11/9/13

Thế Anh - Góc nhìn… mù màu!


Thế Anh
Cập nhật: 10:43 GMT - thứ hai, 9 tháng 9, 2013 
Ngẫu nhiên, bài viết của tác giả Nguyễn Quảng lại được BBC xuất bản đúng vào ngày sinh nhật quán cơm 2.000 đồng đầu tiên của nhóm Bấm Người Tôi Cưu Mang lập ra! 


Một quán cơm 2.000 đồng tại Sài Gòn được khai trương năm 2009

Tôi tôn trọng sự khác biệt trong góc nhìn, nhưng dù khác thế nào đi nữa cũng không vượt ra ngoài tính đúng đắn của hiện tượng cũng như những chuẩn mực của nhân loại.
Với bài viết của tác giả Nguyễn Quảng, tôi cho rằng đó là góc nhìn kinh tế học… phát xít, vì nó gạt bỏ con người ra ngoài, nhường chỗ cho toan tính của lợi nhuận. Bởi kinh tế học, tôn giáo, khoa học… mọi thứ cũng chỉ để phục vụ con người sao cho ngày một hạnh phúc và tốt đẹp hơn mà thôi. (Dù đôi lúc người ta vẫn mượn cái vỏ bọc đó để làm điều ngược lại). Hành trang trên con tàu tìm đến hạnh phúc của loài người không thể thiếu sự nhân văn, tình người! Những quán cơm 2.000 đồng không thể là cần câu, cũng không thể là con cá, mà chỉ đơn giản là qua từng phần cơm nhỏ bé đó hy vọng rằng sẽ nuôi dưỡng được cái tình người giữa phố chợ đông đúc.
Điều đáng trách nhất của tác giả Nguyễn Quảng là chưa hiểu gì về quán cơm mà đã… phán! Là một trong nhiều người đầu tiên đưa ra ý tưởng cũng như xây dựng quán cơm 2.000 đồng, tôi xin bày tỏ cùng tác giả mấy điều sau:
Quán cơm 2.000 đồng là một hoạt động từ thiện không thuộc nhà nước, nó là một dạng NGO. Mô hình này đã có ở Sài Gòn trước 1975, những năm 2000 xuất hiện trở lại một vài quán, chỗ thì bán rẻ, chỗ thì cho không. Sau đó một số quán phải ngưng vì nhiều lý do khác nhau. Quán cơm 2.000 đồng đầu tiên ra đời năm 2008 tại Lữ Gia- Tp.HCM, do chị Mai Anh là một thành viên của nhóm Người Tôi Cưu Mang (NTCM) mở ra và quản lý. Ngày 5/9/2009, quán cơm thứ hai do chính nhóm NTCM tổ chức chính thức khai trương. Sau đó mô hình được nhóm nhân rộng tại Cần Thơ và Đà Lạt. Năm 2012, anh Nam Đồng và những người bạn mở thêm vài quán nữa trên địa bàn thành phố…
Tại sao không cho không mà lại là 2.000 đồng? Ý nghĩa của 2.000 đồng là để người nghèo đến ăn không có cảm giác bị bố thí, bởi hơn ai hết chúng tôi hiểu người nghèo cũng có lòng tự trọng của họ. Với 2.000 đồng, chúng tôi luôn nhắc nhở những em sinh viên là tình nguyện viên tại quán hãy xem người nghèo đến ăn là khách hàng, hãy đối xử tử tế với họ.
Duy trì quán cơm để giúp người nghèo có bữa ăn ngon đã khó, nhưng cái khó hơn là bỏ công ra để chuyện trò với họ, để giải tỏa nỗi niềm hay tập cho họ những thói quen văn minh còn khó hơn. Nếu như tác giả Nguyễn Quảng một lần đặt chân đến quán cơm tại địa chỉ 14/1 Ngô Quyền, F5, Q10 thì có lẽ ông đã nghĩ khác. Những mảnh đời khốn khó, tù tội, vô gia cư… đã quen với cuộc sống chụp giật nay bỗng dưng xếp hàng ngay ngắn, biết nhường trẻ nhỏ và người già khi đến quán ăn là một kỳ công của những bạn trẻ tình nguyện nơi đây.
Đã có vài câu hỏi là liệu có những người khá giả đến quán ăn không? Xin thưa rằng có. Nhưng con số đó theo chúng tôi thống kê là không quá 5%. Họ là ai? Trong số đó có không ít là mạnh thường quân, họ đến ăn thử để xem quán phục vụ như thế nào rồi sau đó âm thầm hỗ trợ cho quán.
Có một dạo, ở quán có một thực khách là bà cụ già, nhà ở tận Tân Bình, đều đặn đi xe ôm hết 30 ngàn đồng để đến ăn cơm. Cụ là người có tiền, nhưng con cái đi làm tối ngày, ăn cơm một mình buồn nên cụ đến ăn tại quán để có người trò chuyện. Liệu các bạn có đủ can đảm đuổi bà cụ ra khỏi quán hay không? Rồi chuyện một cô gái giang hồ, suốt ngày chỉ biết nói tiếng… Đan Mạch, nhưng sau 6 tháng ăn ở quán, bằng sự tôn trọng và yêu thương, những người phục vụ đã làm thay đổi hoàn toàn con người này. Cô không còn rượu chè, chửi bới mà biết khoanh tay chào người lớn mỗi khi gặp, sau những giờ đi làm cô lại ghé quán phụ giúp mọi người rửa chén, sơ chế đồ ăn.
Cũng có những bác xe ôm, chị bán ve chai… sau vài lần ghé quán đã tình nguyện rút lui để nhường những phần cơm đó lại cho những người còn nghèo khó hơn mình. Đó là chị Huệ, 20 năm bán ve chai, học ít nhưng câu nói của chị không có mùi… kinh tế học phát xít: “Vô đây mình mới thấy còn nhiều người khổ hơn mình, thôi thì mình còn kiếm được, ra ngoài mua ăn, nhường phần cơm này lại cho người khác xem như là làm phước vậy!” Rồi một chị vô gia cư, là thực khách của quán khi còn bụng mang dạ chửa, nay chị vẫn đến quán cùng con với cảm giác như được về chính ngôi nhà của mình. Tạo cho người nghèo niềm tin vào tình người, được đối xử như những người thân trong những năm tháng xa xứ mưu sinh có thể nào là điều không nên? Tặng cho họ sự vui vẻ, niềm tin để tiếp tục vượt qua khó nhọc trong cuộc sống là con cá hay cần câu?
Ai đến quán thường xuyên thì sẽ thấy thực khách mới xuất hiện thêm khoảng 25 -30% mỗi ngày, trong khi số suất ăn vẫn ổn định ở mức trên dưới 500 phần/một ngày. Vậy số cũ đi đâu? Phải chăng họ đã âm thầm rút lui để nhường cho người khác?
Và tại sao quán cơm chỉ mở mỗi tuần 3 ngày, mỗi ngày chỉ một bữa trưa mà thôi? Với mặt bằng có sẵn, con người có sẵn, nhiều khi chúng tôi cũng đắn đo muốn mở cửa nguyên tuần khi chứng kiến những ông bà cụ ráng ăn thật nhiều vào bữa trưa để chiều khỏi tốn tiền mua cơm. Dù đau xót trước cảnh đó nhưng chúng tôi đã không làm, mà vận động người khác giúp đỡ những hoàn cảnh cụ thể đó. Nếu làm thì chúng tôi vẫn chọn cách mở thêm quán với mỗi tuần 3 bữa trên địa bàn khác với ý nghĩ mỗi nơi ươm một mầm thiện. Và thực lòng mà nói, ngay từ khi mở quán chúng tôi đã mong một ngày sớm nhất quán cơm không còn vai trò của nó nữa. Đó là khi những người khốn khó đã trở thành khách hàng của những nhà hàng sang trọng, khi cuộc đời của họ đã sang trang với tình thương và những nụ cười.
Những người thực hiện như chúng tôi vẫn thường nói vui với nhau rằng: “Lợi nhuận” từ quán cơm mang lại là trên cả mong đợi! Đó là chuỗi giá trị mà hệ thống quán cơm 2.000 đồng đã mang lại cho xã hội này, giá trị không thể giải bằng bài toán kinh tế. Đó là thêm được nhiều nụ cười trên khuôn mặt của người nhận lẫn người cho. Đó là có một sân chơi cho những bạn trẻ tình nguyện để tương lai họ không bị giam hãm trong lòng vị kỷ. Dù rằng, để có “lợi nhuận” đó chúng tôi đã phải nhiều năm lặng lẽ bước đi trước nhiều “góc nhìn khác”, nhức mình trước những bài viết của một vài nhà báo… trẻ con! Nhưng chúng tôi vẫn làm, vì đơn giản chúng tôi có niềm tin vào lòng nhân ái.
Quán cơm 2.000 đồng của nhóm NTCM mở ra không chỉ để làm no cái dạ dày. Mà nó là cơ hội để những người thực hiện nuôi dưỡng lòng nhân cho đời. Với người nghèo, chúng tôi không chỉ cho họ một bữa ăn mà quan trọng hơn là tặng họ một vài phút được đối đãi tử tế vốn là thứ xa xỉ đối với người yếu thế. Bởi chúng tôi tin rằng chỉ có sự tôn trọng, tình yêu thương thật sự mới gieo được hạt mầm yêu thương ở mảnh đất khô cằn trong những mảnh đời không may mắn.
Còn với những người có khả năng lo một bữa cơm ngoài chợ nhưng vẫn đến ăn cơm 2.000 đồng, chúng tôi xem họ là đối tượng cần phải cưu mang về suy nghĩ chứ không phải áo cơm! Chúng tôi vẫn tiếp đón họ với một hy vọng rằng qua trò chuyện, qua sự tử tế, tôn trọng họ sẽ thay đổi để sống biết chia sẻ hơn.
Điều nhẫn tâm nhất là tác giả nhìn ở góc độ kinh tế để rồi xem những người nghèo khó như thứ ung nhọt cần gạt ra và vứt đi trong xã hội này. Còn về những khía cạnh khác, đã có nhiều bài phân tích, thiết nghĩ tôi không cần phải nói thêm.
Chỉ mong rằng, những quán cơm 2.000 đồng tiếp theo nếu ra đời vẫn giữ được những tiêu chí mà những người đầu tiên tạo dựng ra nó. Và cũng mong rằng, những người làm từ thiện ở Việt Nam hãy hợp sức lại để cùng nhau làm tốt hơn. Kiểu nhà nhà làm từ thiện, nhà nhà mở quán cơm là điều không nên… Chúng tôi từng nghĩ, người Nhật nổi tiếng về sự đúng giờ, người Đức nổi tiếng về sự chính xác, vậy tại sao Việt Nam không thể xuất khẩu tình người?!
Kính thưa tác giả Nguyễn Quảng! Chúng tôi vẫn ấp ủ một ngày nào đó trên phần cơm 2.000 đồng cho người nghèo có đính thêm một bông hoa làm từ cà rốt hay cà chua, quán được trang trí đẹp hơn, lại thêm cả nhạc nữa. Và có thể, lại thêm một ly nước ép trái cây... Bởi chúng tôi nghĩ người nghèo cũng có đủ đầy quyền của một con người! Khi đó ông đừng nói chúng tôi lại cạnh tranh với nhà hàng 5 sao nhé!
Trong thế giới muôn màu muôn vẻ của chúng ta, thân phận con người đang được rải đều trên một phổ rất rộng, nhiều kẻ may mắn giàu sang nhưng cũng lắm kẻ bần hàn. Có người vừa sinh ra đôi mắt đã chìm trong bóng tối, có người thất bại liên tiếp dù đã hết sức vươn lên, cũng có người lâm vào cảnh cơ hàn do bởi chính lỗi của họ… Nhưng dù gì đi nữa, một khi họ đang ở trong hoàn cảnh ngặt nghèo, chúng tôi vẫn đi về phía họ.
Càng đến gần chúng tôi càng thấy, dường như trong những bóng dáng khắc khổ ấy có hình ảnh của cha, mẹ, anh chị em và con cái chúng tôi. Càng đến gần chúng tôi càng nhận ra rằng để giúp đỡ họ, một nhóm nhỏ như chúng tôi là không thể làm nổi.
Trang web Người Tôi Cưu Mang được lập ra là để quy tụ nhiều người cùng chung ý nghĩ giúp người. Quán cơm 2.000 đồng lập ra đã tập họp được những trái tim biết yêu thương và sẵn lòng chia sẻ, ai cũng muốn góp bàn tay nhỏ nhắn của mình để lan tỏa tình thương, lan tỏa lòng nhân ái.
Bài viết của tác giả Nguyễn Quảng tất nhiên không thể lay chuyển quyết tâm của những người đang có niềm tin vào lòng tốt của con người, nhưng nó có thể gây hại cho những bạn còn đang phân vân giữa ngã ba đường, khi bước chân chưa dứt khoát tiến về phía của lòng vị tha. Một lực kéo nhỏ thôi cũng làm cho họ đi về phía vị kỷ. Vì thế, tôi nói bài viết này mô tả một góc nhìn của cá nhân và đó là một góc nhìn nguy hiểm.
Và cuối cùng, bằng sự chân thành, tôi kính mời ông Nguyễn Quảng hãy một lần đến quán để chúng tôi được phục vụ.

Bài viết nêu quan điểm riêng của tác giả, thành viên Ban quản trị trang web www.nguoitoicuumang.com, nhóm khởi xướng mô hình quán cơm 2.000 đồng.


Source ; BBC (tieng Viet )

10/9/13

Remarks by the President in Address to the Nation on Syria



 
The White House
Office of the Press Secretary

Remarks by the President in Address to the Nation on Syria

East Room

9:01 P.M. EDT
THE PRESIDENT:  My fellow Americans, tonight I want to talk to you about Syria -- why it matters, and where we go from here.
Over the past two years, what began as a series of peaceful protests against the repressive regime of Bashar al-Assad has turned into a brutal civil war.  Over 100,000 people have been killed.  Millions have fled the country.  In that time, America has worked with allies to provide humanitarian support, to help the moderate opposition, and to shape a political settlement.  But I have resisted calls for military action, because we cannot resolve someone else’s civil war through force, particularly after a decade of war in Iraq and Afghanistan.
The situation profoundly changed, though, on August 21st, when Assad’s government gassed to death over a thousand people, including hundreds of children.  The images from this massacre are sickening:  Men, women, children lying in rows, killed by poison gas.  Others foaming at the mouth, gasping for breath.  A father clutching his dead children, imploring them to get up and walk.  On that terrible night, the world saw in gruesome detail the terrible nature of chemical weapons, and why the overwhelming majority of humanity has declared them off-limits -- a crime against humanity, and a violation of the laws of war.
This was not always the case.  In World War I, American GIs were among the many thousands killed by deadly gas in the trenches of Europe.  In World War II, the Nazis used gas to inflict the horror of the Holocaust.  Because these weapons can kill on a mass scale, with no distinction between soldier and infant, the civilized world has spent a century working to ban them.  And in 1997, the United States Senate overwhelmingly approved an international agreement prohibiting the use of chemical weapons, now joined by 189 governments that represent 98 percent of humanity.
On August 21st, these basic rules were violated, along with our sense of common humanity.  No one disputes that chemical weapons were used in Syria.  The world saw thousands of videos, cell phone pictures, and social media accounts from the attack, and humanitarian organizations told stories of hospitals packed with people who had symptoms of poison gas.
Moreover, we know the Assad regime was responsible.  In the days leading up to August 21st, we know that Assad’s chemical weapons personnel prepared for an attack near an area where they mix sarin gas.  They distributed gasmasks to their troops.  Then they fired rockets from a regime-controlled area into 11 neighborhoods that the regime has been trying to wipe clear of opposition forces.  Shortly after those rockets landed, the gas spread, and hospitals filled with the dying and the wounded.  We know senior figures in Assad’s military machine reviewed the results of the attack, and the regime increased their shelling of the same neighborhoods in the days that followed.  We’ve also studied samples of blood and hair from people at the site that tested positive for sarin.
When dictators commit atrocities, they depend upon the world to look the other way until those horrifying pictures fade from memory.  But these things happened.  The facts cannot be denied. The question now is what the United States of America, and the international community, is prepared to do about it.  Because what happened to those people -- to those children -- is not only a violation of international law, it’s also a danger to our security.
Let me explain why.  If we fail to act, the Assad regime will see no reason to stop using chemical weapons.  As the ban against these weapons erodes, other tyrants will have no reason to think twice about acquiring poison gas, and using them.  Over time, our troops would again face the prospect of chemical warfare on the battlefield.  And it could be easier for terrorist organizations to obtain these weapons, and to use them to attack civilians. 
If fighting spills beyond Syria’s borders, these weapons could threaten allies like Turkey, Jordan, and Israel.  And a failure to stand against the use of chemical weapons would weaken prohibitions against other weapons of mass destruction, and embolden Assad’s ally, Iran -- which must decide whether to ignore international law by building a nuclear weapon, or to take a more peaceful path.
This is not a world we should accept.  This is what’s at stake.  And that is why, after careful deliberation, I determined that it is in the national security interests of the United States to respond to the Assad regime’s use of chemical weapons through a targeted military strike.  The purpose of this strike would be to deter Assad from using chemical weapons, to degrade his regime’s ability to use them, and to make clear to the world that we will not tolerate their use. 
That's my judgment as Commander-in-Chief.  But I’m also the President of the world’s oldest constitutional democracy.  So even though I possess the authority to order military strikes, I believed it was right, in the absence of a direct or imminent threat to our security, to take this debate to Congress.  I believe our democracy is stronger when the President acts with the support of Congress.  And I believe that America acts more effectively abroad when we stand together. 
This is especially true after a decade that put more and more war-making power in the hands of the President, and more and more burdens on the shoulders of our troops, while sidelining the people’s representatives from the critical decisions about when we use force.
Now, I know that after the terrible toll of Iraq and Afghanistan, the idea of any military action, no matter how limited, is not going to be popular.  After all, I've spent four and a half years working to end wars, not to start them.  Our troops are out of Iraq.  Our troops are coming home from Afghanistan.  And I know Americans want all of us in Washington
-- especially me -- to concentrate on the task of building our nation here at home:  putting people back to work, educating our kids, growing our middle class.
It’s no wonder, then, that you're asking hard questions.  So let me answer some of the most important questions that I've heard from members of Congress, and that I've read in letters that you've sent to me.
First, many of you have asked, won’t this put us on a slippery slope to another war?  One man wrote to me that we are “still recovering from our involvement in Iraq.”  A veteran put it more bluntly:  “This nation is sick and tired of war.”
My answer is simple:  I will not put American boots on the ground in Syria.  I will not pursue an open-ended action like Iraq or Afghanistan.  I will not pursue a prolonged air campaign like Libya or Kosovo.  This would be a targeted strike to achieve a clear objective:  deterring the use of chemical weapons, and degrading Assad’s capabilities.
Others have asked whether it's worth acting if we don’t take out Assad.  As some members of Congress have said, there’s no point in simply doing a “pinprick” strike in Syria.
Let me make something clear:  The United States military doesn’t do pinpricks.  Even a limited strike will send a message to Assad that no other nation can deliver.  I don't think we should remove another dictator with force -- we learned from Iraq that doing so makes us responsible for all that comes next.  But a targeted strike can make Assad, or any other dictator, think twice before using chemical weapons.
Other questions involve the dangers of retaliation.  We don’t dismiss any threats, but the Assad regime does not have the ability to seriously threaten our military.  Any other retaliation they might seek is in line with threats that we face every day.  Neither Assad nor his allies have any interest in escalation that would lead to his demise.  And our ally, Israel, can defend itself with overwhelming force, as well as the unshakeable support of the United States of America.
Many of you have asked a broader question:  Why should we get involved at all in a place that's so complicated, and where  -- as one person wrote to me -- “those who come after Assad may be enemies of human rights?”
It’s true that some of Assad’s opponents are extremists.  But al Qaeda will only draw strength in a more chaotic Syria if people there see the world doing nothing to prevent innocent civilians from being gassed to death.  The majority of the Syrian people -- and the Syrian opposition we work with -- just want to live in peace, with dignity and freedom.  And the day after any military action, we would redouble our efforts to achieve a political solution that strengthens those who reject the forces of tyranny and extremism.
Finally, many of you have asked:  Why not leave this to other countries, or seek solutions short of force?  As several people wrote to me, “We should not be the world’s policeman.”
I agree, and I have a deeply held preference for peaceful solutions.  Over the last two years, my administration has tried diplomacy and sanctions, warning and negotiations -- but chemical weapons were still used by the Assad regime.
However, over the last few days, we’ve seen some encouraging signs.  In part because of the credible threat of U.S. military action, as well as constructive talks that I had with President Putin, the Russian government has indicated a willingness to join with the international community in pushing Assad to give up his chemical weapons.  The Assad regime has now admitted that it has these weapons, and even said they’d join the Chemical Weapons Convention, which prohibits their use. 
It’s too early to tell whether this offer will succeed, and any agreement must verify that the Assad regime keeps its commitments.  But this initiative has the potential to remove the threat of chemical weapons without the use of force, particularly because Russia is one of Assad’s strongest allies.
I have, therefore, asked the leaders of Congress to postpone a vote to authorize the use of force while we pursue this diplomatic path.  I’m sending Secretary of State John Kerry to meet his Russian counterpart on Thursday, and I will continue my own discussions with President Putin.  I’ve spoken to the leaders of two of our closest allies, France and the United Kingdom, and we will work together in consultation with Russia and China to put forward a resolution at the U.N. Security Council requiring Assad to give up his chemical weapons, and to ultimately destroy them under international control.  We’ll also give U.N. inspectors the opportunity to report their findings about what happened on August 21st.  And we will continue to rally support from allies from Europe to the Americas -- from Asia to the Middle East -- who agree on the need for action. 
Meanwhile, I’ve ordered our military to maintain their current posture to keep the pressure on Assad, and to be in a position to respond if diplomacy fails.  And tonight, I give thanks again to our military and their families for their incredible strength and sacrifices.
My fellow Americans, for nearly seven decades, the United States has been the anchor of global security.  This has meant doing more than forging international agreements -- it has meant enforcing them.  The burdens of leadership are often heavy, but the world is a better place because we have borne them. 
And so, to my friends on the right, I ask you to reconcile your commitment to America’s military might with a failure to act when a cause is so plainly just.  To my friends on the left, I ask you to reconcile your belief in freedom and dignity for all people with those images of children writhing in pain, and going still on a cold hospital floor.  For sometimes resolutions and statements of condemnation are simply not enough.
Indeed, I’d ask every member of Congress, and those of you watching at home tonight, to view those videos of the attack, and then ask:  What kind of world will we live in if the United States of America sees a dictator brazenly violate international law with poison gas, and we choose to look the other way?
Franklin Roosevelt once said, “Our national determination to keep free of foreign wars and foreign entanglements cannot prevent us from feeling deep concern when ideals and principles that we have cherished are challenged.”  Our ideals and principles, as well as our national security, are at stake in Syria, along with our leadership of a world where we seek to ensure that the worst weapons will never be used.
America is not the world’s policeman.  Terrible things happen across the globe, and it is beyond our means to right every wrong.  But when, with modest effort and risk, we can stop children from being gassed to death, and thereby make our own children safer over the long run, I believe we should act.  That’s what makes America different.  That’s what makes us exceptional.  With humility, but with resolve, let us never lose sight of that essential truth. 
Thank you.  God bless you.  And God bless the United States of America.
END                    9:17 P.M. EDT

Trí thức và cách mạng – Nhà thơ Syria Adonis trả lời phỏng vấn




Tháng 9 9, 2013

Phạm Thị Hoài dịch và giới thiệu

Trước một biển thông tin về Nội chiến Syria và Mùa Xuân Ả-rập, càng đọc càng bối rối, với kiến thức ít ỏi về khu vực thế giới vốn xa lạ với người Việt này tôi tìm tư vấn ở Adonis, một trí thức Syria khả kính, được coi là nhà thơ Ả-rập đương đại quan trọng nhất hiện còn sống, ứng viên thường trực cho Giải Nobel Văn chương, người không ngừng chất vấn cả văn hóa và xã hội Ả-rập truyền thống lẫn văn hóa và xã hội phương Tây hiện đại. Song khóa tư vấn mà tôi theo đuổi từ nhiều tháng nay lại đặt ra những câu hỏi mới, trong đó nổi bật lên chủ đề “Trí thức và Cách mạng”.
Adonis (sinh năm 1930, sống lưu vong tại Paris) viết cho một cột thường kì trên Al-Hayat, tờ báo hàng đầu của khu vực Ả-rập, tập hợp nhiều trí thức Ả-rập cởi mở. Uy tín và trọng lượng tinh thần của ông khiến không chỉ những nhận định mà trước hết là thái độ của ông trước những biến đổi rung   chuyển thế giới Ả-rập từ gần ba năm nay được đặc biệt chú ý. Thái độ ấy,  tóm tắt thật ngắn gọn như sau: Từ chỗ dè dặt bày tỏ cảm tình với Mùa Xuân Ả-rập, ông chuyển dần sang hoài nghi, cảnh báo, phê phán và gần đây nhất, ông tuyên bố thẳng là mình không đứng về phía “cách mạng”, tức quân nổi dậy tại Syria. Thậm chí còn có dư luận rằng ông bênh vực nhà độc tài Assad. Có vẻ như Adonis không phải là trường hợp cá biệt. Phần lớn các trí thức và văn nghệ sĩ Ả-rập đã thành danh  và không còn trẻ, những người từng đi đầu, từng là những nhân vật nổi loạn trong văn hóa và nghệ thuật, từng có ảnh hưởng mạnh mẽ trong đời sống tinh thần ở các quốc gia khu vực này, nay dường như không theo kịp tốc độ của các sự kiện chính trị đang diễn ra. Hầu như không một ai trong số họ đóng một vai trò nổi bật trong Mùa Xuân Ả-rập. Họ không nói cùng ngôn ngữ của các nhà cách mạng trẻ tuổi và khó đi cùng cuộc cách mạng này.
Ở trường hợp Maxim Gorky , người cũng có một quan hệ đầy xung đột với một cuộc cách mạng chống lại ách chuyên chế: Cách mạng tháng Mười Nga, lịch sử cuối cùng đã trả lời nhiều câu hỏi quan trọng cho những kẻ hậu sinh. Còn ở trường hợp Adonis, lịch sử đang quá bận với chính nó. Nhưng bản thân các vấn đề từ Ả-rập xa lạ lại gần với những câu hỏi trong bối cảnh chính trị Việt Nam đến bất ngờ. Vì thế tôi giới thiệu bài phỏng vấn Adonis trên tờ Frankfurter Allgemeine Zeitung (FAZ) sau đây, để nhường suy ngẫm cho người đọc.
Người dịch
_________________
FAZ: Khi Mùa Xuân Ả-rập bắt đầu, ông có nói rằng: “Tôi không thể tham gia một cuộc cách mạng xuất phát từ thánh đường Hồi giáo. Cái đó chẳng liên quan gì đến tự do và dân chủ.” Sao ông bi quan thế?
Adonis: Không phải bi quan, mà thực tế là như vậy. Nếu hệ thống chính trị được dựng trên một nền tảng tôn giáo thì đó không phải là dân chủ. Hoặc chúng ta theo dân chủ và sống trong tự do, hoặc chúng ta theo tôn giáo. Tôi chọn cái thứ nhất – dân chủ và tự do. Nhưng thế không có nghĩa là tôi chống tôn giáo. Tôi rất tôn trọng cái tín ngưỡng mà cá nhân mỗi người thực hành từ xác tín của riêng mình. Nhưng khi chúng ta phải tuân phục tôn giáo như một thiết chế thì đó là độc tài. Bởi lẽ, còn có những người không theo tôn giáo nào hay theo một tôn giáo khác. Một xã hội lấy luật lệ tôn giáo làm nền tảng, theo tôi là một nền độc tài. Thậm chí còn tồi tệ hơn chế độ độc tài quân sự.
Độc tài tôn giáo và độc tài quân sự khác nhau ở điểm nào?
Độc tài quân sự kiểm soát bộ óc và tư duy chính trị của ta. Thế đã là tệ lắm rồi. Nhưng độc tài tôn giáo thì kiểm soát bộ óc, trái tim, tâm hồn và cả thân thể ta, tức toàn bộ cuộc đời ta. Hiển nhiên cả hai kiểu độc tài này đều phi dân chủ.
Có nghĩa là khi tôn giáo thực thi quyền lực chính trị và quyền lực nhà nước thì nó phi dân chủ?
Còn tệ hơn thế. Không chỉ phi dân chủ mà đơn giản là bất công. Tôn giáo bắt mọi nhóm trong xã hội phải chấp hành những nghĩa vụ như nhau, nhưng lại không cho hưởng những quyền lợi giống nhau. Ví dụ, vì sao theo luật lệ Hồi giáo thì một người đàn ông Hồi giáo được phép cưới một phụ nữ Thiên chúa giáo, nhưng một người đàn ông Thiên chúa giáo lại phải cải đạo theo Hồi giáo mới được cưới một phụ nữ Hồi giáo? Vì sao ở những nước đậm nét Hồi giáo hoặc Hồi giáo thống trị thì người Hồi giáo được đảm nhiệm chức bộ trưởng hay những chức vụ quan trọng khác, còn người Thiên chúa giáo thì không? Ở một số quốc gia nhất định, cái quyền đó chỉ thuộc về người Hồi giáo. Đó là cưỡng hiếp, là xử tử quyền công dân. Nếu quyền lực chính trị dựa duy nhất vào tôn giáo và xã hội được cai trị nhân danh tôn giáo thì mọi quyền dân sự bị vô hiệu hóa. Tín đồ Hồi giáo khẳng định rằng đạo Hồi là bảo hiểm cho tự do. Nhưng tôn giáo không bảo đảm và cũng chẳng bảo hiểm tự do cho bất kì ai, tuyệt đối không có ngoại lệ! Chức năng ấy chỉ thuộc về Tuyên ngôn Nhân quyền, và chỉ một Hiến pháp mới bảo đảm cho tôi quyền tự do của tôi mà thôi. Nền dân chủ ở các nước Ả-rập chỉ có thể đạt được bằng những quyền lực nhà nước thế tục và dân sự, trên cơ sở bình đẳng về quyền công dân và tách nhà nước khỏi nhà thờ.
Vậy giải pháp là tách nhà nước khỏi nhà thờ?
Đương nhiên. Không tách ra như vậy thì không thể xây dựng một xã hội hiện đại. Nếu mục tiêu là thiết lập một xã hội “Ả-rập” tự do và dân chủ thì mọi nhóm thiểu số và bất đồng chính kiến đều phải được thừa nhận vô điều kiện. Chỉ như vậy mới tạo lập được một xã hội tiến bộ và hội nhập với thế giới. Tách nhà nước khỏi nhà thờ không phải là chống đức tin của mỗi cá nhân. Mỗi người đều có quyền tín ngưỡng, đó là tự do cá nhân. Trong chế độ dân chủ, tự do cá nhân phải được tôn trọng.
Xã hội Ả-rập hiện tại có thích hợp cho việc tách nhà nước khỏi nhà thờ không?
Đáng tiếc là không. Nhưng đó là hiện thực.
Vì sao?
Vì những xã hội này vẫn tiếp tục nói tiếng nói của những triều đại Caliphate và nguyên lí chinh phục vẫn tồn tại. Chỉ riêng cái cách phân một xã hội thành đa số và thiểu số theo quan niệm tôn giáo đã cho thấy các cấu trúc phi dân chủ của nó.
Đã bao giờ xã hội Ả-rập trải qua một chế độ dân chủ trong lịch sử chưa?
Chưa bao giờ. Từ 1500 năm nay người Ả-rập chúng tôi giậm chân tại chỗ. Trong mười lăm thế kỉ ấy, khát vọng chủ đạo của chúng tôi là giành quyền lực chính trị mà không hề đếm xỉa đến những biến đổi theo hướng tiến bộ xã hội. Thay nhân sự ở thượng tầng quyền lực, nhưng đổi nền móng thì không. Chẳng ai thử xoay chuyển xã hội. Chẳng ai tìm đường cải thiện những phát triển trong văn hóa và xã hội. Chẳng ai tìm kiếm những khả năng biến một người Ả-rập thành một con người hiện đại.
Phong trào được mệnh danh là Mùa Xuân Ả-rập không phải là bước mở đầu cho tiến trình dân chủ hóa xã hội hay sao?
Sau chính biến, có thể chúng tôi sẽ có một chính phủ ít tàn bạo hơn chính phủ trước hoặc chỉ đơn thuần là có vẻ ít tệ hại hơn. Vì thế mà tôi phải nhấn mạnh rằng không thể có dân chủ với một hệ thống dựa trên tôn giáo.
Phe đối lập ở Syria đòi tự do và dân chủ. Một số người cũng đưa ý tưởng về xã hội dân sự ra để thảo luận. Đó không phải là viên gạch xây nên một xã hội dân sự hiện đại hay sao?
Những chuyện đang được bàn luận trong xã hội Ả-rập đó không có ý nghĩa gì hết. Phe giải phóng thậm chí chưa bao giờ nhắc đến khái niệm “tách nhà nước khỏi nhà thờ” trong các cương lĩnh chính trị của họ. Một khái niệm mà cũng sợ thì cách mạng cái nỗi gì?
Tổ chức Huynh đệ Hồi giáo có tuyên bố rằng hòm phiếu sẽ quyết định, ai sẽ cầm quyền ở đất nước này trên nền tảng dân chủ. Tuyên bố ấy khả tín đến mức nào?
Hoàn toàn không. Họ có chấp nhận để một người Thiên chúa giáo lên làm Tổng thống Syria không? Họ có chấp nhận một Tổng thống Ai Cập theo Thiên chúa Coptic không? Không. Vì cái giáo điều phân chia xã hội thành đa số và thiểu số tôn giáo vẫn ngự trị trong não trạng họ.
Nhưng trong chế độ dân chủ thì mọi chính đảng đều có thể ra ứng cử.
Tôi tán thành tuyển cử tự do và tôi tôn trọng chế độ dân chủ. Tôi sẽ đi bỏ phiếu, nhưng tất nhiên là không bầu cho Huynh đệ Hồi giáo. Tôi cực lực phản đối việc họ gây ảnh hưởng trong chính trị. Đáng tiếc là trong một số trường hợp, bầu cử dân chủ không phải là giải pháp, vì số đông cũng có thể chuyên chế, ngay cả khi nó giành được chính quyền nhờ bầu cử tự do, hãy xem trường hợp Hitler.
Tín đồ Thiên chúa và các nhóm tôn giáo khác ở Syria đứng ở vị trí nào trong cuộc cách mạng này? Ông bị coi là người ủng hộ chế độ Assad?
Tôi phản đối sự quy chụp đó. Hơn nữa, nếu phải tham gia cách mạng thì họ tham gia với tư cách những công dân chứ không phải như những tín đồ Thiên chúa. Nhưng nghĩa vụ đó nằm ở thái độ của bản thân họ, dù họ là người Thiên chúa giáo, người Alawite, người Druze hay ai khác. Chính họ nên chống lại việc phân biệt, chẳng hạn giữa các nhà cách mạng Hồi giáo và các nhà cách mạng Thiên chúa giáo. Trong Hội đồng Quốc gia hoặc trong Liên minh Quốc gia, những người Thiên chúa giáo nên lấy tư cách đại diện cho nhân dân Syria chứ không phải đại diện riêng cho tín đồ Thiên chúa. Lời kêu gọi tham gia cách mạng với tư cách một thiểu số tôn giáo – trong thực tế – chẳng khác gì một sự kì thị.
Trí thức Ả-rập nói chung có đóng vai trò gì trong biến chuyển này không?
Tất nhiên là có. Những điều đang diễn ra tại Syria và các nước Ả-rập khác đều hình thành từ những ý tưởng, nguyện vọng và hình dung về một cuộc sống tốt đẹp hơn. Những ý tưởng đó không bỗng nhiên tuôn ra. Nhiều nhà văn và trí thức Ả-rập đã lên tiếng cho tự do và dân chủ. Nhờ đó mới có một phong trào xuất phát từ bối cảnh chính trị.
Vì sao ông không đứng về phía cách mạng?
Cuộc cách mạng hiện tại này thì làm sao tôi ủng hộ được? Thử hỏi, cương lĩnh chính trị của nó là gì? Lúc đầu, nó là cuộc cách mạng đòi tự do dân chủ, diễn ra trong hòa bình. Bây giờ thì nó đầy bạo lực. Nó đã trở thành một cuộc bạo loạn vũ trang. Trong hàng ngũ cách mạng có lính đánh thuê từ đủ thứ quốc gia Hồi giáo khác nhau. Còn vũ khí thì do Qatar, Ả-rập Saudi và Hoa Kỳ cung cấp. Nó không còn là cách mạng. Nó chỉ là một tập hợp những nhóm bạo loạn riêng lẻ muốn lật đổ chính quyền. Làm sao tôi có thể ủng hộ cái thứ đó được?
Còn vai trò của phương Tây trong Khủng hoảng Syria hiện tại?
Trong vụ này, phương Tây xử sự như một kẻ hoàn toàn không biết gì. Phương Tây không thiếu chuyên gia và nhà tư vấn, nhưng họ không thật sự đóng góp để làm sáng tỏ hiện trạng. Họ chỉ đưa ra những thông tin bề mặt. Đây là tôi đang nói về lĩnh vực chính trị. Nhiều trí thức phương Tây nắm vững tình hình chính trị, nhưng họ không phải là những người ra quyết định. Thêm vào đó, trước hết là trong những vấn đề chính trị nhưng trong cả những vấn đề văn hóa cũng vậy, phương Tây đối xử với các nước Ả-rập và với Hồi giáo không mấy tương kính. Hiện nay phương Tây đang rơi vào khủng hoảng kinh tế. Và phần lớn các nước Ả-rập đều giầu. Cho nên phương Tây sẽ làm tất cả để giải quyết các vấn đề kinh tế của mình, dù có phải vi phạm những thành tựu văn hóa, những nguyên tắc dân chủ và nhân quyền của mình.
Vì sao cho đến nay vẫn chưa có một giải pháp chính trị nào?
Có một số thế lực, cả bên trong lẫn bên ngoài, phản đối một giải pháp chính trị. Vì thế mà bạo lực leo thang. Phe cách mạng là những người đầu tiên phản đối một giải pháp chính trị. Họ được tài trợ bằng tiền của một số quốc gia không hề muốn cảnh bạo loạn ở Syria kết thúc. Một số thế lực bên ngoài muốn thấy xã hội Syria bị tàn phá, đất nước Syria bị suy yếu vì kiệt quệ nguồn nhân lực và tài lực. Một số quốc gia còn hô hào phải can thiệp bằng quân sự để Syria suy yếu. Bởi lẽ, một đất nước bị suy yếu và chia cắt thì không có gì để ra điều kiện bên bàn đàm phán. Nó phải chấp nhận áp đặt của kẻ khác.
Vậy là có khả năng rằng Syria sẽ bị chia thành nhiều nước?
Mọi thứ đều có thể. Nó phụ thuộc vào vai trò của các cường quốc thế giới ở Syria.
Một số nước phương Tây đang đe là sẽ can thiệp quân sự vào Syria.
Tôi không tin điều đó sẽ xảy ra. Syria là một tổng thể phức tạp: Ả-rập Saudi, Qatar và Thổ Nhĩ Kì muốn nhân danh một chế độ Hồi giáo ôn hòa để tập hợp cả một loạt quốc gia từ Maroc đến Pakistan dưới trướng Hồi giáo Sunni. Từ đó sẽ hình thành một vùng thống nhất mới, trải dài từ Địa Trung Hải, qua Caucasus đến tận biên giới Nga. Hệ quả sẽ là, một mặt cô lập được Nga, mặt khác ngăn chặn được ảnh hưởng của Hồi giáo Shia. Ngoài ra còn công cụ hóa được cả người Hồi giáo ở Nga và ở Trung Quốc. Còn Nga và Trung Quốc thì lại theo đuổi những quyền lợi riêng ở Syria. Xung đột ở đây vì thế hết sức phức tạp. Syria giáp với Thổ, Địa Trung Hải, Lebanon, Israel, Jordan và Iraq. Từ đây cũng có thể tiến thẳng vào các vùng của người Kurd. Ả-rập Saudi, các nước vùng Vịnh Ba Tư, Iran về hướng Trung Á, Ai Cập về hướng châu Phi cũng như Đảo Cyprus và Hy Lạp về hướng châu Âu đều không xa. Nếu can thiệp quân sự xảy ra, có khả năng Syria sẽ rơi vào tay các thế lực thánh chiến Hồi giáo. Họ sẽ gây ảnh hưởng với toàn bộ những khu vực vừa kể. Phương Tây có thực sự chịu chấp nhận như vậy không? Tôi tin là không.

Nguồn: FAZ, 28-8-2013. Nhan đề của người dịch.

       Bản tiếng Việt © 2013 pro&contra

8/9/13

Phạm Chí Dũng- Thời điểm “Minsky” cho Việt Nam?



Thời điểm “Minsky” cho Việt Nam?
Tác giả: Phạm Chí Dũng

Tỷ phú hay hóa rồng?
Gần như ngay sau vụ giám đốc doanh nghiệp nhà Vĩnh Hưng bị bắt giữ ở Hà Nội, một trong những đầu tàu bất động sản của Việt Nam là ông Đoàn Nguyên Đức lại khoét thêm một lát cắt vào vết thương hoại tử đang ngoác rộng của thị trường địa ốc quốc gia này, với việc lần đầu tiên thừa nhận công khai về Tập đoàn Hoàng Anh Gia Lai sẽ “say goodbye” miền đất đã từng làm nhiều đại gia được ních chặt túi.


Báo chí Việt một lần nữa có được đề tài để bàn luận, lồng trong không khí rệu rã của thị trường bất động sản thời suy thoái. Tuy thế, ngay cả tiếng nói của những nhà báo vụ lợi nhất cũng như buồn thảm: trước đó, người ta đã viết và PR quá nhiều, quá đậm cho sự hồi phục của thị trường, nhưng cho đến giờ vẫn chưa có bất kỳ dấu hiệu khả quan nào cho chế độ tiêu thụ căn hộ tồn kho.
Chế độ chính sách đặc thù và đặc lợi dành cho nhóm lợi ích bất động sản và các ngân hàng đang ôm hàng tồn kho căn hộ cũng vì thế đang trở nên vơi cạn ý nghĩa thiết thân về quyền lực và chỗ đứng trong lòng người tiêu dùng.

Giờ đây, người được giới cuồng nhiệt bóng đá quen gọi là bầu Đức lại chuyển sang tìm kiếm một hứa hẹn nào đó ở miền đất dân chủ còn phôi thai là Myanmar. Có vẻ bỏ mặc các khoản nợ chồng chất bị đóng kín trong sổ sách kế toán ở những ngân hàng ruột rà như BIDV, Vietcombank, Sacombank, ông Đoàn Nguyên Đức chính thức bị dư luận xã hội xem là “bỏ của chạy lấy người”.

Thực tồn mà phải đối diện đang khác xa hai năm trước – vào lúc bầu Đức còn hăng hái đưa ra tuyên bố chậm nhất đến năm 2014 sẽ trở thành tỷ phú đô la, hay các chính khách vẫn mơ muộn nhất đến năm 2015 Việt Nam sẽ “hóa rồng”.

2014?
Mới cuối năm 2012, người đứng đầu của Tập đoàn Hoàng Anh Gia Lai còn tỏ ra lạc quan về triển vọng của các dự án cao su và thủy điện. Nhưng đến giữa năm 2013, Hoàng Anh Gia Lai đột ngột tuyên bố sẽ không còn quá tập trung vào các dự án thủy điện nữa, bán một phần và chỉ giữ lại phần nhỏ hơn… Thậm chí, Hoàng Anh Gia Lai còn dự kiến “hy sinh” những dự án thủy điện mà theo đúng kế hoạch, năm nay bắt đầu hái quả.
Tất nhiên, lời giải thích của ông Đoàn Nguyên Đức luôn có vẻ hợp lý, nhất là trong bối cảnh Hoàng Anh Gia Lai đang cần tập trung nguồn lực vốn liếng cho các công trình bất động sản có tiềm năng hơn hẳn ở Myanmar.
Song khác hẳn với bối cảnh cuối năm 2011 và nửa đầu năm 2012, con số nợ vay của Hoàng Anh Gia Lai cho tới giờ phút này đã vượt trên 21.000 tỷ đồng, nằm ngoài dự báo của nhiều chuyên gia và tất nhiên cũng cao hơn cả con số khoảng 16.000 tỷ đồng nợ vay do chính Hoàng Anh Gia Lai công bố vào năm 2012.
Đó cũng là bối cảnh mà nền kinh tế Việt Nam đã bị các nhóm lợi ích bắt làm con tin với hơn 500.000 tỷ đồng nợ xấu và nợ công quốc gia chiếm đến hàng trăm phần trăm GDP.
Những xáo trộn kinh khủng của thị trường bất động sản trong vài năm qua đã làm không biết bao nhiêu nhà đầu tư và chủ doanh nghiệp mất ăn mất ngủ, để đến nỗi nguyện ước lớn nhất của nhiều đại gia hiện thời là mong một buổi sáng thức giấc không còn nợ nần. Đó cũng là lý do để tập đoàn của ông Đoàn Nguyên Đức không phải là ngoại lệ của nhóm Sông Đà Thăng Long, Phát Đạt hay Vinaconex, khi cũng phải đối mặt với một cơn khủng hoảng toàn diện về tồn kho căn hộ trung cấp và cao cấp có thể xảy đến ngay vào năm 2014.
Hoàng Anh Gia Lai rõ ràng không còn được lợi thế như những năm trước, dù có thể chưa nằm trong thế suy kiệt như những người khác. Cũng không còn cái thế khuynh đảo thị trường đất nền và căn hộ. Ngay cả cú bán phá giá căn hộ được ông Đức tung ra vào cuối năm 2012 cũng không làm cho tình hình của tập đoàn này được cải thiện hơn.
2013 lại tiếp nối năm ngoái bằng một đợt cáo buộc của một trong những tổ chức phi chính phủ mạnh nhất thế giới – Global Witness. Những dự án trồng cao su chưa kịp thu hoạch của Hoàng Anh Gia Lai ở Lào và đặc biệt ở Campuchia đã bị lên án sâu sắc về cách thức đối xử với môi trường và nông dân bản địa của tập đoàn này.
Chưa bao giờ trong lịch sử hoạt động của mình, Tập đoàn Hoàng Anh Gia Lai lại vướng phải sự cáo buộc nghiêm trọng đến thế từ một tổ chức phi chính phủ. Hiển nhiên, uy tín của tập đoàn này đã bị sứt mẻ rất nghiêm trọng trên thương trường quốc tế sau chuỗi bị hạ uy tín trong quan hệ buôn bán ở trong nước. Trong tình cảnh như thế, rất nhiều người đã phải ngỡ ngàng khi nghe nói bầu Đức “vẫn ngủ ngon trên đống nợ”.
Cú choàng giấc với còng 88 của giám đốc Công ty bất động sản Vĩnh Hưng vừa qua cũng làm dấy lên cơn ác mộng về hàng loạt đại gia khác có thể “nhập kho” trong thời gian còn lại của năm 2013.
Giờ đây, tương lai của Hoàng Anh Gia Lai sẽ và chỉ có thể được quyết định bởi chính họ. Giờ đây, tất cả những nguyện ước về tỷ phú đô la hay hình ảnh vươn ra thế giới chắc chắn đã phải tạm dừng. Tất cả còn phải tập trung vào bài toán giải quyết nợ nần và làm sao thoát khỏi cái thị trường bất động sản và hậu trường kinh doanh – chính trị khủng khiếp này càng sớm càng tốt.
“Minsky” chính giới?
Một phương trình với quá nhiều ẩn số đang công khai thách thức giới điều hành đầy dụng ý cùng các nhóm lợi ích và tài phiệt ở Việt Nam.
Muốn giải quyết nợ xấu nói chung và nợ xấu bất động sản nói riêng thì phải xử lý tồn kho nói chung và tồn kho bất động sản nói riêng; muốn xử lý tồn kho bất động sản lại phải làm tăng tổng cầu và niềm tin tiêu dùng cho nền kinh tế. Nhưng ai cũng biết rằng muốn tăng tổng cầu kinh tế thì phải bơm tiền, trong khi nguồn tiền đang có dấu hiệu cạn kiệt do bị tồn kho và không giải quyết được nợ xấu. Chưa tính tới yếu tố bơm tiền hoàn toàn có thể sinh ra lạm phát…
Đây chính là một cái vòng luẩn quẩn mà sẽ dẫn tới “thời điểm Minsky” – tức thời điểm nền kinh tế phải chịu cảnh đổ vỡ dây chuyền, bắt đầu từ khối doanh nghiệp con nợ và ngân hàng chủ nợ không thu hồi được các món nợ, dẫn tới khả năng sụp đổ kinh tế.
Nhiều khả năng triển vọng giải quyết tồn kho bất động sản sẽ rất chậm và phải kéo dài ít nhất 4-5 năm. Nhưng ngay trong ngắn hạn năm 2013 và năm 2014, tình trạng nợ khó đòi từ các doanh nghiệp bất động sản lại luôn có thể tạo nên sang chấn bùng vỡ cho giới ngân hàng chủ nợ, mà có thể kéo theo một làn sóng sụp đổ dây chuyền giữa một số ngân hàng lớn.
Nếu không thể giải quyết núi tồn kho bất động sản vào thời hạn “Minsky” giữa năm 2014, hoặc chậm lắm đến cuối năm đó, rất nhiều khả năng nợ xấu bất động sản sẽ làm bùng vỡ nợ xấu quốc gia và đẩy các ngân hàng vào thế tồn vong. Thế tồn vong đó cũng có thể gây tác động tiêu cực không nhỏ đến chân đứng của một nền chính trị vốn đang chịu nhiều xáo động và có thể cả manh động.
Với tất cả những bất cập và bất bình đẳng ghê gớm tích tụ trong suốt hai chục năm qua, bất động sản hoàn toàn có đủ tư cách để làm lộn nhào cái nôi của một nền kinh tế thị trường không rõ định hướng nào hết.
Nếu không tự xử lý được phương trình bất động sản với quá nhiều ẩn số, nền kinh tế Việt Nam sẽ có nhiều triển vọng rơi vào một cơn khủng hoảng mới còn ghê gớm hơn cả khủng hoảng 2008 và đợt suy thoái kéo dài suốt ba năm qua. Khủng hoảng kinh tế lại rất dễ dẫn đến khủng hoảng xã hội – một phạm trù vốn đã tiềm ẩn nhiều mầm mống được thể hiện trên nhiều đường phố.
Ai cũng biết khủng hoảng xã hội một khi đã kết tủa và cộng hưởng với khủng hoảng kinh tế thì hoàn toàn có đủ tư cách để tạo nên một xung chấn chính trị đủ mạnh, có thể làm thay đổi cả một chế độ cùng bản chất tưởng như không thể đổi thay của nó.
Theo quy luật song trùng giữa kinh tế và chính trị, thời điểm Minsky đáo hạn để thanh toán các khoản nợ tài chính cũng có thể là thời khắc chuyển từ lời giục nợ thành hành vi siết nợ đối với chính giới điều hành ở Việt Nam.
Thời khắc ấy đang đến gần, rất gần…
P.C.D.

Source : blog Alan Phan

7/9/13

Nguyễn Văn Bông – Luật Hiến pháp và Chính trị học (10)



Tháng 9 7, 2013

CHƯƠNG III: THAM GIA VÀ BẤT THAM GIA

Mục I: THÁI ĐỘ PHI CHÍNH TRỊ
Trong cuộc sinh hoạt chính trị hiện nay, người ta nhận thấy có hai trào lưu tư tưởng, hai khuynh hướng, tuy khác biệt nhau, nhưng chung  quy chỉ là hai hình thức của thái độ phi chính trị. Khuynh hướng thứ nhất đư đến việc phủ nhận tính cách chính trị của hoạt động của mình. Khuynh hướng thứ hai nhằm đề cao thái độ thụ động của công dân trước thời cuộc.
Chúng ta lần lượt phân tích và phê bình hai khuynh hướng quan trọng này.
Đoạn 1: PHỦ NHẬN TÍNH CÁCH CHÍNH TRỊ CỦA HOẠT ĐỘNG
Như chúng ta đã biết, công dân không tham gia thật sự vào cuộc sinh hoạt chính trị, phần đông vì chán ghét chính trị, vì thiếu thì giờ hoặc vì cho rằng chính trị là một địa hạt không liên quan đến họ, là địa hạt của những nhà chuyên môn chính trị. Loại công dân này thường có một thái độ thụ động.
Trái lại, một số người có những hành vi, những hoạt động liên hệ với cuộc sinh hoạt chính trị, nhưng đối với những người này, những hành vi đó không có tính cách chính trị. Họ phủ nhận rằng hành động của họ, lập trường của họ có tính cách chính trị. Thái độ phi chính trị này, vì tầm quan trọng của nó, vì tính cách phổ thông của nó, cần được phân tích rõ rệt vì thái độ này là một khía cạnh quan trọng của sự tham gia chính trị. Chúng ta có thể nói một cách tổng quát rằng có 3 trạng thái khác nhau về thái độ phi chính trị: hoặc đó chỉ là một ảo tưởng, chỉ là một chiến thuật, chỉ là một nhiệm vụ.
A. Một ảo tưởng
Thái độ phi chính trị, một ảo tưởng, là lập trường của tất cả những người tham gia và cuộc sinh hoạt chính trị, nhưng đồng thời lại phủ nhận tính cách chính trị của hoạt động ấy. Và họ phủ nhận một cách cương quyết, thành thật. Tại sao? Sở dĩ như thế là vì những người này có một quan niệm quá hẹp hòi; quá khắt khe về chính trị, và đôi khi lại chống chính trị.
* Hoặc họ cho rằng chính trị là cái gì liên quan đến chính đảng, đến bè phái. Vì thế khi mà hoạt động của họ trên đảng phái hay ngoài đảng phái, khi mà hoạt động của họ không có tính cách chia rẽ, phân li thì họ quan niệm rằng đó không phải là chính trị, đó là những hành vi không có tính cách chính trị.
* Hoặc họ cho rằng chính trị là cái gì liên quan đến ý thức hệ, đến sự đấu tranh về ý thức hệ. Vì thế mà khi hoạt động của họ bề ngoài, có tính cách kĩ thuật, dựa trên kinh nghiệm thực hành, thì không bao giờ nhận rằng hành vi ấy là hành vi chính trị.
Đó là một quan niệm quá chật hẹp về chính trị. Họ không chấp nhận được rằng chính trị chi phối những địa hạt quan trọng và rộng rãi của mối tương quan của con người, chứ không phải chỉ vỏn vẹn nằm trong lĩnh vực định chế và chính quyền. Họ từ khước việc xem xét, việc cân nhắc những hậu quả chính trị của hành vi mà họ cho rằng chỉ có tính cách riêng tư.
Tâm trạng này là tâm trạng của rất nhiều người. Ví dụ:
* Trường hợp của những đạo sĩ, những vị tu hành. Những vị này, trong những ngày cách mạng, giữa lúc chính biến, có những hành vi như: góp tiền để giúp tù nhân chính trị, cho ở trong nhà mình, giấu trong nhà mình những kẻ đối lập chính trị. Đó là những hành vi hoàn toàn và không thể chối cãi có tính cách chính trị. Nhưng vì lòng từ thiện của họ, vì họ cho rằng làm như thế ngoài mục đích chính trị, mà trái lại vì đó là bổn phận, vì đó là để tránh cho con người những đau khổ. Họ thành thật cho rằng không vì lí do chính trị, nhưng họ quên rằng những hành vi ấy có hậu quả chính trị.
* Trường hợp của những người cầm bút, của văn sĩ: nghề nghiệp của họ đưa đến một lập trường chính trị, hoặc một hậu quả chính trị mà họ không ý thức. Những người cầm bút, trong những bộ tiểu thuyết hay những quyển tùy bút, tiểu luận v.v… Khi họ tố cáo những tệ đoan trong xã hội, khi họ miêu tả chính giới với những đặc điểm như loạn luân lãng mạng, những con buôn chính trị, khi họ tố cáo những thối nát của chính quyền, thì dù muốn dù không, dù cho họ có phủ nhận rằng họ không bao giờ có ý định phán đoán giá trị xã hội mà họ phác họa hay phân tích, dù muốn dù không, hành vi của họ có tính cách chính trị, có hậu quả chính trị và đôi khi, nhận định của họ có ảnh hưởng sâu rộng trong cuộc sinh hoạt chính trị.
* Trường hợp của những nhà bác học: khi họ tố cáo thảm họa của thí nghiệm nguyên tử hay chiến tranh nguyên tử, lời tuyên bố hay hành vi của họ hoàn toàn có tính cách khách quan, trên cả ý thức hệ và đảng phái chính trị. Vẫn biết rằng hành vi ấy chỉ nhằm mục tiêu cao cả, nhân đạo và sự tồn vong của nhân loại, nhưng họ không thể ngăn cản được sự kiện là lời tuyên bố của họ sẽ được khai thác trên phương diện chính trị, lời tuyên bố của họ không thể không có ảnh hưởng chính trị và là một yếu tố quan trọng trong lãnh vực bang giao quốc tế.
Đấy là một vài ví dụ tâm trạng, thường thường của nhiều người tưởng mình đứng ngoài chính trị. Lập trường phi chính trị này dựa trên những hành vi mà người ta cho rằng tự nó không có tính chất chính trị, nhưng đó chỉ là ảo tưởng vì, dù tự nó không có tính chất chính trị đó là hành vi có hậu quả chính trị. Mà tất cả những hành vi có hậu quả chính trị là những hành vi chính trị.
Thái độ phi chính trị này, chúng ta lại tìm thấy được đề cao bởi những tổ chức, nhưng đây không phải vì một ảo tưởng: nó trở thành một chiến thuật.
B. Một chiến thuật
Thái độ phi chính trị, một chiến thuật, là thái độ của những ai, và nhất là của những tổ chức, chối cãi rằng mình tham gia chính trị, mà kỳ thật thì trong thâm tâm lại nghĩ khác.
Vì chính trị có tiếng không tốt, như chúng ta đã biết, cho nên các nhà lãnh đạo các nghiệp đoàn, hiệp hội ngại rằng có một thái độ rõ rệt hay là dùng những danh từ hơi chính trị một chút có thể sẽ làm sứt mẻ tình đoàn kết của nhân viên, và làm cho họ hoảng sợ. Bởi thế các nhà lãnh đạo khôn khéo luôn luôn quả quyết rằng lập trường của mình hay là quyết định của mình chỉ nhằm việc bảo vệ quyền lợi của đoàn thể, đứng ngoài mọi tranh chấp chính trị. Họ cố tránh danh từ chính trị và chỉ dùng nào là quyền lợi nghiệp đoàn, quyền lợi công dân, quyền lợi quốc gia v.v…
Mặc dù họ can thiệp vào chính quyền, và sự can thiệp có tính cách chính trị không thể chối cãi, họ vẫn tuyên bố nhân danh quyền lợi của đoàn thể và đứng ngoài đảng phái. “Chúng tôi bảo vệ quyền lợi của chúng tôi chứ chúng tôi không có làm chính trị.”
Đó chỉ là thái độ phi chính trị bề ngoài và ai cũng thừa hiểu rằng những tổ chức không mục tiêu chính trị có những hành vi chính trị và không có thời nào mà người ta không nghe thỉnh thoảng dư luận tố cáo sự can thiệp của giới thương mại, của bức tường tiền bạc vào nội bộ chính trị.
Sở dĩ những nhà lãnh đạo phải bao trùm trên những hành vi chính trị một bức màn có vẻ khách quan, trung lập, đó chỉ là một chiến thuật nhằm đạt kết quả mong muốn mà thôi.
C. Một nhiệm vụ
Đây là khía cạnh thứ ba của lập trường phi chính trị. Ở đây người ta nhằm mong mỏi hoặc đòi hỏi nhân viên chính quyền nên đứng ngoài cuộc sinh hoạt chính trị. Đây là một vấn đề liên hệ đến tình trạng của công chức nói chung.
Trong một chính thể dân chủ, chính thể mà mọi chính kiến đều phải được tự do phát biểu và bảo đảm, mối tương quan giữa nhân viên chính quyền và công dân đặt nhiều vấn đề tế nhị. Để tránh mọi thiên vị và bảo vệ tính cách vô tư của người công chức, Nhà nước bắt buộc công chức phải có một thái độ khách quan khi thừa hành chức vụ. Nghĩa là, trên mọi phương diện nghề nghiệp, họ phải có một thái độ thận trọng đối với tất cả lực lượng chính trị và phải luôn luôn đặt quyền lợi của công vụ trên hết. Và bổn phận của công chức là tuân mệnh lệnh của Chính phủ, bất cứ là Chính phủ nào.
Đây là tình trạng thông thường của công chức trong chính thể dân chủ. Và trước một tình trạng như thế, người ta gán danh từ phi chính trị.
Thật ra khi chúng ta nói đến công chức không làm chính trị, đứng ngoài chính trị, chúng ta chỉ nêu lên một khía cạnh công chức không nên vì cảm tình đảng phái mà quyền công vụ, mà có những hoạt động hoặc quyết định thiên vị. Thái độ phi chính trị nhằm mục tiêu đó, và chỉ có thế thôi.
Nhưng yếu tố bè phái chỉ là một yếu tố trong những yếu tố khác của các quyết định hành chính hay chính trị quan trọng. Công chức, nhất là công chức cao cấp, tham gia trực tiếp vào việc soạn thảo các quyết định chính trị; công chức không thể không xem vào chính trị.
Đoạn 2: ĐỀ CAO THÁI ĐỘ THỤ ĐỘNG CỦA CÔNG DÂN ĐỐI VỚI THỜI CUỘC
Đây là một khuynh hướng chính trị được thể hiện trong rất nhiều nước, nhất là sau một khủng hoảng chính trị.
Người ta tố cáo chính trị, cho rằng vì chính trị nhiều quá mà hỏng việc tất cả.
A. Và đây là lí luận của những người chủ trương thái độ thụ động của công dân:
“Con người – vấn đề chính của họ là sống, sống đời sống hằng ngày của họ; những lo âu cá nhân hay của gia đình họ chiếm hết thì giờ. Số công dân theo dõi các vấn đề quốc gia với ý muốn tham gia rất hiếm có. Và như thế là tốt lắm! Xứ nào, nước nào mà trong ấy công dân tham gia, thảo luận quá nhiều về chính trị, xứ ấy, nước ấy gần đến ngày tàn.”
Theo khuynh hướng này, thì chính trị là cái gì cao siêu khó khăn và chỉ có một nhóm người am hiểu và đủ thẩm quyền đề cập đến. Những người này chấp nhận nguyên tắc dân chủ, nguyên tắc bầu cử, nhưng giữa hai cuộc bầu cử, công dân nên trở về công việc hàng ngày riêng tư. Sự tham gia của công dân có tính cách bất thường và khi nào cần đến.
Tóm lại, những người chỉ trích sự tham gia chính trị của công dân và đề cao thái độ thụ động của công dân, cho đó là triệu chứng tốt đẹp của cuộc sinh hoạt chính trị. Thái độ này dựa trên hai ý tưởng chính:
* Quần chúng vô thẩm quyền, để định đoạt những vấn đề ấy, và trong trường hợp quần chúng có am hiểu đi nữa, nếu họ phải quyết định chắc chắn là họ quyết định theo quyền lợi riêng tư của họ.
* Quyền lực vô chính trị, trên chính trị rất cần thiết để giải quyết những vấn đề trọng đại; nói một cách khác chính trị đóng vai trò của nó nơi mà có sự tranh chấp về quyền lợi nho nhỏ; khi có việc đại sự cần có một quyền lực trên tất cả chính trị
B. Chúng ta nghĩ sao về khuynh hướng và lí luận này?
Cần phải nói ngay rằng là một lập luận không đứng vững.
* Quần chúng không thẩm quyền? Đó là một luận cứ không đứng vững nếu chúng ta nhận thức rằng chính quyền thường thường bao trùm màn bí mật trên các vấn đề quốc gia đại sự. Rồi những kẻ có quyền lực, núp sau bức màn này để tha hồ định đoạt. Họ tuyên bố rầm rĩ lên là khó, họ cố tình làm rối beng công việc nào là hồ sơ chồng chất lên cao, nào là tính cách kĩ thuật của vấn đề, để làm công dân chán ngán. Sau đó, kết luận rằng công dân vô thẩm quyền.
Sự thật ra, không có một vấn đề chính trị nào mà không thể giải nghĩa rõ ràng, và vấn đề quần chúng vô thẩm quyền chỉ là bịa đặt và lí do để gạt sự tham gia của công dân ra ngoài.
* Một quyền lực vô chính trị để giải quyết những vấn đề trọng đại? Luận cứ này chỉ là phản ảnh của một ảo tưởng. Cho rằng có thể lấy một quyết định chính trị và chỉ dựa trên một tiêu chuẩn, hay một quan điểm không chính trị, là một ảo tưởng. Bất cứ một người nào, một nhân vật nào, dù là ngự trị ở tận mây xanh đi nữa, khi mà họ quyết định về phương diện chính trị, là đương nhiên họ lấy một quyết định chính trị và họ trở thành một nhân vật chính trị.
Đấy, những luận cứ của những ai chỉ trích sự tham gia không thể đứng vững.
Vẫn biết rằng khi mà công dân có một thái độ hơi tách rời chính trị, không chú ý nhiều đến cuộc sinh hoạt chính trị có thể đó là triệu chứng của một sinh hoạt chính trị ổn định. Thật vậy, khi mà guồng máy chính trị, hành chính của quốc gia chạy đều và trong nước thanh bình, thịnh vượng thì lẽ tất nhiên các vấn đề chính trị kém phần sôi nổi.
Vẫn biết rằng những nhà cầm quyền cần có một chút tự do, một phần tự trị nào đó đối với dư luận, đối với công dân, mới có thể thi hành nhiệm vụ một cách hữu hiệu. Chính quyền không thể làm gì được nếu dư luận cứ thọc gậy bánh xe, cứ quấy nhiễu mãi. Mới lên nắm chính quyền có vài tháng mà mỗi ngày bị gán cho danh từ con rùa thì không làm sao mà làm việc được. Chính quyền – và bất cứ một chính quyền nào cũng cần phải có thì giờ và được yên trí để thi hành nhiệm vụ. Nếu sự tham gia của công dân đưa đến hậu quả nói trên, thì sự tham gia nguy hiểm hơn sự bất tham gia.
Đấy, những chỉ trích sự tham gia chính trị là cho chúng ta phải để ý mực tự trị tương đối của chính quyền. Nhưng không vì lẽ đó mà lại đề cao thái độ thụ động của công dân.
Rất nhiều chế độ chính trị đã bị lật đổ vì đã trốn chính trị và từ khước biến đổi, làm sai lạc sự tham gia chính trị của công dân. Thay vì giữa chính quyền và nhân dân nên có một luồng điện để thông cảm và cùng giải quyết những vấn đề, người ta chỉ nhìn thấy trong những chế độ này, tinh thần vô trách nhiệm, những diễn văn rườm rà, những danh từ trống rỗng.
Chính thể dân chủ đòi hỏi một chính quyền vững mạnh và sự hữu hiệu của những phần tử tinh hoa chính trị có trách nhiệm. Nhưng để có thể lựa chọn những phần tử này một cách tự do, và nếu muốn các phần tử tinh nhuệ ấy có tinh thần trách nhiệm, cần phải có một sự kiểm soát chặt chẽ bởi một dư luận hoạt động và thông thạo. Tức là tham gia chính trị.
Mục II: LẬP TRƯỜNG MÁC-XÍT: SỰ THAM GIA TRONG CHẾ ĐỘ DÂN CHỦ LÀ MỘT TRÒ BỊP BỢM
Đoạn 1: NỘI DUNG CỦA LẬP TRƯỜNG
A. Lập trường này không hẳn là của Marx, mà chính là của Lenin. Theo Lenin không thể có sự tham gia trong xã hội tư bản được. Cho đến ngày nào còn giai cấp đấu tranh, mà còn người bóc lột người, tham gia chính trị – và đồng thời danh từ dân chủ – chỉ là một trò hề.
Tại sao? Vì thượng tầng kiến tạo  – nghĩa là các định chế chính trị  – hoàn toàn bị chi phối bởi hạ tầng cơ sở kinh tế và xã hội. Quốc gia, Nhà nước – cái thượng tầng kiến tạo này – chỉ là bộ máy chỉ huy và đàn áp ở trong tay giai cấp thống trị. Vì thế, trong xã hội tư bản ngày nay, Quốc gia, Nhà nước là công cụ của giai cấp trung lưu. Hiểu như thế, thì tất cả những thủ tục tinh vi, cũng như hệ thống pháp lí và chính trị trong xã hội tư bản, chung quy chỉ là những trò bịp bợm hoặc những phương tiện khéo léo hầu bảo đảm sự thống trị của giai cấp nắm quyền. Trong một khung cảnh chính trị như thế, tất cả những quyền lợi, tự do mà xã hội tư bản đã nhìn nhận cho cá nhân và đoàn thể cùng những hiện tượng tham gia hoàn toàn có tính cách trừu tượng, pháp lí chứ không có một nội dung thực sự. Lenin cũng nhìn nhận rằng dân chủ kiểu Âu-Mỹ ngày nay là một bước tiến, một giai đoạn cần thiết và là một con đường ngắn nhất để tiến đến độc tài vô sản[1].
A. Thuyết Mác-xít không phủ nhận sự có thể có được của một xã hội dân chủ. Nhưng dân chủ chỉ có thể có được sau một cuộc cách mạng phá vỡ xã hội giai cấp ngày nay và thiết lập độc tài vô sản. Mà độc tài vô sản có phải dân chủ không? Lenin, trong quyển Nhà nước và Cách mạng đã cố gắng trả lời câu hỏi quan trọng này. Ông cho rằng không thể phán đoán độc tài vô sản mà không chú ý đến điều kiện sinh hoạt của xã hội trong ấy độc tài vô sản được thiết lập. Vì độc tài vô sản là một chế độ độc tài, một chế độ trong ấy vẫn còn giai cấp này đàn áp giai cấp nọ, một hệ thống cưỡng bách, thế không thể xem độc tài vô sản là một chế độ thực hiện dân chủ được. Vì chỗ nào có cưỡng bách áp bức, chỗ ấy không có dân chủ được. Tuy nhiên, đối với tình trạng trước, độc tài vô sản là một bước tiến trên đường dân chủ, vì trong xã hội tư bản ngày trước, dân chủ là một thứ dân chủ của một thiểu số thống trị đa số; trái lại, với độc tài vô sản là một thứ độc tài của đa số bị bóc lột đối với thiểu số xưa kia từng bóc lột.
Và Lenin kết luận rằng sự tiến triển của độc tài vô sản sẽ đưa đến một xã hội không giai cấp trong ấy nền dân chủ thực sự sẽ nẩy nở mau chóng.
Đoạn 2: NHẬN XÉT
Lập trường Mác-xít trên đây rất là quan trọng. Trên phương diện lí thuyết và triết học, vấn đề được đặt ra là vấn đề tự do của con người. Những người theo chủ nghĩa Mác-Lê quan niệm rằng tự do, không phải là một dữ kiện đồng thời tồn tại với con người, mà là sản phẩm của sự tiến triển của con người. Bởi thế cho nên, con người trở thành tự do, con người tự đặt điều kiện để có tự do và điều kiện ấy là cách mạng vô sản. Thuyết Mác-xít cho rằng nói đến tự do có trước hay đồng thời tồn tại với con người, trong xã hội tư bản, chỉ là ảo tưởng.
Vấn đề đặt ra là thử hỏi tự do là sản phẩm của con người hay là có tính cách siêu việt vượt hẳn mọi tiến triển của con người? Một vấn đề hoàn toàn triết lí, rất quan trọng. Cuộc tranh luận đã và đang tiếp diễn.
Trên phương diện thực thể, cần phải nhận định rằng chủ nghĩa Mác-Lê phủ nhận sự có thể có một thay đổi toàn diện trong xã hội bởi những phương thức bất bạo động. Vì con người chỉ có thể có tự do sau một cuộc cách mạng vô sản và với sự độc tài vô sản.
Tuy nhiên, lịch sử chính trị cho chúng ta thấy rằng có rất nhiều trường hợp phủ nhận hoàn toàn khẳng định trên của thuyết Mác-xít.
Đó là trường hợp của nhiều xã hội tân tiến ngày nay trong ấy, sự phát triển theo một chiều hướng mà cách mạng và độc tài vô sản có thể nói khó lòng có được thực hiện. Xin nhắc lại rằng theo thuyết Mác-Lê, chính những xã hội tân tiến, kĩ nghệ hóa nhiều nhất lại là những xã hội có thể đưa đến một tình trạng cách mạng bùng nổ.
Nhưng, có thể chắc chắn rằng không phải Hoa Kỳ, Anh Quốc, Đức Quốc, những xứ kĩ nghệ hóa nhiều nhất là những xứ mà tình trạng chính trị đem đến một sự bùng nổ cách mạng và độc tài vô sản. Đó là một sự kiện không thể chối cãi. Trái lại, chính tình trạng kém mở mang lại là tình trạng thúc đẩy cách mạng.
Hơn nữa, lịch sử đã chứng minh rằng thuyết Mác-xít đã quá tin ở sự bất hữu hiệu của thủ tục dân chủ. Vẫn biết rằng lá phiếu không thể đưa đến một thay đổi hẳn căn bản, lá phiếu không phải như thuyết Mác-xít khẳng định – là một ảo tưởng mà chính là phương tiện dân chủ có tính cách quyết định và đã đưa đến những thay đổi quan trọng mà trường hợp Anh Quốc, Pháp Quốc, Hoa Kỳ và các nước Âu Châu là trường hợp điển hình.
Thật ra, vấn đề tham gia chính trị là một vấn đề quan trọng phức tạp và hiện đang thảo luận sôi nổi. Tuy nhiên cần phải xác nhận lại rằng, sự kiện đã chứng minh rằng sự tham gia ấy không phải chỉ là trò bịp bợm.
TỔNG KẾT
Qua những hình thức tham gia chính trị và sau khi phân tích những nguyên do của sự bất tham gia hay thiếu tham gia của công dân vào cuộc sinh hoạt chính trị, chúng ta nhìn thấy một sự kiện, đầy hậu quả cho tương lai của nền dân chủ, sự kiện ấy là thái độ thụ động của công dân trong cuộc sinh hoạt chính trị.
Và nếu chúng ta không đồng ý với những người cho rằng thái độ như thế là một triệu chúng của tình thế chính trị tốt đẹp, thì chúng ta bắt buộc phải mong mỏi một sự đảo ngược cái khuynh hướng ấy và phác họa phương tiện để đi đến kết quả. Cần phải nhấn mạnh ngay rằng đây là một vấn đề cực kỳ quan trọng trong cuộc phục hồi danh dự tầm quan trọng của chính trị trong nhân sinh quan.
Theo chiều hướng nào? Hai điểm chính: giáo dục công dân và chỉnh đốn cuộc sinh hoạt địa phương.
1. Giáo dục công dân
Như chúng ta đã biết, chính trị có tiếng không tốt. Vì đó mà mọi vấn đề liên quan đến chính trị đều không tốt cả. Và cũng vì đó mà nhiều người thường hay phản đối rằng hành vi của mình có tính cách chính trị. Công dân khi nói đến quyền lợi chung, đến công vụ họ nghĩ ngay đến hành chính hơn là chính trị. Bởi thế, biện hộ cho chính trị, bào chữa cho chính trị là một điều hết sức cần thiết ở mọi trình độ, ở mọi địa hạt mà công dân được huấn luyện. Một vấn đề giáo dục, và vấn đề giáo dục này cần phải đặt ngay tại nhà trường. Vấn đề là khêu gợi cho học sinh ý thức được sự hiện hữu của cuộc sinh hoạt công cộng và tầm quan trọng của vai trò chính trị trong việc chuyển hướng quốc gia.
Thật ra, vấn đề này đã được giải quyết và – như các bạn đã trải qua, học sinh bắt buộc phải học cái môn mà người ta gọi là “Công dân Giáo dục”. Đó là một điều hay nhưng không đạt nhiều kết quả vì người ta làm sai lạc hướng đi của công dân giáo dục. Thật vậy, trong môn Công dân Giáo dục người ta chú trọng quá nhiều đến những giá trị tinh thần luân lí, đến bản chất chung cho tất cả công dân, đến trạng thái nhất trí của toàn dân của quốc gia, dân tộc. Quá lí tưởng! Trái lại, cuộc sinh hoạt chính trị dựa trên những bất đồng, dị biệt, dựa trên sự hòa giải giữa những điểm bất tương đồng, hòa giải những mâu thuẫn. Chính trị dựa trên một sự lựa chọn có thể chấp nhận được cho một số đông người giữa những giải pháp có thể được.
Chính cái tính cách đa nguyên ấy và tính cách tương đối của nhận thức chính trị cần phải được nhấn mạnh.
Hơn nữa, khi nói đến công dân, nghĩa vụ hay quyền lợi công dân, cần phải đặt ngay câu hỏi: khi đề cập đến vấn đề công dân, người ta quan niệm như thế nào? Sở dĩ cần phải đặt câu hỏi như thế là vì, trong xã hội cận đại, khi nói vấn đề công dân, người ta chỉ nghĩ đến – và người ta ở đây thường thường là những người cầm quyền – người ta chỉ nghĩ đến nghĩa vụ, nào có bổn phận tuân hành luật lệ, nào là hi sinh cho Tổ-quốc, cho tương lai dân tộc. Và kinh nghiệm cho biết rằng trong những giờ phút nguy biến, khi chính thể dân chủ trải qua những cuộc khủng hoảng, chính quyền hay dùng tới danh từ công dân với khía cạnh nghĩa vụ mà thôi.
Chúng ta không thể chối cãi rằng nghĩa vụ là đức tính quan trọng của công dân trong chính thể dân chủ, nhưng khi đề cập đến công dân chúng ta không nên quên khía cạnh tham gia. Hô hào, kêu gọi lòng ái quốc, đến công dân, không nhằm nghĩa vụ mà đồng thời phải chú trọng đến công việc đem lại cho công dân một niềm tin, một ý nghĩa và tinh thần trách nhiệm của họ.
Hô hào, kêu gọi đến sự tham gia của công dân mà không gợi cho họ một giá trị nào, giá trị chính trị, không gợi cho họ một công cuộc thực hiện một mục tiêu nhất định, mà trái lại chỉ nhấn mạnh những nguyên tắc tinh thần luân lí, nhấn mạnh khía cạnh bổn phận, làm như thế là một khuyết điểm. Có thể sự tham gia của công dân được tăng cường nhưng sự tăng cường đó chỉ có tính cách bề ngoài. Công dân không ý thức tầm quan trọng của chính trị. Công dân có thể làm tròn nghĩa vụ của mình, có thể thực hiện một vài hành động chính trị, nhưng không nắm vững ý nghĩa thực sự. Mà, hành động không đủ, ý chí tham gia mới là cần thiết, và ý chí tham gia này do nơi sự chú ý đến cuộc sinh hoạt chính trị.
Nếu không ham muốn tham gia vào cuộc sinh hoạt chính trị, nếu không ý thức rằng mình tham gia vào cuộc sinh hoạt chính trị, thì công dân không dự vào việc quyết định số mệnh quốc gia và họ chỉ còn là một yếu tố, một đơn vị, ít nhiều thụ động, của một guồng máy độc đoán dùng họ mà thôi.
Giáo dục công dân không những ở nhà trường và nhấn mạnh đến khía cạnh tham gia, mà còn là một vấn đề quan trọng của chính đảng. Nói đến vấn đề giáo dục công dân và chính đảng là phải nghĩ ngay đến công việc cải tổ và đem lại nguồn sinh lực cho hệ thống chính đảng và phong trào chính trị.
Như chúng ta đã biết những tổ chức này rất có nhiều tiếng tăm, nhất là ở Việt Nam, nhưng toàn là tiếng tăm bất hảo. Vì chính đảng thường thường là một nhóm người họp nhau để có một lực lượng, rồi dùng lực lượng này với tính cách lực lượng áp lực nhằm mục đích chiếm ngôi thứ.
Công cuộc cải tổ những chính đảng và phong trào chính trị nhằm đem lại một quan niệm mới và thiết thực về vai trò của chính đảng trong cuộc sinh hoạt chính trị là một vấn đề cấp bách.
Chính đảng không phải chỉ là một dụng cụ, để bảo vệ quyền lợi của một nhóm người hay một thành phần xã hội; chính đảng còn phải là một phương tiện để đề cao một chủ nghĩa và thực hiện một chương trình. Quan niệm như thế thì vai trò chính yếu của chính đảng là vai trò trung gian. Một mặt chính đảng đặt vấn đề chính quyền đúng với trình độ hiểu biết của công dân; mặt khác chính đảng giúp vào công việc thể hiện sự tín nhiệm của công dân vào chính quyền.
Đặt các vấn đề chính quyền đúng với trình độ hiểu biết của công dân là như thế này: công dân, đa số, không thể nào thấu hiểu những vấn đề Chính phủ, những vấn đề càng ngày càng phức tạp và có tính cách chuyên môn, vì thế mà đã có khuynh hướng giao cho các nhà chuyên môn giải quyết các vấn đề này. Vì công dân không hiểu mà chính đảng phải thông tin và có thể thông tin. Chính đảng là một nhà trường tự do, cần thiết cho việc điều hành nền dân chủ. Công tác của Chính phủ càng phức tạp, khó khăn chừng nào, thì công việc thông tin, giải thích càng sâu xa và đầy đủ chừng ấy. Công dân chỉ thích, chỉ chú ý những gì mà họ biết và chỉ kiểm soát những gì mà họ hiểu.
Công dân có thể không nắm vững được tất cả các quyết định chính trị trong chi tiết. Nhưng họ có thể thấu hiểu đâu là nguyên nhân, đâu là tinh thần và họ phải có thể xét đoán được những giải pháp mà Chính phủ đưa ra. Đấy chính đảng và phong trào chính trị đóng vai trò quan trọng là giáo dục chính trị công dân.
Không những chính đảng đặt vấn đề chính trị đúng tầm hiểu biết của công dân, các tổ chức này còn giúp vào công việc thể hiện sự tín nhiệm của công dân đối với chính quyền. Tại sao chính đảng giúp vào việc thể hiện sự tín nhiệm?
Chính thể dân chủ dựa trên một phương thức tổ chức, trên một hình thức cấu tạo về phương diện tín nhiệm cũng như về phương diện kiểm soát. Nói rằng công dân tín nhiệm chính quyền chỉ có nghĩa là công dân tín nhiệm chính quyền qua sự trung gian của đại diện. Danh từ đại diện ở đây bao gồm không những đại diện chính thức – các vị dân biểu Quốc hội mà luôn cả cán bộ của chính đảng. Vì những cán bộ của chính đảng, những phần tử ưu tú của chính đảng là thành phần của đoàn thể nắm chính quyền.
Tóm lại, không thể có một nền dân chủ linh động nếu không có một sự tín nhiệm của công dân đối với các phần tử ưu tú của chính đảng và những phong trào chính trị. Nhưng cần phải nhấn mạnh ngay rằng sự tín nhiệm này, cái cảm tính này không có nghĩa là thoái vị. Tín nhiệm nhưng đồng thời được giáo dục, huấn luyện người dân thấu hiểu các vấn đề và tham gia thường xuyên vào việc định hướng cho tương lai. Và chúng ta có thể kết luận rằng không có nhà trường nào quý giá hơn nhà trường chính đảng và không có chỗ nào công dân tích cực tham gia vào cuộc sinh hoạt chính trị bằng chính đảng.
Nói như thế không có nghĩa là chúng ta đặt tất cả hi vọng vào chính đảng. Có lẽ cũng cần thêm rằng, chúng ta không có một mảy may hi vọng vào khả năng của chính đảng hiện nay để đảm đương vai trò ấy, vai trò giáo dục và trung gian giữa chính quyền và công dân. Những trò gian lận, bịp bợm của họ, những sự dối trá, những chương trình, hành động mị dân của họ là những yếu tố đưa đến sự mất uy tín của chính đảng hiện nay.
Vậy nhu cầu hiện tại  – để tăng cường sự tham gia chính trị của công dân – là gầy dựng lại những tổ chức chính trị có trách nhiệm. Cần phải thành thật mà nhận rằng công cuộc xây dựng này đòi hỏi một công trình nặng nề và không bao giờ hoàn hảo. Soạn thảo một bản Hiến pháp dễ gấp trăm lần việc thiết lập và khích động một hệ thống chính đảng đáp ứng với nhu cầu của một xã hội tân tiến.
Nhưng dù sao, công tác chính trị là công tác trường kỳ và cố gắng hàng ngày. Giữa một trạng thái nô lệ, lỗi thời và một tình trạng dân chủ bề ngoài, không có lối thoát nào khác.
2. Chỉnh đốn cuộc sinh hoạt địa phương
Giáo dục công dân đem lại cho họ một niềm tin và khích lệ họ chú ý đến cuộc sinh hoạt chính trị chưa hẳn là đủ. Còn cần phải duy trì phong trào này. Cuộc sinh hoạt chính trị địa phương là dịp để công dân tham gia vào chính trị.
Các chính trị gia đều đồng ý rằng cái mà người ta gọi là “chính phủ địa phương” là nền tảng của chính thể dân chủ và sự tham gia của công dân vào đời sống chính trị xã thôn là trường học quý giá trong việc giáo dục công dân. Chính ngay trong thôn xã là nơi tập trung sức mạnh của những dân tộc tự do. Những định chế xã thôn đối với tự do, dân chủ có thể ví như những trường tiểu học đối với khoa học. Chính ngay ở trường tiểu học mà con em tìm thấy những bước đầu tiên của kiến thức. Chính ngay ở cuộc sống xã thôn mà công dân thưởng thức tự do, dân chủ. Cuộc sinh hoạt địa phương đem lại và duy trì tinh thần công cộng, một quan niệm của sự ích lợi của làng của nước. Cuộc sinh hoạt địa phương đặt những vấn đề đúng tầm hiểu biết của họ, là dịp họ luyện tập tham gia. Những định chế gần họ, chính quyền kề bên họ, và họ thấy ngay đâu là quyền lợi chung và tinh thần trách nhiệm.
Đem lại một luồng sinh lực mới cho cuộc sinh hoạt địa phương là một công tác tối cần. Vì ở địa phương, công dân ý thức tinh thần tự do, ý thức trạng thái một công dân chứ không phải con người nô lệ.
Ý tưởng tham gia – và cuộc sinh hoạt dân chủ – có nghĩa một sự tán đồng của mỗi người và của mọi người, tán đồng một công trình cùng nhau trù liệu, một công trình có tính cách siêu việt đầy hứa hẹn.
Sự tán đồng này dĩ nhiên đòi hỏi mỗi người một sự gia nhập hoàn toàn, sức can đảm để khắc phục khó khăn có thể xẩy đến và, đôi khi, nhiều hi sinh đau đớn. Vì không có một công trình vĩ đại nào mà không có sự hi sinh về con người cũng như về khát vọng ích kỉ.
Hi sinh, làm sao có được nếu không có một động lực gây một mối cảm tình sâu rộng và một bầu không khí nồng nhiệt tập đoàn?
Nghĩ cho cùng, ý tưởng tham gia nhấn mạnh một sự phủ nhận cá nhân và đồng thời đề cao sự thực hiện giá trị bản thân trong công trình xây dựng chung.
(Còn tiếp)

Nguồn: Nguyễn Văn Bông, Luật Hiến pháp và Chính trị học. In lần thứ hai. Sài Gòn 1969. Bản điện tử do pro&contra thực hiện.

[1] Tức “độc tài của giai cấp vô sản” (dictature du prolétariat), tác giả dịch đúng nghĩa, khác với cách dịch của Đảng Cộng sản Việt Nam là chuyên chính vô sản. (p&c).

source :pro&contra  


Nguyễn Xuân Hoàng: “Kiểu cách mà hững hờ”

 Võ Phiến

1 September 2013


vophien tranh Dinh Cuong
Võ Phiến (tranh Đinh Cường)

[Nguồn: Văn học Miền Nam, thể loại truyện (tập 2), tr. 1175-1185 (Văn Nghệ: 1999)]

Truyện Nguyễn Xuân Hoàng, trước hết hãy xin cử ra lấy vài truyện, để xem qua cái dáng dấp đặc biệt của nó.
Truyện “Một người ngồi trong ghế bành” chẳng hạn. Một thiếu phụ – Diệp – đêm ấy nhờ “tôi” đưa tới một quán nước để gặp một người đàn ông chưa từng biết mặt. Là ai vậy? Để làm gì vậy? Tôi tò mò hỏi: “…hình như có một người đàn ông nào đó yêu em và em muốn biết mặt người đàn ông đó. Phải vậy không?” Diệp bảo,”Cứ cho là gần như vậy đi.” Người chưa từng biết mặt hẹn trước: Trong tiệm có chiếc ghế bành bằng da màu đỏ; đến, ông ta sẽ ngồi vào ghế ấy. Diệp và tôi vào, gọi nước, gọi món ăn. Chợt Diệp hướng mắt về phía chiếc ghế bành, ngạc nhiên: Một người đàn ông đã ngồi trong ấy. Thức ăn mang lên, tôi ăn bữa tối một mình.
Xong  một truyện. Đây là một truyện nữa: “Đường mòn.” “Tôi” – Bích –là một cô giáo dạy ở một trường quận hẻo lánh, bất an. Nghỉ hè, tôi thu dọn đồ đạc, làm va-li, chờ chuyến xe về thành phố. Ở thành phố tôi có một người tình chờ đợi; ở đây – chỗ quận lỵ – tôi có một người đàn ông quen thuộc “theo cái nghĩa rất đàn bà.” Chuyến xe chưa đến, có tiếng gõ cửa, gọi “Bích! Bích!” Vạn tươi cười bước vào. “Anh cao lớn, khỏe mạnh, đen đúa. Bộ đồ tác chiến làm người anh như to và dày hơn.” Vạn và tôi không nói gì nhiều. Tôi pha hai ly cà-phê. Hai người ngồi đối diện nhau. Vạn hỏi: “Bích à? Sao em không nói gì với anh hết vậy? Tôi: “Anh muốn em nói với anh cái gì bây giờ? Em sẽ biên thư cho anh mà!” Vạn cúi xuống tháo dây giày. Vạn choàng tay ra sau rịt đầu tôi xuống. Tôi nghe nước miếng mình ứa ra. Rồi Vạn đề nghị: “Anh đóng cửa sổ, nghe em?” Tôi biết Vạn muốn gì ở tôi, và tôi nữa, tôi biết tôi sẽ phải từ giã Vạn như thế nào (…) Tôi nghe những tế bào trong tôi cữa quậy,nghe ngóng, chờ đợi nhức nhối …
Xong một truyện nữa.
Vừa rồi có nói đến cái dáng dấp đặc biệt của truyện Nguyễn Xuân Hoàng. Xem qua, thấy ngay quả là đặc biệt. Hồi tiền chiến chắc không ai nghĩ có thể viết truyện như thế. Viết như thế, viết làm gì? Viết mà không cốt nói lên cái gì, không nhằm làm sáng tỏ cái gì, không nhắn nhủ điều gì, không gởi gắm gì ráo, không đưa ra nhận thức nào, phát giác nào cả … Viết chi vậy?
Không những thời trước không ai viết thế, mà đời nay, bây giờ, viết thế cũng chẳng mấy ai. Viết thế, cũng thậm chí cũng không phải là viết mua vui. Vui vẻ gì đâu những câu chuyện như vậy mà vui?
Viết như vậy có vẻ là một cái viết thật hững hờ. Như thể bắt gặp cái gì đó, tiện tay ghi phác qua, có sao ghi vậy thôi. Ngay trong truyện “Một người ngồi trong ghế bành” trên đây cô Diệp nói về anh bạn của cô ta: “Anh không thực tế chút nào hết, anh lơ lơ lửng lửng, anh bấp bênh và không dứt khoát. Anh gần gũi một cách xa lạ, nồng nàn một cách lãnh đạm, em không yêu anh vì thế.” Nếu Diệp là người “thực tế,” nếu cô hiểu yêu đương đưa tới hôn nhân, tới cuộc sống chung với nhau, thì không yêu “anh” là phải thôi. Anh lơ lơ lửng lửng, ở đời với anh thế nào được!
Gái thực tế không lấy làm chồng một anh như thế. Độc giả thực tế e cũng không đọc những truyện của một tác giả như thế. E như thế, cho nên nghĩ chẳng mấy ai viết vậy. Nhưng nghĩ thế không hẳn đúng. Trước không có ai, nhưng về sau thì có. Chiều hướng rõ dần: viết vậy có cái hay, viết vậy cũng đưa tới thành công. Trong nuớc, gần đây có Phan thị Vàng Anh là một.
Trong nước Nguyễn Khải chẳng hạn là người thực tế; Phan thị Vàng Anh thì lơ lơ. Ngoài nước, Doãn Quốc Sỹ, Nguyễn Ngọc Ngạn chẳng hạn là người viết thực tế; Nguyễn Xuân Hoàng thì lửng lửng. Cái viết nào cũng đẹp. Mỗi người có nét riêng: cô Vàng Anh thì tinh quái, hóm hỉnh; ông Nguyễn, không.
Bảo truyện của Nguyễn Xuân Hoàng hững hờ, ấy là nói về cái vẻ, cái dáng dấp. Còn về công phu xây dựng, về kỹ thuật, thì dựng nên một dáng hững hờ vị tất kém vất vả hơn dựng một dáng nghiêm túc. Ông Nguyễn là người viết đắn đo.
Hãy lấy một ví dụ. Lấy ngay cái truyện “Một người ngồi trong ghế bành” đã nói trên đây. Truyện ấy xuất hiện trong cuốn Sinh nhật do Nguyệt san Văn Uyển ấn hành năm 1968, có nhiều chỗ khác với bản in ở Những Truyện Ngắn Hay Nhất của Quê Hương Chúng Ta ra đời sáu năm sau. Khác là do sự sửa chữa của tác giả: đọc lại thiên truyện chính mình đã viết, đã cho in, ông không bằng lòng. So sánh bản trước với bản sau, theo dõi cách sửa chữa, thì thấy cái ông không bằng lòng nhất ở bản trước là nó dài, nó thừa lời. Bản trước dài 12 trang sách, mỗi trang độ 280 chữ; bản sau còn lại 7 trang, mỗi trang chừng 400 chữ. Như thế sau khi sửa sang cái truyện co lại mất khoảng 1/8: cứ tám dòng chữ có một dòng bị cắt bỏ.
Thử xem một vài trường hợp cắt xén. Trong bản trước, khi truyện kể tới chỗ “tôi” ngồi trên ghế dựa ở nhà Diệp, tréo chân, trông thấy một mảng bùn dính nơi đầu mũi giày, thì “tôi” nghĩ đến con đường lầy lội cạnh nhà mình, nghĩ có lúc mình lỡ ngã xuống có thể bị xe nhà binh cán chết, rồi lại nghĩ luôn tới cái tật của mình là hay nghĩ ngợi về chết chóc mặc dù đang khỏe mạnh v.v… Trong bản sau, những suy tưởng lan man ấy bị loại bỏ.
Trong bản trước, khi truyện kể tới chỗ hai người (Diệp và “tôi”) cùng đi với nhau giữa đường phố, cùng nói cười với nhau, Diệp bảo: “Lâu nay em không biết cười, cười được kể cũng khó ghê. Đừng anh, đừng làm đau em, Diệp kêu lên khi tôi nắm chặt tay nàng kéo ùa về một sạp báo còn chong đèn.” Trong bản sau, đoạn ấy không còn: Diệp không nói cười khó, cũng không kêu đau tay.
Đại khái sửa chữa là thế. Tôi nghĩ lan man: Cắt! Diệp nói lẻo bẻo: Cắt!
Truyện Nguyễn Xuân Hoàng vốn không hề là truyện rườm ra lòng thòng. Trái lại. Đối thoại trong truyện ông thường vắn tắt, ỡm ờ, thông minh, có lúc đến khó hiểu. Ấy thế mà duyệt lại truyện mình, ông cũng chỉ rặt cắt với tỉa với xén. Bỏ bớt chỗ này, loại bớt đoạn kia lia lịa. Rõ ràng có một ý định chỉ giữ lại cái cốt tủy.
“Cốt tủy” trong thiên truyện chúng ta đang nói đây là cái gì vậy? Là cái người ngồi trong ghế bành đó chăng? Trời đất! Một người không tính danh, không hình dạng, không có tiếng nói, không có một cử chỉ nào hết trơn. “Một người đàn ông đã ngồi trong ấy,” chỉ có vậy thôi, không thêm được một lời. Người như vậy mà “cốt tủy” nỗi gì?
Là “tôi” chăng? – “Tôi” tha hồ làm cái rốn của vũ trụ ở đâu khác, chứ ở đây thì không. Ở đây, tôi bị gọi tới gặp Diệp không biết vì lý do gì, được cô ta dẫn đi, dọc đường mua cho gói thuốc, mưa cho tờ báo, trao đổi những câu vẩn vơ, tới nơi cô ta gọi cho một bữa ăn, tôi ngồi ăn một mình. Tôi như vậy, “cồt tủy” chỗ nào.?
Vậy chuyến đi là “cốt tủy” chăng? Một người đàn bà đi gặp một người đàn ông, đi đến một cuộc hẹn hò có thể quyết định tương lai mình: việc như thế quan trọng chứ gì nữa? Chính vì e độc giả nghĩ vậy, tác giả hình như cố gắng đánh bạt ý nghĩ ấy. Trong ấn bản trước, vừa gặp mặt “tôi,” Diệp rối rít, “Anh chờ em có lâu không? Em sắp khóc vì sợ đến trễ hẹn. Em mắc bận quá. Thiệt là kỳ, bữa nay là ngày xui nhất trong năm của em ….” Trong ấn bản sau, đã sửa chữa, Diệp trả tiền taxi tắc-xi xong, “nàng bước xuống xe, cầm tay tôi kéo đi, không nói thêm nột lời nào khác.” Những chuyện Diệp sắp khóc, Diệp than xui xẻo, làm nổi bật tầm quan trọng của chuyến đi. Ông Nguyễn phất tay gạt bỏ tuốt.
Trong ấn bản trước, ở một đoạn khác, đoạn Diệp và “tôi” trò chuyện dọc đường, :tôi” có câu: “Em chẳng quên thứ gì hết, vậy mà không hiểu tại sao chồng em lại có thể bỏ em được.” Nói như thế tức cho biết em là một thiếu phụ đang thiếu chồng. Ở bản sau tác giả xóa bỏ câu nói ấy. Thành thử hoàn ảnh đổi khác hẳn: Em là một thiếu phụ, chấm hết. Đừng nghĩ tới chuyện em thiếu gì, cần gì. Tầm quan trọng của chuyến đi, của cuộc hẹn hò bị đánh trụt xuống ngay.
Thế trong thiên truyện còn gì nữa để làm cái “cốt tủy”? Là Diệp chăng? Có thể lắm. Tại sao không? Đưa ra được một nhân vật linh động như thế, sống như thế, thực như thế, cũng đủ là một thành công đáng xem là chủ đích của thiên truyện. Hà tất nhân vật phải đánh giặc giỏi, phải đủ ba đảm đang, mới là nhân vật xuất sắc? Chỗ đáng tiếc là chính tác giả cản trở chúng ta: ông không nhận vai trò của Diệp, ông đánh lạc định hướng của truyện bằng cái nhan đề; nhan đề không đả động đến Diệp, tác giả truất phế Diệp. Tác giả là chúa tể, thân phận mỗi nhân vật là do ông định chứ còn ai nữa? Vì thế, dù cho chúng ta – độc giả – có chọn Diệp làm cái cốt tủy của thiên truyện thì ở đây ta không hề gặp sự đồng tình sốt sắng của tác giả. Mà gặp một thái độ cơ hồ miễn cưỡng, gần như muốn chối bỏ. Hững hờ là thế.
Hãy lấy thêm một thí dụ khác, truyện kế tiếp trong cuốn sách, tức “Giả mù sa mưa.” Câu chuyện dài dòng hơn: “Tôi” và Thư có một đứa con với nhau, nhưng chưa bao giờ Thư nhìn tôi bằng cái nhìn dịu dàng, nói gì đến chuyện yêu đương. Tôi ở với anh Đàm và chị Trang là chị dâu tôi. Anh Đàm đi lính mất biệt. “Chị Trang đứng đắn đầy sinh lực và đầy dục vọng, anh Đàm mạnh dạn một cách yếu đuối, và tôi? …. Tôi gọi chị Trang bằng chị khi có người khác, và khi chị Trang nằm trong cánh tay tôi, khuy áo mở hết, da thịt trắng trẻo, tôi cũng gọi chị Trang bằng chị. Nhà vắng vẻ, chị Trang gọi: “Chú Mạnh ơi, chú Mạnh! Chú có còn thức đó không?” Có, có, có. Tôi luôn luôn thức tỉnh, mãi mãi thức tỉnh, trong lời kêu gọi của chị. Anh Đàm chợt về rồi chợt đi. Chị Trang gọi kêu, tôi luôn thức tỉnh. Sự việc tiếp tục diễn tiến, không có gì quan trọng. Hững hờ là thế. Vân vân và vân vân.
Vừa rồi có bảo Diệp là một nhân vật sống động, xứng đáng làm cốt tủy của truyện. Nàng hối hả, bẻo lẻo, như cạn cợt mà không cạn cợt, nói năng đùa giễu tuồng như dễ dãi mà không dễ dãi, mà chu tất, mà ý nhị, mà tinh tế, “anh làm gì, đi đâu, ở đâu, em biết hết …,” và biết đúng phóc, biết cả tính nết anh, biết từng thói quen của anh (tới nỗi anh phát sợ). Thế Diệp với “tôi” quan hệ thế nào? Diệp sống ra sao? – Tác giả bỏ lửng. Diệp là một phong cách thấp thoáng thôi, là cái thấp thoáng của một phong cách độc đáo thôi, là một gợi ý nhẹ nhàng thôi. Ở Nguyễn Xuân Hoàng thường không có những trang phân tích tỉ mỉ, những biện bạch dông dài.
Hoặc gợi ý về bóng dáng đáng yêu của em Diệp ở đây, hoặc gợi ý về cuộc sống nhẹ thênh của cô giáo Bích ở truyện “Đường mòn” đã dẫn ở đoạn trên. Bích sắp đi, Vạn vào phòng. “Nếu Vạn không mở đầu, tôi (tức Bích) tin chắc rằng sẽ không có gì xảy ra, nhưng Vạn đã mở đầu tôi tin chắc rằng mọi sự đều được phép xảy ra hết.” Tất nhiên là Vạn mở đầu chứ. Và mọi sự đã xảy ra. Dễ dàng thôi. Không tính trước, không đắn đo. Ngẫu nhiên. Như cuộc đụng độ tình cờ giữa hai toán quân đôi bên trên đường di chuyển. Như một cuộc tao ngộ chiến, không phải một cuộc phục kích, không có bố trí, điều nghiên, kế hoạch gì ráo. Chuyện có thể có, có thể không. Ngoài dự định. Cũng không có hậu quả đáng kể. Xảy ra cách hững hờ.
Không phải mọi thiên truyện của Nguyễn Xuân Hoàng đều một kiểu, tất nhiên. Làm gì có một người nhạt nhẽo, có một sự nghiệp trước tác đơn điệu đến thế! Nhưng cái cốt cách chung là thế. Vả lại cuối một thời kỳ sáng tác, “Một người ngồi trong ghế bành” được ông chọn và chữa: cái ông chọn và cách ông sửa chữa nó hẳn đã tiết lộ xu hướng của ông chứ.
Nguyễn Xuân Hoàng cẩn thận kết cấu nên những công trình hững hờ mà kiểu cách. Một tác giả không có chủ tâm, cặm cụi tạo nên những tác phẩm không có chủ đích (không có chủ đích nào ngoài nghệ thuật).
Vậy ông Nguyễn muốn … vượt không gian và thời gian chăng? – Rất có thể. Có thể ông không hề muốn bắt vào thời thế, không có ý phát biểu gì về các vấn đề xã hội, chính trị …. Thế nhưng có dễ đâu. Lũ cỏ lan mặt đất, mớ rêu xanh dưới đế giày, mấy con éng liệng ngược liệng xuôi trong tòa nhà vắng …, những thứ lăng nhăng ấy nào có định phát biểu cái gì? Nào có ý nói lên cái gì? Chẳng qua tự chúng nó, bản thân chúng nó, bày ra cái hoang sơ tiêu điều thôi.
Đám nhân vật của Nguyễn Xuân Hoàng – đa số là những người trẻ – không hẹn mà họ cùng nhau bày ra một vẻ chung, khiến những ai có chút quan tâm đến thế cuộc lúc bấy giờ hẳn phải chú ý ….
Trước hết là thái độ chung chạ của họ. Giữa người trẻ với nhau, tất có xảy ra một cái gì. Trong đám nam nữ nhân vật của ông Nguyễn cũng xảy ra lắm điều, trừ tình yêu. Nhiều nhất là sự chung chạ.
Diệp thân mật với “tôi” đến nỗi có lần “tôi” hỏi “Sao em còn đợi gì mà chẳng lấy quách tôi đi có hơn không.” Lấy “tôi” à? Còn khuya. Diệp vừa nói rõ: “Ai mà yêu nổi ông.” (“Một người ngồi trong ghế bành.”)
Còn Vạn với Bích? Còn giữa hai người khác phái mà “mọi sự đều được phép xảy ra” và đã từng xảy ra ngay trong truyện? Đối với Bích, Vạn chỉ là một người đàn ông “quen thuộc, theo cái nghĩa rất đàn bà,” thế thôi. (“Đường mòn.”)
Thế giữa Thư với Mạnh? Giữa hai người đã có một đứa con, đứa “con của chúng ta” thì sao? Mạnh suy nghĩ, “Chúng tôi có là gì nhau đâu (….) Chúng tôi chỉ là bạn, bạn, ngắn ngủi có từng ấy thôi. “Chưa bao giờ Thư nhìn tôi bằng cái nhìn dịu dàng, nói gì đến chuyện yêu đương.” Mạnh còn nghĩ xa hơn: “Tôi thì tôi rất ghét những con vật làm ra vẻ cao siêu đó lắm.” (Thư là một trong số những “con vật” ấy.) Thư cũng nghĩ ngợi về Mạnh: “Tôi chưa bao giờ yêu anh. Tuy nhiên tôi có một trí nhớ tốt: anh là vật xúc tác kỳ diệu nhất mà tôi được biết.” Thư được “biết”điều ấy vào cái hôm Mạnh say khướt rồi ở lại một mình chung phòng với Thư suốt ngày. (“Giả mù sa mưa.”)
Mạnh với Thư “có là gì nhau đâu;” Lữ với Hà cũng là một cặp nữa, và cũng tự kiểm điểm, “chúng tôi chẳng là gì nhau.” Hà tự hỏi: “Làm sao tôi có thể yêu được Lữ?” Thế thì tại sao lại gần nhau?” Hà bảo: “Có lẽ rồi tôi đến ghiền anh mất.” (“Sinh nhật trên sân thượng.”)
Một vật xúc tác tốt, một thói quen trở nên cái ghiền. Ngoài ra, trong cuốn Sinh nhật, về mối liên hệ nam nữ còn có nhiều lối nói khác: Bóng tối, hơi thở dục tình, những mơn trớn làm rởn da gà (trang 29), những rạo rực của một thân xác ham muốn (trang 64), thích chiều cao và bề dầy của thân thể anh, thèm khát được ôm ấp, chịu đựng và chế ngự sức nặng của thân thể đó, muốn bị bẹp dí, rã rời, tan biến như mây khói khi gần gũi (trang 67), con sâu dục vọng đang bò lẩn quẩn (trang 73), thân thể tôi đây anh cứ mở cửa đi vào, bởi làm đàn bà chỉ có ý nghĩa khi có sự hiện diện của một người đàn ông (trang 78), nghe nước miếng mình ứa ra thèm khát, nghe những tế bào trong tôi cựa quậy, nghe ngóng, chờ đợi nhức nhối (trang 88) v.v….
Toàn những thân xác rạo rực. Còn “trái tim,” chỗ phát xuất của tình yêu xưa nay? – “Trong đời sống chúng ta thiếu thốn hết đủ thứ nhưng trong trái tim chúng ta lại quá thừa sự dửng dưng (….) Không, chẳng còn thứ tình yêu nào dành cho chúng tôi hết” (trang 66).
Những nhân vật dửng dưng, không có tình yêu, những nhân vật ấy cũng không buồn nghĩ về cuộc sống: “Chưa bao giờ nàng trả lời tôi một câu nào khác ngoài câu: Không, tôi chẳng nghĩ gì hết” (trang 56). “Thói quen, tôi coi đời sống như một chuỗi những thói quen, những thói quen tốt và xấu đan kết vào nhau chằng chịt (….) Thói quen làm ta dửng dưng hết mọi sự vật, trí tưỡng tượng khô cằn và cảm xúc cũng trở nên chai cứng” (trang 61). “Đời sống bị bủa vây bởi những đều đặn nhàm chán, niềm tin cũng đã tàn rữa” (trang 64).
Cả cuộc sống đã thế, huống hồ cái chiến tranh đang diễn ra quanh đây. Đáng gì mà phải suy nghĩ, phải tìm hiểu. Bất quá, đó là “một cuộc chiến kỳ lạ đến khó hiểu” (trang 75). Rối lắm. Kỳ lạ lắm. Không hiểu được. Đuổi nó đi chỗ khác chơi. Đừng lý đến nó.
Những nhân vật như thế không riêng của Nguyễn Xuân Hoàng. Nhân vật bực dọc với cuộc chiến kỳ lạ, phi lý v.v…, nhan nhản trong truyện các ông Dương Nghiễm Mậu, Nguyễn Đình Toàn, Thế Uyên, trong thơ Nguyễn Bắc Sơn v.v…. Kẻ trót dính vào truyện thời cuộc, không khỏi tưởng tượng ra cái cảnh đạo quân hùng hổ của Miền Bắc xông vào, xéo lên đám nhân vật nọ như lên một khối nhão nhoẹt, ngơ ngác, vô lực, vô thức, không một chút đề kháng: cảnh tượng thảm hại quá chừng.
Các tác giả sẽ nhún vai: Cái đó không thuộc về nghệ thuật.

Võ Phiến
12-97
 
Source  : damau.org