23/6/09

90 bài thơ Đường do Tản Đà dịch [2]

90 bài thơ Đường do Tản Đà dịch [2]


TẢN ĐÀ NGUYỄN KHẮC HlẾU (1889-1939)



BẠCH CƯ DỊ 白 居 易 (772-846)

42. Sơn hạ túc 山 下 宿

獨 到 山 下 宿

Độc đáo sơn hạ túc.

靜 向 月 中 行

Tĩnh hướng nguyệt trung hành.

何 處 水 邊 碓

Hà xứ thủy biên đối,

夜 舂 雲 母 聲

Dạ thung vân mẫu thanh.



Ngủ trong núi

Một mình tới ngủ non xanh,

Lặng êm dưới bóng trăng thanh bước nhìn.

Suối đâu? Cối nước liền bên,

Chày đâm vân mẫu kìn kìn tiếng đêm.



43. Trì thượng 池 上

小 娃 撐 小 艇

Tiểu oa sanh tiểu đĩnh,

偷 採 白 蓮 迴

Thâu thái bạch liên hồi,

不 解 藏 蹤 跡

Bất giải tàng tung tích,

浮 萍 一 道 開

Phù bình nhất đạo khai.

Trên ao

Người xinh bơi chiếc thúng xinh,

Bông sen trắng nõn trắng tinh thó về.

Hớ hênh dấu vết không che,

Trên ao để một luồng chia mặt bèo.

Ngày Nay, số 82 (24-10-1937)



44. Chu trung vũ dạ 舟 中 雨 夜

江 雲 闇 悠 悠

Giang vân ám du du,

江 風 冷 修 修

Giang phong lãnh tu tu,

夜 雨 滴 船 背

Dạ vũ trích thuyền bối,

夜 浪 打 船 頭

Dạ lãng đả thuyền đầu.

船 中 有 病 客

Thuyền trung hữu bệnh khách.

左 降 向 江 川

Tả giáng hướng Giang Châu.



Trong thuyền đêm mưa

Mây sông kéo tới đùn đùn,

Gió sông thổi lạnh ghê hồn khách sông

Mưa đêm rỏ xuống mui bồng,

Sóng đêm dồn vỗ long bong mũi thuyền.

Trong thuyền có bác ốm rên,

Giáng quan thẳng lối ra miền Giang Châu.

Ngày Nay, số 107 (24-4-1938)



45. Hữu nhân dạ phỏng 友人夜訪

簷 間 清 風 簟

Thiềm gian thanh phong điệm.

松 下 明 月 盃

Tùng hạ minh nguyệt bôi.

幽 意 正 如 此

U ý chính như thử.

況 乃 故 人 來

Huống nãi cố nhân lai.



Người bạn đến thăm đêm

Thềm cao gió mát chiếu đan,

Chén soi bóng nguyệt bàng hoàng dưới thông.

Lòng riêng đương thú với lòng.

Lại đâu người cũ lạ lùng đến thăm.



46. Dạ vũ 夜 雨



早 蛩 啼 復 歇

Tảo cung đề phục yết.

殘 燈 滅 又 明

Tàn đăng diệt hựu minh.

隔 窗 知 夜 雨

Cách song tri dạ vũ.

芭 蕉 先 有 聲

Ba tiêu tiên hữu thanh.



Mưa đêm

Dế giun rên mỏi lại ngừng,

Đèn tàn muốn tắt lại bừng sáng ra.

Cách song, đêm biết mưa sa,

Tiếng nghe lộp bộp chăng là tàu tiêu.

Ngày Nay, số 130 (1-10-1938)



47. Thu trùng 秋 蟲

切 切 闇 窗 下

Thiết thiết ám song hạ,

喓 喓 深 草 裏

Yêu yêu thâm thảo lý.

秋 天 思 婦 心

Thu thiên tư phụ tâm,

雨 夜 愁 人 耳

Vũ dạ sầu nhân nhĩ.



Trùng mùa thu

Tiếng đâu dưới vách kêu ran?

Lại trong đám cỏ nghe càng nỉ con.

Trơi thu gái nhớ chồng son,

Mưa dầm đêm vắng, ai buồn lắng tai.

Ngày Nay, số 124 (21-8-1938)



48. Vấn Hoài Thủy 問 淮 水

自 嗟 名 利 客

Tự ta danh lợi khách,

擾 擾 在 人 間

Nhiễu nhiễu tại nhân gian.

何 事 長 淮 水

Hà sự trường Hoài thủy,

東 流 亦 不 閒

Đông lưu diệc bất nhàn?



Hỏi nước sông Hoài

Trong vòng danh lợi thương ta,

Cái thân nhăng nhít cho qua với đời.

Việc chi, hỡi nước sông Hoài?

Cũng không thong thả, miệt mài về đông?

Ngày Nay, số 92 (2-1-1938)



49. Tảo thu độc dạ 早 秋 獨 夜

井 梧 涼 葉 動

Tỉnh ngô lương diệp động,

鄰 杵 秋 聲 發

Lân chử thu thanh phát.

獨 向 簷 下 眠

Độc hướng thiềm hạ miên.

覺 來 半 床 月

Giác lai bán sàng nguyệt.



Mùa thu sớm, đêm một mình

Giếng vàng lay động lá ngô,

Mỏ chày hàng xóm tiếng thu đã truyền...

Một mình ngủ dưới mái hiên,

Tỉnh ra trăng sáng một bên giường nằm.

Ngày Nay, số 126 (2-9-1938)



50. Thu mộ giao cư thư hoài 秋 暮 郊 居 書 懷

郊 居 人 事 少

Giao cư nhân sự thiểu,

晝 臥 對 林 巒

Trú ngọa đối lâm man.

窮 巷 厭 多 雨

Cùng hạng yếm đa vũ,

貧 家 愁 早 寒

Bần gia sầu tảo hàn.

葛 衣 秋 未 換

Cát y thu vị hoán,

書 卷 病 仍 看

Thư quyển bịnh nhưng khan.

若 問 生 涯 計

Nhược vấn sinh nhai kế,

前 溪 一 釣 竿

Tiền khê nhất điếu can.



Cuối thu, cảnh ở quê

Ở quê, thưa ít việc người,

Giữa trưa nằm khểnh, ngắm coi núi đèo.

Ngõ sâu ngán nỗi mưa nhiều,

Lạnh lùng chi sớm, cảnh nghèo thêm lo.

Áo lương còn mặc mùa thu,

Ốm đau, sách vẫn đôi pho chẳng rời.

Lấy chi qua sống ngày trời?

Một cần câu để bên ngòi ngồi câu.

Ngày Nay, số 135 (5-11-1938)



51. Thu giang tống khách 秋 江 送 客

秋 鴻 次 第 過

Thu hồng thứ đệ quá,

哀 猿 朝 夕 聞

Ai viên triêu tịch văn.

是 日 孤 舟 客

Thị nhật cô chu khách,

此 地 亦 離 群

Thử địa diệc ly quần.

濛 濛 潤 衣 雨

Mông mông nhuận y vũ,

漠 漠 冒 帆 雲

Mạc mạc mạo phàm vân,

不 醉 潯 陽 酒

Bất túy Tầm Dương tửu,

煙 波 愁 殺 人

Yên ba sầu sát nhân.



Sông thu tiễn khách

Nhàn thu lần lượt bay qua,

Thảm thương tiếng vượn hôm đà lại mai.

Ngày nay một chiếc thuyền ai,

Nước non này cũng chia phôi cách đàn.

Mưa đầm vạt áo như chan,

Buồm đi, man mác mây ngàn đón ngang.

Chẳng say chén rượu Tầm Dương,

Khỏi sao sóng, khói sầu thương chết người.

Ngày Nay, số 129 (24-9-1938)



52. Thảo 草

離 離 原 上 草

Ly ly nguyên thượng thảo,

一 歲 一 枯 榮

Nhất tuế nhất khô vinh,

野 火 燒 不 盡

Dã hỏa thiêu bất tận,

春 風 吹 又 生

Xuân phong xuy hựu sinh.

遠 芳 侵 古 道

Viễn phương xâm cổ đạo,

晴 翠 接 荒 城

Tình thúy tiếp hoang thành

又 送 王 孫 去

Hựu tống Vương tôn khứ

萋 萋 滿 別 情

Thê thê mãn biệt tình.



Cỏ

Đồng cao cỏ mọc như chen,

Khô tươi thay đổi hai phen năm tròn.

Lửa đồng thiêu cháy vẫn còn,

Gió xuân thổi tới mầm non lại trồi.

Xa xa thơm ngát dặm dài,

Thành hoang láng biếc khi trời tạnh mưa.

Vương, Tôn đi lại tiễn đưa,

Biết bao tình biệt đầm đìa lướt theo.

Ngày Nay, số 86 (21-11-1937)



53. Họa Đỗ lục sự đề hồng diệp 和 杜 錄 事 題 紅 葉

寒 山 十 月 旦

Hàn sơn thập nguyệt đán,

霜 葉 一 時 新

Sương diệp nhất thời tân.

似 燒 非 因 火

Tự thiêu phi nhân hỏa,

如 花 不 待 春

Như hoa bất đãi xuân.

連 行 排 降 葉

Liên hàng bài giáng diệp,

亂 落 剪 紅 巾

Loạn lạc tiễn hồng cân.

解 駐 籃 轝 看

Giải trụ lam dư khán,

風 前 唯 兩 人

Phong tiền duy lưỡng nhân.



Họa thơ ông Lục sự họ Đỗ vịnh lá đỏ

Lạnh lùng buổi sáng tháng mười,

Lá sương phơi núi cùng thời mới sao!

Như thiêu chẳng lửa mà thiêu,

Như hoa chẳng đợi xuân nào mới hoa.

Liền hàng, màn tía bày ra,

Rơi tung, xếp nếp khăn là đỏ ghê!

Muốn xem, dừng xuống kiệu tre,

Đứng chơi ngọn gió chỉ ta hai người.

Ngày Nay, số 139 (XII–1938)



54. Ký Vi Chi 寄 微 之

江 州 望 通 州

Giang Châu vọng Thông Châu,

天 涯 與 地 末

Thiên nhai dữ địa mạt.

有 山 萬 丈 高

Hữu sơn vạn trượng cao,

有 江 千 里 闊

Hữu giang thiên lý khoát.

間 之 以 雲 霧

Gián chi dĩ vân vụ,

飛 鳥 不 可 越

Phi điểu bất khả việt.

誰 知 千 古 險

Thùy tri thiên cổ hiểm,

為 我 二 人 設

Vị ngã nhị nhân thiết.

通 州 君 初 到

Thông Châu quân sơ đáo,

鬱 鬱 愁 如 結

Uất uất sầu như kết.

江 州 我 方 去

Giang châu ngã phương khứ,

迢 迢 行 未 歇

Thiều thiều hành vị yết.

道 路 日 乖 隔

Đạo lộ nhật quai cách.

音 信 日 斷 絕

Âm tín nhật đoạn tuyệt.

因 風 欲 寄 語

Nhân phong dục ký ngữ,

地 遠 聲 不 徹

Địa viễn thanh bất triệt.

生 當 復 相 逢

Sinh đương phục tương phùng.

死 當 從 此 別

Tử đương tòng thử biệt!



Gửi bạn Vi Chi

Châu Giang mà ngóng Châu Thông,

Chân trời cuối đất mênh mông thấy nào?

Núi đâu muôn trượng kìa cao,

Sông đâu ngàn dặm rộng sao rộng mà!

Mây che mù tỏa bao la,

Chim bay cũng chẳng vượt qua khỏi tầm.

Hiểm xưa còn đó ngàn năm,

Ai hay trời để chơi khăm đôi người.

Châu Thông bác mới tới nơi,

Mối sầu như thắt ngậm ngùi chiếc thân.

Châu Giang tôi mới đi dần,

Nẻo đi xa lắc chưa phần đã ngơi.

Quan hà ngày một chia khơi,

Tăm hơi ngày bẵng tăm hơi một ngày.

Gió đưa muốn gửi câu này,

Tiếng không suốt đến vì mày đất xa.

Sống còn gặp gỡ đôi ta,

Ví chăng chết mất thôi là biệt nhau.



55. Dĩ kính tặng biệt 以 鏡 贈 別

人 言 似 明 月

Nhân ngôn tự minh nguyệt,

我 道 勝 明 月

Ngã đạo thắng minh nguyệt.

明 月 非 不 明

Minh nguyệt phi bất minh,

一 年 十 二 缺

Nhất niên thập nhị khuyết.

豈 如 玉 匣 裡

Khởi như ngọc hạp lý,

如 水 常 澄 澈

Như thủy thường trừng triệt,

月 破 天 闇 時

Nguyệt phá thiên ám thời,

圓 明 獨 不 歇

Viên minh độc bất yết.

我 慚 貌 醜 老

Ngã tâm mạo xú lão,

繞 鬢 班 班 雪

Nhiễu mấn ban ban tuyết,

不 如 贈 少 年

Bất như tặng thiếu niên,

迴 照 青 絲 髮

Hồi chiếu thanh ty phát,

因 君 千 里 去

Nhân quân thiên lý khứ,

持 此 將 為 別

Trì thử tương vi biệt.



Lấy gương làm quà tặng biệt

Ai rằng: gương sáng như trăng,

Ta rằng: trăng sáng chưa bằng gương soi.

Trăng kia thật sáng vẹn mười,

Một năm lại khuyết mười hai bận đầy.

Sao bằng trong hộp ngọc này,

Trong như nước đứng ngày ngày năm năm.

Nào khi trăng khuyết trời âm.

Gương đầy tròn sáng như rằm trăng soi.

Buồn ta già xấu hơn người,

Đốm quanh mái tóc bời bời tuyết in.

Chẳng bằng cho bạn thanh niên,

Để soi tóc trẻ xanh rền sợi tơ.

Anh nay nghìn dặm đi xa,

Cầm gương ta để làm quà tiễn nhau.

Ngày Nay, số 114 (12.6.1938)



56. Tự Giang Lăng chi Từ Châu lộ thượng ký huynh đệ

自 江 陵 之 徐 州 路 上 寄 兄 弟

岐 路 南 將 北

Kỳ lộ nam tương bắc,

離 憂 弟 與 兄

Ly ưu đệ dữ huynh.

關 河 千 里 別

Quan hà thiên lý biệt,

風 雪 一 身 行

Phong tuyết nhất thân hành.

夕 宿 勞 鄉 夢

Tịch túc lao hương mộng,

晨 裝 慘 旅 情

Thần trang thảm lữ tình.

家 貧 憂 後 事

Gia bần ưu hậu sự,

日 短 念 前 程

Nhật đoản niệm tiền trình.

煙 雁 翻 寒 渚

Yên nhạn phiên hàn chử,

霜 烏 聚 古 城

Sương ô tụ cổ thành.

誰 憐 陟 岡 者

Thùy liên trắc cương giả,

西 楚 望 南 荊

Tây Sở vọng Nam Kinh.



Từ Giang Lăng đi Từ Châu
trên đường gửi cho anh em

Đường kia sắp bắc từ nam,

Mối lo ly biệt anh em cùng sầu.

Quan hà ngàn dặm xa nhau,

Người đi gió tuyết dãi dầu một thân.

Hồn quê nhọc giấc đêm xuân,

Sắm sanh hành lý tần ngần sớm mai.

Nhà nghèo lo tính xa xôi,

Đường xa nghĩ nỗi ngày trời ngắn không.

Nhạn sa bến lạnh khói lồng

Thành xưa lũ quạ họp trong sương mờ.

Ai thương kẻ bước lên gò?

Sở Tây trông ngóng bây giờ Kinh Nam.

Ngày Nay, số 101 (13.3.1938)



57. Tùng thanh 松 聲

月 好 好 獨 坐

Nguyệt hảo, hảo độc tọa,

雙 松 在 前 軒

Song tùng tại tiền hiên.

西 南 微 風 來

Tây nam vi phong lai,

潛 入 枝 葉 間

Tiềm nhập chi diệp gian,

蕭 寥 發 為 聲

Tiêu liêu phát vi thanh,

半 夜 明 月 前

Bán dạ minh nguyệt tiền,

寒 山 颯 颯 雨

Hàn sơn táp táp vũ

秋 琴 冷 冷 絃

Thu cầm lãnh lãnh huyền.

一 聞 滌 炎 暑

Nhất văn địch viêm thử,

再 聽 破 昏 煩

Tái thính phá hôn phiền.

竟 夕 遂 不 寐

Cánh tịch toại bất mị,

心 體 俱 翛 然

Tâm thể câu diểu nhiên.

南 陌 車 馬 動

Nam mạch xa mã động,

西 鄰 歌 吹 繁

Tây lân ca xúy phồn,

誰 知 茲 簷 下

Thùy tri tư thiềm hạ,

滿 耳 不 為 喧

Mãn nhĩ bất vi huyên.



Tiếng thông reo

Trăng trong ngồi mát một mình,

Hai cây thông đứng hữu tình trước hiên

Nhẹ nhàng cơn gió đưa lên,

Luồn cành lá, đến tự miền tây nam.

Bóng trăng sáng nửa chừng đêm,

Lào rào nghe tiếng gió làm tuôn đưa.

Ào ào núi rét sa mưa,

Đờn cầm thu nảy dây tơ lạnh lùng.

Một nghe, rửa sạch cơn nồng,

Hai nghe bức bối trong lòng phá tan.

Thâu đêm thức mãi bàn hoàn,

Dạ khoan khoái dạ, mình khoan khoái mình.

Đường nam xe ngựa rình rình,

Xóm tây tiếng hát, tiếng sênh rộn ràng.

Ai hay này chỗ hành lang,

Đầy tai nghe vẫn êm thường như không

Ngày Nay, số 127 (11.9.1938)



58. Thu san 秋 山

久 病 曠 心 賞

Cửu bệnh khoáng tâm thưởng.

今 朝 一 登 山

Kim triêu nhất đăng san.

山 秋 雲 物 冷

San thu vân vật lãnh,

稱 我 清 羸 顏

Xứng ngã thanh luy nhan.

百 石 臥 可 枕

Bạch thạch ngọa khả trẩm,

青 蘿 行 可 攀

Thanh la hành khả phan.

意 中 如 有 得

Ý trung như hữu đắc,

盡 日 不 欲 還

Tận nhật bất dục hoàn.

人 生 無 幾 何

Nhân sinh vô kỷ hà,

如 寄 天 地 間

Như ký thiên địa gian.

心 有 千 載 憂

Tâm hữu thiên tải ưu,

身 無 一 日 閑

Thân vô nhất nhật nhàn.

何 時 解 塵 網

Hà thời giải trần võng,

此 地 來 掩 關

Thử địa lai yểm quan.



Núi mùa thu

Ốm lâu, nằm mãi buồn sao!

Sáng nay ta mới lên cao hỡi lòng.

Màu thu, mây núi lạnh lùng.

Thanh hao nét mặt, ưa cùng ta đây.

Nằm gối đá, đi vin dây,

Dây xanh đá trắng đẹp thay cảnh tình!

Thú vui trong dạ một mình,

Thâu ngày quên tưởng cái hình về đâu.

Người ta sống có bao lâu,

Ở trong trời đất cùng nhau tạm thời.

Mối lo mang lấy nghìn đời,

Một ngày chẳng được hơi rồi tấm thân.

Bao giờ giũ sạch lụy trần?

Lại đây đóng cửa vui phần núi non.

Ngày Nay, số 126 (4.9.1938)



59. Vọng giang lâu thượng tác
望 江 樓 上 作

江 畔 百 尺 樓

Giang bạn bách xích lâu,

樓 前 千 里 道

Lâu tiền thiên lý đạo.

憑 高 望 平 遠

Bằng cao vọng bình viễn,

亦 足 舒 懷 抱

Diệc túc thư hoài bão.

驛 路 使 憧 憧

Dịch lộ sứ đồng đồng.

關 防 兵 草 草

Quan phòng binh thảo thảo.

及 茲 多 事 日

Cập tư đa sự nhật,

猶 覺 閒 人 好

Do giác nhàn nhân hảo.

我 年 過 不 惑

Ngã niên quá bất hoặc,

休 退 誠 非 早

Hưu thoái thành phi tảo.

從 此 拂 塵 衣

Tòng thử phất trần y.

歸 山 未 為 老

Qui sơn vị vi lão.



Trên lầu trông ra sông

Bờ sông trăm thước lầu cao,

Trước lầu nghìn dặm đi đâu con đường?

Tựa cao trông xuống dặm trường,

Mà trong bụng nghĩ như nhường khoan thư.

Đường quan rộn kẻ đưa thư,

Quân gia láo nháo ngẩn ngơ canh phòng.

Cuộc đời gặp lúc rối tung,

Riêng ai ở cảnh thong dong càng mầu.

Đã hơn bốn chục tuổi đầu,

Từ nay về nghỉ ngõ hầu phải thôi.

Từ nay giũ áo trần ai.

Non xanh tình thú vui chơi chửa già...



60. Tặng nội 贈 內

生 為 同 室 親

Sinh vi đồng thất thân,

死 為 同 穴 塵

Tử vi đồng huyệt trần.

他 人 尚 相 勉

Tha nhân thượng tương miễn,

而 況 我 與 君

Nhi huống ngã dữ quân.

黔 婁 固 窮 士

Kiềm Lâu cố cuồng sĩ,

妻 賢 忘 其 貧

Thê hiền vong kỳ bần.

冀 缺 一 農 夫

Ký Khuyết nhất nông phu,

妻 敬 儼 如 賓

Thê kính nghiễm như tân.

陶 潛 不 營 生

Đào Tiềm bất doanh sinh,

翟 氏 自 爨 薪

Địch thị tự thoán tân.

梁 鴻 不 旨 仕

Lương Hồng bất khẳng sĩ,

孟 光 甘 布 裙

Mạnh Quang cam bố quần.

君 雖 不 讀 書

Quân tuy bất độc thư,

此 事 耳 亦 聞

Thử sự nhĩ diệc văn.

至 此 千 載 後

Chí thử thiên tải hậu,

傳 是 何 如 人

Truyền thị hà như nhân?

人 生 未 死 間

Nhân sinh vị tử gian.

不 能 忘 其 身

Bất năng vong kỳ thân.

所 須 者 衣 食

Sở tu giả y thực,

不 過 飽 與 溫

Bất quá bão dữ ôn.

蔬 食 足 充 飢

Sơ tự túc sung cơ,

何 必 膏 梁 珍

Hà tất cao lương trân?

繒 絮 足 禦 寒

Tăng nhứ túc ngự hàn,

何 必 錦 繡 文

Hà tất cẩm tú văn?

君 家 有 貽 訓

Quân gia hữu di huấn,

清 白 遺 子 孫

Thanh bạch di tử tôn.

我 亦 貞 苦 士

Ngã diệc trinh khổ sĩ,

與 君 新 結 婚

Dữ quân tân kết hôn.

庶 保 貧 與 素

Thứ bảo bần dữ tố,

偕 老 同 欣 欣

Giai lão đồng hân hân.



Thơ đưa vợ

Tình lúc sống một nhà cùng ở,

Chết ra tro, một hố cùng chung.

Khuyên nhau thiên hạ cũng cùng.

Nữa chi mình vợ, ta chồng cùng nhau?

Kìa như gã Kiềm Lâu cùng sĩ,

Cảnh nhà nghèo vợ nghĩ như không.

Nông phu Ký Khuyết cày đồng,

Vợ chàng quý trọng coi chồng khách sang.

Đào Tiềm chẳng lòng toan sinh lý,

Củi nấu ăn, Địch thị kiếm dần.

Lương Hồng quan chẳng chịu mần,

Mạnh Quang chỉ vải may quần cũng ưa,

Mình dẫu đọc sách xưa không mấy,

Các truyện kia hẳn thấy quen tai.

Nghìn năm còn lại ở đời,

Đến nay cùng nói là người như sao?

Người chưa chết lúc nào còn sống,

Chẳng ai mà quên bỗng được thân,

Cái ăn cái mặc là cần.

Cũng sao no ấm qua lần là xong.

Cơm rau đủ no lòng lúc đói.

Có cần chi thức tối cao lương,

Lụa the, rét đủ mặc thường,

Cần chi áo gấm xông hương vẽ vời?

Nhà mình có để đời câu dạy:

Lấy “sạch trong” cho lại cháu con.

Ta đây cũng một lòng son.

Cùng nàng buổi mới vuông tròn thất gia,

Giữ sao nghèo sạch nếp nhà,

Cùng nhau cho đến tuổi già cùng vui.

Ngày Nay, số 108 (1.5.1938)



61. Khinh phì 輕 肥

意 氣 驕 滿 路

Ý khí kiêu mãn lộ,

鞍 馬 光 照 塵

Yên mã quang chiếu trần

借 問 何 為 者

Tá vấn hà vi giả,

人 稱 是 內 臣

Nhân xưng thị nội thần.

朱 紱 皆 大 夫

Chu phất giai đại phu

紫 綬 或 將 軍

Tử thụ hoặc tương quân

誇 赴 軍 中 宴

Khoa phó quân trung yến.

走 馬 去 如 雲

Tẩu mã khứ như vân.

樽 罍 溢 九 醞

Tôn lôi dật cửu uấn,

水 陸 羅 八 珍

Thủy lục la bát trân.

果 擘 洞 庭 橘

Quả phách Đỗng Đình quất,

膾 切 天 池 鱗

Khoái thiết Thiên Trì lân.

食 飽 心 自 苦

Thực bão tâm tự nhược,

酒 酣 氣 益 振

Tửu hàm khí ích chân.

是 歲 江 南 旱

Thị tuế Giang Nam hạn,

衢 州 人 食 人

Cù Châu nhân thực nhân.



Nhẹ béo

Đầy đường dáng bộ con cưng,

Ngựa yên bóng nhoáng sáng trưng bụi hồng.

Hỏi: Làm chi đó những ông?

Người ta rằng lũ quan trong đó mà.

Dải điều đều Đại phu ta,

Mà đeo dải tía hoặc là Tướng quân

Khuênh khoang đi chén trong quân,

Rộn ràng vó ngựa chạy vần như mây.

Vò, ang chín thứ rượu đầy,

Hải sơn tám bát cỗ bày linh tinh.

Quả dâng quít hái Động Đình,

Cá Thiên Trì thái, đơm thành gỏi ngon.

Ăn no khoan khoái tâm hồn,

Rượu say, ý khí hùng hồn càng thêm.

Năm nay hạn hán Giang Nam,

Cù Châu người mổ người làm thức ăn.

Ngày Nay, số 102 (27-3-1938)



62. Văn khốc giả 聞 哭 者

昨 日 南 鄰 哭

Tạc nhật nam lân khốc,

哭 聲 一 何 苦

Khốc thanh nhất hà khổ?

云 是 妻 哭 夫

Vân thi thê khốc phu.

夫 年 二 十 五

Phu niên nhị thập ngũ,

今 朝 北 里 哭

Kim triêu bắc lý khốc,

哭 聲 又 何 切

Khốc thanh hựu hà thiết!

云 是 母 哭 兒

Vân thị mẫu khốc nhi,

兒 年 十 七 八

Nhi niên thập thất bát.

四 鄰 尚 如 此

Tứ lân thượng như thử,

天 下 多 夭 折

Thiên hạ đa yểu chiết.

乃 知 浮 世 人

Nãi tri phù thế nhân.

少 得 垂 白 髮

Thiểu đắc thùy bạch phát?

余 今 過 四 十

Dư kim quá tứ thập,

念 彼 聊 自 悅

Niệm bỉ, liêu tự duyệt.

從 此 明 鏡 中

Tùng thử minh kính trung

不 嫌 頭 似 雪

Bất hiềm đầu tự tuyết.



Nghe người khóc

Mới hôm nọ, xóm nam người khóc,

Tiếng khóc sao đau độc nỗi lòng?

Rằng: Đâu là vợ khóc chồng,

Chồng hai nhăm tuổi, khuất vòng nhân gian,

Sớm nay lại khóc than xóm bắc,

Tiếng khóc sao ruột thắt từng cơn?

Rằng: Đâu là mẹ khóc con,

Con mười bảy, tám, chết còn tuổi xanh.

Bốn hàng xóm chung quanh như thế.

Khắp thế gian chết trẻ còn nhiều.

Mới hay người thế bao nhiêu,

Trắng phơ mái tóc dễ nào mấy ai?

Ta nay tuổi có ngoài bốn chục,

Nghĩ ai kia, thôi cũng vui lòng.

Từ nay trong bức gương trong,

Đầu ta ngỡ tuyết, ta không quản gì.

Ngày Nay, số 105 (10-4-1938)



63. Tam niên biệt 三 年 別

悠 悠 一 別 已 三 年

Du du nhất biệt dĩ tam niên,

相 望 相 思 明 月 天

Tương vọng tương tư minh nguyệt thiên,

腸 斷 青 天 望 明 月

Trường đoạn thanh thiên vọng minh nguyệt,

別 來 三 十 六 回 園

Biệt lai tam thập lục hồi viên.



Xa nhau ba năm

Xa nhau một chuyến ba năm,

Ngóng nhau chung bóng trăng rằm nhớ nhau.

Trời xanh, trăng sáng, lòng đau,

Ba mươi sáu độ trước sau trăng tròn!



64. Thính biên hồng 聽 邊 鴻

驚 風 吹 起 塞 鴻 群

Kính phong xuy khởi tái hồng quần,

半 入 平 沙 半 入 雲

Bán nhập bình sa bán nhập vân.

為 問 昭 君 月 下 聽

Vị vấn Chiêu Quân nguyệt hạ thính,

何 如 蘇 武 雪 中 聞

Hà như Tô Vũ tuyết trung văn?



Nghe chim hồng ngoài biên ải

Đàn hồng rợn gió ngoài biên,

Nửa sa cát bể, nửa lên mây trời.

Chiêu Quân, Tô Vũ nghe chơi,

Dưới trưng, trong tuyết đôi nơi thế nào?

Ngày Nay, số 118 (10-7-1938)



65. Tự khuyến 自 勸

憶 昔 饑 貧 應 舉 年

Ức tích cơ bần ứng cử niên,

脫 衣 典 酒 曲 江 邊

Thoát y điển tửu Khúc Giang biên.

十 千 一 斗 猶 奢 飲

Thập thiên nhất đẩu do xa ẩm,

何 況 官 供 不 值 錢

Hà huống quan cung bất trị tiền.



Tự khuyên mình

Nhớ xưa nghèo túng lúc khoa thi.

Bến Khúc thèm men, cố áo đi.

Đấu rượu muôn đồng quen uống đắt.

Nữa chi lộc nước mất tiền chi!



66. Lâm Giang tống Hạ Chiêm 臨 江 送 夏 瞻

悲 君 老 別 淚 沾 巾

Bi quân lão biệt lệ chiêm cân,

七 十 無 家 萬 里 身

Thất thập vô gia vạn lý thân.

愁 見 舟 行 風 又 起

Sầu kiến chu hành phong hựu khởi,

白 頭 浪 裡 白 頭 人

Bạch đầu lãng lý bạch đầu nhân.



Tới sông tiễn Hạ Chiêm

Muôn dặm thương anh, lệ biệt sầu,

Bảy mươi tuổi tác cửa nhà đâu?

Buồn trông trận gió theo thuyền nổi,

Sóng bạc đầu quanh khách bạc đầu.

Ngày Nay, số 124 (21-8-1938)



67. Đại Lâm tự đào hoa 大 林 寺 桃 花

人 間 四 月 芳 菲 盡

Nhân gian tứ nguyệt phương phi tận,

山 寺 桃 花 始 盛 開

Sơn tự đào hoa thủy thịnh khai.

長 恨 春 歸 無 覓 處

Trường hận xuân qui vô mịch xứ,

不 知 轉 入 此 中 來

Bất tri chuyển nhập thử trung lai.



Hoa đào chùa Đại Lâm

Tháng tư hoa đã hết mùa,

Hoa đào rực rỡ cảnh chùa mới nay.

Xuân về kín chốn ai hay,

Biết đâu lẩn khuất trong này núi non.

Ngày Nay, số 112 (29-5-1938)



68. Giang thượng địch 江上笛

江 上 何 人 夜 吹 笛

Giang thượng hà nhân dạ xuy địch,

聲 聲 似 憶 故 園 春

Thanh thanh tự ức cố viên xuân,

此 時 聞 者 堪 頭 白

Thử thời văn giả kham đầu bạch,

況 是 多 愁 少 睡 人

Huống thị đa sầu thiểu thụy nhân.



Sáo trên sông

Đêm, ai thổi sáo trên sông,

Vườn xuân tiếng tiếng gửi lòng ai đâu?

Ai nghe, luống những bạc đầu,

Nữa chi ít ngủ, nhiều sầu như ai?

Ngày Nay, số 123 (14-8-1938)



69. Vương Chiêu Quân 王昭君

滿 面 朝 沙 滿 鬢 風

Mãn diện Hồ sa mãn mấn phong,

眉 銷 殘 黛 臉 銷 紅

Mi tiêu tàn đại kiểm tiêu hồng,

愁 苦 辛 勤 憔 悴 盡

Sầu khổ tân cần tiều tụy tận.

如 今 卻 似 畫 圖 中

Như kim khước tự họa đồ trung.



Vương Chiêu Quân

Cát Hồ đầy mặt, gió đầy tai,

Mực nhạt mày xanh, má đỏ phai.

Khổ sở lo buồn tiều tụy thế,

Mới là tranh vẽ giống như ai.

Ngày Nay, số 99 (27-2-1938)



70. Đại mại tân nữ tặng chư kỹ 代 賣 薪 女 贈 諸 妓

亂 蓬 為 鬢 布 為 巾

Loạn bồng vi mấn, bố vi cân,

曉 蹋 寒 山 自 負 薪

Hiểu đạp hàn sơn tự phụ tân,

一 種 錢 塘 江 畔 女

Nhất chung Tiền Đường giang bạn nữ,

著 紅 騎 馬 是 何 人

Trước hồng kỵ mã thị hà nhân?



Thay lời chị bán củi tặng các kỹ nữ

Đầu bù khăn vải trùm tai,

Trèo non gánh củi sương mai lạnh lùng,

Tiền Đường cũng gái bên sông.

Mà đâu yên ngựa quần hồng là ai?



71. Túc chương đình dịch 宿樟亭驛

夜 半 樟 亭 驛

Dạ bán Chương Đình dịch,

愁 人 起 望 鄉

Sầu nhân khỉ vọng hương.

明 月 何 所 見

Nguyệt minh hà sở kiến,

潮 水 白 茫 茫

Trào thủy bạch mang mang.



Ngủ nhà trạm Chương Đình

Nửa đêm ở trạm Chương Đình,

Người buồn trở dậy nặng tình hương quan

Dưới trăng trông ngóng lan man,

Nước trào trắng xóa một làn trăng soi.

Ngày Nay, số 148 (1939)

90 bài thơ Đường do Tản Đà dịch [1]

90 bài thơ Đường do Tản Đà dịch [1]




TẢN ĐÀ NGUYỄN KHẮC HlẾU (1889-1939)



VƯƠNG BỘT 王勃 (649-676)

1. Thục trung cửu nhật 蜀中九日

九 月 九 日望 鄉 臺

Cửu nguyệt cửu nhật Vọng Hương đài.

他 席 他 鄉 送 客 杯

Tha tịch tha hương tống khách bôi.

人 情 已 厭 南 中 苦

Nhân tình dĩ yếm Nam Trung khổ,

鴻 鴈 那 從 北 地 來

Hồng nhạn na tòng bắc địa lai.



Trong đất Thục ngày mồng chín

Vọng Hương mồng chín lên đài,

Chén đưa tiệc khách quê người Nam Trung

Người đây chán chết nỗi lòng,

Cớ sao đất bắc chim hồng lại chi?

Ngày Nay, số 87 (28-11-1937)



LẠC TÂN VƯƠNG 駱賓王 (640?-684)

2. Dịch thủy tống biệt 易水送別

此 地 別 燕 丹

Thử địa biệt yên Đan,

壯 士 髮 衝 冠

Tráng sĩ phát xung quan.

昔 時 民 已 沒

Tích thời nhân dĩ một,

今 日 水 由 寒

Kim nhật thủy do hàn.



Sông Dịch tiễn biệt

Đất này biệt chú yên Đan

Tóc anh tráng sĩ tức gan dựng đầu.

Người xưa nay đã đi đâu,

Lạnh lùng sông nước cơn sầu chưa tan.

Ngày Nay, số 120 (24.7.1938)



TRẦN TỬ NGANG 陳子昂 (651-702)

3. Kế khâu lãm cổ 薊丘覽古

南 登 碣 石 館

Nam đăng Kệ Thạch quán,

遙 望 黃 金 臺

Dao vọng Hoàng Kim đài.

邱 陵 盡 喬 木

Khâu lăng tận kiều mộc

昭 王 安 在 哉

Chiêu Vương an tại tai

霸 圖 悵 已 矣

Bá đồ trướng dĩ hĩ,

驅 馬 復 歸 來

Khu mã phục quy lai.



Gò Kế xem cảnh năm xưa

Trèo lên Kệ Thạch quán nam,

Xa xa trông ngóng Hoàng Kim có đài.

Cây cao phủ hết quanh đồi.

Vua Chiêu ngày trước nay thời nơi nao?

Cơ đồ bá chủ còn đâu!

Nhớ ai đánh ngựa ta âu lại về.



TRƯƠNG NHƯỢC HƯ 張若虛

4. Xuân giang hoa nguyệt dạ 春 江 花 月 夜

春 江 潮 水 連 海 平

1. Xuân giang triều thủy liên hải bình,

海 上 明 月 共 潮 生

Hải thượng minh nguyệt cộng triều sinh.

灩 灩 隨 波 千 萬 里

Diễm diễm tùy ba thiên vạn lý,

何 處 春 江 無 月 明

Hà xứ xuân giang vô nguyệt minh?

江 流 宛 轉 遶 芳 甸

5.Giang lưu uyển chuyển nhiễu phương điện

月 照 花 林 皆 似 霰

Nguyệt chiếu hoa lâm giai tự tản.

空 裏 流 霜 不 覺 飛

Không lý lưu sương bất giác phi,

汀 上 白 沙 看 不 見

Đinh thượng bạch sa khan bất kiến

江 天 一 色 無 纖 塵

Giang thiên nhất sắc vô tiêm trần,

皎 皎 空 中 孤 月 輪

10. Hạo hạo không trung cô nguyệt luân.

江 畔 何 人 初 見 月

Giang bạn hà nhân sơ kiến nguyệt?

江 月 何 年 初 照 人

Giang nguyệt hà niên sơ chiếu nhân?

人 生 代 代 無 窮 已

Nhân sinh đại đại vô cùng dĩ,

江 月 年 年 秖 相 似

Giang nguyệt niên niên kỳ tương tự.

不 知 江 月 待 何 人

15. Bất tri giang nguyệt đãi hà nhân,

但 見 長 江 送 流 水

Đãn kiến trường giang tống lưu thủy.

白 雲 一 片 去 悠 悠

Bạch vân nhất phiến khứ du du,

青 楓 浦 上 不 勝 愁

Thanh phong phố thượng bất thăng sầu,

誰 家 今 夜 扁 舟 子

Thùy gia kim dạ biên chu tử,

何 處 相 思 明 月 樓

20. Hà xứ tương tư minh nguyệt lâu?

可 憐 樓 上 月 徘 徊

Khả lân lâu thượng nguyệt bồi hồi,

應 照 離 人 妝 鏡 臺

Ưng chiếu ly nhân trang kính đài.

玉 戶 簾 中 卷 不 去

Ngọc hộ liêm trung quyển bất khứ,

擣 衣 砧 上 拂 還 來

Đảo y châm thượng phất hoàn lai.

此 時 相 望 不 相 聞

25. Thử thời tương vọng bất tương văn,

願 逐 月 華 流 照 君

Nguyện trục nguyệt hoa lưu chiếu quân.

鴻 雁 長 飛 光 不 度

Hồng nhạn trường phi quang bất độ

魚 龍 潛 躍 水 成 文

Ngư long tiềm dược thủy thành văn.

昨 夜 閒 潭 夢 落 花

Tạc dạ nhàm đàm mộng lạc hoa.

可 憐 春 半 不 還 家

30. Khả lân xuân bán bất hoàn gia.

江 水 流 春 去 欲 盡

Giang thủy lưu xuân khứ dục tận,

江 潭 落 月 復 西 斜

Giang đàm lạc nguyệt phục tây tà.

斜 月 沈 沈 藏 海 霧

Tà nguyệt trầm trầm tàng hải vụ,

碣 石 瀟 湘 無 限 路

Kiệt Thạch, Tiêu Tương vô hạn lộ.

不 知 乘 月 幾 人 歸

35. Bất tri thừa nguyệt kỷ nhân quy?

落 月 搖 情 滿 江 樹

Lạc nguyệt dao tình mãn giang thụ.



Đêm trăng hoa trên sông xuân

Sông xuân sáng nước liền ngang bể,

Vầng trăng trong mặt bể lên cao.

Ánh trăng theo sóng đẹp sao!

Sông xuân muôn dặm chỗ nào không trăng?

5.Dòng sông chảy quanh rừng hoa ngát,

Trăng soi hoa như tán trập trùng.

Sương bay chẳng biết trong không

Trên soi cát trắng nhìn không thấy gì.

Trời in nước một ly không bụi.

10. Mảnh trăng trong ròi rọi giữa trời.

Thấy trăng thoạt mới là ai?

Trăng sông thoạt mới soi người năm nao?

Người sinh mãi, kiếp nào cho biết,

Nhìn trăng sông năm hệt không sai.

15. Trăng sông chẳng biết soi ai,

Dưới trăng chỉ thấy sông dài nước trôi.

Đám mây trắng ngùi ngùi đi mãi,

Rặng phong xanh một dải sông sầu.

Đêm nay ai đó, ai đâu?

20. Chiếc thuyền để nhớ trên lầu trăng soi.

Trăng thờ thẩn nơi người xa ngóng,

Chốn đài gương tựa bóng thương ai.

Trong rèm cuốn chẳng đi thôi,

Trên bàn đập áo quét rồi lại ngay.

25. Cùng nghe ngóng lúc nay chẳng thấy,

Muốn theo trăng trôi chảy đến chàng.

Hồng bay, ánh sáng không màng,

Nước sâu cá quẫy chỉ càng vẩn tăm.

Đêm nọ giấc trong đầm hoa rữa,

30. Ai xa nhà xuân nửa còn chi!

Nước sông trôi mãi xuân đi,

Trăng tà lặn xuống bên kia cánh đầm.

Vầng trăng lặn êm chìm khói bể,

Đường bao xa non kệ sông Tương.

35. Về trăng mấy kẻ thừa lương,

Trăng chìm lay bóng đầy hàng cây sông.



TRƯƠNG CỬU LINH 張 九 齡 (678-740)

5. Tự quân chi xuất hĩ 自 君 之 出 矣

自 君 之 出 矣

Tự quân chi xuất hĩ,

不 復 理 殘 機

Bất phục lý tàn ky.

思 君 如 月 滿

Tư quân như nguyệt mãn,

夜 夜 減 光 煇

Dạ dạ giảm quang huy



Từ ngày anh bước ra đi

Từ ngày anh bước ra đi,

Cửa canh bỏ dở, nghĩ gì sửa sang.

Nhớ anh như nguyệt tròn gương,

Tiêu hao ánh sáng, đêm thường lại đêm

Ngày Nay, số 116 (26-6-1938)



VƯƠNG XƯƠNG LINH 王 昌 齡 (698-756?)

6. Tống Hồ Đại 送 胡 大

荊 門 不 坩 別

Kinh Môn bất kham biệt,

況 乃 瀟 湘 秋

Huống nãi Tiêu Tương thu.

何 處 遙 望 君

Hà xứ dao vọng quân,

江 邊 明 月 樓

Giang biên mình nguyệt lâu.



Tiễn Hồ Đại

Non Kinh biệt đã đau lòng,

Nữa chi thu lại hai dòng Tiêu, Tương.

Nhớ anh, xa ngóng dặm trường,

Bên sông dưới bóng trăng suông tựa lầu.

Ngày Nay, số 122 (7-8-1938)



7. Khuê oán 閨 怨

閨 中 少 婦 不 知 愁

Khuê trung thiếu phụ bất tri sầu,

春 日 凝 妝 上 翠 樓

Xuân nhật ngưng trang thượng thúy lâu.

忽 見 陌 頭 楊 柳 色

Hốt kiến mạch đầu dương liễu sắc,

悔 教 夫 婿 覓 封 侯

Hối giao phu tế mịch phong hầu.



Nhớ chồng

Trẻ trung nàng biết đâu sầu,

Buồng xuân trang điểm, lên lầu ngắm gương.

Nhác trông vẻ liễu bên đường,

«Phong hầu» nghĩ dại xui chàng kiếm chi.

Ngày Nay, số 77 (19-9-1938)



VƯƠNG DUY 王 維 (701-761)

8. Quá Hương Tích tự 過香積寺

不 知 香 積 寺

Bất tri Hương Tích tự

數 里 入 雲 峰

Sổ lý nhập vân phong.

古 木 無 人 徑

Cổ mộc vô nhân kính,

深 山 何 處 鐘

Thâm sơn hà xứ chung.

泉 聲 咽 危 石

Tuyền thanh yết nguy thạch,

日 色 冷 青 松

Nhật sắc lãnh thanh tùng.

薄 暮 空 潭 曲

Bạc mộ không đàm khúc,

安 禪 制 毒 龍

An thiền chế độc long.



Qua chùa Hương Tích

(Chùa ở trong hang Tý Ngọ, núi Nam Sơn,
thuộc Trường An, Hồ Nam, Trung Quốc.)

Chẳng hay Hương Tích chùa đâu,

Đi đôi ba dặm, lên đầu non cao.

Cây um, đường tắt vắng teo,

Núi sâu chuông vẳng nơi nào tiếng đưa.

Suối kêu nghẽn đá ria bờ,

Lạnh lùng bóng nắng chui lùa thông xanh.

Trời hôm, tấc dạ thanh minh,

Qui y đạo Phật sửa mình là hơn.

Ngày Nay, số 97 (13-2-1938)



9. Tây Thi vịnh 西 施 詠

艷 色 天 下 重

Diễm sắc thiên hạ trọng,

西 施 寧 久 微

Tây Thi ninh cửu vi

朝 為 越 溪 女

Triêu vi Việt Khê nữ,

暮 作 吳 宮 妃

Mộ tác Ngô cung phi,

賤 日 豈 殊 眾

Tiện nhật khởi thù chúng,

貴 來 方 悟 稀

Quý lai phương ngộ hi.

邀 人 傅 脂 粉

Yêu nhân phó chi phấn.

不 自 著 羅 衣

Bất tự trước la y

君 寵 益 嬌 態

Quân sủng ích kiêu thái,

君 憐 無 是 非

Quân lân vô thị phi.

當 時 浣 紗 伴

Đương thời hoán sa bạn,

莫 得 同 車 歸

Mạc đắc đồng xa quy

持 謝 鄰 家 子

Trì tạ lân gia tử,

效 顰 安 可 希

Hiệu tần an khả hi.



Vịnh Tây Thi

Thế gian sắc đẹp ai bì,

Tây Thi không nhẽ hàn vi suốt đời

Sớm còn gái Việt bên ngòi,

Cung Ngô tối đã lên ngồi cạnh vua.

Lúc hèn, ai chẳng hơn thua,

Khi sang mới biết đời chưa mấy người.

Phấn son gọi kẻ tô, giồi,

Áo là em mặc có người xỏ tay.

Vua yêu càng lắm vẻ hay,

Vua thương, phải trái mặc bay sá gì.

Giặt sa những bạn đương thì;

Cùng xe chẳng được đi về với ta.

Xin van cô ả bên nhà,

Cũng đòi «nhăn mặt» khó mà như nhau.



THÔI HIỆU 崔 顥 (704 – 754)

10. Hoàng Hạc lâu 黃 鶴 樓

昔 人 已 乘 黃 鶴 去

Tích nhân dĩ thừa hoàng hạc khứ,

此 地 空 餘 黃 鶴 樓

Thử địa không dư Hoàng Hạc lâu.

黃 鶴 一 去 不 復 返

Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản,

白 雲 千 載 空 悠 悠

Bạch vân thiên tải không du du.

晴 川 歷 歷 漢 陽 樹

Tình xuyên lịch lịch Hán Dương thụ.

芳 草 萋 萋 鸚 鵡 洲

Phương thảo thê thê Anh Vũ châu.

日 暮 鄉 關 何 處 是

Nhật mộ hương quan hà xứ thị?

煙 波 江 上 使 人 愁

Yên ba giang thượng sử nhân sầu.



Gác Hoàng Hạc

Hạc vàng ai cưỡi đi đâu?

Mà đây Hoàng Hạc riêng lầu còn trơ !

Hạc vàng đi mất từ xưa,

Nghìn năm mây trắng bây giờ còn bay.

Hán Dương sông tạnh cây bày.

Bãi xa Anh Vũ xanh dày cỏ non.

Quê hương khuất bóng hoàng hôn,

Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai?

Ngày Nay, số 80 (10-10-1937)



LÝ BẠCH 李 白 (701-762)

11. Oán tình 怨 情

美 人 捲 珠 簾

Mỹ nhân quyển châu liêm.

深 坐 蹙 蛾 眉

Thâm tọa tần nga my.

但 見 淚 痕 濕

Đãn kiến lệ ngân thấp,

不 知 心 恨 誰

Bất tri tâm hận thùy.



Buồn vì tình

Người xinh cuốn bức rèm châu.

Ngồi im thăm thẳm nhăn chau đôi mày.

Chỉ hay giọt lệ vơi đầy,

Đố ai biết được lòng này giận ai!

Ngày Nay, số 119 (17.7.1938)



12. Tặng nội 贈 內

三 百 六 十 日

Tam bách lục thập nhật,

日 日 醉 如 泥

Nhật nhật túy như nê.

雖 為 李 白 婦

Tuy vi Lý Bạch phụ,

何 異 太 常 妻

Hà dị Thái thường thê?



Đưa cho vợ

Ba trăm sáu chục ngày trời,

Ngày ngày say bét như đời con nê.

Vợ chàng Lý Bạch ta kia,

Như ai vợ Thái thường xưa khác gì?

Ngày Nay, số 130 (1.10.1938)



13. Xuân tứ 春 思

燕 草 如 碧 絲

Yên thảo như bích ti,

秦 桑 低 綠 枝

Tần tang đê lục chi.

當 君 懷 歸 日

Đương quân hoài qui nhật,

是 妾 斷 腸 時

Thị thiếp đoạn trường thì.

春 風 不 相 識

Xuân phong bất tương thức,

何 事 入 羅 幃

Hà sự nhập la vi.



Ý xuân

Cỏ non xanh biếc vùng Yên,

Cành dâu xanh ngả ở bên đất Tần.

Lòng em đau đớn muôn phần,

Phải chăng là lúc phu quân nhớ nhà.

Gió xuân quen biết chi mà,

Cớ chi lọt bức màn là tới ai?

Ngày Nay, số 78 (26.9.1937)



14. Tống khách qui Ngô 送客歸吳

江 村 秋 雨 歇

Giang thôn thu vũ yết,

酒 盡 一 帆 飛

Tửu tận nhất phàm phi.

路 歷 波 濤 去

Lộ lịch ba đào khứ,

家 惟 坐 臥 歸

Gia duy tọa ngọa qui.

島 花 開 灼 灼

Đảo hoa khai chước chước,

汀 柳 細 依 依

Đinh liễu tế y y.

別 後 無 餘 事

Biệt hậu vô dư sự,

還 應 掃 釣 磯

Hoàn ưng tảo điếu ky.



Tiễn khách đi về Ngô

Sông thu ngớt hạt mưa tuôn,

Rượu vừa cạn chén, cánh buồm xa bay.

Đường đi trải mấy nước mây,

Ngồi nằm, ai chẳng khó thay đến nhà.

Cây đồi hớn hở ra hoa,

Lăn tăn lá liễu thướt tha bên ngàn.

Xa nhau rồi những thanh nhàn.

Thú chơi quét tấm thạch bàn ngồi câu.

Ngày Nay, số 119 (17.7.1938)



15. Xuân nhật túy khởi ngôn chí 春 日 醉 起 言 志

處 世 若 大 夢

Xử thế nhược đại mộng.

胡 為 勞 其 生

Hồ vi lao kỳ sinh?

所 以 終 日 醉

Sở dĩ chung nhật túy.

頹 然 臥 前 楹

Đồi nhiên ngọa tiền doanh.

覺 來 眄 庭 前

Giác lai miện đình tiền.

一 鳥 花 間 鳴

Nhất điểu hoa gian minh.

借 問 此 何 時

Tá vấn thử hà nhật?

春 風 語 流 鶯

Xuân phong ngữ lưu oanh.

感 之 欲 歎 息

Cảm chi dục thán tức,

對 酒 還 自 傾

Đối tửu hoàn tự khuynh.

浩 歌 待 明 月

Hạo ca đãi minh nguyệt.

曲 盡 已 忘 情

Khúc tận dĩ vong tình.



Ngày xuân say rượu dậy nói chí mình

Ở đời như giấc chiêm bao

Cái thân còn đó, lao đao làm gì?

Cho nên suốt buổi say lì,

Nằm lăn trước cột, biết gì có ta.

Tỉnh thôi đưa mắt sân nhà.

Một con chim hót bên hoa ngọt ngào.

Hỏi xem: nay đó ngày nào?

Ngày xuân gió mát, vui chào tiếng oanh.

Ngậm ngùi cám cảnh sinh tình,

Nghiêng bầu, mình lại với mình làm vui.

Hát ran, chờ tấm trăng soi,

Thoạt xong câu hát thời rồi đã quên.

Ngày Nay, số 91 (26.12.1937)



16. Tống hữu nhân 送 友 人

青 山 橫 北 郭

Thanh sơn hoành Bắc quách,

白 水 遶 東 城

Bạch thủy nhiễu Đông thành.

此 地 一 為 別

Thử địa nhất vi biệt.

孤 蓬 萬 里 征

Cô bồng vạn lý chinh.

浮 雲 游 子 意

Phù vân du tử ý,

落 日 故 人 情

Lạc nhật cố nhân tình.

揮 手 自 茲 去

Huy thủ tự tư khứ,

蕭 蕭 班 馬 鳴

Tiêu tiêu ban mã minh.



Tiễn bạn

Chạy dài cõi Bắc non xanh,

Thành Đông nước chảy quanh thành trắng phau.

Nước non này chỗ đưa nhau

Một xa muôn dặm biết đâu cánh bồng!

Chia phôi khác cả mối lòng,

Người như mây nổi, kẻ trông bóng tà.

Vẫy tay thôi đã rời xa,

Nhớ nhau tiếng ngựa nghe mà buồn teo.

Ngày Nay, số 77 (19.9.1937)



17. Quan san nguyệt 關 山 月

明 月 出 天 山

Minh nguyệt xuất Thiên San,

蒼 茫 雲 海 間

Thương mang vân hải gian.

長 風 幾 萬 里

Trường phong kỷ vạn lý,

吹 度 玉 門 關

Xuy độ Ngọc Môn quan.

漢 下 白 登 道

Hán hạ Bạch Đăng đạo,

胡 窺 青 海 灣

Hồ khuy Thanh Hải loan.

由 來 征 戰 地

Do lai chinh chiến địa,

不 見 有 人 還

Bất kiến hữu nhân hoàn.

戍 客 望 邊 色

Thú khách vọng biên sắc,

思 歸 多 苦 顏

Tư quy đa khổ nhan.

高 樓 當 此 夜

Cao lâu đương thử dạ,

歎 息 未 應 閑

Thán tức vị ưng nhàn.



Trăng quan san

Vừng trăng ra núi Thiên San,

Mênh mang nước bể mây ngàn sáng soi.

Gió đâu muôn dặm chạy dài,

Thổi đưa trăng sáng ra ngoài Ngọc Môn.

Bạch Đăng quân Hán đóng đồn,

Vụng kia Thanh Hải dòm luôn mắt Hồ.

Từ xưa bao kẻ chinh phu,

Đã ra đất chiến, về ru mấy người?

Buồn trông cảnh sắc bên trời,

Giục lòng khách thú nhớ nơi quê nhà.

Lầu cao, đêm vắng, ai mà,

Đêm nay than thở ắt là chưa nguôi.



18. Thu tịch lữ hoài 秋夕旅懷

涼 風 度 秋 海

Lương phong độ thu hải

吹 我 鄉 思 飛

Xuy ngã hương tứ phi.

連 山 去 無 際

Liên sơn khứ vô tế,

流 水 何 時 歸

Lưu thủy hà thời qui

目 極 浮 雲 色

Mục cực phù vân sắc,

心 斷 明 月 暉

Tâm đoạn minh nguyệt huy.

芳 草 歇 柔 豔

Phương thảo yết nhu diệm,

白 露 催 寒 衣

Bạch lộ thôi hàn y.

夢 長 銀 漢 落

Mộng trường Ngân hán lạc,

覺 罷 天 星 稀

Giác bãi thiên tinh hy.

含 悲 想 舊 國

Hàm bi tưởng cựu quốc,

泣 下 誰 能 揮

Khấp hạ thùy năng huy.



Tối mùa thu nhớ nhà

Lạnh lùng gió vượt bể thu,

Hồn quê theo gió như vù vù bay.

Chạy dài dãy núi liền mây,

Nước trôi trôi mãi, có ngày về chăng?

Đám mây vút mắt xa chừng,

Đứt tươm khúc ruột dưới vừng trăng soi.

Cỏ thơm đẹp mướt thôi rồi,

Áo may mặc rét giục người móc sa!

Giấc mơ rơi dải Ngân hà,

Sao thưa lác đác tỉnh ra khắp trời.

Đoái thương nước cũ ngậm ngùi

Khóc rơi giọt lệ lau chùi đố ai?



19. Kinh Hạ Bi Dĩ kiều hoài Trương Tử Phòng

經 下 邳 圯 橋 懷 張 子 房

子 房 未 虎 嘯

Tử Phòng vị hổ khiếu,

破 產 不 為 家

Phá sản bất vi gia.

滄 海 得 壯 士

Thương hải đắc tráng sĩ,

椎 秦 博 浪 沙

Chùy Tần Bác Lãng sa.

報 韓 雖 不 成

Báo Hàn tuy bất thành.

天 地 皆 振 動

Thiên địa giai chấn động.

潛 匿 遊 下 邳

Tiềm nặc du Hạ Bi.

豈 曰 非 智 勇

Khởi viết phi trí dũng.

我 來 圯 橋 上

Ngã lai Dĩ kiều thượng,

懷 古 欽 英 風

Hoài cổ khâm anh phong.

惟 見 碧 流 水

Duy kiến bích lưu thủy,

曾 無 黃 石 公

Tằng vô Hoàng Thạch công.

歎 息 此 人 去

Thán tức thử nhân khứ,

蕭 條 徐 泗 空

Tiêu điều Từ, Tứ không.



Qua cầu Dĩ đất Hạ Bi nhớ Trương Tử Phòng

Thầy Lương hổ chửa ra oai.

Phá tan của cải gia tài sạch không.

Biển xanh được kẻ anh hùng,

Vua Tần, đánh một dùi đồng thử coi.

Cánh đồng Bác Lãng công toi,

Thù Hàn chưa trả đất trời cũng kinh.

Hạ Bi trốn lánh nương mình,

Khôn ngoan mạnh bạo tài tình lắm thay!

Ta nay cầu Dĩ chơi đây

Nhớ ai thiên cổ lòng đầy kính yêu,

Trong veo nước biếc xuôi chiều,

Mà ông Hoàng Thạch đâu nào có đâu.

Than rằng ai đó đi đâu,

Vắng tanh Từ, Tứ để sầu nước non.

Ngày Nay, số 82 (24.10.1937)



20. Sơn trung vấn đáp 山 中 問 答

問 予 何 事 棲 碧 山

Vấn dư hà sự thê bích san?

笑 而 不 答 心 自 閒

Tiếu nhi bất đáp, tâm tự nhàn.

桃 花 流 水 窅 然 去

Đào hoa lưu thủy yểu nhiên khứ,

別 有 天 地 非 人 間

Biệt hữu thiên địa, phi nhân gian.



Trả lời hỏi trong núi

Hỏi ta: Ở núi làm chi?

Thong dong chẳng nói, cười khì cho vui.

Hoa đào theo bẵng nước trôi,

Có riêng trời đất, cõi người đâu đây.

Ngày Nay, số 94 (16-1-1938)



21. Tặng Uông Luân 贈汪倫

李 白 乘 舟 將 欲 行

Lý Bạch thừa chu tương dục hành,

忽 聞 岸 上 踏 歌 聲

Hốt văn ngạn thượng đạp ca thanh.

桃 花 潭 水 深 千 尺

Đào Hoa đàm thủy thâm thiên xích,

不 及 汪 倫 送 我 情

Bất cập Uông Luân tống ngã tình.



Tặng Uông Luân

Sắp đi Lý Bạch ngồi thuyền,

Trên bờ chân giậm, nghe liền tiếng ca

Nước đầm nghìn thước Đào Hoa,

Uông Luân, tình bác tiễn ta sâu nhiều.

Ngày Nay, số 135 (5-11-1938)



22. Tảo phát Bạch Đế thành 早 發 白 帝 城

朝 辭 白 帝 彩 雲 間

Triêu từ Bạch Đế thái vân gian,

千 里 江 凌 一 日 還

Thiên lý Giang Lăng nhất nhật hoàn.

兩 岸 猿 聲 啼 不 住

Lưỡng ngạn viên thanh đề bất trụ,

輕 舟 已 過 萬 重 山

Khinh chu dĩ quá vạn trùng san.



Sớm ra đi từ thành Bạch Đế

Sớm ra Bạch Đế thành mây,

Giang Lăng nghìn dặm một ngày về luôn.

Hai bờ tiếng vượn véo von,

Thuyền lan đã vượt núi non vạn trùng

Ngày Nay, số 88 (5-12-1937)



23. Ô dạ đề 烏夜啼

黃 雲 城 邊 烏 欲 棲

Hoàng vân thành biên ô dục thê.

歸 飛 啞 啞 枝 上 啼

Quy phi «á á» chi thượng đề.

機 中 織 錦 秦 川 女

Cơ trung chức cẩm Tần Xuyên nữ.

碧 紗 如 湮 隔 窗 語

Bích sa như yên cách song ngữ.

停 梭 悵 然 憶 遠 人

Đình thoa trướng nhiên ức viễn nhân

獨 宿 孤 房 淚 如 雨

Độc túc cô phòng lệ như vũ.



Quạ kêu đêm

Mây vàng tiếng quạ bên thành,

Nó bay tìm ngủ trên cành nó kêu.

Tần Xuyên cô gái buồng thêu,

Song sa khói tỏa như khêu chuyện ngoài.

Dừng thoi buồn bã nhớ ai,

Phòng không gối chiếc, giọt dài tuôn mưa.

Ngày Nay, số 83 (31-10-1937)



24. Thái liên khúc 採 蓮 曲

若 耶 溪 傍 採 蓮 女

Nhược Da khê bạng thái liên nữ,

笑 隔 菏 花 共 人 語

Tiếu cách hà hoa cộng nhân ngữ.

日 照 新 倀 水 底 明

Nhật chiếu tân trang thủy để minh,

風 飄 香 袂 空 中 舉

Phong phiêu hương duệ không trung cử.

岸 上 誰 家 遊 冶 郎

Ngạn thượng thùy gia du dã lang,

三 三 五 五 映 垂 楊

Tam tam ngũ ngũ ánh thùy dương.

紫 騮 嘶 入 落 花 去

Tử lưu tê nhập lạc hoa khứ,

見 此 踟 躕 空 斷 腸

Kiến thử trì trù không đoạn trường.



Khúc hát hái sen

Có cô con gái nhà ai,

Hái sen, chơi ở bên ngòi Nhược Da.

Mặt hoa cười cách đóa hoa,

Cùng ai nói nói mặn mà thêm xinh.

Áo quần mặc mới sáng tinh,

Nắng soi đáy nước rung rinh bóng lồng.

Thơm thơ vạt áo gió tung,

Bay lên phấp phới trong không ngạt ngào.

Năm, ba chàng trẻ nhà nào,

Ngựa hồng rặng liễu, bờ cao bóng người.

Ngựa kêu, lần bước hoa rơi,

Đoái trông ai đó, ngậm ngùi tiếc thương.

Ngày Nay, số 89 (10-12-1937)



ĐỖ PHỦ 杜甫 (712-770)

25. Nguyệt dạ 月 夜

今 夜 鄜 州 月

Kim dạ Phu Châu nguyệt,

閨 中 只 獨 看

Khuê trung chỉ độc khan.

遙 憐 小 兒 女

Dao liên tiểu nhi nữ,

未 解 憶 長 安

Vị giải ức Tràng An.

香 霧 雲 鬟 濕

Hương vụ vân hoàn thấp,

清 輝 玉 臂 寒

Thanh huy ngọc tý hàn.

何 時 倚 虛 幌

Hà thời ỷ hư hoảng,

雙 照 淚 痕 乾

Song chiếu lệ ngân can.



Đêm sáng trăng

Châu Phu này lúc trăng soi.

Buồng the đêm vắng riêng coi một mình.

Đoái thương thơ dại đầu xanh,

Tràng An chửa biết đem tình nhớ nhau.

Sương sa thơm ướt mái đầu,

Cánh tay ngọc trắng lạnh màu sáng trong.

Bao giờ tựa bức màn không,

Gương soi chung bóng lệ dòng dòng khô.

Ngày Nay, số 86 (21-11-1937)



26. Đăng Nhạc Dương lâu 登 岳 陽 樓

昔 聞 洞 庭 水

Tích văn Động Đình thủy,

今 上 岳 陽 樓

Kim thướng Nhạc Dương lâu.

吳 楚 東 南 坼

Ngô, Sở đông nam sách,

乾 坤 日 夜 浮

Càn khôn nhật dạ phù.

親 朋 無 一 字

Thân bằng vô nhất tự,

老 病 有 孤 舟

Lão bệnh hữu cô chu

戎 馬 關 山 北

Nhung mã quan sơn bắc.

憑 軒 涕 泗 流

Bằng hiên thế tứ lưu.



Lên lầu Nhạc Dương

Động Đình nghe tiếng từ xưa,

Nhạc Dương lâu mới bây giờ lên chơi.

Đông nam Ngô, Sở chia hai,

Ngày đêm như thấy đất trời nổi nênh.

Người quen, một chữ vắng tanh,

Tuổi già, mình ốm lênh bênh chiếc thuyền.

Quan san cõi Bắc giặc tràn,

Mái hiên đứng tựa giụa giàn giọt rơi.

Ngày Nay, số 87 (28-11-1937)



27. Tuyệt cú 絕 句

兩 個 黃 鸝 鳴 翠 柳

Lưỡng cá hoàng ly minh thúy liễu,

一 行 白 鷺 向 青 天

Nhất hàng bạch lộ thướng thanh thiên.

窗 含 西 嶺 千 秋 雪

Song hàm Tây Lĩnh thiên thu tuyết,

門 泊 東 吳 萬 里 船

Môn bạc Đông Ngô vạn lý thuyền.



Câu tứ tuyệt

Hai cái oanh vàng kêu liễu biếc,

Một hàng cò trắng vút trời xanh.

Nghìn năm tuyết núi song in sắc,

Muôn dặm thuyền Ngô cửa rập rình.

Ngày Nay, số 97 (13-2-1938)



28. Đăng Cao 登 高

風 急 天 高 猿 嘯 哀

Phong cấp thiên cao, viên khiếu ai.

渚 清 沙 白 鳥 飛 迴

Chử thanh sa bạch, điểu phi hồi.

無 邊 落 木 蕭 蕭 下

Vô biên lạc mộc tiêu tiêu hạ,

不 盡 長 江 滾 滾 來

Bất tận trường giang cổn cổn lai.

萬 里 悲 秋 常 作 客

Vạn lý bi thu thường tác khách.

百 年 多 病 獨 登 臺

Bách niên đa bệnh độc đăng đài.

艱 難 苦 恨 繁 霜 鬢

Gian nan khổ hận phồn sương mấn,

潦 倒 新 停 濁 酒 杯

Lạo đảo tân đình trọc tửu bôi.



Lên núi

Gió mạnh, trời cao, vượn rúc sầu

Bến trong, cát trắng, lượn đàn âu.

Lào rào lá rụng, cây ai đếm,

Cuồn cuộn sông dài, nước đến đâu.

Muôn dặm quê người thu não cảnh,

Một thân già yếu bước lên lầu.

Khó khăn ngao ngán bao là nỗi,

Rượu uống không ngon chóng bạc đầu.

Ngày Nay, số 79 (3-10-1937)



29. Khúc giang 曲 江

朝 回 日 日 典 春 衣

Triều hồi nhật nhật điển xuân y,

每 日 江 頭 盡 醉 歸

Mỗi nhật giang đầu tận túy qui.

酒 債 尋 常 行 處 有

Tửu trái tầm thường hành xứ hữu,

人 生 七 十 古 來 稀

Nhân sinh thất thập cổ lai hi.

穿 花 蛺 蝶 深 深 見

Xuyên hoa giáp điệp thâm thâm hiện,

點 水 蜻 蜓 款 款 飛

Điểm thủy thanh đình khoản khoản phi.

傳 語 風 光 共 流 轉

Truyền ngữ phong quang cộng lưu chuyển,

暫 時 相 賞 莫 相 違

Tạm thời tương thưởng mạc tương vi.



Trên sông Khúc

Khỏi bệ vua ra, cố áo hoài,

Bên sông say khướt, tối lần mai.

Nợ tiền mua rượu đâu không thế,

Sống bảy mươi năm đã mấy người?

Bươm bướm luồn hoa phơ phất lượn.

Chuồn chuồn giỡn nước lửng lơ chơi.

Nhắn cho: quang cảnh thường thay đổi,

Tạm chút chơi xuân kẻo nữa hoài.

Ngày Nay, số 90 (19-12-1937)



SẦM THAM 岑 參 (715-770)

30. Sơn phòng xuân sự 山 房 春 事

梁 園 日 暮 亂 飛 鴉

Lương viên nhật mộ loạn phi nha,

極 目 蕭 條 三 兩 家

Cực mục tiêu điều tam lưỡng gia.

庭 樹 不 知 人 去 盡

Đình thụ bất tri nhân khứ tận,

春 來 還 發 舊 時 花

Xuân lai hoàn phát cựu thì hoa



Cảnh xuân nhà trên núi

Trời tối vườn Lương quạ lượn lờ,

Nhà đâu vút mắt, nóc lưa thưa.

Cây xuân chẳng biết người đi hết,

Xuân đến hoa còn nở giống xưa.



CAO THÍCH 高 適 (702-765)

31. Vịnh sử 詠 史

尚 有 綈 袍 贈

Thượng hữu đề bào tặng,

應 憐 范 叔 寒

Ưng lân Phạm Thúc hàn.

不 知 天 下 士

Bất tri thiên hạ sĩ,

猶 作 布 衣 看

Do tác bố y khan.



Vịnh sử

Áo bông còn có cho nhau,

Cảm thương chàng Phạm bấy lâu lạnh lùng.

Cõi đời chẳng biết anh hùng,

Vẫn coi nhau thể bần cùng khố dây.

Ngày Nay, số 111 (22.5.1938)



32. Biệt Đổng Đại 別 董 大

十 里 黃 雲 白 日 曛

Thập lý hoàng vân bạch nhật huân,

北 風 吹 雁 雪 紛 紛

Bắc phong xuy nhạn tuyết phân phân.

莫 愁 前 路 無 知 己

Mạc sầu tiền lộ vô tri kỷ,

天 下 誰 人 不 識 君

Thiên hạ thùy nhân bất thức quân?



Tương biệt với Đổng Đại

Mười dặm vàng pha bóng nhật vân,

Nhàn xuôi gió bấc tuyết bay nhanh.

Chớ buồn nẻo trước không tri kỷ.

Thiên hạ ai người chẳng biết anh!

Ngày Nay, số 88 (5.12.1937)



GIẢ CHÍ 賈 至 (718-772)

33. Tống Lý Thị lang phó Thường Châu

送 李 侍 郎 赴 常 州

雪 晴 雲 散 北 風 寒

Tuyết tình vân tán bắc phong hàn,

楚 水 吳 山 道 路 難

Sở thủy Ngô sơn đạo lộ nan.

今 日 送 君 須 盡 醉

Kim nhật tống quân tu tận túy;

明 朝 相 憶 路 漫 漫

Minh triêu tương ức lộ man man.



Tiễn Lý Thị lang đổi tới Thường Châu

Tuyết tạnh mây tan gió lọt da,

Non sông Ngô Sở, nỗi đường xa.

Lúc này đưa bác nên say tít,

Tình nặng đường xa buổi sáng ra.

Ngày Nay, số 84 (7.11.1937)



TRƯƠNG VỊ 張 謂

34. Hồ trung đối tửu tác

湖 中 對 酒 作

夜 坐 不 厭 湖 上 月

Dạ tọa bất yếm hồ thượng nguyệt,

晝 行 不 厭 湖 上 山

Trú hành bất yếm hồ thượng san.

眼 前 一 樽 又 常 滿

Nhãn tiền nhất tôn hựu thường mãn,

心 中 萬 事 如 等 閒

Tâm trung vạn sự như đẳng nhàn.

主 人 有 黍 萬 餘 石

Chủ nhân hữu thử vạn dư thạch,

濁 醪 數 斗 應 不 惜

Trọc giao sổ đẩu ưng bất tích.

即 今 相 對 不 盡 歡

Tức kim tương đối bất tận hoan,

別 後 相 思 復 何 益

Biệt hậu tương tư phục hà ích.

茱 萸 灣 頭 歸 路 賒

Thù du loan đầu qui lộ xa,

願 君 且 宿 黃 公 家

Nguyện quân thả túc Hoàng công gia.

風 光 若 此 人 不 醉

Phong quang nhược thử, nhân bất túy,

參 差 辜 負 東 園 花

Sâm si cô phụ đông viên hoa.



Trong hồ cùng nhau uống rượu

Ngồi đêm chẳng chán trăng hồ,

Ngày đi chẳng chán quanh hồ núi non.

Một chai trước mắt đầy luôn,

Trong lòng muôn nỗi lo buồn bỏ qua.

Chủ nhân thóc nếp đầy nhà,

Rượu nồng mấy gáo ắt là tiếc chi?

Cùng nhau nay chẳng hả hê,

Nhớ nhau lúc khác ích gì nữa ai?

Thù du về bến xa xôi,

Xin ai ở lại ngủ chơi ông Hoàng

Chẳng say cũng phí phong quang,

Vườn đông luống để bẽ bàng cho hoa.

Ngày Nay, số 93 (9.1.1938)



TIỀN KHỞI 錢 起 (722-780)

35. Giang hành 江 行

睡 穩 葉 舟 輕

Thụy ổn diệp chu khinh,

風 微 浪 不 驚

Phong vi lãng bất kinh.

任 君 蘆 葦 岸

Nhậm quân lô vi ngạn,

終 夜 動 秋 聲

Chung dạ động thu thanh.



Đi trên sông

Ngủ yên trong chiếc thuyền con,

Gió hiu hiu thổi, sóng rờn rờn đưa.

Mặc đâu lau sậy bên bờ,

Suốt đêm động rộn tha hồ tiếng thu.

Ngày Nay, số 122 (7.8.1938)



VI ỨNG VẬT 韋 應 物 (736-780)

36. Thính giang địch, tống Lục Thị ngự 聽 江 笛 送 陸 侍 御

遠 聽 江 上 笛

Viễn thính giang thượng địch,

臨 觴 一 送 君

Lâm trường nhất tống quân.

還 愁 獨 宿 夜

Hoàn sầu độc túc dạ,

更 向 郡 齋 聞

Cánh hướng quận trai văn.



Nghe sáo sông, tiễn quan Thị ngự họ Lục

Xa nghe tiếng sáo trên sông,

Một phen cất chén rượu nồng đưa nhau.

Nghĩ cho đêm vắng thêm sầu,

Riêng ai tiếng ấy bên lầu lại nghe.

Ngày Nay, số 122 (7.8.1938)



CÁP GIA VẬN 蓋 嘉 運

37. Y Châu ca 伊 州 歌

打 起 黃 鶯 兒

Đả khởi hoàng oanh nhi,

莫 教 枝 上 啼

Mạc giao chi thượng đề.

啼 時 驚 妾 夢

Đề thời kinh thiếp mộng,

不 得 到 遼 西

Bất đắc đáo Liêu Tê.



Khúc hát Y Châu

Đập cho mất cái vàng anh,

Chẳng cho nó ở trên cành nó kêu.

Nó kêu tỉnh giấc chiêm bao,

Liêu Tây chẳng được em theo đến chàng.



LÝ ĐOAN 李 端

38. Bái tân nguyệt 拜 新 月

開 簾 見 新 月

Khai liêm kiến tân nguyệt,

即 便 下 階 拜

Tức tiện há giai bái.

細 語 人 不 聞

Tế ngữ nhân bất văn,

北 風 吹 裙 帶

Bắc phong xuy quân đái.



Vái trăng mới

Mở rèm thấy tấm trăng non,

Thềm trên bước xuống vái luôn trăng này.

Khẽ lời khấn chẳng ai hay,

Thoảng cơn gió bấc thổi bay dải quần

Ngày Nay, số 117 (3.7.1938)



LIỄU TÔNG NGUYÊN 柳 宗 元 (773-819)

39. Giang tuyết 江 雪

千 山 鳥 飛 絕

Thiên sơn điểu phi tuyệt.

萬 徑 人 蹤 滅

Vạn kính nhân tung diệt.

孤 舟 簑 笠 翁

Cô chu toa lạp ông,

獨 釣 寒 江 雪

Độc điếu Hàn Giang tuyết.



Tuyết trên sông

Nghìn non mất bóng chim bay,

Muôn con đường tắt dấu giày tuyệt không.

Kìa ai câu tuyết bên sông,

Áo tơi, nón lá, một ông thuyền chài.

Ngày Nay, số 92 (2.1.1938)



40. Ngư ông 漁 翁

漁 翁 夜 傍 西 巖 宿

Ngư ông dạ bạng tây nham túc

曉 汲 清 湘 燃 楚 燭

Hiểu cấp thanh Tương nhiên Sở trúc.

煙 銷 日 出 不 見 人

Yên tiêu nhật xuất bất kiến nhân,

欸 乃 一 聲 山 水 綠

Ái nãi nhất thanh sơn thủy lục.

迴 看 天 際 下 中 流

Hồi khan thiên tế hạ trung lưu,

巖 上 無 心 雲 相 逐

Nham thượng vô tâm vân tương trục.



Ông lão thuyền câu

Thuyền câu ngủ ghé non tây,

Dòng Tương, tre Sở sáng ngày nấu ăn,

Khói tan trời nắng vắng tanh,

Tiếng vang nước biếc non xanh một chèo.

Xuôi dòng ngoảnh lại trời cao,

Đầu non mấy đám mây theo lững lờ.

Ngày Nay, số 113 (5.6.1938)



LƯU VŨ TÍCH 劉 禹 錫 (772-842)

41. Ô Y hạng 烏 衣 巷

朱 雀 橋 邊 野 草 花

Chu Tước kiều biên dã thảo hoa.

烏 衣 巷 口 夕 陽 斜

Ô Y hạng khẩu tịch dương tà.

舊 時 王 謝 堂 前 燕

Cựu thời Vương Tạ đường tiền yến.

飛 入 尋 常 百 姓 家

Phi nhập tầm thường bách tính gia.



Ngõ Ô Y

Bên cầu Chu Tước cỏ hoa,

Ô Y đầu ngõ, bóng tà tịch dương.

Én xưa nhà Tạ, nhà Vương,

Lạc loài đến chốn tầm thường dân gia.

Ngày Nay, số 94 (16-1-1938)




© http://vietsciences.free.fr và http://vietsciences.org Lê Anh Minh

14. TƯ KHẢO 思 考 – TRỊ THẾ 治 世

14. TƯ KHẢO 思 考 – TRỊ THẾ 治 世
Vietsciences- Lê Anh Minh dịch 10/07/2006 Tư tưởng Đạo gia


Tư tưởng Đạo gia 道家思想 ● Lê Anh Minh dịch





313. Bất dục dĩ tĩnh, thiên hạ tương tự định. [Đạo Đức Kinh, chương 37]

不欲以靜,天下將自定。《道德經 • 第三十七章》

【Dịch】Không ham muốn dễ được yên tĩnh, do đó thiên hạ sẽ ổn định.





314. Trị đại quốc, nhược phanh tiểu tiên. [Đạo Đức Kinh, chương 60]

治大國,若烹小鮮。《道德經 • 第六十章》

【Dịch】Cai trị một nước lớn giống như nấu con cá nhỏ.



315. Kỳ an dị trì kỳ vị triệu dị mưu. Kỳ thúy dị phán, kỳ vi dị tán. Vi chi ư vị hữu, trị chi ư vị loạn. [Đạo Đức Kinh, chương 64]

其安易持,其未兆易謀,其脆易泮,其微易散。為之於未有,治之於未亂。《道德經 • 第六十四章》

【Dịch】Vật ở yên thì dễ cầm; vật chưa hiện điềm báo hiệu thì dễ lo liệu; vật giòn thì dễ vỡ; vật nhỏ thì dễ phân tán. Hành động trước khi sự việc xảy ra; trị an trước khi loạn lạc nổi lên.



316. Dân chi nan trị, dĩ kỳ thượng chi hữu vi, thị dĩ nan trị. [Đạo Đức Kinh, chương 75]

民之難治,以其上之有為,是以難治。《道德經 • 第七十五章》

【Dịch】Dân khó trị, là do người trên thích chuyện hữu vi, cho nên dân khó trị.



317. Thiên đạo vô thân, hằng dữ thiện nhân. [Đạo Đức Kinh, chương 79]

天道無親,恆與善人。《道德經 • 第七十九章》

【Dịch】Thiên đạo không thiên ái, mà thường ban ân cho người lành.



318. Tiểu quốc quả dân, sử hữu thập bách nhân chi khí nhi bất dụng. Sử dân trọng tử nhi bất viễn tỷ. Tuy hữu chu dư, vô sở thừa chi. Tuy hữu giáp binh, vô sở trần chi. Sử dân phục kết thằng nhi dụng chi. Cam kỳ thực, mỹ kỳ phục, an kỳ cư, lạc kỳ tục. Lân quốc tương vọng. Kê khuyển chi thanh tương văn, Dân chí lão tử, bất tương vãng lai. [Đạo Đức Kinh, chương 80]

小國寡民。使有十百人之器而不用﹔使民重死而不遠徙。雖有舟輿,無所乘之﹔雖有甲兵,無所陳之。使民復結繩而用之。甘其食,美其服,安其居,樂其俗。鄰國相望,雞犬之聲相聞 ,民至老死,不相往來。《道德經 • 第八十章》

【Dịch】Nước nhỏ, dân ít. Dù có khí giới đủ cho 10 hay 100 người thì cũng không dùng đến. Dạy dân coi trọng cái chết để họ khỏi đi xa. Tuy có xe thuyền, mà chẳng khi dùng. Tuy có giáp binh, mà chẳng phô trương. Khiến dân trở lại việc thắt nút mà dùng. Ăn thấy ngon, mặc thấy đẹp, ở thấy yên, sống thấy sướng. Tuy các nước cận kề, nhìn thấy nhau, gà kêu chó sủa ở nước này thì nước kia đều nghe, nhưng người dân cho đến lúc già chết cũng chẳng qua lại thăm nhau.



319. Dân chi nan trị, dĩ kỳ trí đa. Cố dĩ trí trị quốc, quốc chi tặc. Bất dĩ trí trị quốc, quốc chi phúc. [Đạo Đức Kinh, chương 65]

民之難治,以其智多。故以智治國,國之賊﹔不以智治國,國之福。《道德經 • 第六十五章》

【Dịch】Dân khó trị là vì họ lắm mưu trí. Cho nên dùng mưu trí trị nước tức là hại nước; không dùng mưu trí trị nước tức là ích nước.



320. Quý dĩ thân vi thiên hạ giả, tắc khả ký vu thiên hạ. Ái dĩ thân vi thiên hạ giả, nãi khả dĩ thác vu thiên hạ. [Đạo Đức Kinh, chương 13]

貴以身為天下者,則可寄于天下。愛以身為天下者,乃可以托于天下。《道德經 • 第十三章》

【Dịch】Ai quý bản thân hơn việc thống trị thiên hạ thì người ta có thể gởi gấm thiên hạ cho. Ai yêu bản thân hơn việc thống trị thiên hạ thì người ta có thể gởi gấm thiên hạ cho.



321. Đại thánh chi trị thiên hạ dã, dao đãng dân tâm, sử chi thành giáo dịch tục, cử diệt kỳ tặc tâm nhi giai tiến kỳ độc chí. Nhược tính chi tự vi, nhi dân bất tri kỳ sở do nhiên. Nhược nhiên giả, khởi huống Nghiêu Thuấn chi giáo dân minh hãnh nhiên đệ chi tai? Dục đồng hồ đức nhi tâm cư hĩ! [Trang Tử, Thiên Địa]

大聖之治天下也,搖蕩民心,使之成教易俗,舉滅其賊心而皆進其獨志。若性之自為,而民不知其所由然。若然者,豈兄堯舜之教民溟涬弟之哉?欲同乎德而心居矣。《莊子 • 天地》

【Dịch】Bậc đại thánh cai trị dân thì cổ vũ tâm trí của họ, khiến họ thi hành các giáo huấn của ngài mà thay đổi thói xưa, diệt bỏ lòng hung ác của họ và giúp họ tiến bước theo ý chí riêng của họ. Họ tự làm như thể phát xuất từ bản tính mình nhưng họ không hiểu nguyên do tại sao. Nếu vậy, đâu cần gì cách dạy dân của Nghiêu Thuấn hay các sự xếp đặt hỗn độn? Chỉ mong hoà đồng với đức và tâm an tĩnh trong đó mà thôi.



322. Phù dân bất nan tụ dã, ái chi tắc thân, lợi chi tắc chí, dự chi tắc khuyến, trí kỳ sở ác tắc tán. [Trang Tử, Từ Vô Quỷ]

夫民不難聚也,愛之則親,利之則至,譽之則勸,致其所惡則散。《莊子 • 徐無鬼》

【Dịch】Ngày nay dễ dàng tụ tập dân chúng. Yêu dân, thì họ sẽ yêu lại ngươi; làm lợi cho họ thì họ sẽ đến với ngươi; khen ngợi họ thì họ sẽ phấn khởi và làm vui lòng ngươi; hễ khiến họ làm cái mà họ ghét thì họ sẽ phân tán.



323. Bình giả, thủy đình chi thịnh dã. Kỳ khả dĩ vi pháp dã, nội bảo chi nhi ngoại bất đãng dã. Đức giả, thành hòa chi tu dã. Đức bất hình giả, vật bất năng ly dã. [Trang Tử, Đức Sung Phù]

平者,水停之盛也。其可以為法也,內保之而外不蕩也。德者 ,成和之修也。德不形者,物不能離也。《莊子 • 德充符》

【Dịch】Cái bằng phẳng là sự yên tĩnh của mặt nước. Nó có thể là phép tắc cho ta noi theo. Bên trong thì nó bảo toàn yên ổn, bên ngoài thì không gì làm nó xao động. Đức là sự tu dưỡng để hoà thuận tự nhiên. Đức vô hình mà không vật nào lìa khỏi nó được.



324. Lễ nghĩa pháp độ giả, ứng thời nhi biến giả dã. [Trang Tử, Thiên Vận]

禮義法度者,應時而變者也。《莊子 • 天運》

【Dịch】Lễ nghĩa và phép tắc phải tuỳ thời mà thay đổi.



325. Lao nhi vô công, thân tắc hữu ương. [Trang Tử, Thiên Vận]

勞而無功,身必有殃。《莊子 • 天運》

【Dịch】Đã lao nhọc vô ích mà còn hại thân nữa.



326. Tuyệt thánh khí trí, nhi thiên hạ đại trị. [Trang Tử, Tại Hựu]

絕聖棄知,而天下大治。《莊子 • 在宥》

【Dịch】Hãy vất thánh bỏ trí, thiên hạ sẽ thịnh trị.



327. Tuyệt thánh khí trí, đại đạo nãi chỉ; trích ngọc hủy châu, tiểu đạo bất khởi; phần phù phá tỷ, nhi dân phác bỉ; phẫu đấu chiết hành, nhi dân bất tranh; đạn tàn thiên hạ chi thánh pháp, nhi dân thủy khả dữ luận nghị. [Trang Tử, Khư Khiếp]

絕聖棄知,大盜乃止;擿玉毀珠,小盜不起;焚符破璽,而民朴鄙;掊斗折衡,而民不爭;殫殘天下之聖法,而民始可與論議。《莊子 • 胠篋》

【Dịch】Vất thánh nhân bỏ trí tuệ, sẽ dứt bọn trộm lớn; ném ngọc đập châu, bọn trộm vặt sẽ không xuất hiện; đốt hổ phù đập ngọc tỷ, dân sẽ chất phác; phá cái đấu bẻ gãy cái cân, dân sẽ không tranh chấp; phế bỏ các phép tắc của thánh nhân áp đặt lên thiên hạ, mới có thể luận bàn với dân chúng.



328. Cố đức hữu sở trưởng, nhi hình hữu sở vong. Nhân bất vong kỳ sở vong, nhi vong kỳ sở bất vong, sở vị thành vong. [Trang Tử, Đức Sung Phù]

故德有所長,而形有所忘。人不忘其所忘,而忘其所不忘,此 謂誠忘。《莊子 • 德充符》

【Dịch】Cho nên khi đức của ai mà lớn, ngoại hình khiếm khuyết của hắn sẽ được người ta quên đi. Khi người ta không quên cái đáng quên (= ngoại hình) và quên cái không đáng quên (= đức), đó gọi là quên hết thật sự.



329. Vô lạc vô tri, thị chân lạc chân tri; cố vô sở bất lạc, vô sở bất tri, vô sở bất ưu, vô sở bất vi. [Liệt Tử, Trọng Ni]

無樂無知,是真樂真知;故無所不樂,無所不知,無所不憂,無所不為。《列子 • 仲尼》

【Dịch】Không vui và không biết mới là vui thật và biết thật; cho nên không gì mà không cảm thấy vui, không gì mà không biết, không gì mà không buồn, không gì mà không làm.



330. Sở quý thánh nhân chi trị, bất quý kỳ độc trị, quý kỳ năng dữ chúng cộng trị. [Doãn Văn Tử, quyển thượng]

所貴聖人之治,不貴其獨治,貴其能與眾共治。《尹文子 • 卷上》

【Dịch】[Đối với việc cai trị quốc gia] cần coi trọng cách cai trị của thánh nhân, không coi trọng cách cai trị của bản thân nhà vua, phải coi trọng cách cai trị trên cơ sở là sự hợp tác giữa cá nhân nhà vua với dân chúng.



331. Hữu lý nhi vô ích vu trị giả, quân tử phất ngôn; hữu năng nhi vô ích vu sự giả, quân tử phất vi. [Doãn Văn Tử, quyển thượng]

有理而無益于治者,君子弗言;有能而無益于事者,君子弗為。《尹文子 • 卷上》

【Dịch】Điều có lý nhưng không có ích cho việc trị nước thì bậc quân tử không nói ra; điều có thể làm nhưng chẳng ích lợi vào việc gì thì bậc quân tử không làm.



332. Quân, thiên hạ chi chí lý dã, liên vu hình vật diệc nhiên. [Liệt Tử, Thang Vấn]

均天下之至理也,連于形物亦然。《列子 • 湯問》

【Dịch】Quân bình là điều rất đúng đắn của thiên hạ, đối với sự vật hữu hình cũng đúng như thế.



333. Trị quốc giả nhược nậu điền, khử hại miêu giả nhi dĩ. [Hoài Nam Tử, Thuyết Sơn Huấn]

治國者若鎒田,去害苗者而已。《淮南子 • 說山訓》

【Dịch】Việc trị nước giống như việc trừ cỏ dại ở ruộng, chỉ cần trừ các thứ làm hại mạ và lúa non là được.



334. Thượng đa sự tắc hạ đa thái, thượng phiền nhiễu tắc hạ bất định, thượng đa cầu tắc hạ giao tranh. [Hoài Nam Tử, Chủ Thuật Huấn]

上多事則下多態,上煩擾則下不定,上多求則下交爭。《淮南子 • 主術訓》

【Dịch】Kẻ cai trị nếu sinh sự lắm điều, nhân dân có thái độ giả dối; kẻ cai trị nếu quấy nhiễu nhân dân, nhân dân không yên; kẻ cai trị nếu tham cầu, nhân dân cạnh tranh nhau.



335. Trị quốc thí nhược trương sắt, đại huyền căng, tắc tiểu huyền tuyệt hĩ. [Hoài Nam Tử, Mậu Xứng Huấn]

治國譬若張瑟,大弦緪,則小弦絕矣。《淮南子 • 繆稱訓》

【Dịch】Trị nước giống như lên dây đàn; dây lớn căng quá thì dây nhỏ đứt.



336. Thượng nhân thiên thời, hạ tận địa tài, trung dụng nhân tài. [Hoài Nam Tử, Chủ Thuật Huấn]

上因天時,下盡地財,中用人才。《淮南子 • 主術訓》

【Dịch】[Trị nước thì] trên phải dựa theo thiên thời, dưới phải lợi dụng tài vật của đất, giữa phải sử dụng nhân tài.







Tư tưởng Đạo gia 道家思想 ● Lê Anh Minh dịch

13. CHÍNH TRỊ 政 治 – CHIẾN TRANH 戰 爭

13. CHÍNH TRỊ 政 治 – CHIẾN TRANH 戰 爭
Vietsciences- Lê Anh Minh dịch 10/07/2006 Tư tưởng Đạo gia


Tư tưởng Đạo gia 道家思想 ● Lê Anh Minh dịch





281. Thiên hạ hữu đạo, khước tẩu mã dĩ phẩn. Thiên hạ vô đạo, nhung mã sinh vu giao. [Đạo Đức Kinh, chương 46]

天下有道,卻走馬以糞。天下無道,戎馬生于郊。《道德經 • 第四十六章》

【Dịch】Thiên hạ có Đạo thì tuấn mã bị đưa vào canh tác. Thiên hạ không Đạo thì ngựa chiến sinh sống ở biên cương.



282. Dân chi cơ, dĩ kỳ thượng thực thuế chi đa, thị dĩ cơ. [Đạo Đức Kinh, chương 75]

民之飢,以其上食稅之多,是以飢。《道德經 • 七十五章》

【Dịch】Dân đói. Bởi vì người trên thu thuế nhiều, nên dân mới đói.



283. Dĩ chính trị quốc. Dĩ kỳ dụng binh. Dĩ vô sự thủ thiên hạ. [Đạo Đức Kinh, chương 57]

以正治國,以奇用兵,以無事取天下。《道德經 • 第五十七章》

【Dịch】Lấy ngay thẳng để trị nước; lấy mưu trí để dùng binh; lấy vô sự để được thiên hạ.



284. Đại quốc giả, hạ lưu, thiên hạ chi tẫn dã, thiên hạ chi giao dã. Tẫn hằng dĩ tĩnh thắng mẫu. [Đạo Đức Kinh, chương 61]

大國者,下流,天下之牝也,天下之交也。牝恆以靜勝牡。《道德經.第六十一章》

【Dịch】Một quốc gia rộng lớn giống như vùng hạ lưu của một con sông; mang tính chất âm nhu (nữ tính) của thiên hạ; và là nơi thiên hạ giao hội. Nhờ bản chất tĩnh mà nữ thường thắng nam.



285. Phù từ dĩ chiến tắc thắng, dĩ thủ tắc cố. [Đạo Đức Kinh, chương 61]

夫慈,以戰則勝,以守則固。《道德經 • 第六十一章》

【Dịch】Lấy khoan từ để tranh đấu ắt sẽ thắng, để cố thủ ắt sẽ vững.



286. Dụng binh hữu ngôn, ngô bất cảm vi chủ, nhi vi khách. Bất cảm tiến thốn nhi thoái xích. Thị vị hành vô hành, nhương vô tý nhưng vô địch, chấp vô binh. Họa mạc đại ư khinh địch khinh địch cơ táng ngô bảo. Cố kháng binh tương gia, ai giả thắng hỹ. [Đạo Đức Kinh, chương 69]

用兵有言:吾不敢為主,而為客。不敢進寸而退尺。是謂行無行,攘無臂,扔無敵,執無兵。禍莫大於輕敵,輕敵幾喪吾寶。故抗兵相加,哀者勝矣。《道德經 • 第六十九章》

【Dịch】Dụng binh có câu: «Làm khách chớ không làm chủ. Lui một thước chớ không dám tiến một tấc.» Cho nên thánh nhân đi mà chẳng đi, xắn tay áo mà không dùng tay, bắt địch mà không đối địch, cầm binh khí mà không có binh khí. Không tai họa nào cho bằng khinh địch, khinh địch là gần mất mạng. Cho nên khi hai phe giao chiến, ai thương xót binh sĩ thì sẽ thắng.



287. Thiên địa bất nhân, dĩ vạn vật vi sô cẩu. Thánh nhân bất nhân, dĩ bách tính vi sô cẩu. [Đạo Đức Kinh, chương 5]

天地不仁,以萬物為芻狗。聖人不仁,以百姓為芻狗。《道德經 • 第五章》

【Dịch】Trời đất không có lòng nhân, coi bách tính như chó rơm. Thánh nhân không có lòng nhân, coi bách tính như chó rơm.



288. Dân bất úy tử, nại hà dĩ tử cụ chi? Nhược sử dân thường úy tử, nhi vi kỳ giả, ngô đắc chấp nhi sát chi, thục cảm. Thường hữu tư sát giả sát. Phù đại tư sát giả sát. Thị vị đại đại tượng trác. Phù đại đại tượng trác giả, hi hữu bất thương kỳ thủ hĩ. [Đạo Đức Kinh, chương 74]

民不畏死,奈何以死懼之?若使民常畏死,而為奇者,吾得執而殺之,孰敢?常有司殺者殺。夫代司殺者殺,是謂代大匠斲。夫代大匠斲者,希有不傷其手矣。《道德經 • 第七十四章》

【Dịch】Khi dân không sợ chết, sao lấy cái chết làm cho họ sợ được? Nếu ta khiến dân thường sợ chết, hễ ai phạm pháp thì ta có quyền bắt kẻ ấy giết đi. Như vậy, không ai dám phạm pháp nữa. [Trên trời] thường có vị Tư sát, được quyền giết người [phạm lỗi]. Nay ta lại thay ngài mà giết, thì có khác nào [thợ rởm] muốn đẽo gỗ thay thợ giỏi đâu? Muốn thay thợ giỏi mà đẽo gỗ, ắt khó tránh thương tật.



289. Phù vi thiên hạ giả, diệc hề dĩ dị hồ mục mã giả tai! Diệc khử kỳ hại mã giả nhi dĩ hĩ! [Trang Tử, Từ Vô Quỷ]

夫為天下者,亦奚以異乎牧馬者哉!亦去其害馬者而已矣。《莊子 • 徐無鬼》

【Dịch】Kẻ trị thiên hạ nào khác gì kẻ chăn ngựa! Chỉ cần trừ khử cái làm hại ngựa mà thôi.



290. Quân vi chính yên vật lỗ mãng, trị dân yên vật diệt liệt. [Trang Tử, Tắc Dương]

君為政焉勿鹵莽,治民焉勿滅裂。《莊子 • 則陽》

【Dịch】Ngài tham chính thì chớ lỗ mãng, cai trị dân thì chớ khinh suất.



291. Ngô nguyện khử quân chi lụy, trừ quân chi ưu, nhi độc dữ đạo du vu đại mạc chi quốc. [Trang Tử, Sơn Mộc]

吾愿去君之累,除君之憂,而獨與道游于大莫之國。《莊子 • 山木》

【Dịch】Tôi nguyện khử bỏ mối vướng bận của ngài, trừ đi cái ưu tư của ngài, để ngài một mình tiêu dao với Đạo trong cõi mênh mông tịch mịch.



292. Cổ chi súc thiên hạ giả, vô dục nhi thiên hạ túc, vô vi nhi vạn vật hoá, uyên tĩnh nhi bách tính định. [Trang Tử, Thiên Địa]

古之畜天下者,無欲而天下足,無為而萬物化,淵靜不百姓定。《莊子 • 天地》

【Dịch】Thời xưa, người nuôi dưỡng thiên hạ vô dục mà thiên hạ đầy đủ; vô vi mà thiên hạ biến hoá; yên lặng như vực sâu mà bách tính ổn định.



293. Hiếu tử bất du kỳ thân, trung thần bất siểm kỳ quân, thần tử chi thịnh dã. [Trang Tử, Thiên Địa]

孝子不諛其親,忠臣不諂其君,臣子之盛也。《莊子 • 天地》

【Dịch】Con hiếu không a dua cha mẹ, tôi trung không siểm nịnh vua, đó là điều tốt nhất của phận làm tôi và làm con.



294. Thiên địa tuy đại, kỳ hoá quân dã; vạn vật tuy đa, kỳ trị nhất dã; nhân tốt tuy chúng, kỳ chủ quân dã. Quân nguyên vu đức nhi thành vu thiên. [Trang Tử, Thiên Địa]

天地雖大其化均也;萬物雖多其治一也,人卒雖眾,其主君也。君原于德而成于天。《莊子 • 天地》

【Dịch】Trời đất tuy lớn nhưng trời đất chuyển hoá vạn vật một cách quân bình; vạn vật tuy nhiều nhưng chúng đều bị thống trị một cách thống nhất; dân chúng tuy đông nhưng chủ của họ là vua. Ông vua này đặt nền tảng nơi Đức và được hoàn thiện nơi Trời.



295. Bỉ dân hữu thường tính, chức nhi y, canh nhi thực, thị vị đồng đức. Nhất nhi bất đảng, mệnh viết thiên phóng. [Trang Tử, Mã Đề]

彼民有常性,織而衣,耕而食,是謂同德。一而不黨,命曰天放。《莊子 • 馬蹄》

【Dịch】Dân có bản tính bất biến. Họ tự dệt vải để mặc, tự cày cấy để ăn. Đức của họ giống nhau. Họ thống nhất, mà không kéo bè kết đảng. Đó gọi là tuân theo tự nhiên.



296. Minh vương chi trị, công cái thiên hạ nhi tự bất tự kỷ, hoá hoá vạn vật nhi dân phất thị. Hữu mạc cử danh, sử vật tự hỉ. [Trang Tử, Ứng Đế Vương]

明王之治,功蓋天下而似不自己,化貨萬物而民弗恃。有莫舉名,使物自喜。《莊子 • 應帝王》

【Dịch】Minh vương cai trị thiên hạ, công trạng bao trùm thiên hạ mà tựa như không nhận là công lao của mình; giáo hoá vạn vật nhưng dân chúng không cảm nhận sự nương tựa đó; tuy công trạng nhiều nhưng minh vương không kể công, khiến vạn vật ai cũng có niềm vui.



297. Nhữ du tâm vu đạm, hợp khí vu mạc, thuận vật tự nhiên nhi vô dung tư yên, nhi thiên hạ trị hĩ. [Trang Tử, Ứng Đế Vương]

汝游心于淡,合氣于漠,順物自然而無容私焉,而天下治矣。《莊子 • 應帝王》

【Dịch】Ngươi hãy để tâm an vui tự tại trong cõi hư vô tịch mịch; hãy giữ cho khí bình hoà yên tĩnh; hãy thuận theo sự tư nhiên của vạn vật và chớ có thành kiến riêng. Như vậy thiên hạ sẽ thịnh trị.



298. Lai thế bất khả đãi, vãng thế bất khả truy dã. Thiên hạ hữu đạo, thánh nhân thành yên; thiên hạ vô đạo, thánh nhân sinh yên. Phương kim chi thời, cận miễn hình yên! Phúc khinh hồ vũ, mạc chi tri tái; hoạ trọng hồ địa, mạc chi tri tỵ. Dĩ hồ, dĩ hồ! Lâm nhân dĩ đức. Đãi hồ, đãi hồ! Hoạ địa nhi xu. Mê dương mê dương, vô thương ngô hành. Ngô hành khích khúc, vô thương ngô túc. [Trang Tử, Nhân Gian Thế]

來世不可待,往世不可追也。天下有道,聖人成焉;天下無道,聖人生焉。方今之時,僅免刑焉!福輕乎羽,莫之知載;禍重乎地,莫之知避。已乎,已乎!臨人以德。殆乎,殆乎!畫地而趨。迷陽迷陽,無傷吾行。吾行郤曲,無傷吾足。《莊子 • 人間世》

【Dịch】Kỳ vọng chi ở đời sau, cứu vãn chi ở đời trước? Thiên hạ có đạo, thánh nhân thành tựu sự nghiệp; thiên hạ vô đạo, thánh nhân chỉ mong giữ được thân. Đời nay chỉ mong tránh được hình phạt. Phúc nhẹ như lông hồng mà không ai biết mang; hoạ nặng như đất mà không ai biết tránh. Thôi đi! Thôi đừng đem đạo đức đến với người đời! Nguy rồi! Nguy vì tự vẽ một vòng tròn trên mặt đất và chạy lẩn quẩn trong đó. Gai góc, gai góc! Ta đi, đừng làm ta đau. Đường ta đi khúc khuỷu, đừng làm chân ta đau!



299. Chí đức chi thế, bất thượng hiền, bất sử năng, thượng như tiêu chi, dân như dã lộc. Đoan chính nhi bất tri dĩ vi nghĩa, tương ái nhi bất tri dĩ vi nhân, thực nhi bất tri dĩ vi trung, đương nhi bất tri dĩ vi tín, xuẩn động nhi tương sử bất dĩ vi tứ. [Trang Tử, Thiên Địa]

至德之世,不尚賢,不使能,上如標枝,民如野鹿。端正而不知以為義,相愛而不知以為仁,實而不知以為忠,當而不知以為信,蠢動而相使不以為賜。《莊子 • 天地》

【Dịch】Thời chí đức người hiền không được quý trọng, tài năng họ không được dùng. Kẻ cai trị được xem như nhánh cây trên cao. Dân chúng như bầy nai hoang dã. Họ đoan chính mà không hề biết đó là nghĩa; họ thương yêu lẫn nhau mà không hề biết đó là nhân; họ thành thực mà không hề biết đó là trung; họ đảm đương việc mà không hề biết đó là tín; họ hành động chất phác và sử dụng lẫn nhau mà không hề biết đó là ban tặng.



300. Thiện tri xạ giả bất quý kỳ trúng, quý kỳ sở dĩ tất trúng dã; thiện tri lý quốc lý thân giả diệc bất quý kỳ tồn, quý kỳ sở dĩ tất tồn. [Liệt Tử, Thuyết Phù]

善知射者不貴其中,貴其所以必中也;善知理國理身者亦不貴其存,貴其所以必存。《列子 • 說符》

【Dịch】Người thiện xạ không quý sự bắn trúng mà quý lý do tại sao lại bắn trúng; người trị nước và tu thân cũng không quý sự tồn vong mà quý cái lý lẽ tại sao lại tồn vong.



301. Thiện trì thắng giả dĩ cường vi nhược. [Liệt Tử, Thuyết Phù]

善持勝者以強為弱.《列子 • 說符》

【Dịch】Người giỏi giữ gìn thắng lợi thì biết xem cái mạnh là cái yếu.



302. Trị quốc chi nan tại vu tri hiền nhi bất tại tự hiền. [Liệt Tử, Thuyết Phù]

治國之難在于知賢而不在自賢。《列子 • 說符》

【Dịch】Cái khó trong việc cai trị nước là ở chỗ nhận ra ai là người hiền trong dân chúng, chứ không phải ở chỗ người cai trị tự xem mình là người hiền.



303. Thần vị thường văn thân trị nhi quốc loạn giả dã, hựu vị thường văn thân loạn nhi quốc trị giả dã. [Liệt Tử, Thuyết Phù]

臣 未嘗聞身治而國亂者也,又未嘗聞身亂而國治者也。《列子 • 說符》

【Dịch】Hạ thần chưa từng nghe nói bản thân [vua] có tu dưỡng mà quốc gia lại loạn lạc, và cũng chưa từng nghe nói bản thân [vua] thác loạn mà quốc gia lại thịnh trị bao giờ.



304. Cẩu lợi vu dân, bất tất pháp cổ; cẩu chu vu sự, bất tất tuần cựu. [Hoài Nam Tử, Phạm Luận Huấn]

苟利于民,不必法古;苟周于事,不必循舊。《淮南子 • 氾論訓》

【Dịch】Nếu có lợi cho dân, thì không cần noi theo phép xưa; nếu sự việc phù hợp, thì không cần tuân theo lệ cũ.



305. Thượng cầu tài, thần tàn mộc; thượng cầu ngư, thần can cốc. [Hoài Nam Tử, Thuyết Sơn Huấn]

上求材,臣殘木;上求魚,臣干谷。《淮南子 • 說山訓》

【Dịch】Vua mong muốn gỗ thì thần dân tàn phá cây; vua mong muốn cá thì thần dân tát cạn sơn cốc.



306. Vô phúc sào, sát thai yểu. [Hoài Nam Tử, Thời Tắc Huấn]

毋覆巢,殺胎夭。《淮南子 • 時則訓》

【Dịch】Đừng lập úp tổ chim và đừng giết các thứ cầm thú sơ sinh.



307. Thủy trọc giả ngư nghiệm, lịnh hà giả dân loạn, thành tiễu giả tất băng, ngạn sanh giả tất đà. [Hoài Nam Tử, Mậu Xưng Huấn]

水濁者魚噞,令荷者民亂,城峭者必崩,岸崝者必陀。《淮南子 • 繆稱訓》

【Dịch】Nước đục, cá ắt ngoi lên mặt nước để thở; lệnh vua hà khắc, dân ắt nổi loạn; thành quách cao chót vót ắt đổ lở; bờ sông cao ắt sụp lở.



308. Khí loạn tắc trí hôn, trí hôn bất khả dĩ vi chính. [Hoài Nam Tử, Tề Tục Huấn]

氣亂則智昏,智昏不可為政。《淮南子 • 齊俗訓》

【Dịch】Khí loạn thì trí tuệ hôn ám, trí tuệ hôn ám thì không thể xử lý việc chính trị được.



309. Bệnh khốn nãi trọng lương y; thế loạn nhi quý trung trinh. [Bão Phác Tử, Quảng Thí]

病困乃重良醫;世亂而貴忠貞。《抱朴子 • 廣譬》

【Dịch】Bệnh tình nguy khốn mới quý trọng thầy thuốc giỏi; đời loạn mới quý trọng bầy tôi trung trinh.



310. Thát đa tắc thủy nhiễu, ưng chúng tắc điểu loạn. [Bão Phác Tử, Cật Bào]

獺多則魚擾,鷹眾則鳥亂。《抱朴子 • 詰鮑》

【Dịch】Rái cá nhiều, loài cá ắt hỗn loạn; chim ưng nhiều, loài chim ắt hỗn loạn.



311. Minh vương chi dụng binh dã, vi thiên hạ trừ hại, nhi dữ vạn dân cộng hưởng kỳ lợi. Dân chi vi dụng, do tử chi vi phụ, đệ chi vi huynh, uy chi sở gia, nhược băng sơn quyết đường, địch thục cảm đương! [Bão Phác Tử, Binh Lược]

明王之用兵也,為天下除害,而與萬民共享其利。民之為用,猶子之為父,弟之為兄,威之所加,若崩山決塘,敵孰敢當! 《抱朴子 • 兵略》

【Dịch】Minh vương dùng binh là để trừ tai hoạ cho thiên hạ, và chung hưởng lợi ích với muôn dân. Do đó, khi vua sử dụng dân, dân giống như con phục vụ cho cha, em phục vụ cho anh. Uy lực quân đội gia tăng đến mức này có thể làm cho đổ lở núi, sụp bờ đê; địch quân có ai dám ra tay!



312. Tác tranh giả hung, bất tranh giả diệc vô thành công. [Thập Lục Kinh, Ngũ Chính]

作爭者凶,不爭者亦無成功。《十六經 • 五政》

【Dịch】Gây chiến tranh ắt phải có sự hung tàn nguy hiểm, [nhưng khi đang tiến hành chiến tranh] kẻ nào không đánh ắt sẽ không thành tựu sự nghiệp.





Tư tưởng Đạo gia 道家思想 ● Lê Anh Minh dịch

12. THẾ THÁI 世 態 – NHÂN TÌNH 人 情

12. THẾ THÁI 世 態 – NHÂN TÌNH 人 情



Tư tưởng Đạo gia 道家思想 ● Lê Anh Minh dịch




262. Đại Đạo phế, hữu nhân nghĩa. Trí huệ xuất, hữu đại ngụy. Lục thân bất hòa, hữu hiếu tử. Quốc gia hôn loạn, hữu trung thần. [Đạo Đức Kinh, chương 18]

大道廢,有仁義﹔智慧出,有大偽﹔六親不和,有孝慈﹔國家昏亂,有忠臣。《道德經 • 第十八章》

【Dịch】Khi đại đạo bị phế thì mới có nhân và nghĩa; khi trí huệ xuất hiện thì mới có đại giả trá ngụy biện; khi lục thân bất hòa thì mới có hiếu kính và từ ái; khi quốc gia hôn ám rối loạn thì mới có trung thần.



263. Đại Đạo thậm di nhi dân háo kính. Triều thậm trừ, điền thậm vu, thương thậm hư, phục văn thái, đái lợi kiếm, yếm ẩm thực, tài hóa hữu dư, thị vị đạo khoa, phi Đạo dã tai. [Đạo Đức Kinh, chương 53]

大道甚夷,而民好徑。朝甚除,田甚蕪,倉甚虛,服文彩,帶利劍,厭飲食,財貨有餘,是謂盜夸。非道也哉。《道德經 • 第53 章》

【Dịch】Đại đạo giản dị, thế mà con người lại thích bàng môn tả đạo. Triều đình lộng lẫy, ruộng nương hoang vu, kho lẫm trống hoác. Ăn mặc xênh xang, mang kiếm bén, ăn uống chán chê, đó gọi là đạo tặc khoe khoang, không phải là [noi theo] đại đạo.



264. Trực mộc tiên phạt, cam tỉnh tiên kiệt. [Trang Tử, Sơn Mộc]

直木先伐,甘井先竭。《莊子 • 山木》

【Dịch】Cây thẳng bị đốn trước, giếng ngọt bị cạn trước.



265. Phù chí đức chi thế, đồng dữ cầm thú cư, tộc dữ vạn vật tịnh, ô hồ tri quân tử tiểu nhân tai! Đồng hồ vô tri, kỳ đức bất ly; đồng hồ vô dục, thị vị tố phác. Tố phác nhi dân tính đắc hĩ. Cập chí thánh nhân, biết tát vi nhân, trĩ kỳ vi nghĩa, nhi thiên hạ thủy nghi hĩ. Thiền mạn vi lạc, trích tịch vi lễ, nhi thiên hạ thủy phân hĩ. Cố thuần phác bất tàn, thục vi hi tôn! Bạch ngọc bất hủy, thục vi khuê chương! Đạo đức bất phế, an thủ nhân nghĩa! Tính tình bất ly, an dụng lễ nhạc! Ngũ sắc bất loạn, thục vi văn thái! Ngũ thanh bất loạn, thục ứng lục luật! Phù tàn phác dĩ vi khí, công tượng chi tội dã; hủy đạo đức dĩ vi nhân nghĩa, thánh nhân chi quá dã. [Trang Tử, Mã Đề]

夫至德之世,同與禽獸居,族與萬物并,惡乎知君子小人哉!同乎無知,其德不離;同乎無欲,是以素朴。素朴而民性得矣。及至聖人,蹩躠為仁,踶跂為義,而天下始疑矣。澶漫為樂,摘僻為禮,而天下始分矣。故純朴不殘,孰為犧尊!白玉不毀,孰為珪璋!道德不廢,安取仁義!性情不離,安用禮樂!五色不亂,孰為文釆!五聲不亂,孰應六律!夫殘朴以為器,工匠之罪也;毀道德以為仁義,聖人之過也。《莊子 • 馬蹄》

【Dịch】Trong thời chí đức, loài người sống lẫn với cầm thú, đồng đẳng với vạn vật [như một nhà], nào có phân biệt quân tử với tiểu nhân? Vạn vật vô tri như nhau, không rời bỏ đức tính tự nhiên của mình; họ cùng vô dục như nhau, nên gọi là chất phác. Chất phác tức là bản tính của dân chúng còn giữ được. Đến khi thánh nhân xuất hiện, tận tâm gắng sức làm điều nhân và nghĩa, thế là dân chúng bắt đầu rối tâm loạn trí. Thánh nhân cũng phóng túng âm nhạc và câu nệ nghi lễ, thế là dân chúng bắt đầu chia rẽ nhau. Nếu sự thuần phác không bị đẽo gọt thì sao có tửu khí để cúng? Nếu không hủy phá ngọc trắng thì sao có ngọc khuê ngọc chương [làm quai các cốc rượu để cúng]? Nếu đạo đức không bị phế thì sao có nhân nghĩa? Nếu tính và tình không phân ly thì sao dùng được lễ nhạc? Nếu năm màu không loạn thì sao có kiểu trang sức này nọ? Nếu năm thanh không rối thì sao có luật tắc âm nhạc? Tạc đẽo gỗ để làm vật dụng là tội ác của thợ khéo tay. Hủy bỏ đạo đức để thi hành nhân nghĩa đó là lỗi lầm của thánh nhân.



266. Phù Hách Tư thị chi thời, dân cư bất tri sở vi, hành bất tri sở chi, hàm bộ nhi nhiên, cổ phúc nhi du, dân năng dĩ thử hĩ! Cập chí thánh nhân, khuất chiết lễ nhạc dĩ khuông thiên hạ chi hình, huyện kỳ nhân nghĩa dĩ ủy thiên hạ chi tâm, nhi dân nãi thủy trĩ kỳ háo tri, tranh quy vu lợi, bất khả chỉ dã. Thử diệc thánh nhân chi quá dã. [Trang Tử, Mã Đề]

夫赫胥氏之時,民居不知所為,行不知所之,含哺而然,鼓腹而游,民能以此矣!及至聖人,屈折禮樂以匡天下之形,縣跂仁義以慰天下之心,而民乃始踶跂好知,爭歸于利,不可止也。此亦聖人之過也。《莊子 • 馬蹄》

【Dịch】Thời vua Hách Tư, dân chúng ở trong chỗ trú ẩn mà không biết mình làm gì; đi ra khỏi chỗ ở mà không biết mình đi đâu; vui thích với thức ăn trong miệng; ăn no thì vỗ bụng đi chơi. Khả năng họ chỉ thế thôi. Đến khi thánh nhân xuất hiện, uốn nắn lễ nhạc để khuôn định hành vi và cử chỉ của con người, đề xướng nhân nghĩa để xoa dịu tâm họ. Từ đó dân chúng mới gắng sức ham trí xảo, tranh giành nhau chỉ vì tư lợi, không ai ngăn họ được nữa. Đây cũng là lỗi lầm của thánh nhân vậy.



267. Phù xuyên kiệt nhi cốc hư, khâu di nhi uyên thực. Thánh nhân dĩ tử, tắc đại đạo bất khởi, thiên hạ bình nhi vô cố hĩ! Thánh nhân bất tử, đại đạo bất chỉ. Tuy trọng thánh nhân nhi trị thiên hạ, tắc thị trọng lợi đạo chích dã. Vi chi đấu hộc dĩ lượng chi, tắc tịnh dữ đấu hộc nhi thiết chi; vi chi nhân nghĩa dĩ kiểu chi, tắc tịnh dữ nhân nghĩa nhi thiết chi. Hà dĩ tri kỳ nhiên da? Bỉ thiết câu giả tru, thiết quốc giả vi chư hầu, chư hầu chi môn nhi nhân nghĩa tồn yên, tắc thị phi thiết nhân nghĩa thánh tri da? Cố trục vu đại đạo, yết chư hầu, thiết nhân nghĩa tịnh đấu hộc, quyền hành, phù tỷ chi lợi giả, tuy hữu hiên miện chi thưởng phất năng khuyến, phủ việt chi uy phất năng cấm. Thử trọng lợi đạo chích nhi sử bất khả cấm giả, thị nãi thánh nhân chi quá dã. [Trang Tử, Khư Khiếp]

夫川竭而谷虛,丘夷而淵實。聖人已死,則大盜不起,天下平而無故矣!聖人不死,大盜不止。雖重聖人而治天下,則是重利盜跖也。為之斗斛以量之,則并與斗斛而竊之;為之權衡而稱之,則并與權衡而竊之;為之符璽以信之,則并與符璽而竊之;為之仁義以矯之,則并與仁義而竊之。何以知其然邪?彼竊鉤者誅,竊國者為諸侯,諸侯之門而仁義存焉,則是非竊仁義聖知邪?故逐于大盜,揭諸侯,竊仁義并斗斛、權衡、符璽之利者,雖有軒冕之賞弗能勸,斧鉞之威弗能禁。此重利盜跖而使不可禁者,是乃聖人之過也。《莊子 • 胠篋》

【Dịch】Khi suối cạn, thung lũng trống; khi gò bị san bằng, ao sâu cạnh nó sẽ bị lấp đầy. Khi thánh nhân chết, bọn trộm lớn sẽ không nổi dậy; thiên hạ yên bình và không còn rối loạn nữa. Khi thánh nhân chưa chết thì bọn trộm lớn còn hoài. Thánh nhân càng trị thiên hạ thì bọn trộm như Đạo Chích càng thêm lợi. Nếu chế tạo cho thiên hạ cái đấu cái hộc để đo lường, thì thậm chí bằng thứ đấu hộc ấy ta đã dạy họ trộm cắp. Nếu chế tạo cho thiên hạ cái cân và quả cân, thì thậm chí bằng thứ cân và quả cân ấy ta đã dạy họ trộm cắp. Nếu chế tạo cho thiên hạ các tín vật như lệnh phù và ấn triện, thì thậm chí bằng thứ lệnh phù và ấn triện ấy ta đã dạy họ trộm cắp. Nếu qui định nhân nghĩa cho thiên hạ để uốn nắn họ, thì thậm chí bằng thứ nhân nghĩa ấy ta đã dạy họ trộm cắp. Làm sao ta biết được nó như thế? Kẻ trộm cắp một cái móc gắn đai lưng thì bị giết; kẻ trộm cắp một nước thì thành chư hầu. Ở môn hộ của chư hầu ta thấy tồn chứa nhân nghĩa, đó chẳng phải là trộm cắp nhân và nghĩa, thánh và trí hay sao? Cho nên họ vội trở thành bọn trộm lớn, làm chư hầu, trộm cắp nhân nghĩa với mọi lợi lộc từ việc sử dụng đấu hộc, cái cân, lệnh phù ấn triện. Thậm chí các tước lộc (xe, mũ) của quan cũng không ảnh hưởng đến họ [để họ đi sang nẻo khác]; và uy lực của các thứ hình cụ như rìu búa cũng không làm họ sợ mà chùn tay. Cái lợi này thật lớn đối với kẻ trộm như Đạo Chích, cho nên không ai cấm chỉ được chúng. Đây là lầm lỗi của thánh nhân.



268. Dĩ xảo đấu lực giả, thủy hồ dương, thường tốt hồ âm, thái chí tắc đa kỳ xảo; dĩ lễ ẩm tửu giả, thủy hồ trị, thường tốt hồ loạn, thái chí đa kỳ lạc. Phàm sự diệc nhiên, thủy hồ lượng, thường tốt hồ bỉ; kỳ tác thủy dã giản, kỳ tương tất dã tất cự. [Trang Tử, Nhân Gian Thế]

以巧斗力者,始乎陽,常卒乎陰,泰至則多奇巧;以禮飲酒者,始乎治,常卒乎亂,泰至多奇樂。凡事亦然,始乎諒,常卒乎鄙;其作始也簡,其將畢也必巨。《莊子 • 人間世》

【Dịch】Kẻ dùng trí xảo để thắng đối phương trong cuộc đấu sức, ban đầu thì đấu công khai đàng hoàng, nhưng kết cục thì thường dùng mưu mẹo, khi trận đấu lên đến cao trào thì họ dùng quỷ kế. Kẻ lấy lễ để uống rượu, ban đầu thì uống nghiêm chỉnh, nhưng kết cục thì thường hỗn loạn. Khi tiệc rượu lên đến cao trào thì họ cũng vui sướng cực điểm [và tung hê tất cả]. Sự đời cũng đúng như thế. Khởi đầu là thành tín, kết thúc là dối lừa; khởi đầu là nhỏ nhặt, kết thúc là lớn chuyện.



269. Dự sinh tắc hủy tùy chi, thiện hiện tắc oán tòng chi. [Hoài Nam Tử, Thuyên Ngôn Huấn]

譽生則毀隨之,善見則怨從之。《淮南子 • 詮言訓》

【Dịch】Khen ngợi phát sinh thì phỉ báng nối tiếp theo sau. điều thiện xuất hiện thì oán hận nối tiếp theo sau.



270. Lương tuấn bại vu chuyết ngự, trí sĩ chất vu ám thế. [Bão Phác Tử Ngoại Thiên, Quan Lý]

良駿敗于拙御,智士躓于暗世。《抱朴子外篇 • 官理》

【Dịch】Ngựa giỏi bị hỏng vì tay xa phu kém; kẻ sĩ tài trí bị khốn đốn vì thời thế hôn ám.



271. Tân kiếm dĩ trá khắc gia giá, tệ phương dĩ ngụy đề hiện bảo. [Bãõo Phác Tử Ngoại Thiên, Quân Thế]

新劍以詐刻加價,弊方以偽題見寶。《抱朴子 • 外篇鈞世》

【Dịch】Kiếm mới nhờ chữ khắc giả mạo trên nó mà tăng thêm giá trị; thang thuốc dở nhờ ghi giả mạo tên họ danh y lên nó mà trở thành thuốc quý.



272. Phù lưỡng hỉ tất đa dật mỹ chi ngôn, lưỡng nộ tất đa dật ác chi ngôn. Phàm dật chi loại vọng, vọng tắc kỳ tín chi dã mạc, mạc tắc truyền ngôn giả ương. [Trang Tử, Nhân Gian Thế]

夫兩喜必多溢美之言,兩怒必多溢惡之言。凡溢之類妄,妄則其信之也莫,莫則傳言者殃。《莊子 • 人間世》

【Dịch】Nếu hai bên đều vui vẻ hả hê, tất họ tha hồ tâng bốc nhau; còn như giận nhau, tất họ tha hồ khuếch đại điều xấu của nhau. Hễ quá mức ắt là sai lệch; lời sai lệch ắt không đáng tin; như thế kẻ truyền đạt lại lời nói ấy sẽ bị tai họa.



273. Tương vi khư khiếp, thám nang, phát quỹ chi đạo nhi vi thủ bị, tắc tất nhiếp giam đằng, cố quýnh quyết, thử thế tục chi sở vị tri dã. Nhiên nhi cự đạo chí, tắc phụ quỹ, yết khiếp, đảm nang nhi xu, duy khủng giam đằng, quýnh quyết chi bất cố dã. Nhiên tắc hương chi sở vị tri giả, bất nãi vi đại đạo tích giả dã? [Trang Tử, Khư Khiếp]

將為胠篋、探囊、發匱之盜而為守備,則必攝緘滕,固扃鐍,此世俗之所謂知也。然而巨盜至,則負匱、揭篋、擔囊而趨,唯恐緘滕、扃鐍之不固也。然則鄉之所謂知者,不乃為大盜積者也。《莊子 • 胠篋》

【Dịch】Đề phòng bọn trộm chuyên cạy tráp, moi đãy, mở tủ, tất ta dùng dây cột chặt, dùng khoá móc và then cài. Như thế người đời gọi là khôn. Nhưng khi một tên trộm lớn đến, hắn vác tủ, khuân tráp, đeo đãy chạy mất; hắn chỉ sợ dây nhợ và móc khoá không được chắc thôi. Vậy thì cái ban đầu được xem là khôn bây giờ chẳng phải là giúp cho kẻ trộm khuân đi trọn hay sao?



274. Nhân tâm bài hạ nhi tiến thượng, thượng hạ tù sát, xước ước nhu hồ cương cường, liêm quế điêu trác, kỳ nhiệt tiêu hỏa, kỳ hàn ngưng băng, kỳ tật phủ ngưỡng chi gian nhi tái phủ tứ hải chi ngoại. Kỳ cư dã, uyên nhi tĩnh; kỳ động dã, huyện nhi thiên. Phẫn kiêu nhi bất khả hệ giả, kỳ duy nhân tâm hồ! [Trang Tử, Tại Hựu]

人心排下而進上,上下囚殺,淖約柔乎剛疆,廉劌雕琢,其熱焦火,其寒凝冰,其疾俯仰之間而再撫四海之外。其居也,淵而靜;其動也,縣而天。憤驕而不可系者,其唯人心乎!《莊子 • 在宥》

【Dịch】Lòng người ghét bỏ địa vị thấp mà mong tiến lên địa vị cao. Vì địa vị cao thấp mà người ta tận dụng tâm cơ, vất vả khác nào bị giam cầm bức bách. Mềm yếu phục tòng cứng mạnh; góc cạnh nhọn bén bị đẽo gọt mất. Lòng người hễ nồng nhiệt thì như lửa cháy hừng hực, hễ nguội lạnh thì như giá băng. Sự nhanh lẹ của tâm là trong thời gian cúi và ngẩng đầu, nó phóng vượt ra ngoài bốn bể rồi quay về. Khi ở yên, tâm tĩnh như vực sâu [khó dò]; khi động, tâm [lung linh huyền diệu khôn lường] như treo trên trời. Sự hưng phấn và kiêu ngạo của tâm thì không thể nào kiềm chế được. Nhân tâm chỉ vậy thôi!



275. Thế tục chi nhân, giai hỉ nhân chi đồng hồ kỷ nhi ố nhân chi dị hồ kỷ dã. Đồng vu kỷ nhi dục chi, dị vu kỷ nhi bất dục giả, dĩ xuất hồ chúng vi tâm dã. Phù dĩ xuất hồ chúng vi tâm giả, hạt thường xuất hồ chúng tai? [Trang Tử, Tại Hựu]

世俗之人,皆喜人之同乎己而惡人之異乎己也。同于己而欲之,異于己而不欲者,以出乎眾為心也。夫以出乎眾為心者,曷常出乎眾哉?《莊子 • 在宥》

【Dịch】Người thế tục đều thích kẻ đồng ý với mình mà ghét kẻ khác ý với mình. Việc thích và ghét này là do lòng họ muốn vượt trội hơn kẻ khác. Nhưng kẻ có tâm địa như vậy đã từng vượt trội được người khác hay sao?



276. Trí sĩ vô tư lự chi biến tắc bất lạc; biện sĩ vô đàm thuyết chi tự tắc bất lạc; sát sĩ vô lăng toái chi sự tắc bất lạc: giai hữu vu vật giả dã. Chiêu thế chi sĩ hưng triều, trung dân chi sĩ vinh quan, cân lực chi sĩ căng nan, dũng cảm chi sĩ phấn hoạn, binh cách chi sĩ lạc chiến, khô cảo chi sĩ túc danh, pháp luật chi sĩ quảng trị, lễ giáo chi sĩ kính dung, nhân nghĩa chi sĩ quý tế. Nông phu vô thảo lai chi sự tắc bất tỷ, thương cổ vô thị tỉnh chi sự tắc bất tỷ, thứ nhân hữu đán mộ chi nghiệp tắc khuyến, bách công hữu khí giới chi xảo tắc tráng. Tiến tài bất tích tắc tham giả ưu, quyền thế bất vưu tắc khoa giả bi, thế vật chi đồ lạc biến. Tao thời hữu sở dụng, bất năng vô vi dã, thử giai thuận tỷ vu tuế, bất vật vu dị giả dã. Trì kỳ hình tính, tiềm chi vạn vật, chung thân bất phản, bi phù! [Trang Tử, Từ Vô Quỷ]

知士無思慮之變則不樂;辯士無談說之序則不樂;察士無凌誶之事則不樂 : 皆囿于物者也。招世之士興朝,中民之士榮官。筋力之士矜難,勇敢之士奮患,兵革之士樂戰,枯槁之士宿名,法律之士廣治,禮教之士敬容,仁義之士貴際。農夫無草萊之事則不比,商賈無市井之事則不比,庶人有旦暮之業則勸,百工有器械之巧則壯。錢財不積則貪者憂,權勢不尤則夸者悲,勢物之徒樂變。遭時有所用,不能無為也,此皆順比于歲,不物于易者也。馳其形性,潛之萬物,終身不反,悲夫!《莊子 • 徐無鬼》

【Dịch】Kẻ trí sĩ nếu không thấy các thay đổi của sự tư lự của mình thì không vui; kẻ biện sĩ nếu lời đàm thuyết của mình không sắp xếp có lớp lang thì không vui; kẻ giám sát nếu không bới ra vụ việc gì để thị uy khiển trách thì không vui: Bọn họ đều bị ngoại vật vây khổn. Kẻ muốn đời chú ý thì tự làm nổi bật ở triều đình; kẻ muốn dân trọng thì xem quan tước là vinh hiển; kẻ đại lực sĩ khoe khoang mình làm được việc khó; kẻ dũng cảm phấn đấu trong hoạn nạn; kẻ mang binh giáp thích chiến đấu; kẻ sức tàn gối mỏi bấu víu vào cái danh tiếng đã từng có; kẻ giỏi luật pháp mong quảng bá pháp trị; kẻ chuyên lễ nhạc chú trọng đức hạnh; kẻ nhân nếu không có việc đồng áng [trừ cỏ dại] thì không xứng hợp với công việc; thương nhân nếu không có việc chợ búa thì không xứng hợp với công việc; thường dân nếu có công việc hôm sớm thì mới động viên nhau siêng năng; thợ thuyền nếu sử dụng thành thạo đồ nghề thì cảm thấy mạnh mẽ. Tiền tài không gia tăng, kẻ tham ắt buồn; quyền thế không tăng, kẻ bon chen sẽ rầu. Gặp thời thì có chỗ dùng, không thể vô vi được. Họ đều thuận theo cách riêng của mình như các mùa trong năm, và không thay đổi như sự vật. Họ rong ruổi xác thân và bản tính, chìm đắm dưới sức ép của sự vật, suốt đời không thể phục hồi chân ngã. Như thế chẳng đáng buồn sao?



277. Ngoại vật bất khả tất, cố Long Phùng tru, Tỷ Can lục, Cơ Tử cuồng, Ác Lai tử, Kiệt Trụ vong. Nhân chủ mạc bất dục kỳ thần chi trung, nhi trung vị tất tín, cố Ngũ Viên lưu vu Giang, Trường Hoằng tử vu Thục, tàng kỳ huyết, tam niên nhi hoá bích. Nhân thân mạc bất dục kỳ tử chi hiếu, nhi hiếu vị tất ái, cố Hiếu Kỷ ưu nhi Tăng Sâm bi. [Trang Tử, Ngoại Vật]

外物不可必,故龍逢誅,比干戮,箕子狂,惡來死,桀紂亡。人主莫不欲其臣之忠,而忠未必信,故伍員流于江,萇弘死于蜀,藏其血,三年而化碧。人親莫不欲其子之孝,而孝未必愛,故孝己憂而曾參悲。《莊子 • 外物》

【Dịch】Sự vật bên ngoài ta thì ta không thể cố mong cầu cho bằng được. Thế nên Quan Long Phùng bị giết, Tỷ Can bị hại, Cơ Tử hoá cuồng, Ác Lai chết, Kiệt và Trụ bị diệt. Không kẻ lãnh đạo nào mà không muốn có bầy tôi trung thành, nhưng lòngï trung thành đó chắc gì được tin? Cho nên thi thể Ngũ Tử Tư bị thả trôi theo giòng Dương Tử và Trường Hoằng phải chết ở đất Thục. Máu của Trường Hoằng sau ba năm tàng trữ đã hoá thành ngọc bích. Không cha mẹ nào mà không muốn có hiếu tử, nhưng có hiếu tâm chắc gì được cha mẹ yêu thương? Thế nên Hiếu Kỷ phải đau khổ mà chết, còn Tăng Sâm phải sầu tủi [vì bị cha ghét bỏ].



278. Thân phụ bất vi kỳ tử môi. Thân phụ dự chi, bất nhược phi kỳ phụ giả dã. Phi ngô tội dã, nhân chi tội dã. Dữ kỷ đồng tắc ứng, bất dữ kỷ đồng tắc phản. Đồng vu kỷ vi thị chi, dị vu kỷ vi phi chi. [Trang Tử, Ngụ Ngôn]

親父不為其子媒。親父譽之,不若非其父者也,非吾罪也,人之罪也。與己同則應,不與己同則反。同于己為是之,異于己為非之。《莊子 • 寓言》

【Dịch】Làm cha [phải nhờ người ngoài, và] đừng đích thân mai mối cho con. Hễ cha khen con ắt sẽ không công bằng như người ngoài khen con mình. Đó không phải lỗi của người cha, mà là lỗi của người đời. Hễ giống như mình thì mình tán đồng; hễ khác với mình thì mình phản đối. Hễ giống mình tất phải đúng; hễ khác mình tất phải sai.



279. Sở kiến thiểu, tắc sở quái đa, thế chi thường dã. [Bão Phác Tử, Luận Tiên]

所見少,則所怪多,世之常也。《抱朴子 • 論仙》

【Dịch】Thói đời, hễ ai kiến thức ít ỏi thì sẽ thấy lắm thứ đáng ngạc nhiên.



280. Minh vu thiên đạo, sát vu địa lý, thông vu nhân tình, đại túc dĩ dung chúng, đức túc dĩ hoài viễn, tín túc dĩ nhất dị, tri túc dĩ tri biến giả, nhân chi anh dã. [Hoài Nam Tử, Thái Tộc]

明于天道,察于地理,通于人情,大足以容眾,足以懷遠,信足以一異,知足以知變者,人之英也。《淮南子 • 泰族》

【Dịch】Hiểu đạo trời, thấu triệt mọi hoàn cảnh xã hội, thông đạt tình người, lòng quảng đại đủ để bao dung mọi người, đức hạnh đủ để vỗ về quy phục kẻ viễn phương, sự thành tín đủ để thống nhất những kẻ có lòng khác, trí tuệ đủ để biết quyền biến. Ai như vậy chính là bậc anh tài trong thiên hạ.







Tư tưởng Đạo gia 道家思想 ● Lê Anh Minh dịch

11. QUẢ DỤC 寡 欲 – NHU NHƯỢC 柔 弱

11. QUẢ DỤC 寡 欲 – NHU NHƯỢC 柔 弱



Tư tưởng Đạo gia 道家思想 ● Lê Anh Minh dịch




238. Tội mạc đại vu khả dục, họa mạc đại vu bất tri túc, cữu mạc đại vu dục đắc. Cố tri túc chi túc thường túc hĩ. [Đạo Đức Kinh, chương 46]

罪莫大于可欲,禍莫大于不知足,咎莫大于欲得。故知足之足常足矣。《道德經 • 第四十六章》

【Dịch】Không tội nào lớn bằng có dục vọng; không họa nào lớn bằng không biết đủ; không hại nào lớn bằng mong có. Cho nên biết mình có đủ, thì luôn đủ.



239. Kiến tố bão phác, thiểu tư quả dục, tuyệt học vô ưu. [Đạo Đức Kinh, chương 19]

見素抱朴,少私寡欲,絕學無憂。《道德經 • 第十九章》

【Dịch】Hãy thể hiện sự trinh nguyên và ôm giữ sự chất phác; hãy bớt sự tư lợi và giảm ham muốn; hãy dứt tuyệt học vấn và chớ lo âu.



240. Danh dã giả, tương yết dã; tri dã giả, tranh chi khí dã. Nhị giả, hung khí, phi sở dĩ tận hành dã. [Trang Tử, Nhân Gian Thế]

名也者,相軋也;知也者,爭之器也。二者,凶器,非所以盡行也。《莊子 • 人間世》

【Dịch】Do cầu danh mà người ta chèn ép nhau; mưu trí trở thành vũ khí để tương tranh; danh và mưu trí đều là khí cụ không tốt vì làm hại phẩm hạnh.



241. Kỳ thị dục thâm giả, kỳ thiên cơ thiển. [Trang Tử, Đại Tông Sư]

其嗜欲深者,其天機淺。《莊子 • 大宗師》

【Dịch】Ai thị dục sâu đậm thì bản chất tự nhiên của hắn nông nổi.



242. Doanh thị dục, trưởng háo ố, tắc tính mệnh chi tình bệnh hĩ. [Trang Tử, Từ Vô Quỷ]

盈嗜欲,長好惡,則性命之情病矣。《莊子 • 徐無鬼》

【Dịch】Thị dục càng tràn đầy, yêu ghét càng gia tăng, thì tính mệnh sẽ lâm nguy.



243. Đa dục khuy nghĩa, đa ưu hại trí, đa cụ hại dũng. [Hoài Nam Tử, Mậu Xưng Huấn]

多欲虧義,多憂害智,多懼害勇。《淮南子 • 繆稱訓》

【Dịch】Dục vọng nhiều làm hại nghĩa, âu lo nhiều làm hại trí, sợ hãi nhiều làm hại dũng khí.



244. Tỉnh sự chi bản tại tiết dục. [Hoài Nam Tử, Thuyên Ngôn Huấn]

省事之本在節欲。《淮南子 • 詮言訓》

【Dịch】Căn bản của sự xem xét sự vật là ở việc hạn chế dục vọng.



245. Giám minh giả, trần cấu phất năng mai; thần thanh giả, thị dục phất năng loạn. [Hoài Nam Tử, Xúc Chân Huấn]

鑒明者,塵垢弗能薶;神清者,嗜欲弗能亂。《淮南子 • 俶真訓》

【Dịch】Gương sáng, bụi bặm không làm dơ bẩn được; thần thanh trong, thị dục không làm cho rối loạn được.



246. Mục vọng thị tắc dâm, nhĩ vọng thính tắc hoặc, khẩu vọng ngôn tắc loạn. [Hoài Nam Tử, Chủ Thuật Huấn]

目妄視則淫,耳妄聽則惑,口妄言則亂。《淮南子 • 主術訓》

【Dịch】Mắt thấy điều quấy ắt dâm, tai nghe điều quấy ắt nghi hoặc, miệng nói điều quấy ắt loạn.



247. Nhật nguyệt dục minh, phù vân cái chi; hà thủy dục thanh, sa thạch uế chi; nhân tính dục bình, thị dục hại chi. [Hoài Nam Tử, Tề Tục Huấn]

日月欲明,浮雲蓋之;河水欲清,沙石穢之; 人性欲平,嗜欲害之。《淮南子 • 齊俗訓》

【Dịch】Mặt trời và mặt trăng muốn sáng nhưng bị mây che khuất; sông ngòi muốn trong vắt nhưng bị cát đá làm ô uế; nhân tính muốn an bình nhưng bị thị dục làm hại.



248. Thiểu tư tắc bất thác hoặc dĩ trước vật, quả dục tắc bất đạo túng nhi táng kỷ, tư giả nhược phi khử loạn tính chi bản hà dĩ tai. [Đạo Tạng, Đạo Đức Chân Kinh giải]

少思則不錯惑以著物,寡欲則不盜縱而喪己,斯者若非去亂性之本何以哉。《道藏 • 道德真經解》

【Dịch】Giảm bớt tư lự thì sẽ không bị lỗi lầm và nghi hoặc mà chấp trước ngoại vật; giảm bớt dục vọng thì sẽ không phóng túng và trộm cắp để bị vong mạng; hai thứ đó (tức tư lự và dục vọng) nếu không trừ khử, thì cái gốc của sự rối loạn chân tính làm sao hết?



249. Tự doanh vi tư, nhi dưỡng tâm mạc thiện vu quả dục. Thiểu tư quả dục, tắc định hồ nội ngoại chi phân, biện hồ chân ngụy chi quy, đức toàn nhi phục. Tế vu nhất kỷ tắc thất kỳ đại đồng, cố tự doanh vi tư. Khiên vu lợi dục tắc cốt kỳ thanh tĩnh, cố dưỡng tâm mạc thiện vu quả dục dã. Tư dã dục dã, giai ngoại du thị vụ, nhi phi nội quán; giai nhân ngụy thị tư, nhi phi tính chân. Duy thiểu tư quả dục nhi hậu năng định hồ nội ngoại chi phân, nhi tri sở khinh trọng; biện hồ chân ngụy chi quy, nhi minh vu bản mạt. Bất thiên kỳ đức nhi đức toàn, bất dâm kỳ tính nhi tính phục. [Đạo Tạng, Đạo Đức Chân Kinh giải]

自營為私,而養心莫善于寡欲。少思寡欲,則定乎內外之分,辨乎真偽之歸,德全而復。蔽于一己則失其大同,故自營為私。牽于利欲則汩其清靜,故養心莫善于寡欲也。私也欲也,皆外游是務,而非內觀;皆人偽是滋,而非性真。惟少思寡欲而後能定乎內外之分,而知所輕重;辨乎真偽之歸,而明于本末。不遷其德而德全,不淫其性而性復。《道藏 • 道德真經疏義》

【Dịch】Mưu cầu cho mình vì tư lợi; nhưng dưỡng tâm thì không gì tốt bằng bớt dục vọng. Giảm suy tư và bớt dục vọng tức là xác định sự phân cách giữa nội tâm với ngoại giới, là phân biệt được chỗ quay về của thật với giả; đức sẽ toàn vẹn và phục hồi. Che đậy bản ngã tức là đánh mất sự đại đồng, tức là mưu cầu cho mình vì tư lợi. Bị cái lợi và dục vọng lôi kéo thì làm rối loạn sự thanh tĩnh, nên dưỡng tâm không gì tốt bằng bớt dục vọng. Hễ tư lợi thì ham muốn, đều là hướng ra ngoại giới chứ không phải là nhìn vào bên trong; đều là cái giả dối và bẩn đục của con người chứ không phải là sự chân thật của thiên tính. Chỉ có thiểu tư quả dục mới xác định sự phân cách giữa nội tâm với ngoại giới, và biết nặng với nhẹ; chỉ có phân biệt được chỗ quay về của thật với giả, và hiểu rõ gốc với ngọn. Không dời chuyển đức của mình thì đức toàn vẹn; không sử dụng quá mức thiên tính của mình thì thiên tính phục hồi.



250. Chúng nhân kiến vật bất kiến đạo, cố sở kiến vô phi dục giả; thánh nhân kiến đạo bất kiến vật, cố sở kiến vô khả dục giả. Sở kiến vô khả dục giả, tắc dĩ sở kiến thắng sở đổ giả dã, thị dĩ linh đài hữu trì nhi cốt cử tiêu; sở kiến vô phi dục giả, tắc dĩ sở đổ thắng sở kiến dã, thị dĩ trục vật vong phản, thất chân trạm ngụy. Cái mục chi vu sắc, nhĩ chi vu thanh, khẩu chi vu vị, tỵ chi vu xú, thị chi sở dục dã. Vọng dung chi nhân, bất tri ngũ sắc loạn mục, ngũ thanh loạn nhĩ, ngũ vị trọc khẩu, ngũ xú huân tỵ, quyết tính mệnh chi tình dĩ tranh chi, nhương kỳ đản man, vô sở bất chí, lụy vu hậu lợi giả, dĩ thân tuẫn lợi; lụy vu danh cao giả, dĩ thân tuẫn danh. Nhược Bá Di dữ Đạo Chích, nhất tắc tử danh, nhất tắc tử lợi, phàm dĩ kiến danh lợi chi khả dục cố nhĩ. Kỳ nhiệt tiêu hỏa, đắc chi tắc hỉ; kỳ hàn ngưng băng, thất chi tắc cụ, bất năng tháo chi nhi tồn kỳ tâm, chí vu quán loạn phẫn kiêu nhi bất khả hệ, thị do dĩ Tùy Hầu chi châu đạn thiên nhận chi tước dã, khởi bất hoặc tai! Thánh nhân dị hồ thử, bất tựu lợi, bất tỵ hại, tri lợi hại chi đồng nguyên; bất vinh thông, bất sửu cùng, dĩ cùng thông nhất trí. Dục lự bất manh, nhất hào bất anh, ngô tâm trạm nhiên, vật mạc năng dao, cảm nhi toại thông. Năng định năng ứng, chỉ nhi vô sở ngại, bất giao vu tĩnh; động nhi vô sở trục, bất lưu vu động. Phúc khước vạn phương, trần hồ tiền bất đắc dĩ nhập kỳ xá, thục năng loạn chi. [Đạo Tạng, Đạo Đức Chân Kinh Sớ Nghĩa]

眾人見物不見道,故所見無非欲者;聖人見道不見物,故所見無可欲者。所見無可欲者,則以所見勝所睹者也,是以靈台有持而滑舉消;所見無非欲者,則以所睹勝所見也,是以逐物忘返,失真湛偽。蓋目之于色,耳之于聲,口之于味,鼻之于臭,是之所欲也。妄庸之人,不知五色亂目,五聲亂耳,五味濁口,五臭薰鼻,訣性命之情以爭之,攘奇誕謾,無所不至,累于厚利者,以身徇利;累于名高者,以身徇名。若伯夷與盜跖,一則死名,一則死利,凡以見名利之可欲故爾。其熱焦火,得之則喜;其寒凝冰,失之則懼,不能操之而存其心。至于摜亂僨驕而不可系,是猶以隋侯之珠彈千仞之雀也,豈不惑哉!聖人異乎此,不就利,不避害,知利害同源;不榮通,不丑窮,以窮通為一致。欲慮不萌,一毫不攖,吾心湛然,物莫能搖,感而遂通。能定能應,指而無所礙,不膠于靜;動而無所逐,不流于動。覆卻萬方,陳乎前得以入其舍,孰能亂之。《道藏 • 道德真經疏義》

【Dịch】Mọi người chỉ thấy vật chất chứ không thấy đạo, nên cái thấy đó có dục vọng; thánh nhân chỉ thấy đạo chứ không thấy vật chất, nên cái thấy đó vô dục. Cái thấy mà vô dục thì tri kiến vượt trội cái được thấy, do đó linh đài (tâm linh) được gìn giữ và các sự nhiễu loạn bị tiêu trừ. Cái thấy mà có dục vọng thì cái được thấy vượt trội tri kiến, nên người ta chỉ truy đuổi ngoại vật mà quên mất đường trở về, đánh mất cái chân thực mà ham mê cái giả dối. Mắt người vụ sắc đẹp, tai người vụ âm thanh, miệng người vụ vị ngon, mũi người vụ mùi thơm, đó là ham muốn. Người tầm thường và mê lầm thì không biết rằng 5 sắc loạn mắt, 5 thanh loạn tai, 5 vị làm dơ miệng, 5 mùi làm ngạt mũi; nên họ bất chấp tính mệnh mà trành giành các thứ đó, lừa dối nhau, không chỗ nào không tới. Kẻ lụy vì lợi dày sẽ đem thân chết vì lợi; kẻ lụy vì danh cao sẽ đem thân chết vì danh; giống như Bá Di và Đạo Chích – người chết vì danh, kẻ chết vì lợi – tức đều là vì danh và lợi mà nảy sinh dục vọng. Danh lợi như cái nóng sinh ra lửa, được chúng thì vui; danh lợi như cái lạnh làm đóng băng, mất chúng thì lo buồn; họ không thể làm chủ được tâm, đến nỗi rối tâm loạn trí, kiêu căng phóng túng, không kiềm chế được; giống như lấy viên ngọc châu cực quý làm đạn bắn con chim sẻ bay cao mấy ngàn thước. Đó chẳng phải là sai lầm sao! Thánh nhân thì khác. Ngài không vụ lợi, không tránh hại, biết lợi và hại cùng nguồn gốc; không lấy sự thông đạt làm vinh, không lấy sự khốn cùng làm nhục, xem khốn cùng và thông đạt như nhau. Ngài không khởi tâm vì dục vọng và tư lự, một tí xíu cũng không bị rối loạn; nội tâm luôn thanh tĩnh sáng láng, không dao động vì ngoại vật; cảm ứng mà thông đạt. Tâm ngài an định và đáp ứng được, tĩnh mà không có chỗ trở ngại, không kết dính vào tĩnh; động mà không có chỗ truy đuổi, không trôi theo động. Vạn vật trước mắt thánh nhân dù biến hoá muôn phương cũng không thể xâm nhập vào nội tâm (linh đài) của ngài, như vậy chẳng có gì nhiễu loạn ngài được.



251. Manh vu tâm giả, danh viết hành nghiệp, hành nghiệp sở tháo, danh viết thiện ác, cố túng dục vi ác, tức tham vi thiện. Thiện giả, năng vi tế tục xuất trần chi ích; ác giả, tất tác bại đức nhiễm uế chi tư. Cố thánh nhân tri vô hình nhi dụng giả, tâm dã; hình bất tự vận giả, thân dã. Nhiên tâm bất ký vu thân tắc bất năng hiển năng bị dụng, thân bất tạ vu tâm tắc vong diệt bất khởi. Cố thân tâm thể dị nhi lý phù, trí dụng vạn thiện nhi thú nhất. Cố năng biểu lý vi dụng, động tĩnh tương trì. Thân vô độc tại, vi tâm sở sử, tâm bất thị tĩnh, duy dục phan duyên. Thân lượng vô nhai, nạp hành bất tức. Cố tâm vi phàm thánh chi căn, thân vi khổ lạc chi tụ. Thánh nhân tri hoạn sin vu tâm, khiên tất do kỷ, thị dĩ thanh tâm trừ hoạn, khiết chí tiêu khiên. Phàm dục chi lưu, kỳ tức bất nhiên, tứ tình túng dục, bất tri dục xuất vu tâm; vũ mạn căng xa, bất tri mạn sinh vu kỷ. [Vân Cấp Thất Thiêm, Chúng Chân Ngữ Lục]

萌于心者,名曰行業,行業所操,名曰善惡,故縱欲為惡,息貪為善。善者,能為濟俗出塵之益;惡者,必作敗德染穢之資。故聖人知無形用者,心也;形不自運者,身也。然心不記于身則不能顯能備用,身不藉于心則亡滅不起。故身心体異而理符,致用萬善而趣一。故能表里為用,動靜相持。身無獨在,為心所使,心不示靜,惟欲攀緣。身量無涯,納行不息。故心為凡聖之根,身為苦樂之聚。聖人知患生于心,愆必由己,是以清心除患,潔志消愆。凡欲之流,其即不然,肆情縱欲,不知欲出于心;侮慢矜奢,不知慢生于己。《雲笈七簽眾真語錄》

【Dịch】Cái từ trong tâm manh động phát ra thì gọi là tạo nghiệp, cái chi phối sự tạo nghiệp gọi là thiện ác. Cho nên phóng túng dục vọng là ác, đình chỉ tham lam là thiện. Điều thiện là ích lợi cứu giúp người đời và siêu thoát thế tục. Điều ác là tạo tác bại hoại đức hạnh và tiêm nhiễm cái xấu. Cho nên thánh nhân hiểu rõ một thứ tuy vô hình nhưng công dụng rất lớn, đó là tâm; và cũng hiểu rõ một thứ hữu hình nhưng không tự vận động được, đó là thân. Tất nhiên nếu tâm không gởi vào thân thì không thể hiện mọi công dụng; và thân nếu không nương nhờ tâm thì sẽ diệt vong, không khởi động được. Cho nên tâm và thân tuy thể khác nhau nhưng lý thì phù hợp, có thể tận dụng mọi điều tốt để hướng đến một mục tiêu. Do đó ngoài và trong hỗ tương tác dụng, động và tĩnh cùng phối hợp nhau. Thân không thể độc lập tồn tại, mà nó do tâm sai khiến. Tâm không an tĩnh là do dục vọng gây ra. Sức chịu đựng của thân thì vô hạn mà hành vi tạo tác thì không ngưng. Cho nên tâm là căn bản của phàm và thánh. Thân là chỗ hội tụ của khổ và sướng. Thánh nhân hiểu hoạ hoạn do tâm mà phát sinh, lỗi lầm là do bản thân tạo tác. Do đó thanh trừng tâm thì trừ được họa hoạn; làm thuần khiết ý chí thì hết lỗi lầm. Bọn người tầm thường thì không thế; họ phóng túng tình dục, không biết dục vọng phát sinh do tâm; họ kiêu căng ngạo mạn, không biết sự ngạo mạn là do bản thân tạo tác.



252. Tương dục hấp chi, tất cố trương chi. Tương dục nhược chi, tất cố cường chi. Tương dục phế chi, tất cố hưng chi. Tương dục đoạt chi, tất cố dữ chi. Thị vị vi minh, nhu nhược thắng cương cường. [Đạo Đức Kinh, chương 36]

將欲歙之,必固張之﹔將欲弱之,必固強之﹔將欲廢之,必固興之﹔將欲奪之,必固與之。是謂微明。柔弱勝剛強。《道德經 • 第三十六章》

【Dịch】Muốn nó co lại, tất phải giương nó thẳng. Muốn nó yếu, tất phải làm nó mạnh lên. Muốn phế bỏ nó đi, tất phải làm cho hưng vượng. Muốn đoạt nó cái gì, tất phải cho nó cái khác. Thế gọi là «làm cho cái sáng trở nên tế vi».



253. Phản giả Đạo chi động. Nhược giả Đạo chi dụng. [Đạo Đức Kinh, chương 40]

反者道之動﹔弱者道之用。《道德經 • 第四十章》

【Dịch】Trở lại là cái động của đạo. Yếu đuối là cái dụng của đạo.



254. Nhân chi sinh dã nhu nhược, kỳ tử dã kiên cường. Vạn vật thảo mộc chi sinh dã nhu thúy kỳ tử dã khô cảo. Cố kiên cường giả, tử chi đồ, nhu nhược giả sinh chi đồ. Thị dĩ binh cường tắc bất thắng, mộc cường tắc chiết. Cố kiên cường xử hạ, nhu nhược xử thượng. [Đạo Đức Kinh, chương 76]

人之生也柔弱,其死也堅強。萬物草木之生也柔脆,其死也枯槁。故堅強者死之徒,柔弱者生之徒。是以兵強則不勝,木強則折,強大處下,柔弱處上。《道德經 • 第七十六章》

【Dịch】Khi sống [thể chất] người ta mềm yếu; lúc chết thì [thi thể] cứng đơ. Vạn vật và thảo mộc khi sống thì mềm yếu; lúc chết thì khô héo. Cho nên cứng mạnh cùng một bọn với chết; mềm yếu cùng một bọn với sống. Thế nên, quân đội mạnh thì không thể thủ thắng; cây khoẻ thì phải bị búa rìu đốn; cái cứng mạnh chiếm địa vị thấp hơn; cái nhu nhược chiếm địa vị cao hơn.



255. Thiên hạ mạc nhu nhược ư thủy, nhi công kiên cường giả mạc chi năng thắng, dĩ kỳ vô dĩ dịch chi. Nhu thắng cương, nhược thắng cường. Thiên hạ mạc bất tri, mạc năng hành. [Đạo Đức Kinh, chương 78]

天下莫柔弱於水,而功堅強者莫之能勝,以其無以易之。柔勝剛,弱勝強,天下莫不知 ,莫能行。《道德經 • 第七十八章》

【Dịch】Trên đời chẳng có gì mềm yếu bằng nước. Để công phá cái cứng mạnh thì chẳng gì hơn nước. Đó là vì không có cái gì thay thế nó được. Ai cũng biết yếu thắng mạnh, mềm thắng cứng; nhưng chẳng ai biết thi hành điều đó.



256. Chuyên khí trí nhu, năng anh nhi hồ? [Đạo Đức Kinh, chương 10]

專氣致柔,能如嬰兒乎?《道德經 • 第十章》

【Dịch】Luyện khí một cách chuyên nhất thân hình sẽ mềm mại. Ngươi có thể [tập luyện để thân xác và tinh thần] giống như trẻ thơ không?



257. Thiên hạ hữu thường thắng chi đạo, hữu thường bất thắng chi đạo. Thường thắng chi đạo viết nhu; thường bất thắng chi đạo viết cường. Nhị giả dị tri, nhi nhân vị chi tri. Cố thượng cổ chi ngôn: Cường, tiên bất kỷ nhược giả; nhu, tiên xuất vu kỷ giả. Tiên bất kỷ nhược giả, chí vu nhược kỷ, tắc đãi hĩ. Tiên xuất vu kỷ giả, vong sở đãi hĩ. Dĩ thử thắng nhất thân nhược đồ, dĩ thử nhậm thiên hạ nhược đồ, vị bất thắng nhi tự thắng, bất nhậm nhi tự nhậm dã. [Liệt Tử, Hoàng Đế]

天下有常勝之道,有常不勝之道。常勝之道曰柔;常不勝之道曰強。二者易知,而人未之知。故上古﹕強,先不己若者;柔,先出于己者。先不己若者,至于若己,則殆矣。先出于己者,亡所殆矣。以此勝一身若徒,以此任天下若徒,謂不勝而自勝,不任而自任也。《列子 • 黃帝》

【Dịch】Thiên hạ có cách thức luôn chiến thắng và cách thức luôn chiến bại. Hai cách thức này rất dễ biết thế mà người ta không hề biết. Cho nên lời xưa có nói: mạnh là kẻ chiến thắng người không bằng mình; yếu là kẻ tự thắng mình. Kẻ chiến thắng người không bằng mình, đến khi gặp đối thủ hơn mình, ắt sẽ bị nguy hiểm. Kẻ tự thắng mình, không bị nguy hiểm gì; lấy lý lẽ đó để tự thắng bản thân và ứng phó với thiên hạ. Thế gọi là không cố ý thắng mà tự nhiên thắng; không cố ý ứng phó mà tự nhiên ứng phó được.



258. Thiên hạ hữu thường thắng chi đạo, hữu bất thường thắng chi đạo. Thường thắng chi đạo tại nhu, bất thường thắng chi đạo tại cương. Duy phù thường thắng chi đạo tại nhu, thử cổ chi bác đại chân nhân tất dĩ nọa nhược khiêm hạ vi biểu dã. Dĩ nọa nhược khiêm hạ vi biểu, tắc dĩ thâm vi căn, tất sự bất kiên, dĩ kiên tắc hủy cố dã. [Đạo Tạng, Đạo Đức Chân Kinh Sớ Nghĩa]

天下有常勝之道,有不常勝之道。常勝之道在柔,不常勝之道在剛。惟夫常勝之道在柔,此古之博大真人必以懦弱謙下為表也。以懦弱為表,則以深為根,必事不堅,以堅則毀故也。《道藏道德真經疏義》

【Dịch】Thiên hạ có cách thức luôn chiến thắng và cách thức luôn chiến bại. Cách thức luôn chiến thắng nằm ở sự mềm mại; cách thức luôn chiến bại nằm ở sự mạnh mẽ. Chính vì cách thức luôn chiến thắng nằm ở sự mềm mại, cho nên các bậc chân nhân minh triết thuở xưa luôn tỏ ra dáng vẻ mềm yếu và khiêm hạ. Tỏ ra dáng vẻ mềm yếu và khiêm hạ là lấy sự thâm sâu làm gốc, tức là sự việc không nên kiên cường vì kiên cường dẫn đến hủy diệt.



259. Tự sự ngôn chi, cương cường túc dĩ thắng nhu nhược; tự đạo ngôn chi, nhu nhược túc dĩ thắng cương cường. Tích vu nhu tắc cương; tích vu nhược tắc cường. Dục cương tất dĩ nhu thủ chi, dục cường tất dĩ nhược bảo chi. Nhu chi thắng cương, nhược chi thắng cường, kỳ đắc thường thắng chi đạo dư! [Đạo Tạng, Đạo Đức Chân Kinh Sớ Nghĩa]

自事言之,剛強足以勝柔弱;自道言之,柔弱足以勝剛強。積于柔則剛;積于弱則強。欲剛必以柔守之,欲強必以弱保之。柔勝之剛,弱之勝強,其得常勝之道歟?《道藏道德真經疏義》

【Dịch】Về phương diện sự việc, cứng mạnh thắng mềm yếu; về phương diện đạo, mềm yếu thắng cứng mạnh. Mềm được chất chứa lâu ngày sẽ thành cứng; yếu được chất chứa lâu ngày sẽ thành mạnh. Muốn cứng, tất phải giữ lấy mềm; muốn mạnh tất phải bảo hộ yếu. Mềm thắng cứng và yếu thắng mạnh, đó là cái đạo để luôn đắc thắng vậy.



260. Tính chi hư dã, hữu dĩ nạp thiên hạ chi chí biến; hình chi vô dã, hữu dĩ địch thiên hạ chi chí đại, đạm túc vạn vật bất dĩ vi hữu, sung tắc tứ hải bất dĩ vi doanh, cơ chất tuy tiểu nhi thiên hạ mạc năng thần, vạn vật quy chi nhi bất vi kỳ chủ. Thử đạo chi nhu nhược, thục khả thắng tai? Sĩ đạo giả ninh bất ty dĩ tự xử, hoà nhi tự nhược, hựu doanh dĩ đãi kỷ, thường khiêm dĩ phụng nhân, hữu công nhi bất hữu, hữu năng nhi bất thị, bất tranh yên nhi thiên hạ dĩ vi tiên, bất căng yên nhi thiên hạ dĩ vi năng, thử sĩ đạo chi nhu nhược diệc bất khả thắng hĩ. Phản dĩ đại nhi khuất tiểu, cao nhi nhục ty, cầu vi cương cường dĩ thắng nhu nhược, thử cái bất tri đạo dã. [Đạo Tạng, Đạo Đức Chân Kinh Giải]

性之虛也,有以納天下之至變;形之無也,有以敵天下之至大,澹足萬物不以為有,充塞四海不以為盈,基質雖小而天下莫能臣,萬物歸之而不為其主,道之柔弱,孰可勝哉?仕道者寧不卑以自處,和而自弱,又盈以待己,常謙以奉人,有功而不有,有能而不恃,不爭焉而天下以為先,不矜焉而天下以為能,此仕道之柔弱亦不可勝矣。反以大而屈小,高而辱卑,求為剛強以勝柔弱,此蓋不知道也。《道藏 • 道德真經解》

【Dịch】Sự không hư của bản tính có thể dung chứa được mọi biến hoá kịch liệt của thiên hạ. Cái vô hình đó có thể đương đầu với cái cực đại của thiên hạ; nó làm cho vạn vật sung túc nhưng không xem là mình có được; lấp đầy bốn biển nhưng không xem là mình đã làm đầy. Bản chất tuy nhỏ nhưng nó không lệ thuộc thiên hạ; vạn vật quy tụ về nó nhưng nó không xem mình là chủ. Đó là sự mềm yếu của đạo. Ai có thể thắng được nào? Kẻ học đạo thà lấy cái không thấp thỏi để tự xử mình, nhưng đối với người thì tỏ ra hoà ái nhu nhược; lấy cái tràn đầy để tự đòi hỏi nơi mình, nhưng đối đãi kẻ khác thì tỏ ra khiêm hạ; có công lao nhưng không tự cho là có; có tài năng nhưng không ỷ mình tài; không tranh với ai nên được thiên hạ tôn kính là bậc trên; không kiêu căng nên được thiên hạ xem trọng là nhân tài. Cái nhu nhược của kẻ học đạo không ai có thể thắng được. Trái lại, ai ỷ lớn hiếp nhỏ, cậy cao khinh thấp, mong cầu cứng mạnh để thắng người, đều là những kẻ không hiểu đạo.



261. Thánh nhân chi khuất giả, dĩ cầu thân dã, uổng giả, dĩ cầu trực dã. Cố tuy xử tà tịch chi đạo, hành u muội chi đồ, tương dục hưng đại đạo, thành đại công. [Hoài Nam Tử, Thái Tộc]

聖人之屈者,以求伸也,枉者,以求直也。故雖處邪辟之道,行幽昧之途,將欲以興大道,成大功。《淮南子 • 泰族》

【Dịch】Thánh nhân co lại là mong duỗi ra; gấp cong lại là mong thẳng ra. Cho nên tuy ở chỗ ngược ngạo không chính đáng và đi trên đường tối tăm mà lòng vẫn hằng mong chấn hưng đại đạo và hoàn thành đại công.





Tư tưởng Đạo gia 道家思想 ● Lê Anh Minh dịch