Ngày tàn của trí thức
Tác giả:
Nguyễn Hoài Vân – 25/5/2014
(GNA: Cám ơn tác giả về một bài suy luận rất hay. Alan Phan. Những hàng chữ viết nghiêng do GNA soạn)
Thịnh và suy
Tại các quốc gia Tây Phương, khi thế quyền bị tách rời khỏi thần
quyền, khi không còn các Đấng Quân Vương trị dân với sự ủy nhiệm của
Thiên Chúa, và đương nhiên là theo Thánh Ý Ngài, thì quyền hành bỗng
dưng gặp phải một sự thiếu vắng ý nghĩa, một định hướng luân lý, một nền
tảng để có thể xây dựng trên đó những giá trị đạo đức. Khi đó, cái «
thời » của người trí thức đã đến.
Người trí thức trở thành những kẻ định ra hướng đi của xã hội, vẽ
đường cho những cải cách, những cuộc cách mạng, phê phán về tính « xấu »
, « tốt » , của những quyết định và chương trình chính trị. Các chủ
thuyết lớn ra đời, mang theo những ước vọng, lập ra những khuôn mẫu giáo
điều, dựng nên những thần tượng, lấp vào chỗ trống của Thần Quyền. Thời
của những chủ thuyết cứu rỗi (messianisme) đã đến, với hàng giáo phẩm
không ai khác hơn là tầng lớp trí thức.
Dưới bầu trời phương Đông, không có Thần Quyền, chỉ có « Thiên Mệnh
», một phần lệ thuộc « vận khí » của triều đại, nói nôm na là sự may mắn
của triều đại ấy (có lẽ thể hiện Ý Trời ?), một phần được quy định bởi «
nhân tâm ». Mà « nhân tâm » thì phần lớn được diễn đạt qua tầng lớp trí
thức, tức là những kẻ biết nói văn vẻ, biết biện luận theo sách vở kinh
điển, và nhất là biết viết.
Đến khi Đông Tây gặp nhau, thì trí thức phương Đông trở thành những
người được đào luyện bởi phương Tây, với ít ra là những cung cách bên
ngoài rập khuôn theo Tây Phương. Trí thức Đông Phương cũng phần nào được
cộng hưởng sự vinh quang của các « đồng nghiệp » của họ bên trời Tây.
Rồi, thời gian trôi … Ngày nay, công kích xỉ vả trí thức trở thành
một trò chơi được ham chuộng. Nước ta có Phạm Thị Hoài, qua bài trả lời
phỏng vấn về trí thức trên báo Cánh Én, trước đó đã có Hà Sĩ Phu, và một
số người nói theo ông ta, dư luận đều đã đề cập đến nhiều nên xin miễn
bàn thêm (riêng bài của chị Hoài đã đưa đến một diễn đàn trên web với
những đóng góp phong phú suốt nhiều tháng).
Bên nước Đại Pháp, tờ Le Débat, một diễn đàn quan trọng của giới trí
thức, ra số kỷ niệm 20 năm với bài tựa của Pierre Nora, nhan đề : « Giã
từ trí thức ».
Tác giả này cho rằng có lẽ phải từ bỏ danh xưng trí thức, vì nó gắn liền với quá nhiều sai lầm và tội ác. Ông đề nghị nên đem chôn « trí thức » cùng với thế kỷ vừa chấm dứt !
Trong cùng số báo, sử gia Winock đặt câu hỏi : « Đâu là công dụng của
trí thức ? » Sirinelli, một sử gia khác, diễn tả về trí thức qua «cảm
tưởng mặt trời lặn», một cảm tưởng buồn … Cùng lúc, Régis Debray cho
xuất bản một quyển sách tên là « Trí Thức Pháp, tiếp theo và hết ».
Debray, văn sĩ tài danh, thủ khoa trường Normale Sup, chiến hữu của Che
Guevarra tại bưng biền Nam Mỹ, cố vấn của Tổng Thống Mitterrand, người
đã từng tham gia hầu hết các cuộc đấu tranh của trí thức suốt những thập
niên vừa qua, thẳng thắn công nhận mình đã lầm đường (« j’ai déconné à
plein tubes »), cũng như tầng lớp trí thức nước ông, để rồi cho rằng
tầng lớp này đã chết.
« Xác chết của nó còn động đậy, nó còn làm vẻ, làm dáng, nhưng trong
thực tế, nó chỉ là một con ma nham nhở » (Eric Conan –Express). Ngược
lại, Alain Finkielkraut, triết gia hiện rất được chú ý, cho rằng « thái
độ của người trí thức giống như một tuổi trẻ vị thành niên được kéo dài
một cách quá đáng ». Tổng hợp hai ý kiến cho ra một thây ma lìa đời vào
tuổi vị thành niên, nên còn tiếc nuối bám víu cõi hồng trần …
Những nguyên do của suy tàn
Vì sao hình ảnh của người trí thức lại trở nên tàn tạ như vậy ? Nội
dung lập trường gọi là thiên tả của hầu như toàn thể tầng lớp trí thức
suốt nhiều thập niên, đã được cảm nhận như một chuỗi sai lầm với nhiều
tai hại.
Sở dĩ tôi nói «gọi là » thiên tả vì trong một thời gian dài người trí
thức đã cố công bảo vệ những lập trường phản động nhất, theo chính quan
điểm Marxiste, kết tụ trong chủ thuyết Staline-Mao. Họ đã bao che chế
độ Goulag, miệt thị những nhân chứng phơi trần tính cách phi nhân của CS
Liên Sô. Họ đã làm ngơ trước « Trăm Hoa Đua Nở » với « Bước Nhảy Vọt »
và tiếp tục thần tượng hóa Mao Trạch Đông. Họ ủng hộ Bắc Việt Nam, ủng
hộ Khmer Đỏ, ngay cả khi đã được biết về những cuộc thảm sát gây nên bởi
tổ chức này.
Họ cho rằng « muốn ăn trứng thì phải đập vỏ trứng », muốn chiến thắng
tư bản thì bằng bất cứ giá nào, phải sát cánh đàng sau các lực lượng «
tiến bộ », không được gây tổn hại cho các lực lượng này, không được phân
tán lực lượng, lẫn lộn mục tiêu v.v… « Những kẻ chống Cộng là đồ chó
!», như lời Sartre. « Thà sai lầm với Sartre còn hơn là có lý với Aaron »
là một khẩu hiệu thời thượng khác, cho thấy người trí thức đã chấp nhận
thà lầm lẫn (theo Sartre) còn hơn là phản lại « cách mạng » (như
Aaron).
Người trí thức Tây Phương đặc biệt là Pháp, vào lúc đó bị ám ảnh bởi
quyền hành, bởi viễn tượng cách mạng « một buổi chiều » (le grand soir).
Họ sẵn sàng tự tha hóa, sẵn sàng từ bỏ vai trò trí thức thực sự cho cái
viễn tượng sẽ cướp được chính quyền ấy. Sự thất bại của cuộc chính biến
tháng 5 1968 khiến một số trong họ quay về với những sinh hoạt trí thức
thuần túy hơn.
Biến cố Hung Gia Lợi, rồi Tiệp Khắc cũng là những chấn động lớn trong
hàng ngũ họ. Sự thật càng ngày càng được phơi bày. Đến khi thảm kịch
của thuyền nhân Việt Nam tỵ nạn CS được đem ra trước dư luận, thì người
ta thấy Sartre và Aaron bắt tay hòa giải với nhau trên thềm điện Elysée,
khi hai người cùng đến vận động cho việc cứu vớt đồng bào ta trên biển
Đông.
Sartre trở thành biểu tượng của sự dấn thân của thiên tài trí tuệ cho những mục tiêu chính trị sai lầm đến độ ngu xuẩn.
Phải chăng Debray đã có lý khi trích dẫn Proust : « càng ngày tôi đánh giá thấp cái giá trị của trí thông minh » ?
Tại Miền Nam Việt Nam trước 1975 người ta giảng dạy và đề cao không những Marxiste mà cả chủ thuyết Staline Mao trong đại học.
Nhà
báo thiên cộng đánh phá chính phủ một cách hiệu quả. Văn sĩ, nhạc sĩ
thiên cộng gây nhiều ảnh hưởng trong quần chúng. Những nhân vật được coi
như trí thức trong hàng ngũ tu sĩ các tôn giáo lớn cũng nêu cao những
lập trường hiển nhiên hay mặc nhiên thiên cộng. « Thành phần thứ ba »,
một tập hợp thể hiện giấc mơ bắt tay với người Staliniste Việt Nam để «
hòa hợp hòa giải dân tộc », « xây dựng đất nước » … quy tụ một số đông
trí thức hàng đầu của Việt Nam Cộng Hòa.
Tại Miền Bắc Việt Nam, những tinh hoa của trí tuệ dân tộc quy hàng Bác
và Đảng, như Trần Đức Thảo, Nguyễn Khắc Viện, v.v… đều nhanh chóng bị
cầm giữ trong một hệ thống sắt máu, nhân danh công nghiệp « chống Mỹ cứu
nước ».
Lý tưởng ban đầu của họ không khác với trí thức Tây phương,
nơi họ được đào tạo, và khi họ đã chui đầu vào rọ rồi, thì mọi sự vùng
vẫy đều vô ích. Họ trở thành những công cụ của quyền hành, khi may mắn
được quyền hành đoái hoài tới …
Trí thức cộng với quyền hành: không còn là trí thức
Thật vậy, khi trí thức bị ràng buộc vào quyền hành, thứ quyền hành mà
chúng ta thường biết cho tới nay, bất kể trong tiến trình đang chinh
phục quyền hành ấy hay đang cố nắm giữ nó, thì cái tính trí thức kia bắt
buộc phải bị lu mờ đi.
Khi đó, quyền hành luôn chiếm ưu tiên trên sinh hoạt trí thức. Sáng tạo của trí thức sẽ phải phục vụ quyền hành.
Thông thường hơn hết là sáng tạo trí thức phải lu mờ đi, phải bị che
phủ bởi tầng mây quyền hành. Mà sinh hoạt trí thức không có sáng tạo,
thì là gì ? ích lợi gì ? (câu hỏi của Winock)
Con người trí thức khi nằm trong quyền hành, không còn suy nghĩ như
trí thức, cũng không còn nhìn các người trí thức khác với cái nhìn trí
thức. Nhà văn Phạm Thị Hoài đã nhận thấy điều đó. Hai ngàn ba trăm năm
trước, Lý Tư, tác giả của những bài Khắc Thạch được kể là những áng văn
hay, học trò của Tuân Tử, bạn học của Hàn Phi, khi làm tể tướng cho Tần
Thủy Hoàng, có phát biểu như sau về trí thức :
« (…) Bây giờ thiên hạ đã định, pháp luật phát xuất tự một nơi, trăm
họ thì gắng việc công nông, kẻ sĩ thì học tập (!) những điều nghiêm cấm.
(…) Tuy vậy, người ta vẫn cho cái học riêng của mình là hay, để chê
những kiến lập của bề trên. Nay bệ hạ gồm thâu thiên hạ, phân biệt trắng
đen, ấn định tôn chỉ, thế mà bọn tư học cùng nhau bài bác pháp giáo,
nghe lệnh trên ban xuống đều đem sở học ra mà nghị luận. Vào thì chê bai
trong lòng, ra thì bàn bạc ngoài ngõ (…).
Vậy mà không cấm, thì ở trên thế vua sẽ phải bị giảm sút, ở dưới
loạn đảng sẽ nhóm thành. Cấm đi thì tiện. Xin rằng các sách sử không
phải chép về nhà Tần thì đốt đi. (…) Ai dám nói chuyện về Thi Thư thì
bắt bỏ chợ. Ai dám khen việc đời xưa mà chê việc đời nay thì giết cả họ.
(…) Những sách không bị loại bỏ là sách thuốc, sách bói và sách
trồng trọt. Ai muốn học về pháp lệnh thì phải lấy quan lại làm thày.»
(theo Trần Trọng San : Văn Học Trung Quốc đời Chu Tần)
Người trí thức Hàn Phi vắn tắt : « Nước của minh chủ không văn chương
sử sách, chỉ có pháp luật để dạy, không cần trích dẫn vua trước, cứ lấy
quan lại làm thày (dĩ lại vi sư). » (Hàn Phi Tử 19 – thiên 49)
Đơn giản : quyền hành muốn « nuốt » trí thức, kể cả cái « tính trí
thức » trong nội tâm của chính người cầm quyền. Nhiều khi vì muốn duy
trì cái « tính trí thức » ấy mà có người phải từ bỏ quyền hành, như Đức
Khổng Tử.
Tuy nhiên, cũng có những ngoại lệ. Tôi rất thích thú khi thấy bộ
trưởng Allegre của Pháp nói chuyện trên đài truyền hình về một quyển
sách của ông bàn quanh vấn đề khoa học và niềm tin tôn giáo. Thích thú
vì khám phá ra một ngoại lệ. Ít lâu sau ông bộ trưởng trí thức trực ngôn
này bị mời về vườn hay đúng hơn là về Đại Học tiếp tục « gõ đầu trẻ ».
Tôi cũng đã mua quyển « anthologie de la poésie francaise » của Tổng
Thống Pompidou, chỉ vì tò mò muốn xem một ông tổng thống « làm » trí
thức, viết chuyện thơ văn, không chủ đích chính trị. Malraux cũng là một
ngoại lệ, Havel cũng vậy. Có lẽ những người trí thức ấy đã không bị tha
hóa bởi quyền hành. Malraux, vì sinh hoạt trí thức của ông không có vẻ
bị ảnh hưởng bởi thời gian tham chánh, Havel, vì phản ứng rất « trí thức
» trước đòi hỏi ly khai của Slovaquie…
Giải pháp để có một tầng lớp trí thức đúng nghĩa
Nếu sự tha hóa của trí thức phần lớn là do liên hệ của tầng lớp này vói quyền hành, thì có lẽ chỉ có hai giải pháp :
1) Tách trí thức khỏi quyền hành :
Cái khó của một nước như Việt Nam trong quá trình lịch sử là quyền
hành thu hút hầu hết trí thức. Bên ngoài quyền hành là các thày đồ (…
thày đạc, dạy học dạy hành …), mà « lẽ sống » vẫn là đào tạo học trò đi
học làm quan. Hoặc giả có thể trông vào « tính trí thức » tự nhiên của
dân gian, dù không có cái sở học khoa bảng ? Tại sao không ? Biết đâu
chừng đó chính là yếu tố nền tảng duy trì sinh hoạt trí thức đúng nghĩa,
biệt lập với tham vọng quyền hành, suốt dòng lịch sử nước ta ?
Sự sáng suốt của người dân, mầm mống của một nền « dân chủ » bất
thành danh của Việt Nam ? « Phép vua thua lệ làng » , một loại « dân chủ
trực tiếp » ? Thật ra, ngày nay không còn là lúc để tự thỏa mãn một
cách viển vông với những nhận định kiểu này. Nhu cầu có được một tầng
lớp trí thức đúng nghĩa là một thúc bách lớn. Nó đòi hỏi một Xã Hội Công
Dân, biệt lập với chính quyền, trong đó người trí thức có cơ hội làm
nhiệm vụ của mình. Nó đòi hỏi một nền giáo dục độc lập, những cơ cấu văn
học nghệ thuật và thông tin độc lập. Nó đòi hỏi thay đổi cấu trúc quyền
hành hiện tại của Việt Nam.
Thật ra, kinh nghiệm tại các nước Tây Phương cho thấy điều này chưa đủ.
Các xã hội Tây Phương vẫn có một xã hội công dân tương đối phong phú
nhưng tầng lớp trí thức của họ, như ta đã thấy ở trên, vẫn bệ rạc. Ở Tây
Phương, trí thức còn là nạn nhân của sự phát triển của các phương tiện
truyền thông đại chúng.
Điều này đã đưa người trí thức đến phản xạ chạy theo dư luận, tìm sự
ngoạn mục, tuyên bố dao to búa lớn, tranh thủ thời gian và do đó suy tư
phiến diện. Thay vì đi vào những vấn đề nền tảng, suy nghĩ trong dài
hạn, trong chiều sâu, tìm những khuynh hướng lâu dài trong sự chuyển hóa
của các xã hội, phân tích những khái niệm và sự biến dịch của chúng
cũng như sự hình thành của những khái niệm mới, thì người trí thức, do
ảnh hưởng của truyền thông đại chúng, trở thành những kịch sĩ của một
sân khấu thời sự rẻ tiền, hò hét quanh những vấn đề đang được ánh đèn dư
luận chiếu đến, trong phút chốc, rồi hối hả quay sang vấn đề khác.
Họ suy tư vội vã, để kịp bao dàn sân khấu, để luôn hiện diện trước
một công chúng hay thay đổi thị hiếu, luôn sẵn sàng đào thải họ vào quên
lãng. Tại Việt Nam, vấn đề này chưa thực sự đặt ra, và những nhận định
quanh nó chỉ đáng được đặt trong ngoạc đơn. Sự phát triển của một tầng
lớp trí thức đúng nghĩa biệt lập với quyền hành mới thực sự là vấn đề
trước mắt, và không phải dễ thực hiện …
2)
Thay đổi bản chất của quyền hành :
Ít ra là trên phương diện lý thuyết, một câu hỏi cần được nêu lên :
có thể nào người trí thức vẫn nằm trong quyền hành mà không bị tha hóa,
không mất « tính trí thức » ? Có thể. Nếu bản chất của quyền hành thay
đổi, hay nếu năng lực nội tại của người trí thức ấy cho phép. Năng lực
nội tại của người trí thức thì không có tính quy luật, không thể trông
cậy vào nó. Chỉ còn thay đổi bản chất của quyền hành. Khi đó, phải tự
hỏi :
- thay đổi để trở thành như thế nào ?
- làm sao thay đổi ?
- và nhất là ai chủ động thay đổi ?
Từ các xã hội độc tài rõ rệt, đến các quốc gia dân chủ hình thức, quyền
hành gần như lúc nào cũng được coi như cứu cánh, như điểm đến của cuộc
hành trình chính trị. Suốt cuộc đời chính trị, người ta làm như thế, nói
như thế, viết như thế, có những thái độ cử chỉ như thế, thậm chí biểu
diễn thổi kèn saxo, đội nón cao bồi, lên truyền hình hát nhạc « sến »,
v.v… đều với chủ đích nhắm vào quyền hành. Cái nội dung lời nói hay câu
viết không quan trọng bằng tác dụng của những thứ ấy trong việc đưa tác
giả của chúng đến gần quyền hành, hay bắm chặt quyền hành hơn.
Tất cả những gì đưa đến quyền hành thì coi như tốt, còn lại là điều phải cố công loại bỏ.
Đạt đến quyền hành để làm gì ? Chúng ta có cảm tưởng đối với các đấu sĩ
chính trị chuyên nghiệp này, đó là điều phụ thuộc ! Đành rằng khi tranh
thủ quyền hành, người ta cũng có những chương trình kế hoạch kinh bang
tế thế, hưng vượng quốc gia v.v… nhưng khi đã đạt đến quyền hành, họ nhẹ
nhàng quay lưng phản lại những lời hứa cũ, nếu nó không thuận lợi cho
sự bám lấy quyền hành của họ.
Lãnh tụ Xã Hội Léon Blum trong Hội Nghị thành Tours của Quốc Tế Thợ Thuyền năm 1920 có chất vấn phe CS Đệ Tam :
«
các ông muốn đạt đến chính quyền để cải tạo xã hội, hay chỉ dùng chiêu
bài cải tạo xã hội để nắm chính quyền ? » Thật ra, câu chất vấn này phần
nào có thể đặt ra cho hầu hết những kẻ cầm quyền.
Thay đổi bản chất của quyền hành là làm cho quyền hành không còn là
điểm đến của cuộc hành trình, mà ngược lại, là điểm khởi đầu. Tức là
phải đưa quyền hành xuống đến gần người dân, để những sáng kiến phát
xuất từ người dân có được cái « quyền hành » đưa đến thực hiện. Như thế
quyền hành sẽ là khởi điểm của cuộc hành trình, thực hiện sáng kiến cải
thiện là tự thân cuộc hành trình ấy, và thành quả cải thiện thành công
là điểm đến.
Nếu quan niệm được quyền hành như vậy, thì trí thức không những sẽ không
bị tha hóa bởi quyền hành, mà ngược lại sẽ tìm thấy nơi quyền hành động
cơ để thực hiện những sáng kiến của mình.
Trên phương diện thực tế, quan điểm dân chủ trực tiếp này vấp phải nhiều
trở ngại kỹ thuật, nên thường bị coi là không tưởng. Theo tôi, trở ngại
kỹ thuật có thể vượt qua (xin bàn đến trong dịp khác).
Cái khó vượt qua là phản ứng bám trụ quyền hành của giai cấp chính trị chuyên nghiệp sợ phải đập bể nồi cơm của họ.
Làm sao thay đổi ? Điều vừa nói, cộng với định nghĩa của một thay đổi
từ bản chất, từ cấu trúc, cho thấy ngay câu trả lời : đó là một cuộc
cách mạng. Mà cách mạng thì tự nó hình thành qua những điều kiện khách
quan. Có còn cần phải tự hỏi : « làm sao » ?
Ai chủ động thay đổi ? Nhất định không phải là những kẻ hiện nắm quyền.
Một
trở ngại không nhỏ là những kẻ đối lập cũng quan niệm quyền hành trong
bản chất y hệt như nhóm cầm quyền mà họ muốn thay thế. Tức là đối với
những người đối lập này, quyền hành vẫn là điểm đến của cuộc hành trình
chính trị của họ. Giả sử họ thay thế được một chính thể độc tài
trắng trợn bằng một thể chế dân chủ hình thức, thì tình hình quả có khá
hơn, nhưng vấn đề căn bản vẫn chưa được giải quyết.
Tóm lại,
Ít ra là trong trường hợp Việt Nam tôi không thấy cần phải xỉ vả trí
thức. Họ làm những gì có thể làm được trong những điều kiện cụ thể ràng
buộc họ. Lọt vào quyền hành và bị tha hóa không nhất thiết biến họ thành
những người xấu xa, hay dốt nát. Như một tập thể, họ đa dạng như những
loài hoa, người thế này, kẻ thế khác…
Vấn đề là môi trường. Nếu môi trường sinh hoạt của họ khác đi, thì ta sẽ
thấy một bộ mặt mới của trí thức Việt Nam, và những cánh hoa sẽ nở đẹp
trong khu vườn trí thức.
Nguyễn Hoài Vân
Source : Goc nhin Alan