9/5/09

chùm thơ Phạm Phú Hải (1950-2009)

chùm thơ Phạm Phú Hải (1950-2009)


8.05.2009

những bài thơ sẽ còn lại mãi, sau cái chết nhà thơ

Lão già cỡi con ngựa già
Trắng phau lừng lững bay qua ngọn đồi
Ngọn đồi người ngựa cùng trôi
Chao ôi ta thấy cuộc đời cũng mau




Bà già tắm



Bà già đứng tắm dưới trăng
Trăm con rắn nhỏ vùng vằng chui ra
Bà già đứng tắm tháng ba
Chất xuân run rẩy giữa da thịt cằn
Bà già đứng tắm hung hăng
Có hài ông lão râu giăng trên trời
Bà già đứng tắm mím môi
Nhăn nheo hé nửa nụ cười mỉa mai
Bà già tắm suốt đêm dài
Trăng rùng mình gởi tà cài gốc mây
Bà già tắm tới đầu mai
Bình minh sương muối xuống vài thiết tha
Thanh huy gọi hoàng huy ta
Lão bà ơi có tiếng gà lạc thanh.




Soi



Lỡ cầm địa ngục trên tay
Đốt lên làm đuốc soi ngày soi đêm
Soi vô trái đất rất mềm
Soi ra thăm thẳm rất đen rất dày
Soi chỉ tay thấy ăn mày
Soi chỉ chân thấy đống ngai vàng vàng
Soi đầu làng thấy dân làng
Soi giữa đàng thấy con đàng máu tươi
Soi phố thị thấy ngậm ngùi
Lấn nhau chạy đến hết đời biệt tăm
Soi quanh qua chỗ sẽ nằm
Thấy con trùng đã tri âm bao giờ
Soi lui thiên cổ bơ vơ
Soi tương lai thấy mờ mờ hư vô
Tắt đuốc nhắm mắt ngây ngô
Chân này bước lộn vào mồ chân kia.




Thằng câm



Thằng câm nằm mộng giận người
Sáng ra ú ớ mấy lời quàng xiên
Giữa đời chân đảo chân điên
Bước điên bước đảo huyên thuyên một đời.




Vuốt



Đưa tay vuốt mắt tà huy
Vuốt trăm năm vuốt thầm thì tuổi tên
Vuốt cù lao chín chữ đền
Vuốt xanh cúc đục vuốt mềm tử sinh
Vuốt hoài mây trắng lênh đênh
Vuốt trăm tay vuốt ngàn cành xương khô
Vuốt xuôi trời đất hồ đồ
Vuốt tan nghiệp nguyệt vuốt mờ tồn vong.




Vuốt mắt



Con ngồi trong tối rất lâu
Lắng nghe thiên cổ trở đầu bên tai
Mây vàng đều vó về thai
Mẹ cha sẽ lớn bên hai sinh thành
Ngồi đây giọt lệ lăn quanh
Lệ ôi rơi xuống tan tành ta đi
Đưa tay vuốt mắt tà huy
Mây vàng vó sải lạc về phương nao
Cho con rũ rượm tạ chào
Bình minh mây trắng chiêm bao cuối đường
Con ngồi hú khắp mười phương
Hú bà trăng đỏ hú hương khói mờ
Hú hoàng hôn hú tinh mơ
Mòn hơi con ngất giữa bờ tử sinh.




Khóc giữa thai



Khóc một lần rồi thôi không khóc nữa
Khóc trong thai là tiếng của mây trời
Khóc trong thai là một tiếng cả cười
Là tiếng máu rơi trên bờ lộ vắng
Khi những khách du xưa đều mất dạng
Những hài xưa gió nhặt xếp quanh đây
Để chiều chiều mở hai mắt thơ ngây
Nhìn sương khói mà tưởng mình sương khói
Một âm thanh nhập về hai tiếng nói
Biển sóng reo bập bẹ tử và sinh
Trăm con sông máu mãi mãi vô tình
Nguồn thả xuống một dòng xanh lảo đảo
Giữa trùng khơi ta vẫn ngồi cấm khẩu
Lửa tà huy đốt cháy ngọn tà huy
Ta đứng lên rồi thổ não vô tri
Một phiến máu một phiến gì giữa biển.




Đắng ruột



Có những lúc ta thấy buồn đắng ruột
Mộng huyên thuyên nói chuyện với hai tai
Nghe xa xưa một tiếng lá rời ngai
Còn ngoái lại khoảng trời xanh âu yếm
Bởi ta biết bóng rừng kia bịn rịn
Cuống lá xanh bên lá đã ngả vàng
Đi giữa đời ta cười nói mê man
Ai đâu biết giữa giọng cười nghiêng ngả
Đã ngả nghiêng màu máu tự thiên thanh
Nhìn thấy úa vàng một bãi cỏ đang xanh
Và vội vã chạy quanh những chén đầy mật ngọt
Đã đớn đã đau đã xa đã xót
Góp gió đầy cho một trận phôi pha
Góp gió đầy cho một trận phôi pha




Hà hà hà hà hà hà hà hà hà hà hà…



Có bão bùng chi trong sóng nắng
Sao nghe nằng nặng giữa xương lưng
Có phải hư không trong giây phút ngập ngừng
Rơi xuống cả hồn tôi chiều trĩu nặng
Tôi ngửa hết xương ra chờ giờ mê sảng
Thịt da tôi mà ai đã đem đi
Tảng hồn tôi mà triệu vết đã ghi
Năm cung cũ của triều đàn rộn gió
Trăng xưa ơi màu trăng xưa hội ngộ
Lạ lùng sao mà cũng tịch liêu sao
Dương dương hồ nga nga hồ
Âm thanh gói kín ngón tay khô khốc
Đã lỡ nhốt cuồng phong vào đầy óc
Giọt máu tươi quay lộn tới vô cùng
Ai điên cuồng nhấp cạn chén tà huân
Đập vỡ chén rồi ôm đầu khóc chén
Vết thương cũ ngàn năm hằn giữa trán
Bỗng trưa nay mở miệng ra cười




Bông đang búp



Bông sẽ rụng chiều mai hay sáng mốt
Em có răng thì hãy nghiến mà chờ
Quay lưng rồi những ngõ ngách phôi pha
Một nẻo nói miệng môi tôi dò dẫm
Tôi thấy rõ buổi chiều đang đứng ngọng
Đứng trân trân giữa bước trầm trầm
Họa mi buồn dù chỉ một âm câm
Cũng không mở cũng nỡ lòng không mở
Ôi ai biết chỉ cho ta cánh cửa
Mở cho ta ta sẽ cam chịu làm hề
Bụi bặm người bám đục thảo khê, ơi
Nguồn nước khiết vẫn muôn đời bứt rứt
Vô cùng tưởng khối hồn chùng vô cực
Đàn Bá Nha vẫn vọng dưới mồ lên
Hay thanh âm từ bắc đẩu về tìm
Khói và khói muôn xưa hiển hiện
Ôi mặt trời những tia dài quái hiểm
Những sớm mai những khuya tối chiều trưa
Ta vẫn ngồi nghe một triệu giọt mưa
Rơi thứ tự vào tim ta ngớ ngác
Ôi đằng đẵng gió chiêm bao xào xạc
Rừng hồn ta mà bóng tối mọc từ lâu
Vạn vạn âm linh vọng vọng tự đâu đâu
Vạn tiền kiếp lóe lòa giờ lâm tử
Thôi em nhé, có răng thì em cứ
Nghiến cho lâu, em cứ nghiến đi mà
Nghiến cho lâu, em cứ nghiến, em à

THƠ : HOA RỤNG ( LẠC HOA ) - Trần Hồ Dũng

(*) “ Lạc hoa tương dữ hận
Đáo địa nhất vô thanh”
Vi Thừa Khánh
( cánh hoa mang theo lòng mối hận
Rụng xuống đất lặng câm )




HOA RỤNG

Trần Hồ Dũng


Ôi , một đóa hoa vội lìa cành
Giận đời hay giận cả trời xanh
Mang theo vào đất niềm câm lặng
Nổi niềm u uẩn cùng thiên thu
Chiều nay chợt nhớ câu thơ cổ
“ Hoa đã rụng rồi hận vẫn đầy “(*)

Hoa ơi !
Hoa cứ rơi lặng lẽ
Hận chi thế gian này
Ta một đời như cỏ
Buồn khác gì hoa đâu


Lòng ta mộ địa
Hứng cánh hoa rơi

Sầu ta nghiêng ngả
Đón hồn tả tơi

Lòng ta rời rã
Ủ cánh hoa tàn

Nghe trong lá cỏ
Cõi hồn ta say !


Tim ta , nhịp gõ
Tiễn hồn hoa đây !

Tim ta, tiếng mõ

Vàng bay ! vàng bay !

tranhodung .saigon. 1.5.2009 .

THƠ - LỆ HOA - Trần Hồ Dũng

LỆ HOA

Trần Hồ Dũng

Em buồn , rơi nước mắt

Lệ hóa thành nụ hoa

Linh hồn ta bối rối

Chạm phải một đóa sầu


Đóa sầu lên tiếng hát

Lời vút cao thành chim

Linh hồn ta váng vất

Hóa thành áng mây trời


Chim buồn , bay về núi

Mây một đời lang thang

Tìm nơi dòng sông chảy

Bóng chim nào vụt qua


“ Chim chẳng mong lưu dấu

Nước nào giữ bóng đâu” (*)


Mây buồn, rơi nước mắt

Hóa thành hạt mưa sầu

Đọng trên cành lá nọ

Giọt nước mắt hoàng hoa


tranhodung . saigon 30.4.2009


GHI CHÚ :

(*)
NHẠN ẢNH
Nhạn quá trường không
ảnh trầm hàn thủy
Nhạn vô di tích chi ý
Thủy vô lưu ảnh chi tâm

( Thiền sư Hương Hải – Thế kỷ XIII )



Bản dịch của Trần Hồ Dũng :

Ý :
Chim vút qua trời
Bóng chìm sông lạnh
Chim chẳng mong lưu dấu
Nước chẳng muốn giữ bóng


DỊCH THƠ :

BÓNG CHIM

Cánh chim mỏng vút qua trời sương khói

Để bóng mình chìm đáy nước chơ vơ

Chim nào mong lưu dấu trên sông lạnh

Nước chẳng buồn giữ lấy bóng mà chi

THD . SG1995 .

7/5/09

HÓA THÂN

Tiễn ai trời đất hóa vàng

Buồn ai , nến cháy hai hàng áo quan

Người đi , giấc mộng phai tàn

Kiếp người , hạt bụi bên đàng mà thôi

Cát tung , ngựa hí lên rồi

Thôi  người   ở lại , luân hồi ta đi

Còn em về níu xuân thì !

Nhớ nhau , xin gửi đóa Quỳ  khóc  trăng

tranhodung . saigon .30.4.2009

Chùm thơ Phạm Phú Hải

- Tạp chí Da Màu - Văn Chương Không Biên Giới - http://damau.org -

Chùm thơ Phạm Phú Hải

Phạm Phú Hải sinh 1950 tại Điện Ngọc, Điện Bàn, Quảng Nam. Từ 1964 đến nay, đã viết khoảng 1.000 bài thơ. Một phần của số bản thảo này được tập hợp thành 2 tập Gánh nước tưới sông và Thâm lâm ngâm từ thập niên 90 của thế kỷ trước, nhưng chưa xuất bản, vì giữa những người biên tập và tác giả có nhiều điều không hiểu nhau, nhất là về cách dùng từ, nên tác giả không đồng ý.

Phạm Phú Hải bị bệnh tâm thần phân liệt từ năm 1972, lúc tỉnh lúc mê. Mới đây hôm 19/4/2009, anh phải nhập viện vì bị tai biến.

Sáng nay, Ban Biên Tập Da Màu chúng tôi rất bàng hoàng nhận tin anh đã qua đời lúc 1h45-50, ngày 6-5-2009 tại nhà riêng, thành phố Đà Nẵng.

Để tưởng niệm nhà thơ, chúng tôi sẽ đăng trong hai ngày một số thơ trích từ tập bản thảo Thâm lâm ngâm (1994) theo sự đồng ý của gia đình và người đại diện, là nhà thơ – nhà thư pháp Hồ Công Khanh (hiện sống tại Đà Nẵng). Chúng tôi cũng được biết Nxb Giấy Vụn đang gấp rút xin bản quyền, tuyển lựa tác phẩm và huy động kinh phí để xuất bản tuyển thơ Phạm Phú Hải trong thời gian sắp tới.

Hôm nay, ở đây, mời bạn đọc đến với những dòng thơ đau đớn mê loạn của Phạm Phú Hải — khi nhà thơ nói về cõi thế với cái nhìn thấu triệt của kẻ điên, khi nhà thơ ca hát cho cái chết của người khác, cũng là ai điếu cái chết của chính mình.



pham-phu-hai







81.

Nắm xương thi sỹ tan rồi
Ngõ nào tung khỏi luân hồi thì tung
Nắm xương thi sỹ tan rồi
Ngõ nào ra khỏi luân hồi thì ra




82.

Trên trời có ông Giáng già
Bay và không chết không già không đau
Không xanh không ngủ không sầu
Như hoa vãng của một màu đó em




83.

Nghe tin anh chết bàng hoàng
Ngoài này tôi vẫn niết bàn từng đêm
Tại sao anh lại ngủ quên
Ngoài này tôi chẳng ngủ quên đêm nào




84.

Sáng mai thức dậy hỏi lòng
Bình minh tan giữa cánh đồng chiều nay
Hoàng hôn tan giữa nắng mai
Năm xưa tan giữa nắng dài là ta




85.

Anh về chén nước lại tràn
Mùa hoa lại thắm chim ngàn lại reo
Bình minh lại mọc trên đèo
Suối rừng lại réo rắt và ngày lên
Anh về chén nước đã vơi
Mùa hoa đã hết chim trời đã im
Hoàng hôn đã xuống im lìm
Suối rừng ngưng chảy chiêm bao đề từ




86.

Lão già cỡi con ngựa già
Trắng phau lừng lững bay qua ngọn đồi
Ngọn đồi người ngựa cùng trôi
Chao ôi ta thấy cuộc đời cũng mau

1972






Tiếng gà thơm xương trắng



Gió đi trên những nóc nhà
Hồn đi trên những tiếng gà đầu đêm
Chợt nghe xương cứng trở mềm
Từng hồi chuông rộ đổ rền dưới da
Gió về xa gió về xa
Thanh âm lẻ biệt tiếng gà vút cao
Lá tranh mái thấp xạc xào
Hồn rào rạt mộng đêm rào rạt hương
Xương nằm máy động bên xương
Hỏi thầm nhau một cõi thường ở đâu.



Trăm ông đầu bạc



Tặng em trai

Cuộc đời rồi cũng sẽ qua
Một mai rồi cũng sẽ già như nhau
Tưởng ngày tóc bạc phau phau
Tay gậy tay rượu tay râu khà khà
Trên đầu mây trắng bay qua
Dưới mây đầu trắng phất phơ níu chào
Em ơi, nhớ mới hôm nào
Mẹ ôm em nhẹ cắn vào tóc non
Tóc non bao giờ cũng thơm
Hai con mắt nhỏ mở tròn thơ ngây
Em ơi, mây trắng bay hoài
Khi chưa em đã đi đầy không gian
Đàn đàn mây trắng đàn đàn
Trăm ông đầu bạc hàng hàng nắm tay
Thênh thang chầm chậm ngày ngày
Mênh mang chầm chậm đầy đầy mênh mang
Miên man lồng lộng miên man
Lòng thanh thản bước bước tràn hư không.



Nấm râu



Sớm mai cạo nửa hàm râu
Để dành bớt nửa khi rầu nhổ chơi
Cuộc vui túy lộng bời bời
Nhào lui lộn tới một đời sẽ qua
Râu ơi rồi sẽ bỏ ta
Đi về đâu những xế tà trắng mây
Xanh chưa kịp độ thơ ngây
Cái nhăn nheo đến đứng đầy bốn bên
Mai ngày mộ địa nằm im
Râu ra rậm nấm rung rinh gió chiều.



Sầu như địa mộ



Chiều chiều ra mộ buông câu
Cá bơi xương trắng chiều sầu như bia
Hàng hàng ngang dọc phân chia
Óc diêm vương chảy dưới kia lạnh lùng.




© 2008 damau.org - Damau Literary Portal. All rights reserved.

5/5/09

Declaration of Independence of USA

The Declaration of Independence: A Transcription

IN CONGRESS, July 4, 1776.

The unanimous Declaration of the thirteen united States of America,

When in the Course of human events, it becomes necessary for one people to dissolve the political bands which have connected them with another, and to assume among the powers of the earth, the separate and equal station to which the Laws of Nature and of Nature's God entitle them, a decent respect to the opinions of mankind requires that they should declare the causes which impel them to the separation.

We hold these truths to be self-evident, that all men are created equal, that they are endowed by their Creator with certain unalienable Rights, that among these are Life, Liberty and the pursuit of Happiness.--That to secure these rights, Governments are instituted among Men, deriving their just powers from the consent of the governed, --That whenever any Form of Government becomes destructive of these ends, it is the Right of the People to alter or to abolish it, and to institute new Government, laying its foundation on such principles and organizing its powers in such form, as to them shall seem most likely to effect their Safety and Happiness. Prudence, indeed, will dictate that Governments long established should not be changed for light and transient causes; and accordingly all experience hath shewn, that mankind are more disposed to suffer, while evils are sufferable, than to right themselves by abolishing the forms to which they are accustomed. But when a long train of abuses and usurpations, pursuing invariably the same Object evinces a design to reduce them under absolute Despotism, it is their right, it is their duty, to throw off such Government, and to provide new Guards for their future security.--Such has been the patient sufferance of these Colonies; and such is now the necessity which constrains them to alter their former Systems of Government. The history of the present King of Great Britain is a history of repeated injuries and usurpations, all having in direct object the establishment of an absolute Tyranny over these States. To prove this, let Facts be submitted to a candid world.

He has refused his Assent to Laws, the most wholesome and necessary for the public good.
He has forbidden his Governors to pass Laws of immediate and pressing importance, unless suspended in their operation till his Assent should be obtained; and when so suspended, he has utterly neglected to attend to them.
He has refused to pass other Laws for the accommodation of large districts of people, unless those people would relinquish the right of Representation in the Legislature, a right inestimable to them and formidable to tyrants only.
He has called together legislative bodies at places unusual, uncomfortable, and distant from the depository of their public Records, for the sole purpose of fatiguing them into compliance with his measures.
He has dissolved Representative Houses repeatedly, for opposing with manly firmness his invasions on the rights of the people.
He has refused for a long time, after such dissolutions, to cause others to be elected; whereby the Legislative powers, incapable of Annihilation, have returned to the People at large for their exercise; the State remaining in the mean time exposed to all the dangers of invasion from without, and convulsions within.
He has endeavoured to prevent the population of these States; for that purpose obstructing the Laws for Naturalization of Foreigners; refusing to pass others to encourage their migrations hither, and raising the conditions of new Appropriations of Lands.
He has obstructed the Administration of Justice, by refusing his Assent to Laws for establishing Judiciary powers.
He has made Judges dependent on his Will alone, for the tenure of their offices, and the amount and payment of their salaries.
He has erected a multitude of New Offices, and sent hither swarms of Officers to harrass our people, and eat out their substance.
He has kept among us, in times of peace, Standing Armies without the Consent of our legislatures.
He has affected to render the Military independent of and superior to the Civil power.
He has combined with others to subject us to a jurisdiction foreign to our constitution, and unacknowledged by our laws; giving his Assent to their Acts of pretended Legislation:
For Quartering large bodies of armed troops among us:
For protecting them, by a mock Trial, from punishment for any Murders which they should commit on the Inhabitants of these States:
For cutting off our Trade with all parts of the world:
For imposing Taxes on us without our Consent:
For depriving us in many cases, of the benefits of Trial by Jury:
For transporting us beyond Seas to be tried for pretended offences
For abolishing the free System of English Laws in a neighbouring Province, establishing therein an Arbitrary government, and enlarging its Boundaries so as to render it at once an example and fit instrument for introducing the same absolute rule into these Colonies:
For taking away our Charters, abolishing our most valuable Laws, and altering fundamentally the Forms of our Governments:
For suspending our own Legislatures, and declaring themselves invested with power to legislate for us in all cases whatsoever.
He has abdicated Government here, by declaring us out of his Protection and waging War against us.
He has plundered our seas, ravaged our Coasts, burnt our towns, and destroyed the lives of our people.
He is at this time transporting large Armies of foreign Mercenaries to compleat the works of death, desolation and tyranny, already begun with circumstances of Cruelty & perfidy scarcely paralleled in the most barbarous ages, and totally unworthy the Head of a civilized nation.
He has constrained our fellow Citizens taken Captive on the high Seas to bear Arms against their Country, to become the executioners of their friends and Brethren, or to fall themselves by their Hands.
He has excited domestic insurrections amongst us, and has endeavoured to bring on the inhabitants of our frontiers, the merciless Indian Savages, whose known rule of warfare, is an undistinguished destruction of all ages, sexes and conditions.

In every stage of these Oppressions We have Petitioned for Redress in the most humble terms: Our repeated Petitions have been answered only by repeated injury. A Prince whose character is thus marked by every act which may define a Tyrant, is unfit to be the ruler of a free people.

Nor have We been wanting in attentions to our Brittish brethren. We have warned them from time to time of attempts by their legislature to extend an unwarrantable jurisdiction over us. We have reminded them of the circumstances of our emigration and settlement here. We have appealed to their native justice and magnanimity, and we have conjured them by the ties of our common kindred to disavow these usurpations, which, would inevitably interrupt our connections and correspondence. They too have been deaf to the voice of justice and of consanguinity. We must, therefore, acquiesce in the necessity, which denounces our Separation, and hold them, as we hold the rest of mankind, Enemies in War, in Peace Friends.

We, therefore, the Representatives of the united States of America, in General Congress, Assembled, appealing to the Supreme Judge of the world for the rectitude of our intentions, do, in the Name, and by Authority of the good People of these Colonies, solemnly publish and declare, That these United Colonies are, and of Right ought to be Free and Independent States; that they are Absolved from all Allegiance to the British Crown, and that all political connection between them and the State of Great Britain, is and ought to be totally dissolved; and that as Free and Independent States, they have full Power to levy War, conclude Peace, contract Alliances, establish Commerce, and to do all other Acts and Things which Independent States may of right do. And for the support of this Declaration, with a firm reliance on the protection of divine Providence, we mutually pledge to each other our Lives, our Fortunes and our sacred Honor.

The 56 signatures on the Declaration appear in the positions indicated:

Column 1
Georgia:
Button Gwinnett
Lyman Hall
George Walton

Column 2
North Carolina:
William Hooper
Joseph Hewes
John Penn
South Carolina:
Edward Rutledge
Thomas Heyward, Jr.
Thomas Lynch, Jr.
Arthur Middleton

Column 3
Massachusetts:
John Hancock
Maryland:
Samuel Chase
William Paca
Thomas Stone
Charles Carroll of Carrollton
Virginia:
George Wythe
Richard Henry Lee
Thomas Jefferson
Benjamin Harrison
Thomas Nelson, Jr.
Francis Lightfoot Lee
Carter Braxton

Column 4
Pennsylvania:
Robert Morris
Benjamin Rush
Benjamin Franklin
John Morton
George Clymer
James Smith
George Taylor
James Wilson
George Ross
Delaware:
Caesar Rodney
George Read
Thomas McKean

Column 5
New York:
William Floyd
Philip Livingston
Francis Lewis
Lewis Morris
New Jersey:
Richard Stockton
John Witherspoon
Francis Hopkinson
John Hart
Abraham Clark

Column 6
New Hampshire:
Josiah Bartlett
William Whipple
Massachusetts:
Samuel Adams
John Adams
Robert Treat Paine
Elbridge Gerry
Rhode Island:
Stephen Hopkins
William Ellery
Connecticut:
Roger Sherman
Samuel Huntington
William Williams
Oliver Wolcott
New Hampshire:
Matthew Thornton