19/7/13

NGỤC TÙ CỦA TRÍ TUỆ

Tháng 7 15, 2013

Ở TÙ xứ nào cũng khổ, nhưng mỗi xã hội có những cách hành xử văn hóa riêng để đày đọa người tù. Óc tưởng tượng tàn ác của giới cai tù Trung Quốc tuy không phải là độc nhất vô nhị, nhưng thường rất khác thường. Mà chính các tù nhân, những người tự phân chia đẳng cấp và lập nên nhà tù trong nhà tù, cũng có óc tưởng tượng khác thường.
Ví dụ, ở Trung tâm Điều tra thuộc Sở Công An Thành phố Trùng Khánh, còn gọi là Trung tâm Điều tra Tung Sơn, những tay trùm xà lim sáng chế một thực đơn gồm các món tra tấn quái dị. Thử điểm qua vài món:
Vịt hun khói kiểu Tứ Xuyên: Kẻ tra tấn đốt lông hạ bộ của tù nhân, tụt da quy đầu rồi dùng lửa đốt đen đầu dương vật.
Hoặc:
Mì nước trong: Những dải giấy vệ sinh được nhúng trong một bát nước tiểu, rồi tù nhân bị buộc ăn giấy vệ sinh và uống nước tiểu.
Hoặc:
Canh mai rùa và da heo: Kẻ tra tấn đánh hai đầu gối của tù nhân cho đến khi chúng thâm tím và sưng lên như mai rùa. Hết đi nổi.
Còn nhiều trò tra tấn khác nữa, được ban phát tùy theo tài ứng biến của kẻ thực hiện. Trong hồi ký lao tù lạ thường có nhan đề “Vì một bài hát và một trăm bài hát” (For a Song and a Hundred Songs, do Hoàng Văn Quảng dịch từ tiếng Trung, nhà xuất bản New Harvest), Liệu Diệc Vũ kể chuyện một tiều phu bị tâm thần phân liệt đã chặt chính vợ mình vì cô ta hốc hác đến nỗi anh tưởng lầm cô là một bó củi. Trùm xà lim pha thuốc nhuận trường vào nước súp của anh, rồi không cho anh dùng chậu đi tiêu đi tiểu chung, thế là anh chàng buồn đi cầu đến tuyệt vọng đành ỉa vấy lên khắp người một bạn tù. Vì cái tội đáng kinh tởm này, anh bị đập mặt vào bồn nước. Rồi đến lượt bọn quản giáo vì tưởng anh muốn tự tử, một trọng tội trong tù, nên dùng dùi cui điện đánh anh nhừ tử.
Alexis de Tocqueville đến Mỹ vào năm 1831 để nghiên cứu hệ thống nhà tù của nước Mỹ, nhưng rốt cuộc viết nên tác phẩm Dân chủ ở Mỹ(Democracy in America).[i] Quan sát hệ thống nhà tù Trung Quốc từ bên trong, với tư cách là một “tù nhân phản cách mạng” từ năm 1990 đến 1994, Liệu Diệc Vũ kể cho chúng ta biết rất nhiều về xã hội Trung Quốc, cả truyền thống lẫn cộng sản, trong đó có tác động của kiểu tuyên truyền cách mạng khoa trương, đấu tố vì bị ép buộc và thú tội công khai, và, khi thời thế thay đổi kể từ sau thời kỳ cai trị sai lầm của Mao Trạch Đông, áp dụng chủ nghĩa tư bản dưới những hình thức đồi bại. Ông kết thúc câu chuyện của mình bằng nhận xét “Trung Quốc vẫn còn là một nhà tù của trí tuệ: thịnh vượng nhưng không có tự do”.
LIỆU DIỆC VŨ bị tống giam vì sáng tác Thảm sát – một bài thơ theo phong cách dòng-ý-thức (stream-of-consciousness) tưởng niệm hàng ngàn người bị sát hại vào ngày 4/6/1989,[ii] khi phong trào đòi dân chủ bị đàn áp trên toàn Trung Quốc. Bài thơ (theo bản dịch tiếng Anh của Michael Day) mở đầu như sau:
Lại thêm một kiểu thảm sát diễn ra ở trung tâm xứ hoang tưởng
Thủ tướng cảm lạnh, nhân dân phải ho theo;
thiết quân luật ban bố bao lần.
Cỗ máy không răng của nhà nước cán lên những người can đảm không chịu bệnh theo.
Liệu Diệc Vũ không phải là nhà hoạt động chính trị, hay nói đúng hơn, một người bất đồng chính kiến, và sự phản kháng của ông mang tính tự phát. Ông không quan tâm lắm đến chính trị, ngay cả trong những năm 1980 khi mà nhiều thanh niên Trung Quốc chẳng nghĩ đến gì khác ngoài chính trị. Ông có cuộc sống khá phóng đãng, lang bạt kỳ hồ như một “kẻ đạo đức giả ăn mặc bảnh bao, một nhà thơ tự khắc họa mình là một tấm gương mẫu mực nhưng đồng thời lại hít thở bằng đàn bà như tôi đang hít thở bằng không khí, tìm chỗ trú ẩn và hơi ấm trong thú ăn nằm lang chạ”.
Cũng như nhiều người Trung Quốc lớn lên trong thời Cách mạng Văn hóa, Liệu Diệc Vũ coi như tự học văn chương, tuy ông được cha là thầy giáo truyền thụ nền tảng căn bản về Tứ Thư Ngũ Kinh. Rải rác trong hồi ký của ông, ta bắt gặp tên những tác giả phương Tây – Orwell, Kundera, Proust – một số tác phẩm của họ thậm chí lọt qua được những bức tường nhà tù ở Trùng Khánh. Trong số đó, đáng chú ý là có cả cuốn Một chín tám tư của Orwell. Liệu Diệc Vũ viết: “Trên trang sách là một nhà tù tưởng tượng, còn xung quanh tôi là nhà tù thật”.
Khác với người bạn Lưu Hiểu Ba, nhà phê bình được Giải Nobel và là một tác giả có chính kiến mãnh liệt, Liệu Diệc Vũ chưa bao giờ muốn liều lĩnh chấp nhận rủi ro. Ông mô tả mình là một nghệ sĩ chỉ muốn được tự do viết theo ý thích của mình. Mới hồi năm 2011, ông nói với nhà báo Ian Johnson: “Tôi không muốn phạm luật của họ. Tôi không quan tâm đến họ và mong muốn họ chẳng quan tâm đến tôi”. Nhưng, năm 1989, ông tự đẩy mình “vào con đường tự hủy diệt” khi đến các tửu quán và hội quán khiêu vũ để ngâm bài thơ của mình bằng giọng than khóc theo lối cầu siêu truyền thống của Trung Quốc. Một băng thu âm bài thơ này được lén lút phát tán, và một nhóm nghệ sĩ và bạn bè đồng cảm đã làm một bộ phim mang tên Lễ cầu hồn (Requiem) quay những cảnh ông ngâm bài thơ này. Theo Liệu Diệc Vũ, không một ai trong số đó có thể được liệt vào hạng “kẻ bất đồng” hay “nhà tranh đấu dân chủ”. Nhưng tất cả đều bị bắt, tác phẩm của họ bị tịch thu, và nhờ đó “Sở Công An triệt hạ một cộng đồng văn chương bí mật hoạt động mạnh ở Tứ Xuyên”.
Thời gian ở tù cũng không biến Liệu Diệc Vũ thành một nhà hoạt động chính trị. Có lúc một người cũng thuộc phong trào Bát Cửu (89) muốn khởi xướng một tổ chức gồm các tù nhân chính trị đã tiếp xúc với ông. Liệu Diệc Vũ không chịu tham gia, và giải thích lý do tại sao ban đầu ông viết bài thơ Thảm sát. Ông nói ông “buộc phải phản kháng” vì “ý thức hệ nhà nước mâu thuẫn dữ dội với quyền tự do diễn đạt của nhà thơ”. Trong hồi ký, ông kể rằng đối với chuyện này, “ông không hề có ý định làm anh hùng, nhưng ở một đất nước mà sự điên rồ ngự trị, tôi phải có lập trường. Thảm sát là tác phẩm nghệ thuật của tôi, và tác phẩm nghệ thuật của tôi là cách phản kháng của tôi”.
Nhiều nhà bất đồng nổi tiếng đã viết khá sinh động về kiếp lao tù của họ. Lòng can đảm để đứng một mình của Ngụy Kinh Sinh kể chuyện 18 năm ông ở tù sau khi ông lãnh đạo phong trào Bức tường Dân chủ trong những năm 1970. Những ngọn gió rét của Ngô Hoằng Đạt (Harry Wu) mô tả kiếp đọa đày của ông ở những trại lao động cưỡng bức trong thập niên 1960 và 1970. Những câu chuyện quả cảm của họ chuyển tải một thông điệp chính trị mạnh mẽ về việc đứng lên chống lại chế độ độc tài. Liệu Diệc Vũ là một văn nhân, và nhờ đó hồi ký ở tù của ông càng có sức thuyết phục hơn. Trước hết, ông thành thực đến tàn nhẫn về các nhược điểm và nỗi sợ của mình. Ông chẳng có gì đặc biệt anh hùng cả. Nhìn bọn quản giáo tập dượt chiến đấu trong ngày đầu tiên ở tù, ông “rùng mình như một con chuột nơm nớp lo sợ”. Buộc phải hát đi hát lại nhiều bài với cổ họng khô rát trong trời lạnh cóng người để mua vui cho bọn quản giáo, ông bị đánh bằng dùi cui điện. Khi không thể hát tiếp được nữa, ông bị lột hết áo quần và quật ngã xuống đất: “Tôi có thể cảm nhận được cái dùi cui trên hậu môn của mình, nhưng tôi không chịu đầu hàng. Đầu dùi cui đi vào người tôi. Tôi hét lên rồi rên khóc như một con chó”. Liệu Diệc Vũ đã hai lần tìm cách tự vẫn, một lần bằng cách đập đầu vào tường. Chuyện này khiến những tù nhân cùng xà lim chế nhạo ông; họ tố ông đóng kịch, cho rằng đó là trò tiêu biểu của một nhà thơ mọt sách. Nếu thực sự đã muốn vỡ sọ, lẽ ra ông nên đập đầu vào gờ tường.
Liệu Diệc Vũ mô tả rất tỉ mỉ tâm trạng của kẻ lúc nào cũng sợ hãi, phải sống trong một xà lim chật chội với quá nhiều người khác đến nỗi chẳng có chỗ nằm, đói ăn và thiếu tình dục. Có tù nhân đói lả bắt được một con chuột bèn lột da khi nó đang còn sống rồi ăn tươi. Có người vục mặt vào xô đồ ăn thừa mà ngoạm đầy miệng. Sinh hoạt tình dục vẫn diễn ra, nhưng theo kiểu đê tiện. Một tù nhân suýt đốt trụi giường vì thủ dâm với một cái bật lửa khi bật lên thì hiện ra hình ảnh một phụ nữ khỏa thân. Có người chỉ cần thấy một ngôi sao phim sến trên truyền hình là không nhịn được lòng thèm muốn nhục dục. Liệu Diệc Vũ chứng kiến đám tù nhân bu quanh cửa sổ, tay trùm xà lim được đôn lên vai những kẻ nô lệ của mình, khi cả đám thủ dâm trong lúc cố nhìn cho được một người đàn bà bên ngoài. Một anh tù nhân trẻ bị trùm xà lim hãm hiếp, đem lòng yêu hắn, rồi bị ruồng bỏ bằng một cái tát vào mặt khi tay trùm bị bất lực.
MỘT trong những lý do không mấy đáng khoe khiến ta đọc các hồi ký lao tù như cuốn này với cảm giác thích thú pha lẫn khiếp đảm là nỗi thống khổ của kẻ khác lại có thể có sức hấp dẫn khiêu dâm ghê gớm. Nhưng tác phẩm của Liệu Diệc Vũ hết sức lôi cuốn chính nhờ tài quan sát của ông. Tuy bản thân cũng chịu đau khổ, ông luôn tò mò về những người khác, về tính cách của họ, về những câu chuyện của họ, và về cách họ đối phó với bao nỗi kinh hoàng của đời sống ngục tù. Những lần tiếp xúc của ông với các tù nhân khác được khéo léo biến thành các truyện ngắn. Vì một số tù nhân này đang chịu án tử hình, truyện thường bàn chuyện đối mặt với cái chết cận kề. Một tay buôn lậu ma túy có biệt danh Tử Thường muốn mượn tập sách bản đồ của Liệu Diệc Vũ để chuẩn bị cho kiếp sau làm con ma lang thang. Tử Thường đã lạc lối quá nhiều lần ở kiếp này, và muốn tới thăm những nơi hắn thích lai vãng sau khi hắn bị kết liễu bằng một viên đạn vào cổ. Nghe kẻ tử tù này nói họ có thể gặp lại nhau ở kiếp sau, Liệu Diệc Vũ thấy “tứ chi tôi run rẩy”. Tử Thường hỏi ông có sao không, rồi “bật ra tiếng cười quái gở. Vết nhăn hằn sâu giữa hai chân mày của hắn cứ như mở toang hoác giống cái miệng chực nuốt chửng tôi”.
Một số trong những tù nhân này được khắc họa trong một cuốn sách khác của Liệu Diệc Vũ, được xuất bản ở Đài Loan với nhan đề Phỏng vấn những người ở dưới đáy xã hội (Interviews with People from the Bottom Rungs of Society, 中国底层访谈录, 2001), và ở Mỹ với nhan đề Người vác thi thể (The Corpse Walker, 2008). Trong đó có truyện về một nông dân mù chữ tuyên bố làng quê của mình là một nền quân chủ độc lập, tự phong mình làm hoàng đế. Vì hành động lật đổ phản cách mạng này, ông bị tù chung thân. Liệu Diệc Vũ thấy “hoàng đế nông dân” lý thú ở chỗ các ảo tưởng của ông bắt nguồn từ Tứ Thư Ngũ Kinh. Một trong những tuyên bố của ông là dải băng vàng mang niên hiệu của ông được tìm thấy trong một con cá. Khi Liệu Diệc Vũ chỉ ra rằng cái mẹo này đã được một nông dân phiến loạn sử dụng hai ngàn năm trước để phỉnh dụ thiên hạ theo ông, vị hoàng đế nông dân bảo ông câm mồm: “Ngươi quả là thất lễ vì dám nói với Trẫm như vậy. Trẫm biết ngươi là ký giả giả trang do vương quốc Trung Hoa thù địch phái tới đây. Ngươi đã âm mưu cấu kết với bọn cán bộ quản giáo để lừa Trẫm cung cấp bằng chứng kết tội”.
Văn học có thể dùng làm lối thoát, như khi Liệu Diệc Vũ thả mình dạt theo những ký ức về Trăm năm cô đơn của Gabriel García Márquez. Ông thấy mình đặc biệt giống một nhân vật trong tiểu thuyết này: đó là Đại tá Buendia, mất trí sau khi bị cột vào một cây dẻ trong nhiều năm. Giống như Đại tá, Liệu Diệc Vũ rút lui vào trong tâm trí của mình. Những lúc khác, các tác phẩm văn học minh họa các khía cạnh sơ khai nhất của kiếp tù. Liệu Diệc Vũ nhớ trong Đời nhẹ khôn kham (The Unbearable Lightness of Being),[iii] Milan Kundera định nghĩa cái kitsch toàn trị (totalitarian kitsch) là “sự hoàn toàn phủ nhận cứt”. Liệu Diệc Vũ viết rằng ông không thể nâng phân người lên một tầng ẩn dụ cao hơn: “Trong cuốn hồi ký tầm thường này của tôi, cứt là cứt. Tôi cứ nhắc mãi đến cứt vì tôi suýt chết đuối trong cứt”. Thực tế quả gần đúng như vậy; là ma mới trong xà lim, hoặc nếu không còn được lòng một trong những tay trùm xà lim, ông thường phải ngủ kề mặt bên chậu đi tiêu đi tiểu.
Song, ông không nhịn được cách nhìn ẩn dụ về cứt, như trong nhận xét ông đang sống “trong một chuồng heo đầy cứt gọi là Trung Quốc”. Bệnh tật cũng được nâng lên thành một ẩn dụ. “Nếu Trung Quốc là một bệnh nhân bị ung thư ruột, thành phố Trùng Khánh là điểm cuối bẩn thỉu của khúc ruột đó, cái hậu môn bệnh hoạn”. Trong sách, nhà tù thường được mô tả là một nhà tù bên trong một nhà tù khổng lồ của một xã hội Trung Quốc bệnh hoạn, một tấm gương lố bịch của các thể chế chính trị và sự khoa trương khoác lác của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.
NGÔN NGỮ của chủ nghĩa Mao, nay gần như đã thấm nhuần vào đời sống Trung Quốc như các giáo điều Khổng giáo đã từng ăn sâu, thường được dùng theo lối tương tự, cứ liên tục bật ra giữa các cuộc trò chuyện trong tù. Tù nhân thường nhại các phát biểu của Mao với vẻ mỉa mai, như khi anh tiều phu bị cấm dùng chậu đi tiêu đi tiểu sau khi dính thuốc nhuận trường, đám tù nhạo anh: “Không có kỷ cương và phép tắc thì cách mạng sẽ không thành công”. Đôi khi Mao được trích dẫn nghiêm chỉnh. Một tay trùm xà lim có cảm tính với Liệu Diệc Vũ cảnh báo ông đừng kết bạn với một người khác cũng là trí thức: “Đừng có mà sách vở quá … Hãy nhớ lời dạy của Mao Chủ tịch về đấu tranh giai cấp – đừng bao giờ mất cảnh giác đối với kẻ thù giai cấp của anh”.
Ngoài suy nghĩ đượm chất Mao, chính hệ thống chính quyền kiểu Trung Quốc được sao chép bên trong nhà tù. Một phần là do cách tổ chức Đảng Leninist, nhưng phần lớn là do những tập quán truyền thống. Khi Liệu Diệc Vũ nhập trại ở Trung tâm Điều tra Tung Sơn, trùm xà lim của ông giải thích cơ chế vận hành xà lim. Hắn so sánh hệ thống tôn ti trong xà lim với Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương; ủy viên BCT và Quân ủy đứng trên dân thường. Họ muốn làm gì cũng được. Nhưng, để duy trì trật tự, họ phải áp đặt tính đoàn kết tuyệt đối trong xà lim. Dấu hiệu phản loạn đầu tiên sẽ bị bóp nát không thương tiếc. Tuy nhiên, phản ánh hàng trăm năm theo Khổng giáo, trùm xà lim nói giới cai trị không thể quá tàn nhẫn: “Chúng ta cần để những người dưới quyền chúng ta có cảm giác chúng ta là cha mẹ của họ”. Khi Liệu Diệc Vũ phản đối, trích lời Mao Chủ tịch nói rằng nhân dân là cha mẹ của Đảng, trùm xà lim tỏ vẻ hiểu rõ hơn về thực tế Trung Quốc: “Tào lao! Nếu một tên trộm ở đây muốn có một bữa ăn đường hoàng đủ no, chuyện đó do tao quyết định”.
Chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi giới quản giáo cũng dựa các phương pháp của mình theo các tập quán phổ biến ở Cộng hòa Nhân dân. Chẳng hạn như việc sử dụng các chiến dịch chính trị. Tù nhân ở Trung tâm Điều tra bị ép buộc tham gia một chiến dịch hàng năm gọi là “Tự thú tội và đấu tố người khác”. Những cuộc mít-tinh chính thức được tổ chức trong sân trại, giống như dưới thời Mao, với các khẩu hiệu chính trị hô vang trời, và những bài phát biểu dài lê thê của những cán bộ công an và quản giáo. Tù nhân phải dành hàng giờ để viết lời tự thú và đấu tố. Các trùm xà lim được khuyến khích chọn những món hấp dẫn nhất trong thực đơn tra tấn cho những tù nhân bị xem là chưa đủ nhiệt tình tự thú hay đấu tố người khác.
Chiến thuật này cũng là một kết hợp hiểm độc giữa truyền thống và sáng tạo hiện đại. Tự thú theo lễ nghi xưa nay đã luôn là một phần trong công lý Khổng giáo. Việc bị buộc phải đấu tố người khác, tuy không phải là không có trong quá khứ, là một thủ đoạn tinh vi của chế độ toàn trị nhằm triệt tiêu lòng tin giữa người với người, để họ chỉ còn biết trung thành với Đảng. Liệu Diệc Vũ kể những chiến dịch tự thú và đấu tố quá ác nghiệt đến nỗi nhiều người chết do tra tấn. Song, khi tình hình có nguy cơ vượt quá tầm kiểm soát, cấp quản lý trại giam cho ngừng các màn xử tội, và đúng theo kiểu hành xử Maoist thường thấy, trở mặt đổ tội cho các thủ phạm bằng cách mở một chiến dịch khác, lần này gọi là “Xử lý những kẻ bắt nạt bạn tù”. Chính những kẻ trước đây được khuyến khích trấn áp những tù nhân ngoan cố nay lại bị đàn áp.
Nhưng, dĩ nhiên, Trung Quốc đã tiến tới kể từ sau mấy chục năm dưới chế độ kinh hoàng của Mao. Khi Liệu Diệc Vũ ở tù, Trung Quốc đã mở cửa làm ăn với thế giới tư bản hơn mười năm. Cải cách kinh tế bắt đầu vào đầu thập niên 1980 dưới sự lãnh đạo của Đặng Tiểu Bình. Năm 1992, Đặng Tiểu Bình kêu gọi tăng trưởng kinh tế nhanh hơn nữa. Chính vì thế, theo lời của Liệu Diệc Vũ, “cán bộ quản giáo không để lỡ nhịp và nhanh chóng lợi dụng sức lao động miễn phí để tư lợi đầy túi”.
Lao động miễn phí là mỹ từ để chỉ nạn nô lệ. Mỗi tù nhân buộc phải đóng gói thuốc men ít nhất mười giờ mỗi ngày, trong khi tai phải nghe loa phóng thanh ra rả những lời hô hào chính trị – cách kết hợp thường thấy của Đảng Cộng sản Trung Quốc giữa áp bức ý thức hệ và bóc lột kinh tế. Liệu Diệc Vũ nhận xét rằng kiểu lao động chân tay lặp đi lặp lại này đã bị các nhà máy địa phương bãi bỏ. Nhưng giới quản giáo có thể kiếm bộn lợi nhuận nhờ ép buộc các nô lệ bị cầm tù hoàn thành chỉ tiêu tới ba ngàn gói mỗi ngày. Tù nhân nào tìm cách trốn hoặc phản đối chế độ nhà tù sẽ bị đánh đập hoặc tống vào ‘xà lim tối” chỉ đủ chỗ để bò vào rồi nằm bẹp xuống. Liệu Diệc Vũ viết: “Sau chừng một năm, da của kẻ ở xà lim tối trở nên nhợt nhạt, xương yếu đi, còn tóc trắng bệt. Da trong suốt đến nỗi ta thấy rõ những gân máu xanh”.
Liệu Diệc Vũ nhắc đến vài giây phút thư thái. Có nhiều ví dụ về lòng tốt của những trùm xà lim ưu ái ông, đôi khi nhờ là nhà thơ; lòng tôn trọng văn chương chưa chết ở Trung Quốc. Một thầy tu đạo Phật dạy ông thổi sáo. Và thảng hoặc, điều kiện sinh hoạt trong tù có khá lên đôi chút vì nước ngoài gây áp lực buộc Trung Quốc cải thiện về nhân quyền. Điều này có thể khiến những người trong chúng ta đã hết hy vọng gây ảnh hưởng từ bên ngoài đối với cách hành xử chính thức của Trung Quốc sẽ bớt hoài nghi hơn đôi chút.
Trong khi đó, Liệu Diệc Vũ cố gắng lưu giữ ký ức về những điều tai nghe mắt thấy trong tù bằng cách chép vội trong một cuốn Tam quốc chí. Ngày 31/1/1994, ông được trả tự do. Nhưng, theo ông kể, việc ra tù của ông chỉ là khởi đầu của một kiểu đọa đày khác, có lẽ còn cay đắng hơn theo cách riêng của nó. Người gây rối và người bất đồng hiếm khi được ưa chuộng ở các xã hội áp bức. Họ gây rắc rối cho người khác vì xúi giục trả đũa, và họ khiến đa số những người không chịu chống đối thấy bất an về thái độ phục tùng của mình. Liệu Diệc Vũ ghét về quê ăn tết và vào các dịp lễ lạt gia đình khác, vì ông biết mình sẽ bị chỉ trích. Vợ ông quyết định ly dị ông – có lẽ cũng chẳng đáng ngạc nhiên, vì Liệu Diệc Vũ chưa bao giờ tự nhận là một người chồng tận tụy. Tệ hơn nữa là ông bị chính bạn cũ ruồng bỏ. Sau bốn năm ở tù, ông viết, “tôi chẳng khác nào một đống cứt chó dưới mắt những bạn văn của tôi”. Sự ruồng bỏ này có thể thể hiện một kiểu nhẫn tâm đặc thù Trung Quốc, nhưng thực ra chủ yếu là do cách quản lý Trung Quốc hiện nay. Sau cuộc dấy loạn bất thành năm 1989, chính quyền cộng sản đã có một thỏa thuận khôn khéo với các giới có học: nếu những người thuộc thành phần ưu tú ở thành thị tránh xa chính trị, họ sẽ được tự do mở mang trí tuệ cho chính mình. Liệu Diệc Vũ viết: “Cả nước ta đột nhiên mải mê kiếm tiền, đó chính là axít ăn mòn làm hòa tan chính kiến bất đồng. Cũng chính những người từng can đảm tuần hành trên đường phố đòi dân chủ nay lại hóa ra “phi chính trị” trong thời đại hiện nay khi ai cũng chạy theo vật chất tiền tài – theo kiểu cộng sản”. Nhiều bạn văn nghệ đồng chí hướng với ông đã trở thành doanh nhân.
Trong những hoàn cảnh như vậy, thiên hướng thông thường khiến con người lảng tránh kẻ gây rối càng được củng cố bởi cái ý thức không kiềm nén được về việc đã chấp nhận một thỏa thuận đê hèn. Cũng giống như trong thực tế thường xảy ra với những người sống trong chế độ độc tài, các độc giả hăng hái nhất của Liệu Diệc Vũ là các cán bộ ăn lương để kiểm duyệt ngôn từ của ông. Buộc phải chấp nhận kiếp sống của một kẻ lang thang có học, đôi khi thổi sáo ngoài đường để kiếm sống, và sợ bị tống giam trở lại, Liệu Diệc Vũ xoay xở vượt biên sang Việt Nam, rồi từ đó ông tìm đường sang Đức, nơi ông sinh sống hiện nay. Và thế là chính nhà thơ Trung Quốc đầy tài năng này trình diễn những buổi ngâm thơ tưởng niệm của ông để mua vui cho khán giả ở Berlin và New York – một “người bất đồng” kỳ lạ ở nước ngoài, tiếng nói của ông được nghe ở khắp nơi ngoại trừ nơi nó cần được nghe nhất.
Nguồn: Ian Buruma, Prison of the Mind, The New Yorker, 1/7/2013
Bản tiếng Việt © 2013 Phạm Vũ Lửa Hạ & pro&contra
______________
Liệu Diệc Vũ bị cầm tù từ năm 1990 đến 1994 sau khi sáng tác bài thơ Thảm sát để tưởng niệm những người biểu tình đòi dân chủ. Minh họa của Peter và Maria Hoey.

[i] Bản dịch tiếng Việt có nhan đề Nền dân trị Mỹ.Trả lời phỏng vấn của Ban Việt ngữ Đài VOA, dịch giả Phạm Toàn cho biết ông và Nhà xuất bản Tri Thức chủ động đổi nhan đề vì hiểu tâm lý chính quyền Việt Nam dị ứng với từ “dân chủ”.
[ii] Sự kiện Thiên An Môn
[iii] Bản dịch tiếng Việt của Trịnh Y Thư
Source : pro&contra
Share

17/7/13

MAI THẢO - Thăm Thẳm Núi, Non.



16/7/13

Nguyễn Xuân Nghĩa - "Ngàn Điểm Sáng"

Tuesday, July 16, 2013

 

"Ngàn Điểm Sáng"


Nguyễn-Xuân Nghĩa - Người Việt Ngày 130715 

"Hoa Kỳ Nhìn Từ Bên Ngoài" 
 
Một khía cạnh đẹp của nước Mỹ
 * Tổng thống George H.B. Bush và Tổng thống Obama bên hai người được vinh danh, ông Floyd Hammer và bà Kathy Hamilton, ngày 15 Tháng Bảy 2013. *
Khi còn làm Phó Tổng thống, George H. W. Bush có lần nói thầm trong xe hơi đưa Tổng bí thư Mikhail Gorbachev ra phi trường. Rằng nếu đắc cử Tổng thống Hoa Kỳ, ông sẽ giúp Gorbachev chuyển hướng một cách êm thắm để khỏi đổ máu. Nhưng khi ra tranh cử, ông sẽ bày tỏ lập trường rất bảo thủ để lọt qua ải của cánh hữu đảng Cộng Hoà. Vì thế, nếu ông có phát biểu gay gắt về Liên Xô, Gorbachev nên thông cảm và tin tưởng vào lời cam kết.
Sau này, trước sự khó chịu của ban tham mưu về lập trường cứng rắn của Bush, Gorbachev chỉ trấn an rằng ông hiểu vì sao Phó Tổng thống Mỹ tỏ vẻ nghi ngờ thiện chí cải cách cơ cấu (perestroika) và chính sách minh bạch hóa (glasnost). Trong thế giới của các lãnh tụ chính trị, sự tin cậy là sản phẩm khan hiếm, nhưng quả nhiên là mọi sự diễn tiến êm đẹp. Chiến tranh lạnh kết thúc mà không gây đổ máu.
Khi ra tranh cử Tổng thống năm 1988, ông Bush còn đưa ra khái niệm "ngàn điểm sáng" mà nhiều người chưa hiểu là gì. Mãi về sau người ta mới biết ứng cử viên này nói đến một đặc tính độc đáo của xã hội Hoa Kỳ: dân Mỹ sẵn sàng lao vào công tác thiện nguyện để giúp đỡ người khác mà không để ý gì đến quyền lợi riêng tư.
Từ một nhân vật tiêu biểu của xã hội tư bản, là doanh gia cự phú và chính khách từng làm Đại sứ tại Trung Quốc, Giám đốc tình báo CIA rồi Phó Tổng thống, mấy ai lại tin vào cái lý tưởng được ông ta đề cao trong một cuộc tranh cử?
Người am hiểu về chính trị học thì tìm ra xuất xứ của chuỗi điểm sáng.
Một nhà quý tộc Pháp qua thăm viếng Hoa Kỳ trước đó 157 năm đã nói về ngàn điểm tự nhiên toả sáng từ miền Đông qua miền Tây của nước Mỹ. Đó là phản ứng tự phát của người dân khi lập ra hiệp hội cưu mang cộng đồng trước khi nghĩ đến quyền lợi của họ. Alexis de Tocqueville viết về điều này - và cả ngàn chuyện khác với những tiên đoán chính xác - trong cuốn "Về nền Dân Chủ tại Hoa Kỳ" ("De la Démocratie en Amérique" dịch thành "Democracy in America") một cuốn sách phải đọc nếu muốn biết về nước Mỹ vào thế kỷ 19 - và ngày nay.
Trong bài diễn văn nhậm chức Tổng thống thứ 41 của Hoa Kỳ vào Tháng Giêng 1989, ông Bush lại nhắc đến ý này. Ông ký đạo luật khuyến khích công tác thiện nguyện, thành lập sáng hội "Points of Light Foundation" với mục đích là khuyến khích và tạo điều kiện cho người Mỹ tích cực tham gia sinh hoạt phục vụ cộng đồng. Ông mời nhiều doanh gia hay lãnh tụ cộng đồng vào Hội đồng Quản trị của Sáng hội Điểm Sáng: Tổng quản trị CEO của Disney, Coca Cola, IBM, United Way hay Chủ tịch trường Spellman, v.v....
Khi ấy, các đối thủ chính trị và nhiều người khác đã châm biếm sáng kiến và sáng hội này.
Nhưng ngay trong nội các và hàng ngày, Tổng thống Bush chú ý đến việc mỗi ngày tìm ra điểm sáng từ cả ngàn hành động thiện nguyện của dân chúng để tuyên dương và cổ xúy tinh thần phục vụ. Với ông, một trong tiêu chuẩn của cuộc sống thành công là biết giúp đỡ người khác.
Nhờ vậy, người ta mới biết đến nhiều tấm gương sáng ở khắp mọi nơi, kể cả việc một cựu chiến binh Mỹ tại Việt Nam đã mở ra chương trình hướng dẫn và giúp đỡ dân tỵ nạn từ Đông Nam Á.
Kết quả là số người tự nguyện hoạt động bất vụ lợi trong xã hội Mỹ đã tăng 60%, từ 38 triệu lên tới 64 triệu. Năm 2011, thời gian mà cộng đồng dành cho việc thiện nguyện lên tới gần tám tỷ giờ, tính theo tiêu chuẩn Mỹ thì trị giá 171 tỷ đô la. Các doanh nghiệp không chỉ đề ra lợi nhuận mà còn đưa tinh thần "có trách nhiệm với cộng đồng" vào chiến lược quản trị. Trong học đường, sinh viên coi việc phục vụ cộng đồng là tiêu chuẩn tự nhiên. Lớp người cao niên sinh sau Thế chiến II đã có tỷ lệ tham gia tích cực hơn, tăng 40% so với năm 1989. Không chỉ quay vào bên trong, phong trào phục vụ tha nhân còn toả sáng ra ngoài, với cả triệu công tác được nhắm vào các quốc gia đang cần giúp đỡ khiến thế giới nhìn vào Hoa Kỳ với con mắt khác.
Sáng hội "Points of Light" hiện là tổ chức lớn nhất thế giới được dành cho công tác thiện nguyện với 250 chi nhánh hoạt động tại 22 quốc gia. Ngày nay, Tổng quản trị CEO của sáng hội là Michelle Nunn, con gái cựu Nghị sĩ Sam Nunn nổi tiếng của đảng Dân Chủ năm xưa, và có thể là ứng cử viên Nghị sĩ Gerogia vào năm tới. Chủ tịch Hội đồng Quản trị là Neil Bush, con trai của ông Bush 41 và em trai của Tổng thống George W. Bush, Bush 43.
Còn ông Bush cha, sau gần một phần tư thế kỷ, ông vẫn theo đuổi việc đó, khi đã gần chín chục.
Đấy là bối cảnh của việc Tổng thống Barack Obama tổ chức lễ trao giải "điểm sáng trong ngày" thứ 5000 tại Toà Bạch Cung vào trưa Thứ Hai 15 vừa qua. Trước tác giả của sáng kiến, ngồi trên xe lăn, Tổng thống Hoa Kỳ nhắc lại truyền thống thiện nguyện và cứu giúp tha nhân của nước Mỹ và ngợi ca việc ông Bush đã ký đạo luật khuyến trợ khi đó ít ai nhìn ra kết quả lớn lao. Obama cũng thấy ra ảnh hưởng của sáng hội Points of Light trong chuyến thăm viếng Phi Châu vừa qua, khi người Mỹ lao vào việc cứu đói và xây nhà thương cho trẻ em ở Tanzania....
"Hoa Kỳ trở thành một thế lực mạnh mẽ hơn để xiển dương việc thiện trên thế giới nhờ truyền thống tự nguyện phục vụ do cựu Tổng thống Geroge H. W. Bush đề cao và nuôi dưỡng."
Được Tổng thống Mỹ tuyên dương là điểm sáng trong ngày, lần thứ năm ngàn, là vợ chồng một doanh gia hồi hưu tại Iowa. Họ từ bỏ ý định về hưu và đi du lịch sau khi thấy trẻ em Tanzania bị yểu tử vì đói ăn, hoặc ăn thực phẩm nhiễm độc. Về nhà, ở một thị xã chỉ có vài trăm người, họ kêu gọi đóng gói thực phẩm gửi qua Phi Châu và ngạc nhiên khi thấy cả ngàn người Mỹ hưởng ứng từ khắp mọi nơi để gửi đi mấy trăm triệu khẩu phần. Công tác trợ giúp được mở rộng thành cứu đói và xây nhà thương cứu bệnh.
***
Khi cả nước Mỹ đang rúng động vì vụ xử Zimmerman tại Florida, xuất phát từ một tai nạn chết người được các chính khách xoay thành một vụ án liên quan đến phản ứng kỳ thị chủng tộc, chúng ta nên nhìn vào một khía cạnh khác của Hoa Kỳ.
Sau một đời hoạt động trên doanh trường và trong chính giới, ông Bush 41 phải là người có mưu lược. Vậy mà vẫn thất cử khi tái tranh cử năm 1992. Nhưng ngay từ đầu, ông ôm ấp một lý tưởng của dân Mỹ là phải có cuộc sống ý nghĩa hơn quyền lợi của bản thân. Rồi miệt mài theo đuổi một việc làm ít ai chú ý, hoặc chỉ chú ý để dè bỉu, đả kích. Trong khi ấy, xã hội dân sự và đời sống bình thường vẫn tiếp tục sinh hoạt thiện nguyện này, vì lòng từ tâm của dân Mỹ.
Hai khía cạnh trái ngược ấy cũng là một thuộc tính của Hoa Kỳ. Tương tự như khi Michelle Nunn bên đảng Dân Chủ cộng tác cùng gia đình Bush để chấm ra cả ngàn điểm sáng cho nước Mỹ. Không nên coi thường người dân của quốc gia này.
________________
Chỉ có tại Hoa Kỳ

Các trung tâm cứu trợ súc vật tại nhiều thành phố Mỹ vừa báo động nạn "phóng gà". Cô Tiffany Young, sáng lập viên một hội thiện cứu trợ súc vật tại Seattle giải thích rằng đám trẻ no cơm ấm cật ở thành phố bỗng nổi chứng nuôi gà đằng sau vườn. Đến khi thấy công việc quá vất vả, họ đâm sợ mà vứt gà ra ngoài. Cả khu vực Tây Bắc của nước Mỹ đang thiếu chỗ nhận. Dân xứ khác sẽ hỏi là thiếu chỗ hay thiếu nồi?

14/7/13

Vương Trung Hiếu - Tìm hiểu những bài thơ, ca dao liên quan tới "canh gà Thọ Xương"

 Vương Trung Hiếu 
 3 July 2013 

Trước đây nhiều nhà nghiên cứu đã tranh luận sôi nổi về nguồn gốc, dị văn, dị bản của những câu ca dao và bài thơ có liên quan đến “canh gà Thọ Xương”. Năm 2012, thêm một lần nữa, xuất hiện rầm rộ những bài viết liên quan đến vấn đề này, đặc biệt là quan điểm cho rằng “canh gà” là một món ăn, điều này trái ngược với nhận định truyền thống: “canh gà” chỉ thời gian (tiếng gà báo canh). Thật hư thế nào, chúng ta thử tìm hiểu các quan điểm, phân tích và minh định đôi điều, bởi vì đây là một tác phẩm đã từng xuất hiện trong sách giáo khoa trung học và đại học, đã từng được ghi nhận, đánh giá trong những công trình nghiên cứu có trọng lượng như “Lịch sử văn học Việt Nam” (NXB Khoa Học Xã Hội, 1980), “Văn học dân gian” (NXB Đại Học Và Trung Học Chuyên Nghiệp, 1973) hay “Tục ngữ ca dao dân ca Việt Nam” của Vũ Ngọc Phan (1956, tái bản nhiều lần)….
Về cơ bản có ba bài như sau:
Trong ca dao Hà Nội:
Gió đưa cành trúc la đà Tiếng chuông Trấn Vũ canh gà Thọ Xương. Mịt mù khói tỏa làn sương Nhịp chày Yên Thái mặt gương Tây Hồ.
Bài thơ “Hà Nội tức cảnh” của Dương Khuê:
Phất phơ ngọn trúc trăng tà, Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương. Mịt mùng khói tỏa ngàn sương, Nhịp chày Yên Thái, mặt gương Tây hồ.
Và trong ca dao Huế:
Gió đưa cành trúc la đà, Tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Xương. Thuyền về xuôi mái dòng Hương, Biết đâu tâm sự đôi đường đắng cay.
I. Nguồn gốc
Hiện nay có ba quan điểm chính: 1. Ca dao Huế và Hà Nội có trước bài “Hà Nội tức cảnh” của Dương Khuê; 2. Thơ Dương Khuê xuất hiện trước, sau đó trở thành ca dao Hà Nội rồi lan truyền đến Huế để thành ca dao Huế; 3. Ca dao Huế có trước, sau đó Dương Khuê dựa trên bài này để sáng tác “Hà Nội tức cảnh”, cuối cùng bài thơ được dân gian hóa để trở thành ca dao Hà Nội.
Để tìm nguồn gốc, chúng ta cần xác định những chi tiết liên quan.
Thơ Dương Khuê: Do ca dao không có mốc thời gian sáng tác cụ thể nên chúng tôi căn cứ vào bài thơ của Dương Khuê để tiện việc đối chiếu. Theo PGS.TS. Trịnh Khắc Mạnh [1], bài “Hà Nội tứ cảnh”của Dương Khuê nằm trong tập “Vân Trì thi thảo” (雲池詩草 – Bản thảo thơ Vân Trì), (ký hiệu VHv. 2482) đang được lưu trữ tại Viện Nghiên cứu Hán NômChúng ta biết rằng Dương Khuê (1839-1902), là quan nhà Nguyễn, một nhà thơ nổi tiếng, rất có khả năng bài “Hà Nội tứ cảnh” ra đời khoảng nửa cuối thế kỷ 19. Những địa danh trong bài thơ của ông trùng khớp với các địa danh ở Hà Nội xuất hiện trong ca dao Hà Nội.
Những địa danh trong ca dao Hà Nội
Trấn Vũ: Trấn Vũ Quán (hay đền Quán Thánh) nằm bên cạnh Hồ Tây, phía Tây Bắc Hà Nội. Ngôi đền này được xây dựng từ đời vua Lý Thái Tổ (Kỷ Dậu 1009 – Mậu Thìn 1028), nơi thờ Huyền Thiên Trấn Vũ, một trong bốn vị thần trấn giữ bốn cửa ngõ của thành Thăng Long ngày xưa (Thăng Long tứ trấn).
Thọ Xương: Theo Đồng Khánh địa dư chí (同慶地輿志) – Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn khoảng nửa cuối thế kỷ 19, Thọ Xương là một huyện của thành Thăng Long xưa, có tên chữ Hán là 壽昌縣 (Thọ Xương huyện). Ngày nay huyện này là khu vực thuộc thành phố Hà Nội, nằm trong địa phận quận Hoàn Kiếm, quận Hai Bà Trưng và một phần quận Đống Đa. Vào thời Lê sơ (Mậu Thân 1428 – Đinh Hợi 1527), Thọ Xương có tên là huyện Vĩnh Xương (永昌縣), đến thời nhà Mạc (Đinh Hợi 1527- Nhâm Thìn 1593) đổi tên là Thọ Xương. Ngày 1 tháng 10 năm 1888 (Đinh Hợi), vua Đồng Khánh ra đạo dụ nhượng hẳn thành Hà Nội cho Pháp, sau đó huyện Thọ Xương đã bị bãi bỏ. Hiện nay, Thọ Xương chỉ còn là tên một ngõ nhỏ (ngõ Thọ xương) thuộc phường Hàng Trống, quận Hoàn Kiếm [2].
Yên Thái: là địa danh nói về Làng Yên Thái (còn gọi là Làng Bưởi) ở bờ nam Hồ Tây, Hà Nội. Ngày xưa, làng này nổi tiếng với nghề làm giấy, kẹo mạch nha và cất rượu, đặc biệt nhất là nghề làm giấy dó trong giai đoạn cuối TK 19 – đầu TK 20, bao gồm: giấy sắc (dùng để viết sắc vua ban), giấy lệnh (dùng để viết các lệnh chỉ, thần phả), giấy để chép gia phả dòng họ, giấy để in tranh khắc gỗ, vẽ tranh dân gian, làm đồ chơi trung Thu, in kinh Phật, viết chữ Nho, làm quạt, bao bì, vàng mã..Ngày nay người ta còn dùng giấy đó để giấy chống ẩm, sản xuất tấm cách âm, cách nhiệt, làm màng loa máy thu thanh…
Nhiều nhà nghiên cứu công nhận rằng “Nhịp chày Yên Thái” dùng để chỉ tiếng chày phát ra khi người dân làng này sử dụng chày giã vỏ cây dó trong cối để làm giấy. Trong quyển Technique du peuple annamite (Kỹ thuật của người An Nam, tái bản 2009), Henri Oger cho biết vỏ cây dó được nấu và ngâm trong nước vôi khoảng ba tháng, bóc bỏ lần vỏ đen rồi giã bằng cối và chày, sau đó mới thực hiện những công đoạn khác để chế tạo giấy (tr. 215).
Tây Hồ hay Hồ Tây: là một hồ nước tự nhiên lớn nhất trong nội thành Hà Nội. Trước đây, hồ này còn có những tên gọi khác là Đầm Xác Cáo, Hồ Kim Ngưu, Lãng Bạc, Dâm Đàm, Đoài Hồ…. [3]. Đây chính là địa danh trong câu mở đầu bài thơ “Phong cảnh Tây Hồ” của quan Chương Lĩnh Hầu Nguyễn Huy Lượng (? – 1808): “Đầy vơi thực lạ cảnh Tây Hồ. Và cũng chính là địa danh trong vế đầu của câu đối nằm trên Cổng Giáp Đông – làng Hồ Khẩu (cũ, nay thuộc quận Tây Hồ): ” Mỹ tục thuần phong vĩnh chiếu Tây Hồ minh kính” (Mỹ tục thuần phong soi gương Tây Hồ trong sáng) [4].
Trong ca dao Huế
Thiên Mụ ở đây chính là chùa Thiên Mụ (天姥). Ngôi chùa cổ này nằm trên đồi Hà Khê, tả ngạn sông Hương, cách trung tâm thành phố Huế (Việt Nam) khoảng 5 km về phía tây [5]. Theo Đại Nam Nhất Thống Chí (大南一統志 ) – do Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn, chùa Thiên Mụ chính thức khởi lập năm Tân Sửu (1601), trong triều đại chúa Tiên Nguyễn Hoàng (vị chúa Nguyễn đầu tiên ở Đàng Trong). Đến năm Canh Dần (1710), chúa Quốc Nguyễn Phúc Chu (1691- 1725) cho đúc một chiếc chuông lớn (gọi là Đại Hồng Chung) đặt trong chùa Thiên Mụ. Chuông này nặng hơn 2 tấn, trên thành ngoài có khắc một bài văn của Chúa Nguyễn Phúc Chu. “Tiếng chuông Thiên Mụ” là cụm từ đã từng xuất hiện trong văn bản từ nửa đầu thế kỷ 19, đó chính là tựa đề bài thơ Thiên Mụ Chung Thanh (天姥鐘聲 – Tiếng chuông Thiên Mụ) của vua Thiệu Trị (1807 – 1847), diễn tả cảnh đẹp thứ mười bốn (đệ thập tứ cảnh, 第十四景) trong hai mươi cảnh đẹp của đất Thần Kinh do nhà vua xếp loại. Bài thơ này được ghi vào bia đá dựng gần cổng chùa [5]. Hiện nay chùa Thiên Mụ còn được gọi là chùa Linh Mụ (靈姥). Lý do là vào năm Nhâm Tuất (1862), vua Tự Đức cầu khấn mong có con nối dõi, vua sợ chữ "Thiên" phạm đến Trời nên cho đổi "Thiên Mụ" thành "Linh Mụ". Việc kiêng cữ này chỉ đến năm Kỷ Tỵ (1869), về sau người dân muốn gọi là chùa Thiên Mụ hay Linh Mụ đều được [5].
Thọ Xương là địa danh cũ, một khu vực thuộc làng Nguyệt Biều nằm bên bờ sông Hương, bên kia sông là chùa Thiên Mụ. Theo Đại Nam Nhất Thống chí (sđd), trước đây vùng này có tên gọi là Thọ Khương (Thọ Khang), đến năm Nhâm Tuất (1802) đầu triều đại Gia Long được đổi tên thành Thọ Xương, năm Minh Mạng thứ năm (Giáp Thân – 1824) đổi thành Long Thọ Cương 龍壽崗, tức đồi Long Thọ (trong chữ Hán “đồi” được viết là 崗 hoặc 岡), hiện nay chỉ còn gọi là Long Thọ, thuộc phường Thủy Biều, thành phố Huế.
Xét những địa danh trên, chúng ta thấy rằng tất cả đều xuất hiện trước thời Dương Khuê sống. Điều này dẫn tới hai khả năng: thứ nhất, những câu ca dao liên quan với “canh gà Thọ Xương” ở Huế và Hà Nội có thể ra đời trước khi Dương Khuê sáng tác bài “Hà Nội tứ cảnh”. Nếu như thế thì cần tìm kiếm những câu ca dao đó được viết bằng chữ Nôm hay chữ Quốc ngữ trong những văn bản từ nửa đầu thế kỷ 19 trở về trước. Chúng ta biết rằng chữ Nôm hình thành trước thế kỷ 15, định hình rồi phổ biến dần trong văn chương Việt Nam cho đến cuối thế kỷ 19. Ngày 1 tháng 1 năm 1879 chính quyền Pháp ra nghị định buộc các văn kiện chính thức phải dùng chữ Quốc ngữ [6]. Như vậy, nếu những câu ca dao Huế và Hà Nội có liên quan với “canh gà Thọ Xương” ra đời từ nửa cuối thế kỷ 19 thì vẫn có khả năng được ghi nhận bằng văn bản. Trong trường hợp không thể tìm thấy bất kỳ tài liệu nào chứng minh những câu ca dao ấy xuất hiện trước giai đoạn Dương Khuê sống thì phải công nhận khả năng thứ hai: bài Hà Nội tứ cảnh của Dương Khuê đã được dân gian hóa để trở thành những câu ca dao Huế và Hà Nội.
Tháng 4 năm 1918, Phạm Quỳnh viết bút ký “Mười ngày ở Huế”, đăng trên tạp chí Nam Phong, mở đầu phần IV trong đó có hai câu:
Gió đưa cành trúc la đà Tiếng chuông Thiên Mụ canh gà Thọ Xương [7]
Một số nhà nghiên cứu cho rằng Phạm Quỳnh đã dựa vào “tiếng chuông Trấn Vũ” trong ca dao Hà Nội để chế ra “tiếng chuông Thiên Mụ” rồi khẳng định rằng ca dao Hà Nội có trước, còn ca dao Huế là “sản phẩm ăn theo”, cải biên từ ca dao Hà Nội. Có thật vậy không? Xin mời xem đoạn văn kế tiếp Phạm Quỳnh viết sau hai câu ca dao kể trên:
Cả cái hồn thơ của xứ Huế như chan chứa trong hai câu ca ấy. Chùa Thiên Mụ là một chốn danh lam, có cái tháp bẩy từng, ở ngay trên bờ sông Hương, làng Thọ Xương thì ở bờ bên kia. Đêm khuya nghe tiếng chuông chùa với tiếng gà gáy xa đưa văng vẳng ở giữa khoảng giời nước long lanh mà cảm đặt thành câu ca cho con trẻ hát, ấy mới rõ cái tính tình của người xứ Huế” [7].
Như vậy Phạm Quỳnh đã biết rõ rằng ngày xưa ở Huế có địa danh Thọ Xương, mặt khác, vào nửa đầu thế kỷ 19 vua Thiệu Trị đã sáng tác bài thơ rất nổi tiếng là “Thiên Mụ chung thanh” (Tiếng chuông Thiên Mụ), vậy hà cớ gì Phạm Quỳnh phải dựa vào “Tiếng chuông Trấn Vũ” để tạo ra “Tiếng chuông Thiên Mụ”? Theo chúng tôi, câu Tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Xương ra đời trước khi Phạm Quỳnh đến Huế vào năm 1918. Phạm Quỳnh chỉ là người đưa câu ca đó vào bút ký của mình mà thôi, bởi vì vào năm 1824 địa danh Thọ Xương đã được đổi thành Long Thọ Cương. Nếu không am hiểu chi tiết này, chắc chắn trong đoạn văn trên Phạm Quỳnh đã viết là Long Thọ Cương (hay Thọ Cương) – địa danh hiện tại năm 1918, chứ không thể là Thọ Xương – địa danh cũ cách năm Phạm Quỳnh đến Huế gần một thế kỷ (94 năm).
Chúng tôi cho rằng, khởi thủy chỉ có hai câu:
Gió đưa cành trúc la đà, Tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Xương (hoặc Thọ Cương).
Về sau người ta mới ghép thêm hai câu nữa:
Thuyền về xuôi mái dòng Hương, Biết đâu tâm sự đôi đường đắng cay?
Nếu như thế thì câu ca Huế là độc lập, không dính dáng gì tới câu ca Hà Nội và thơ Dương Khuê. Trong quyển “Những điều nên biết” tác giả Nguyễn Văn Thái viết:
…“Không biết từ lúc nào, câu ca dao xứ Huế với “tiếng chuông Thiên Mụ” đã trở thành câu thơ miêu tả phong cảnh Hà Nội với “tiếng chuông Trấn Vũ”. Người ta cho rằng cụ Dương Khuê là người đầu tiên đã đưa “tiếng chuông Thiên Mụ” ra Hà Nội trong một bài thơ lục bát của cụ.”…
…“Bài thơ Hà Nội tức cảnh của cụ Dương Khuê được sáng tác vào khoảng thập niên 1870, sau nhiều năm cụ sống tại Huế. Do đó ta có thể nói rằng câu ca dao trên đây đã thấm nhập vào trí óc cụ Dương Khuê. Vì thế, khi cụ trở ra miền bắc, gặp lúc thời thế nhiễu nhương, cụ làm bài thơ Hà Nội tức cảnh để gửi gấm nỗi lòng của mình. Hai dòng đầu của bài thơ, cụ đã mượn câu ca dao nói trên nhưng thay đổi địa danh cho hợp với phong cảnh của Hà Nội: Chùa Thiên Mụ đổi thành chùa Trấn Vũ. Rất may là Hà Nội cũng có địa danh Thọ Xương cho nên cụ không cần phải đổi địa danh này.
Có điều khác biệt là, Thọ Xương ở Hà Nội, ngày nay vẫn còn mang tên Thọ Xương; trong khi Thọ Xương ở Huế đã thay đổi tên nhiều lần theo dòng thời gian, từ Thọ Khương, đến Thọ Xương, đến Thọ Cương, và nay là Long Thọ”… [8]
Nếu quả thật nhà thơ Dương Khuê có nhiều năm sống tại Huế thì chúng tôi đồng tình với nhận định của nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Thái, rất có khả năng Dương Khuê đã mượn ca dao Huế để sáng tác bài “Hà Nội tức cảnh”, sau đó bài thơ này được dân gian hóa, trở thành ca dao Hà Nội. Bằng chứng là ngoài hai câu đầu giống với ca dao Huế, ca dao Hà Nội còn có thêm hai câu cuối:“Mịt mù khói tỏa làn sương / Nhịp chày Yên Thái mặt gương Tây Hồ” rất giống với thơ Dương Khuê. Tuy nhiên, chúng tôi không tán thành chi tiết “Thọ Xương ở Hà Nội, ngày nay vẫn còn mang tên Thọ Xương” trong bài của Nguyễn Văn Thái. Xét về nghĩa của câu này thì không có gì sai, bởi vì hiện nay Hà Nội vẫn còn địa danh Thọ Xương, song, đó chỉ là tên một ngõ nhỏ thuộc phường Hàng Trống, quận Hoàn Kiếm. Còn địa danh Thọ Xương thật sự, xuất hiện trong trong thơ Dương Khuê và ca dao Hà Nội đã không còn sử dụng từ năm 1888, sau khi vua Đồng Khánh ra đạo dụ nhượng hẳn Hà Nội cho người Pháp.
2. Canh gà Thọ Xương là gì?
Trong ca dao Việt Nam, ngoài những bài đang phân tích ở đây, còn có những câu ghi nhận chữ “canh gà”:
Người đứng cối, kẻ giần sang Nghe canh gà gáy phàn nàn chửa xong.
Nếm muỗng đường om mùi thơm vị ngọt Qua thương nhớ bậu thức trót canh gà.
Về địa danh “Thọ Xương” thì có:
Trên chùa đã động tiếng chuông Gà Thọ Xương đã gáy, chim trên nguồn đã kêu.
Sở tại là những huyện nào Thọ Xương, Vĩnh Thuận, phủ Hoài thống kiêm.
Riêng cụm từ “canh gà Thọ Xương” thì chỉ có trong ca dao Huế và Hà Nội đã được trích dẫn ở đầu bài viết này, chúng tôi chưa tìm thấy bài ca dao nào khác.
Xét những câu ca dao trên, chúng ta thấy canh gà gáy và thức trót canh gà là hai tổ hợp từ chỉ thời gian, tương ứng với canh gà Thọ Xương trong ca dao Huế và Hà Nội, không có tổ hợp nào cho thấy đó là món ăn. Một câu khác cho biết Thọ Xương là huyện, câu còn lại cho thấy Gà Thọ Xương đã gáy, cả hai câu đều nói về địa danh.
Xin chú ý chi tiết, câu Gió đưa cành trúc la đà trong ca dao Huế và Hà Nội đơn thuần chỉ là “đường dẫn bắt cầu” cho câu kế tiếp, cũng giống như những câu ca khác: Gió đưa bụi chuối sau hè, Gió đưa gió đẩy lá dừa, Gió đưa lau lách quanh bờ…Chúng không làm tiền đề chỉ thời gian. Chính câu thơ của Dương Khuê mới nêu bật được tính thời gian trong canh gà Thọ Xương, đó là câuPhất phơ ngọn trúc trăng tà. “Trăng tà” có nghĩa là mặt trăng đã chếch hẳn về một phía khi đêm sắp hết, bình minh sắp ló dạng. Vào thời điểm đó gà ở Thọ Xương bắt đầu gáy vang. Như người xưa từng nói “Đêm năm canh, ngày sáu khắc”. Nếu tínhNửa đêm giờ Tý canh ba (23 giờ đến 1 giờ sáng) thì canh tư sẽ là giờ Sửu (1 đến 3 giờ sáng), còn canh năm là giờ Dần (3 đến 5 giờ sáng). Như vậy, thời điểm trăng tà hay gà gáy là vào lúc canh năm.
Tóm lại, rất ít có khả năng Canh gà Thọ Xương là một món ăn. Điều này còn được chứng minh bằng bài “Hà Nội tứ cảnh” của Dương Khuê trong tập Vân Trì thi thảo. Theo TS Trịnh Khắc Mạnh , trong bài thơ đó chữ canh được viết là  (canh giờ), chứ không phải chữ canh 羹 (bát canh, món canh) [1]. Chúng tôi đồng thuận với nhận định này, bởi vì hai chữ Nôm mà TS Trịnh Khắc Mạnh dẫn chứng đều có nguồn gốc từ chữ Hán: canh 更 (thuộc bộ Viết曰), có nghĩa là “đơn vị thời gian dùng cho ban đêm”, giống như trong tác phẩm Thái Bình mại ca giả 太平賣歌者, thi hào Nguyễn Du đã viết “Đàn tận tâm lực cơ nhất canh” 殫盡心力幾一更 (Dốc hết tâm lực gần một canh). Chữ canh 更 còn dùng để chỉ trống canh như Tôn Quang Hiến 孫光憲 (thời vua Tống Thái Tổ (960-975), Trung Quốc) đã viết: “Thính hàn canh, văn viễn nhạn” 聽寒更, 聞遠雁 (Lắng nghe tiếng trống canh lạnh, nghe thấy tiếng chim nhạn xa).
Nếu nói một món ăn thì phải dùng chữ canh 羹 (thuộc bộ Dương 羊). Chữ này có nghĩa là “món canh, món ăn nước”, thí dụ điều canh 調羹 (nêm món canh cho vừa ăn).
Tuy nhiên, có một chi tiết cần chú ý, TS Trịnh Khắc Mạnh cho rằng canh gà Thọ Xương là tiếng gà gáy báo canh ở Thọ Xương. Đây là cách hiểu thông thường, bởi vì khi nghe tiếng gà gáy lúc rạng đông chúng ta nhận thức rằng thời điểm lúc đó là canh năm (3 đến 5 giờ sáng). Nhưng trên thực tế, gà gáy không phải để báo cho chúng ta biết đó là canh mấy, tất cả là do đồng hồ sinh học nội tại của chúng. Tiếng gà gáy là kết quả phản ứng nhịp sinh học trong cơ thể gà trống, gọi là Circadian rhythm trong tiếng Anh [9]. Rất có khả năng ánh sáng và nhiệt độ lúc rạng đông đã kích thích, tác động tới cơ thể buộc con gà cất tiếng gáy.
3. Những dị văn và dị bản
Chúng ta biết rằng ca dao là thể loại văn vần, thuộc dòng văn học dân gian truyền khẩu, do đó việc tam sao thất bản là điều không tránh khỏi, chắc chắn sẽ có những dị biệt trong các văn bản nào đó. Trong quá trình sưu tập ca dao, chúng ta chấp nhận mọi dị văn và dị bản, xem mỗi bản là một đặc trưng phản ánh tính chất vùng miền và những điều khác. Tuy nhiên, đối với thơ Dương Khuê thì cần hiệu đính nghiêm túc tác phẩm do chính ông sáng tác. Muốn làm được điều này, chúng ta cần phải so sánh, đối chiếu và phân tích các văn bản để đưa ra kết luận cụ thể.
Hà thành hay Hà Nội
Trên trang blog cá nhân, nhà nghiên cứu Nguyễn Xuân Diện cho biết trong “Dương gia phả ký” (bản đánh máy chữ quốc ngữ, 122 trang), Dương Thiệu Cương lập vào cuối mùa hạ năm Quý Sửu (1973), Dã Lan Nguyễn Đức Dụ in ấn có bài thơ “Hà thành tức cảnh” của Dương Khuê – bài thứ hai trong trang 106 [10]. Nhưng trong quyển “Luận đề về Dương Khuê” (Nguyễn Duy Diễn, nhà sách Khai Trí, Sài Gòn, 1960), bài thơ này được ghi tựa là “Hà Nội tức cảnh”. Theo chúng tôi, sách của Nguyễn Duy Diễn là công trình nghiên cứu về Dương Khuê có giá trị học thuật, đáng tin cậy, có lẽ vì thế nên TS Dương Thiệu Tống đã trích dẫn bài thơ của Dương Khuê trong sách của Nguyễn Duy Diễn với tựa đề là “Hà Nội tức cảnh”, không theo tựa “Hà thành tứ cảnh” trong Dương gia phả ký. TS. Dương Thiệu Tống đã cho đăng bài này trong sách của ông: “Tâm trạng Dương Khuê – Dương Lâm” (NXB Khoa học Xã hội, 2005).
Tứ hay tức
Như trên đã nói, bài thơ của Dương Khuê có tựa đề là “Hà Nội tứ cảnh”, nằm trong tập “Vân Trì thi thảo” [1], còn trong “Luận đề về Dương Khuê” (sđd), “Tâm Trạng Dương Khuê – Dương Lâm” (sđd) và Dương gia phả ký kể trên thì lại ghi nhận là “tức cảnh” chứ không phải “tứ cảnh”. Vậy tựa nào là chính xác như Dương Khuê đã viết?
Chúng ta biết rằng tập “Vân Trì thi thảo” của Viện Nghiên cứu Hán Nôm là bản viết thảo, chữ viết không dễ đọc, có thể do người khác chép lại chứ không phải là thủ bút của Dương Khuê (cần kiểm chứng điều này). Hai chữ “tứ” và “tức” trong thơ Dương Khuê là chữ Nôm nhưng được viết theo phép giả tá, nghĩa là mượn nguyên xi từ chữ Hán, do đó ta có thể giải thích ý nghĩa giống như chữ Hán. Tứ 四 (thuộc bộ Vi 囗) có nghĩa là “bốn”, giống như chữ t trong bài Thu chí 秋至 của Nguyễn Du : Tứ thì hảo cảnh vô đa nhật 四時好景無多日 (Cảnh đẹp bốn mùa chẳng được bao ngày); còn tức 即 (thuộc bộ Tiết卩) trong tức cảnh 即景 ở đây có nghĩa là sáng tác thơ do có cảm hứng với phong cảnh trước mắt, giống như tức cảnh thi 即景詩 (thơ tức cảnh).
Theo thiển ý của chúng tôi, tựa bài thơ của Dương Khuê nên hiệu đính là tức cảnh, không viết là tứ cảnh. Vì sao? Đồng ý rằng trong bài có bốn địa danh (Trấn Vũ, Thọ Xương, Yên Thái, Tây Hồ), nhưng nếu muốn đặc tả về cảnh đẹp, tại sao tác giả không chọn những cảnh đẹp tiêu biểu khác của Hà Nội mà lại chọn là Thọ Xương và Yên Thái – hai địa danh chưa phải là xuất sắc bậc nhất của Hà Nội? Chính vì thế, sử dụng “tức cảnh” sẽ dễ được người đọc chấp nhận hơn.
Phất phơ và gió đưa
Cách sử dụng từ phất phơ của Dương Khuê trong câu lục Phất phơ ngọc trúc trăng tà có thể xem là rất riêng, không trùng lặp với ca dao, bởi vì chúng ta không thấy những câu lục nào trong ca dao khởi đầu bằng từ này, chỉ thấy trong câu bát [11]:
Cái cò lặn lội bờ ao / Phất phơ đôi dải yếm đào gió bay.
Thân em như tấm lụa đào / Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai.
Đi đâu đường đất một mình / Phất phơ chéo áo giống hình phu quân.
Thân em như chẽn lúa đòng đòng / Phất phơ dưới ngọn nắng hồng buổi mai.
Cách dân gian chuyển “phất phơ” thành “gió đưa” là hợp với lô gíc thông thường, bởi vì chúng ta thấy tổ hợp “gió đưa” xuất hiện khá nhiều trong ca dao Việt Nam, phù hợp với “phất phơ” trong câu lục của Dương Khuê:
Gió đưa bụi chuối sau hè / Anh theo vợ bé bỏ bè con thơ.
Gió đưa con buồn ngủ lên bờ / Mùng ai có rộng… cho tôi ngủ nhờ một đêm.
Gió đưa gió đẩy lá dừa / Muốn ai thì muốn nhưng chừa em ra.
Gió đưa lau lách quanh bờ / Thương nhau chẳng đặng đừng chờ uổng công.
Trấn Vũ hay Trấn Võ
Ngoài bản ghi “tiếng chuông Trấn Vũ” người ta còn thấy bản ghi “tiếng chuông Trấn Võ”. Trên thực tế, trong chữ Hán – Nôm, 武 hay  武 tuy đọc theo âm Hán Việt là khác nhau nhưng viết đều giống nhau. Sở dĩ có sự khác biệt này là do người viết văn bản ca dao thuộc miền nào. Ghi theo cách đọc của người miền Bắc sẽ là , còn theo cách đọc của người miền Nam sẽ là . Như vậy, bản chính xác nên viết là Trấn , bởi vì đây là ca dao Hà Nội.
Thọ Xương hay Thọ Cương
Trong ca dao Huế có bản ghi là “Thọ Xương”, bản ghi là “Thọ Cương”. Hai cách ghi này không có gì sai, bởi vì đây là hai địa danh có thật ở Huế và cùng chỉ một khu vực. Sự khác biệt đơn giản chỉ là thời gian. Địa danh Thọ Xương xuất hiện trong thời vua Gia Long (1802 – 1820), đến năm 1824 (thời Minh Mạng) địa danh này được đổi thành Long Thọ Cương. Do vần của ca dao qui định nên người ta viết gọn là Thọ Cương, chứ không ghi là Long Thọ Cương. Tuy trong quyển “Văn học dân gian Bình Trị Thiên” (1987), khoa Ngữ văn Đại học Sư phạm Huế ghi nhận là “Thọ Cương” (Tiếng chuông Thiên Mụ canh gà Thọ Cương), nhưng theo chúng tôi, viết “Thọ Xương” sẽ đầy đủ nghĩa hơn là “Thọ Cương”, vì không phải ai cũng biết Thọ Cương là chữ viết gọn của Long Thọ Cương, mặt khác, hiện nay địa danh này đã đổi thành Long Thọ.
Mịt mù hay mịt mùng
- Thơ Dương Khuê có hai dị bản, thể hiện qua câu: Mịt mù khói tỏa ngàn sương và Mịt mùng khói tỏa ngàn sươngVậy viết đúng thì phải là “mịt mù” hay “mịt mùng”? Chúng tôi cho rằng viết mịt mùng sẽ diễn đạt hay hơn và chính xác hơn. Bởi vì mịt mù(giống như mù mịt) có nghĩa là “bị bao phủ dày đặc không nhìn thấy gì”; còn mịt mùng có nghĩa là “không gian bao la, mờ ảo”. Nếu tả cảnh thì khói tỏa ngàn sương trong cái không gian bao la, mờ ảo sẽ hay hơn nhiều so với không gian bị bao phủ dày đặc, không nhìn thấy gì cả.
Đây cũng là chi tiết cho thấy Dương Khuê không chịu ảnh hưởng bởi ca dao, bởi vỉ chúng tôi chưa tìm thấy câu ca dao nào có từmịt mùng nằm ở đầu hoặc bất kỳ vị trí nào trong câu lục, còn mịt mù thì lại thấy xuất hiện mở đầu những câu lục:
Mịt mù gió thổi cát bay / Một lời giao ngãi, ngàn ngày nhớ thương.
Mịt mù khói tỏa màn sương / Không ai tin thấu tỏ tường dạ em.
Ngàn và làn
Thơ Dương Khuê có bản ghi là khói tỏa ngàn sương, nhưng bản khác lại viết là khói tỏa làn sương. Trước hết chúng ta phân tích chữ ngàn. Có ý kiến cho rằng “Ngàn tương đương với “bờ”, chứ không phải “rừng” hay “một ngàn” [12]. Chúng tôi không nghĩ vậy. Đầu tiên, cần xác định rằng ngàn ở đây là chữ Nôm, chứ không phải chữ Hán. Chúng tôi chưa tìm thấy tài liệu nào cho biết “ngàn tương đương với bờ”, mặt khác, hai chữ Nôm 坡 và 坡 có nghĩa là bờ trong bờ ruộng, chẳng liên quan gì tới ngàn cả. Vậy,ngàn ở đây có khả năng là rừng hoặc là số đếm được không? Chúng ta biết rằng, ngàn là số đếm, thí dụ như trong “một ngàn, muôn ngàn”, còn ngàn 岸 là “rừng”, như trong “núi ngàn” (núi rừng). Cả hai chữ này đều có thể kết hợp với chữ sương 霜 (霜 hay 岸霜) để thể hiện nghĩa bóng là “có nhiều sương” (frost).
Về chữ làn, nếu tả cảnh mà sử dụng từ làn sương e rằng mỏng manh quá, không phù hợp với “mịt mù” hay “mịt mùng”. Chúng tôi cho rằng chữ ngàn sẽ chính xác hơn. Ngoài ra, cần lưu ý đến chữ màn trong câu ca dao dưới đây:
Mịt mù khói tỏa màn sương Không ai tin thấu tỏ tường dạ em
Chữ màn 幔 cũng là chi tiết đáng chú ý để chúng ta đối chiếu, hiệu đính văn bản khi tìm thấy những bản Nôm khác về ca dao Hà Nội, Huế và thơ của Dương Khuê.
Dịp chày, tiếng chày hay nhịp chày
Bài “Hà thành tức cảnh” trong Dương gia phả ký (sđd) ghi là “Dịp chày” (Dịp chày An – Thái, mặt gương Tây – Hồ), bài “Hà Nội tức cảnh” trong quyển “Luận đề về Dương Khuê” (sđd) ghi là “Nhịp chày”, còn bài “Hà Nội tứ cảnh” trong tập Vân Trì thi thảo (sđd) lại ghi là “Tiếng chày”. Những dị văn này gây khó khăn trong quá trình hiệu đính thơ của Dương Khuê. Chúng ta thử đi tìm, phân tích xem chữ nào là chính xác nhất:
- Trong chữ Nôm, có những chữ được viết là “dịp” như , 堞, 擛, 蹀…; tất cả những chữ này đều xuất hiện trong cấu trúc “nhân dịp, dịp may”, không thể phù hợp với chữ “chày” có nghĩa là “cái chày”. Ngoài ra, “dịp” cũng không thể kết hợp với những chữ Nôm khác có nghĩa là “cái chày” hay “chày kình” (khúc gỗ hình cá voi để đánh chuông lớn), thí dụ chữ , hay 杵…. Như vậy, “dịp” là chữ viết sai, có thể do sự nhầm lẫn giữa phụ âm đầu d và nh của người ghi chép.
- Trong bài “Hà Nội tứ cảnh”, chữ “tiếng” xuất hiện trong câu thứ hai (tiếng chuông), nếu Dương Khuê sử dụng lặp lại chữ “tiếng” trong câu bốn (tiếng chày) thì hiệu quả nghệ thuật của bài thơ sẽ kém đi. Đây không phải là thủ pháp điệp từ để nâng cao giá trị nghệ thuật của Dương Khuê. Trong chữ Nôm, tiếng 㗂 có nghĩa là “tiếng kêu, tiếng nói”, từ này viết khác hẳn những chữ đọc lànhịp, thí dụ trong ăn nhịp, trong đánh nhịp, 喋 trong nhịp phách; vì thế khó có thể cho rằng người ghi chép nhìn chữ Nôm nhịprồi viết nhầm sang chữ Quốc ngữ là tiếng. Đây là dị văn cần chú ý để hiệu đính thơ Dương Khuê.
Nếu tính về xác suất, chữ dịp chỉ xuất hiện trong bài “Hà thành tức cảnh”, còn chữ tiếng chỉ có trong “Hà Nội tứ cảnh”, riêng chữ “nhịp” thì không những nằm trong “Hà Nội tức cảnh” mà còn trong các dị bản của ca dao Hà Nội. Nói cách khác, chữ nhịp xuất hiện trong nhiều văn bản, do đó rất có khả năng đó là chữ chính xác nhất.
An Thái hay Yên Thái
Trong “Văn đàn bảo giám” Trần Trung Viên (1926 – Tản Đà đề tựa, Trần Tuấn Khải hiệu đính), bản thơ Dương Khuê có địa danh là “An Thái”, trong khi đó bài “Hà Nội tứ cảnh” trong Vân Trì thi thảo (sđd) và nhiều tài liệu khác lại ghi là “Yên Thái”. Vậy địa danh nào là chính xác?
Chúng ta biết rằng trong Hán – Nôm, An 安 và Yên 安 viết giống nhau nhưng đọc theo âm Hán Việt thì khác nhau. Hiện tượng này cũng giống như  武 (Trấn Vũ) và  武 (Trấn Võ) trong những dị bản thơ của Dương Khuê. Đối với bài “Hà Nội tức cảnh” nên ghi là “Yên Thái”, bởi vì địa danh này xuất hiện trong rất nhiều sách: “Tìm hiểu văn hóa dân gian làng Yên Thái (Tây Hồ – Hà Nội)” của Lê Văn Kỳ (NXB Văn hóa Dân tộc, 2011), “Hà Nội những vấn đề ngôn ngữ văn hóa” của Hội Ngôn ngữ học Hà Nội (NXB Văn hóa Thông tin, 2001, tr.146), “Chân dung Thăng Long – Hà Nội” của Lý Khắc Cung (NXB Hà Nội, 2004, tr.14), “Hà Nội Thành phố nghìn năm” của Nguyễn Vinh Phúc (Hội hữu nghị Việt-Pháp TP Hà Nội, 2002, tr.71), “Hà Nội và Hà Nội” của Tô Hoài (NXB Hà Nội, 1996, tr.20)…
4. Kết luận:
- Về nguồn gốc những bài liên quan tới “canh gà Thọ Xương”, chúng tôi cho rằng ca dao Huế có trước, khởi thủy chỉ có hai câu:Gió đưa cành trúc la đà / Tiếng chuông Thiên Mụ canh gà Thọ Xương. Nhà thơ Dương Khuê đã mượn hai câu này để sáng tác bài “Hà Nội tức cảnh” (xem dẫn chứng ở đầu bài viết), sau đó “Hà Nội tức cảnh” được dân gian hóa để trở thành ca dao Hà Nội.
- Về dị văn và dị bản, chúng tôi đề nghị, cần hiệu đính bản nào được xem là chính xác nhất của thơ Dương Khuê và bản nào được xem là đặc sắc nhất trong ca dao Huế và Hà Nội liên quan tới “canh gà Thọ Xương” để thống nhất tài liệu; tránh trường hợp mỗi nơi in ấn và giải thích khác nhau, đặc biệt là trong sách giáo khoa và việc giảng dạy tại nhà trường.
Cuối cùng, hy vọng giới nghiên cứu sẽ tìm thấy những văn bản chữ Nôm khác về thơ và ca dao liên quan đến “canh gà Thọ Xương”, những văn bản thật sự thuyết phục để chấm dứt tình trạng tranh cãi về nguồn gốc, dị văn và dị bản như chúng tôi đã đề cập trong bài viết này.
V.T.H


Tài liệu tham khảo
1. Hà, Thu 2013., Sự thật về chữ “canh” trong “canh gà Thọ Xương” . Truy cập ngày 22 tháng 06 năm 2013, từhttp://www.anninhthudo.vn/Xa-hoi/Su-that-ve-chu-canh-trong-canh-ga-Tho-Xuong/470123.antd
2. Wikipedia 2013. Thọ Xương. Truy cập ngày 22 tháng 06 năm 2013, từhttp://vi.wikipedia.org/wiki/Th%E1%BB%8D_X%C6%B0%C6%A1ng
3. Wikipedia 2013. Hồ Tây. Truy cập ngày 22 tháng 06 năm 2013, từ http://vi.wikipedia.org/wiki/H%E1%BB%93_T%C3%A2y
4. (hanoi.gov.vn) 2013. Lưu giữ những "mảnh hồn làng" của Hà Nội. Truy cập ngày 22 tháng 06 năm 2013, từhttp://hanoi.vietnamplus.vn/Home/Luu-giu-nhung-manh-hon-lang-cua-Ha-Noi/201212/9733.vnplus
5. Wikipedia 2013. Chùa Thiên Mụ. Truy cập ngày 22 tháng 06 năm 2013, từhttp://vi.wikipedia.org/wiki/Ch%C3%B9a_Thi%C3%AAn_M%E1%BB%A5#T.C3.AAn_g.E1.BB.8Di
6. Việt, Hoàng Xuân 2006. Bạch thư chữ Quốc ngữ. Hội văn hóa Việt, San Jose, CA, tr. 374-375.
7. Quỳnh, Phạm 2009. Mười ngày ở Huế. Truy cập ngày 22 tháng 06 năm 2013, từhttp://phamquynh.wordpress.com/2009/02/19/tac-ph%E1%BA%A9m-m%C6%B0%E1%BB%9Di-ngay-%E1%BB%9F-hu%E1%BA%BF/
8. Thái, Nguyễn Văn 2010. Chùa Thiên Mụ hay chùa Trấn Vũ?. Truy cập ngày 23 tháng 06 năm 2013, từhttp://www.thegioinguoiviet.net/showthread.php?t=2533
9. Wikipedia 2013. Circadian rhythm. Truy cập ngày 23 tháng 06 năm 2013, từ http://en.wikipedia.org/wiki/Circadian_rhythm
10. Diện, Nguyễn Xuân 2012. Đã tìm thấy câu thơ "Canh gà Thọ Xương" trong Dương gia phả ký. Truy cập ngày 23 tháng 06 năm 2013, từ http://vi.wikipedia.org/wiki/Th%E1%BB%8D_X%C6%B0%C6%A1ng
11. Hoài, Hà Phương 2013. Ca Dao Tục Ngữ Việt Nam. Truy cập ngày 22, 23 và 24 tháng 06 năm 2013, từ http://e-cadao.com/cadaodoor.htm
12. Ưu, Vô 2012. Sao vậy ca dao hóa thơ Dương Khuê?. Truy cập ngày 24 tháng 06 năm 2013, từ http://nhavantphcm.com.vn/doc-duong-van-hoc/sao-voi-ca-dao-hoa-tho-duong-khue.htm Vương Trung Hiếu
source : damau.org

12/7/13

Cúi nhưng không thấp






Người Nhật có thói quen gập hơn nửa người cúi chào khách.
 
Cái nghiêng mình quen thuộc khi người Nhật chào khách.

Ở đất nước mặt trời mọc, hình ảnh nghiêng gập người cúi chào thể hiện cả một nền văn hóa Nhật Bản: Cúi nhưng không hạ mình. Sự nhún nhường chỉ làm tăng thêm sự nể trọng của người đối diện.
Trên các chuyến bay của hãng hàng không Japan Airlines, nụ cười luôn nở trên môi các tiếp viên.  Họ sẵn sàng ngồi, chính xác là “quỳ xuống”, giúp khách sửa tư thế của đôi chân tê mỏi.  Họ niềm nở, vui vẻ tiếp nhận yêu cầu của hành khách khó tính nhất.  Không phải chất lượng máy bay khiến hành khách hài lòng mà chính cách phục vụ của tiếp viên khiến mọi người nghĩ tốt về người Nhật.  Chỉ vài phút khởi hành muộn, toàn bộ nhân viên phục vụ mặt đất và tiếp viên, phi công dàn thành hàng ngang, cúi rạp người xin lỗi khách.
Họ thật sự đã thành công khi để lại ấn tượng sâu sắc về một nước Nhật vô cùng hiếu khách và nghệ thuật giao tiếp tuyệt vời.

 Trung thực:
Ở Nhật, bạn khó có cơ hội bắt taxi để đi một cuốc đường dài. Vì sao?  Các tài xế sẽ tự chở bạn thẳng đến nhà ga tàu điện ngầm, kèm lời hướng dẫn “Hãy đi tàu điện ngầm cho rẻ”.
Sự trung thực của người Nhật in đậm nét ở những “mini shop không người bán” tại Osaka.
 
Hệ thống tự tính tiền tại siêu thị Nhật, người mua tự phục vụ, tự scan mã vạch, tự trả tiền.


Nhiều vùng ở Nhật không có nông dân.  Ban ngày họ vẫn đến công sở, ngoài giờ làm họ trồng trọt thêm.  Sau khi thu hoạch, họ đóng gói sản phẩm, dán giá và để thùng tiền bên cạnh cho người mua cứ theo giá niêm yết mà tự bỏ tiền vào thùng.  Cuối ngày, trên đường đi làm về, họ ghé đem thùng tiền về nhà.  Nhẹ nhàng và đơn giản.
Các con đường mua sắm, các đại siêu thị ở Hokkaido, Sapporo hay Osaka… cũng không nơi nào bạn phải gửi giỏ/túi xách.  Quầy thanh toán cũng không đặt ngay cổng ra vào.  Người Nhật tự hào khẳng định động từ “ăn cắp vặt” gần như đã biến mất trong từ điển.
Nếu bạn đến Nhật, toàn bộ các cửa hàng sẽ tự động trừ thuế, giảm 5 – 10% khi biết bạn là khách nước ngoài.

 No noise” – không ồn 
Nguyên tắc không gây tiếng ồn được áp dụng triệt để tại Nhật.  Tất cả đường cao tốc đều phải xây dựng hàng rào cách âm, để nhà dân không bị ảnh hưởng bởi xe lưu thông trên đường.  bỏ ra 18 tỷ USD xây hẳn một hòn đảo nhân tạo để làm phi trường rộng hơn 500ha ngay trên biển.  Lý do đơn giản chỉ vì “người dân không chịu nổi tiếng ồn khi máy bay lên xuống”.
 Tại các cửa hàng mua sắm, dù đang vào mùa quảng cáo, cũng không một cửa hàng nào được đặt máy phát ra tiếng.  Tuyệt đối không được bật nhạc làm ồn sang cửa hàng bên cạnh.  Muốn quảng cáo và thu hút thì cách duy nhất là thuê một nhân viên dùng loa tay, quảng cáo với từng khách.

Nhân bản:
  Vì sao trên những cánh đồng ở Nhật luôn còn một góc nguyên, không thu hoạch?  Không ai bảo ai, những nông dân Nhật không bao giờ gặt hái toàn bộ nông sản mà họ luôn “để phần”  5-10% sản lượng cho các loài chim, thú trong tự nhiên.

Bình đẳng:
Mọi đứa trẻ đều được dạy về sự bình đẳng.  Để không có tình trạng phân biệt giàu nghèo ngay từ nhỏ, mọi trẻ em đều được khuyến khích đi bộ đến trường.  Nếu nhà xa thì xe đưa đón của trường là chọn lựa duy nhất.  Các trường không chấp nhận cho phụ huynh đưa con đến lớp bằng xe hơi.
 Việc mặc đồng phục vest đen từ người quét đường đến tất cả nhân viên, công chức cho thấy một nước Nhật không khoảng cách.  Những ngày tuyết phủ trắng nước Nhật, từ trên cao nhìn xuống, những công dân Nhật như những chấm đen nhỏ di chuyển nhanh trên đường.  Tất cả họ là một nước Nhật chung ý chí, chung tinh thần lao động.
Văn hóa xếp hàng thấm đẫm vào nếp sinh hoạt hàng ngày của người Nhật.  Không có bất cứ sự ưu tiên nào.  Sẽ không có gì ngạc nhiên nếu một ngày bạn thấy người xếp hàng ngay sau lưng mình chính là Thủ tướng.
Ở Nhật, nội trợ là một nghề.  Hàng tháng chính phủ tự trích lương của chồng đóng thuế cho vợ.  Do đó, người phụ nữ ở nhà làm nội trợ nhưng vẫn được hưởng các chế độ y như một người đi làm.  Về già vẫn hưởng đầy đủ lương hưu.
Nội trợ là một nghề và vẫn được hưởng lương hưu
  
Độc đáo hơn nữa là nhiều công ty áp dụng chính sách, lương của chồng sẽ vào thẳng tài khoản của vợ.  Vai trò của người phụ nữ trong gia đình vì thế luôn được đề cao, tôn trọng.
Cúi nhưng không thấp: Ở đất nước mặt trời mọc, mọi người đều hiểu sâu sắc lý do khiến nước Nhật tan hoang sau chiến tranh thế giới thứ II, bật dậy mạnh mẽ trở thành cường quốc khiến cả thế giới phải nghiêng mình.

Source : GÓC NHÌN ALAN