4/1/14

Hải chiến Hoàng Sa, 40 năm nhìn lại

Thanh Trúc & Nhà nghiên cứu Đinh Kim Phúc
Ảnh bên:Chiến hạm VNCH và Trung Quốc giao tranh ở Hoàng Sa năm 1974.

Sau trận hải chiến Hoàng Sa 1974 mà hậu quả là quần đảo này rơi vào tay Trung Quốc, 40 năm sau vẫn không thể nói điều gì khác hơn rằng vấn đề Hoàng Sa phải được ghi lại một cách trung thực trên từng chi tiết vào lịch sử và trên các bộ sách giáo khoa, trong đó có sự chiến đấu dũng cảm của Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa lúc bấy giờ.


TQ vi phạm hiến chương LHQ

 Thạc sĩ Đinh Kim Phúc, chuyên gia nghiên cứu độc lập về Biển Đông, tác giả quyền sách “Biển Đông: Luận Cứ Và Sự Kiện” phát hành năm 2011, khẳng định như vậy trong bài trao đổi do Thanh Trúc thực hiện sau đây: 

Đinh Kim Phúc: Như đã biết, Việt Nam chúng ta có đầy đủ bằng chứng pháp lý về lịch sử chủ quyền của mình trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Hay nói một cách khác là các Nhà nước Việt Nam trong lịch sử muộn nhất là từ thế kỷ XVII đã thực thi chủ quyền ở hai quần đảo này khi nó chưa hề thuộc chủ quyền của bất cứ quốc gia nào. Từ đó Việt Nam đã thực hiện việc xác lập và thực thi chủ quyền của mình đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa một cách liên tục và hòa bình, đáp ứng đủ những điều kiện mà nguyên tắc chiếm hữu thật sự đòi hỏi. Nhưng từ đầu thế kỷ XX, Trung Quốc đã lợi dụng cơ hội Việt Nam thuộc Pháp để bắt đầu tham vọng tràn xuống phương Nam của mình, mà khởi đầu là sự kiện vào năm 1909.

Năm 1909, vì cho rằng quần đảo Hoàng Sa là vùng đất vô chủ, và sợ Nhật Bản đánh chiếm, lần đầu tiên chính quyền Quảng Đông (Trung Quốc) đã lập một ủy ban quản lý vùng và lệnh cho đô đốc Lý Chuẩn tiến hành cho khảo sát Hoàng Sa. Sự vô lý về hành động của Lý Chuẩn như một tờ báo của Pháp đã mỉa mai là: “…vẽ một bản đồ tổng quát về các đảo mà ông đã khám phá và 15 bản đồ riêng của cùng những đảo đó “chỉ trong vài giờ !”.

Có thể nói rằng, quá trình tranh chấp biển Đông của Trung Quốc đã bắt đầu từ đây.

Thứ hai, lợi dụng việc giải giáp quân đội Nhật Bản thua trận trong Chiến tranh Thái Bình Dương, năm 1946 chính quyền Tưởng Giới Thạch đã đưa lực lượng ra chiếm đóng trái phép nhóm đảo phía Đông quần đảo Hoàng Sa và ra yêu sách “chủ quyền”, nhưng yêu sách đó đã không thành hiện thực khi Tưởng thua trận chạy khỏi đại lục vào năm 1949.

Thứ ba, năm 1956, lợi dụng tình hình quân đội Pháp thua trận và rút khỏi Đông Dương theo quy định của Hiệp định Geneve 1954 và trong khi chính quyền miền Nam Việt Nam chưa kịp tiếp quản quần đảo Hoàng Sa theo như thỏa thuận của hiệp định này, Trung Quốc đã thừa cơ đưa quân ra chiếm đóng bất hợp pháp nhóm đảo phía Đông của quần đảo Hoàng Sa.

Và đỉnh điểm của những tham vọng đó, tháng 1 năm 1974, Trung Quốc đã dùng vũ lực cưỡng chiếm nhóm đảo phía Tây và hoàn thành việc chiếm đóng toàn bộ quần đảo Hoàng Sa trong sự quản lý của Chính quyền Việt Nam Cộng Hòa.

Với những hành động này, Trung Quốc đã vi phạm Điều 2 khoảng 4 của Hiến chương LHQ. Có nghĩa là gì? Dùng vũ lực xâm lược lãnh thổ của một quốc gia có chủ quyền. Đây là hành động xâm lược!

Thanh Trúc: Thưa ông Đinh Kim Phúc, đến lúc này Việt Nam phải làm gì khi mà Hoàng Sa đã về tay Trung Quốc 40 năm nay, chưa kể là từ 1988 Trung Quốc cũng đã chiếm đóng trái phép một số đảo trên quần đảo Trường Sa của Việt Nam? 

Đinh Kim Phúc: Việt Nam không chủ trương tiến hành chiến tranh vì chiến tranh không phải trò đùa. Theo quy định của Công Ước Quốc Tế Về Luật Biển của LHQ (UNCLOS) năm 1982, các bên tranh chấp có thể lựa chọn một hoặc một số phương pháp hoà bình để giải quyết tranh chấp. Nhưng từ lâu, quan điểm của Trung Quốc là không bàn về vấn đề Hoàng Sa.

Như tôi đã trình bày, đối với quần đảo Hoàng Sa, Việt Nam có đầy đủ bằng chứng pháp lý về lịch sử chủ quyền của Việt Nam, chính vì vậy Việt Nam có thể kiện Trung Quốc ra Tòa Án Công lý Quốc tế (International Court of Justice – ICJ). Nhưng nhiều lần Trung Quốc lên tiếng cho rằng vấn đề Hoàng Sa là vấn đề song phương giữa Trung Quốc và Việt Nam, họ phản đối bất cứ phân xử nào của các tổ chức quốc tế.

Cho dù Trung Quốc không đồng ý, nhưng Việt Nam vẫn phải kiện Trung Quốc để duy trì tính liên tục trong việc tuyên bố chủ quyền của Việt Nam. Mặc khác, hồ sơ pháp lý của Việt Nam sẽ đánh động dư luận quốc tế về tính phi nghĩa của Trung Quốc trong chính sách bành trướng của họ.

Về quần đảo Trường Sa, chính vì hiện nay quần đảo Trường Sa đang bị nhiều quốc gia tuyên bố chủ quyền và chiếm đóng trái phép Trung Quốc, Đài Loan, Philippines, Malaysia và Brunei, theo tôi, trước mắt Việt Nam nên tuân thủ quan điểm giữ nguyên hiện trạng, không gây phức tạp thêm tình trạng chiếm đóng và tìm biện pháp hòa bình để giải quyết vấn đề, trước mắt là trong nội bộ các nước ASEAN.

Ảnh bên: Bản đồ hình lưỡi bò do TQ tự công bố nhằm chiếm trọn biền Đông. AFP photo.

 Riêng đối với Trung Quốc, với yêu sách của họ trên Biển Đông thể hiện bằng tấm bản đồ hình lưỡi bò chiếm 80% diện tích Biển Đông mà họ chính thức tuyên bố vào tháng 5/2009, trước mắt Việt Nam nên học tập kinh nghiệm của Philippines là khởi kiện Trung Quốc ra Tòa Trọng tài theo phụ lục VII của UNCLOS. Nội dung khởi kiện là yêu cầu Tòa Trọng tài giải thích việc Trung Quốc đưa ra bản đồ đường lưỡi bò có phụ hợp với UNCLOS hay không? Chắc chắn rằng công lý không đứng về phía Trung Quốc.

Thanh Trúc: Là một nhà nghiên cứu lịch sử, ông đã rút ra được những bài học lịch sử gì khi nghiên cứu về Biển Đông?

Đinh Kim Phúc: Thứ nhất, tại Hội nghị Hòa bình San Francisco 1951, Liên Xô đã đề nghị công nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Tại sao? Vì từ năm 1950, Hoa Kỳ bắt đầu can dự vào cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất. Liên Xô sợ Mỹ sẽ kiểm soát hai quần đảo này và khống chế Biển Đông.

Thứ hai, vì sao Hoa Kỳ làm ngơ cho Trung Quốc đánh chiếm Hoàng Sa vào tháng 1/1974 từ tay Việt Nam Cộng Hòa, một đồng minh của Hoa Kỳ?

Sau Hiệp định Paris về việc chấm dứt chiến tranh và lập lại hòa bình ở Việt Nam 1973, Hoa Kỳ rút quân ra khỏi miền Nam Việt Nam, và họ tin rằng cách mạng Việt Nam sẽ thắng lợi, ảnh hưởng của Liên Xô sẽ không ngừng phát triển ở Đông Dương. Dùng lá bài Trung Quốc thời hậu chiến ở Đông Dương là chính sách tối ưu đối với Hoa Kỳ lúc bấy giờ.

Quan hệ quốc tế giữa các cường quốc bao giờ cũng là tai họa cho các nước nhỏ. Bài học cảnh giác trong lịch sử Việt Nam không bao giờ thừa!

Thanh Trúc: Thưa thạc sĩ Đinh Kim Phúc, hiện đang có dự dịnh của nhà nước và Bộ Giáo Dục Đào Tạo đưa vấn đề Hoàng Sa Trường Sa vào sách giáo khoa. Ông có muốn nói thêm điều gì nữa không?

Đinh Kim Phúc: Đã là người Việt Nam, nếu không có hành động bảo vệ chủ quyền lãnh thổ của đất nước thì cũng đừng nên có hành động “cõng rắn cắn gà nhà” như một số quan chức của Bộ Giáo Dục và Đào tạo trong vụ sách giáo khoa có in bản đồ đường lưỡi bò vừa qua.

Và trong thời đại ngày nay, trong thời kỳ toàn cầu hóa mà tất cả các dân tộc, các quốc gia trên thế giới đều phấn đấu để giữ vững nền hòa bình tự do của mình thì những hành động của Trung Quốc như thế đã làm cho thế giới thấy rõ bộ mặt thật của họ: miệng thì nói hòa bình, tay thì chuẩn bị chiến tranh.

Một ý khác nữa, sự hung hăng của Trung Quốc trên biển Đông trong thời gian vừa qua, cũng những gì họ diễn ta trên vùng biển Hoa Đông, là những dữ liệu thức tỉnh cho những ai còn nuôi ảo tưởng về con đường phát triển hòa bình của Trung Quốc. Một lần nữa cảnh giác trước chính sách bành trướng của Trung Quốc không bao giờ thừa đối với các nước láng giềng của Trung Quốc tức các nước ở khu vực Đông Nam Á.

Thanh Trúc: Xin cảm ơn thạc sĩ Đinh Kim Phúc.


2/1/14

Albert Camus : Đam mê viết báo và “4 phẩm chất của một nhà báo tự do”

THỨ TƯ 01 THÁNG GIÊNG 2014
Albert Camus : Đam mê viết báo và “4 phẩm chất của một nhà báo tự do”
 
Albert Camus
Albert Camus
Minh Anh
Giả như Albert Camus vẫn còn sống, thì hôm 07 tháng Mười Một vừa qua, ông có lẽ đã tròn 100 tuổi. Từng đoạt giải Nobel Văn học năm 1957, thế mà sinh nhật năm nay của đại văn hào diễn ra trong bầu không khí tĩnh lặng, “không trống, không kèn” như nhiều nhà văn lớn khác của Pháp. Kỷ niệm một trăm năm ngày sinh của Albert Camus chỉ gói trọn trong một cuộc triển lãm nhỏ với chủ đề “Albert Camus, công dân thế giới” tại Aix-en-Provence, một thành phố thuộc tỉnh Bouches-du-Rhône, miền nam nước Pháp. Triển lãm kéo dài từ ngày 05/10/2013 cho đến hết ngày 04/01/2014.
Thế nhưng, ít ai biết được rằng ngoài thiên phú văn chương và triết học, Albert Camus còn có một biệt tài khác đó là viết báo. Đối với giới chuyên môn, nghệ thuật viết báo của Camus có thể được xếp vào hàng thượng thặng. Trong suốt ba giai đoạn 1938-1939, 1944-1947 và 1955-1956, Albert Camus lần lượt trải nghiệm tài năng của mình tại nhiều tòa soạn với nhiều bài viết và bài xã luận nổi tiếng. Ngay từ những ngày đầu mới bước chân vào nghề, Albert Camus đã tự đặt ra cho mình những tiêu chí “tâm” và “đức” của một nhà báo tự do.
Báo Le Monde số ra ngày 18/03/2012 đã cho đăng một bản tuyên ngôn do chính Albert Camus soạn thảo, ba tháng sau khi Đệ nhị Thế chiến bùng nổ. Lúc ấy, ông chỉ mới 26 tuổi. Camus viết rằng: “Mọi sự ràng buộc của thế giới sẽ không buộc được một người khiêm nhường chấp nhận làm một kẻ bất lương”. Nghĩa là, “không nên đồng lõa với sự dối trá”. Ông còn nói thêm rằng: “Một tờ báo tự do biết cân nhắc cả về những gì mình nói lẫn những gì mình không nói”.
Bản tuyên ngôn này của Camus đáng lẽ ra phải được phát hành vào ngày 25 tháng Mười một năm 1939 trên tờ Le Soir Républicain, một tờ tin tức hàng ngày chỉ có bán tại thành phố Alger, nước Algeri. Lúc ấy, Albert Camus vừa là tổng biên tập vừa là cộng tác viên duy nhất của Pascal Pia, chủ bút tờ nhật báo. Thế nhưng, bài viết này đã bị kiểm duyệt và không bao giờ xuất hiện. Mãi cho đến gần đây các phóng viên của nhật báo Le Monde lục tìm thấy được bản thảo này trong Kho lưu trữ hải ngoại tại Aix-en-Provence và cho công bố chính thức trong ấn bản ngày 18/03/2012.
Thật ra việc Albert Camus đến với nghề báo cũng rất tình cờ. Trước khi đến với công việc này, Albert Camus dấn thân như là một nhà đấu tranh chống bất bình đẳng. Năm 1935, ông tham gia Đảng Cộng sản Algeri để đòi hỏi quyền bình đẳng giữa người Ả Rập và người châu Âu, trước khi chấp nhận bị khai trừ Đảng vào mùa thu năm 1936. Tên tuổi của ông cũng đã được biết như là một nhà văn và kịch tác gia. Trong quãng thời gian tham gia đảng cộng sản, Albert Camus thành lập nhà hát kịch Lao Động (Théâtre du Travail) và cho dựng vở Le Temps du Mépris (1935), do nhà văn André Malraux sáng tác. Năm 1936, Albert dựng vở kịch đầu tiên do ông biên soạn chung cùng với mấy người bạn “Révolte dans les Asturies”. Thế nhưng, vở kịch đã bị Augustin Rozis, đô trưởng thuộc phe hữu cực đoan tại Alger cấm diễn. Một năm sau tức năm 1937, Albert Camus ra mắt tiểu luận L’Envers et l’Endroit (Mặt trái và Mặt phải).
Năm 1938, Albert Camus được một người bạn cũ của văn hào André Malraux, Pascal Pia, tuyển về làm phóng viên phóng sự cho tờ Alger Républicain. Tờ nhật báo này có lập trường tách biệt với nhiều tờ báo đương thời, vốn đa phần ủng hộ chính quyền thực dân. Tờ nhật báo Alger Républicain muốn bảo vệ các giá trị của Mặt trận nhân dân. Lúc đầu Albert Camus nghĩ rằng chỉ nhận làm vì “miếng cơm, manh áo” và ông có một cái nhìn không mấy thiện cảm với công việc này. Albert Camus từng thổ lộ với Jean Grenier- giáo sư đại học và cũng là bạn - rằng “nghề này thật là nhàm chán”.
Bốn phẩm chất quan trọng của một nhà báo tự do
Nhưng nhà văn cũng dần nhanh chóng thay đổi quan điểm sau mỗi thành công của những loạt bài viết phóng sự và xã luận. Khi quan sát phản ứng của độc giả, Albert Camus hiểu rằng các bài viết của ông có thể tác động lên công luận. Cũng từ đó ông rút ra một hướng đi, một niềm hy vọng, một giá trị đạo đức. Theo quan điểm của Camus, một nhà báo tự do cần hội đủ bốn phẩm chất: “Sáng suốt, kháng cự, châm biếm và bướng bỉnh”. Bốn giá trị này đã được Camus trình bày rất cặn kẽ trong bản tuyên ngôn và cho đến giờ vẫn còn giữ nguyên giá trị, trở thành một ‘‘cẩm nang’’ cho nghề báo chí tại Pháp.
Sự sáng suốt đòi hỏi khả năng kháng cự lại những lôi kéo của sự hận thù và tôn sùng số mệnh […] Thấu đáo sự việc giúp gạt bỏ sự thù hằn mù quáng và để nỗi tuyệt vọng choán chỗ. Một nhà báo tự do, vào năm 1939, không thất vọng và chiến đấu cho những gì anh ta tin là đúng cũng như hành động của mình có thể ảnh hưởng đến quá trình sự kiện. Anh ta không đăng tải bất cứ điều gì có thể kích thích sự thù hận hoặc gây thất vọng. Tất cả điều này là trong tay của nhà báo’’.
Về phẩm chất thứ hai, Albert Camus cho rằng một nhà báo tự do cũng phải biết “kháng cự”. Ngoài việc phải đảm bảo tính chính đáng của nguồn tin, nhà báo phải biết cân nhắc giữa những gì có thể nói và những gì không thể nói. Một nhà báo tự do phải biết kháng cự, tức là đầu tiên hết không được đồng lõa với sự dối trá.
Từ đó, đi đến phẩm chất thứ ba, phải có khiếu ‘‘mỉa mai’’. Albert Camus cho rằng, ‘‘mỉa mai’’ là một “vũ khí vô song chống lại những cường hào ác bá”. “Óc ‘châm chọc’ hỗ trợ cho sự khước từ trong một chiều hướng mà nó cho phép, không những gạt bỏ những gì sai trái, mà thường nói lên được những gì là đúng. Một nhà báo tự do năm 1939, nhất thiết phải biết mỉa mai, mặc dù nó thường là trái với ý muốn của mình”. Albert Camus còm hóm hỉnh cho rằng : “Sự thật và tự do như là những cô tình nhân đỏnh đảnh dù là có rất ít người yêu họ”.
Dĩ nhiên, tất cả những đức tính đó phải được sự bướng bỉnh ‘hỗ trợ’. Trên thực tế có rất nhiều cản trở cho tự do ngôn luận. Ở đây, tính bướng bỉnh là một đức tính quan trọng. Bởi có một nghịch lý kỳ khôi nhưng rất rõ ràng, nó giúp mang lại tính khách quan và sự độ lượng.

Tính chính xác sự việc là tiêu chí hàng đầu
Suốt quãng thời gian làm nghề viết báo, Albert Camus xem đấy như là một cuộc đấu tranh cho sự thật và cho sự độc lập. Khi mới bước chân vào nghề nhà báo, Camus đã đặt vấn đề “nguồn tin” lên hàng đầu. Các cuộc điều tra ngay tại địa bàn cho phép một cách tiếp cận thực tế các sự kiện. Ông nói: “Đi đến xem là việc đầu tiên cần phải làm. Tiếp đến, nhất thiết phải thẩm định các hướng đi khác nhau có thể bằng cách trao lời cho tất cả mọi người. Không cần thiết cứ phải làm sáng tỏ quan điểm của đối thủ, nhưng ngược lại phải biết lắng nghe và phân tích chúng. Nhà báo trẻ cần phải có một sự công minh không thể nào xâm hại được”.
Ông Jeanyves Guerin, tác giả của quyển “Dictionnaire Albert Camus” (tạm dịch là Tự điển về Albert Camus), giải thích rõ “Khi nói đến bài diễn văn, tính ‘trung thực’ và ‘lương tri’ đòi hỏi rằng những lời nói đó không được cắt ngắn, rằng các câu dẫn không được tách rời ngữ cảnh”. Đối với Albert Camus, sự thật phải là tâm điểm của cuộc tranh luận và để đạt được điều đó, nhà báo phải cố gắng “đặt tính chính xác và tìm hiểu các sắc thái lên hàng đầu”. Những trải nghiệm này được thể hiện rõ nét trong loạt bài phóng sự điều tra “Misère de la Kabylie” (Sự khốn cùng tại Kabylie), đăng trên tờ Alger Républicain vào năm 1939. Trong 11 loạt bài điều tra, ông miêu tả không chút khoan nhượng nạn đói mà vùng này đã gánh chịu. Một sự kiện mà không một tờ báo thân chính quyền thực dân lúc bấy giờ đề cập đến.
Nhận định về tư cách nghề báo của Albert Camus, ông Jean Daniel, nhà sáng lập tuần san Le Nouvel Observateur nói như sau: “Camus rất yêu thích công việc đó (viết báo), một công việc ông rất am tường và có những công thức riêng cho mình. Nhưng trước tiên hết, Camus là một người theo chủ nghĩa thuần túy. Ông rất ghét việc khai thác các tin vặt vãnh gây ồn ào và ghét cay ghét đắng lối sử dụng thì điều kiện (đó là điểm khởi nguồn của một sự dối trá). Ông có một ý tưởng cực kỳ hiếm hoi trong nghề này: Ta có là người đầu tiên hay không điều đó không quan trọng, nhưng cần phải là người (đưa tin) tốt nhất”.
Cũng trong thời gian này, Albert Camus phụ trách mục thời luận pháp lý trên tờ Le Soir Républicain, do ông mở ra cùng với Pascal Pia vào ngày 15/09/1939. Chính công việc này đã cung cấp cho nhà văn những kinh nghiệm mà sau này ông có dịp sử dụng để dựng lại phiên xử nhân vật Mersault trong tác phẩm L’Étranger (Kẻ xa lạ) (1942). Trên tờ báo này, Albert Camus để lại nhiều bài bình luận pháp lý nổi tiếng như vụ án Hodent. Albert Camus đã tìm cách chứng minh sự trong sạch của một người quản lý trang trại bị một tên thực dân giàu có vu khống tội ăn cắp. Nhất là, trong vụ án một người Ả Rập bị buộc tội giết người, Albert Camus đã chứng minh được rằng chính quyền lúc bấy giờ kết tội ông ta chỉ vì mục đích chính trị.
Albert Camus : Một nhà báo dấn thân
Lẽ đương nhiên là những bài viết trên của Albert Camus đã không làm hài lòng chính quyền thực dân lúc bấy giờ. Kết quả là cả hai tờ Alger Républicain và Le Soir Républicain đều có cùng số phận với các tờ báo đến từ Pháp, bị đặt dưới sự kiểm duyệt. Nhưng không vì vậy mà Albert Camus tỏ ra chùn bước. Kiên định với chính kiến của mình, Camus kiên quyết từ chối thông báo trước nội dung các bài viết trước khi lên trang. Nhóm làm báo của ông thà để nhìn thấy những khoảng trắng, những đoạn văn bị cắt xén. Đến mức mà có một số ngày, tờ Alger Républicain và Le Soir Républicain được phát hành với những cột trắng xóa.
Báo Le Monde số ra ngày 18/03/2012, trong một bài viết có tựa đề “Các bổn phận của nhà báo theo quan điểm Albert Camus” có nhắc lại một sự việc khá khôi hài lúc bấy giờ. Đại úy Lorit, trưởng ban kiểm duyệt báo chí đã có những nhận xét khá gay gắt về cấp dưới của mình khi để lọt những lời bàn bị cho là khó có thể chấp nhận. Trong bài viết đề tựa “Hitler và Staline” đăng ngày 18/10/1939 ký tên Albert Camus, viên đại úy này đã nhận xét như sau: “Rất đáng tiếc tác giả thiếu sự sáng suốt”. Ba ngày sau đó, trên đài phát thanh Radio-London (phát bằng tiếng Pháp), thính giả có thể nghe những lời như sau: “Việc gạt bỏ sự thật, trên tất cả các báo chí Đức, là nét đặc trưng của chế độ Đức quốc xã”.
Hay như vào ngày 24/11 cùng năm, Camus có ghi những dòng sau đây, và đã bị cắt xén: “Chúng ta thấy rõ là một nhà báo Anh, ngày nay, vẫn cảm thấy tự hào về công việc của mình. Một phóng viên Pháp, dù là độc lập, không thể không cảm thấy xấu hổ nơi mà người ta khư khư ôm chặt lấy giới báo chí Pháp. Đến khi nào mới có cuộc chiến thông tin tại Pháp?
Khi chiến tranh bùng nổ, do không thể cầm súng ra trận vì căn bệnh lao phổi, Albert Camus đã dùng ngòi bút đả kích mạnh mẽ vào giới cầm quyền và những kẻ trục lợi nhờ chiến tranh. Trong bài viết khác có tựa đề “Những kẻ buôn tử thần”, ông quy trách nhiệm cho các nhà sản xuất vũ khí. Ông cho rằng “việc quốc hữu hóa hoàn toàn ngành công nghiệp vũ khí, sẽ giải thoát chính phủ khỏi tầm ảnh hưởng của giới tư bản đặc biệt vô trách nhiệm, chỉ bận tâm đến việc tạo ra những khoản lợi nhuận lớn” (bài viết đăng ngày 29/11/1939).
Albert Camus cũng không quên thân phận bọt bèo của những người dân bản xứ dưới chế độ thực dân trong thời kỳ chiến tranh. Ông tố cáo cách “đối xử tàn nhẫn” của một nhóm thiểu số và chính phủ, những kẻ “cố chấp tìm cách đàn áp những đối tượng không may có cái mũi chẳng nên có, hay nói thứ ngôn ngữ chẳng nên dùng”.
Đối với Albert Camus, nghề nhà báo là tiếng nói của nhân loại. Trong công cuộc tìm kiếm này, tự do ngôn luận là điều chính yếu. Các áp lực tài chính hay chính trị không nên can dự vào việc phát hành. Ông luôn chiến đấu chống lại kiểm duyệt, như là những gì Camus đã làm tại Le Soir Républicain vào năm 1939. Trong suốt thời kỳ chiến tranh, cuộc chiến này mỗi lúc mỗi mạnh mẽ. Nhà báo Camus có một thái độ cứng rắn không gì lay chuyển: “Chúng ta tình nguyện chấp nhận kiểm duyệt quân sự về những tin tức có thể có lợi cho kẻ thù. Nhưng chúng ta không chấp nhận ở bất cứ lúc nào sự kiểm duyệt chính trị”.
Mặc dù có nhiều lời đe dọa đóng cửa tòa soạn, nhưng cặp bài trùng Albert Camus – Pascal Pia vẫn không chùn bước. Sự cứng đầu cứng cổ của họ đã gây bực tức cho chính quyền sở tại. Kết quả là sau 117 số phát hành, tờ Le Soir Républicain đã bị đóng cửa vào ngày 10/01/1940, theo lệnh của thống đốc Alger.

Albert Camus : Báo chí phải độc lập với quyền lực và tiền bạc
Thất nghiệp, dưới áp lực của chính quyền sở tại, Albert Camus không được một tòa soạn nào dám tuyển dụng. Sau đó, ông còn bị chính quyền thực dân trục xuất khỏi Alger. Thế là nhà báo quyết định đến Paris. Tại đây, nhờ Pascal Pia, ông tìm được một chân thư ký cho tòa soạn báo Paris Soir. Thế nhưng, tài năng của nhà báo Albert Camus thật sự nở rộ khi ông đến làm việc cho tờ Combat (Chiến đấu). Một tờ báo hoạt động bí mật của quân Kháng chiến. Số báo miễn phí đầu tiên phát hành vào ngày 24/08/1944. Và chính trên tờ báo này tài viết báo của Albert Camus đã phát triển tốt nhất. Ông đầu tư triệt để cho thể loại “cao cấp” nhất là “xã luận”. Để làm được điều này, Camus đề xuất ba chiêu thức: “một ý tưởng, hai ví dụ, ba tờ giấy” (une idée, deux exemples, trois feuillets).
Vào ngày 08/08/1945, khi quả bom nguyên tử được thả xuống thành phố Hiroshima, Nhật Bản, Albert Camus là người đầu tiên tại Pháp đã có phản ứng, quan ngại cho “những triển vọng khủng khiếp đang mở ra cho nhân loại”. Nhà báo viết: “Nền văn minh cơ khí vừa chạm đến cực điểm của sự dã man. Trong một tương xa hay gần, cần phải biết lựa chọn, giữa sự tự sát tập thể hay việc sử dụng khôn ngoan các hiểu biết khoa học”.
Với 48 ấn bản bí mật tại tờ Combat, Albert Camus trở thành một nhà báo tiếng tăm. Tuy nhiên, yêu nghề viết báo đến chừng nào thì Camus lại ghét giới báo chí đến ngần ấy. Cuộc phiêu lưu tại Combat thể hiện rõ chữ ‘tâm’ và ‘đức’ của Albert Camus, muốn nhìn thấy một nghề viết báo trung thực, chính xác và độc lập với các thế lực của tiền bạc cũng như là quyền lực chính trị. Chính vì thế, Albert Camus thường xuyên lên án mặt trái của giới báo chí. Nhất là trong bài xã luận đăng ngày 31/08/1944 trên tờ Combat. Qua việc chỉ trích ‘thói ham tiền và thái độ thờ ơ của bọn quyền thế”, Albert Camus chỉ ra rằng bọn họ chỉ tìm cách “làm hài lòng hơn là soi sáng”. Ông đã kêu gọi các đồng nghiệp hãy cắt đứt mối liên hệ mà ông cho là “loạn luân” giữa nghề nghiệp với sự cám dỗ của đồng tiền.
Nếu như đối với độc giả Algeri, đầu tiên hết Albert Camus giải thích rõ bổn phận làm sáng tỏ và cẩn trọng là thuộc phận sự của một nhà báo, chống lại sự tuyên truyền và sự “nhồi sọ”, thì tại Combat, Camus tiếp tục đưa ra một hiến chương về thông tin, đảm bảo cho nền dân chủ, sao cho những thông tin đó được giải thoát khỏi vấn đề tiền bạc. Camus viết: “Thông tin chính xác thay vì thông tin nhanh, nói rõ ý nghĩa của mỗi tin tức bằng một bình phẩm tương thích, xây dựng một ngành báo chí chỉ trích và, hơn cả mọi thứ, không nên chấp nhận đặt chính trị lên trên cả đạo đức cũng như là để đạo đức rơi vào chủ nghĩa giáo điều”.
Nhà báo Laurent Joffrin đã tóm lược lại như sau: “Albert Camus đã xây dựng một mô hình mà tất cả các nhà báo đúng với tên gọi này sẽ phải đi theo. Ông đã thể hiện và hình thành lý thuyết đạo đức nghề nghiệp. Nhà báo phải tham chiếu vào những giá trị đạo đức chứ không phải là giá trị chính trị. Đó là những gì Camus đã làm. Đó cũng là lý do vì sao ông thường đi ngược lại với trào lưu. Cần phải có sự can đảm để bất đồng với xã hội, để nói không với một chủ nghĩa theo thời nào đó. Hơn nữa, Albert Camus cũng như Jean Daniel đã đưa ra ý tưởng : Dù có một chính kiến hợp lý và có sắc thái riêng về một sự kiện cũng không gạt bỏ được một lập trường”.
Tóm lại, đối với Albert Camus, ngành báo chí từng là một cộng đồng người ở đó ông cảm thấy được nuôi dưỡng. Đó giống như là một trường đời và đạo đức. Ở đó, ông thấy được sự cao cả. Có thể nói Albert Camus là một trong những tiếng nói hay nhất trong lãnh vực này, góp phần hình thành nên cái khung của một quy chế nghiêm ngặt cho ngành báo chí.

Source : RFI
\

1/1/14

MÂY TRẮNG - Trần Hồ Dũng : Xuân nhật tuý khởi ngôn chí (Lý Bạch - 李白, Trung Q...

MÂY TRẮNG - Trần Hồ Dũng : Xuân nhật tuý khởi ngôn chí (Lý Bạch - 李白, Trung Q...: 春日醉起言志 Xuân nhật tuý khởi ngôn chí Ngày xuân ngủ dậy, say tỏ chí mình (Người dịch: (Không rõ)) 處世若大夢, 胡為勞其生? 所以終日醉, 頹然臥前楹。 覺來眄庭前, 一鳥花...

MÂY TRẮNG - Trần Hồ Dũng : Thanh Tâm Tài Nhân Thi Tập Tự 青心 才 人 詩 集 序

MÂY TRẮNG - Trần Hồ Dũng : Thanh Tâm Tài Nhân Thi Tập Tự 青心 才 人 詩 集 序: Thanh Tâm Tài Nhân Thi Tập Tự 青心 才 人 詩 集 序 --- Kim sử duyên đề tặng phiến, 今使 緣 締 贈 扇, Liêu Dương bất quy thúc phụ chi tang; 遼陽 不 歸 叔...

MÂY TRẮNG - Trần Hồ Dũng : Kinh Tế Việt Nam Trong Thế Giới 2014

MÂY TRẮNG - Trần Hồ Dũng : Kinh Tế Việt Nam Trong Thế Giới 2014: Wednesday, January 1, 2014 Kinh Tế Việt Nam Trong Thế Giới 2014 Nguyễn Xuân Nghĩa & Vũ Hoàng, RFA  Ngày ...

Kinh Tế Việt Nam Trong Thế Giới 2014


Wednesday, January 1, 2014

Kinh Tế Việt Nam Trong Thế Giới 2014

Nguyễn Xuân Nghĩa & Vũ Hoàng, RFA Ngày 140101
"Diễn đàn Kinh tế"
Cải cách sớm hơn Trung Quốc thì ra khỏi quỹ đạo Trung Quốc

000_Hkg9227507-305.jpg 
* Ảnh chụp từ bên trong hầm Thủ Thiêm vượt sông Sài Gòn ở TPHCM hôm 19/11/2013. AFP* 



Trong chương trình đầu tiên của năm 2014, Diễn đàn Kinh tế sẽ tìm hiểu về vị trí kinh tế của Việt Nam đặt vào bối cảnh kinh tế toàn cầu. Bối cảnh ấy là gì? Đâu là những đổi thay so sánh với tình hình của những năm trước? Những đổi thay ấy có gì là thuận lợi hay lại tạo thêm vấn đề mới cho kinh tế Việt Nam? Xin kính mời quý thính giả theo dõi phần trao đổi của Vũ Hoàng với chuyên gia kinh tế Nguyễn Xuân Nghĩa....

 

Liều thuốc đổ bệnh  

 

Vũ Hoàng: Xin kính chào ông Nghĩa trong buổi phát thanh đầu năm 2014 của mục Diễn đàn Kinh tế. Thưa ông, chúng tôi được biết là ông phụ trách tiết mục này từ năm đầu tiên hoạt động của ban Việt ngữ Đài Á Châu Tự Do, phát thanh vào ngày Tết Đinh Sửu năm 1997, với mục đích phân tích vấn đề kinh tế của Việt Nam trong bối cảnh kinh tế toàn cầu, nhất là Châu Á, với những kinh nghiệm mà Việt Nam có thể học được từ các quốc gia khác.

Trong buổi phát thanh đầu năm và với tinh thần vừa tổng kết tình hình đã qua vừa đưa ra những dự đoán cho năm tới, chúng tôi xin đề nghị ông phân tích cho thính giả của chúnh ta hoàn cảnh của kinh tế Việt Nam trong bối cảnh kinh tế thế giới. Xin ông trước hết nói về bối cảnh đó.

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Năm 2014 đánh dấu bước ngoặt của kinh tế toàn cầu sau sáu năm khá đặc biệt kể từ nạn Tổng suy trầm năm 2008. Trong giai đoạn suy trầm chung của thế giới, nhiều biện pháp kích thích khá bất thường đã được đưa ra, đứng đầu là Hoa Kỳ và Trung Quốc. Bây giờ, các biện pháp sẽ lần lượt được thu hồi, nên những gì đã thấy trước đây sẽ không còn nữa và đấy là điều các nước, kể cả Việt Nam, nên tự chuẩn bị để tránh bị biến động bât ngờ.

Khi kinh tế suy trầm như một cơ thể bị suy yếu thì người ta có biện pháp kích thích như bơm thuốc bổ, nhưng nếu bơm quá nhiều và trong giai đoạn quá lâu thì đấy là liều thuốc đổ bệnh. Nguyễn-Xuân Nghĩa

- Về bối cảnh chung thì trong năm 2014, kinh tế toàn cầu ra khỏi suy trầm nhưng chưa tìm lại tốc độ tăng trưởng tốt đẹp thời trước năm 2007. Như Quỹ Tiền tệ Quốc tế dự báo đà tăng trưởng 2013 là gần 3% và qua năm 2014 là 3,6% thay vì hơn 5% như trước. Chi tiết đáng chú ý là định chế này đã sáu lần giảm thấp dự báo vì thực tế không được sáng sủa như họ đã tính. Điều ấy cho thấy người ta rất khó đoán một cách chính xác và vẫn nên chờ đợi nhiều bất trắc.

- Chuyện thứ hai về bối cảnh, khối công nghiệp hoá Âu-Mỹ-Nhật đã có chỉ dấu hồi phục dù chưa mạnh. Trong khối này, Hoa Kỳ dẫn đầu với đà tăng trưởng có thể mấp mé 3%. Ngược lại, các nền kinh tế đang lên không được khả quan như vậy, đứng đầu vẫn là Trung Quốc với đà gia tăng từ mức 7,8% bị đánh sụt xuống 7,3%. Trong khung cảnh đó, đà tăng trưởng của Việt Nam sẽ ở khoảng 5,4%, so với bình quân là hơn 7% trong những năm từ 1995 đến 2007 thì đấy là vấn đề.

Vũ Hoàng: Như ông vừa trình bày thì dù tình hình chưa thật tốt đẹp, hai nền kinh tế dẫn đầu vẫn lần lượt thu hồi các biện pháp kích thích, vì sao lại như vậy và ảnh hưởng của điều ấy là gì?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Như chúng ta có trình bày nhiều lần trên diễn đàn này, khi kinh tế suy trầm như một cơ thể bị suy yếu thì người ta có biện pháp kích thích như bơm thuốc bổ, nhưng nếu bơm quá nhiều và trong giai đoạn quá lâu thì đấy là liều thuốc đổ bệnh.

- Từ sáu năm qua, Mỹ tăng chi và đi vay để kích thích kinh tế khiến gánh nợ của quốc gia tăng từ 62% lên tới 100% của Tổng sản lượng GDP và gây khủng hoảng chính trị về bội chi ngân sách mà kỳ trước chúng ta nhắc tới như một rủi ro của Hoa Kỳ. Song song, Ngân hàng Trung ương Mỹ cũng cắt lãi suất tới số không và bơm ra một lượng tiền cao gấp ba so với sáu năm trước. Biện pháp bất thường, quá mạnh và kéo dài quá lâu có thể thổi lên bong bóng đầu tư nên sẽ phải được thận trọng thu hồi khi tình hình thất nghiệp có cải thiện.




000_Hkg9228230-250.jpg

Ảnh chụp bên bờ sông Sài Gòn ở TPHCM hôm 19/11/2013. AFP PHOTO.

Vũ Hoàng: Xin ông cho hỏi ngay một câu về nguy cơ đổ bệnh của biện pháp này là gì?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Lãi suất duy trì quá thấp và quá lâu dễ thổi lên bong bóng mà lại không khuyến khích tiết kiệm vì được tiền lời quá ít. Quan trọng hơn vậy, biện pháp bơm tiền có nâng lợi tức của các hộ gia đình tới 60% trong sáu năm qua mà kinh tế lại chẳng tăng nhiều như vậy và thất nghiệp chưa giảm. Điều ấy có nghĩa là người có tiền hoặc giới đầu tư thì lời lớn mà thành phần trung lưu và người nghèo vẫn chưa khá. Liều thuốc có thể đổ bệnh vì thổi lên bong bóng về kinh tế và gây bất công về xã hội. Một quốc gia thuộc loại dân chủ nhất, đang có một đảng lãnh đạo theo xu hướng xã hội mà lại gặp vấn đề này thì đấy cũng là điều nên suy ngẫm khi liên tưởng đến trường hợp Việt Nam.

Vũ Hoàng: Chúng ta bước qua trường hợp Trung Quốc mà ông đã nhiều lần nhắc tới. Xứ này đã kích thích kinh tế ra sao và đang gặp vấn đề gì mà phải giảm dần việc kích thích đó?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Trường hợp Trung Quốc lại còn tệ hơn thế vì đã chẳng có dân chủ mà chiến lược kinh tế của một đảng xưng danh xã hội chủ nghĩa còn đào sâu bất công xã hội trong khi gây thất quân bình trầm trọng trong cơ chế. Về biện pháp kích thích, Trung Quốc đã ào ạt bơm tiền vào kinh tế qua ngả tín dụng và lượng tiền lưu hành đã tăng thêm hơn 170%, là con số kinh hoàng nên dễ thổi lên lạm phát. Đó là nói về lượng, về phẩm thì những kênh bơm tiền lại không phân minh và khó kiểm kê rủi ro, bên trong là khối tín dụng của ngân hàng chui. Đa số khách nợ lại là doanh nghiệp nhà nước và công ty đầu tư của chính quyền địa phương. Vì vậy, kinh tế Trung Quốc bị nguy cơ khủng hoảng tài chính, đi cùng lạm phát và bể bóng đầu tư nên chính quyền Bắc Kinh đã có quyết định nâng lãi suất để giảm dần lượng tín dụng bơm ra. Chi tiết cần nhớ hơn cả là biện pháp kích thích lớn lao ấy không đóng góp gì cho đà tăng trưởng bền vững và từ năm nay trở đi, lãnh đạo còn phải chuyển hướng và điều chỉnh lại toàn bộ cơ chế.

 

Viễn ảnh kinh tế năm 2014


Vũ Hoàng: Thưa ông, trong bối cảnh chung như vậy, tương lai rồi sẽ ra sao kể từ năm nay?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Tôi thiển nghĩ rằng nếu kể từ năm 2008, người ta đã kích thích kinh tế trong sáu năm liền với lượng tiền rất lớn thì khi cần thu hồi, biện pháp đảo ngược sẽ khó hoàn tất êm thắm qua vài năm ngắn ngủi mà có thể kéo dài bảy tám năm, thậm chí cả chục năm. Đấy là lẽ thứ nhất để mình nhìn ra chuyện lâu dài. Trong ngắn hạn thì khi hai đầu máy kinh tế của thế giới cùng xiết lại lượng tiền đã bơm ra và nâng lãi suất thì các thị trường thế giới đều dễ bị biến động.

- Cụ thể là vì lãi suất quá rẻ tại Mỹ, tư bản từ thị trường Hoa Kỳ đã chảy qua nhiều xứ khác, kể cả Việt Nam, có khi là dưới dạng người ta gọi sai là "kiều hối". Khi lãi suất tăng bên Mỹ thì đô la lên giá và dòng tiền nóng chảy ngược về Mỹ nên vừa có tác dụng suy trầm sản xuất cho xứ khác, vừa gây rủi ro khủng hoảng về ngoại hối. Vì thế, viễn ảnh kinh tế năm 2014 của các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam, sẽ là mức tăng trưởng thấp hơn, bất trắc nhiều hơn.

Viễn ảnh kinh tế năm 2014 của các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam, sẽ là mức tăng trưởng thấp hơn, bất trắc nhiều hơn. Nguyễn-Xuân Nghĩa

- Sau cùng, dù ngần ngại đưa ra dự báo, tôi vẫn nghĩ là các nước đang phát triển tại Á Châu đều có chung một xu hướng là tích trữ vàng. Cho nên dù giá vàng thế giới có hạ từ năm 2012 làm nhiều mỏ vàng bị lỗ và đóng cửa, số cầu về vàng của các quốc gia này vẫn tăng. Từ năm 2014, vì Hoa Kỳ sẽ xiết tiền, các nước bị chấn động về ngoại hối và còn gặp nguy cơ lạm phát nên vàng vẫn là phương tiện tàng trữ tài sản được họ chiếu cố. Điều ấy có nghĩa là giá vàng sẽ tăng trong nhiều năm tới và tôi cho là tăng mạnh vì nhiều mỏ vàng đóng cửa đã làm giảm số cung.

Vũ Hoàng: Chúng ta trở lại chuyện Việt Nam trong bối cảnh dài kể từ năm 2014 trở đi. Thưa ông, Việt Nam nên chú ý đến những điều gì khi thế giới chung quanh đang xoay chuyển như vậy?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Tôi xin được nhắc lại là trong giai đoạn lâu dài đó, kinh tế Trung Quốc sẽ không tìm lại đà 
tăng trưởng 9-10% của quá khứ mà chỉ được 7% là mừng. Việt Nam cũng vậy, đà tăng trưởng trên 7% đã thấy từ 1995 đến năm 2007 sẽ không còn nữa, may lắm thì được 5%. Người ta có thể rút tỉa được những điều gì trong khung cảnh đó?

- Thứ nhất và như diễn đàn này của chúng ta nhiều lần trình bày, mọi quốc gia nghèo đói đều có cơ hội tăng trưởng cao nếu chuyển hướng kinh tế theo quy luật tự do hơn và nếu học hỏi được từ các quốc gia tiên tiến. Nhờ vậy, xứ nào cũng hy vọng vươn lên từ quá khứ lầm than và lầm lạc, nhưng chỉ được trong mươi mười lăm năm là cùng. Việt Nam đã có cơ hội đó kể từ năm 1995.

- Thứ hai, khi có cơ hội gọi là "cất cánh" như vậy, các nước đang lên phải nhìn vào phẩm chất của tăng trưởng và tạo điều kiện phát triển vững bền hơn, qua việc cải tổ cơ chế lạc hậu cũ. Đa số các nước đi sau lại không như vậy mà cứ tưởng đà tăng trưởng này sẽ kéo dài, vì vậy, dù mức sống người dân có cải thiện so với ngày trước, cả nước vẫn chưa vươn lên trình độ gọi là có lợi tức cao, như các nước tiên tiến khác. Họ rơi vào cái bẫy của lợi tức trung bình, chỉ là loại quốc gia trung bình. Việt Nam gặp tình trạng đó và nếu không rút tỉa bài học thì ở lại đó khá lâu.

Vũ Hoàng: Ông giải thích thế nào về hoàn cảnh này của Việt Nam?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Sau cả chục năm sai lầm với ảo tưởng xã hội chủ nghĩa, Việt Nam chỉ đổi mới từ năm 1992 sau khi Liên Xô tan rã, đấy là điều đáng tiếc nếu so với các lân bang. Sau đó, Việt Nam hội nhập vào khối ASEAN và tái lập quan hệ ngoại giao với Hoa Kỳ từ năm 1995 và quả nhiên là bắt đầu cất cánh với tốc độ tăng trưởng hơn 7%. So với quá khứ của mình thì đấy là một thay đổi tốt đẹp hơn nhưng so với các nước Đông Á thì chưa là gì cả.

- Sau khi ký kết Hiệp định Thương mại với Mỹ vào năm 2001 rồi gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới vào năm 2007, Việt Nam có nhiều cơ hội cải cách dứt khoát hơn trên cái trớn cao hơn, mà lại để hụt. Kết quả là một sự hồ hởi sảng vào năm 2008 với nhiều đợt khủng hoảng về giá cả và ngoại hối, khi thế giới lại bị Tổng suy trầm. Mãi đến năm 2011 Việt Nam mới chịu công nhận là phải sửa sai, nhưng việc tái cơ cấu ba lĩnh vực kinh tế được để ra từ hai năm qua vẫn tiến hành quá chậm, trong khi nền kinh tế lại tích lũy thêm nhiều vấn đề mới trong hệ thống ngân hàng và doanh nghiệp nhà nước và y như Trung Quốc, lại có tình trạng bất công cao hơn.

Vũ Hoàng: Câu hỏi cuối, ông tổng kết và dự đoán thế nào về tình hình năm 2014 này?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Đầu tiên, so với thế hệ lãnh đạo thời cách mạng thì lớp người lãnh đạo ngày nay không ác bằng mà lại giỏi kiếm tiền hơn. Đấy không là một lời khen hay một chuyện đáng mừng vì người dân xứng đáng có một tương lai khác. Trong giai đoạn sắp tới, tình trạng sa sút của Trung Quốc khi họ phải chuyển hướng có tạo ra cơ hội thuận tiện hơn cho Việt Nam, là điều ta sẽ tìm hiểu thêm trong những kỳ tới, với điều kiện là lãnh đạo kinh tế của Việt Nam phải cải cách nhanh hơn Trung Quốc. Cải cách như thế nào thì quốc tế đã nói tới và tôi nghĩ rằng giới cầm quyền cũng biết, nhưng mình cũng sẽ nhắc lại.

- Rốt cuộc, Việt Nam sẽ qua thời kỳ tăng trưởng thấp hơn trước, theo kiểu mình hay nói là "ăn ít no lâu". Đầu năm mới, tôi xin kính chúc là đảng ăn ít hơn, cho người dân được no lâu hơn.

Vũ Hoàng: Xin cám ơn ông Nghĩa về cuộc trao đổi này và xin hẹn tuần tới sẽ lần lượt tìm hiểu về những cơ hội và  thách thức cho kinh tế Việt Nam.


Source : RFA , dainamax tribune