19/3/09

Charles Darwin – Con người và thuyết tiến hóa

Charles Darwin – Con người và thuyết tiến hóa

Nguyễn Đức Hiệp

Năm 2009 là kỷ niệm 200 năm ngày sinh của Darwin và 150 năm ngày xuất bản quyển sách “On the origin of species” (“Nguồn gốc của các loài sinh vật”), một công trình nghiên cứu sinh học nổi tiếng và đặt nền tảng cho thuyết tiến hóa của ông. Sự ra đời của quyển “On the origin of species” có ảnh hưởng to lớn không những trong khoa học sinh học mà còn trong nhiều phương diện khác từ tư tưởng, chính trị, tôn giáo, tâm lý, triết học đến nghệ thuật trong sự phát triển ở xã hội con người, không kém ảnh hưởng của thuyết lượng tử mà Max Planck đã đề ra sau này. Sự khám phá ra quá trình kiến tạo sinh học trên trái đất bắt đầu cách đây khoảng 10 tỉ năm và vẫn tiếp diễn ngày nay là một trong những khám phá lớn nhất trong lịch sử khoa học.

Sự ra đời của “On the origin of species” đặt con người vào một tình thế phải xác định lại vị trí của mình trong vạn vật: con người không phải là trung tâm của các sinh vật như mình nghĩ hay do Thượng đế đặc biệt tạo ra và các sinh vật khác phục vụ cho nhu cầu của mình mà thật ra chỉ là một trong những loài thú vật trên trái đất hay trong vũ trụ. Tư tưởng cách mạng này đảo lộn tư duy như sự khám phá của Copernicus vào thế kỷ 16 là không phải trái đất là trung tâm của vũ trụ và tất cả đều xoay quanh trái đất như mọi người tưởng mà thật ra trái đất chỉ là một hành tinh xoay quanh mặt trời như những hành tinh khác.

Trong 4 quyển sách của Darwin “The voyage of the Beagle”, “On the origin of species”, “The descent of men”, và “The evolution of emotion in man and animal”, thì quyển “The origin of species” là gây ảnh hưởng nhất qua sự trình bày cặn kẽ, logic đầy đủ thuyết phục cho thuyết tiến hóa qua các dữ kiện và quan sát được đưa ra.

Dĩ nhiên quyển sách và thuyết tiến hóa của Charles Darwin đã bị nhiều thế lực chống đối và phản bác. Ngày này thuyết tiến hóa đã được đa số chấp nhận nhưng cũng còn có những sự phản bác chối từ mà đa số là từ các tổ chức tôn giáo thành kiến.

Sự hình thành của thuyết tiến hóa và ra đời của “On the origin of species”

Darwin sinh năm 1809 trong một gia đình khá giả ở một thành phố nhỏ Shrewbury, Tô Cách Lan. Ông nội của Darwin là một thi sĩ có tiếng, Eramus Darwin. Lúc còn là sinh viên y khoa trẻ ở đại học Edingburg, ông bắt đầu say mê tìm hiểu và học hỏi sinh vật học: thiên nhiên đã có một sức hấp dẫn đặc biệt đến ông. Sau này khi ông bỏ y khoa chuyển qua đại học Cambridge để học thần học như ý thân phụ ông muốn, ông đã có dịp học hỏi từ các bậc thầy nổi tiếng về thực vật học như J. Henslow, địa chất học như A. Sedgwick (4). Ông theo dõi và đọc các sách của các nhà khoa học đương thời như A . Humboldt, C. Lyell, đặc biệt sách ảnh hưởng đến suy nghĩ của ông là “Nguyên lý địa chất học” (Principles of Geology) của C. Lyell trong đó nó cho ông thấy trái đất rất cổ xưa và tuổi địa chất rất lớn so với độ thời gian thế hệ của các sinh vật, sự thay đổi nhỏ, dần trên trái đất nhưng với một thời gian địa chất lâu đời sẽ kết tinh lại đưa đến sự thay đổi rất lớn.

Năm 1838, nhờ Henslow ông được đi trên tàu HMS Beagle đi thám hiểm nghiên cứu vòng quanh thế giới do nhà sinh vật và thuyền trưởng R. Fitzroy điều khiển. Cuộc hành trình này kéo dài 5 năm và đây là thời gian mà Darwin được dịp quan sát và thâu thập, khám phá được nhiều dữ kiện quan trọng về địa chất (núi lửa, động đất, các đảo tạo từ núi lửa gần Nam Mỹ), các hóa thạch của nhiều sinh vật đã tuyệt chủng, thực động vật mới ở nhiều nơi, và nguồn gốc của các dãy san hô.

clip_image001

Chuyến đi của Darwin trên tàu Beagle đi vòng quanh trái đất ghé lại nhiều nơi ở Nam Mỹ, các đảo ở Thái Bình Dương, Úc,.. giúp ông thâu thập nhiều dữ kiện động thực vật, địa chất, địa lý, hóa thạch làm ông suy nghĩ và từ những quan sát dữ kiện này ông đã kết hợp chúng thành những chất liệu gây dựng thuyết tiến hóa sau này. Ông nhận thấy một số các sinh vật hóa thạch ở Nam Mỹ giống với các loài sinh vật hiện có ở trên lục địa này hơn tất cả các sinh vật ở những lục địa khác. Ông tự hỏi là có đủ loại các sinh vật rất khác nhau sống ở trong các rừng nhiệt đới ở Phi châu, Á châu, Nam Mỹ mặc dầu khí hậu đều giống nhau, tại sao như vậy và các sinh vật khác nhau này từ đâu đến?

Darwin không phải là người đầu tiên đề cập về thuyết tiến hóa, nhưng ông là người đã giải thích thuyết tiến hóa có hệ thống với các bằng chứng dựa trên những lý luận và các dữ kiện quan sát về nguồn gốc của các sinh vật qua sự chọn lựa tự nhiên (natural selection). Darwin cũng đã nói rõ trong sách của ông là nhà sinh vật học Wallace cũng có cùng ý nghĩ với ông về nguồn gốc sinh vật qua thuyết tiến hóa qua các bản báo cáo và bài về thuyết tiến hóa của Wallace (“On the Tendency of Varieties to Depart Indefinitely from the Original Type”) gởi ông về các phát hiện từ quần đảo Indonesia, nơi ông Wallace đang thám hiểm. Darwin đã viết và suy nghĩ về thuyết tiến hóa qua chọn lựa tự nhiên từ nhiều năm qua trước khi nhận được bài của Wallace về thuyết tiến hóa. Darwin đã thảo luận với hai nhà khoa học Charles Lyell và Joseph Hooker về sự trùng hợp hy hữu này. Qua sự giàn xếp của nhà sinh học Joseph Hooker, Darwin đã gởi bài của Wallace và của ông để cùng đăng trên tạp chí của hội sinh vật học Linnean Society of London (hiện nay vẫn còn hoạt động) và cả hai bài đã được đọc trong buổi họp và nói chuyện ở hội. Như vậy cha đẻ của thuyết tiến hóa là Darwin và Wallace. Nhưng quyển sách đầy đủ hơn về thuyết tiến hóa của Darwin ra đời sau đó mới có ảnh hưởng lớn và tiếng vang lan rộng trong giới khoa học.

Ảnh hưởng của thuyết tiến hóa vào xã hội, khoa học và nghệ thuật

Ngay sau khi sách “Nguồn gốc của các loài sinh vật” được xuất bản, trong một thời gian ngắn sách được tiêu thụ nhanh chóng và tái bản lần thứ hai và gây chú ý không những trong giới khoa học mà ở nhiều tầng lớp xã hội và khơi mào ra nhiều cuộc thảo luận tranh cãi khắp nơi.

Nổi tiếng nhất là cuộc tranh luận giữa giám mục Anh giáo (địa phận Oxford) Samuel Wilberforce, một nhà hùng biện lúc đó, và nhà sinh học Thomas Huxley ở Bảo tàng của Đại học Oxford ngày 30 tháng 6 1860, bảy tháng sau khi sách ra đời. Darwin lúc đó bị đau bụng đang dưỡng bệnh nên không tham dự. Trong số những người ủng hộ Darwin là Thomas Huxley, Sir Joseph Hooker và ủng hộ giám mục Wiberforce là nhà sinh học Richard Owen. Ngoài những bộ óc lớn trong khoa học, giới trí thức và thượng lưu của Anh lúc đó hiện diện còn có sinh viên, công chúng cả ngàn người tham dự chật bảo tàng và hàng trăm người không vào được (8)(11).
clip_image002 clip_image002[7]
Nhà sinh học Thomas Huxley (hí họa trong tạp chí Vanity Fair) Giám mục Wiberforce (hí họa trong tạp chí Vanity Fair)


Mục sư (Reverend) Robert Henslow (người trước kia bảo hộ Darwin học ở Cambridge) là chủ tọa buổi tranh luận.

Mở đầu và trọng tâm cho buổi thảo luận là bài báo cáo của Dr. John Draper, New York University, tựa đề “On the Intellectual Development of Europe, considered with reference to the views of Mr. Darwin and others, that the progression of organisms is determined by law.” (Thảo luận về sự phát triển tri thức châu Âu, với dẫn chứng quan niệm của ông Darwin và một số người khác, cho rằng sinh vật tiến hóa theo quy luật tất định). Bài của Draper hiện nay không ai để ý đến vì những cuộc đối đáp tranh luận nảy lửa xảy ra sau đó, nhưng bài nói chuyện của Draper cho thấy sự ẩn dụ của ý tưởng thích ứng với môi trường thiên nhiên trong thuyết của Darwin đã đi vào các lãnh vực khác mà ngày nay ta gọi là khoa học xã hội và chính trị (11). Sau Draper, Henslow mời đến lượt phát biểu các ông Rev. Richard Cresswell, Sir Benjamin Brodie (Chủ tịch hội khoa học Royal Society).

Chi tiết của cuộc tranh luận không được ghi chép đầy đủ nhưng những gì mà mọi người nhớ và biết nhiều đến là sau khi giám mục Wilberforce được Henslow gọi đứng lên phát biểu. Là một nhà hùng biện (ông cũng là Fellow của Royal Society), ông dùng lý luận mà ông đã dùng trong bài viết “The Origin” số tháng 7 trong tạp chí “The Quarterly Review” vừa ra, và với phong cách hoa mỹ ông được sự đồng tình cổ võ của nhiều người trong cử tọa – thật ra đa số đến nghe cũng đồng ý kiến với ông về thuyết của Darwin, các công nương bên ngoài cửa sổ vẫy khăn tay trắng ủng hộ, các sinh viên ngồi phía sau vỗ tay và la lối cổ võ, các mục sư giáo sĩ trong hàng giáo phẩm Anh giáo có thế lực trong giới thượng lưu và cầm quyền trong xã hội chậm rãi vỗ tay nhẹ nhàng chấp thuận. Wiberforce chỉ trích thuyết tiến hóa không có cơ sở và cho rằng không được sự ủng hộ của các nhà sinh học nổi tiếng như Owen, nhà địa chất Adam Sedgwick. Cuối cùng, theo truyền thuyết kể lại và được phổ biến rộng rãi cho đến ngày nay là với giọng mỉa mai, chế diễu, Wilberforce đã hỏi Huxley, nhà sinh học bảo vệ thuyết tiến hóa của Darwin trong cuộc tranh luận, là Huxley nếu tự cho là mình có nguồn gốc từ con khỉ, thì đó là qua dòng ông nội hay bà nội của mình? Nhưng thực sự thì theo các tư liệu từ lá thư của John Green dự cuộc tranh luận viết gởi Sir William Dawkins, thư của Balfour Stewart gởi David Forbes và bài viết sau đó của tạp chí văn học The Athenaeum thì giám mục Wilberforce đã không hỏi như vậy mà nói là ông (Wilberforce) được nghe là Professor Huxley trước đây đã nói là ông (Huxley) không thấy có vấn đề gì và cần bận tâm phải lo nghĩ là ông nội của mình là con khỉ hay không (11), vậy thì hãy để Professor thông thái nói như vậy cho chính mình và các bạn cùng chí hướng chứ không cho ai khác cả.

Sau khi Wilberforce ngồi xuống giữa tràng pháo tay của khán giả, Huxley sau đó đứng lên bảo vệ thuyết tiến hóa của Darwin và cuối cùng trả lời câu hỏi của Wilberforce là ông không thấy xấu hổ tổ tiên của ông là con khỉ nhưng ông sẽ xấu hổ nếu có liên hệ với một người dùng tài năng phong phú của mình để làm mờ đi sự thật.

Theo lá thư của Huxley gởi Frederick Dyster thì, “Tôi đã lắng nghe rất kỹ những gì Ngài Giám mục (Lord Bishop) nói nhưng đã không thể khám phá một dữ kiện mới hay lý luận mới nào khác—ngoại trừ, thật vậy, câu hỏi về ý kiến riêng tư của tôi đối với vấn đề tổ tiên—Thật ra tôi không có nghĩ là mang vấn đề này ra trong cuộc tranh luận, nhưng tôi rất sẵn sàng đối đầu với Ngài giám mục ngay cả trên lãnh vực đó…”..

Lá thư của Green cũng đồng ý như vậy, “Huxley—trẻ, điềm đạm, ít nói, châm biếm, rất khoa học trong dữ kiện và xử lý vấn đề, trả lời Ngài gây một tác động mãnh liệt…. Đây là phần đầu trả lời của Huxley “Tôi đã xác nhận, và lập lại nữa, là một người không có lý do gì phải xấu hổ có con khỉ là ông nội của mình. Nếu có một tổ tiên nào mà tôi cảm thấy xấu hổ khi nhớ lại, thì có lẽ đó là một người, một người có tri thức hiếu động, nhiều tài năng, không hài lòng với sự thành công không chắc chắn trong lãnh vực hoạt động của mình, lại đi lao vào những câu hỏi khoa học mà mình thật sự không quen thuộc, chỉ làm tối mờ chúng đi bằng những tu từ không mục đích, và làm lãng đi sự chú ý của người nghe khỏi điểm chính thật sự của vấn đề bằng những lời hùng biện lạc đề và những lời kêu gọi rất khéo léo đến những định kiến tôn giáo.” (Huxley sau này không nhận là dùng từ ‘không chắc chắn’)

Câu trả lời của Huxley tạo một ấn tượng lớn đến những khán thính giả đến nghe, và có người nói Công nương Lady Brewster lúc đó choáng váng bất tỉnh khi nghe xong Huxley trả lời Wilberforce.

Huxley không phải là nhà hùng biện, nhiều người không nghe rõ phần cuối của phần trả lời của Huxley. Theo nhà sinh học Joseph Hooker, bạn của Darwin, thì chưa phải là dứt điểm. Sau đó chủ tọa Henslow mời Đề đốc Robert Fitzroy, thuyền trưởng tàu HMS Beagle đi cùng với Darwin 25 năm trước đó, phát biểu. Fitzroy tấn công sách của Darwin và hối tiếc quyển sách đã được xuất bản, và chống lại câu tuyên bố của Giáo sư Huxley là sách xếp đặt các dữ kiện rất logíc. Giáo sư Beale sau đó “chỉ ra vài khó khăn mà thuyết của Darwin phải đối diện” (the tạp chí The Athenaeum 14/7/1860). Nhà khảo cổ (sau này cũng là đại biểu Quốc hội) John Lubbock đứng lên bảo vệ thuyết tiến hóa.

Người sau cùng nói là Hooker. Ông hăng hái trả lời các điểm của giám mục Wilberforce giữa nhiều tiếng tràng vỗ tay sau đó ông chứng minh là Wilberforce chưa bao giờ đọc sách của Darwin và Wilberforce hoàn toàn không biết gì về thực vật học. Theo thơ của Hooker gởi Darwin thì “Sam (tức Samuel Wilberforce) im lặng không nói lời nào, và sau đó cuộc tranh luận được giải tán”. Mọi người rất thích thú ra về và cùng đi ăn tối với nhau.

Hai bên đều cho là mình thắng trong cuộc tranh luận - Wilberforce (thơ gởi Sir Charles Anderson July 3, 1860): “Hôm thứ bảy, Giáo sư Henslow… gọi tên tôi phát biểu về thuyết của Darwin. Vì thế tôi không tránh được và đã có một cuộc đọ sức rất lâu dài với Huxley. Tôi nghĩ là tôi đã hoàn toàn đánh bại ông ấy.”. Theo Huxley thì: “Tôi là người sau đó nổi tiếng nhất ở Oxford trong đủ bốn và hai mươi tiếng đồng hồ sau đó”. Hooker: “Tôi đã được chúc mừng và cám ơn từ những vị mang áo khoác đen nhất và vớ trắng nhất ở Oxford” (11). Đối với diễn giả ở Oxford, công chúng và ảnh hưởng sau này trong xã hội thì Huxley và thuyết tiến hóa khoa học của Darwin thắng lớn

Cuộc tranh luận thường được cho là sự đối chọi giữa khoa học va tôn giáo, nhưng thực sự là sự tranh đấu giữa hai trào lưu Anh giáo bảo thủ và Anh giáo tiến bộ. Trong cuộc tranh luận, đứng bên phe của Wilberforce có rất nhiều nhà khoa học nổi tiếng và phía Huxley (Darwin) có sự cảm tình của các nhà tôn giáo tiến bộ (ngay cả chủ tọa là Giáo sư và mục sư Henslow, người đỡ đầu Darwin đi tàu HMS Beagle). Tất cả các nhân vật đều theo Ki tô Anh giáo và không ai vô thần.

Trong lịch sử khoa học có lẽ cuộc tranh luận này ở Oxford là hào hứng và then chốt nhất cho sự chấp nhận của thuyết tiến hóa. Thuyết tiến hóa khoa học được phát triển và bảo hộ không những ở Oxford, Cambridge mà khắp Anh và Âu châu khi sách của Darwin được lan truyền khắp nơi.

clip_image004

Monkeyana 1861. Hí họa trong tạp chí Punch về thuyết tiến hóa của Darwin (British Library Board)

Thuyết tiến hóa giải thích thỏa đáng và có độ thuyết phục cao về nguồn gốc không những của con người mà của các sinh vật trên trái đất qua những dữ kiện, quan sát chi li và lập luận vững chắc của Darwin. Câu hỏi mà con người ai cũng tự hỏi từ khi bắt đầu có suy nghĩ, nhận thức là con người từ đâu mà ra và cuộc sống có mụch đích gì đã được thuyết tiến hóa của Darwin trả lời một cách thỏa đáng dựa trên khoa học mà không cần phải dựa vào tư tưởng thần quyền đã ngự trị trước đó nhiều năm trong mọi xã hội văn hóa khác nhau trên thế giới. Vì thế không lạ gì khi thuyết tiến hóa đã có ảnh hưởng sâu rộng trong đời sống con người đóng góp vào sự phát triển văn hóa, xã hội, chính trị, khoa học từ khi Darwin ra cuốn sách “The origin of species” của ông.

Sách của ông đã được quần chúng đủ mọi giới trong tầng lớp xã hội ưa chuộng mua đọc đi quá sự mong ước ban đầu của nhà xuất bản mặc dầu đây không phải là sách loại khoa học phổ thông mà là sách kỹ thuật, rất dài và khó đọc Trong nhiều năm, các sách vở báo chí thảo luận, diễn dịch thuyết tiến hóa qua các tranh ảnh, các suy tưởng về sự liên hệ giữa người và các sinh vật khác, không kể nhiều sách truyện khoa học tưởng tượng. Khắp Âu châu vào các thập niên cuối thế kỷ 19, ảnh hưởng của Darwin lan rộng. Ở Đức, nhà khoa học và cũng là họa sĩ Ernst Haekel phổ cập thuyết tiến hóa của Darwin qua sách với nhiều hình ảnh và các tranh vẽ sinh vật trong sự liên hệ lẫn nhau giữa các loài trên “cây đời sống” (Tree of Life)

Trong lãnh vực nghệ thuật, các họa sĩ nổi tiếng như Turner, Degas, Monet, Ceanne đã bị ảnh hưởng của thuyết tiến hóa. Họ đã triển khai tư tưởng của Darwin trong các tác phẩm của họ. Tư tưởng tiến hóa mà các nghệ sĩ ở Pháp gọi là “transformisme” đã giúp họ nhìn thiên nhiên vạn vật và bản năng của con người dưới một góc cạnh rất khác lúc trước kia. Thí dụ như Degas trong bối cảnh tranh luận ở Pháp trong các thập niên 1870 và 1880 về học thuyết Darwin áp dụng trong xã hội về tội ác, thoái hóa, đặc tính bẩm sinh định sẳn của tội phạm đã vẽ tranh “Physionomie de criminal” vẽ hình thể khuôn mặt của hai bị can ra tòa về tội giết người. Sắc diện của hai bị can cho người xem ‘đọc thấy’ được ý tưởng về hình thể tất yếu có từ bẩm sinh của tội phạm. Những con người này, theo một số người, thuộc một tầng lớp trong xã hội chưa tiến hóa cao và là vết tích thú vật còn sót lại trong các giai đoạn tiến hóa.

Triễn lãm ở Yale (New Haven, Connecticut) và ở Cambridge với tựa đề “Endless forms: Charles Darwin, Natural Science and the Visual Arts” trong năm 2009 sẽ cho thấy vai trò quan trọng của hình ảnh, hình thể trong sự phát triển ý tưởng của Darwin và ảnh hưởng của ông đến các họa sĩ như Turner, Degas, Monet, Cézanne, Church, Heade, Landseer. Ở Franfurt, triễn lãm “Darwin: Art and the search for origin” cho thấy các nghệ sĩ vẽ về các sinh vật biến dạng qua tư tưởng thuyết tiến hóa, đặc biệt từ biển nơi cội nguồn của các sinh vật, người tiền sử và sự tranh đấu sống còn tương lai số phận con người như trong các tác phẩm của Martin Johnson Heade, František Kupka, Odilon Redon, George Frederic Watts, Arnold Böcklin, Gustav Klimt, Gabriel von Max, Alfred Kubin, và Max Ernst trong thời gian từ 1859 đến giữa thế kỷ 20 (12).

Ngoài ra trong năm 2009, còn có một số các hoạt động khác kỷ niệm 200 năm ngày sinh và 150 năm ngày xuất bản sách “The origin of species” ở nhiều nơi trên thế giới. Một con tàu được làm lại giống con tàu mang tên HMS Beagle mà Darwin đã đi khảo sát trong 5 năm sẽ được tổ chức đi đúng lại hành trình qua nhiều nơi mà trước đây Darwin đã đến. Trên tàu có các nhà khoa học, thầy giáo, sinh viên học sinh (xem www.thebeagleproject.com); các thí nghiệm, quan sát sẽ được truyền tin đến các lớp học ở nhiều nơi trên thế giới. Các triển lãm về Darwin và thuyết tiến hóa sẽ được tổ chức ở Cambridge, London, Lisbon, Berlin, Canberra, Moscow. Ảnh hưởng của Darwin vào xã hội và hệ quả sẽ được thảo luận trong một hội nghị quốc tế vào tháng 11/2009 ở Alexandria, Ai Cập.
Charles Darwin và Úc

Darwin đến Sydney trên tàu HMS Beagle ngày 12/1/1836 (5). Sau khi nhận xét Sydney lúc này là một thành phố tốt, đường xá rộng, sạch, nhà cửa phố xá khang trang, ông lập tức sửa soạn chuyến đi sâu vào bên trong lục địa để khảo sát. Ông mướn người và ngựa để dẫn ông đi Bathurst, một thành phố phía tây Sydney băng qua núi Blue Mountains thuộc dãy núi Darling Range chạy dài ở gần bờ biển phía đông lục địa Úc.

clip_image005

Tranh vẽ của Augustus Earle, “Table Land Blue Mountains”, 1826, (National Library of Australia). Augustus Earle là một trong những bạn của Darwin mà ông tiếp xúc khi đến Úc. Earle là một họa sĩ có tiếng. Bức tranh tả cảnh và đường mới mở ở Blue Mountains mà Darwin đi qua từ Sydney đến Bathurst.

Trong chuyến đi này ông dừng chân lại ở nhiều nơi như Wentworh Falls, Lithgow. Mặc dầu không thấy kangaroo nhưng ông gặp nhiều thổ dân, và tình cờ quan sát được con platypus, một loài thú mỏ vịt đuôi chồn, đặc hữu ở Úc. Trên một bờ sông gần Wallerang, ông nằm suy nghĩ và viết trong nhật ký về các đặc tính lạ lùng của các thú vật ở lục địa Úc so với các nơi khác (5) và ông nhận xét: “Một người không tin vào tất cả những gì vượt quá khỏi những lý luận của chính mình có thể sẽ phát biểu là ‘chắc chắn là có hai đấng tạo hóa khác nhau thực hiện việc hình thành các sinh vật’”. Tuy vậy khi Darwin thấy và quan sát các con kiến “lion-ant”, ông nhận ra ngay chúng cùng họ với một loài kiến mà ông biết được ở Âu châu, nhưng thuộc một loài (species) khác. Trong nhật ký, ông viết “Giờ thì người hoài nghi không dễ tin sẽ phải nói gì về sự kiện này? Có thể nào lại có hai Người tạo hóa có cùng một kiến tạo thật quá hoàn mỹ, giản dị, không tự nhiên như vậy được chăng?” Suy nghĩ này là một trong các hạt nhân bắt đầu gieo vào đầu ông và sau này hình thành ý tưởng về thuyết tiến hóa qua sự chọn lọc tự nhiên .

Phụ giúp Darwin trong chuyến đi trên tàu Beagle là một thiếu niên 15 tuổi, Syms Covington. Covington giúp Darwin thu thập các mẫu sinh vật, tìm kiếm hóa thạch, phụ giúp công việc nghiên cứu trong chuyến đi kéo dài 5 năm này. Trong những ngày ở Sydney, Covington có ấn tượng tốt về vùng đất mới ở Úc. Sau khi trở về Anh, ông di dân qua Úc lập nghiệp năm 1840. Ở Sydney một thời gian, ông và gia đình đi xuống thành phố nhỏ Pambula vùng bờ biển phía nam Sydney năm 1854 làm trưởng ty bưu điện của Pambula, nơi nhiều người đến để tìm vàng. Trong những năm ở Úc, ông vẫn còn giữ liên lạc qua thư từ với Darwin. Darwin có nhờ Covington thâu lượm và gởi cho ông các mẫu sinh vật chân tơ (barnacle), loại sò bám đá ở Twofold Bay để ông nghiên cứu . Tháng 3 năm 1849, Darwin đã viết cho Covington như sau: “Tôi đang viết một bộ sách lớn, mô tả cơ thể và tất cả các loài chân tơ (barnacle) từ khắp nơi trên thế giới. Tôi không biết anh có sống gần biển không, nhưng nếu anh sống gần biển thì tôi rất vui lòng nếu anh thâu lượm cho tôi bất cứ sinh vật bám vào các đá ở biển hay vào các vỏ sò hay vào các san hô bị dạt vào bờ từ các gió bão biển, và gởi cho tôi mà không phải chùi rửa chúng, hay làm sạch đáy…” (10). Darwin công bố các bài viết khoa học về các sinh vật này. Không lâu sau đó, Darwin xuất bản quyển sách nổi tiếng “On the origin of species”.

Năm 1857, Covington xây một toà nhà bưu điện bằng đá và gạch. Tòa nhà này không những là bưu điện của Pambula nhưng lớn đủ để có thêm một cửa tiệm buôn bán và một quán bia rượu (Forest Oak Inn). Toà nhà này vẫn còn và được xếp vào di tích lịch sử. Hiện nay tòa nhà là một nhà hàng Thái có tên là Covingtons Thai do hai anh em người Thái di dân qua Úc làm chủ.

clip_image006

Mẫu sinh vật cua ở Viện bảo tàng Đại học Oxford do Darwin thâu thập trong chuyến đi tàu Beagle với dòng chữ viết tay của Covington.

Ở viện bảo tàng Đại học Oxford còn có các sưu tập của Darwin, trong nhiều mẫu sinh vật thâu thập là các dòng chữ ghi chú được coi là của Syms Covingtons trong chuyến đi của con tàu HMS Beagle.

Nhân dịp kỷ niệm 200 năm ngày sinh của Darwin, Viện Mỹ Thuật quốc gia Úc (National Art Gallery) ở Canberra có một triển lãm về Darwin và sự liên hệ của ông với Úc. Và dĩ nhiên sau cùng, Darwin cũng là tên một thành phố lớn bắc nước Úc, thành phố được đặt tên để tưởng niệm một vĩ nhân trong khoa học.
Darwin, một nhà khoa học vĩ đại

Ngày 19 tháng tư năm 1882, Darwin từ trần. Theo thông báo thì ngày hôm sau ông sẽ được chôn ở sân của nhà thờ St Mary, Down gần nơi ông sống gần 40 năm. Tuy nhiên, những người bạn uy tín và có thế lực lại có ý khác. William Spottiswoode, Chủ tịch Hội khoa học Hoàng gia Royal Society đánh điện tín cho gia đình Darwin và hỏi gia đình có đồng ý chôn Darwin trong nhà thờ Westminster Abbey, nơi chôn lịch sử của các vua và các vĩ nhân của nước Anh. Giám mục Canon Farrar thông báo cho tu viện trưởng (Dean) của Westminster Abbey, George Bradley, lúc đó đang ở Pháp, Bradley trả lời chấp nhận. Một thỉnh nguyện được gởi truyền tay trong Quốc hội và nhanh chóng được nhiều chữ ký của các nhân vật quan trọng (7).

Ở trong và ngoài nước Anh, ông đã được so sánh như Isaac Newton - cũng ghi nhận là Darwin, mặc dầu là một nhà khoa học vĩ đại, nhưng khác với Newton là chưa từng được tôn vinh phong tước hầu. Ông đã không được tôn trọng đúng mức trong lúc sống, vì thế một nước được ân huệ như Anh quốc mong muốn đền đáp lúc ông mất. Vào ngày thứ Bảy, mặc cho dù Darwin hay gia đình ông muốn khác đi nữa, tất cả đồng ý là ông sẽ được an táng ở Westminster Abbey. Lễ an táng được tổ chức ngày thứ tư sau đó, đúng một tuần sau khi Darwin mất. Đám tang của Darwin được tổ chức theo nghi thức Ki tô giáo

Những người hiện diện hôm đó được nói là “một buổi hội tụ lớn nhất chưa bao giờ có của tri thức của nước chúng ta” (7). Trong số những người khiêng quan tài của Darwin là hai người bạn và cũng là hai nhà sinh học nổi tiếng, Joseph Hooker và Alfred Wallace (Wallace cũng là người đồng khám phá thuyết tiến hóa qua chọn lựa tự nhiên), đại sứ Mỹ James Lowell và William Spottiswoode, Chủ tịch Hội Hoàng Gia. Darwin được chôn cạnh nhà vật lý Isaac Newton

Darwin xứng đáng là nhà khoa học được thế giới tưởng niệm nhân dịp 200 năm ngày sinh và 150 năm ngày ra đời của cuốn sách “Nguồn gốc của các loài sinh vật” trong năm 2009, ở thế kỷ 21.

Tham khảo

(1) M. Kohn, The needs of the many, Nature, Vol. 456, 20 November 2008, pp. 296-299.

(2) J. Baker, Darwin: Heading to a town near you, Nature, Vol. 456, 20 November 2008, pp. 322-323

(3) T. Chouard, Beneath the surface, Vol. 456, 20 November 2008, pp. 300-303.

(4) J. Van Wyhe, Charles Darwin: Gentleman naturalist, http://darwin-onlinẹorg.uk/darwin.html

(5) S. Meacham, Darwin’s idea survives the fitness test of time, Sydney Morning Herald, Jan. 12 2009.

(6) S. Meacham, Origin of species, how a missing link ties Charles Darwin to an idyllic South Coast hamlet and its Thai restaurant, The Sun Herald, Januray 11 2009.

(7) Westminster Abbey web site, http://www.westminster-abbey.org/events/forthcoming-events/36261

(8) Wikipedia, 1860 Oxford evolution debate, http://en.wikipedia.org/wiki/1860_Oxford_evolution_debate

(9) University of Oxford, Celebrating Darwin 200, http://www.ox.ac.uk/media/news_stories/2009/090210_2.html

(10)Pete Wilton, Darwin’s crabs, University of Oxford, http://www.ox.ac.uk/media/science_blog/080212.html

(11)K. Thomson, Huxley, Wilberforce and the Oxford Museum, American Scientist, Volume 88, Number 5, Sept. - Oct. 200, pp. 210-212.

(12)Schirn Kunsthalle Frankfurt, http://www.schirn-kunsthalle.de/index.php?do=exhibitions_detail&id=88&lang=envà http://www.schirn-kunsthalle.de/data/news/1229356102_presse_darwin_engl_logo.pdf
bài đã đăng của Nguyễn Đức Hiệp

* Charles Darwin – Con người và thuyết tiến hóa - 10.03.2009
* Max Planck – Từ lý thuyết lượng tử đến nghệ thuật hiện đại và hậu hiện đại - 30.01.2009

27/2/09

Phạm Xuân Nguyên : Những đoản khúc Lê Đạt

Những đoản khúc Lê Đạt


Đám tang nhà thơ Lê Đạt đã cử hành sáng thứ sáu 25.4.2008 tại Hà Nội. Chúng tôi giới thiệu dưới đây một loạt bài về Lê Đạt của nhà phê bình văn học Phạm Xuân Nguyên.


Những đoản khúc Lê Đạt

Phạm Xuân Nguyên

Người “phu chữ” Lê Đạt đã dừng chân trên công trường chữ sản xuất thơ ca. Trong “bộ tứ” nhà thơ thường được nhắc đến của thời Nhân Văn – Giai Phẩm, ông là người ra đi thứ ba, sau Phùng Quán, Trần Dần. Cả bốn ông rồi ra đều được trao tặng giải thưởng nhà nước về văn học nghệ thuật. Nhưng hơn hết, Lê Đạt, cùng với Hoàng Cầm, tuổi trời còn cho sống để được sống lại đời thơ của mình trong dòng chảy văn học chung của dân tộc, để được phát lộ mình dẫu muộn màng trong sự vận động mới của văn học nước nhà.

Lê Đạt trở lại với thi đàn sau gần ba mươi năm im tiếng là khắc ghi ngay ấn tượng của mình đối với giới thơ và công chúng yêu thơ. Lê Đạt của thời Cha tôi (1956) đã biết không cam chịu cảnh sống “Rũ đầu chết ngạt trong bùn / Năm tháng mài mòn bao nhiêu khát vọng”. Lê Đạt của thời Bài thơ trên ghế đá (1957) đã biết yêu tự do cho mỗi cảm xúc, tư tưởng. Khi ấy, Lê Đạt đang là một nhà thơ trẻ với tất cả sự hăng say và mạnh mẽ của tuổi trẻ cùng với một lòng tin chân thành và lãng mạn của một thế hệ vừa làm xong một cuộc kháng chiến thần thánh giải phóng đất nước. Ba mươi năm sau, khi đất nước làm một cuộc đổi mới, Lê Đạt đã ở tuổi lên lão, nhưng thơ ông nấu nung trong lò cừ tâm trí văn hóa của một người biết sống và biết đọc đã làm bất ngờ cả những người vốn chờ đợi. Không kể lớp trẻ như ông, hoặc trẻ hơn ông thời trước, họ đã bị kinh ngạc. Tập thơ Bóng chữ (1994) của Lê Đạt như một tuyên ngôn, như một thách thức người làm thơ và người đọc thơ.

Tuổi lú lẫn
ngược nhầm ga trẻ dại
Hay ngây ngô không biết lối về già
Thơ thẩn chữ ngã ba

Những câu thơ không dễ đọc do sự phối trí khác lạ âm và thanh, chữ và nghĩa, cùng với một tuyên bố nhà thơ là “phu chữ”, người làm thơ không thể chỉ biết tiêu thụ cái nghĩa tự vị của từ như trong từ điển, đã khiến nhiều người hoang mang, lo lắng. Chữ hay là bóng chữ mới là cốt yếu của thơ. Có người đọc thơ Lê Đạt ngộ ra những khả năng, những chân trời mới của thơ. Có người, trái lại, đọc thơ ông mà thấy như lạc lối. Một cuộc tranh luận đã bùng ra quanh Bóng chữ. Nhiều người đọc, và khá nhiều người làm thơ, đã phải nghe giảng giải thơ là gì, thơ là thế nào, như để có một chiếc chìa khóa mở cửa vào thơ Lê Đạt. Trong khi gây đột biến đó cho làng thơ, Lê Đạt vẫn âm thầm, miệt mài sự lao động chữ như khổ sai mà lại như khoái cảm của mình cho thơ. Mặc ai bàn tán, khen chê, ông cứ thẳng một đường mình đi. Làm thơ không thôi, ông còn viết truyện mượn những câu chuyện có thực trong đời các văn nhân thi sĩ cổ kim đông tây muôn đời để lật trở những vấn đề luôn là mối bận tâm hàng đầu của những ai đã trót dan díu với chữ, với thơ, đã nguyện làm phu chữ đến trọn đời. Ngay cả khi có những bạn trẻ gần đây đem ý “phu chữ” của ông đối lập một cách trật hệ thống với ý “máu chữ” của một nhà thơ khác để trách móc, phỉ báng ông, ông không chấp nê, không lấy làm điều. Với ông, được làm thơ, được sống với thơ, được cùng thơ thoả khát vọng phiêu lưu cùng chữ và nghĩa, thế là đã đủ mãn nguyện, đã sung sướng được sinh ra đời làm một người sáng tạo.

Đọc Lê Đạt ở bất cứ cái gì ông viết ra nói ra, dù đó là thơ, là truyện, là bài tản mạn hay bài trò chuyện, tôi luôn bị ấn tượng bởi cách nói, cũng tức là phản ánh cách tư duy, của ông. Một cách tư duy và một cách nói ra thành lời những điều tư duy in đậm cái nét riêng không thể lẫn trộn của Lê Đạt. Nó khiến người đọc không thể thờ ơ những điều ông nghĩ, ông nói. Nó khiến Lê Đạt vẫn hiện đại đồng hành cùng lớp trẻ đầu thế kỷ XXI. Nó khiến người ta phải nhìn lại thơ bằng con mắt duy lý, ngoài sự thành kính, đam mê, và cảm xúc. Ông không ngừng sục sạo các ngõ ngách của từ và tiếng, của chữ và lời, không ngại làm mới và không sợ bị coi là khác lạ. Cho nên mới có thơ Haikâu mang thi hiệu Lê Đạt. Có phải nhờ thế những bài thơ ông viết ở buổi mới khi thành công đã lập tức được thừa nhận và trở thành như cổ điển. Thơ Lê Đạt cổ điển trong vẻ hiện đại, đẹp trong sự tân kỳ. Tưởng nhớ ông, hãy cùng đọc lại một bài thơ thành công nhất của ông.

Bóng chữ

Chia xa rồi anh mới thấy em
Như một thời thơ thiếu nhỏ
Em về trắng đầy cong khung nhớ
Mưa mấy mùa
mây mấy độ thu
Vườn thức một mùi hoa đi vắng
Em vẫn đây mà em ở đâu
Chiều Âu Lâu

bóng chữ động chân cầu


Cái mùi hoa đi vắng mà vẫn làm thức vườn, cái sự em ở đâu khi em vẫn ở đây – đó chính là bóng chữ của Lê Đạt, chính là thơ ông.

Người “phu chữ” đã nằm xuống


Hai tiếng “phu chữ” từ khi được Lê Đạt nói ra đã trở thành thông dụng, thành một thứ câu cửa miệng trong giới thơ và cả trong công chúng. Không dễ được như vậy nếu nó không được đảm bảo bằng chính cả cuộc đời lao động nghệ thuật thơ, lao động chữ của ông. Đối với Lê Đạt, cũng như với các thân hữu văn chương của ông Hoàng Cầm, Trần Dần, Dương Tường, làm thơ là làm chữ, là phải khổ công luyện chữ để bắt những con chữ bình thường, đơn giản với nghĩa tiêu dùng hàng ngày bật ra những nghĩa mới, những vẻ đẹp bất ngờ từ sự tương cận, cọ sát, va chạm của chúng khi đứng cạnh nhau trong một trường liên kết và liên tưởng do chính nhà thơ đưa chúng vào. Từ những bài thơ mang nặng tính hiện thực thời kỳ đầu, trải hơn ba mươi năm âm thầm đọc và học, tìm và thử trong thế giới con chữ Việt, khi hoàn cảnh lịch sử mở cửa cho ông trở lại thi đàn vào thập niên 1980, Lê Đạt đã có vàng luyện từ quặng của mình đem ra trình trước thơ. Hai tập Bóng chữ (1994) và Ngó lời (1997) của ông thực sự đã gây bất ngờ đột phá. Người đọc bước vào thơ ông với tâm trạng vừa thích thú, tò mò, vừa e dè, hoang mang. Nhưng có một điều chắc là họ đã được nhận một khoái cảm khác lạ từ những phá cách kết cấu câu chữ đưa lại những kết hợp mới của từ mà người “phu chữ” Lê Đạt đã dày công tìm tòi, thử nghiệm. Này là mùa thu “Nắng cúc lăm răm vũng nhỏ”. Này là sông quê “nắng mười tám má bờ đê con gái”. Này là mới tuổi “mùa xuân phăn phăn lòng đường”. Này là tỏ tình “liễu đầu cành độc thoại đoạn trường xanh”. Ông có hẳn một kiểu thơ Haikâu, chỉ từng cặp thơ thôi nhưng mỗi lần đọc là đưa lại một khám phá, mỗi lần nhìn con chữ là lại thấy một công phu sáng tạo. Tưởng như ông gò mình vào giới hạn tối thiểu của hai dòng thơ, nhưng đấy là cách ông tự thử thách năng lực thơ của mình thông qua thử thách các khả năng biến hoá, thay đổi của chữ, để trong một diện tích tối thiểu chữ đạt được tối đa năng lượng cảm xúc thơ.

Xuân bắt đầu tàu nhanh
xanh thức ngủ
Tình tăng bo toa đỗ đoạn bạc đầu

Ngực dự hương thơm đêm mùi tuổi chín
Mắt lá tre đằng ngâm mộng ba giăng

Máy nhắn chim tin tìm mê lộ số
Lòng khác tình tìm đổi số lặng thinh


Thế hệ nhà thơ của Lê Đạt càng cao tuổi càng trẻ, trẻ trong tư duy, cảm xúc, trẻ trong cách sống. Có lẽ cái trẻ ấy của Lê Đạt đến từ tri thức ông thu nhận và tích lũy được qua sách vở tự học và từ những trải nghiệm đường đời nhiều gian truân và khổ nạn. Ông chơi nhiều với các nhà thơ trẻ, cổ vũ họ tìm tòi, khám phá, thách thức họ khẳng định mình, với ông trước thơ tất cả đều bình đẳng trong những nỗ lực sáng tạo không ngừng.

Hai tập sách gần đây nhưng đã thành ra là cuối cùng của Lê Đạt : tập truyện Mi là người bình thường và tập thơ U75 từ tình vẫn rừng rực một nỗi khát vọng sống, khát vọng thơ, vẫn nguyên khí chất Lê Đạt. “Trong tình yêu người ta thường tiêu hai thứ tiền. Và nhà thơ bao giờ tim cũng chỉ tệ mạnh. Riêng có từ vốn nặng lòng. Thơ chính là từ tình, cũng có nghĩa tự tình tức là yêu đơn thương, yêu thất tình, yêu bóng. Đó là nỗi sầu vạn cổ cũng là thách thức và niềm lạc quan ngoan cố của nhà thơ”. Lê Đạt có nhiều câu nói với nhiều cách nói khác lạ và ấn tượng như vậy về thơ, nghề thơ và về nhà thơ.

Bây giờ Lê Đạt, người “phu chữ”, đã nằm xuống, sau “một đời lao lực, một đời thơ”. Những người đọc từ nay chỉ còn gặp ông trong “bóng chữ”, và nghe ông trong “ngó lời”. Và họ biết ơn ông đã làm cho họ biết quý yêu chữ, trân trọng chữ, không chỉ là để làm thơ. Nhưng đặc biệt là nhà thơ, như Lê Đạt: “Nhà thơ là người lao động ở môi trường tâm áp cao mà không có bồi dưỡng độc hại để sản xuất giống đặc chủng cho những mùa tình bội thu”. Đó là niềm kiêu hãnh của Lê Đạt.


Bay cho cao, bay cho xa


Đó là tiếng kêu mạnh mẽ, tin tưởng của người thơ trẻ Lê Đạt hơn năm mươi năm trước, vào giữa thập niên 1950, khi đất nước vừa ra khỏi cuộc chiến tranh lần thứ nhất phân chia hai miền, nửa miền Bắc bắt tay vào công cuộc kiến thiết mới cuộc sống và tâm hồn con người. Cái mới là đòi hỏi thường trực của kiếp nhân sinh, càng là đòi hỏi lớn của thơ ca nghệ thuật, và càng là đòi hỏi cấp thiết của tuổi trẻ. Tuổi hai mươi phải dũng cảm phá bỏ ràng buộc của những lề quen thói cũ, phải không cam chịu kiếp sống an phận thủ thường làm thui chột mọi khả năng sáng tạo. Những kiếp người sống lâu trăm tuổi / Y như một chiếc bình vôi / Càng sống càng tồi / Càng sống càng bé lại. Trong bản hòa tấu những tiếng thơ khao khát làm mới mình, làm mới thơ để dâng hiến cho cuộc đời và đất nước từ giai phẩm mùa xuân 1956, Lê Đạt đã cất tiếng kêu gọi :

Mới ! Mới !
Luôn luôn Mới
Bay cho cao
Bay cho xa
Trên những vết già nua cũ kỹ
Trên lề đường han rỉ
Vượt ngày hôm nay
Vượt ngày mai, ngày kia,
Vượt mãi…

Tiếng kêu ấy đã theo ông đi trọn cuộc đời làm người và làm thơ. Bị hoạn nạn, gặp khó khăn, nhưng ông không bao giờ bỏ tiếng kêu ấy lại phía sau. Đó chính là tiếng thơ của Lê Đạt. Ông, cùng với Trần Dần, Đặng Đình Hưng, là ba nhà thơ trong phong trào Nhân Văn cách tân mạnh mẽ, quyết liệt nhất của thơ Việt nửa sau thế kỷ XX.

Cách tân thơ của Lê Đạt là ở Chữ. Ông có thể mượn câu nói của một nhà thơ Pháp để nói về mình: Hãy đập vào chữ anh dùng, thiên tài là ở đấy ! (“Hãy đập vào trái tim anh, thiên tài là ở đấy” – A. Musset). Khi văn chương là ngôn ngữ, mà thơ lại là sự tập trung xoáy sâu vào ngôn ngữ, và ngôn ngữ hiện hình trên trang giấy bằng chữ, thì sao người làm thơ lại không trăn trở, vần xoay sống chết với chữ để bắt từng con chữ biểu phát ra những ánh chiếu khác lạ về âm sắc, nghĩa lý. Lao động chữ là một thứ lao động khổ sai nhưng tự nguyện, đau đớn nhưng khoái cảm. Lê Đạt không tự gọi mình và không cho gọi mình là thi sĩ. Ông chỉ nhận mình là “phu chữ”. Nội hai chữ này thôi đã nổi lên cái chất Lê Đạt. Sự lắp ghép, kết hợp “phu” và “chữ” đã tạo ra một từ mới, một khái niệm mới, một hình dung mới, biểu đạt được công phu tử vì thơ của người thơ. Nói tới Lê Đạt, vì vậy, trước hết và trên hết, là nói tới một người lao động chữ và nghĩa. Ông đã từng viết như một tuyên ngôn: “Nhà thơ làm chữ chủ yếu không phải ở nghĩa “tiêu dùng”, nghĩa tự vị của nó, mà ở diện mạo, âm lượng, độ vang vọng, sức gợi cảm của chữ trong tương quan hữu cơ với câu thơ, bài thơ”. Ông quan niệm : Mọi câu thơ hay đều kỳ ngộ / Hẳn phải siêng năng, có lòng thành / và nhất là biết chờ / người đẹp vỏ chữ bước ra / giờ các con phe đi ngủ.

Bóng chữ (1994) tập thơ đưa ông tái xuất văn đàn là kết quả của mấy chục năm im lặng đọc, và nghĩ, và viết, vượt lên trên những hệ lụy khó nhọc của đời sống khốn khó vây níu mình. Lê Đạt trở lại đã không tụt hậu, đã vẫn mới, vẫn đủ năng lượng đốt cháy mình cho thơ, vẫn ở hàng đầu những người khổ sai và hạnh phúc vì chữ. Tập thơ lập tức gây dư luận, tạo dư chấn, và để dư âm.

Anh đến mùa thu nhà em
Nắng cúc lăm răm vũng nhỏ
Mà cho đấy rửa lông mày
Nông nổi heo may từ đó

Mưa đêm tuổi nổi ao đầy
Đồi cốm đường thon ngõ cỏ
Bướm lượn bay hoa ngày
Tin phấn vàng hay thuở gió

Tóc hong mùi ca dao
Thu rất em
và xanh rất cao

Mùa thu đã được nói quá nhiều trong thơ ca dân tộc và nhân loại, nhưng bài thơ hay này của Lê Đạt là minh chứng cho một chân lý trong công việc sáng tạo: không có đề tài cũ, chỉ có người thơ không biết làm mới đề tài. Lê Đạt đã sử dụng và sai khiến các con chữ một cách sáng tạo tài tình để đưa tặng người đọc một bức tranh thu tình tứ vừa rất ca dao truyền thống vừa rất tân thời, hiện đại. Có thể tìm được trong tập Bóng chữ nhiều câu hay và khác lạ mang đúng “thi hiệu” Lê Đạt như vậy. Sớm hạ búp sen đôi gió / Sóng đòng buồm nhấp nhô thơm / Tóc liễu trường tân thơ cổ / Trời xanh côban rất Đường (Vào hè). Chữ khép lối đồi chim non câu ngủ / Trang tầm xuân cau chưa mở nụ ngà / Bến cửa ngực đèn lòng ga trăng rõi / Ngõ trắng bời bời mây nổi / U ú thiên hà tàu nhả khói ngã ba (Mới tuổi).

Tác phẩm giờ đây trở thành cuối cùng của Lê Đạt là tập U75 từ tình. Một tập sách như tổng kết cả một đời thơ lao lực đam mê của Lê Đạt khi tập hợp trong đó có những phần của các tập thơ trước và đặc biệt có những “Đoản ngôn” là những suy nghĩ, nhận xét của riêng ông, những câu truyện ông lấy ra từ cuộc đời các danh nhân đông tây kim cổ, tất cả đều xoáy vào chủ đề thơ ca và cuộc sống. Đó như một kiểu di chúc nghệ thuật của Lê Đạt. Ông đã ra đi sau khi vừa hoàn thành một cuộc hành trình dọc ngang đất nước hào sảng và thanh thản. Đọng lại với đời một hình ảnh Lê Đạt có tiếng cười to, đôi mắt hóm hỉnh, và khuất sau đó những âm thầm vật lộn trên trang viết. Tưởng nhớ Lê Đạt, cách tốt nhất là hãy học theo tinh thần của ông : “Cái mới thường vượt biên không có giấy thông hành”.

“Phó thường dân” nhà thơ

Lê Đạt xuất hiện trong các tập sáng tác giai phẩm mùa xuân, mùa thu năm 1956 bằng những bài thơ đầy nhiệt huyết công dân, đầy tinh thần cống hiến cho đất nước, cho thơ ca, khi đất nước vừa tắt khói lửa một cuộc chiến tranh và nửa nước đang trong cơn say lãng mạn. Mang tinh thần hừng hực như nhà thơ Nga V. Mayakovsky – một kiểu mẫu thơ hồi ấy ông và các bạn ông noi theo – Lê Đạt viết thơ Gửi kế hoạch nhà nước 1956 để thúc giục phải nhanh hơn, mạnh hơn, quyết liệt hơn cho sự nghiệp xây dựng cuộc sống mới.

Thực dân làm mười hai năm
Ta hoàn thành trong bốn tháng
Mỗi ngày thi đua cách mạng
Bằng mấy chục ngày thường
Ta nắm cổ thời gian
Quất cho phi nước đại.
Kéo ngày mai gần lại
Thúc vào lưng cuộc đời
Mở máy đến chân trời cộng sản

Ông thấy sứ mệnh của thơ là phải tham gia trực tiếp vào cuộc sống, phải đào luyện những con người là chủ nhân mới của đất nước. Làm thơ đối với người thơ Lê Đạt hồi tuổi thanh niên ấy cũng là một thứ lao động vinh quang. Nhà thơ tự nguyện được điều động, phân công để thơ có ích cho đời.

Em ơi !
Anh thức thâu đêm suốt sáng
Moi óc làm thơ
Moi tim làm thơ
Như người thợ
Chui xuống lòng hầm mỏ
Moi than moi lửa
Đốt sáng cuộc đời

Anh muốn Đảng gọi anh đến nơi
Hội ý về cuộc sống
Điều động anh vào Bộ Tâm hồn quần chúng
Giúp Trung ương
Xây dựng
Những con người

Con người mang sẵn trong mình ý chí và khát vọng cái mới như vậy đã bị đặt vào một hoàn cảnh sống nghiệt ngã, cùng với các bạn hữu cầm bút của mình, trong suốt hơn ba chục năm. Nhưng chính ý chí và khát vọng đó đã tôi luyện ông, đã giúp ông nghĩ suy bằng cái đầu của mình và đứng vững trên đôi chân của mình, vượt qua thử thách, hoạn nạn, và chiến thắng bằng Thơ. Lê Đạt là Lê Đạt ở thơ, một thứ thơ đã được chưng cất qua lò lửa văn hoá đông tây kim cổ mà ông nhóm lên từ trong gian khổ, mà ông đã kiên trì giữ lửa không để lụi tắt qua gió mưa cuộc đời, để khi được đưa ra ánh sáng thứ thơ đó đã tỏa một mùi hương thơ của người thơ Lê Đạt. Bóng chữ, Ngó lời, U75 từ tình – những tập thơ của ông, là thành quả của một đời lao động thơ cật lực của một người tự nguyện làm “phu chữ” để đưa đến cho người đọc những âm nghĩa mới lạ, tinh ròng của tiếng Việt. Hai chục năm trở lại đời sống bình thường của văn học, Lê Đạt đã để lại một dấu ấn riêng của mình trong sáng tác thơ, trong quan niệm thơ, trong hành xử thơ. Thơ Lê Đạt – ba tiếng này đã là một dấu chỉ, một “thi hiệu”, một mời gọi và thách thức. “Tôi tôn trọng những nhà thơ sinh sự với văn phạm để tạo ra sự sinh của ngôn ngữ” – Lê Đạt phát ra nhiều những châm ngôn như vậy để người đọc có cái chỉ hiệu bước vào thế giới thơ ông.

Đường về nhà em
ba mươi sáu ngõ
Nêông liễu hồ tóc gió ngã tư
Xuân lưa mưa mini mùa én đỏ
Khăn bay cờ
lòng phố cổ
lay mơ

Lê Đạt và những người đồng hội đồng thuyền với ông từ giữa thế kỷ XX đã kiên quyết khởi lên một cuộc cách tân thơ Việt, đoạn tuyệt với Thơ Mới (“thành tựu của họ đòi hỏi ta phải thử những thành tựu khác” – ông nói), đi tìm những cách biểu hiện mới cho thơ, tạo lập những giá trị chuẩn mực mới của thơ. Những tháng năm chìm trong bóng tối và im lặng ông đã cưỡng chống lại số phận bằng cách vùi mình vào những con chữ đến từ nhiều ngõ ngách văn hoá để tích hợp, hội tụ, hấp thụ và biến cải chúng thành một vốn văn hoá lớn của mình, và trên nền tảng đó ông xây cất một ngôi nhà thơ riêng. Những sáng tạo đổi mới thơ của Lê Đạt, cũng như của Trần Dần, Đặng Đình Hưng, đã đóng góp quan trọng cho tiến trình hiện đại của thơ Việt, và nói riêng đó là dấu chỉ giá trị của một phong trào văn học đã dấy lên cách nay hơn nửa thế kỷ.

Ông vừa làm một cuộc hành trình lên Tây Nguyên, xuyên miền Trung, vào Sài Gòn và bay ra Hà Nội. Chuyến đi kết thúc bằng sự yên nghỉ đời đời như một sắp đặt của số phận. Nhưng có lẽ ở bên kia thế giới ông sẽ cám ơn số phận, vì nào ta có chọn được số phận của ta đâu. Số phận đã cho ông trở thành nhà thơ Lê Đạt chứ không phải thành một nhà nào khác như lẽ ra có thể. Để ông có thể “xưng danh” một cách bình thường và kiêu hãnh rất Lê Đạt:

Phó thường dân
phố nhỏ vô danh
vô giai thoại
Thành tích
mấy trang giấy sờn
mấy câu thơ bụi
núi Vô Sơn

Thế là đủ, với ông – nhà thơ Lê Đạt.


Tiễn đưa


Trước mặt chúng ta ở đây, lúc này, nhà thơ Lê Đạt đang ở ga cuối của một hành trình.
vonghoa
Vòng hoa viếng nhà thơ Lê Đạt của Diễn Đàn
do hai nhà văn Nguyên Ngọc và Phạm Xuân Nguyên
thay mặt.

Ông đã dừng lại, sau một chuyến đi thực tế ngờ đâu là cuối đời, lên Tây Nguyên, về miền Trung, vào Sài Gòn. Chuyến đi của một đoàn các văn nghệ sĩ, trí thức tới một vùng đất cao nguyên đang là mối trăn trở, bận tâm lớn của đất nước hôm nay. Lê Đạt tham gia đoàn hăm hở, vui vẻ, nhiệt huyết, mặc dù sức khỏe ông đã sút kém. Ông đi chuyến đi này như một cuộc hành hương, một cuộc hành trình, để ngấm và ngẫm thêm về kiếp sống, kiếp người.

Ông đã dừng lại, sau một chuyến đi cuộc đời trải nhiều khúc quanh. Lê Đạt đã từng làm việc ở Ban tuyên huấn trung ương đảng cộng sản Việt Nam, ở bộ phận thư ký cho tổng bí thư đảng Trường Chinh trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Lê Đạt khi hoà bình về trên nửa nước đã biết nhận ra rất sớm những kiếp người “Hai vai nhô lên / Đầu lún xuống / Như không mang nổi cuộc đời” để rồi đánh mất mình trong “mùi ẩm mốc, tiếng mọt kêu cọt kẹt”, từ đó ông kêu gọi giải phóng con người, giải phóng thơ ca. Từng từng giọt mồ hôi / Đẫm bản đồ chính sách / Anh mở lối giữa cuộc đời ngóc ngách / Óc anh là một công trường / Mỗi dòng thơ là một cây số mới / Trên con đường đi tới Xã hội / Ngày mai / Một tiếng súng tương lai / Nổ vào đầu dĩ vãng. Lê Đạt đã lâm tình thế sau vụ Nhân Văn – Giai Phẩm ba mươi năm có lẻ chìm trong bóng tối và im lặng, khi đó chỉ có thơ cứu chuộc được ông.

Ông đã dừng lại, sau một chuyến đi thơ ca khổ ải như vác cây thánh giá lên đồi Sọ và vinh quang như được phục sinh. Thơ đã cho ông tiếng nói làm một công dân chính trực, làm một con người đứng thẳng, và làm một nhà thơ “phu chữ”. Thơ đã chứng tỏ và trình bày ông cho Công Lý, cho Chân Lý, cho cái Đẹp. Thơ đã đưa ông đồng hành cùng dân tộc và tuổi trẻ ở thời buổi mới nhiều vận hội nhưng cũng lắm bất trắc, cam go. Với chữ và thơ Lê Đạt là người tình chung, là kẻ tận hiến.

Ông đã dừng lại, sau những chuyến đi, sau một hành trình có quanh co, khúc khuỷu nhưng nhất quán, để bây giờ trước mặt chúng ta là một Lê Đạt – con người, một Lê Đạt – nhà thơ, với nghĩa đầy đủ của từ này.

Giờ phút chia tay ông ở ga cuối cuộc hành trình này, chúng tôi – những người cùng thế hệ ông, những người bạn vong niên của ông, những người đồng tâm đồng chí cùng ông, những người đọc thơ ông, như hãy còn nghe rõ tiếng ông cười sảng khoái và giọng ông vang to khi nói ra những điều gan ruột cho thơ, cho cuộc sống, cho con người. Ông đã sống trọn một cuộc đời nhân văn nghệ thuật. Ông đã khép mắt lại, nhưng chúng tôi ghi nhớ điều khác biệt ông đã chỉ ra : “Người quân tử dùng mắt để nhìn / Kẻ tiểu nhân dùng mắt để nhòm”.

Hà Nội 21 – 22 - 23 /4/ 2008
Phạm Xuân Nguyên

Trần Hữu Dũng :Thư cho một bạn trẻ

Thư cho một bạn trẻ
Trần Hữu Dũng

Thư cho một bạn trẻ


Trần Hữu Dũng

Bạn quý mến,

Rất tiếc là tôi chưa được quen thân với bạn, nhưng tôi đã thấy bạn từ bục giảng của tôi, nghe bạn tâm tình qua những bức thư đầy bức xúc về đất nước, về tương lai, và về nhân loại nữa. Qua đó tôi cảm nhận một nghịch lý: bạn vừa có niềm tin ở một tương lại xán lạn hơn, nhưng niềm tin ấy lại bị xao xuyến do cái hiện tại này. Bởi vậy, nhân dịp xuân về, Tết đến, trước hết tôi cầu mong bạn giữ vững niềm tin ấy, và có ít dòng tâm sự.

Trước tiên, một lời tạ lỗi...

Tôi không có “kinh nghiệm” hay lời dặn dò gì để truyền lại cho bạn, bởi vì tôi nghĩ mỗi thế hệ phải tìm một tương lai cho mình. Hơn nữa, dù nghĩ rằng chúng tôi (thế hệ trước các bạn) đã có nhiều cống hiến nhất định cho đất nước (chúng ta không bao giờ quên hàng triệu người thế hệ tôi, và trước nữa, đã hi sinh để mang lại độc lập, thanh bình và thống nhất cho tổ quốc), chúng tôi cũng đã có rất nhiều lỗi lầm, yếu kém... Các bạn đang tiếp nhận một xã hội và một đất nước còn nhiều mảng tối, thậm chí có người sẽ nói là, về vài mặt, chúng có chiều đi xuống. Cụ thể, không ai có thể thành thực mà nói rằng nước ta có một nền giáo dục đáng hãnh diện. Và sông núi, ruộng đồng! Có ai dám nói rằng tất cả đều đẹp đẽ như xưa? Để lại cho các bạn một nền giáo dục như thế, núi sông như thế, có lẽ là “tội” lớn nhất của những người mà trách nhiệm là chuẩn bị cho tương lai các bạn, là bảo quản giang sơn cho các bạn. Những người ấy là chúng tôi.

Tôi phải nhìn nhận rằng trong những năm gần đây, khi cơn lốc “thị trường” bao phủ lên đất nước ta thì (cùng với sự phồn vinh vật chất mà nó đem lại) một bộ phận không nhỏ chúng tôi, nhất là giới được xem là “trí thức”, đã tha hóa. Chúng tôi đã góp phần không nhỏ vào sự “chụp giật” của cuộc sống ngày nay, một số không ít chúng tôi đã co cụm lại, chỉ lo cho gia đình, con cháu mình mà không nghĩ đến các bạn, thái độ đạo đức giả của một số chúng tôi hẳn đã làm nhiều bạn chán ngán, buồn phiền. Một số chúng tôi đã có quyền, có lợi, nhưng chưa làm đầy đủ bổn phận với các bạn. Bởi vậy, trước hết, tôi có lời xin lỗi bạn, thế hệ trẻ. Tôi không dám thay mặt ai để xin lỗi, chỉ xin lỗi cho cá nhân tôi, song tôi nghĩ nhiều người ở thế hệ tôi cũng cùng một tâm trạng.

Nhưng dù hiện tại có thế nào thì tương lai cũng sẽ đến, và tương lai đó sẽ trong tay các bạn. Chẳng những tôi không biết hình tượng vật chất, cơ cấu xã hội hay thể chế kinh tế của tương lai ấy sẽ thế nào, tôi còn ngờ rằng bạn sẽ phải đương đầu với những vấn đề triết lý cực kỳ cơ bản mà tôi chưa thể hình dung. (Ví dụ như với sự tíến bộ của y sinh học, nhất là công nghệ nháy (cloning), đông lạnh thân xác... , tất sẽ có những câu hỏi: “con người là gì?”, “sự sống là gì?”) Mỗi thế hệ phải đi vào một tương lai hoàn toàn mới mà không thế hệ nào trước đó hình dung được. Dù vậy, có vài vấn đề mà tôi nghĩ sẽ là cái trục mà tương lai sẽ xoay quanh. Tôi xin chia sẻ với các bạn.

Toàn cầu hóa và dân tộc tính

Chúng ta đang vào một kỷ nguyên trong đó thế giới thay đổi với một nhịp độ và tầm mức chưa từng thấy trong lịch sử nhân loại, vùn vụt và sâu rộng. Đó là tiến trình vũ bão của cái gọi là “toàn cầu hóa” (gọi cho gọn, dù tôi không thích cho lắm cụm từ thời thượng này). Tin tức từ khắp nơi trên thế giới đến với mọi người từng phút, từng giờ. Các bạn đi du học, du lịch, gặp gỡ bạn bè, thân nhân, từ các nước về thăm nhà. Toàn cầu hóa đem lại cho bạn vô vàn cơ hội, và bạn nên sẵn sàng (trong tư duy cũng như trong kỹ năng) để tận dụng những cơ hội ấy (một việc cụ thể là trau dồi ngoại ngữ), nhưng nó cũng đặt ra nhiều vấn đề mà tôi mong các bạn cùng suy nghĩ.

Thứ nhất là sự giữ gìn dân tộc tính. Tôi không khẳng định là bạn phải bảo tồn dân tộc tính (cũng xin lưu ý các bạn rằng không phải mọi người đều nhất trí “dân tộc tính” là gì) nhưng tôi muốn chúng ta (bạn lẫn tôi) cùng suy nghĩ có nên “giữ gìn bản sắc dân tộc”, theo nghĩa nào đó, và nếu nên thì nên giữ phần nào, đến mức độ nào. Chọn lựa ấy đòi hỏi những cân nhắc khách quan (không để những sô-vanh phi lý chi phối) song cũng khó thể không chủ quan, bởi vì nó sẽ phản ảnh tình cảm (nào đó) đối với quê hương đất nước, nguồn cội của mình. Vươn ra với thế giới không có nghĩa là chúng ta sẽ xóa nhòa những đặc thù của văn hóa, của ngôn ngữ chúng ta, nhưng với những cơ hội tràn vào từ ngoài là xu thế đồng hóa (tưởng tượng xem: đời sống sẽ dễ dàng biết bao nếu mọi người trên thế giới đều sử dụng... tiếng Anh!). Trong lúc đó, “dân tộc tính” (tạm gọi như vậy) là cái đặc thù. Làm sao để khai thác mọi cơ hội của toàn cầu hóa trong lúc giữ đến một chừng mực nào đó tính đặc thù, cái cá biệt của chúng ta, là một bài toán cho các bạn

Thứ hai, toàn cầu hóa không có nghĩa là bạn không còn là một công dân của một nước. Nói cách khác, dù bạn có trở thành một “công dân quốc tế” thì bạn cũng vẫn là thành viên của một “địa phương” nào đó. Dù bạn có sang Âu, sang Mỹ sống thì bạn cũng phải đối diện với những vấn đề của cộng đồng, địa phương ấy ... Đó không nhất thiết là một ràng buộc đạo đức nhưng là một yêu cầu xã hội thiết thân (và thiết yếu!). Chọn lựa sự dung hòa, kết hợp những trách nhiệm ấy, chính là đóng góp cụ thể vào sự xích gần nhau giữa người và người, xuyên qua lằn ranh quốc gia và chủng tộc. Nói như nhà xã hội học Ted Ward, bạn sẽ là thành viên của một nền “văn hóa thứ ba”.

Nếu bạn đã có dịp du học, hoặc đang du học, thì bạn thật là may mắn, và một quyết định mà bạn phải đối đầu là có nên về nước hay không. Bạn sẽ ngạc nhiên khi nghe ý kiến tôi: điều đó không thật sự là quan trọng! Tôi tin rằng bạn đủ sáng suốt để quyết định cho chính bạn, bởi nó tùy vào hoàn cảnh, ngành nghề, của mỗi người, và nhất là – trong kỷ nguyên đi đi về về dễ dãi như nay – nó không còn là một quyết định cho suốt đời bạn, không thể thay đổi sau này. Nhưng tôi nghĩ rằng nhu cầu “làm cái gì đó” cho đồng bào mình, nhất là khi đại đa số những người ruột thịt ấy vẫn còn cực kỳ nghèo khổ, là một ước muốn cơ bản nhất của con người. Cũng không nên xem hồi hương là “cống hiến” một chiều của bạn cho đất nước, bởi vì sống giữa lòng dân tộc bạn còn nhận được những tình cảm yêu thương, những ý nghĩa của sự sống, mà bạn không tìm được nơi nào khác.

Nhìn rộng ra, tôi nghĩ rằng khi mà sự tương phản giữa dân tộc và quốc tế mờ nhạt đi (vì sự di chuyển dễ dàng) thì những vấn đề tài nguyên, môi trường – nói cách khác là sự phát triển bền vững – sẽ trở thành sâu sắc, bức xúc hơn. Toàn cầu hóa, nhìn theo góc cạnh này, không có nghĩa là không còn biên giới quốc gia, cụ thể là không còn những tranh chấp giữa các quốc gia, dân tộc. Chỉ là, trong kỷ nguyên mới này những xung khắc cũ sẽ tái hiện qua những phương diện khác: tranh chấp về tài nguyên (nhất là năng lượng) và môi trường. Chúng ta phải tỉnh táo, không thể ngây thơ. Chúng ta chia sẻ những quan tâm của quốc tế, hợp tác để tìm những giải pháp chung cho nhân loại, nhưng cũng không quên những quyền lợi thực tế mà mỗi quốc gia đều phải bảo vệ cho mình, toàn cầu hóa hay không.

“Hai văn hóa” và những giá trị nhân văn

Trên đây tôi đã nói về sự giằng co giữa cái đặc thù của dân tộc và cái chung của thế giới, một sự giằng co mà tiến trình toàn cầu hóa làm nổi bật, thậm chí căng hơn. Nhưng còn một bộ mặt nữa trong đời sống của chúng ta – và sẽ rõ hơn trong tương lai các bạn – đó là sự quan trọng của công nghệ trong sinh hoạt hàng ngày. Bộ mặt này sẽ gây ra một sự giằng co nữa, giữa một nền văn hóa dựa vào công nghệ, vào kinh tế thị trường, và một nền văn hóa nhân văn, đi sâu hơn vào con người, mà tượng hình là văn chương và nghệ thuật.

Gần nửa thế kỷ trước, tác giả C.P. Snow (người Anh) đã báo động về cái mà ông gọi là sự xung khắc của “hai văn hóa”: văn hóa nhân văn và văn hóa công nghệ. Dù cảnh báo này của C.P. Snow đã bị nhiều người cho là một báo động lầm, chí ít cũng là phóng đại (hai tư duy nhân văn và tư duy công nghệ tuy hơi khác nhau nhưng không tương phản như Snow nghĩ), nó là tiền thân của một bức xúc thời thượng: “liệu thị trường có xói mòn đạo đức?”. Cũng vậy, sự tranh chấp giữa hai “văn hóa” (theo cách nói của C.P. Snow): khoa học và nhân văn sẽ làm nổi bật sự xung khắc giữa văn hóa thương mại và văn hóa “ưu tú” (tạm gọi như thế). Nhiệm vụ của bạn sẽ không đơn thuần là bảo tồn những “giá trị cổ truyền”, nhưng là khuếch trương văn hoá nhân văn – một phần đó sẽ là văn hóa dân tộc, nhưng một phần nào nó sẽ đòi hỏi sự sáng tạo của các bạn, cố nhiên là với cái tố chất của dân tộc mình.

Sự hội nhập vào thế giới mang theo nhiều nguy cơ tiềm ẩn, và có vẻ ngày càng trầm trọng. Cuộc sống hối hả, vội vàng, để lại cho chúng ta ngày càng ít thời giờ để suy nghĩ, nhìn lại nội tâm. Đó là thế giới của CNN, của Google, của Wikipedia... Chúng ta có thể tưởng là mình “biết” nhiều, nhưng đó là một thứ kiến thức manh mún, rộng mà không sâu. Thông tin tràn ngập song hầu hết là vô ích. Bạn nên nhín chút thời gian để lắng đọng, ngồi lại một nơi cô tịch để trầm tư.

Với sự tiến bộ của công nghệ thì vai trò của văn chương, nghệ thuật có phần bị lu mờ. Đây là một xu hướng toàn cầu mà nhiều trí thức khắp nơi đã báo động, than phiền. Tôi vẫn biết rằng không phải tất cả các bạn đều “kiếm cơm” trong lãnh vực văn hóa. Các bạn sẽ là nhà kinh doanh, là kỹ sư, là nhà nông... nhưng tôi mong các bạn lưu tâm, và khuyến khích – ít nhất là trong cương vị một người “tiêu dùng” văn hóa – sinh hoạt ấy, bởi vì một xã hội không thể là “phát triển” nếu nó thiếu vắng những sinh hoạt văn hóa sống động, những người thẩm định văn hóa có trình độ, và những người đó là bạn, chính là bạn, dù công việc kiếm cơm hàng ngày của bạn nằm trong lãnh vực nào.

Thay lời kết

Trên đây tôi đã thử đưa một cái nhìn khách quan về những vấn đề mà bạn sẽ đương đầu, và tôi đã hứa sẽ không dám “dạy” bạn điều gì. Thế hệ đi trước bao giờ cũng có nhiều kinh nghiệm nhưng tôi xin để những người khác, sống nhiều hơn và hiểu biết hơn tôi, truyền lại các bạn những kinh nghiệm ấy, và tất nhiên, sẽ có nhiều điều mà chính các bạn, cũng như những thế hệ trước, phải tự trải nghiệm. Tôi chỉ xin chia sẻ với bạn một số linh cảm của tôi về tương lai và gửi gắm vài hoài vọng.

Ở nước ta sự chênh lệch giàu nghèo, những bất công trong xã hội, còn quá nhiều (và có vẻ ngày càng sâu đậm hơn!). Nếu bạn được may mắn là người khá giả ở thành thị thì thỉnh thoảng cũng nên nhìn đến những người mà đời sống vật chất khó khăn hơn mình (tôi không nói là “bất hạnh”, vì chắc chắn là họ không cần thương hại, và cũng chưa chắc là bạn hơn họ về trí thức, về những đức tính khác của con người). Phải nghĩ rằng chỉ vì một tình cờ nào đó của lịch sử mà bạn được như ngày nay. Tôi luôn nghĩ rằng một xã hội tươi đẹp – một xã hội đáng sống – là một xã hội mà mọi người đều có cơ hội tiến thân, một xã hội mà mọi người “tử tế” với nhau... Đối với những bạn đang có đời sống chật vật thì tôi chỉ xin bạn nhẫn nại và cố gắng, và hãy tin rằng không gì là không có thể...

Nhưng, bạn còn trẻ, trước mặt bạn còn là những ngày nồng ấm của yêu đương, hãy dìu nhau đi trong những buổi chiều hồng, hãy dành nhiều thời giờ cho những đứa con còn đang lớn, với người vợ trẻ, ông chồng chưa ... già. Tuổi trẻ không chỉ là chặng đường chuẩn bị cho tương lai. Tuổi trẻ còn là một khoảng hiện thực của chính cuộc đời bạn, với những sướng vui mà bạn sẽ chẳng bao giờ tìm lại được. Bạn hãy tận hưởng tuổi trẻ ấy. Và ngay những lúc bạn ... thất tình (hay ve vuốt thú đau thương?), bạn nên nhớ một điều: rồi tất cả cũng qua đi. Điều cần nhất là phải luôn luôn giữ gìn sức khỏe, và tránh những gì mà hậu quả sẽ làm bạn hối tiếc sau này.

Tôi mong rằng trong số các bạn đọc thư này hôm nay, rồi đây sẽ có người viết một bức thư như thế này cho một bạn trẻ khác, và nước Việt Nam – không, cả thế giới này – lúc ấy sẽ đẹp đẽ hơn, và bạn sẽ mãn nguyện về những đóng góp của bạn cho cuộc đời này, trong bất cứ lãnh vực nào mà bạn chọn lựa.

Cái nguy hiểm là chúng ta sẽ nản chí, chua cay, cho là mình không thể làm gì được nữa... Dù hiện tại có vẻ ảm đạm như thế nào (và thực sự thì nó không ảm đạm như bạn tưởng!), khó khăn ra sao, chúng ta phải giữ niềm tin, và tích cực cùng nhau thực hiện niềm tin ấy, vì đó là bổn phận của chúng ta đối với chính mình...

Xin chúc bạn và gia đình một năm Kỷ Sửu đầy thành công và may mắn.

Trần Hữu Dũng

Tết Kỷ Sửu, 2009


Nguồn: Thời báo Kinh tế Sài Gòn, báo Xuân Kỷ Sửu

Maxime Gorki : những ý tưởng không hợp thời

Dịch thuật
o
Maxime Gorki : những ý tưởng không hợp thời
Nguyễn Xuân Xanh chọn lọc và chuyển ngữ Cập nhật : 24/01/2009 10:31

Những ý tưởng không hợp thời
về Văn hoá và Cách mạng


MAXIM GORKI (*)

Để kỷ niệm sinh nhật thứ 140 của Ông
(1868-2008)




Dân tộc này phải còn nỗ lực rất nhiều đế đạt đến ý thức về bản sắc và nhân phẩm của nó. Dân tộc này còn phải được trui rèn trong ngọn lửa cháy không dứt của văn hóa, tinh thần nô lệ đã hằn sâu trong nó phải bị tẩy sạch đi. MAXIM GORKI








Lời nói đầu


Trong bài này tôi không có ý định nói về cuộc đời của Gorki, mà chỉ muốn trình bày một số ý tưởng của ông trong những bài viết do chính ông đặt tên là Những ý tưởng không hợp thời, được đăng trên nhật báo Novaja Zizn (Đời Mới) trong những năm 1917-1918, trong bối cảnh của cách mạng tháng mười 1917. Không nghi ngờ, Gorki là người ủng hộ một cuộc cách mạng triệt để để giải phóng nước Nga khỏi ách thống trị của chế độ quân chủ đã kìm hãm sự phát triển của xã hội hằng nhiều thế kỷ, đã làm cho đất nước què quặt về khoa học, văn hóa và nghệ thuật. Ông là “con chim báo bão” của một cuộc cách mạng không tránh khỏi tại đất nước cùng khổ dưới ách thống trị độc tài của nền quân chủ chuyên chính bóp nghẹt phát triển. Vở kịch “Dưới đáy” (Nadne) của ông năm 1902 được diễn tại nước Nga vài trăm lần và chiếm lĩnh các sân khấu tây Âu, làm cho ông nhanh chóng nổi tiếng thế giới. Vở kịch gợi ra rằng chỉ có một cuộc thay đổi xã hội triệt để mới đem lại khúc quanh tốt hơn cho nước Nga. Sân khấu đối với ông đã thay đổi từ trường học đạo đức (Schiller) sang sân khấu của cách mạng.

Không nghi ngờ, Gorki ủng hộ cách mạng tháng Mười, ủng hộ Lênin. Nhưng sự ủng hộ đó không diễn ra theo đường thẳng, hay một chiều ngay từ buổi đầu. Lịch sử còn nhiều dấu hỏi. Những bài viết Những ý tưởng không hợp thời cho thấy hơn bao giờ hết những suy nghĩ rất độc lập của Gorki, rất ‘Gorki’ và vô cùng sâu sắc về những vấn đề văn hóa, xã hội, lịch sử của nước Nga, sự am hiểu của ông về dân tộc Nga và những con người của nó đến tận ‘tâm can’ của dân tộc đau khổ này. Những bài viết Những ý tưởng không hợp thời mãi đến khi chế độ Xô-viết sụp đổ mới được phép phổ biến chính thức tại Nga.

Khi Những ý tưởng không hợp thời (về văn hóa và cách mạng) được xuất bản ở CHLB Đức1 năm 1974, thì một bình luận gia của một tờ báo ở Đức viết “Tôi đã cầm lên tay cuốn sách trong mấy tuần qua có lẽ đến hai chục, nếu không phải ba chục lần và đọc ngấu nghiến. Mỗi lần nó đều cháy bỏng trên tay tôi. Một nhà báo, một chiến sĩ tuyệt vời! Đó là những câu nói về người Nga, gây lên ấn tượng rằng một quốc gia đang tiến lên bàn xưng tội. …”

Một tờ báo khác tên tuổi của Thụy Sĩ (Neue Zürcher Zeitung) cũng đã bình luận về Những ý tưởng không hợp thời: “Điều làm say mê của sự tập hợp lại các lời phê bình của Gorki nằm ở chỗ, đây một nhà nhân bản và xã hội chủ nghĩa, mặc cho sự đổi thay của bối cảnh chính trị, đã không biết sợ hãi để cho tiếng nói của lương tâm vang lên.”

Cuộc đời của Gorki trong chừng mực nào không thoát khỏi hẳn di sản nặng nề mà chế độ chuyên chính đã để lại. Ông là một con người rất mạnh mẽ nhưng cũng không thoát khỏi hẳn hậu quả của di sản đó. Nhận định sau đây của ông dường như cũng đúng phần nào cho chính bản thân ông: “Người ta không yêu mến những con người mạnh mẽ trên đất nước Nga, cho nên những con người đó không sống lâu được trong đất nước chúng ta. Cuộc đời không yêu anh ta, văn chương cũng thế; nó tìm mọi cách có thể được để làm liên lụy ý chí mạnh mẽ của anh ta vào những mâu thuẫn, đẩy nó vào cái xó đen tối của ngõ cụt, hạ thấp nó xuống ngang bằng các điều kiện sống ô nhục để rồi hạ thủ nó. Người ta không đi tìm và yêu mến người chiến đấu, người kiến trúc của những hình thái mới của cuộc sống, mà yêu người ngoan ngoãn để nhận vào mình những tội nhẹ đáng ghét của những người tầm thường.” Vâng, ông không thoát khỏi hẳn những mâu thuẫn và ngõ cụt của xã hội trong thời đại ông, và luôn chực bị hạ thủ theo nghĩa này hay nghĩa khác, như những ai đã biết về cuộc đời ông.

Maxim Gorki sinh ra năm 1868 tại Niznij Novgorod, tên thật là Alexej Maximovitsch Peschkov, và mất năm 1936 tại Moscow, hưởng thọ 68 tuổi. Ông là con trai của một người bố thợ mộc, lớn lên hầu như không được học hành, sau đó làm công nhân, và làm một cuộc hành trình xuyên nước Nga. Là con người của tự học từ trường đời: “Người thầy đầu tiên của tôi một người lính – đầu bếp Sumuryj; người thầy thứ hai là luật sư Lanin, và người thứ ba là Korolenko (văn hào)”. Ông bắt đầu sự nghiệp văn học với một tác phẩm đầu tiên năm 1882 (Makar Tuschdra). Vở kịch “Dưới đáy” năm 1902 nhanh chóng đưa tên tuổi ông tới thế giới. Năm 1905 ông quen với Lênin. Sau chuyến đi Mỹ năm 1906 ông sống nhiều năm tại châu Âu, trở về Nga 1913. Trong những năm 1919 và 1921 ông ủng hộ những người Bolschevik. Năm 1921 ông lại ra nước ngoài. 1928 trở lại Nga, 1932 trở thành chủ tịch đầu tiên của Hội văn học Xô-viết vừa được thành lập. Cái chết của ông còn nhiều bí ẩn.

Từ 1917 đến tháng 6.1918 Gorki viết một cách hệ thống cho công chúng: diễn văn, bình luận, kêu gọi, phác thảo v.v. Ông ủng hộ một cuộc cách mạng nhưng nghi ngờ chiến thắng của giai cấp vô sản, xác định mối quan hệ giữa trí thức và cách mạng, viết lời kêu gọi cho các dân tộc mỏi mệt vì chiến tranh cho năm 1918, và đóng vai trò người quan sát không thiên vị của lịch sử.

Đọc Gorki, thật là một thiếu sót lớn nếu bỏ qua Những ý tưởng không hợp thời, và sẽ không hiểu được chân thật Gorki. Chúng tôi muốn kỷ niệm sinh nhật thứ 140 của ông bằng sự giới thiệu Những ý tưởng không hợp thời qua một số chọn lọc. Trong chừng mực nào, đó cũng chính là những ý tưởng không hợp thời về những vấn đề của Việt Nam. Chúng ta đọc Những ý tưởng không hợp thời mà không khỏi không liên tưởng đến những vấn đề vẫn còn rất thời sự của Việt Nam đang tiềm ẩn xung quanh day dứt. Khoả hết đi những mắc mứu đau khổ của lịch sử, chúng ta sẽ thấy Những ý tưởng không hợp thời của Gorky sẽ toả sáng trên những miền đất tăm tối của lịch sử, và một ‘góc khuất’ của Gorki được sáng ra, giúp ta nhìn thấy những vấn đề dai dẳng của cá nhân và xã hội quanh ta đã được tích tụ thành những lớp địa chất lịch sử tối tăm từ bao đời, và cũng gợi ra một cuộc thay đổi toàn diện.

Cám ơn Gorki.
Nguyễn Xuân Xanh

Chọn lọc và chuyển ngữ
TP Hồ Chí Minh, cuối 2008



THƯ GỬI BẠN ĐỌC 2

Dân tộc Nga đã kết hôn với Tự do. Chúng ta hãy tin rằng từ mối liên kết này những con người mới mạnh mẽ sẽ hình thành trên đất nước đã bị đoạ đày về tinh thần và thể xác của chúng ta.

Chúng ta hãy tin vững chắc rằng các sức mạnh của lý trí và của ý chí, những cái đã bị đè nén và dập tắt qua hằng trăm năm áp bức, sẽ bùng cháy như ngọn lửa sáng trong con người Nga.

Chúng ta không được phép quên rằng tất cả chúng ta là những con người của ngày hôm qua, và tác phẩm vĩ đại của sự tái sinh của đất nước chính là nằm trong tay của những con người, do những ấn tượng nặng nề của quá khứ, đã bị giáo dục trong tinh thần đố kỵ lẫn nhau, không tôn trọng người đồng loại và trong tinh thần của chủ nghĩa vị kỷ đáng ghét.

Chúng ta đã được dạy dỗ lớn lên trong một không khí của “thế giới ngầm”. Điều mà chúng ta gọi là hoạt động hợp pháp xét theo bản chất của nó thì hoặc là sự tự hào vào khoảng chân không, hay là tính bè phái chính trị thiển cận của các phe nhóm hay cá nhân; một cuộc chiến tranh huynh đệ giữa con người với nhau mà ở đó cảm giác về nhân phẩm đã bị biến chất thành sự háo danh bệnh hoạn.

Chúng ta đã sống giữa những sự đểu giả đầu độc tâm hồn từ chế độ cũ, giữa sự vô chính phủ mà nó đã sinh ra; chúng ta đã thấy sức mạnh quyền uy của những kẻ phiêu lưu là vô độ như thế nào, những kẻ đã cai trị chúng ta; cho nên chúng ta bị tiêm nhiễm với tất cả những tính chất, tất cả các thói quen và cách hành xử của những con người đã khinh bỉ và nhạo báng chúng ta.

Chẳng lúc nào và bằng cách gì chúng ta có thể phát triển trong bản thân chúng ta cảm giác của trách nhiệm cá nhân cho cái tai hoạ của đất nước, cho cuộc đời nhục nhã; chúng ta đã bị tiêm nhiễm chất độc từ xác chết của nền quân chủ dẫy chết.

[…]

Bẩn thỉu, hỗn độn và độc hại đủ loại vẫn còn đầy đủ đó, tất cả không dễ biến mất nhanh chóng đâu; trật tự cũ tuy bị xóa sổ về thể xác, nhưng về tinh thần nó vẫn còn sống tiếp tục xung quanh ta, trong chính chúng ta. Con rắn Hydra nhiều đầu của Thất học, Man dã, Ngu dốt, Đểu cáng và Thô bạo đã không bị giết chết; nó đã giấu mình nhưng không mất đi khả năng nuốt chửng những linh hồn sống.

Người ta không được phép quên rằng chúng ta đang sống trong một cánh rừng của một khối người tính đến hàng triệu, những người dốt nát về chính trị và không được giáo dục về xã hội. Những người không biết họ muốn gì chính là những người nguy hiểm về xã hội và chính trị. Khối dân cư này sẽ không bị phân hóa nhanh chóng theo giai cấp và theo những quyền lợi được ý thức rõ ràng, họ sẽ không tự tổ chức được nhanh chóng và có năng lực cho cuộc tranh đấu xã hội một cách có ý thức và sáng tạo. Bao lâu họ không được tổ chức, thì họ sẽ nuôi dưỡng các con quái vật của quá khứ bằng nước cốt dơ bẩn và không lành mạnh của họ, những cái quái thai của chế độ cảnh sát trị mà người dân trung bình đã quen thuộc...

[…]

Chúng ta chứng kiến một khoảnh khắc cực kỳ khó khăn, buộc đòi hỏi phải động viên tất các lực lượng của chúng ta, lao động kiên trì và sự thận trọng cao nhất trong quyết định. Chúng ta không được quên những lầm lỗi có hậu quả nặng nề của 1905 và 1906; sự thanh toán dã man theo sau những lầm lỗi đó đã làm chúng ta kiệt quệ một thập niên, và đánh mất đi sự lãnh đạo. Trong thời gian này chúng ta đã suy sụp về chính trị và xã hội; cuộc chiến tranh huỷ diệt hàng trăm nghìn con người trẻ tuổi đã làm tiêu hao sức mạnh của chúng ta nhiều hơn nữa, bởi vì nó phá hoại đời sống kinh tế của đất nước đến tận gốc rễ.

Thế hệ đầu tiên nhận lãnh trật tự của cuộc sống mới đã đương nhiên hưởng được Tự do một cách ‘bất chiến tự nhiên thành’; thế hệ này hầu như không biết gì về những nỗ lực kinh khủng của những con người đã phá huỷ từng mảng thành trì đen tối của chủ nghĩa quân chủ Nga. Người dân thường không biết gì về hoạt động gậm nhấm khủng khiếp này, vì lợi ích cho anh ta; công việc khổ sai này không hề đi vào ý thức của người dân nào của khoảng 1000 quận huyện của nước Nga.


Bút tích của Maxim Gorki 1909

[…]

Nền dân chủ cách mạng bản thân nó phải thấu hiểu và thực hiện những nhiệm vụ nhà nước phổ thông; nó phải tham gia tích cực vào tổ chức các lực lượng kinh tế của đất nước, vào sự phát triển năng lực sáng tạo, và việc bảo vệ tự do của nước Nga chống lại các cuộc tấn công từ bên ngoài và bên trong.

Chỉ mới có một chiến thắng duy nhất – đó là sự chiếm lĩnh quyền lực chính trị; nhiều cuộc thắng lợi khó khăn hơn nhiều còn cần phải được giành lấy, nhưng trên hết chúng ta có nghĩa vụ phải chiến thắng các bệnh ảo tưởng của chính mình.

[…]

Sự nhận thức một cách can đảm những chỗ yếu của mình là sự thúc đẩy tốt nhất cho một ý chí lành mạnh và cho cách tự đánh giá đúng đắn chính mình.

Các năm chiến tranh đã cho chúng ta thấy rõ một cách khủng khiếp chúng ta bệnh hoạn như thế nào về văn hóa, yếu kém ra sao về mặt tổ chức. Sự tổ chức các lực lượng sáng tạo của đất nước là quan trọng cho chúng ta như bánh mì và không khí.

Chúng ta đã khao khát tự do cao độ. Với thái độ thiên về chủ nghĩa vô chính phủ, chúng ta sẽ dễ dàng đánh mất tự do – khả năng đó là hiện thực.

Không ít nguy cơ đang đe doạ chúng ta. Chúng ta chỉ có thể đối phó và khuất phục chúng nếu chúng ta lao động âm thầm và đoàn kết cho sự củng cố trật tự của cuộc sống mới.

Sức mạnh sáng tạo và quý báu nhất chính là con người; con người càng phát triển về tinh thần, và càng được trang bị về kiến thức kỹ thuật tốt hơn, lao động của nó càng vững chắc và quý báu hơn, và chính nó càng trở thành có văn hóa và có tính cách thời đại hơn.

Điều đó chúng ta chưa hiểu; giai cấp tư sản không quan tâm đúng mức đến việc tăng trưởng năng suất lao động; con người, đối với họ vẫn giống như con ngựa, là nguồn sức kéo thô thiển.

Quyền lợi của tất cả con người có một cơ sở chung mà trên đó họ đoàn kết lại mặc cho sự đối kháng giai cấp không thể loại bỏ: sự phát triển và tích lũy tri thức. Tri thức là một vũ khí cần thiết trong cuộc đấu tranh giữa các giai cấp đang ngự trị trong trật tự thế giới hiện hành. Cuộc chiến đấu này là một thời khắc bi thảm của giai đoạn lịch sử này đã có sẵn, một sức mạnh tất yếu trong sự phát triển văn hóa, - và nó không thể tránh khỏi được.

Tri thức là sức mạnh cuối cùng sẽ phải đưa con người đến chiến thắng các sức mạnh thô thiển của thiên nhiên, và sẽ tạo điều kiện để chế ngự các sức mạnh này theo các lợi ích của con người và của nhân loại.

Tri thức phải được đại chúng hóa, người ta phải làm cho nó trở thành công việc của cả dân tộc; tri thức chính là nguồn gốc của lao động hiệu quả, là cơ sở của văn hóa. Và chỉ có tri thức mới làm cho chúng có năng lực tự nhận thức, giúp chúng ta đánh giá đúng sức lực và nhiệm vụ của chúng ta, và chỉ ra cho chúng ta con đường rộng lớn đến những thắng lợi tương lai.

Lao động âm thầm là lao động hiệu quả nhất.

Sức mạnh, cái đã củng cố tôi trong suốt cuộc đời và vẫn còn luôn củng cố như thế trên quả đất này, đã và vẫn còn là niềm tin của tôi vào lý tính của con người. Cho đến hôm nay, cuộc cách mạng Nga trong mắt tôi là một chuỗi những diễn biến hân hoan và sáng sủa của lý tính. Một dấu hiệu mạnh mẽ đặc biệt của lý tính thầm lặng là ngày 23 tháng Ba, ngày của những mai táng tại Marsfeld3.

Lần đầu tiên và gần như trực tiếp tôi cảm nhận được tại cuộc diễu hành này của cả hằng trăm ngàn người: Vâng, nhân dân Nga đã hoàn tất cuộc cách mạng, những người chết đã sống lại, và nhân dân bây giờ hướng về tác phẩm cao cả của hòa bình – đó là cuộc xây dựng các hình thức mới của cuộc sống tự do hơn.

Thật là hạnh phúc biết bao được chứng kiến ngày này!

Và từ trái tim mình tôi cầu chúc cho nhân dân Nga rằng nó luôn luôn tiếp tục đi như thế, một cách thầm lặng và mạnh mẽ, tiến lên và cao hơn, cho đến cuộc Đại lễ của Tự do của toàn thế giới, của Bình đẳng và Huynh đệ của tất cả con người!

***


Nếu chúng ta nhìn tổng quát về hoạt động toàn diện và nhiều mặt của chế độ quân chủ, thì ý nghĩa của hoạt động này sẽ hiện rõ ra trước chúng ta, rằng bộ máy quan liêu làm tất cả mọi thứ để ngăn chặn sự phát triển về chất lượng và số lượng của giới trí thức.

Chế độ cũ đã bất lực, nhưng bản năng sống còn đã chỉ ra cho nó rất đúng, rằng kẻ thù nguy hiểm nhất của nó chính là bộ óc con người, và do đó nó tìm mọi cách có được để ngăn cản sự tăng trưởng của các lực lượng trí thức của đất nước, và làm cho nó què quặt đi. Trong hoạt động tội ác này, (một) nhà thờ đã giúp sức nó một cách hiệu quả, cái đã bị bộ máy quan lại của nó nô dịch, và một xã hội đã bị lung lay về tâm lý cũng tiếp tay cho nó không kém, một xã hội trong những năm qua đã hoàn toàn để nó cưỡng bức.

Chiến tranh đã phơi bày ra một cách khủng khiếp những hệ quả của tình trạng bệnh hoạn tinh thần lâu đời này, bởi vì đứng trước một kẻ thù có trình độ văn hóa cao và được tổ chức tuyệt hảo, nước Nga đã tỏ ra yếu ớt và bất lực.[…]

Trong một đất nước được thiên nhiên ưu đãi với tất cả tài nguyên và tài năng thì, như hệ quả của sự bất lực về tinh thần của nó, tình trạng vô chính phủ trên tất cả các lãnh vực đã bộc lộ rõ ra. Công nghệ và kỹ thuật ở trong trạng thái phôi thai, và không có mối liên hệ với khoa học; khoa học tự nó nằm ở đâu đó trong những sân sau, trong bóng tối, và dưới sự giám sát thù địch của một quan chức; nghệ thuật, do bị giới hạn và biến dạng bởi kiểm duyệt, đã tách ra khỏi cái chung để đánh mất mình trên đường đi tìm các dạng thể mới và một nội dung sống động, thúc đẩy và nâng cao nhân phẩm.

Khắp nơi, trong nội tâm của con người cũng như xung quanh nó, chúng ta thấy sự tàn phá, đổ nát, hỗn loạn và những dấu vết của một trận đánh kéo dài, như trận đánh chống lại Chan Mamaj4. Di sản mà chế độ quân chủ đã để lại là khủng khiếp.

Dù chúng ta muốn nói một lời an ủi thế nào đi nữa, chân lý của thực tại không thể cho phép một sự an ủi, và người ta phải nói với tất cả sự thẳng thắn: Chế độ quân chủ, trong nỗ lực bóp nghẹt nước Nga về tinh thần, đã đạt đến sự thành công gần như tuyệt hảo.

Cách mạng đã đánh đổ nền quân chủ, điều đó đúng! Nhưng điều đó có lẽ cũng có nghĩa rằng cuộc cách mạng đã mang chứng bệnh ngoài da vào bên trong bên trong nội tạng. Người ta không được phép tin rằng cách mạng đã chữa trị và làm phong phú cho nước Nga về mặt tinh thần. Một câu tục ngữ cổ nhưng không phải dở nói rằng: “Căn bệnh đến bằng một lạng, nhưng nó đi bằng một cả một cục chì”. Quá trình mở mang trí thức của đất nước diễn ra vô cùng chậm chạp; nhưng chính vì thế lại càng cần thiết hơn bao giờ hết cho chúng ta, và cuộc cách mạng bây giờ, thông qua những lực lượng lãnh đạo của nó, nhất định phải tự nhận lãnh tránh nhiệm lập ra những tổ chức và định chế lo cho việc phát triển các lực lượng trí thức của đất nước một cách kiên trì và tức khắc.

Lực lượng trí thức là lực lượng sản xuất quan trọng nhất về mặt chất lượng. Sự ưu tư về một sự tăng trưởng nhanh như có thể phải là sự ưu tư nóng bỏng của tất cả mọi giai cấp.

Chúng ta cùng đảm đương công việc của một sự phát triển toàn diện về văn hóa; cách mạng đã đánh đổ những trở ngại trên con đường dẫn đến một sự sáng tạo tự do. Và giờ đây chính ý chí của chúng ta phải chứng minh tài năng và thiên phú cho chính mình và thế giới thấy. Sự cứu rỗi chúng ta là lao động, vâng chúng ta hãy tìm thấy trong đó một niềm vui.

“Không phải lời nói mà là hành động đã tạo ra thế giới”, đó là một sự diễn tả rất hay, và cũng là một chân lý không thể nghi ngờ được.

Cách mạng và Văn hóa
18.4.1917


***


Cấu trúc mới của đời sống chính trị đòi hỏi ở chúng ta một cấu trúc mới của tâm hồn.

Trong hai tháng dĩ nhiên người ta không thay đổi được hoàn toàn, nhưng chúng ta càng rũ sạch mình khỏi bụi bẩn của quá khứ, thì sức khỏe tinh thần chúng ta càng tốt hơn, lao động sáng tạo ra các hình thức mới của sự tồn tại xã hội càng có năng suất cao hơn.

Chúng ta sống trong một cơn bão của các xúc cảm chính trị, trong sự hỗn độn của một cuộc chiến đấu giành quyền lực; cuộc chiến đấu này đánh thức bên cạnh các tình cảm tốt đẹp còn cả những bản năng đen tối. Điều đó là tự nhiên, nhưng lại đe doạ bẻ cong đi tính cách của chúng ta, và làm cho nó phát triển một cách giả tạo theo một hướng nhất định. Chính trị là miếng đất trên đó các loại cây gai của sự thù địch độc hại, các nghi kỵ xấu xa, các sự lừa dối trơ trẽn, vu khống, các thói háo danh bệnh hoạn và sự khinh thường nhân cách phát triển nhanh chóng và um tùm. Nếu đếm hết những cái xấu chứa trong con người – thì tất cả những thứ đó đều phát triển đặc biệt rất nhanh trên miếng đất của cuộc đấu tranh chính trị. […]

Sự thù địch giữa con người là một hiện tượng không bình thường; những tình cảm tốt đẹp nhất của chúng ta, những ý tưởng lớn nhất của chúng ta được hướng đến việc loại bỏ sự thù địch xã hội trên thế giới. Những tình cảm và ý tưởng này tôi sẽ gọi là “chủ nghĩa lý tưởng xã hội”, bởi vì sức mạnh của nó cho phép chúng ta khuất phục được tất cả những cái kinh tởm trong cuộc sống, và một cách dẻo dai và bền bỉ, hướng về sự công bằng và cái đẹp của cuộc sống, hướng về tự do. Trên con đường này chúng ta đã sinh ra các anh hùng, những người dám chết vì tự do, những con người đẹp nhất trên trái đất; tất cả những cái đẹp trong ta sẽ tuôn ra từ sự phấn đấu này. Những nhân tố tốt đẹp nhất của tâm hồn chúng ta sẽ được đánh thức một cách thành công nhất, mạnh mẽ nhất bằng sức mạnh của nghệ thuật. Khoa học là lý trí của thế giới, nghệ thuật là linh hồn. Chính trị và tôn giáo chia con người thành các nhóm lẻ; nghệ thuật khám phá cái nhân tính chung trong con người, và thống nhất chúng ta lại. Không có gì uốn nắn tâm hồn con người một cách dịu dàng và nhanh chóng như thế, như là ảnh hưởng của nghệ thuật và khoa học.

Quyền thù địch của giai cấp vô sản đối với các giai cấp khác có thể được biện giải. Nhưng đồng thời chính giai cấp vô sản mang ý tưởng vĩ đại và đem lại hạnh phúc của một nền văn hóa mới, ý tưởng của một tính huynh đệ phổ quát vào cuộc sống chúng ta.

Vì thế, chính giai cấp vô sản phải từ bỏ các phương pháp cũ trong cách đối xử con người bởi chúng không thích hợp.

Chính giai cấp vô sản phải phấn đấu bền bỉ mở rộng và làm cho thêm thâm sâu tâm hồn, cái khung chứa tồn tại của chúng ta. Đối với giai cấp vô sản, những tài năng của nghệ thuật và khoa học có một giá trị cao – đối với gian cấp vô sản, những thứ đó không phải là sự giết chết thời gian nhàn rỗi, mà là những phương tiện để thâm nhập vào những bí mật của cuộc đời.

Tôi cảm thấy xa lạ khi nhìn thấy giai cấp vô sản, được đại diện bởi cơ quan thừa hành và tư duy của nó, hội đồng binh sĩ và công nhân, tỏ ra dửng dưng và bàng quan khi các nhà âm nhạc, nghệ sĩ và diễn viên, và những người khác, những người không thể thiếu cho tâm hồn của giai cấp vô sản, lại được gửi ra mặt trận như bia đỡ đạn. Nếu dân tộc chúng ta gửi những con người tài năng nhất của nó ra chỗ sát sinh, chẳng phải nó làm suy yếu trái tim của nó và rứt đi những phần thịt tốt nhất ra khỏi cơ thể hay sao?

Có lẽ chỉ để một người Nga tài năng giết chết một người Đức tài năng về nghệ thuật sao? […]

Hãy suy nghĩ nhân dân đã tốn bao nhiêu công sức để đào tạo nên những con người tài năng, những người để diễn tả được cảm xúc và ý tưởng của tâm hồn nó?

Sự sợ hãi trước ý tưởng, đó chính là sự sợ hãi trước hoạt động tự do của lý tính. Sự sợ hãi này của người dân là chỗ dựa của tòa nhà mục nát của chế độ quân chủ, chế độ đã gần như thủ tiêu đất nước chúng ta. […]

20.4.1917

***



Maxim Gorki 1903

[…]

Cái hạnh phúc lớn của tự do không được phép làm ảm đạm đi bằng tội ác đối với con người, vì nếu không, chúng ta sẽ đánh chết tự do bằng chính bàn tay của chúng ta.

Chúng ta phải hiểu, và cuối cùng phải hiểu, rằng kẻ thù khủng khiếp nhất của tự do và của công lý nằm trong chính chúng ta; đó là sự ngu muội của chúng ta, sự tàn bạo của chúng ta, và cả cái hỗn độn của những cảm giác đen tối vô chính phủ đã được nuôi dưỡng bởi sự đàn áp không chùn tay của chế độ cũ ở mọi thời, bởi sự hung ác vô liêm sỉ của nó trong tâm hồn chúng ta.

Chúng ta có hiểu được điều đó?

Nếu chúng ta không khả năng hiểu được, chúng ta sẽ không từ bỏ các hành động bạo lực hung ác nhất chống lại con người, như thế sẽ không có tự do cho chúng ta. Nếu thế thì tự do chỉ là một ngôn từ mà chúng ta không có sức mạnh để mang lại cho nó một nội dung cần thiết. Tôi nói, những kẻ thù chính của chúng ta là ngu dốt và tàn bạo.

Chúng ta có chống lại chúng, có muốn chống lại hay không?

Đó không phải là câu hỏi hoa mỹ, mà một câu hỏi về chiều sâu và tính đúng sự thật của hiểu biết của chúng ta về các điều kiện mới của đời sống chính trị, câu hỏi của một sự đánh giá mới của con người và vai trò của nó trên thế giới.[…]

Và bây giờ, được giải phóng khỏi sự nô lệ bề ngoài, chúng ta lại tiếp tục sống với những cảm xúc của những người nô lệ.

Một lần nữa: kẻ thù không thương tiếc của chúng ta chính là quá khứ chúng ta.

Hỡi các công dân! Chúng ta không tìm được trong chúng ta sức mạnh để giải phóng mình ngay lập tức khỏi quá khứ này hay sao, vứt bỏ đi sự dơ bẩn và quên đi những cái vô liêm sỉ đẫm máu của nó hay sao? Hãy trưởng thành hơn, hãy ưu tư hơn và cẩn thận hơn trong cách đối xử với chính chúng ta. Và đó là điều bức thiết!

Về giết người
23.4.1917


***


Tổ quốc sẽ ít bị đe doạ hơn, nếu có nhiều văn hóa hơn.

Rất tiếc dường như chúng ta không đạt đến các quyết định rõ ràng văn hóa nào là cần thiết cho chúng ta, và loại văn hóa nào chúng ta cần đến. Trong thời gian đầu của cuộc chiến, khi các nhà triết học Moscow so sánh Kant và Krupp5 rất sâu sắc và hoàn toàn thành thật, thì những quyết định này đối với chúng ta là không rõ ràng. […]

Nói thế nào đi nữa, chúng ta đã quan tâm ít ỏi nhất đến sự phát triển của văn hóa phương Tây – của khoa học thực nghiệm, nghệ thuật tự do và của một nền công nghiệp hùng mạnh. Và cho nên một cách tự nhiên, quần chúng của chúng ta không hiểu được ba nền tảng của văn hóa. […]

Kể cả các khoa học nhân văn lẫn tự nhiên có thể có một vai trò trọng đại vào việc nâng cao phẩm chất của các bản năng, nhưng một sự tham gia của các nhà khoa học vào cuộc sống trong lúc này hãy còn ít.

Tôi chưa biết trong thể loại văn hóa đại chúng có một quyển sách nào được viết đàng hoàng và thuyết phục nói về tầm quan trọng của vai trò tích cực của công nghiệp trong quá trình phát triển văn hóa hay không. Dân tộc Nga cần lắm một quyển sách như thế từ lâu. […]

Đối với tôi, lời kêu gọi “Tổ quốc bị lâm nguy” là không đáng sợ hơn lời kêu gọi “Hỡi các công dân! Văn hóa bị lâm nguy!”

9.5.1917


***

Tôi biết rằng tương lai của dân tộc là không có ý nghĩa gì đối với những nhà giáo điều điên rồ: họ xem dân tộc như chất liệu cho các cuộc thử nghiệm xã hội; tôi biết rằng tất cả những tình cảm và suy nghĩ, những thứ có thể xé nát trái tim của những người dân chủ chân thật, lại đều là xa lạ đối với họ.

8.11.1917


***

Giới trí thức Nga còn phải nhận lãnh sứ mạng to lớn là chữa trị dân tộc về mặt tinh thần. Họ có nhiều tự do hơn cho nhiệm vụ này, và không có nghi ngờ gì họ cùng với phần phát triển nhất của giới tri thức lao động vô sản hôm nay còn đang chìm đắm và nghẹt thở trong khối người không được giáo dục sẽ hoạt động cho sự đổi mới tinh thần của đất nước.

Giới trí thức vô sản và dân chủ có nhiệm vụ đoàn kết tất cả cá lực lượng trí thức của đất nước trên cơ sở của lao động văn hóa. Nhưng công việc này chỉ có thể thành công nếu chúng ta từ bỏ chủ nghĩa bè phái của các đảng phái và hiểu rằng người ta không những xây dựng nên ‘con người mới’ và chúng ta không phục vụ cho chân lý nếu chúng ta để các phương pháp đông cứng lại thành giáo điều, mà chúng ta còn làm tăng lên số các sai lầm nguy hại làm cho lực lượng chúng ta phân tán đi.[…]

Đất nước chúng ta cần hai cơ quan với những nhiệm vụ khác nhau: một cái cần báo cáo về công việc của khoa học thuần túy và ứng dụng, cái kia về công việc văn hóa và giáo dục; các cơ quan này có thể sẽ rất hữu ích cho việc giáo dục ý tưởng và tình cảm. Chúng ta phải lao động, các công dân quý mến, chúng ta phải lao động! Chỉ có lao động mới có thể cứu rỗi chúng ta, không gì khác!

1.5.1918


***

Cuộc cách mạng, thoát thai từ một cuộc chiến tranh, chắc chắn sẽ tỏ ra bất lực khi giai cấp vô sản không đem cả sức lực lao động vào cuộc xây dựng xã hội, mà chỉ biết nghe lời các người lãnh đạo của nó, phá huỷ đến cùng các cơ sở kỹ thuật của “giai cấp tư sản” thay vị học hỏi để nắm vững chức năng vận hành của chúng và kiểm tra lao động như cần thiết.

Cuộc cách mạng sẽ tiêu vong bởi sự kiệt quệ bên trong nội tâm nếu giai cấp vô sản chỉ biết khép mình vào tính không khoan nhượng cuồng tín của các ‘uỷ viên nhân dân’ và ngày càng xa dần dân chủ. Ý thức hệ của giai cấp vô sản không phải là ý thức hệ của chủ nghĩa ích kỷ giai cấp; các bậc thầy của nó, Mác và những người khác, đã đặt lên vai những lực lượng tốt của nó nhiệm vụ giải phóng con người khỏi sự nô dịch về xã hội và kinh tế.

13.1.1918


***


Một cảnh trong vở “Dưới đáy”. Sân khấu đối với Gorki không còn là trường học đạo lý mà đã trở thành sân khấu của cách mạng

Bản chất đích thực của văn hóa và ý nghĩa của nó nằm ở chỗ biết kinh tởm đích thực mọi cái dơ bẩn, đê tiện, dối trá và thô bạo làm hèn hạ đi con người và làm cho nó đau khổ. Chúng ta phải học ghét cái đau khổ; chỉ như thế chúng ta mới thanh toán nó được. Chúng ta phải học yêu thương con người như nó trong hiện tại, và cũng phải yêu thương nó một cách nhiệt tình, như nó trong tương lai.

Cái gì chữa trị chúng ta và làm sống lại sức mạnh của chúng ta? Cái gì có thể làm mới lại chúng ta từ bên trong?

Chỉ có lòng tin vào chính chúng ta, không có gì khác. Chúng ta phải nhớ lại nhiều điều, bởi vì trong cuộc chiến đấu giành lấy quyền lực và một miếng bánh mì chúng ta đã bỏ quên đi quá nhiều.[…]

Đối với phần lớn trong họ, chủ nghĩa xã hội chỉ là một học thuyết kinh tế được xây dựng trên sự ích kỷ của giai cấp công nhân, cũng giống như các học thuyết khác dựa lên sự ích kỷ của giai cấp tư hữu.[…]

Người ta chỉ có thể thật sự cảm xúc và hiểu văn hóa nếu người ta kinh tởm sâu sắc tất cả những gì tàn bạo, thô lỗ và đê tiện trong chính bản thân và trong môi trường xung quanh.[…]

Việc chúng ta không hiểu hay đánh giá thấp các sức mạnh của tri thức là một sự cản trở nghiêm trọng ‘trên con đường tiến lên văn hóa’. Không có tri thức và ý thức về chính mình, chúng ta sẽ không bao giờ ra khỏi vũng bùn dơ bẩn của hiện tại.

16.5.1918


***

[…]

Những dày vò, đau khổ khiến dân tộc Nga phải gầm rú và lăn lộn như con thú. Phải thay đổi diện mạo tâm lý của nó, các thành kiến và định kiến, bản chất tinh thần của nó. Nó phải nhanh chóng hiểu một điều: dù kẻ thù bên ngoài có dũng mãnh và tham lam đến đâu, dân tộc Nga có một kẻ thù bên trong nguy hiểm hơn nhiều – đó là thái độ của nó đối với chính nó và với con người mà nó đã không được dạy dỗ để biết tôn trọng và quý trọng; đó là quan hệ của nó đối với tổ quốc mà anh ta không có cảm xúc, thái độ của anh ta đối với lý tính và tri thức mà anh ta không biết sức mạnh của nó và cũng không biết quý trọng. Anh ta gán hai thứ đó như một loại phát minh của giai cấp địa chủ chỉ có thể gây hại cho người nông dân.

Dân tộc Nga sống vô thức trong sự khôn vặt cũ kỹ của châu Á mà không nghĩ đến ngày mai, và để mình điều khiển bởi câu tục ngữ: “Rồi một ngày qua mau - Cám ơn Chúa!”. Bây giờ kẻ thù bên ngoài đã chứng minh cho nó rằng sự khôn vặt của một con cọp bị săn đuổi không là gì cả trước ý chí thép của lý tính được tổ chức. […]

Chúng ta không quen sống với tất cả sức mạnh của trái tim và lý trí của chúng ta. Cho nên chúng ta mệt mỏi với cách mạng – Đó là một sự mệt mỏi đến sớm và nguy hiểm cho tất cả chúng ta. Tôi không tin vào sự mệt mỏi sâu xa, tôi muốn nói, nó sẽ biến mất nếu có một tiếng nói gây hy vọng và phấn chấn vang lên – tiếng nói này phải được đánh lên!

Trong một trận đánh ở phương Tây một vị chỉ huy người Pháp dẫn một đội quân của mình tiến công vào các vị trí địch. Anh ta nhìn thấy một cách tuyệt vọng các binh lính của mình lần lượt ngã xuống. Có những người bị giết bởi đạn, nhưng phần lớn ngã xuống đơn giản chỉ vì sợ hãi, họ không tin vào sức chiến đấu của chính mình và tuyệt vọng trước nhiệm vụ dường như không thể hoàn thành được đối với họ. Lúc đó vị chỉ huy thét lên như một người Pháp đã được lịch sử anh hùng giáo dục:

“Hãy đứng dậy, hỡi những con người đã chết kia!”

Những chiến sĩ bán sống bán chết vì sợ hãi kia liền đứng dậy, và kẻ thù bị đánh bại. Tôi tin với cả tâm hồn rằng ngày kia sẽ đến khi có một người yêu thương chúng ta, hiểu được tất cả và có thể tha thứ sẽ kêu lên:

“Hãy đứng dậy, hỡi những con người đã chết kia!”

Và chúng ta sẽ đứng dậy, và sẽ chiến thắng kẻ thù chúng ta.

Tôi tin điều đó.

17.5.1918


***


Tôi nghĩ, một chủ nghĩa lý tưởng xã hội là vô cùng cần thiết chính trong giai đoạn cách mạng. Dĩ nhiên tôi muốn nói một chủ nghĩa lý tưởng lành mạnh để tinh luyện tình cảm, một chủ nghĩa lý tưởng mà nếu không có nó cuộc cách mạng sẽ mất đi sức mạnh để làm cho con người ý thức về xã hội hơn so với giai đoạn trước cách mạng, một chủ nghĩa lý tưởng mà nếu không có nó cách mạng sẽ mất đi sự biện minh đạo đức và mỹ học của nó. Không có chủ nghĩa lý tưởng, cách mạng và cả cuộc sống sẽ biến thành một bài toán thuần toán học khô khan, thành sự phân phối hàng hóa vật chất. Đấy là một bài toán mà giải pháp của nó đòi hỏi sự tàn bạo mù quáng và những bể máu, một nhiệm vụ đánh thức các thú tính và qua đó giết chết tinh thần xã hội của con người như chúng ta chứng kiến trong thời đại chúng ta.

26.5.1918


***


Bằng sự chiếm lĩnh quyền lực chính trị nhân dân đã có được cơ hội để tạo ra trong tự do các hình thái mới của cuộc sống xã hội; nhưng dân tộc vẫn còn, trong nội tâm và bên ngoài, sống dưới ảnh hưởng của meo mốc và rỉ sét của các hình thái sống cũ. Trong các tầng lớp dân chúng không có những dấu hiệu của một sự phấn đấu có ý thức thay đổi một cách cơ bản quan niệm lỗi thời của con người về chính mình, về đồng loại và về cuộc sống.

Cuộc sống giàu có những ý tưởng quý báu đối với quần chúng hoàn toàn mới, nhưng những ý tưởng này thâm nhập vào phạm vi các bản năng và cảm xúc thô thiển và chật hẹp. Trong phạm vi này các ý tưởng chỉ được tiếp thu một cách khó nhọc, nếu chúng có thể được tiếp thu, điều rất tiếc đáng nghi ngờ.

Cuộc cách mạng, được tạo ra bởi sức mạnh của những con người kiên quyết, tiêu hao và ngốn hết sức mạnh rất quý báu này, và quá trình tập trung và tổ chức sức mạnh mới diễn ra chậm chạp một cách nguy hiểm.[…]

Rõ ràng rằng tuyên truyền chính trị thôi không đủ để tạo ra con ngưới mới. Không đủ nếu chỉ tổ chức tư duy, mà người ta còn phải tổ chức ý chí, và giáo dục, phát triển và đào sâu thêm tình cảm.

Chúng ta phải làm sao cho sự giáo dục đạo đức và thẩm mỹ cho nhân dân cùng phát triển liên tục với giáo dục chính trị; chỉ dưới điều kiện này nhân dân ta mới được giải phóng hoàn toàn khỏi gánh nặng của lịch sử bất hạnh của nó; chỉ như thế nhân dân mới thoát khỏi ngục tù của các hình thái sống cũ. […]

Người ta phải nhớ rằng nhân dân được giáo dục hàng trăm năm bởi giáo lý cứng nhắc, khe khắt và tẻ nhạt về sự vô nghĩa của con người trước một quyền lực huyền bí điều khiển vận mệnh, và rằng giáo lý này được chứng minh rất ư là rõ ràng và nghiêm khắc qua tất cả những điều kiện sống xã hội là hệ quả của sự áp bức vô nghĩa trong thời gian của nền quân chủ Nga.[…]

Cuộc cách mạng, để có thể giải phóng và tinh luyện được con người, phải diễn ra trong nội tâm của nó và chỉ đạt được khi con người được rũ sạch khỏi meo mốc và bụi bẩn của những ý tưởng lỗi thời.[…]

Sương mù độc hại của cuộc sống hằng ngày, một cuộc sống bị làm hoen ố bởi cuộc chiến đấu kiếm cơm thường xuyên, được soi sáng lên và giảm bớt cường độ trong mọi thời đại và ở mọi dân tộc, - chỉ có khoa học và nghệ thuật mới tinh luyện được các hình thức sống man dã của chúng ta. Đã đến lúc khẩn thiết phải đưa những thành tựu vĩ đại nhất của những nhà khoa học và nghệ sĩ vào hiện tại hoang dã không thể tưởng của chúng ta – tất cả những cái quý nhất của thế giới, tất cả tài sản tinh thần của nó, tất cả cái gì có được năng lực và sức mạnh để giáo dục lại con người và nâng nó – kẻ sáng tạo ra những thực tế, vượt lên khỏi những thực tế.

Nhân loại đã sáng tạo ra nhiều cái đẹp, nhưng hằng ngày con người cũng tạo ra vô số những cái xấu xa và giấy lộn, và dưới đống của những cái nhỏ nhoi này tất yếu cái đẹp đã bị che lấp đi.

Chúng ta phải sống sao để chúng ta luôn thấy cái đẹp trước mắt, lúc đó nó sẽ đánh thức trong ta những cảm xúc và hành động xứng đáng với nhân phẩm con người.

Còn nếu người ta đem nhốt một người vào chuồng heo thì sẽ là một sự điên rồ nếu đòi hỏi nó phải trở thành một thiên thần.

4.6.1918


***


Hôm nay chúng ta thấy rõ hơn bao giờ hết dân tộc Nga bị lây nhiễm bệnh thất học thế nào, các quyền lợi của chính đất nước là xa lạ với họ ở mức độ khủng khiếp nào, dân tộc hành xử thô thiển làm sao trên lãnh vực văn minh, và ý thức của nó về lịch sử và hiểu biết về chỗ đứng của mình trong quá trình phát triển lịch sử non kém thế nào.

Nếu nói ‘dân tộc Nga’, tôi hiểu không chỉ các giới công nhân và nông nhân; không, tôi nói cả dân tộc nói chung, tất cả các giai cấp, bởi vì bệnh thất học và bệnh thiếu văn hóa là tiêu biểu cho cả quốc gia Nga. Từ khối lượng hàng triệu những người thất học này, những người không có quan niệm nào về giá trị của cuộc sống, người ta chỉ có thể tách ra số lượng vài ngàn người không đáng kể của giới được gọi là trí thức, nghĩa là những người ý thức được tầm quan trọng của nhân tố trí thức trong quá trình lịch sử. Những người này, mặc cho những sai lầm của họ, là phần quan trọng nhất mà nước Nga đã tạo ra được trong cả quá trình lịch sử khó khăn và gớm ghiếc của nó; những con người này vẫn đã là và vẫn là trái tim và khối óc của đất nước chúng ta. Những lầm lỗi của họ được cắt nghĩa bởi miếng đất của nước Nga không mầu mỡ cho những tài năng tri thức. Chúng ta tất cả đều là tài năng về cảm xúc, là tài năng trong nhân hậu, trong sự tàn bạo và nỗi bất hạnh; trong chúng ta có nhiều anh hùng, nhưng chỉ một ít con người khôn ngoan và mạnh mẽ có thể làm tròn được nhiệm vụ công dân của họ một cách can đảm – một nghĩa vụ khó khăn trong những điều kiện của nước Nga. Chúng ta yêu các anh hùng, nếu họ không chống đối chúng ta, và chúng ta không rõ rằng chủ nghĩa anh hùng chỉ đòi hỏi một giờ hay một ngày sự nỗ lực cảm xúc, trong khi sự can đảm đòi hỏi cả cuộc đời.[…]

Tôi không tin rằng người ta có thể gọi khối người vô sản là một lực lượng tri thức và có văn hóa. Nhưng có lẽ điều đó (ca ngợi vô sản) tiện lợi hơn cho cuộc bút chiến với giới tư sản dễ dàng hơn, để doạ nạt họ và làm cho mình can đảm hơn; nhưng tại đây nơi con người họp mặt lại, như tôi tin, những người chân thật và lo lắng sâu sắc về tương lai của đất nước, thì điều (ca ngợi) đó là thừa. Giai cấp vô sản như khối người chỉ là một lực lượng vật chất, không hơn; cũng như thế với giai cấp nông dân. Nhưng với giới trí thức công nhân và nông dân thì khác; họ dĩ nhiên là lực lượng sáng tạo về trí tuệ, và với tư cách như thế họ đã tách ra khỏi giai cấp của họ và họ cũng cô đơn, như giai cấp tri thức chúng ta lâu đời và bị áp bức, cô đơn và bị tách ra khỏi khối người lao động – bị áp bức không phải chỉ vì một phần của họ bị đưa vào các trại lao động, mà vì các điều kiện sống của họ ở nước Nga, vì cả cuộc sống của họ và công việc của họ. […]

Trong hoàn cảnh của nước Nga công việc văn hóa không đòi hỏi chủ nghĩa anh hùng mà là sự can đảm, sự thích nghi thường xuyên và bền bỉ của tất cả sức mạnh tâm hồn. ‘Gieo cái hợp lý, cái thiện và cái vĩnh cửu trên các miếng đất đầm lầy của nước Nga’, đó là một công việc vô cùng khó khăn, và chúng ta biết rồi các hạt giống của giòng máu tốt nhất của chúng ta, của cái tinh tuý của thần kinh chúng ta, sẽ chỉ nở ít ỏi và tiều tuỵ trên những cánh đồng của nước Nga. Mặc dù thế chúng ta vẫn phải gieo, và đó là nhiệm vụ của những người trí thức, những người hôm nay bị loại ra khỏi cuộc sống bằng bạo lực, và ngay cả bị liệt vào những kẻ thù dân tộc. Nhưng chính họ phải tiếp tục công việc đã được bắt đầu lâu rồi, công việc tẩy sạch và đổi mới về tinh thần cho đất nước, bởi vì chúng ta không có lực lượng trí thức nào khác ngoài họ.[…]

Nếu chúng ta trải lên cả đất nước một mạng lưới các tổ chức hoạt động văn hóa và giáo dục, và qua đó tập hợp lại tất cả các lực lượng tinh thần của đất nước, chúng ta có thể nhóm lửa lên khắp nơi để đem lại đất nước ánh sáng và sự ấm áp để giúp đất nước lành mạnh lại và đứng vững được trên đôi chân mình – khỏe mạnh, cứng cáp và có năng lực xây dựng và sáng tạo. Tôi không nói một sự liên kết hình thức và cứng nhắc của con người, mà một sự liên kết nội tâm và sống động của tất cả những ai cùng có cảm nhận như nhau. Chỉ như thế và chỉ bằng cách đó chúng ta mới tìm được lại văn hóa và tự do đích thực.[…]

Chính trị luôn luôn gớm ghiếc, bất kể ai làm nó, bởi vì nó tất yếu phải đi đôi với nói dối, vu khống và bạo lực. Và bởi vì đó là một chân lý đen tối, mọi người cần biết chân lý này, và chân lý này phải giúp ta nhận thức rằng công việc văn hóa là quan trọng hơn công việc chính trị.[…]

Đáng lẽ tốt hơn nếu người ta không để mình bị mê hoặc trong quá khứ, vì trong dân tộc Nga chắc không bao giờ có cái gì là mê hoặc, nhưng người ta để mình bị lôi cuốn và thất vọng – điều đó không thay đổi được. Mê hoặc là công việc của lòng tin, và thất vọng là một sự trừng phạt cho lòng tin mù quáng. Tri thức giúp chống lại thất vọng và là cái duy nhất người ta có thể khuyên cho những kẻ bị thất vọng. Cả đời tôi, trong những cảm xúc, ý tưởng và hành động tôi đều xuất phát từ con người, bởi vì tôi luôn tin tưởng không suy suyển rằng chỉ con người tồn tại, rằng tất cả những cái còn lại đều là ý kiến và hành động của nó.

Và trong giai đoạn này, giai đoạn khủng khiếp cho chúng ta, khủng khiếp cho đất nước chúng ta, đất nước đã được lập nên bởi nhiều thế hệ, những thế hệ đã làm cho chúng ta hôm nay như thế, trong giai đoạn của điên loạn, kinh hoàng, của chiến thắng sự ngu muội và đê tiện, trong giai đoạn đó tôi chỉ có một ý nghĩ duy nhất: tất cả những cái đó đều do con người mà ra, là sản phẩm của nó.

Con người đã tạo ra tất cả cái đẹp trên trái đất, tất cả thi ca, tất cả những hành động to lớn của lòng can đảm và danh dự, tất cả niềm vui và lễ hội của cuộc sống, tất cả vẻ quyến rũ, sự khôi hài và vĩ đại, tất cả những giấc mơ đẹp và khoa học tuyệt vời. Con người tạo ra trí tuệ táo bạo và ý chí không lay chuyển để vươn lên hạnh phúc.

Đó là con người, trong những ngày bi thảm, những ngày của đau khổ và dày vò, luôn kiên trì tin vào sự chiến thắng của các nguyên lý tốt đẹp mới mẽ đối với những cái cũ kỹ và xấu xa; đó là con người bất khuất đã mang chúng ta đến cuộc nói chuyện hòa hợp và đầy nhân tính ở đây. Chúng ta hãy đến với con người đã gây ra nhiều tội lỗi, nhưng sám hối sự dơ bẩn và tội lỗi bằng những đau khổ lớn lao và cùng cực. Chúng ta có thể tạo ra một không khí để con người có thể dễ thở hơn được chăng? Chúng ta phải và có thể được làm điều đó!

Diễn văn trước buổi họp công khai
của Hội ‘Văn hóa và Tự do’ ở Moscow
30.6.1918


(*) Có nơi viết Maksim Gorkij, hay Maxim Gorky tiếng Anh.

1 NXB Surkamp taschenbuch, 350 trang.

2 Lá thư này được đăng lần đầu tiên trong nguyệt san văn hóa Letopis (Niên giám) tại Petersburg tháng 5, 1917; sau đó được đăng lại trong nhiều tạp chí khác. Các đề tài trong lá thư được Gorki tiếp tục đề cập nhiều lần trong những bài báo của tờ báo Novaja Zizn (Đời Mới) cho đến tháng 7, 1918 khi nó bị cấm.

3 Công trường diễu hành tại St. Petersburg. Ngày 9.1.1905 Gorki chứng kiến công nhân của Petersburg bị vệ binh của Nga hoàng bắn chết thế nào tại Marsfeld (Ngày thứ hai đẫm máu). Ngày 23.3.1917 một buổi lễ mai táng các nạn nhân của cuộc cách mạng tháng Hai được tổ chức mai táng tại Marsfeld. Lễ mai táng biến thành cuộc biểu tình lớn của công nhân Petersburg.

4 Đội quân của người Tatar Chan Mamaj bị quân Nga đánh tan tành trong trận chiến tại Kulikovo năm 1380. Trong tiếng Nga trận đánh này đã trở thành đồng nghĩa với một cuộc chiến đấu hỗn loạn, ác liệt.

5 Krupp là vua sắt thép và chế súng đạn của Đức thế kỷ 19 và 20.