới chính trị Pari (Việt và Pháp). Trần Quý Cáp chuyên nghề bút canh (Cày ruộng bằng bút) là thầy đồ tiếng tăm, cả các tỉnh Nam ra học và nhờ đó ông mới hướng đạo được cuộc Nam du của ba chí sĩ (Phan, Huỳnh và Trần) đã là bậc giáo thọ tử vì đạo. Ông Nguyễn Ái Quốc trong Bản án chế độ thực dân Pháp đã đề cao “Ông nghè Trần Quý Cáp, một nhà nho thanh cao ai cũng kính phục”. Ông là nhà hùng văn và hùng biện. Huỳnh Thúc Kháng (cũng song nguyên) là người học trò nức tiếng thuở trẻ. Khi đi tù Côn Đảo, ông học làm đồi mồi và quản lý sở buôn. Ông trở về đất liền trên tay có bộ từ điển Pháp Việt mà người ta bảo ông học thuộc lòng từ đầu chí cuối. Với nghề đồi mồi, ông đã thực hành và đưa các mặt hàng mỹ nghệ nữ trang đi chào để xuất khẩu sang Pháp và sau này, ông tự đứng làm quản lý cho công ty Huỳnh Thúc Kháng (nhà in và báo Tiếng Dân). Cũng cần nhắc thêm 1905, ba nhà đại khoa này đã giúp Phan Thiết lập công ty nước mắm Liên Thành đầu tiên. Học như thế mới gọi là học, và nêu cái gương học vấn cho dân, cho nước. Lục phụng này mới thật là phụng hoàng không thẹn cùng nhật nguyệt.

Còn không học đúng ra là không có bằng cấp thì cũng có nhiều tay cự phách: Tiểu La, Trần Cao Vân, Thái Phiên, Phan Thành Tài, Phan Khôi…

“Đất Quảng quê tôi” còn nhiều điều để nói, với tính đặc thù của nó, hầu góp phần vào kho tàng văn hoá nước nhà, đang đi lên trong sự nghiệp đổi mới.

GS Nguyễn Văn Xuân
Written by Nguyễn Văn Xuân (1921-2007)
 Saturday, 15 April 2006

© 2010 www.xuquang.com

21/4/13

Huyền ca

 Pinned Image



Huyền ca 
                          Trần Hồ Dũng 
Em gieo sầu chi lên cung đàn 
Cho ta ngồi đây đau tình xa
Em ngân nga chi cung  tơ vàng 
Cho ta nghe xa như huyền ca
    Lá thu còn rơi cho vai gầy
    Gió thu còn trôi cho tóc bay  
    Lệ xưa còn rơi trên vai người
    Tình xưa còn in trong nắng phai

    Em như chim bay về chân trời 
    Tình ta nổi trôi theo ngàn mây 
    Nhớ em về trong ly rượu đầy 
    Ta nghe sầu lên men ngất ngây 

Tình đâu trăm năm mà ngậm ngùi
Đời không thiên thu sao mãi đau 
Ai thương nhớ ai trông mây ngàn
Ai ngồi khóc ai dòng sông trăng
    Ừ , ta giờ đây thôi yêu nàng
    Ừ , em giờ đây thôi yêu trăng  
    Lòng ta hồ như bia mộ vàng
    Lòng em hồ như rêu đá xanh

20/4/13

Vì sao mỹ nhân?


Nguyễn Thanh Hiện

kính tặng hết thảy những mỹ nhân trong trời đất.


"Lilith" by John Collier
...
sử sách hoá thành ký ức, và ký ức lại dày vò ta, lần này thì ta nhìn thấy hình thù sử thư một cách tường tận, đáy sử đầy xương khô, còn bờ sử vẫn cứ tiếp tục chảy những dòng sử sự đen ngòm...
...
ta nhớ bấy giờ là đang mùa thu, đất cũ kinh thành như trở nên tươi tỉnh khi được nhìn thấy dung mạo của người nghìn năm trước, thấy ông loay hoay mãi với đám cổ thư nên em phải trở về đây, cứ tưởng nàng cũng cũ kỹ như những thành quách rêu phong, nhưng ta đã lầm, thời gian có làm cho thành quách rêu phong nhưng lại khiến cho con người bớt đi ngu muội, nàng tiếp tục nói, và ta lập tức quyết định rũ bỏ thứ quãng cách nghìn năm, thưa nương nương, mới đầu thì ta tính mở đầu như thế, nhưng ta lập tức bãi bỏ mở đầu như thế, mà em đã nhìn thấy ta tự bao giờ, ta hỏi, nàng vén nhẹ xiêm y, bước tới, con ngựa nòi phương nam hơi nhích về phía đằng sau như để tỏ cung kính với nữ chủ, ông cứ xem thì xưa nay đám con gái có chút nhan sắc với kẻ cầm bút luôn là đồng điệu, cảm động vô cùng, và ta bắt đầu nói, ta nói là ta đã nhìn thấy nàng từ những trang cổ thư nhàu cũ, ta đã đọc chúng đến nhàu cũ, tàn bạo và luân lạc, cũng vào một ngày mùa thu ta đã nhìn thấy em đứng ở giữa máu mà hát, máu của những người mông muội có nước da sáng và máu của những người mông muội có nước da không sáng, người ta đã bắt em phải đứng ở giữa máu mà hát, ta nói là ta đã nhìn thấy những cổ kính ngàn năm bị vứt tung giữa những trận cười man dại, ta nói là ta đã nhìn thấy vì vua thắng trận buồn bã đi dưới bầu trời mùa thu khi không cưỡng đoạt được nàng và đã biến nàng thành cát bụi, nàng bảo dẫu sao thì kẻ biến nàng thành cát bụi cũng là khách của đất cũ nghìn năm, ta giật mình hỏi kẻ giết vua của nàng để chiếm đoạt nàng cũng là khách ư, nàng không trả lời ta mà bảo, rằng xưa nay đã mang tiếng mỹ nhân đều là thế, nhưng dường có ai đó đang cãi vã nhau ở góc cũ kinh thành, nàng hỏi, ta nói hầu như ngày nào lũ chó hoang cũng tụ tập để tranh nhau trèo lên bức tường thành cũ ở nơi góc cũ kinh thành, nhưng lũ chúng tranh lên đó để chi, để sủa, lên đó mà sủa thì hết thảy đều nghe thấy, ta nói, cũng là khách của đất cũ kinh thành, nàng nói, ta không tiện hỏi nàng có cách gọi nào khác cách gọi là khách cho hợp lẽ hơn để gọi những vì vua đi giết vua và cướp đoạt vợ vua của nước khác vì bấy giờ dường có đám quan quân đang tiến về chỗ ta và nàng, a ha lại là giai nhân, đất cũ kinh thành lại nổi lên bóng dáng giai nhân, có nhiều người trong bọn người ấy nói to, nàng có vẻ ái ngại, nói đủ ta nghe, rằng chẳng lẽ hết thảy những kẻ chết năm xưa đã hoá thành quỉ dữ để quay lại đất cũ kinh thành, ta phải lập tức giảng cho nàng rõ đấy là đám quan quân phóng đãng đời nay, chúng ăn nhậu và tắm bùn ở gần đâu đây, nghe hơi mỹ nữ mà kéo đến đấy thôi, dường nàng cố nhịn cười khi đám người mình mẩy đầy bùn ấy cứ xoắn vào nàng, ta có ý định bảo nàng hãy lên ngựa ra đi cho yên chuyện, nhưng từ đằng xa có ai đó đang phóng ngựa về phía ta và nàng, hãy tránh ra lũ vô sỉ, ta sẽ bảo chủ của lũ ngươi giết hết lũ ngươi, người đàn ông trên lưng ngựa tuốt gươm, quát, thấy nàng tỏ ra xúc động, ta lập tức dò tìm trong ký ức của mình, và ta cũng đã lập tức nhận ra, và trong đám quan quân phóng đãng có kẻ nào đó cũng đã nhận ra, vua cũ của chúng ta đấy, kẻ ấy la lớn, và lập tức hết thảy bọn chúng cúi rạp người lên đất, nàng là vương phi của đất cũ, nghìn năm trước ta đã trót yêu và bức tử nàng, biết chưa, kỵ sĩ tra gươm vào vỏ, nói to với đám quan quân phóng đãng, rồi quay sang nàng bảo là ông đã có lỗi với nàng, lỗi rất lớn, nghìn năm sau ông vẫn không quên nàng, ông nói, nàng im lặng vái chào ông, và ông vẫn ngồi yên trên lưng ngựa, vái chào nàng, rồi quất ngựa đi về nơi sinh ra và yên nghỉ của mình, ta nghe như nàng đang cố nén tiếng thở dài khi nhìn thấy đám quan quân phóng đãng đều đã lăn ra đất chết cả, dẫu gì thì cũng là khách của đất cũ nghìn năm, chỉ có điều hơi tiếc là kẻ làm quan đời nay lại lấy niềm sợ hãi làm bản mệnh, nàng thì thào, nói, rồi từ biệt ta lên ngựa ra đi, đêm, ta còn trằn trọc nghĩ về dòng sử sự lúc ban ngày thì người con gái ấy lại đến, chỉ hỏi ta mỗi câu, tại sao em lại là mỹ nhân, rồi lại ra đi.

Nguyễn Thanh Hiện

Source : Tienve
(www.tienve.org )

 

18/4/13

Tháng tư và cú chạy marathon bỏng rát

Nguyễn Tấn Cứ

 
Không thể chạy vì mặt đường đã chật kín những nỗi buồn
Không thể đi vì mọi góc phố đều bị chất đầy những kỉ niệm
Không thể cựa quậy vì những giấc mơ bị ướt đẫm mồ hôi
Không thể đứng lại vì sự cuốn đi của đám đông đang chết

Tháng tư như một quả bom vẫn còn chôn sâu trong lòng đất
Chiến tranh như những viên đạn pháo treo trên nhành cây kí ức
Những khẩu 155 ly u mê gục đầu trong những khu vườn xương xẩu
Những chiếc HU 1A khô khốc mốc meo đang rã cánh ở thiên đường

Chạy đi đâu tháng tư và những cơn điên của mùa hè đang nhe nanh khạc lửa
Chạy đi đâu với những vây quanh của những bệnh nhân đang cào lên khung cửa
Những con cừu đang đến mùa gào kêu đòi lột da vì những cơn dâm loàn mùa hạ
Những tên đồ tể vung đao lên giữa trưa trong những oan khiên đỏ quạch một màu

Tháng tư của những oán thù đang dâng tràn lên
trên những hàng cây thông tin mặt nhàu góc phố
Tháng tư của sự không bao giờ lãng quên
của phía bên này bên kia thắng thua và được mất
Tháng tư của những con chồn đã đổi màu
khi chiến tranh đang cất lên tiếng tru
hú lên trên một chiến trường rất khác
trong khi những con mèo thì vồ xé nhau trong bẫy sắc
khi những con chuột hồn nhiên đang nối đuôi nhau chui xuống đường hầm

Tháng tư như một suất ăn đêm được chia phần cho những bóng ma quá khứ
cho những kẻ chở ngược tương lai về phía bên kia bóng tối
cho những con mèo đêm đang gào lên trên mái nhà lịch sử
Chúng đang rền siết lên dưới ánh trăng chuyển dạ
Chúng đang sinh ra những con cáo tinh ranh
đang lẫn lộn giữa loài người

Tháng tư không thể chạy đi đâu không thể dừng lại ở đâu
không biết trốn ở đâu không biết làm gì ở đâu
khi tháng tư vẫn gầm gừ vẫn oi ả nực nồng hầm hập hâm hấp rầm rập
như những cơn giông đang bốc cháy như lân tinh rờn rợn tận trong lòng...

Source : Tienve  

Trí thức và độc tài




I

17.04.2013

 

bởi Nguyễn Hưng Quốc

Đọc lịch sử các chế độ độc tài, từ độc tài phát xít với những Hitler và Mussolini đến độc tài cộng sản với những Stalin, Mao Trạch Đông, Pol Pot, Nicolae Ceauşescu, và Kim Chính Nhật (bây giờ là Kim Chính Ân) hay độc tài quân phiệt với những Saddam Hussein, Muammar Gaddafi, Robert Mugabe…chúng ta không thể không ngạc nhiên.

Có rất nhiều điều để ngạc nhiên.

Thứ nhất, tất cả các tên độc tài, dưới nhiều nhãn hiệu khác nhau, đều vô cùng tham lam và độc ác. Chúng thâu tóm toàn bộ quyền lực trong tay và với quyền lực vô tận ấy, giết vô số người, từ những kẻ thù thực sự đến những kẻ thù tưởng tượng, trong đó phần lớn là chính dân chúng ở nước chúng.

Thứ hai, tất cả đều mắc bệnh huyễn tưởng, tự xem vị thế và quyền lực của mình như một thứ gì thuộc về thiên mệnh; và vì thiên mệnh, chúng nằm ngoài hoặc nằm trên không những luật pháp mà còn cả các nguyên tắc đạo lý thông thường của con người. Giết người, thậm chí, giết vô số người, với người khác, là tội ác; với chúng, là thiêng liêng và cao cả.

Thứ ba, vì căn bệnh huyễn tưởng ấy, rất nhiều nhà độc tài trở thành lố bịch, không khác những tên hề. Ceauşescu tự xưng mình là “Thiên tài của vùng Carparthians”, một vùng núi rộng lớn ở Trung Âu, kéo dài từ Slovakia qua miền Nam Ba Lan, miền Tây Ukraine đến tận phía Đông Bắc của Romania. Còn vợ của ông, Elena, người được cử làm Phó Thủ tướng, thì được tuyên truyền như một “Quốc mẫu”, một nhà khoa học vĩ đại (dù bà thực sự bỏ học từ năm 14 tuổi, và tất cả các cái gọi là “công trình khoa học”, kể cả luận án tiến sĩ của bà, đều do người khác viết). Rafael Trujillo, nhà độc tài ở Dominican Republic từ 1930 đến 1938 và từ 1942 đến 1952 thì tự xem mình là Thượng đế. Ông ta ra lệnh cho mọi nhà thờ trong nước phải khắc câu “Chúa ở trên Trời, Trujillo ở dưới Thế” (God in Heaven, Trujillo on Earth) và mọi bảng xe đều khắc câu “Trujillo vạn tuế”. Francisco Macias Nguema, nhà độc tài ở Equatorial Guinea từ năm 1968 đến 1979 cũng thế. Cũng tự xưng mình là Thượng đế. Dưới thời ông, biểu ngữ chính trong nước ghi “Không có Thượng đế nào khác ngoài Macias Nguema”. Saparmurat Niyazov, Tổng thống xứ Turkmenistan từ năm 1990 đến 2006 thì ra lệnh đổi tên 12 tháng trong năm theo tên ông và người thân trong gia đình của ông. Ông cũng viết sách và ra lệnh bất cứ người dân nào, để được thi lấy bằng lái xe, cũng phải thuộc lòng nguyên cả cuốn sách của ông.

Thứ tư, tất cả đều giả dối, đều sử dụng vô số huyền thoại láo khoét để biến mình thành thần tượng, thành những lãnh tụ anh minh, đầy viễn kiến, mở ra những chân trời mới cho đất nước hoặc cho cả nhân loại. Những huyền thoại ấy nhiều khi rất ngây ngô, ví dụ chuyện Kim Chính Nhật điều khiển đội tuyển bóng đá Bắc Triều Tiên trong giải World Cup 2010 bằng cách chỉ dẫn từng đường đi nước bước trong suốt trận đấu cho huấn luyện viên Kim Jong-Hun qua một chiếc điện thoại di động vô hình!

Nhưng cả bốn điều “đáng ngạc nhiên” trên đều không đáng ngạc nhiên bằng hai điều này:

Một, mặc dù tham lam, độc ác, mắc bệnh huyễn tưởng và giả dối như vậy, những tên độc tài ấy lại cầm quyền, hơn nữa, cầm quyền một cách tuyệt đối, trong thời gian rất dài, có khi cả đời hoặc nhiều đời, hết đời con đến đời cháu, chắt.

Hai, dù đầy khuyết điểm như vậy, những tên độc tài ấy vẫn được nhiều người, kể cả giới trí thức, thậm chí là trí thức xuất sắc ở Tây phương, ngưỡng mộ và hết sức bênh vực cũng như góp phần tuyên truyền cho chúng một cách nhiệt tình.

Trong hai điều trên, điều thứ hai quan trọng hơn. Giải thích điều thứ nhất, người ta có thể nói: Bởi các nhà độc tài đã xây dựng được một bộ máy tuyên truyền hữu hiệu đủ để nhồi sọ tất cả mọi người và một bộ máy quyền lực mạnh mẽ đủ để nghiền nát bất cứ người nào dám chống đối. Nhưng không có một bộ máy xã hội và chính trị nào có thể tồn tại độc lập. Vấn đề chính là ở con người, tức ở khía cạnh thứ hai, chúng ta vừa nêu ở trên: Tại sao người ta lại khiếp sợ và ngưỡng mộ các tên độc tài đến như vậy? Tại sao người ta lại để cho các tên độc tài dễ dàng lừa dối mình đến như vậy?

Trên thế giới, cũng có nhiều người từng ngạc nhiên như vậy. Có thời, những kẻ như Hitler, Mussolini, Lenin, Stalin, Mao Trạch Đông, Fidel Castro, thậm chí, Kim Chính Nhật đã trở thành thần tượng của nhiều trí thức và văn nghệ sĩ Tây phương. Đạo diễn Oliver Stone khen Fidel Castro là một kẻ “rất vị tha và đạo đức. Một trong những người khôn ngoan nhất trên thế giới.” Một đạo diễn khác, Steven Spielberg, cho “gặp gỡ Fidel Castro là tám giờ quan trong nhất” trong cuộc đời của ông.

Trước đó, ở Ý, Gabriele D’Annunzio, một nhà thơ lớn, cũng như nhiều nhà thơ thuộc trường phái Vị Lai khác, từng là những kẻ ủng hộ nhiệt thành Mussolini. Ở Đức, Hitler không thiếu người ngưỡng mộ, kể cả một trong những triết gia lớn nhất của thế kỷ, Heidegger, một trong những họa sĩ lớn nhất của thế kỷ, Salvador Dali, một trong những nhà thơ lớn nhất của thế kỷ, Ezra Pound. Nhà văn Na Uy từng đoạt giải Nobel năm 1920, Knut Hamsun, cũng rất ủng hộ Hitler.

Đối với các nhà độc tài cộng sản, số trí thức ngưỡng mộ nhiều hơn hẳn. Nhà văn Anh George Bernard Shaw (1856-1950) suốt đời ủng hộ Lenin, Stalin, và cả Hitler nữa. Cả Andre Gide và Doris Lessing đều từng ủng hộ Stalin tuy cả hai, sau đó, tự nhận là mình lầm. Picasso, Bertolt Brecht, Pablo Neruda, W.E.B. Du Bois, Graham Greene, v.v. cũng đều ủng hộ Stalin; trong đó, có người vừa ủng hộ Stalin vừa ủng hộ Mao Trạch Đông.

Jean-Paul Sartre cũng từng là người ủng hộ Stalin và chế độ cộng sản rất nồng nhiệt. Ông là tác giả của một câu nói gây rất nhiều tai tiếng: “Mọi kẻ chống cộng đều là chó” (every anti-communist is a dog). May, sau đó, ông thay đổi thái độ. Khi quân đội Sô Viết xâm lăng Hungary vào tháng 11 năm 1956, ông lên án Liên Xô kịch liệt. Sự phê phán của Sartre đối với Liên Xô càng mạnh mẽ hơn nữa vào năm 1968 khi quân đội Xô Viết trấn áp dân chúng Czechoslovakia trong sự kiện được gọi là “mùa xuân Prague”. Trước năm 1975, trong chiến tranh Việt Nam, ông là người tích cực ủng hộ miền Bắc và lên án Mỹ một cách gay gắt. Sau năm 1975, chứng kiến thảm cảnh của người Việt Nam vượt biển, ông lại lên tiếng phê phán chính quyền Việt Nam và kêu gọi chính phủ Pháp cứu giúp người tị nạn.

Chúng ta lại phải tự hỏi: Tại sao nhiều người trí thức lại dễ dàng bị các nhà độc tài lừa bịp đến như vậy? Tại sao họ lại nhẹ dạ và cả tin đến như vậy?

Nhớ, trước đây, trong những lần về Việt Nam, tôi gặp khá nhiều văn nghệ sĩ và trí thức ở miền Bắc. Nhiều người kể lại, trước phong trào đổi mới, đặc biệt, trước năm 1975, họ gần như tuyệt đối tin tưởng vào giới lãnh đạo và chế độ. Trong các buổi học tập chính trị và văn hóa, họ lắng nghe cán bộ giảng bài như nghe những lời thánh phán. Họ cắm cúi ghi chép rồi về nhà, đọc lại một cách thành kính. Sau này, cũng theo lời họ, đọc lại các cuốn sổ tay cũ, họ thấy những ý kiến trong ấy rất hời hợt, thậm chí, ngô nghê. Họ tự hỏi: Tại sao thời ấy họ lại xem những ý kiến ấy như những lời vàng ngọc như vậy? Chính họ, họ cũng không biết rõ câu trả lời. Tất cả đều cho: Đó chỉ là hậu quả của việc nhồi sọ.

Lại nhớ, mấy năm đầu sau 1975, một số trí thức Việt kiều ở Pháp về thăm nước rồi viết bài đăng tải trên báo chí ở Paris. Họ khen Việt Nam không tiếc lời. Trong lúc người Việt Nam đói đến xanh xao mặt mũi, họ khen đời sống rất sung túc. Trong lúc cả hàng chục ngàn người bị bắt đi cải tạo và con cái họ không được vào đại học, họ khen “chính quyền cách mạng” thực tâm hòa giải, không có bất cứ một chính sách kỳ thị nào đối với những người thuộc chế độ cũ trước đó. Trong lúc cả hàng triệu người bất chấp nguy hiểm tìm cách vượt biên tìm tự do, họ cho Việt Nam là một quốc gia dân chủ và ao ước một ngày nào đó được về nước sống hẳn (dù trên thực tế, không bao giờ họ về cả!)

Trí thức trong nước bị nhồi sọ. Nhưng còn trí thức ngoài nước thì sao?

Trong lúc loay hoay tìm cách trả lời cho câu hỏi ấy, cũng như câu hỏi về sự nhẹ dạ và cả tin của trí thức thế giới nói chung, tự dưng tôi nhớ đến mấy câu thơ của Nguyễn Quốc Chánh trong bài “Tao là đứa bé ngoẻo trên lưng Linda Lê”:

“Có 3 thứ không thể kết hợp với nhau nổi. Đó là: Thông minh, lương thiện & cộng sản.

Một người thông minh & lương thiện thì không thể cộng sản,
Một người thông minh mà cộng sản thì không thể lương thiện, &
Một người lương thiện mà cộng sản thì chắc chắn không thông minh.”

Những câu thơ ấy ám ảnh tôi đến độ tôi không thể nghĩ tiếp được nữa.

Đành dùng chúng thay cho lời kết luận của bài viết.

* Blog của Tiến sĩ Nguyễn Hưng Quốc là blog cá nhân. Các bài viết trên blog được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.