16/9/13

BBC - VN có nhượng bộ TQ về biên giới không?


VN có nhượng bộ TQ về biên giới không?

Cập nhật: 11:01 GMT - thứ hai, 16 tháng 9, 2013 

Hiệp ước Biên giới trên đất liền Việt Nam – Trung Quốc được ký năm 1999
Vấn đề biên giới lãnh thổ giữa Việt Nam và Trung Quốc luôn thu hút sự quan tâm và tranh cãi trong dư luận người Việt trong và ngoài Việt Nam.
Cho đến hôm nay, Hiệp ước Biên giới trên đất liền được hai nước ký năm 1999 vẫn gây ý kiến trái ngược.
Một nhà nghiên cứu về tranh chấp Biển Đông, Dương Danh Huy, mới đây gửi cho BBC bài viết về chính sách thông tin của Việt Nam liên quan biên giới lãnh thổ và ranh giới biển. Bài viết đặt ra một số câu hỏi cho Tiến sĩ Trần Công Trục, cựu trưởng ban Biên giới Chính phủ Việt Nam, sau khi ông Trục, trên báo Việt Nam, kể lại những năm đàm phán biên giới với Trung Quốc.
Khi được Lê Quỳnh của BBC liên lạc, ông Trần Công Trục đồng ý trả lời những "băn khoăn" về cuộc đàm phán biên giới trên bộ và phân định Vịnh Bắc Bộ giữa Việt Nam và Trung Quốc.
Xin giới thiệu với quý vị hai bài viết muốn giải đáp thêm các câu hỏi về quá trình đàm phán giải quyết vấn đề biên giới, lãnh thổ giữa Việt Nam và Trung Quốc.

Ý kiến ông Dương Danh Huy

Cho đến nay vẫn có có nhiều ý kiến khác nhau về tính công bằng của hai hiệp định Việt-Trung về ranh giới trên bộ và về vịnh Bắc Bộ được ký vào năm 1999 và 2000.
Mới đây, trả lời phỏng vấn trên báo Giáo dục Việt Nam về hai hiệp định này, TS Trần Công Trục, nguyên trưởng ban Biên giới Chính phủ Việt Nam, nói:
“Điều đáng nói là không chỉ dư luận người dân mà ngay cả những người làm công tác nghiên cứu, các nhà khoa học lẫn những nhà quản lý, lãnh đạo vẫn còn nhiều người mơ hồ, lăn tăn về chuyện này. Thậm chí có người suy đoán “chắc là dư luận nói đúng” bởi vì họ nghĩ Việt Nam là nước nhỏ, nước yếu ở cạnh một nước mạnh, nước lớn như TQ thì phải có sự nhượng bộ không thể tránh khi đàm phán tranh chấp biên giới, lãnh thổ.”
Điều TS Trần Công Trục nói đến là do một khuyết điểm cơ bản trong chính sách của Việt Nam về thông tin liên quan đến biên giới lãnh thổ và ranh giới biển.

Trấn an?

Nếu Việt Nam công bố minh bạch và đầy đủ thông tin thì đã không có nhiều người làm công tác nghiên cứu, nhà khoa học, nhà quản lý, lãnh đạo “mơ hồ, lăn tăn” về các hiệp định lãnh thổ và biển, mà dư luận người dân cũng đã đỡ xôn xao. Thông tin đó không thể dựa trên việc quan chức hé ra một phần, không thể được thay thế bằng thông tin hành lang, hay những lời khẳng định, trấn an. Ngược lại, Việt Nam phải có chính sách cung cấp cho nhân dân thông tin chính thức, minh bạch và đầy đủ, theo tư duy 3C, “Công khai, Công luận, Công pháp quốc tế”.
Không thể bác bỏ những suy đoán mà TS Trần Công Trục đề cập đến, hay những suy đoán khác, bằng những lời phủ định “chay”. Để bác bỏ chúng, cần công bố những thông tin như: trong đàm phán Việt Nam đã đòi gì, Trung Quốc đã đòi gì, mỗi bên đã đưa ra dẫn chứng và lập luận gì cho yêu sách của mình, và cuối cùng mỗi bên được gì với lý do gì. Người quan tâm sẽ dùng những thông tin đó để đánh giá giá trị pháp lý của chứng cứ của mỗi bên và tính công bằng của thỏa hiệp.
Nếu thay thế những thông tin đó bằng những lời trấn an thì nhân dân không thể biết có bên nào đã ngang ngược hay không, và bên kia có đã đành phải chấp nhận hay không; họ chỉ có thể lựa chọn giữa có tin lời trấn an hay không. Lãnh thổ là của nhân dân cho nên họ phải được hơn như thế: họ phải được có thông tin về đàm phán lãnh thổ và biển. Các lời khẳng định, các lời trấn an, tin hành lang và tin đồn là không đáp ứng đủ quyền được biết của nhân dân.
Nhưng cho tới nay, mặc dù tọa độ của các cột mốc đã được công bố, vẫn chưa có thông tin đầy đủ và minh bạch về cuộc đàm phán dẫn đến chúng.
Khu vực Núi Đất
Một thí dụ là khu vực Núi Đất, mà Trung Quốc gọi là Lão Sơn và đánh chiếm vào tháng 4 năm 1984. Vào tháng 7 năm 1984 Quân đội Nhân dân Việt Nam đã mở chiến dịch kéo dài nhiều năm, chiến đấu quyết liệt để giành lại những vùng bị Trung Quốc chiếm đóng. Với xương máu của rất nhiều người lính, Việt Nam đã giành lại được nhiều phần.
Trên bàn đàm phán, Việt Nam cũng đã giành lại được một số mỏm núi. Theo thông tin không chính thức từ phía Trung Quốc và phía Việt Nam thì có một mỏm có vẻ như cả hai bên không chối cãi là của Việt Nam, nhưng Trung Quốc đã xây nghĩa trang quân đội trên đó và họ chủ trương là khu vực nghĩa trang là bất khả xâm phạm.

Việt Nam có cuộc chiến biên giới với Trung Quốc tháng Hai 1979
Có việc đó hay không? Nếu có thì vì ly do nào mà Việt Nam đã chấp nhận? Vì nhân đạo và địa chính trị, hay vì không có đủ chứng cứ pháp lý, hay lý do nào khác? Tại sao thông tin không được công bố?

Vịnh Bắc Bộ

Một thí dụ khác là ranh giới trong vịnh Bắc Bộ. Ban đầu Việt Nam chủ trương kéo dài đường phân định trong Hiệp định Pháp-Thanh 1887 để chia cả lãnh hải 12 hải lý và vùng đặc quyền kinh tế bên ngoài 12 hải lý, nhưng Trung Quốc đã không chấp nhận. Sau đó Việt Nam chủ trương chia theo luật quốc tế về phân định biển. Theo tài liệu đã công bố của nhân viên nhà nước có chức năng thì Trung Quốc chủ trương chia đều 50:50, không cần đến lập luận pháp lý. Cuối cùng hai bên đã thỏa hiệp bằng tỷ lệ 53:47 nghiêng về Việt Nam.
Theo bản đồ độ phân giải cao thì nhiều điểm trong đường phân định vùng đặc quyền kinh tế trong vịnh Bắc Bộ nằm gần lãnh thổ Việt Nam hơn lãnh thổ Trung Quốc. Nổi bật nhất là điểm 17 nằm gần bờ biển Hà Tĩnh hơn đảo Hải Nam khoảng 50 km, và điểm 14 nằm gần bờ biển Nam Định hơn đảo Hải Nam khoảng 37 km. Trong khi đó, không có điểm nào nằm gần lãnh thổ Trung Quốc hơn lãnh thổ Việt Nam. Nếu lấy một đường trung tuyến nào đó làm chuẩn (có thể có vài đường trung tuyến khác nhau đều tương đối hợp lý) thì có thể nói là Việt Nam được ít hơn đường trung tuyến ít nhất là nhiều trăm cây số vuông.
Vì vậy, mặc dù lời phê phán rằng Hiệp Định Pháp-Thanh 1887 đã chia toàn bộ vịnh Bắc Bộ là lời phê phán không hợp lý, nhưng quan điểm chính thức của Việt Nam, rằng Hiệp Định vịnh Bắc Bộ 2000 là công bằng, cũng là quan điểm chưa thuyết phục.
Có thể cho rằng hiệp định đó là đại khái công bằng ở một mức nào đó, nhưng mức đó có là công bằng đủ hay không thì là điều có thể tranh luận. Trong tranh luận đó, thể có người cho rằng trước một Trung Quốc vừa mạnh, vừa tham, bất chấp luật quốc tế, thì việc Việt Nam đạt được mức công bằng đó là khá rồi, và có thể có người có quan điểm ngược lại.
Cũng có thể có người cho rằng việc được ít hơn đường trung tuyến đó là giá phải chăng cho việc có một ranh giới ổn định trong vịnh Bắc Bộ, và có thể có người có quan điểm ngược lại.
Điều quan trọng ở đây là phải có thông tin chính thức và có tranh luận khoa học, duy lý. Đó cũng là nguyên tắc chung cho việc nhận định về các hiệp đinh biên giới, ranh giới.


Ý kiến ông Trần Công Trục




Việt - Trung ra Tuyên bố chung về hoàn thành công tác phân giới cắm mốc trên biên giới đất liền ngày 31/12/2008
Trước hết, tôi xin cảm ơn và hoan nghênh sự quan tâm và bày tỏ một số băn khoăn thắc mắc của học giả Dương Danh Huy sau khi đọc nội dung trả lời phỏng vấn của tôi đăng trên trang báo Điện tử Giáo dục Việt Nam gần đây.
Ông Dương Danh Huy là học giả quen biết của độc giả Việt Nam và quốc tế quan tâm đến lĩnh vực biên giới, lãnh thổ, đặc biệt là vấn đề biển, đảo, trong đó có tôi. Tôi đã đọc, nghiên cứu khá kỹ những nội dung mà ông Dương Danh Huy đã phát biểu trên một số phương tiện thông tin truyền thông và một số công trình nghiên cứu đã đăng tải trên trang mạng điện tử “Quĩ nghiên cứu Biển Đông”. Là một công dân Việt Nam luôn tâm huyết với vấn đề biên giới, lãnh thổ, biển, đảo của Tổ Quốc, hiện nay là một người nghiên cứu độc lập, tôi tâm đắc và đánh giá cao những công trình nhiên cứu của ông Dương Danh Huy, tôi cũng chia sẻ với những băn khoăn, trăn trở của ông có liên quan đến kết quả đàm phán giải quyết vấn đề biên giới trên bộ và phân định Vịnh Bắc Bộ giữa Việt Nam và Trung Quốc trong thời gian qua.
Đúng là sở dĩ cho đến nay trong dư luận vẫn còn tồn tại những băn khoăn, thắc mắc, thậm chí vẫn còn nghi hoặc về một số thành quả của quá trình đàm phán giải quyết vấn đề biên giới, lãnh thổ với Trung Quốc, chủ yếu là do thiếu thông tin hoặc thông tin không rõ ràng, minh bạch, thậm chí mâu thuẫn nhau, chưa kể tới những thông tin thiếu trung thực, khách quan xuất phát từ những đông cơ khác nhau. Đó là một thực tế ai cũng nhận ra. Dư luận đòi hỏi được cung cấp thông tin là hoàn toàn chính đáng, là nhu cầu cần kíp.
Tuy nhiên công bằng mà nói, sở dĩ còn tình trạng này là vì có những nguyên nhân chủ quan, khách quan mà chúng ta nên bình tĩnh xem xét. Là người trong cuộc, tôi có thể nói rằng đòi hỏi của công chúng nói trên mặc dù rất chính đáng, cần thiết, nhưng những người có trách nhiệm không thể có khả năng đáp ứng ngay, kịp thời được. Bởi vì đây là vấn đề hết sức hệ trọng, nhạy cảm và rất rất phức tạp, có liên quan đến nhiều lĩnh vực trong đời sông xã hội. Có những nội dung có thể công khai ngay được, cũng có những nội dung chưa thề công khai ngay được, nhất là trong thởi gian đang đàm phán hoạch đinh biên giới và tiến hành phân giới cắm mốc trên thực địa.
Mọi người đều biết thời gian đàm phán hoạch định và phân giới cắm mốc kéo dài chí ít là từ năm 1993 cho đến năm 2008, trước đó nữa là thời gian nghiên cứu chuẩn bị phương án đàm phán, mọi hồ sơ tài liệu đều phải được bảo quản theo chế độ bảo mật. Từ sau khi hoàn thành về cơ bản phân giới cắm mốc cho đến nay mới chỉ khoảng 5 năm, lại còn tiếp tục đàm phán một số nội dung quản lý biên giới, mốc giới, cửa khẩu, sử dụng sông suối biên giới chung…Với thời gian đó và với khối lượng công việc đó, có lẽ khó có thể có ai đáp ứng ngay được những đòi hỏi của dư luận. Mặc dù vậy, các tổ chức, cá nhân có trách nhiệm và có liên quan cũng đã cố gắng công bố nhiều ấn phẩm khá tốt về lĩnh vực này.
Có thể nói rằng thông tin ngày càng phong phú, rõ ràng, công khai, minh bạch hơn. Mọi người có thể tìm mua tại các cửa hàng sách hay truy cập trên các trang mạng những ấn phẩm này. Tôi tin rằng các Cơ quan có trách nhiệm của Việt Nam sẽ dần dần bổ sung cung cấp đầy đủ mọi thông tin có liên quan và cần thiết. Thiết nghĩ đó cũng là trọng trách của các tổ chức, cơ quan, cá nhân có liên quan trước đòi hỏi chính đáng của công luận. Bởi vì công cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền và sự toàn vẹn lãnh thổ quốc gia của các thế hệ người Việt Nam vẫn đang tiếp diễn.
Trở lại nội dung cụ thể mà ông Dương Danh Huy nêu lên, tôi mạn phép có đôi điều bình luận theo nhận thức và thông tin mà bản thân tôi tự nắm bắt được:

Tình hình biên giới

Trước hết, có lẽ xin được phép nhắc lại khái quát về tình hình biên giới đất liền Việt Nam-Trung Quốc.
Biên giới trên đất liền Việt Nam – Trung Quốc dài khoảng 1.400 km tiếp giáp giữa 7 tỉnh Điện Biên, Lai Châu, Lào Cai, Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn và Quảng Ninh của Việt Nam với tỉnh Vân Nam và khu tự trị dân tộc Choang Quảng Tây của Trung Quốc. Biên giới này được hoạch định và phân giới cắm mốc lần đầu tiên trong lịch sử bằng Công ước hoạch đinh biên giới ngày 20 tháng 6 năm 1887 và Công ước bố sung ngày 20 tháng 6 năm 1895 ký kết giữa Pháp và nhà Thanh (Trung Quốc).

Kim ngạch thương mại qua biên giới Việt - Trung đạt trên 8,6 tỷ USD năm 2012
Trong hơn 100 năm kể từ khi Công ước Pháp Thanh được ký kết, biên giới giữa 2 nước đã trải qua nhiều biến đổi trên thực địa do thời tiết, do diến đổi địa hình địa vật và do những biến động chính trị, xã hội ở mỗi nước cũng như trong quan hệ giữa 2 nước, đặc biệt là cuộc chiến tranh biên giới năm 1979. Vì vậy, đã nẩy sinh những tranh chấp hết sức phức tạp từ nhận thức khác nhau về hướng đi của biên giới cho đến lịch sử quản lý thực tế về biên giới…Chẳng hạn, lời văn mô tả và bản đồ có nơi không đầy đủ, chính xác, rõ ràng; các cột mốc biên giới được căm từ cuối thế kỷ XIX không được xác định bằng lưới tọa độ, nhiều mốc bị hư hỏng, bị mất, xê dịch, nhiều mảnh bản đồ gốc không còn; trên một số khu vực biên giới xẩy ra sự chuyển dịch dân cư không theo biên giới pháp lý…
Từ tình hình nói trên, nhằm xác định lại chính xác biên giới để quản lý biên giới lãnh thổ tốt hơn, tránh những tranh chấp phức tạp xẩy ra làm ảnh hưởng đến quan hệ chính trị giữa hai nước, ảnh hưởng đến môi trường hòa binh, ổn định, hợp tác và phát triển của mỗi nước…, ngay sau khi bình thường hóa quan hệ tháng 11 năm 1991, hai bên đã thỏa thuận tiến hành đàm phán hoạch định biên giới mới thay cho Công ước Pháp - Thanh 1887, 1895 và tiến hành phân giới cắm mốc tại thực địa dựa trên nội dung của Hiệp ước hoạch định biên giới mới này. Quá trình đàm phán đã diễn ra như sau:
- Từ năm 1990, sau khi hai nước khôi phục quan hệ, từ 7-11-1991 đến 10-11-1991 đã ký hiệp định tạm thời về việc giải quyết công việc trên vùng biên giới: quản lý biên giới theo tình hình thực tế; thẩm quyền giải quyết biên giới cấp Chính phủ; giữ mốc biên giới.
- Từ năm 1992, đàm phán lần thứ 4 diễn ra ngày 19-10-1993 ký thoả thuận về những nguyên tắc cơ bản giải quyết vấn đề biên giới lãnh thổ giữa 2 nước; trong thỏa thuận này, hai bên đã nhất trí mở ra 4 diễn đàn đàm phán về biên giới lãnh thổ (3 cấp chuyên viên và 1 cấp Chinh phủ) và đặc biệt đã thống nhất được căn cứ pháp lý để đàm phán là: “Hai bên đồng ý căn cứ vào Công ước hoạch định biên giới ký giữa Pháp và Trung Quốc ngày 26-6-1887 và Công ước bổ sung Công ước hoạch định biên giới 20-6-1895, cùng các văn kiện và bản đồ hoạch định, cắm mốc kèm theo đã được Công ước và Công ước bổ sung nói trên xác nhận hoặc quy định; đối chiếu xác định lại toàn bộ đường biên giới trên đất liền giữa VN và TQ…”
- Như vậy, mọi tư liệu lịch sử, bản đồ, sách giáo khoa, thậm chí cả các tài liệu chính thức đã xuất bản trước thời điểm này, nếu không được xác nhận là một bộ phận của Công ước nói trên, đều không có giá trị dùng làm căn cứ để xác định hướng đi của đường biên giới trong quá trình đàm phán lần này.
- Thực hiên Thỏa thuận nói tên, từ tháng 2/1994 đến tháng 12/1999, 2 bên đã họp 6 vòng cấp Chính phủ, 16 vòng nhóm công tác liên hợp, 3 vòng nhóm soạn thảo Hiệp ước.
- Tại vòng 2 (tháng 7/1994) nhóm công tác đã trao bản đồ chủ trương, qua đối chiếu có 870km/1360km đường biên giới trùng nhau (67%), 436km/1360km, 289 khu vực không trùng nhau với tổng diện tích 236,1km2 trong đó có 74 khu vực loại A (1,87km2) kỹ thuật vẽ chồng lấn nhau, 51 khu vực loại B(3,062km2) không vẽ tới, 164 khu vực loại C do quan điểm 2 bên khác nhau, trong đó có một số khu vực tranh chấp trên thực địa.
- Đàm phán cấp Chính phủ vòng 6 (25-28 tháng 9 năm 1998) thống nhất phân khu vực C thành 3 loại: khu vực Công ước đã quy định rõ ràng, khu vực một bên quản lý quá hoặc vạch quá đường biên giới, khu vực Công ước không qui định rõ ràng để xử lý theo nguyên tắc đã thỏa thuận, chẳng hạn:
1. Nguyên tắc các bên trao đổi vô điều kiện cho nhau những vùng đất quản lý quá đường biên giới: “Sau khi 2 bên đối chiếu xác định lại đường biên giới, phàm những vùng do bất kỳ bên nào quản lý quá đường biên giới về nguyên tắc cần trả lại cho bên kia không điều kiện” (Phần II, điểm 3, Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản giải quyết vấn đề biên giới lãnh thổ giữa CHXHCN VN và CHND TH, ngày 19 tháng 10 năm 1993).
  • Trong quá trình phân giới cắm mốc, đối với một số khu vực nhạy cảm do có sự tồn tại của dân cư vượt qua biên giới pháp lý mới được hoạch định thì hai bên thỏa thuận thực hiện nguyên tắc giảm tối đa tác động đến khu dân cư, điều chỉnh biên giới sao cho cân bằng về diện tích, giữ nguyên hiện trạng khu dân cư, như nhà cửa, ruộng vườn, nghĩa trang mồ mả…Thực hiện nguyên tắc này, hai bên đã thỏa thuận xử lý thỏa đáng các khu vực có dân cư sinh sống; chẳng hạn, 4 khu vực loại C( 66c, 81c, 127c, 260c) diện tích khoảng 7,2 km2 có dân cư Việt Nam sinh sống quá đường biên giới pháp lý mới về phía Trung Quốc vẫn được giữ nguyên; 5 khu vực loại C với diện tích khoảng 5,7 km2 dân TQ ở quá đường biên giới pháp lý về phía Việt Nam cũng được giữ nguyên hiện trạng.
  • Đối với khu vực điểm cao có chốt quân sự, thì các điểm cao nằm trong lãnh thổ của nước nào thì thuộc nước đó. Đối với các điểm cao nằm ngay trên đường biên thì không bên nào được phép đóng quân hay không được xây dựng bất kỳ công trình quân sự nào trên đó, phù hợp với thông lệ quốc tế.
2. Nguyên tắc giải quyết đường biên giới trên sông suối: “Đối với những đoạn biên giới đi theo sông, suối, hai bên đồng ý sẽ tính đến mọi tình hình và tham khảo tập quán quốc tế, thông qua thương lượng hữu nghị để giải quyết” (Phần II, điểm 4, Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản giải quyết vấn đề biên giới Việt – Trung 19 tháng 10 năm 1993). Tại vòng 5 đàm phán cấp Chính phủ, hai bên đã đạt được thỏa thuận về nguyên tắc giai quyết đường biên giới trên sông suối giữa 2 nước: Đối với những đoạn biên giới đã được Công ước 1887, 1895 xác định rõ ràng thì căn cứ vào các quy định của Công ước để xác định biên giới, cũng như sự quy thuộc các cồn bãi trên sông suối biên giới; đối với những đoạn biên giới theo sông suối chưa được Công ước xác định rõ ràng thì 2 bên sẽ áp dụng nguyên tắc phô biến của Luật pháp và Tập quán quốc tế để xác định:
  • Trên các đoạn sông, suối tàu thuyền đi lại được đường biên giới sẽ đi theo trung tâm luồng chính tàu thuyền chạy.
  • Trên các đoạn sông suối tàu thuyền không đi lại được đường biên giới sẽ đi theo trung tâm cua dòng chảy hoặc dòng chính.
    Lễ hoàn thành công tác phân giới cắm mốc biên giới trên đất liền ngày 23/2/2009 tại cửa khẩu Hữu Nghị, tỉnh Lạng Sơn
- Hiệp ước hoạch định biên giới được hai nước Việt Nam, Trung Quốc chính thức ký ngày 30 tháng 12 năm 1999 và được Quốc hội Việt Nam phê chuẩn ngày 6 tháng 6 năm 2000 và Quốc hội Trung Quốc phê chuẩn ngày 29 tháng 4 năm 2000. Hiêp ước này mô tả hướng đi của đường biên giới bằng lời văn và thể hiện bằng đường màu đỏ trên bản đồ tỷ lệ 1/500.000. Dựa vào Hiệp ước này, từ tháng 12 năm 2001, hai bên đã tiên hành phân giới, cắm mốc.
- Đến ngày 31 tháng 12 năm 2008, công tác phân giới cắm mốc đã cơ bản hoàn thành. Kết quả là: Chiều dài biên giới chính xác là 1.449,566 km, trong đó có 383, 914 km đường biên giới đi theo sông suối; cắm được 1970 cột mốc, trong đó có 1548 cột mốc chính, 422 cột mốc phụ. Toàn bộ công việc này được tổ chức thực hiện để phân vạch đường biên giới trên thực địa một cách chính xác, cụ thể, rõ ràng, hoàn chỉnh và dược đánh dấu bằng một hệ thống mốc quốc giới chính quy , bền vững và đủ về số lượng trên thực địa. Khi tiến hành phấn giới cắm mốc, hai bên đã vận dụng các nguyên tắc đã thỏa thuận để xử lý những trường hợp có liên quan đến dân cư, tài sản, thực tế quản lý, thậm chí cả đến vấn đề tâm linh, tín ngưỡng…làm sao đảm bảo lợi ích chính đáng cho nhân dân hai bên biên giới.
Thiết nghĩ với những thông tin này có lẽ cũng có thể giúp giải đáp được phần nào những băn khoăn, thắc mắc nói trên.

Khu vực Núi Đất

Ông Dương Danh Huy đặt vấn đề rằng: “Khu vực Núi Đất, mà Trung Quốc gọi là Lão Sơn…và theo thông tin không chính thức từ phía Trung Quốc và phía Việt Nam thì có một mỏm có vẻ như cả hai bên không chối cãi là của Việt Nam, nhưng Trung Quốc đã xây nghĩa trang quân đội trên đó và họ chủ trường là khu vực nghĩa trang là bất khả xâm phạm. Có việc đó hay không? Nếu có thì vì lý do nào mà Việt Nam đã chấp nhận? Vì nhân đạo và địa chính trị, hay vì không có đủ chứng cứ pháp lý, hay lý do nào khác? Tại sao thông tin không được công bố?
Theo thông tin mà tôi được biết thì đúng là có việc Việt Nam đã đồng ý điều chỉnh chút ít hướng đi của đường biên giới ở khu vực có nghĩa trang do Trung Quốc đã xây dựng trước đây, mặc dù về pháp lý đường biên giới mà 2 bên đã xác định là phải đi qua khu vực nghĩa trang này.
Theo tôi, đây là nhân nhượng tự nguyên, thỏa đáng, hợp tình hợp lý. Bởi vì đây là nhân nhượng vừa mang tính nhân văn, nhân đạo, vừa phù hợp với nguyên tắc mà hai bên đã thỏa thuận khi xác định đường biên giới đi qua khu vực có sự tồn tại của dân cư khu vực biên giới…như tôi đã đề cập ở phần trên.

Vịnh Bắc Bộ

Tôi đã đọc bài viết trên BBC của ông Dương Danh Huy có liên quan đến việc phân định Vịnh Bắc Bộ, “Nhìn lại Hiệp định Vịnh Bắc Bộ sau 10 năm”.
Tôi đánh giá cao những nhận xét của ông Dương Danh Huy về bản chất của “đường biên giới trong Vịnh Bắc Bộ” theo Công ước Pháp Thanh 1887. Nội dung của Công ước là:
“Các đảo phía đông kinh tuyến Paris 105 °43, kinh độ đông, tức là đường bắc-nam đi qua điểm cực đông của đảo Tch'a Kou hay Ouan-chan (Trà Cổ) và làm thành biên giới cũng được cho là của Trung Hoa. Các đảo Go- tho và các đảo khác phía tây kinh tuyến này thuộc về An Nam.
Những người Trung Hoa phạm pháp hoặc bị cáo buộc phạm pháp tìm nơi trú ẩn tại các đảo này, sẽ được, theo quy định của điều 27 của Hiệp định ngày 25 tháng Tư năm 1886, tìm kiếm, bắt giữ và dẫn độ bởi Chính quyền Pháp.”
Theo đánh giá của ông Dương Danh Huy thì Công ước không nói rằng kinh tuyến 105°43’ Paris, tức là kinh tuyến 108°3’13’’ Greenwich, là ranh giới phân định biển cho toàn bộ Vịnh Bắc Bộ. Bản đồ đính kèm công ước vẽ ranh giới dọc kinh tuyến 105°43’ Paris từ cực đông đảo Trà Cổ ra biển và ngừng cách đảo khoảng 5 hải lý, tức là chỉ cho một phần rất nhỏ của Vịnh.

Trong chuyến thăm Trung Quốc của Chủ tịch Trương Tấn Sang năm 2013, hai nước nói sẽ thăm dò dầu khí chung trong khu vực thỏa thuận ngoài khơi vịnh Bắc Bộ
Theo tôi, nhận xét của ông Dương Danh Huy là rất chuẩn xác. Bởi vì, “những điều trên cho thấy, vào năm 1887, trong Vịnh Bắc Bộ, Pháp không cho rằng họ có chủ quyền hay quyền chủ quyền trong vùng biển cách bờ hơn 12 hải lý. Cũng không có chứng cớ là vào thời điểm đó Trung Quốc cho rằng họ có chủ quyền hay quyền chủ quyền trong vùng biển này” và “Sẽ hợp lý hơn nếu cho rằng kinh tuyến 108°3’13’’ trong Công ước chỉ phân chia đảo và phân chia lãnh hải ven bờ. Như vậy, công ước Pháp-Thanh chưa phân định phần lớn Vịnh Bắc Bộ, và việc phân định Vịnh Bác Bộ là cần thiết”.
Chính chúng tôi cũng đã có nhận định như vậy trước khi xây dựng phương án đàm phán phân định vịnh Bắc Bộ. Trên tinh thần thật sự khách quan, cầu thị, chúng tôi cũng đã mạnh dạn đề nghị từ bỏ chủ trương khẳng định rằng trong vịnh đã có biên giới theo Công ước Pháp Thanh 1887. Thay vào đó, khi đàm phán phân định vịnh Bắc Bộ, Việt Nam sẽ theo nguyên tắc của Công ước của LHQ về Luật Biển năm 1982. Đó là nguyên tắc thỏa thuận, có tính đến mọi hoàn cảnh liên quan, để phân định vịnh Bắc Bộ đảm bảo tính công bằng mà hai bên có thể chấp nhận được.
Đây thật sự là một bài học quý giá cho những ai đang và sẽ tiếp tục lãnh trọng trách tham gia đàm phán giải quyết các tranh chấp về biên giới lãnh thổ, nhất là những tranh chấp trên các vùng biển và hải đảo trong tình hình hiện nay.
Kết quả là Hiệp định phân định vịnh Bắc Bộ giữa Việt Nam và Trung Quốc đã được ký kết vào ngày 25 tháng 12 năm 2000. Hiệp định này gồm 11 điều với nội dung chủ yếu là xác định rõ tọa độ địa lý của 21 điểm trên đường phân định lãnh hải, vùng đặc quyền về kinh tế, vùng thềm lục địa giữa hai nước; quy định hai bên tôn trọng chu quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của mỗi bên tại các vùng biển trong vịnh Bắc Bộ; quy định việc thăm dò khai thác tài nguyên thiên nhiên nằm vắt ngang đường phân định và giải quyết các tranh chấp liên quan đến Hiệp định thông qua đàm phán thương lượng. Hiệp định có hiệu lực ngày 15 tháng 6 năm 2004.

Đường phân định

Từ tình hình nói trên, tôi cũng xin có bình luận thêm về những băn khoăn có liên quan đến cách vạch đường phân định đã được thể hiện trên bản đồ kèm theo Hiệp định này mà ông Dương Danh Huy gọi là “Đường trung tuyến”.
Đúng là “trong phần lớn vùng biển hữu quan trong Vịnh Bắc Bộ, bờ biển Việt Nam và Trung Quốc đối diện nhau. Vì vậy, theo luật quốc tế thì đường trung tuyến có điều chỉnh là nguyên tắc phân định công bằng nhất”.
Tôi không phản bác điều này. Tuy nhiên, theo nghiên cứu của tôi qua một số bản án cua Tỏa án Trọng tài quốc tế, nhất là vụ xét xử việc phân định biển Manche giữa Pháp và Anh, các thẩm phán có bình luận rằng trung tuyến là phương pháp thường được sử dụng trong phân định, nhưng không phải lúc nào phương pháp này cũng đảm bảo được nguyên tắc công bằng. Bởi vì, trung tuyến sẽ được xác định tính từ các điểm cơ sở nhất định mà những điểm này thì hoàn toàn phụ thuộc vào sự hiện hữu của các vị trị địa lý được thống nhất lựa chọn nằm dọc theo bờ biển của mỗi bên để tính toán xác định, thông thường thì phải điều chỉnh do phải tính đến các hoàn cảnh, điều kiện có liên quan…
Cho nên, có thể nói rằng khó có thể có một “trung tuyến” duy nhất và đích thực là trung tuyến theo đúng đinh nghĩa khoa học. Trong một khu vực biển có thể có nhiều trung tuyến có điều chỉnh thích hợp, phụ thuộc vào phương pháp tính toán xác định của các chuyên gia kỹ thuật.
Và cũng đúng như luật sư Brice Clagett đã nhận xét, việc vạch ranh giới phải dựa trên cơ sở địa lý, và nguyên tắc tỷ lệ chiều dài bờ biển chỉ là một thước đo phỏng chừng cho sự công bằng. Tác giả bài này cho rằng dù tỷ lệ diện tích bằng tỷ lệ chiều dài bờ biển, vẫn có thể tồn tại những sự bất công mà nguyên tắc tỷ lệ chiều dài bờ biển không phát hiện được. Vì vậy cần phải xét đến các khía cạnh địa lý, quan trọng nhất là đường trung tuyến được vạch giữa những điểm nào và ảnh hưởng của các đảo của Việt Nam và Trung Quốc trong việc vạch và điều chỉnh đường trung tuyến…
Và vì vậy, kết quả phân định đã cho thấy: Ranh giới trong Vịnh Bắc Bộ là một đường trung tuyến có điều chỉnh; Đảo Cồn Cỏ được 50% hiệu lực, đảo Bạch Long Vĩ được khoảng 25% hiệu lực; Tỷ lệ diện tích Việt Nam, Trung Quốc đạt được, 1.135:1, gần bằng tỷ lệ chiều dài bờ biển Việt Nam, Trung Quốc, 1.1:1. Cho nên, theo đánh giá của tôi, với tư cách là một chuyên gia pháp lý, Hiệp định Vịnh Bắc Bộ đã được phân định phù hợp với nguyên tắc của luật pháp và thực tiễn quốc tế, hợp tinh hợp lý vì nó đảm bảo được sự công bằng mà hai bên chấp nhận được. Đi vào chi tiết kỹ thuật khi tính toán xác định đường phân định này có lẽ phải nhờ đến các chuyên gia kỹ thuật bản đồ mới đủ điều kiện để giải đáp chuẩn xác.

Source : BBC

Đứa con gái đồng hoang



Lời người dịch.  Đứa con gái đồng hoang (La fanciulla della Pampa)  dịch từ nguyên bản Ý ngữ là một trong bảy truyện ngắn trong tập truyện Sette donne intorno al mondo (Bảy người phụ nữ vòng quanh thế giới) của Arnaldo Fraccaroli, một nhà văn kiêm nhà báo và diễn viên hí viện Ý vào thời đầu cho đến giữa thế kỷ 20.



- Cô bé kia đi đâu vậy?
Con bé ngừng lại, chào tôi bằng một nụ cười, hai má phúng phính đi lên che cả đôi mắt ti hí làm chúng trông như biến đâu mất.  Nó nhìn chiếc xe hơi của tôi đậu giữa những bụi cây một cách hiếu kỳ rồi nhìn sang gã
gaucho đang ngồi trên lưng ngựa cạnh đó.
Nó mỉm cười nhưng không đáp lại.
Đây là một cuộc gặp gỡ khá kỳ thú, gặp gỡ giữa pampa bát ngát xứ Á Căn Đình sát biển xanh bao la, nơi mà gặp được một sinh vật của Thượng Đế là một niềm an ủi khó diễn tả.
Tôi đang trên đường du hành đi đến một estancia (gia trang).  Mấy người bạn bản xứ tôi quen ở thủ đô đã mời tôi đến chơi vài tuần tại gia trang của họ nằm trong đồng bằng bát ngát để “sống cuộc sống pampa” cho biết.  Họ nói sẽ tổ chức những cuộc du ngoạn, các buổi lễ lạc tiệc tùng kiểu đồng quê, có các cuộc chơi rodéo của các tay gaucho, đi săn, vân vân.
Và tôi đã rời Buenos Aires lái xe đi từng chặng đường cố tìm đường đi xuyên qua những cánh đồng, đi giữa những ụ đất, những vũng bùn, những ổ gà và các đụn cát mặt dợn sóng lên dưới ngọn gió mạnh kinh khủng của đồng bằng thổi tốc lên những cơn lốc bụi.  “Đồng quê thổi tôi bay đi”, dân cầy cấy ở đây ví von thế, có nghĩa gió thổi bay đi cả cánh đồng lôi họ theo đưa về nơi nào khác xa xăm.
Tôi lái xe như thế đã được hai ngày và tính ra còn thêm cả một ngày trời nữa mới đến nơi.
Lũ bạn đã nhờ một tay gaucho thổ công pampa dẫn đường cho tôi.  Tôi và hắn ngừng chân vì tôi lái xe đã mệt và hắn cũng đã mệt mỏi ngồi trên lưng ngựa suốt ngày.
Hắn nhìn xe tôi với cái nhìn có vẻ mỉa mai.
- Señor, đi trên đồng cỏ thì cỡi ngựa, còn xe hơi thì để dành cho đường xá thành phố.
Ngay cả đứa con gái ngừng chân cũng ném cho chiếc xe tôi cái nhìn hiếu kỳ xấc xược, có lẽ thầm đồng ý với gã gaucho.
Tôi nhìn nó.  Con bé trông còn rất trẻ nhưng tôi không sao đoán chắc được tuổi tác của dân pampa.  Nó có một khuôn mặt khôn lanh và láu cá, hai má hồng chắc đánh phấn (mà làm sao lại đánh phấn má hồng nơi chốn hoang vu này), một thân hình trẻ con ăn mặc hở hang hầu như chả có gì, nó nói vì trời nóng.
Tôi thấy nó từ đàng xa, một bóng dáng nho nhỏ lắc lư trên lưng ngựa nổi bật trên nền trời chói chang nắng sau lưng là một chân trời biển xanh ngát.  Tôi hỏi gã gaucho:
- Ai vậy?
Khi nhận ra bóng dáng nho nhỏ đó là ai, gã trả lời với một nụ cười đểu:
- Con chệt.
Con chệt là đứa con gái của vùng đồng hoang mênh mông, bông hoa dại đồng quê, là đứa con gái biết khôn lanh sống cuộc sống du mục đi hoang từ làng này đến làng nọ tìm kiếm những cuộc thám hiểm dễ dãi: nó là nguồn an ủi cho lũ đàn ông bị cô lập trong niềm cô đơn bao la, người trao tặng những xúc cảm xác thịt cho những ai bị lưu đầy ra khỏi thế giới.
Nó để cuộc sống bình nhật của nó trôi theo bất cứ gì bất chợt xảy ra trong ngày.  Sáng thức dậy con bé không biết đêm nay mình sẽ ngủ đâu và ngủ với ai.  Nó là sinh vật của số phận và số phận đưa đảy nó đến đâu thì đến và ngay cả vào trong vòng tay đàn ông.
Giữa chốn hoang dã này với cuộc sống sơ khai của con người thì con chệt là một trong những loại người được xem là có nhan sắc.  Lắc lư trên lưng ngựa đơn độc giữa đồng hoang mênh mông, nó thủng thẳng đi đến chỗ tôi và gã gaucho với một thái độ tỉnh bơ không lo sợ đến ngạc nhiên.
- Cô bé kia đi đâu vậy?
Tôi hỏi nó như hỏi một đứa bé gái vì trên yên ngựa nó thật sự trông như một đứa con nít.
Tôi đứng cạnh chiếc xe hơi đang bị lún bùn đúng lúc mà chẳng thèm tìm cách lôi ra.  Vội vã làm gì.  Bạn tôi đang tà tà đợi tôi không mong ngóng.  Giữa pampa thời gian không có ý nghĩa gì.  Vội vã cho ai?  Vội vã để làm gì?  Chỉ để đến sớm hơn?  Rồi sau khi đến thì làm gì?  Bình tĩnh lại.  Đời sống trôi đi thản nhiên không cần bị hối thúc.  Rồi đêm lại đến, rồi đêm khác lại đến và cứ thế mãi mãi, vì thế cần gì hối hả vội vã chi cho mệt và lo lắng.
Con chệt dán cặp mắt tò mò trắng trợn của nó lên tôi và chiếc ô-tô như nó đang thắc mắc về bí mật của người đàn ông này và chiếc xe của ông ta đi lạc giữa đồng hoang.
Thay vì trả lời câu hỏi của tôi, nó nói một câu với giọng nhẹ nhàng lanh lảnh.
- Cầu Thượng Đế phù hộ che chở ông.
- Chào cô bé chệt.  Cô bé từ đâu đến vậy?
- Từ làng.
- Và giờ đi đâu?
- Làng khác.
- Để làm gì?
Con bé không đáp, chỉ cười cười.  Không mắc cở bối rối, chỉ ngạc nhiên là tôi đã hỏi một câu như thế.  Nó đưa mắt nhìn gã gaucho. Gã hiểu ý và đáp thay cho đứa con gái:
- Con nhỏ này đi lòng vòng trong vùng để an ủi những ai đau khổ.  Nó là chuyên viên chữa bệnh tình cảm và nhớ nhung.  Ngoài đồng con người cô đơn lắm!  Nếu được một ít phụ nữ thì đó cũng như là một món quà quý báu làm ấm lòng người.
Đứa con gái lắng nghe, trịnh trọng ra vẻ ngạc nhiên vì có người diễn tả như thế về nó với lời lẽ tán dương.  Nó mỉm cười thật hồn nhiên, cái hồn nhiên của một đứa bé gái.
Tôi hỏi nó:
- Con không mệt sao?
- Sao lại mệt?
Tôi chợt hiểu con bé có lẽ nghĩ câu tôi hỏi là đường đột và gây hiểu lầm hàm ý mà tôi không có ý hỏi, tôi vội nói thêm để tránh bị nghi là mình thô lỗ:
- Con không mệt vì cỡi ngựa suốt ngày sao?  Bộ con không muốn xuống đất à.
- Ồ, thế thì dễ.  Đây!
Rồi nó nhẩy thót xuống đất.  Chiếc áo mỏng manh tung lên trên tấm thân nhỏ bé như là một lá cờ tung bay trong gió.  Ngọn gió thật trơ trẽn và lắm chuyện: nó cho thấy đứa con gái chỉ mặc mỗi một chiếc áo mỏng nhẹ.  Thế thì thoáng khí.  Tôi thấy trên lưng ngựa nó có một bó gì gói lại.
- Đồ đạc con đó hả?
- Dạ.
Nó cười xong quay lại ân cần vuốt ve con ngựa, một người bạn tốt lợi dụng nghỉ chân tự thưởng cho mình bữa ăn sáng cỏ mềm.
Tôi đi lại gần con bé (trước mặt tôi nó thật bé nhỏ) và hỏi:
- Con có nhà ở không?
Nó ra vẻ ngạc nhiên.
- Nhà, con?  Không, mà có nhà để làm chi.  Con luôn luôn đi lang thang.  Khi nào cần ở đâu thì ở đó.  Có lúc ngủ trên cỏ, thích lắm.  Ngủ trên cỏ mình ngửi thấy mùi thơm của cỏ non tươi, ngửi mùi đất.  Mình thấy khỏe người hẳn lên.
Chuyến đi lâu cả ngày trên đồng hoang làm tôi đói bụng.  Trang trại bạn tôi còn xa lắc, tôi biết mình không tài nào đến đó kịp trước khi đêm xuống.
Trên xe tôi có thức ăn đem theo cho cuộc hành trình, tên quản lý nhà trọ đã bắt tôi sửa soạn mọi thứ đồ ăn nguội đủ cho cả tuần, nào là thịt hộp rồi trái cây, bánh trái, rượu vang, bia vân vân.  Tôi nói tên gaucho lên xe lấy thức ăn xuống.  Tôi nảy ra ý dựng phòng ăn trên bãi cỏ.
Tôi hỏi đứa con gái:
- Con định ăn sáng ở đâu?
Nó nhìn tôi, ngạc nhiên:
- Bác nói gì?
- Con định đi đâu ăn?
- À, ai biết được?  Nó nhìn xa xăm về chân trời, trả lời vu vơ:  Đằng đó hay đó.  Ai biết nơi đâu.  Không có gì phải lo.
- Nhưng con đói bụng không?
- Đói thì lúc nào cũng đói.  Không khí đây tốt lành thật, rất tốt.
Rồi nó cười nhe hàm răng trắng nhỏ.
- Vậy sao không ăn sáng với bác luôn?
Tôi bắt đầu thích đứa con gái khác người, đối đầu với đời sống trên cánh đồng hoang bao la bằng một lòng gan dạ bình tĩnh, một mình một ngựa chu du với tuổi trẻ non dại.
Con bé lưỡng lự.  Tôi lập lại lời mời:
- Sao con không ăn sáng với bác ở đây.
- Gì?  Con, một đứa con gái ma cà bông ngồi ăn với một ông bác?  Sang trọng quá, lộn xộn quá!
- Đừng suy nghĩ gì hết.  Xem này, nhiều thức ăn ê hề.  Bác không có ai hầu ăn.  Muốn không?  Cháu dọn ra cho bác ăn, bù lại cháu được ăn chung.
Đứa con gái sốt sắng vâng lời ngay lập tức rồi bằng những cử chỉ khôn khéo và duyên dáng mà tôi khó tin có được trong một đứa con gái quê nó quán xuyến dọn thức ăn ra, trải khăn bàn lên bãi cỏ, dọn ly dĩa, mở chai bia, hái vội một bó hoa cắm vào một cái ly.  Mọi việc diễn ra nhanh chóng, con bé uyển chuyển làm việc, thỉnh thoảng quay lại mỉm cười nhìn tôi, từ đôi môi hót ra vài câu ngắn ngủi.  Sau cùng nó bắt chước điệu bộ mấy người hầu bàn trong hí viện, cúi rạp người trông thật buồn cười, nói:
- Thưa ngài bữa ăn sẵng sàng.
Trong khi ăn, tôi hỏi:
- Làm sao con nghĩ ra cuộc sống như vầy?
- Con không nghĩ ra, nó tự xảy đến.  Đó là định mệnh con và con theo nó.
Và nó kể cho tôi nghe câu chuyện nho nhỏ cuộc đời nó trong khi hai hàm răng mạnh khỏe nhai miếng thịt.

*
Nó kể.
Con bé sống dưới miệt quê trong một trang trại xa xôi gần Mendoza.  Cha nó là một nông dân nghèo.  Ông đem vợ con đến từ Rosario de Santa Fe để mưu sinh nhưng cơ nghiệp tìm mãi không thấy.  Rồi vợ ông ngã bệnh qua đời để lại đứa con gái nhỏ lớn lên như một đứa con hoang dại sống trong một ngôi làng khiêm tốn chỉ có độ trăm nóc nhà, nhà thờ, trường làng, nghĩa trang, một nhà trọ đồng thời là nhà kho và một tiệm buôn.  Tất cả gói ghém trong cái làng con đó.
Cuộc sống của đứa bé gái bị bỏ rơi, vì cha phải làm việc ngoài đồng suốt ngày kiếm tiền cho cuộc sống khó khăn bỏ bê nó, con bé đã phải tự lo cho mình.  Cứ sau giờ học là nó lê la ngoài đường, phóng túng bay nhẩy và táo bạo, nó không để ai bắt nạt nó, ngay cả lũ con trai to hơn: nó lanh lẩu, xấc láo và hung hăng như chúng.
Nó học cỡi ngựa như những tay gaucho, dẫn bò ra ao uống nước, phụ giúp một cách nhiệt tình và giỏi dang trong việc trị ngựa hoang ... Nó lăn lộn ngoài đời, ngoài trời, trong gió.  Bây giờ nhắc lại thời xưa đó, mắt nó long lanh đầy xúc động.
Nó nghĩ nó là con trai cũng như lũ bạn con trai chơi đùa chung nhưng một ngày kia nó thấy có gì khác về nó và lũ bạn nó cũng bắt đầu nhìn nó một cách khác.
Thân hình nó bắt đầu nẩy nở thành một thiếu phụ.  Rồi vẻ duyên dáng, nét đẹp đến với con bé: một đóa hoa trên đồng hoang.
Con trai lẫn đàn ông theo nó với cái nhìn thèm muốn.  Con bé cảm thấy cái thèm muốn đó dính trên thân mình.
Đã sống khôn lỏi lăn lộn với bọn con trai, con bé bắt đầu hiểu và thấy nỗi nguy hiểm nhưng lại thích khiêu khích trêu chọc ai lại tán nó.
Cha con bé thì thấy mắc cở vì con gái mình nay không còn là một con bé nữa: ông không biết làm sao giữ nó.
Thật thế, bọn theo đuổi nó bắt đầu bu lại xung quanh trái cấm mơn mởn mới chín mọng.  Con bé cười cợt nhưng cha nó thì không.  Ông biết cuộc sống tự do và chung chạ đồng quê thường đưa đến những hậu quả như chửa hoang và con hoang.  Cần giải quyết vụ con gái ông ngay, nó quá xinh đẹp quá nhiều nguy hiểm.
Trong làng đó có một lão nông dân già nổi tiếng là giàu xụ nhưng lại keo kiệt.  Lão có lắm pesos dấu kỹ nhờ cho vay lãi cao, có lần lão ra tay “cứu trợ” chủ nhà trọ đồng thời là nhà kho nhưng cứu kiểu gì mà cho vay rồi tịch biên cả tài sản khi con nợ không trả nổi.
Lão sống một mình.  Có lẽ góa bụa: ai mà biết được thân thế của những ai sống trong pampa từ đâu đến, đến đây làm cái gì?  Một đêm lão tình cờ gặp con bé, lão giữ nó lại rồi nói những lời lẽ ngọt ngào như cha con nhưng lại hàm ý tình cảm và ham muốn không có gì là phụ tử.
“Cháu xinh lắm, đẹp lắm ...”
“Thế à?”
“Lão thích cháu lắm.”
“Xem kìa, rõ nỡm!”
“Nhưng lão muốn xem em đẹp hơn nữa.  Sắc đẹp em cần áo đẹp, váy lụa, bông tai vàng, sâu chuỗi đẹp...”
“Em cũng thấy thế nhưng áo đẹp, váy lụa, bông tai vàng, sâu chuỗi đẹp là những thứ đắt tiền mà em không có được một xu.”
“Tiền?  Lão có mà, lão có cho em đó.”
“Em tin lão có tiền vì ai cũng nói thế nhưng họ cũng nói là lão keo kiệt.”
“Láo khoét.  Lão chỉ cần kiệm thôi nhưng với em thì lão chả cần giữ tiền.  Đi!  Em ném đi bộ quần áo rách bươm đó đi... lão sẽ cho em quần áo mới đẹp.”
“Vậy thì đưa đây.”
“Nếu em đến nhà lão, mình sẽ kêu tên thợ may của lão đến đo cắt, rồi em sẽ thấy lắm thứ đẹp lão có trong nhà.”
“Cám ơn nhưng em không thích.”
“ Em lầm rồi.  Em ...”
“Không thích.”
Con bé bỏ đi, miệng bật cười xấc xược.  Nhưng lão già dê không bỏ cuộc.  Lão đi theo nó, tìm cách gặp nó vào buổi chiều trên đường về nhà sau giờ học.
“Này em... Em có thể thành giầu có.”
“Không thích.”
“Em không thích giầu?”
“Em không thích lão.”
Và nó cười thẳng vào mặt lão già.  Vừa nhỏ thó, vừa già, chảy dãi ... Ghê!
Nhưng ngọn lửa đam mê đã cháy bùng trong lòng lão và lão nhất quyết đòi cưới con bé.  Đúng là lão bất chợt nổi hứng.
Cha con bé không ngờ.  Bộ lão già giầu nhất bần tiện nhất trong làng chỉ biết yêu tiền bạc định ngạo ông để biến ông thành trò cười cho thiên hạ?
“Ai mà ngạo!  Lão đây nghiêm túc xin hỏi cưới con gái ông làm vợ.  Tôi cảm thấy quá cô đơn, tôi thích con nhỏ.  Tôi sẽ làm cho nó và ông giầu.  Chả lẽ một khi con gái giầu rồi cha nó còn phải làm lụng sao?”
“Thật à? Thật thế?  Ông không đùa chớ?”
“Không.”
“Lậy trời!  Không phải làm lụng nữa?  Lậy trời! Ông đừng nghĩ gì khác.  Ông sẽ lấy nó.”
Xong, dễ à!  Đứa con gái cười ngay cả vào mặt cha nó.
Hai lão già bèn ra tay nặng nhẹ tìm cách thuyết phục con bé: nhốt nó trong phòng, bắt nhịn ăn, thỉnh thoảng nổi đóa bạt tai.  Cưới lão già giầu có đó hay sống một cuộc đời hy sinh và làm lụng.  Đứa bé gái kháng cự vài ngày xong bỏ nhà trốn đi.
Nó đi sang một ngôi làng khá xa và gặp một người đàn ông tốt bụng cứu giúp nó, đem nó về cho ăn uống tử tế, cho tá túc.
Nghe đến đây tôi hỏi:
- Con chịu là của người đàn ông đó?
- Con chưa chịu, chưa thành ... hay ít ra là ... Nói tóm lại ông ta ... anh ấy là người hảo tâm, không bao giờ đòi con điều gì, không lợi dụng như bọn đàn ông kia mỗi khi gần gái.  Anh ta chỉ cần con dọn cơm ăn khi anh đi làm về và khi đêm đến thì hát lên những bài ca hay.  Rất tốt bụng.  Con thấy anh ấy muốn con lắm nhưng chưa dám nói ra vì sợ con giận.  Bộ anh ta tính nhút nhát, dịu dàng?  Hoặc chỉ muốn làm việc thiện thôi?  Dần dà sự tế nhị của anh đã chinh phục lòng con và con cũng bắt đầu muốn anh.  Rồi ... Con không biết nó xảy ra thế nào ... nó xảy đến mà anh ta và con không nghĩ tới, như là chuyện phải đến, thế thôi.  Đối với con chuyện đó là đúng bởi vì nó đến từ lòng yêu thật tình của hai người.  Sau đó chúng con đã trải qua hai tháng thật hạnh phúc.  Mỗi khi nghĩ lại, con còn cảm thấy một cái gì dịu dàng âu yếm trong tim mà trước kia chưa bao giờ từng có.  Và chúng con ngày càng thêm hạnh phúc.  Nhưng rồi anh phải lên đường đi với các tay gaucho khác và nhóm nông dân dẫn đàn bò đi về đồng bằng dưới miền Nam.  Cuộc hành trình kéo dài ba tuần lễ dưới mặt trời đổ lửa và bụi mù do năm ngàn con bò tung lên.
- Con đi với hắn?
- Con muốn đi lắm.  Ra đi sẽ là một giải thoát cho con nhưng không được.  Anh ấy cũng muốn đem con đi nhưng không được.  Có quá nhiều đàn ông con trai trong đoàn.  Sau vài ngày du hành với một đứa con gái như con sẽ có ẩu đả đâm chém dù con không làm gì.  Anh đề nghị con chờ ngày anh trở lại.
- Và con chờ?
- Con chờ được ba tháng, chờ một mình?  Con không có can đảm hứa hẹn gì, con sợ.  Chúng con đã khóc rất nhiều ngày chia tay, nói với nhau ngày tái ngộ sẽ rất đẹp nhưng trong tâm khảm biết chắc sẽ không bao giờ gặp nhau lại.  Anh đã tặng con một con ngựa và năm ngày sau khi anh ra đi, con cũng lên đường chu du.  Không một ý định xấu xa gì.  Con đi lang thang đây đó, đến những làng lẻ trên bình nguyên để làm việc, thật đấy.  Nấu nướng, giặt giũ tại các nhà trọ.
- Con tìm được việc làm?
- Lúc ban đầu.
- Lũ đàn ông con trai không bu lại?
- Có chứ nhưng con chống chỏi.  Khó lắm nhưng con cố.  Và con thích cuộc sống độc lập như vậy.  Mình cảm thấy một niềm vui, niềm hãnh diện!  Rồi, một lần ... Con người đâu phải luôn luôn làm chủ được hành động của mình.  Và sau đó con bắt đầu đi đến các làng mạc mà trong đầu không nghĩ đến việc nấu nướng giặt giũ.  Con làm việc xấu?  Con không biết.  Nhưng biết làm gì khác khi mình cô đơn lạc lõng?  Bây giờ thì mỗi đêm con đến một ngôi làng, con chắc chắn sẽ tìm được người để hủ hỉ qua đêm.  Đã nhiều lần họ năn nỉ con ở lại nhưng con quyết không bao giờ ở hơn một ngày.
- Bộ con muốn đi hoang mãi?
- Ai biết được.  Có lẽ thế.  Nhưng tâm hồn con là tâm hồn lãng tử và lạc thú một đêm có thể trở thành một sợi xích cột chân mình và con lại sợ tình yêu.  Con nói không đúng sao?  Con biết yêu là đau khổ.  Thay vì thế, con được tự do và đi theo số phận mình.
Đến đây tôi hỏi con bé số phận nó là gì và bất chợt thấy khuôn mặt lanh lợi của con bé sáng lên một niềm vui và nó nhẩy cỡn lên:
- Con sẽ đi lên Buenos Aires.  Một hôm bạn con nói có một thành phố đẹp tuyệt vời, lắm cung điện và người ta ăn mặc đẹp lắm, đêm đến thì đèn bật lên, nhiều đèn đến độ sáng như ban ngày.
- Và con sẽ làm gì trên Buenos Aires?
- Không biết nhưng con sẽ đi đến các rạp hát.  Con biết vũ, biết hát.
Ồ, cô bé du mục, cô bé gái của đồng hoang đã bị ánh đèn phồn hoa đô hội mê hoặc thôi thúc rồi sao?
Với nhiều nhiệt tình và với tuổi trẻ tràn đầy nhiệt huyết con bé có thể đương đầu với bất cứ cam go nào trong số phận.  Tôi nghĩ là nó có lắm tài năng nghệ sĩ tiềm tàng trổ ra sau này.  Biết đâu đó?  Đã có nhiều trường hợp như vậy.
Tôi buột miệng nói với nó:
- Mai đây bác sẽ về lại Buenos Aires, vài tuần nữa.
Con bé nhìn tôi mắt đầy ngạc nhiên.

*
Buổi chiều đã trễ.
Gã gaucho trong giờ ăn sáng dẫn con ngựa đi uống nước, hắn bảo tôi thế, rồi cầm bao thức ăn và chai bia tôi đưa.  Hắn tế nhị dẫn ngựa đi xa xa để tôi được kín đáo với đứa con gái.  Hắn trở lại vài giờ đồng hồ sau, bảo tôi đã đến lúc phải đi để tránh đến làng lân cận quá khuya để sáng sớm hôm sau lên đường tiếp tục đi đến trang trại bạn tôi.
Tôi nói hắn:
- Chiều nay tôi không muốn đi đâu hết.
Gã buột miệng thốt:
- Sao?!
- Không sao gì hết.  Tôi thích ở lại đây.
Gã gaucho ấp úng:
- Xin lỗi ông!  Tôi hoàn toàn không có ý xúc phạm ông.
- Không sao đâu chú em.  Tôi chợt nảy ra ý ở lại đây vì khí hậu tốt, gió mát mẻ.  Trên xe tôi có một cái lều, ngủ đã lắm.  Tôi cắm trại ở đây vì muốn được sự yên tịnh cô đơn ngoài đồng.
Gã theo phản ứng đưa mắt nhìn đứa con gái.  Bộ hắn không tin vào sự yên tịnh cô đơn sao?  Nhưng lần này gã biết thân, không dám thốt “Sao!”, chỉ khiêm tốn hỏi tôi có cần hắn giúp không.  Tôi đáp không, nói cám ơn.
Hắn chào tôi rồi lên lưng ngựa phóng đi.
Đứa con gái nhìn tôi ngỡ ngàng.
- Bác ngừng chân chỗ này?
- Ừ, vì bác thích chỗ này, chiều này bác không muốn đi đâu hết.
Con bé nói như thể nó đang theo đuổi một ý nghĩ nào:
- Thế còn con, làm gì đây?  Bây giờ trễ rồi.  Nếu đi con sẽ bị kẹt ngoài đồng.
- Ở lại đây.  Con dọn cơm tối ra mình ăn.  Bác thấy là con khéo lắm, và rồi con sẽ giúp bác dựng lều.

*
Khi nghĩ về vụ này, tôi lấy làm ngạc nhiên về cái quyết định bốc đồng.
Nhưng con bé có nét cười yêu kiều dịu dàng lẫn ngoan ngoãn và nhậm lẹ của một đứa con gái nô lệ, là những cái làm cho nó thật dễ thương.  Nó còn có vẻ ngây ngô rất trẻ con thật không ngờ đến độ làm tôi thấy vui vui khi nó cất tiếng hát những bài ca quê.  Nó thật sự có khiếu ca hát.
Trẻ trung, tươi tắn, cặp mắt long lanh, khuôn mặt rực rỡ, điệu bộ nhẹ nhàng của một con mèo ... Một sinh vật vô cùng dễ thương, một tặng vật nảy nở trời cho tôi vào lúc đang thật cô đơn.  Tôi cố hưởng niềm vui đang đến như là đi trên một cuộc hành trình tình cảm.
Sáng hôm sau gã gaucho trở lại cho tôi hay mấy người bạn tôi, chủ của hắn, lại đang bận đưa một đứa con gái của họ đi Rio Blanco vì con bé bị thương khi ngã ngựa và họ sẽ đi vắng vài ngày.  Tôi bảo hắn đi lại làng gần nhất, độ ba chục cây số, để mua thêm lương thực.
Hắn ngoan ngoãn nghe lời, không thắc mắc, không một lời, như thể đó là chuyện đương nhiên.
Thế là tôi được ở lại thêm một thời gian để tận hưởng cuộc sống sơ khai tuyệt vời vì tôi cảm thấy nó sôi động hơn vì tuổi trẻ của con bé chệt, con bé càng ngày càng xinh tươi thêm, làm tôi vui hơn.  Một con nô lệ ngoan ngoãn.
Tôi tổ chức một buổi đi thăm một làng lân cận.  Tôi ghé vào tiệm tạp hóa duy nhất trong làng, nguồn vui nho nhỏ cho mấy cô gái quê, mua cho con bé cái váy đẹp nhất trong tiệm làm cho nó vui lên đến độ mắt long lanh, tôi cũng mua tặng nó một ít nữ trang quê mùa giá vài đồng.  Một ngày nọ con bé đi lên một ngọn đồi xa nơi có một nhà trọ xưa để nấu một bữa cơm trưa kiểu quê tuy dã chiến nhưng thật khéo và ngon.  Tôi khen nó không ngớt lời làm nó vỗ tay nhẩy cỡn lên như một đứa con nít.
Tôi cảm thấy được con bé để ý chăm sóc, tôi thấy nó lộ một niềm vui rạng rỡ ra mặt với việc tôi bất chợt nghỉ chân nơi đây đã làm cho cuộc đời nó thêm hương vị.  Nó liên tục nghĩ ra chuyện làm để cho thấy nó có ích, duyên dáng ngọt ngào làm tôi vui lòng.
Một lần tôi nói với nó:
- Cô bé du mục kia, cô bé thật là một đứa bé gái dễ yêu.  Cô bé có thể đem hạnh phúc cho đàn ông.
Nó không biết đáp sao nhưng nhìn tôi bằng đôi mắt ngạc nhiên.
Đến ngày  thứ tư nó hỏi tôi:
- Bạn bác đang chờ bác, bộ bác không nghĩ đến chuyện đi tìm họ sao?
- Không, bác không còn nghĩ đến chuyện đó, không nghĩ đến bất cứ chuyện gì khác. Ở đây thú hơn.
Im lặng.  Tôi hỏi nó:
- Còn cháu?
Nó đáp:
- Như là một giấc mơ cho con.  Đẹp quá!  Cứ như một giấc mơ.
*

Tôi bắt đầu có thói quen thức dậy khi mặt trời ló dạng.
Con bé chuồn ra khỏi lều tự khi nào và khi tôi vừa thức thì ly sữa hay tách trà nóng khói nghi ngút đã có sẵn, nó còn dọn sẵn bánh mì với bơ và mứt, bóc mấy trái cam mà nó vừa chạy xuống dưới làng mua.
Buổi sáng hôm đó tôi thức dậy giờ như thường lệ.  Góc cửa lều không vén lên như mọi hôm.  Tôi cất tiếng gọi đứa con gái: không có tiếng đáp.  Tôi đứng dậy đi ra.  Gài trên lều là một miếng giấy.
Nét chữ con bé viết còn thật trẻ con.
Nó viết:
“Ông bác thân mến, giấc mơ quá đẹp, đẹp quá vì con muốn mơ tiếp.  Con thật hạnh phúc, hạnh phúc thật nhiều mà con sẽ không bao giờ được như thế suốt đời mình nhưng con rất hãi mỗi khi thức giấc.  Khi xưa con không tin mình sẽ được hạnh phúc như vậy, rằng cuộc đời được êm ả và hít thở mãi hương thơm trong bầu không khí và cảm nghĩ luôn tràn đầy ánh bình minh.  Niềm vui bao la!  Quá nhiều vui, sống thế quá đẹp.  Con không thể tiếp tục được.  Thức giấc làm con sợ hãi.  Nếu con ở lại thì sau này làm sao con có nghị lực để rời xa?  Và con biết rồi con sẽ phải đi.  Con không là người đàn bà bác có thể đem theo.  Đi bây giờ sẽ đem lại cái chết nhẹ nhàng nhưng con phải đi.  Con đi để tránh nỗi đau khổ to lớn hơn.  Có lẽ sau vài ngày thì con sẽ không còn biết đến nữa và ai biết được con sẽ khóc nhiều thế nào.  Bác rất tốt, quá tốt, nhưng không thể tốt vậy cả đời.  Khi bác trở về thành phố lớn, bác sẽ có nhiều bà khác và đứa con gái đồng hoang sẽ chả là gì.  Khi đó thì con làm gì?  Con bỏ đi, con khóc bây giờ để không khóc sau này.  Con là đứa đi hoang mà, đứa con gái đồng hoang.  Bác đã thật tốt bụng với con!  Con nuốt nỗi đau mà bỏ đi nhưng nếu hôm nay không đi thì mai này ai sẽ cứu con?  Con xin được hôn tay bác, bác tốt bụng, hôn tay bác thật âu yếm như chưa bao giờ, một lòng âu yếm với thật nhiều thân yêu đến đau lòng.  Và nếu một ngày nào đó mình gặp nhau lại ... Nhưng mình sẽ không gặp nhau lại.  Hôm nay mặt trời không mọc”.

Arnaldo Fraccaroli
Bùi Ngọc Khôi chuyển ngữ

 6/3/2013
(1) pampas: những vùng đồng bằng bao la ở cao độ thấp tại Nam Mỹ với đất đai rất phì nhiêu và những ngọn gió Bắc rất mạnh, nằm trong lãnh thổ Á Căn Đình, Ba Tây và Uruguay
Source : hopluu.net

15/9/13

THÁI BÌNH


                      Văn Công Mỹ

14-09-2013

Thái bình nghe súng nổ
Buồn hiu hắt quê hương
Nỗi đau màu bông lúa
Vàng vọt những con đường…

Thái bình im tiếng súng
Bài hoan ca năm nào
Chừ xanh xao huyễn mộng
Với phận người hư hao

Vẫn còn hoài mơ ước
Thái bình quê hương tôi
Cố ngăn giòng lệ ướt
Giấu trên môi nụ cười

Nghe trong lời tịnh độ
Thầm thì đất nước ơi
Mấy nghìn năm tiên tổ
Trái tim ai-Con Người ?

Thái bình nghe tiếng nổ
Một phát nhói quê hương !

V.C.M.

Source : Blog Huynh Ngoc Chenh

13/9/13

Nguyễn Hưng Quốc - Dân chủ và tự do thông tin



12.09.2013

Dân chủ và tự do thông tin

bởi Nguyễn Hưng Quốc

Xưa nay, hầu như ai cũng biết một trong những nguyên tắc căn bản để giành thắng lợi trong mọi cuộc chiến là tận dụng được yếu tố bất ngờ: Ra tay đánh vào lúc và vào chỗ địch quân sơ ý nhất, và vì sơ ý, nên phòng thủ kém nhất. Từ nguyên tắc căn bản ấy, nhìn những gì đang diễn ra tại Mỹ trong mấy tuần vừa qua liên quan đến kế hoạch trừng phạt chính phủ Bashar al-Assad ở Syria, chúng ta không khỏi ngỡ ngàng: Mọi chuyện đều công khai. Chả có chút xíu gì là “bí mật quân sự” cả.

Trước hết là quyết định có tấn công Syria hay không, Tổng thống Barack Obama đề nghị giao cho Quốc Hội Mỹ thảo luận và bỏ phiếu, nghĩa là mọi chuyện được tiến hành dưới các ống kính truyền hình để không những dân chúng Mỹ mà mọi người trên thế giới cùng… xem. Dĩ nhiên, trong số khán giả ấy, những người xem chăm chú nhất, kiên nhẫn nhất, và cũng căng thẳng nhất chắc chắn là chính phủ Syria.

Việc bày binh bố trận cũng vậy: Tất cả đều được báo chí tường thuật đầy đủ. Mỹ điều bao nhiêu tàu sân bay và khu trục hạm đến khu vực gần Syria: mọi người đều biết rõ. Trên các tàu sân bay và khu trục hạm ấy, có bao nhiêu hỏa tiễn hành trình Tomahawk và đặc điểm của các loại hỏa tiễn này như thế nào: mọi người đều biết rõ. Chung quanh Syria, Mỹ có bao nhiêu máy bay chiến đấu, từ F-15 đến F-16; các máy bay ấy đang đậu ở đâu, có thể bay được bao xa và chở được bao nhiêu quả bom: mọi người đều biết rõ.

Chưa hết.

Ngay cả kế hoạch tấn công với những chi tiết như tấn công bằng loại vũ khí gì, nhắm vào những địa điểm nào, và sẽ kéo dài bao lâu cũng được đem ra bàn tán công khai trên mọi diễn đàn. Bản dự thảo nghị quyết của Ủy ban đối ngoại thuộc Nghị viện Mỹ soạn thảo ngày Thứ Tư 4/9 ghi rõ: Một, chỉ cho phép Tổng thống tiến hành việc trừng phạt Syria trong vòng 90 ngày; và hai, không được sử dụng bộ binh trên đất Syria.

Cũng chưa hết.

Chưa tấn công, thậm chí, có khi sẽ không bao giờ tấn công Syria, mọi người, từ những người lãnh đạo cao nhất trong ngành hành pháp và lập pháp đến các cố vấn, các bình luận viên trên các cơ quan truyền thông đại chúng đã nhao nhao bàn luận về những cái được và những cái mất, những cái lợi và những cái hại, những nguy hiểm, thậm chí, những nguy cơ thất bại của Mỹ. Dư luận cũng chia phe rõ rệt: người ủng hộ, kẻ chống đối. Các bên đều lên tiếng ồn ào và đả kích nhau kịch liệt. Ở Syria, Mỹ chưa nổ phát súng nào; trên trận địa truyền thông trong nước, súng đạn đã ầm ầm. Tấn công Tổng thống Obama nhiều và dữ dội nhất chưa phải là Syria mà chính là người… Mỹ, đủ mọi giới!

Cũng vẫn chưa hết.

Nếu Quốc Hội Mỹ đồng ý, trước khi chính thức tấn công Syria, chắc chắn Tổng thống Obama sẽ lên truyền hình tuyên bố: Trong mấy giờ nữa, chúng ta sẽ nổ súng! (Để quân lính Syria đủ thì giờ để chui xuống… hầm!)

Những chuyện như trên có vẻ như nghịch lý. Nhiều người có lẽ sẽ không thể hiểu được. Nhất là người...Việt Nam.

Nhớ, năm 1968, trong chiến tranh Việt Nam, các bên tham chiến đã ký kết thỏa thuận đình chiến trong dịp Tết với lý do đó là ngày lễ thiêng liêng nhất của dân tộc. Phía miền Nam, quân lính an tâm chào đón Tết. Một số được về nghỉ phép với gia đình. Ngay Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu cũng về quê vợ ăn Tết. Nhưng ngay lúc ấy, rạng sáng ngày 30 tháng 1, tức sáng mồng một Tết âm lịch, phía… bên kia nổ súng, đồng loạt tấn công 36 trong tổng số 44 tỉnh, thành ở miền Nam, kể cả Sài Gòn. Tại sao họ lại chà đạp lên sự thỏa thuận do chính họ ký kết như vậy? Câu trả lời rất đơn giản: Tận dụng yếu tố bất ngờ.

Nhìn từ kinh nghiệm ấy, các diễn biến tại Mỹ hiện nay (cũng như trong cuộc chiến tranh tại Afghanistan và Iraq trước đây) không những nghịch lý mà còn phi lý nữa. Cái gì cũng tô hô trước giới truyền thông như vậy thì còn gì là “bí mật quốc phòng” và làm sao mà thắng trận được chứ?

Dĩ nhiên, tất cả mọi người trong giới lãnh đạo và chính khách Mỹ cũng như Tây phương nói chung, đều hiểu việc công khai hóa như vậy sẽ gây rất nhiều khó khăn cho các chiến dịch quân sự của họ. Hiểu. Nhưng họ không có cách gì khác. Lý do đầu tiên: Đó là trò chơi dân chủ. Lý do thứ hai: trong chiến tranh, thắng địch đương nhiên là một mục tiêu lớn, nhưng đó không phải là mục tiêu duy nhất. Mọi chiến thắng chỉ có ý nghĩa khi nó mang lại lợi ích cho con người, và một trong những lợi ích ấy là con người phải được tôn trọng; những người cần được tôn trọng trước hết là các công dân của mình; điều họ cần được tôn trọng đầu tiên là quyền công dân của họ, trong đó, có quyền được…biết!

Từ góc độ ấy, chúng ta dễ dàng nhận thấy sự khác biệt lớn lao giữa giới lãnh đạo ở các nước dân chủ và giới lãnh đạo ở các nước độc tài: Ở các nước độc tài, giới lãnh đạo lúc nào cũng lén lén lút lút như những tên ăn trộm, giới lãnh đạo các nước dân chủ, ngược lại, trong phần lớn các trường hợp, đều chọn cách chơi bài ngửa một cách quanh minh chính đại. Điều đó gây nhiều khó khăn cho họ nhưng không làm cho họ yếu đi. Lịch sử cho thấy, các quốc gia dân chủ có thể thua trận ở một số cuộc chiến tranh cục bộ nào đó, nhưng nhìn chung, trên đại cuộc, họ vẫn thắng. Cuộc chiến tranh lạnh giữa hai khối dân chủ và độc tài kéo dài cả nửa thế kỷ đã kết thúc với phần thảm bại thuộc về những kẻ giấu giếm nhiều và kỹ lưỡng nhất.

Ở các quốc gia dân chủ, việc “dân biết, dân bàn, dân kiểm tra” không phải chỉ là một khẩu hiệu. Mà là một thực tế được hiến pháp và luật pháp bảo vệ. Từ mấy thập niên trở lại đây, hầu hết các quốc gia dân chủ đều có đạo luật về vấn đề tự do thông tin (freedom of information), một hình thức mở rộng của quyền tự do ngôn luận (freedom of speech) đã có từ lâu: Tự do ngôn luận sẽ không có ý nghĩa gì nhiều nếu không gắn liền với tự do thu nhận thông tin, xử lý thông tin và truyền bá thông tin dưới mọi hình thức.

Theo luật về tự do thông tin, mọi người dân đều có quyền được biết tất cả những gì liên quan đến chính phủ (dĩ nhiên trừ một số vấn đề quan trọng liên quan đến an ninh quốc phòng và kinh tế thường được bảo mật trong một thời gian nhất định nào đó). Khi dân chúng hỏi, các cơ quan chính phủ, từ Quốc Hội đến các cơ quan hành pháp và tư pháp các cấp, từ các bộ, sở, ngành đến các tổ chức được chính phủ tài trợ (kể cả các trường đại học) đều có bổn phận phải trả lời. Người hỏi chỉ cần trả một số tiền cho việc tìm kiếm các tài liệu, tiền làm photocopy và tiền tem gửi đến nhà mình. Số tiền ấy rất phải chăng. Hầu như ai cũng có thể trang trải được, nếu muốn. Người được hỏi phải trả lời trong thời gian quy định (tùy từng quốc gia, nhưng trung bình là vài tuần và tối đa là một tháng). Không ai có quyền làm ngơ.

Người ta xem quyền tự do thông tin như thế là điều kiện đầu tiên và quan trọng nhất để bảo đảm tính chất minh bạch (transparency) và tính khả kiểm (accountability) của chính phủ. Cả tính minh bạch và tính khả kiểm ấy lại là điều kiện đầu tiên và quan trọng nhất của dân chủ.

Bởi vậy, có thể nói một cách đơn giản và tóm tắt thế này: Bạn có thể biết được một chế độ có dân chủ hay không chỉ dựa vào một tiêu chí duy nhất: ở đó, dân chúng có được quyền biết các thông tin liên quan đến chính phủ và giới lãnh đạo hay không?Ví dụ, riêng trong trường hợp của Việt Nam, chúng ta có thể được cung cấp thông tin chính xác là Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng có bao nhiêu căn nhà và bao nhiêu tiền được ký gửi ở các ngân hàng từ Việt Nam đến ngoại quốc? Mỗi năm ông nhận bao nhiêu quà (kể cả quà trong các phong bì)? Trị giá mỗi món quà là bao nhiêu? Và do ai trao tặng? Những món quà ấy được dùng để làm gì? Cất giữ ở đâu? Vân vân.

Bạn có thể trả lời các câu hỏi ấy được không? Nếu không, bạn có thể hỏi cơ quan nào không? Họ có trả lời cho bạn không?

Bài kiểm tra xem chừng rất đơn giản.

* Blog của Tiến sĩ Nguyễn Hưng Quốc là blog cá nhân. Các bài viết trên blog được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.


Source : VOA 
Link :   http://www.voatiengviet.com/content/dan-chu-va-tu-do-thong-tin/1748545.html

12/9/13

Thơ Cuồng Từ - Lìa xa dòng sông biệt li ngày quá vãng




                                 





  Lìa xa dòng sông biệt li ngày quá vãng       

                                                            Cuồng Từ

Nhìn nhau bỗng thấy sông nhìn núi .
Sông thì sâu mà núi cách ngàn trùng .
Làm sao tôi có thể nhìn tôi .
Làm sao ta có thể nhìn nhau

Nhìn nhau như thể núi nhìn sông .
Sông chối bỏ một thời soi bóng .
Làm sao tôi úp mặt khóc non sông .
Làm sao ta có thể đau lòng ?

Người lìa xa dòng sông biệt li ngày quá vãng .
Tôi làm gì tôi ?
Ta làm gì ta ?
Hư vô một thế kỉ buồn câu thơ xót .
Khóc ta hay khóc phận người ơi !

Nhìn nhau mà tưởng sông bỏ núi .
Tôi như cánh rừng tình yêu từ buổi lửa thiêu rừng ,
trơ gốc cháy ngước nhìn trời giông bão
Nhìn nhau mà như thể dững dưng

Người lìa xa dòng sông biệt li .
Tôi như cánh rừng quên đất nước .
Nhìn nhau .
Nhìn nhau chợt thấy sông còn thức
và non cao gục khóc tự hôm nào

Người lìa xa dòng sông biệt li .
Sông núi nọ thanh tân màu khác lạ .
Cánh rừng xưa vẫn ngày đêm vật vả
nghe rưng rưng sám hối nỗi đau rừng

Sớm nay ,
có con chim Lạc bay về
rưng rưng dòng lệ
Nhìn tôi .
Nhìn tôi .
Cuối cùng kêu thảm ,
rơi
rơi
những hạt máu  vô tình .
Những hạt máu trong veo màu oan trái
của tương lai
hiện tại
ngậm ngùi thay


Người lìa xa dòng sông biệt li .
Tôi mong cánh rừng sống lại
đâm chồi tình yêu
nuôi dưỡng ước mơ rừng vô tội .

Sông là núi  
Tôi là rừng  
Ai được quyền buộc tội ai đây ?


 

 


        Cuồng Từ 
  ( chân dung tự họa )

11/9/13

Nhiều dòng gởi anh Ngô Đa


Nguyễn T Bình

Tập tin:Thanh nien hoc sinh Sai gon.jpgMở đầu, xin tự giới thiệu với anh, tôi dân Sài Gòn trước 1975, từng ngồi ghế giảng đường đại học Văn khoa . Do đó, tôi khá tường tận phong trào SVHS Sài Gòn và một số đô thị miền Nam trước 1975, nếu không nói tôi từng là thành viên trong số đông thành viên “không giấy chứng nhận” của phong trào này. Trung thực mà viết, đối với phong trào SVHS, cũng như đối với lực lượng đàn áp phong trào SVHS, tên anh không nổi như các anh Lê Hiếu Đằng, Huỳnh Tấn Mẫm, Hạ Đình Nguyên, Lê Văn Nuôi và một số anh/chị khác. Tôi viết như vậy vì trên bình diện công khai phong trào SVHS nói chung chỉ có “thủ lĩnh”, không có “thủ trưởng”. Mọi hình thái tập hợp và hành động đều gần như “thanh thiên bạch nhật” trong trường học, trên đường phố dưới hình thức chủ yếu biểu tình và dĩ nhiên các “thủ lĩnh” luôn luôn có mặt ở vị trí hàng đầu vô cùng nguy hiểm, nhưng đó là yêu cầu không thể thiếu đối với người “thủ lĩnh”.

Gần 40 năm đã trôi qua với biết bao phận đời đổi thay cùng vận rủi của đất nước, dân tộc tới mức khiến đầu óc nhiều người không còn muốn nhắc quá khứ, cũng như không còn muốn nghĩ đến hiện tại và tương lai. Bởi, niềm thất vọng lớn quá, sự bế tắc khủng khiếp quá. Dù vậy, khi bất chợt đọc được bài viết “Xin hãy quay lại” ký tên anh đăng trên Tuổi Trẻ ngày 11/9, lòng tôi vẫn bồi hồi, hai mắt bổng đầy nước, cay cay. Vì, trong bài viết đó, anh đã nhắc đến phong trào SVHS mà tôi từng có nhiều kỷ niệm đáng nhớ. Dù nội dung và mục đích chính bài viết này nhằm “thuyết phục” anh Lê Hiếu Đằng “quay về” sau khi anh Đằng đã trở thành Kinh Kha lần thứ hai, chỉ khác ở chổ khi trở thành Kinh Kha lần thứ nhất với bản án “tử hình vắng mặt” anh Đằng còn rất trẻ và khi trở thành Kinh Kha lần thứ hai anh ấy đã vào tuổi “xưa nay hiếm” nhưng vẫn gan dạ khó ai bằng. Tôi thương mến và quí trọng anh Lê Hiếu Đằng. Bởi, nói cách nào đó, ở cả hai thời đoạn tuổi trẻ và tuổi già, anh đều suy nghĩ và hành động đúng yêu cầu đối với một “thủ lĩnh” của ngày xưa cũng như của ngày nay.
Thưa anh Ngô Đa, tôi rất tiếc trong bài viết “Xin hãy quay lại” anh không nhấn mạnh mục tiêu của phong trào SVHS Sài Gòn và các đô thị miền Nam trước 1975 là “chống chiến tranh, đòi hòa bình”. Đây là mục tiêu công khai và là mục tiêu duy nhất đã tập hợp được đông đảo SVHS vào thời điểm đó. Có thể nói thêm, mục tiêu này cũng là niềm mong muốn, nỗi khát khao của số đông đồng bào Sài Gòn và miền Nam bấy giờ. Nhờ vậy, nhờ công khai mục tiêu “chống chiến tranh, đòi hỏi hòa bình”, phong trào SVHS đã lôi cuốn đông đảo tuổi trẻ trong và ngoài trường học cùng nhau tham gia, bất chấp thành phần lý lịch, gia đình. Và cũng nhờ vậy đã xuất hiện rất nhiều “Bà Mẹ Bàn Cờ”, bằng cách này, cách khác hết lòng hết dạ cưu mang, đùm bọc “đám trẻ phong trào SVHS”. Đúng vậy không anh Ngô Đa ?
Tôi tin điều tôi muốn anh nhấn mạnh như nêu ở trên cũng là điều số đông anh chị em từng trực tiếp hay gián tiếp tham gia, ủng hộ, hưởng ứng phong trào SVHS Sài Gòn và các đô thị miền Nam mong muốn. Ai ngộ nhận hoặc nói sai, viết sai về mục tiêu, tính chất phong trào này là không đàng hoàng, trung thực. Hết chiến tranh, hòa bình lập lại, đương nhiên phong trào SVHS chỉ còn là kỷ niệm trong ký ức cuộc đời nhiều người và đó mãi mãi là kỷ niệm đẹp. Dù nghe nói trong “tổng kết thắng lợi” người ta không đánh giá đúng mức tầm ảnh hưởng quan trọng của “mũi tiến công chính trị ở Sài Gòn và các đô thị miền Nam” – trong đó có phong trào SVHS. Tôi cũng như rất nhiều anh chị em từng tham gia phong trào không (thèm) suy nghĩ, đoái hoài gì về sự đánh giá này. Bởi lẽ, về chính thức, phong trào SVHS không phải là một hình thái hoạt động của bất cứ tổ chức chính trị đảng phái xã hội nào, dù trong bí mật có sự giật dây của một số VC nằm vùng, nhưng lúc bấy giờ các vị này bố bảo cũng không dám hé lộ ra, trước tiên là vì các vị thuộc thiểu số nhỏ nhoi so với hàng trăm ngàn SVHS thuần túy tự nguyện tự giác tham gia “chống chiến tranh, đòi hòa bình”. Nếu lúc đó số đông anh chị em tham gia phong trào biết có sự trà trộn, giật dây của VC chắc chắn phong trào xẹp ngay. Chống chiến tranh, đòi hòa bình là nguyện vọng chính đáng, đương nhiên của mọi người Việt Nam lương thiện, chứ không riêng gì tuổi trẻ Sài Gòn và các đô thị miền Nam trước 1975. Có thể xem phong trào SVHS là một hình thái biểu lộ công khai tấm lòng “yêu nước thương nòi” đơn thuần của tuổi trẻ miền Nam trước 1975. Chứ không thể úp bộ phong trào này là “phong trào hành động cách mạng gắn liền với chủ nghĩa xã hội”. Cái nào ra cái đó, phải không anh Ngô Đa ?
Tôi xin kể anh nghe một chuyện. Tôi có thằng bạn cùng tham gia phong trào SVHS rất tích cực, vô tư. Tốt nghiệp đại học không hiểu sao nó bị bắt quân dịch, làm phi công máy bay trinh sát L19. Hòa bình lập lại, nó bị bắt đi học tập cải tạo mấy năm, rồi sau đó qua Mỹ định cư theo chương trình HO. Năm 1997 tôi gặp lại nó tại Mỹ. Nó kể: “Hồi đi lính, tao bị tụi an ninh quân đội lục vấn hoài, tụi nó hỏi tao trước đây có tham gia phong trào SVHS không. Tao biết tụi nó đã nắm tin rồi, nên tao trả lời có, tụi nó hỏi tiếp vậy tao là Vi Xi phải không, tao trả lời không phải. Tụi nó buộc tao chứng minh, tao nói trong lý lịch tao đã khai rõ ba tao là sĩ quan cảnh sát đặc biệt không đội trời chung với Vi Xi, tụi nó hỏi ngược lại vậy tại sao tao tham gia phong trào SVHS, tao trả lời vì tao không muốn chiến tranh chỉ muốn hòa bình. Tụi nó nói hòa bình đâu dễ vãn hồi khi Vi Xi quyết đánh tới cùng dù phải đốt cháy dãy Trường Sơn và dù Hà Nội, Hải Phòng thành tro bụi cũng phải đánh để chiếm cho bằng được miền Nam, biến miền Nam giống như miền Bắc dưới sự lãnh đạo tuyệt đối của cộng sản khổ sở tinh thần thể xác ghê gớm lắm. Mà thiệt là vậy phải không mậy? Sau 30/4/ 1975 tao hết còn muốn sống, nghĩ gì làm gì cũng bị khống chế nghĩ và làm theo ý của đảng. Mà đảng theo tao thấy chỉ luôn miệng nói yêu nước chứ thực tế đâu có thương nòi. Mầy còn nhớ không, hồi nhỏ tụi mình thường được cha mẹ, thầy cô dạy “yêu nước thương nòi” phải đi đôi với nhau, bây giờ đảng dạy “yêu nước là yêu chủ nghĩa xã hội”, tao nghe chướng tai muốn chửi thề, yêu nước mà không thương nòi, cứ bắt chước thủ đoạn nham hiểm của ngoại bang kích động, xúi dục nòi giống hằn thù nhau, đấu tố nhau, đấu tranh giai cấp với nhau, tước đoạt tài sản mồ hôi nước mắt của đồng bào mình theo thói ganh ăn ghét ở rất đê tiện, rồi sau đó sắc phong chung cho tất cả đều có vai trò, trách nhiệm “làm chủ” dưới sự “lãnh đạo” của đảng và sự “quản lý” của nhà nước trực thuộc đảng, thế thì còn cái mẹ gì nữa quyền làm người, quyền tự do dân chủ vốn dĩ là những quyền cơ bản của nhân loại trên trái đất này…”. Thằng bạn phong trào SVHS của tôi đã nói thật nói thẳng vậy đó anh Ngô Đa. Mong anh chịu khó ngược dòng thời sự 38 năm qua để kiểm chứng sự thật đúng sai, cũng như để anh khỏi hoài nghi tôi đã mượn mồm bạn tôi phun ra nỗi niềm của mình – giống như thói quen của tầng lớp cán bộ cầm quyền đương thời đã lạm dụng dài dài, thường xuyên hai chữ “nhân dân”. Sự lạm dụng có chủ đích này nếu suy nghĩ cho kỹ sẽ thấy bất lợi cho cả hai phía, chứ không phải một phía – nhân dân - đâu anh Ngô Đa.
Thưa anh Ngô Đa, đọc những dòng anh viết gởi anh Lê Hiếu Đằng, tôi cảm nhận được hai điều nơi anh. Thứ nhất, anh là người sống có niềm tin vào lý tưởng đã chọn từ khi xuất hiện trong phong trào SVHS “chống chiến tranh, đòi hòa bình”. Thứ hai, anh là người có sức chịu đựng bất chấp thực tế đã và đang diễn ra bất lợi cho dân cho nước mình. Xin cho phép tôi đưa ra nhận định ở đây, có lẽ ở điểm thứ nhất, anh không khác gì anh Lê Hiếu Đằng. Nhưng ở điểm thứ hai thì anh hoàn toàn khác anh Lê Hiếu Đằng. Vì vậy, chưa biết ai phải nói với ai câu “Xin hãy quay lại” cho đúng lẽ đời và đạo lý công dân “yêu nước phải thương nòi”. Nòi là nòi giống, đồng bào – những người “chung bào thai” với mình đó anh Ngô Đa. Chúng ta đã từng công khai “chống chiến tranh, đòi hòa bình” cho đất nước một cách quyết liệt. Vậy, xin hỏi anh Ngô Đa, tại sao giờ đây anh lại chủ trương hãy “từ từ” trong giải quyết biết bao bất công, khổ nạn làm cho đồng bào mình điêu linh, đất nước mình lâm nguy? Tại sao không thể quyết liệt? Trong khi ai cũng biết sau khi làm cho miền Nam sau 1975 tiêu điều xơ xác như miền Bắc sau 1954, đảng buộc phải “đổi mới”, nhưng chỉ “đổi mới” kinh tế mà thôi, vì vậy tham nhũng đã nhanh chóng nảy sinh tưng bừng gốc ngọn hoa lá cành, hút sạch sinh lực đất nước và nội lực trong dân suốt 27 năm “đổi mới”, năm sau hút bạo hơn năm trước theo đà tăng trưởng GDP. Tất cả sự tham nhũng đều trong hệ thống lãnh đạo và quản lý đất nước, chứ không phải trong dân. Do đó càng cần quyết liệt hơn cả khi phong trào SVHS quyết liệt “chống chiến tranh, đòi hòa bình” mới đúng chứ anh Ngô Đa. Ba mươi tám năm rồi, đâu phải ngắn ngủi gì cho cam, mọi ảo vọng và thử nghiệm chính trị đều cần nên kết thúc và sự kết thúc này nếu được diễn ra, cũng như diễn ra được trong tình đồng bào thì rất tốt.
Anh có mong vậy không anh Ngô Đa ? Chắc anh hiểu ở bất cứ thời nào và dưới bất cứ triều đại nào, “quan” bao giờ cũng nhất thời, chỉ có “dân” vạn đại mà thôi. Con đường anh đang đi để viết ra bài “Xin hãy quay lại” là con đường của “quan”. Con đường anh Lê Hiếu Đằng đang đi là con đường của dân. Khác nhau hoàn toàn, xét cả bề rộng lẫn chiều sâu. Nói gọn, anh đã chọn cái “nhất thời”, anh Lê Hiếu Đằng đã chọn cái “vạn đại”. Đánh giá sự khác biệt này trong ý thức bắt buộc yêu nước phải thương nòi, tôi nhận ra tuy cùng điểm xuất phát, cùng quê nhà, cùng tổ chức, cùng là đồng sự, đồng nghiệp bao năm với nhau, nhưng anh Lê Hiếu Đằng “giác ngộ” hơn anh rất nhiều anh Ngô Đa ạ. Vì vậy, trước khi tạm kết thúc bài viết “Nhiều dòng gởi anh Ngô Đa”, tôi xin mượn tựa bài viết “Xin hãy quay lại” của anh để nói thật cụ thể với anh như vầy: Anh Ngô Đa ơi, hãy quay về với nhân dân!
N. T. B.
( Sài Gòn )

Source  BVN ( Bauxite VN )