(tiếp theo
phần I)
-
Bản thể luận (Ontology): xuất phát từ tiếng Hy Lạp
Οντολογία, dùng để chỉ sự nghiên cứu triết học về bản chất sự sống, sự
tồn tại, thực tại cũng như các phạm trù cơ bản của sự sống và toàn bộ
mối quan hệ của chúng …Nó là một phần trong phân nhánh quan trọng của
triết học gọi là “siêu hình học” (metaphysics), thường nêu những câu hỏi
liên quan tới sự tồn tại của những thực thể nào đó. Nhìn chung, luận đề
cơ bản của bản thể luận là “Tồn tại là gì?”, “Cái gì tồn tại?”, “Sự tồn
tại của cái hữu hình là gì?” “Sự tồn tại của cái vô hình là gì?” hay
“Nếu một đối tượng vô hình tồn tại thì điều đó có nghĩa gì?”…
Trong văn chương hậu hiện đại, những điều trên xuất hiện rải rác trong tiểu thuyết
Perdido Street Station (2000)
của nhà văn Anh China Miéville, miêu tả thế giới Bas-Lag tưởng tượng –
nơi cư ngụ của nhiều chủng tộc thông minh, có ma thuật và phép thần
thông…Tác giả sử dụng kỹ thuật steampunk hiện đại rất điêu luyện, xoay
quanh trục những nhân vật chính như Isaac Dan der Grimnebulin, Yagharek,
Lin và Derkhan Blueday….
Tiểu thuyết
House of Leaves (2000) của nhà văn Mỹ Mark Z.
Danielewski cũng đặt ra những câu hỏi bản thể luận, cho thấy định dạng
và cấu trúc độc đáo qua phong cách và cách thiết kế trang bất thường,
tạo ra loại văn chương Ergodic (Ergodic literature) (2). Một số trang
chỉ có vài từ hoặc vài dòng chữ, sử dụng cách sắp xếp kỳ lạ để phản ánh
các sự kiện trong câu chuyện, thường tạo ra bóng tối và hiệu ứng ngột
ngạt.
-
Chủ nghĩa hiện thực huyền ảo (magic realism): năm 1925, nhà phê bình nghệ thuật Đức Franz Roh sử dụng cụm từ này để nói về phong cách hội họa gọi là
Neue Sachlichkeit
(Tính khách quan mới), cho thấy đó là một phản ứng đối với chủ nghĩa
biểu hiện trên tạp chí Ý Novecento, do nhà văn – nhà phê bình Massimo
Bontempelli biên tập. Đến thập niên 1940, nhiều tác giả Mỹ La Tinh kết
hợp lý thuyết của Roh và Bontempelli với những khái niệm kỳ lạ của siêu
thực Pháp, sáp nhập những thần thoại bản địa và qui tắc truyền thống vào
tiểu thuyết Mỹ La Tinh.
Nhìn chung, chủ nghĩa hiện thực huyền ảo là một thể loại, trong đó
những yếu tố ảo cấu thành bộ phận tự nhiên của môi trường hiện thực thế
tục. Một tác phẩm hiện thực huyền ảo thường được đánh dấu bằng việc sử
dụng tranh ảnh đã xác định rõ, hoặc những vật thể được mô tả một cách
siêu thực. Đề tài và chủ đề thường là hư cấu, một cái gì đó xa xăm,
không tưởng, giống như một loại giấc mơ nào đó. Đặc điểm của thể loại
này là sự pha trộn, cái có thật và cái tưởng tượng được đặt cạnh nhau,
cho thời gian xoắn vào nhau, luân phiên thay đổi một cách kỳ lạ, thậm
chí cốt truyện và lời kể phức tạp đến mức khó hiểu. Ngoài ra kỹ thuật
này còn là cách sử dụng những giấc mơ hỗn hợp, chuyện thần tiên và thần
thoại, sự diễn tả siêu thực và biểu hiện, những kiến thức thần bí, yếu
tố tạo ngạc nghiên, gây sốc đột ngột, sự khủng khiếp và điều không thể
giải thích được.
Trong văn chương hậu hiện đại, chủ nghĩa hiện thực huyền ảo xuất hiện
khi một nhân vật trong truyện vẫn tiếp tục sống bên kia thế giới, vượt
qua giai đoạn sống thông thường của con người. Điều này được mô tả một
cách huyền ảo, cho thấy nhân vật đó sống xuyên suốt nhiều thế hệ. Diễn
biến câu chuyện trong một môi trường có thật, nhưng với nhân vật như thế
thì qui tắc của thế giới thực sẽ bị phá vỡ.
Từ thập niên 1920 đến 30, chất hiện thực huyền ảo xuất hiện trong lý
thuyết của Roh và Bontempelli, trong những tác phẩm của Kafka, Junger
và Musil, trong khuynh hướng
Tính khách quan mới của Franz Roh do Doblin thể hiện. Chất này còn có trong tiểu thuyết của những nhà văn Pháp như André Breton
, Louis Aragon và Julien Gracq – người đã phát triển lý thuyết mới
le merveilleux (yếu tố huyền diệu). Trong giai đoạn này, cần chú ý chi tiết: nhiều nhà nghiên cứu cho rằng tập truyện ngắn
Historia universal de la infamia (Lịch sử phổ quát về sự ô danh, 1935) của Jorge Luis Borges là tác phẩm đầu tiên về chủ nghĩa hiện thực huyền ảo.
Từ thập niên 1940 đến 1950, khuynh hướng hiện thực huyền ảo Mỹ La
Tinh thể hiện trong lý thuyết của Alejo Carpentier và Flores, trong tác
phẩm của Carpentier, Borges, Asturias và Uslar Pietri; ngoài ra, cần
phải kể đến trong quyển
El reino de este mundo (Vương quốc của
thế giới này, 1949) của Alejo Carpentier (Cuba), nói về Cuộc cách mạng
Haiti trong thế kỷ 18 và trong tập truyện ngắn
Guerra del tiempo (Cuộc
chiến thời gian, 1958) chứa đầy chất siêu thực với những tình tiết kỳ
lạ. Một đại biểu xuất sắc khác của chủ nghĩa hiện thực huyền ảo chính là
Gabriel García Marquez, một nhà văn Colombia nổi tiếng với tiểu thuyết
Cien años de soledad (Trăm năm cô đơn, 1967).
Riêng trong văn chương hậu hiện đại, có những đại diện tầm cỡ như
Gunter Grass (Đức), Salman Rushdie ( Ấn Độ) và Italo Calvino (Ý). Những
tác giả này thường sử dụng chủ nghĩa hiện thực huyền ảo trong tác phẩm
của họ. Đến đầu thế kỷ 21, một khuynh hướng mới pha trộn chất ngụ ngôn
với hiện thực huyền ảo xuất hiện trong những truyện ngắn Mỹ, thí dụ
The Ceiling của Kevin Brockmeier,
Big Me của Dan Chaon,
Exposure của Jacob M. Appel và
The Mourning Door của Elizabeth Graver…
-
Kỹ-văn hóa và bội hiện thực (Technoculture and
hyperreality): kỹ văn hóa là một từ ghép mới, hiện nay chưa được định
nghĩa chuẩn trong từ điển, tuy nhiên nó đã phổ biến phần nào đó trong
giới học viện. Hai nhà biên tập Constance Penley và Andrew Ross đã phổ
biến khái niệm này một sách luận văn, miêu tả "kỹ-văn hóa" là sự tương
tác giữa chính trị, kỹ thuật và văn hóa.
Bội hiện thực là thuật ngữ được sử dụng trong ký hiệu học và triết
học hậu hiện đại, miêu tả sự bất lực của ý thức trong việc phân biệt
thực tại với sự mô phỏng thực tại, đặc biệt là trong những xã hội hậu
hiện đại có công nghệ tiên tiến. Bội hiện thực được xem là một điều
kiện, trong đó cái thực và hư cấu trộn lẫn nhau liền mạch, không thể
phân biệt rõ cái gì khởi đầu và cái gì là kết thúc. Nó cho phép hòa trộn
cái thực vật chất với cái thực ảo giác, khả năng hiểu biết của con
người với khả năng hiểu biết nhân tạo. Những lý thuyết gia hàng đầu về
bội hiện thực gồm có Jean Baudrillard, Albert Borgmann, Daniel J.
Boorstin, Neil Postman và Umberto Eco (3).
Nhà phê bình văn chương Mỹ Fredric Jameson gọi chủ nghĩa hậu hiện đại
là "Lô gíc học văn hóa của chủ nghĩa tư bản hậu kỳ (cultural logic of
late capitalism). " Chủ nghĩa tư bản hậu kỳ" gợi ý rằng xã hội đã trôi
từ thời đại công nghệ sang thời đại thông tin. Tương tự như vậy, triết
gia Pháp Jean Baudrillard khẳng định rằng thời hậu hiện đại
(postmodernity) được định rõ bằng bội hiện thực, trong đó sự mô phỏng
thay thế cho thực tại. Con người thời hậu hiện đại chìm ngập trong công
nghệ và thông tin, trở thành tiêu điểm cho nhận thức của chúng ta về cái
thực do sự mô phỏng thực tại dàn xếp (4). Nhiều tác phẩm hư cấu đã xử
lý diện mạo của thời hậu hiện đại bằng sự châm biếm và giễu nhại đặc
trưng. Thí dụ, tiểu thuyết
White Noise (Tiếng động trắng, 1985)
của Don DeLillo miêu tả những nhân vật bị tấn công dồn dập bởi "tiếng
động trắng" của truyền hình, nhãn hiệu hàng hóa, câu chuyện sáo
rỗng…trong những đề tài nổi lên từ giữa đến cuối thế kỷ 20, thí dụ như
cơ chế thị trường, sự bão hòa phương tiện truyền thông đại chúng, chứng
làm việc trí não mê cuồng, những âm mưu ngầm, sự tan vỡ và tái hòa nhập
gia đình, những thảm họa do con người gây ra… Tính chất kỹ- văn hóa và
bội hiện thực còn được thể hiện qua
Neuromancer (1984) của William Gibson, một truyện dài đậm chất cyberpunk.
-
Cyberpunk:
là thể loại tiểu thuyết khoa học
viễn tưởng hậu hiện đại, tập trung vào việc khai thác công nghệ cao và
“thế giới ngầm” (5) (6). Nó khắc họa nét đặc biệt của khoa học tiên
tiến, thí dụ như công nghệ thông tin và điều khiển học, kết hợp với mức
độ suy sụp tinh thần và sự thay đổi cơ bản trong các tầng lớp xã hội.
Cyberpunk thường tập trung vào sự xung đột giữa những hacker, công
nghệ và ngành khoa học máy tính chuyên nghiên cứu, phát triển những phần
mềm, máy thông minh (artificial intelligences). Nó tập trung vào những
tập đoàn lớn mạnh, có khuynh hướng “thiết kế” trái đất trong tương lai
gần chứ không quá xa hay lấy bối cảnh dải ngân hà khổng lồ như trong
Foundation
(Nền tảng, 1951) của Isaac Asimov, một tiểu thuyết kể về nhóm khoa học
gia tìm cách bảo quản kiến thức khi những nền văn minh chung quanh họ
bắt đầu trôi ngược trở lại, hay trong quyển
Dune (Cồn cát, 1965) của Frank Herbert, nói về cuộc sống của con người khoảng hơn 21.000 năm sau.
Trong văn chương hậu hiện đại, nhiều tác giả đã vay mượn chất
cyberpunk nguyên thủy, kết hợp với ý tưởng sáng tạo cyberpunk mới của
riêng họ. Điều này hiện rõ qua
When Gravity Fails (Khi sức hấp dẫn không còn, 1986) của George Alec Effinger, một tiểu thuyết có tựa trích từ câu “
When your gravity fails and negativity don’t pull you through" trong ca khúc
Just Like Tom Thumb’s Blues của Bob Dylan.
Tạp chí
Wired do Louis Rossetto, Jane Metcalfe và Ian Charles
Stewart thành lập năm 1993 cho thấy sự pha trộn công nghệ mới với nghệ
thuật và văn chương, thể hiện những đề tài hiện đại giúp thể loại
cyberpunk có lượng độc giả tăng lên đáng kể. Những tác giả trụ cột trong
giai đoạn đầu của tạp chí này gồm có Bruce Sterling, Stewart Brand và
William Gibson…
-
Steampunk: là thể loại phụ của tiểu thuyết khoa học
viễn tưởng, khắc họa nét đặc trưng của máy chạy hơi nước, đặc biệt là
miêu tả những thành tựu nổi bật của nền văn minh phương Tây công nghiệp
hóa trong thế kỷ 19. Năm 1981, quyển
Elementary BASIC – Learning to Program Your Computer in BASIC with Sherlock Holmes
của Henry Singer và Andrew Ledgar có thể là tác phẩm hư cấu đầu tiên
về cách sử dụng Máy phân tích (Analytical Engine) của Charles Babbage –
một loại máy tính tự động hoàn toàn được miêu tả lần đầu năm 1837.
Gần một thập niên sau, William Gibson và Bruce Sterling giới thiệu tiểu thuyết
The Difference Engine
(1990), giúp nhận thức về thể loại steampunk phổ biến hơn. Quyển này
cung cấp nguyên tắc viết steampunk của Gibson và Sterling về thời
Victoria, giai đoạn mà máy vận hành bằng hơi nước của Ada Lovelace và
Charles Babbage được đề xuất. Năm 2008, tuyển tập
Extraordinary Engines của Nick Gevers cho thấy có sự thể hiện chấtsteampunk mới hơn, cũng như những thể loại khoa học viễn tưởng khác.
-
Hoang tưởng (paranoia): “paranoia” có nguồn gốc từ
chữ Hy Lạp παράνοια (paranoia). Thuật ngữ này được dùng để miêu tả một
loại bệnh tâm thần. “Hoang tưởng” là quá trình suy nghĩ tin là bị ảnh
hưởng nặng bởi sự lo âu hay sợ hãi, thường liên quan tới sự phi lý hay
lừa dối. Ý nghĩ về chứng hoang tưởng có nét đặc trưng là tin bị ngược
đãi, tin là có âm mưu nào đó đe dọa mình. Thí dụ: “Ai cũng muốn trả thù
tôi!”
Catch-22 của Joseph Heller là quyển tiểu thuyết xuất bản năm
1961, chứng minh cho sự nổi tiếng nhất, hiệu quả nhất về khái niệm
“hoang tưởng”. Câu chuyện diễn ra năm 1943 trong Thế chiến II, trình bày
quan điểm của nhiều nhân vật phát triển theo trục thời gian của cốt
truyện.
Đối với người theo chủ nghĩa hậu hiện đại, không có toan tính nào
hoàn toàn lệ thuộc vào đề tài, vì sự hoang tưởng thường dao động giữa ảo
giác và sự tri giác sâu sắc.
The Crying of Lot 49 của Pynchon là
tác phẩm đầu tiên của văn chương hậu hiện đại thể hiện tình trạng có
thể xem là ngẫu nhiên, là âm mưu hoặc một chuyện đùa độc ác xoay quanh
nhân vật chính Oedipa Maas – một bà nội trợ bị tra tấn, dao động giữa
điều nên tin hay không tin vào bằng chứng này hay bằng chứng khác.
Sự hoang tưởng cũng có thể xảy ra cùng lúc với đề tài kỹ-văn hóa và bội hiện thực. Thí dụ, tiểu thuyết
Breakfast of Champions
(1973) của Kurt Vonnegut lấy bối cảnh là thành phố Midland tưởng tượng,
nói về hai người đàn ông da trắng, lớn tuổi, gầy còm và cô đơn trên một
hành tinh gần như không còn sự sống. Nhân vật Dwayne Hoover đã trở nên
hung tợn khi hắn tin chắc rằng những người khác trên thế giới đều là
người máy, chỉ còn hắn là con người thật sự.
-
Tối đa luận (maximalism): là thuật ngữ được dùng để
giải thích một dòng chảy hoặc khuynh hướng chứa mọi nhân tố của thuật
ngữ đa mục đích như chủ nghĩa biểu hiện (expressionism). Vì thuật ngữ
này thường được dùng để miêu tả phản ứng chống lại chủ nghĩa tối giản,
còn gọi là tối giản luận (minimalism). Nó miêu tả tính chất thừa mứa
phơi bày qua sự tích lũy vật dụng phản chiếu xã hội hiện tại. Thuật ngữ
này còn diễn tả sự khoe khoang tài sản khổng lồ của kẻ siêu giàu hoặc sự
ám ảnh xuất hiện thường xuyên trong hành vi của những người bán đồ cũ,
những kẻ đã tích lũy quá nhiều vật dụng gia đình trong quá khứ.
Trong tiểu thuyết hậu hiện đại, ta có thể thấy tính chất tối đa luận
trong tiểu thuyết của hai nhà văn Mỹ: David Foster Wallace với
The Broom of the System (1987),
Infinite Jest (1996),
The Pale King (2011) và Thomas Pynchon với
Vineland (1990),
Mason & Dixon (1997),
Against the Day (2006);
Inherent Vice (2009) và
Bleeding Edge
(2013)…Trong những tác phẩm đó ta sẽ thấy sự lạc đề, tài liệu tham
khảo, những chi tiết biên soạn công phu là những miếng nhỏ, tích lũy
thành đống trong văn bản. Nó có thể ám chỉ bất cứ cái gì thừa mứa, phức
tạp và đầy “tính phô trương”, hoặc cung cấp khả năng tàn phá quá mức
trong những đặc điểm và chi tiết đính kèm, tính thô bạo trong khối lượng
và chất lượng.
-
Tối giản luận (Minimalism): còn gọi là chủ nghĩa tối
giản. Khái niệm này trong văn chương thể hiện sự tập trung vào việc mô
tả bề mặt, nơi mà độc giả tin rằng họ đóng vai trò hành động trong quá
trình sáng tạo câu chuyện. Các nhân vật trong truyện ngắn và tiểu thuyết
chứa tối giản luận thường không có vẻ gì nổi bật, nói cách khác: rất
bình thường. Họ chỉ là những lát cắt nhỏ của đời sống. Nhìn chung, tối
giản luận đối lập với tối đa luận. Nó chỉ đại diện cho cái cơ bản nhất,
thiết yếu nhất với những mảng miếng cần thiết, thể hiện cụ thể, rõ ràng
qua sự kiểm soát chặt chẽ ngôn từ. Những tác giả hậu hiện đại ứng dụng
tối giản luận thường lưỡng lự khi dùng những tính từ, trạng từ (phó từ)
hay những chi tiết vô nghĩa. Thay vì cung cấp từng chi tiết nhỏ, tác giả
trình bày một văn cảnh chung, sau đó cho phép trí tưởng tượng của người
đọc định hình câu chuyện.
Có thể nói Samuel Beckett là tác giả tiêu biểu nhất, bậc thầy ứng
dụng tối giản luận trong văn chương hậu hiện đại. Điều này có thể tìm
thấy trong những tác phẩm của ông: kịch
Happy days (Những ngày tươi đẹp, 1961), tiểu thuyết
Meercier et Camier (Meercier và Camier, 1970), tập thơ
Mirlitonnades (1978), ngoài ra còn phải kể đến tác phẩm
Ohio impromptu (Ứng khẩu Ohio, 1981) và
Worstward Ho (1984).
Trên thế giới
Có thể nói văn chương hậu hiện đại là một khuynh hướng sáng tác phổ
biến hiện nay trên thế giới, tập trung nhất có lẽ là ở Hoa Kỳ, với những
nhà văn, nhà thơ nổi tiếng như Thomas Pynchon, John Barth, Hunter S.
Thompson, Kurt Vonnegut, William Gaddis, Robert Shea, Robert Anton
Wilson, Donald Barthelme, Samuel R. Delany, Robert Sheckley, Robert
Coover, Gilbert Sorrentino, Philip K. Dick, Paul Auster, Joseph McElroy,
Nicholson Baker, Mark Leyner, Richard Powers, David Foster Wallace,
Chuck Palahniuk, Don DeLillo, Donald Antrim, Tim O’Brien, David Markson,
Bret Easton Ellis, Christopher Sorrentino, Joshua Cohen và William H.
Gass…
Ở đây, chúng tôi xin giới thiệu những tác phẩm hậu hiện đại xuất sắc
bên ngoài nước Mỹ, ngõ hầu chứng minh sự lan rộng của khuynh hướng sáng
tác này.
- The Atrocity Exhibition (Sự phơi bày tàn bạo, 1970) của nhà
văn Anh J. G. Ballard: một quyển tiểu thuyết súc tích, được cắt rời từng
phần và mỗi phần có đời sống riêng. Mỗi chương lại được chia thành
những mảng nhỏ. Không có gì rõ ràng cho thấy đâu là khởi đầu, đâu là kết
thúc, nghĩa là không theo kết cấu của tiểu thuyết thông thường. Nhân
vật chính thay đổi tên trong từng chương hoặc câu chuyện (Talbert,
Traven, Travis hay Talbot…), vai trò và cái nhìn của ông ta về thế giới
cũng liên tục thay đổi…
- Le città invisibili (Những thành phố vô hình,1972) của nhà
văn Ý Italo Calvino: bao gồm những bài thơ tản văn mô tả 55 thành phố do
nhân vật chính (nhà thám hiểm Marco Polo) thể hiện; ngoài ra còn có
những đoạn đối thoại ngắn giữa Marco Polo và hoàng đế Hốt Tất Liệt
(Trung Hoa) xen kẽ mỗi 5-10 thành phố, cho thấy những chủ đề về ngôn ngữ
học, bản chất con người và kiến trúc, không giới hạn qui luật vật lý
hoặc hạn chế của lý thuyết đô thị…
- It’s Me, Eddie (Tôi là Eddie, 1976) của nhà văn Nga Eduard
Limonov : nội dung sách nói về Eddie, một đứa trẻ rời Liên Xô đến nước
Mỹ với ảo tưởng giàu sang, có đàn bà, ma túy và tự do nghệ thuật. Thế
rồi về sau, Eddie lâm vào cảnh nghèo túng, vợ bỏ, rượu chè. Câu chuyện
cho thấy tình yêu và cảm xúc đan xen trong sự buồn chán của công việc và
cuộc sống đô thị. Nhìn chung, tác giả chống tất cả, chống lại cả con
người, còn cách giải quyết chỉ là nước mắt. Văn của Limonov có khuynh
hướng vươn tới mức cuồng loạn của cảm xúc, điều này có là tín hiệu tốt
hay xấu, tất cả tùy thuộc vào người đọc.
- La Vie mode d’emploi (Cuộc sống: phương thức sử dụng, 1978
) của
nhà văn Pháp Georges Perec: một quyển tiểu thuyết phức tạp với những
tình tiết và ý tưởng đan xen nhau, với những ám chỉ lịch sử và văn
chương, dựa trên cuộc sống của cư dân Paris trong chung cư tưởng tượng ở
số 11 đường Simon-Crubellier (con đường không có thật). Cấu trúc tác
phẩm dựa trên một số yếu tố, mỗi yếu tố lại kết hợp với một lớp đa phức.
-
Lanark: A Life in Four Books (Lanark: Cuộc đời trong bốn
quyển sách, 1981) của nhà văn Scotland Alasdair Gray: quyển này được
viết gần 30 năm mới hoàn tất, từng đoạt giải Sách của năm của Saltire
Society và giải David Niven. Tiểu thuyết này bao gồm 4 quyển: quyển 1 và
2 là sách giáo dục nhân cách theo chủ nghĩa thực tế trong giai đoạn đầu
thời tiền chiến Glasgow; quyển 3 nói về một chàng trai tỉnh dậy trong
một toa xe, không còn nhớ quá khứ, phải đặt tên mình theo một bức ảnh
quen thuộc trên tường. Anh ta đến Unthank, nơi đó có một thành phố tưởng
tượng không có ánh sáng ban ngày, cư dân đã biến mất vì bị những bệnh
biểu tượng kỳ lạ; quyển 4 cho thấy nhân vật Lanark bắt đầu cuộc hành
trình trở về Unthank giống như một giấc mơ kỳ quái, với đỉnh điểm của sự
tan vỡ, bị tàn phá do xung đột chính trị, thói hám lợi, sự hoang tưởng,
suy thoái kinh tế mà anh ta không thể ngăn chặn được…
-
Il pendolo di Foucault (Thiết bị quả lắc của Foucault, 1988)
của nhà văn – triết gia Ý Umberto Eco: Tiêu đề sách đề cập đến một con
lắc có thật, do nhà vật lý Pháp Léon Foucault thiết kế để chứng minh sự
quay của trái đất, trong đó có ý nghĩa biểu trưng của sách. Nội dung
quyển này tập trung vào sự huyền bí, nhằm cung cấp cách giải thích riêng
về thuyết âm mưu của một số nhân vật. Trên thực tế, có thể xem quyển
này là một bài phê bình, một sự bịp bợm hoặc giải cấu trúc của những âm
mưu lớn, bao quát toàn bộ thường được tìm thấy trong văn chương hậu hiện
đại.
-
Хазарски речник /
Hazarski rečnik (Từ điển Khazar,
1984) của nhà văn Serbia Milorad Pavić: một tiểu thuyết rất khó nhận ra
cốt truyện theo cách thông thường, câu hỏi trọng tâm của sách (sự chuyển
giáo của người Khazar) dựa trên sự kiện lịch sử những thập niên cuối
thế kỷ 8 hay đầu thế kỷ 9, khi hoàng gia và giới quí tộc Kharar chuyển
sang Do Thái giáo. Phần lớn nhân vật và sự kiện trong sách đều hư cấu,
ngay cả văn hóa của người Kharar (không giống bất kỳ bằng chứng văn học
và khảo cổ nào). Quyển này có hình thức ba quyển bách khoa toàn thư mini
với sự tham chiếu chéo, tổng hợp từ nguồn Hồi giáo, Thiên chúa giáo, Do
Thái giáo; không cho thấy niên đại, mỗi người đọc tự đặt mình vào sách,
giống như chơi bài hay domino và tự rút ra kết luận.
-
Memoirs of Many in One (1986) của nhà văn Úc Patrick White,
người đã đoạt giải Nobel năm 1973. Nội dung sách cho thấy cái nhìn bất
thường trong quá trình sáng tạo, so sánh với hoạt động của người mất trí
vô hại. Nhà văn đã gánh vác vai trò biên tập cho hồi ký tưởng tượng của
Alex Gray, một bà già hơi gàn. Qua ngôn ngữ của bà ta, tác giả cố "khám
phá văn phong đóng kịch, giải thích cuộc sống của bà, vì sao bà có mặt
trên cõi đời này". Với tư cách là người cầm bút, bà già tạo ra nhiều vai
kịch cho bản thân, từ nữ tu sĩ Orthodox Hy Lạp cho tới diễn viên trong
kịch Shakespeare, do đó
Patrick White mới đặt tựa tiểu thuyết của ông là "many in one" (nhiều người trong một).
-
Empire of Dreams (Đế quốc của những giấc mơ, 1988) của nhà
văn Puerto Rico Giannina Braschi: miêu tả một cuộc tình dài suốt thập kỷ
1980 ở New York với tất cả những mâu thuẫn của nó. Sự trụy lạc và đam
mê của thành phố, quyền lực và sự phụ thuộc, sự tráng lệ và nghèo túng
trở thành cuộc sống sôi động trong sách, một màn trình diễn lễ hội lấy
cảm hứng từ Cuộc diễu hành Ngày Puerto Rico, đậm chất hiện thực huyền ảo
kiểu châu Mỹ La Tinh.
-
ねじまき鳥クロニクル (Bản ghi chép chim vặn dây cót, 1995) của
nhà văn Nhật Haruki Murakami: một tiểu thuyết đã từng đoạt giải Văn
chương Yomiuri , gồm có 3 phần, nội dung xoay quanh nhân vật chính Toru
Okada, một người đàn ông trẻ thất nghiệp, tìm kiếm con mèo bị mất tích
của vợ ông. Sau đó ông nhận thấy cũng đang tìm kiếm vợ ông trong cõi âm
ti nằm dưới lòng thành phố Tokyo yên bình. Câu chuyện hư cấu, đậm chất
trinh thám, đầy sự đe dọa xen lẫn hài hước, miêu tả một cuộc hôn nhân
tan vỡ, một cuộc khai quật những bí mật chôn vùi trong Thế chiến II…
-
Astronautilía Hvězdoplavba (1995) của nhà văn Cộng hòa Czech
Jan Křesadlo: một bài thơ sử thi dài 6575 câu lục ngôn trong tiếng Hy
Lạp cổ được dịch song song với thơ lục ngôn Cộng hòa Czech. Câu chuyện
khoa học viễn tưởng hậu hiện đại này được truyền cảm hứng từ định đề
triết lý của vật lý học lượng tử, cho thấy cái gì đó tồn tại cần được
quan sát. Người quan sát trên vũ trụ hóa thân thành con cừu xa lạ. Giết
con cừu đồng nghĩa với kết thúc mọi việc. Con cừu và những người khác bị
một kẻ hung ác tên là Mandys bắt nhốt rồi bị rượt đuổi bởi một lực
lượng biệt kích phản ứng nhanh, thủ lĩnh của bọn này được gọi là Udeis.
Tình tiết câu chuyện có nhiều bất ngờ đối với người đọc.
-
Die Ringe des Saturn: Eine englische Wallfahrt (Những chiếc nhẫn của Saturn: Một cuộc hành hương trên đất Anh
?,
1999) của nhà văn Đức W. G. Sebald: tiểu thuyết nói về nhân vật kể
chuyện không tên (xưng hô ở ngôi thứ nhất) có cuộc hành trình đi bộ
xuyên qua Suffolk, một hạt ở East Anglia, đông bắc nước Anh. Nội dung
cho thấy sự ám chỉ đến hoàng gia Anh trong quá khứ và bản chất của sự
suy tàn, thối nát và mục rửa…
-
Natural Novel (Tiểu thuyết tự nhiên, 1999) của nhà văn
Bungari Georgi Gospodinov: thể hiện sự phân mảnh phức tạp, chứa nhiều
chuyện kể, sự phản chiếu và những chi tiết…lạc đề; bao gồm lịch sử của
những nhà vệ sinh và nghệ thuật viết chữ trên tường (graffiti), một sự
suy tưởng về mối quan hệ giữa bầy ong và ngôn ngữ, một sự thể nghiệm
viết sách bằng cách sử dụng những động từ có một không hai. Quyển này
cho thấy những điều buồn cười khó tin qua sự tan vỡ hôn nhân của nhân
vật chính, sự không chung thủy của vợ hắn với những người bạn thân của
hai vợ chồng và sự mãnh liệt cá nhân, minh họa chân thực cho điều không
tưởng trong đời sống hiện nay.
-
2666 (Bí số 2666, 2004) của nhà văn Chile Roberto Bolaño:
quyển tiểu thuyết có 5 phần: nói về những nhà phê bình văn chương châu
Âu; giáo sư triết học Oscar Amalfitano; nhà báo Mỹ Oscar Fate; những kẻ
giết người hàng loạt ở Santa Teresa; nhà văn bí mật Archimboldi (Hans
Reiter)…tất cả liên kết ở những mức độ khác nhau, đều liên quan tới
những vụ giết hơn 300 người chưa được giải quyết (nạn nhân là những
người nữ Mexico trẻ và nghèo ở Ciudad Juárez (khu vực Santa Teresa trong
tiểu thuyết).
-
Ζ213: ΕΞΟΔΟΣ (Z213: Ra đi, 2009) của nhà văn Hy Lạp Dimitris
Lyacos: một câu chuyện giống như nhật ký cá nhân trong hình thức thơ
tản văn hậu hiện đại, cho thấy những chuyến lang thang của một người đàn
ông trốn khỏi tòa cao ốc như một cơn ác mộng. Nhân dạng của người chạy
trốn hay kẻ rượt đuổi không hề được xác định trong cuộc săn lùng ấy,
không có nguyên nhân nào cho thấy tại sao người chạy trốn lại bị giam
cầm trong tòa cao ốc. Hoàn cảnh lúc đó dường như ám chỉ tình trạng của
một loại cầm quyền chuyên chế theo thuyết vị lai đã suy tàn. Cuộc rượt
đuổi không được miêu tả bằng ngôn ngữ hiện thực, nó có liên quan đến chủ
nghĩa biểu hiện, tạo ra cảm giác sắp bị chết đến nơi, cái có thể nhận
thấy trong hai quyển của bộ tam bi kịch Poena Damni. Ấn tượng chung của
quyển Z213 là gợi nhớ đến cuộc tìm kiếm tâm linh hay kinh nghiệm của
thuyết mạt thế (eschatological experience).
-
Crash (Đâm sầm, 1973) của nhà văn Anh J. G. Ballard: trong
tiểu thuyết ảo giác này, nhân vật chính Vaughan, "một nhà khoa học
truyền hình", bị ám ảnh tình dục qua những tai nạn xe hơi. Gã cho thấy
những hoạt cảnh của địa ngục, những "thiên thần ác mộng trên đường cao
tốc", những thí nghiệm có hành động tàn bạo, gợi dục trong cảnh đụng xe.
Crash là một tiểu thuyết gây tranh cãi, thám hiểm vào sự phiền muộn và
những khả năng đáng sợ của xã hội đương đại. Công nghệ đóng vai trò
trung gian trong mối quan hệ của con người.
Ngoài những tiểu thuyết trên, còn có những tác phẩm nổi bật như
Москва – Петушки (Moscow-Petushki,1970) của Venedikt Erofeev (Nga),
Nikopol Trilogy (1980 – 1993) của Enki Bilal (Pháp),
Mantissa (1982) của John Fowles (Anh) và
Omon Ra (1991) của Victor Pelevin (Nga)…
Lời kết
Cuối thập niên 1990, ý niệm về sự “cáo chung” của chủ nghĩa hậu hiện
đại đã bắt đầu nhen nhúm, hình thành dần, thể hiện qua những bài lý luận
phê bình của một số nhà nghiên cứu phương Tây. Người ta bắt đầu nói
nhiều hơn về “Chủ nghĩa siêu hiện đại” (Metamodernism), “Chủ nghĩa hậu
hậu hiện đại” (Post-postmodernism) hay những khái niệm khác để chỉ giai
đoạn sau chủ nghĩa hậu hiện đại như
Performatism của Raoul Eshelman,
Hypermodernity của Gilles Lipovetsky,
Altermodern của Nicolas Bourriaud hay
Digimodernism (trước đây gọi là
pseudo-modernism) của Alan Kirby…
Dẫu thế nào đi nữa thì văn chương hậu hiện đại vẫn tiếp tục dòng chảy
của mình trên thế giới, cũng giống như kẻ “tiền nhiệm” văn chương hiện
đại vậy. Các khuynh hướng văn chương vẫn tiếp tục chuyển động trong đời
sống tinh thần con người, lớp này bồi lớp trước, đan xen nhau, có thể
được tìm thấy đâu đó trong những tác phẩm của đất nước này hoặc đất nước
kia. Cái lỗi thời hay “has gone out of fashion” chỉ là những cách nói,
chỉ là “dòng ý thức”. Chúng ta hãy chờ xem, giai đoạn kế tiếp của văn
chương hậu hiện đại thực sự là gì…
Vương Trung Hiếu
Nguồn tham khảo chính
1.Fowler, Alastair,1989. The History of English Literature, p. 372 Harvard University Press, Cambridge.
2.Ergodic literature: là thuật ngữ do Espen J. Aarseth tạo ra trong quyển
Cybertext -Perspectives on Ergodic Literature, có nguồn gốc từ hai chữ Hy Lạp:
ergon có nghĩa là
tác phẩm, còn
hodos là
con đường.
3.Wikipedia, 2013. Hyperreality. Truy cập ngày 13 tháng 7 từ
http://en.wikipedia.org/wiki/Hyperreality
4.Wikipedia, 2013. Postmodernism. Truy cập ngày 13 tháng 7 từ
http://en.wikipedia.org/wiki/Postmodern_literature#Technoculture_and_hyperreality
5.Anonymous, 2009. What is cyberpunk? Cyberpunked. Truy cập ngày 14 tháng 7 năm 2013, từ
http://www.cyberpunked.org/cyberpunk/
6.Ketterer, David 1992. Canadian Science Fiction and Fantasy. Indiana University Press. p. 141.
- Wikipedia, 2013. Postmodernism, Postmodernity, Deconstruction,
Structuralism, Post-postmodernism, Postmodern literature,
Intertextuality, Pastiche, Metafiction, Fabulation, Poioumena,
Historiographic metafiction, Temporal distortion, Magic realism,
Technoculture and hyperreality, Paranoia, Maximalism, Minimalism…Truy
cập từ ngày 13 đến 16 tháng 7 năm 2013.
- Postmodernism. Truy cập ngày 14 tháng 9 năm 2013, từ
http://plato.stanford.edu/entries/postmodernism/
- Lyotard, J.-F., 1984. The Postmodern Condition: A Report on
Knowledge, Geoff Bennington and Brian Massumi (trans.), Minneapolis:
University of Minnesota Press.
- Vattimo, Gianni, 1988. The End of Modernity: Nihilism and
Hermeneutics in Postmodern Culture, Jon R. Snyder (trans.), Baltimore:
Johns Hopkins University Press.
- General Introduction to the Postmodern. Truy cập ngày 15 tháng 7 năm 2013, từ
http://www.cla.purdue.edu/english/theory/postmodernism/modules/introduction.html
- Postmodern Literature. Truy cập ngày 15 tháng 7 năm 2013, từ
http://gunn-final.weebly.com/summary.html
- Postmodern Literature. Truy cập ngày 15 tháng 7 năm 2013, từ
http://www.studymode.com/essays/Postmodern-Literature-380594.html
- What is Postmodern Literature? Truy cập ngày 15 tháng 7 năm 2013, từ
http://www.examiner.com/article/what-is-postmodern-literature
- A list of postmodern characteristics. Truy cập ngày 15 tháng 7 năm 2013, từ
http://postmodernblog.tumblr.com/post/106532710/a-list-of-postmodern-characteristics
- Postmodernism. Truy cập ngày 15 tháng 7 năm 2013, từ
http://writershistory.com/index.php?option=com_content&task=category§ionid=4&id=29&Itemid=42
- Postmodernism and SF. Truy cập ngày 15 tháng 7 năm 2013, từ
http://www.sf-encyclopedia.com/entry/postmodernism_and_sf
- Histoire de la littérature française Modernité et postmodernité. Truy cập ngày 16 tháng 7 năm 2013, từ
http://www.la-litterature.com/dsp/dsp_display.asp?NomPage=6_20s_030_postmod
- Postmodernisme. Truy cập ngày 16 tháng 7 năm 2013, từ
http://www.universalis.fr/encyclopedie/postmodernisme/2-litterature/
- Le postmodernisme en littérature. Truy cập ngày 16 tháng 7 năm 2013, từ
http://theses.univ-lyon3.fr/documents/getpart.php?id=lyon3.2009.goilan_l&part=238107
- Introduction au postmodernisme. Truy cập ngày 16 tháng 7 năm 2013, từ
http://e-toile.org/theorie-aide-creation-introduction-au-postmodernisme-33.html
- POSTMODERNISME / Postmodernism. Truy cập ngày 16 tháng 7 năm 2013, từ
http://www.flsh.unilim.fr/ditl/Fahey/POSTMODERNISMEPostmodernism_n.html
Vương Trung Hiếu
Source : damau.org