28/4/10

Peter Hansen – Bắc di cư .........(1)

Peter Hansen – Bắc di cư: Dân Công giáo tị nạn từ miền Bắc Việt Nam và vai trò của họ tại Cộng hòa Miền Nam, 1954-1959 (phần 1)

26/04/2010

Hiếu Tân dịch

Gia Kiệm, một thị trấn gần tám mươi nghìn dân, nằm cách thành phố Hồ Chí Minh khoảng năm mươi ki lô mét trên đường đi Đà Lạt. Nó đáng chú ý về sự giàu có và quy củ, nhưng nét nổi bật nhất của nó là có rất nhiều nhà thờ Công giáo rải rác dọc theo đường cái, cách nhau chỉ khoảng vài trăm mét. Gia Kiệm không phải là một cộng đồng cổ. Thật ra, trước năm 1954, nó chỉ là một ngôi làng. Nhưng vào năm đó, Đức Cha Thaddeus Lê Hữu Từ đã chọn Gia Kiệm làm nơi tái định cư cho hàng ngàn dân Công giáo từ Giáo khu Phát Diệm ở miền bắc chạy vào nam. Đám con chiên của Lê Hữu Từ chẳng bao lâu đã có thêm những giáo dân từ những giáo khu khác của miền bắc, như Bùi Chu và Thanh Hóa hội nhập vào. Tên của những xứ đạo mới đến thiết lập ở Gia Kiệm gợi nhớ đến những gốc gác miền Bắc của họ: Phát Hội, Thanh Sơn, Phúc Nhạc, Ninh Phát, Kim Thượng vân vân.[1]

Ở Gia Kiệm và ở nhiều cộng đồng tương tự ở miền Trung và miền Nam ngày nay, những người Công giáo vẫn còn gắn bó với nhau không chỉ bởi tín ngưỡng chung, mà còn bởi ký ức, kinh nghiệm và quê gốc chung nữa. Khoảng giữa những năm 1950, gần một triệu người lựa chọn rời bỏ địa phương phía trên vĩ tuyến mười bảy, thực tế là quay lưng lại với chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa của Hồ Chí Minh. Ngược lại, họ chọn nơi trú ẩn tại lãnh thổ chẳng bao lâu trở thành Việt Nam Cộng hòa, một chế độ do người lãnh đạo theo Công giáo là Ngô Đình Diệm đứng đầu.

Việc tái định cư của những người di cư này và sự hòa nhập của họ vào xã hội miền Nam trở thành một trong những nhiệm vụ cấp bách mà chính quyền Ngô Đình Diệm phải đương đầu, trong những năm tháng cầm quyền đầu tiên. Cuộc di chuyển ồ ạt của những người miền Bắc được miền Nam biết đến như là Cuộc Di cư Vĩ đại [Great Transmigration], và những người di cư được gọi là Bắc di cư Năm mươi tư [Northern Refugees from Fifty-four] hay là Bắc di cư.

Vào thời điểm họ đến miền Nam, địa vị chính trị và xã hội của Bắc di cư được đánh giá chủ yếu dựa vào quan hệ của họ với chính quyền Ngô Đình Diệm. Việc người Công giáo miền Bắc di cư có mặt quá đông trong trong quân đội Việt Nam Cộng hòa và bộ máy dân sự, giới học giả và đời sống nghề nghiệp của miền Nam, chưa nói đến các giới thân cận trong nội bộ của chế độ Ngô Đình Diệm, hầu như luôn luôn là một chủ đề chính trong mọi cuộc thảo luận về vai trò của Bắc di cư ở miền Nam sau 1954[2]. Vì sự có mặt đông đảo này ảnh hưởng sâu sắc đến tiến trình chính trị của Việt Nam Cộng hòa cả trong và sau thời kỳ Ngô Đình Diệm, nên không có gì đáng ngạc nhiên rằng các học giả và những nhà bình luận khác đã tập trung quá nhiều vào khía cạnh này của cuộc di cư 1954-1955.

Tuy nhiên, quan điểm này đối với lịch sử của Bắc di cư là khó hiểu về nhiều mặt. Trước hết, nó quá thường xuyên coi những người Bắc di cư như những nhân vật thụ động hơn là những người tích cực chủ động trong việc quyết định số phận của chính mình. Trong những truyện lịch sử, họ được miêu tả như những kẻ khốn khổ phụ thuộc vào ý muốn ngẫu hứng của những người khác – những người khác như Đại tá Edward Lansdale của CIA, hay Ngô Đình Diệm và những thành viên trong gia đình ông ta. Trong những truyện này, người Công giáo lúc đầu bị lôi kéo rời bỏ quê hương của họ ở miền Bắc để vào Nam, rồi sau đó bị biến thành con đê chắn sóng được dựng lên nhằm bảo vệ chế độ Sài Gòn chống lại các nguy cơ bên trong và bên ngoài. Theo quan điểm này, Bắc di cư chỉ thực thi một lực nhỏ quý báu trong việc hình thành số phận của họ và, hầu như không chú ý gì đến cách họ xoay sở và theo đuổi những chương trình chính trị, xã hội và tôn giáo riêng của họ. Nhìn nhận Bắc di cư mà chỉ xét đến tác động của họ lên chính trị Việt Nam Cộng hòa thì chỉ là tập trung vào một khía cạnh trong lịch sử sau 1954 của họ, mà bỏ qua những khía cạnh đáng chú ý khác. Ngay cả lịch sử Đạo Thiên Chúa Việt Nam thế kỷ 20 được viết trong tầm nhìn Công giáo cũng hầu như không nói được về tác động của Bắc Di cư đến đời sống Công giáo và văn hóa ở miền Nam. Cứ như thể những dính líu bên trong của phong trào Bắc di cư đối với lịch sử Công giáo miền Nam là một chủ đề không thích hợp cho diễn ngôn lịch sử. Các nhà sử học của Giáo hội Việt Nam đã thảo luận tường tận những căng thẳng giữa các nhà truyền giáo Pháp với người Công giáo “bản xứ” Việt Nam vào đầu thế kỷ hai mươi, cũng như cuộc xung đột lâu dài và phức tạp giữa giáo hội Việt Nam và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Tuy nhiên, các học giả này đã không chú ý hoặc chú ý rất ít đến những quan hệ nội bộ lục đục và không kém phần phức tạp trong giáo hội miền Nam thời kỳ Việt Nam Cộng hòa[3]. Chẳng hạn bạn đọc muốn tìm kiếm trong các tác phẩm lịch sử Giáo hội này những cuộc thảo luận về những vấn đề như tác động của sự vượt trội về số lượng những người di cư miền Bắc trong giáo hội miền Nam sẽ hoài công vô ích.

Những đề tài khác chưa được động tới bao gồm quan hệ giữa hệ thống cấp bậc của giáo hội miền Nam với các cha cố mới từ miền Bắc vào, hậu quả của việc những cha cố này gia nhập hệ thống nói trên, và ảnh hưởng của quan hệ qua lại hằng ngày giữa người Công giáo miền Bắc và miền Nam, là cái tạo nên đời sống giáo dân của cả hai nhóm trong những năm sau 1954. Tất nhiên, việc thảo luận những vấn đề như thế có thể không phù hợp với mục đích giáo huấn của các tác giả do giáo hội bảo trợ. Nhưng ở nhiều phương diện, những câu hỏi nảy sinh từ những vấn đề ấy dường như hiện nay thậm chí càng cấp bách hơn, chính bởi vì trước đây chúng đã bị bỏ qua.

Tiểu luận này nhằm khảo sát Bắc di cư – nguồn gốc của họ, sự tái định cư của họ, một số hậu quả của sự hiện diện của họ đối với phần còn lại của xã hội miền Nam trong những năm đầu sau Cuộc Di cư Vĩ đại. Tại sao trong những năm 1954-1955 có nhiều người rời bỏ miền bắc đến thế? Tại sao người Công giáo chiếm một tỷ lệ lớn như vậy trong số những người ra đi? Tại sao nhiều người trong số họ như vậy tái định cư xa rời khối dân cư “bản địa” miền Nam? Hình mẫu chia tách này đã được thực hiện như thế nào? Và việc hội nhập của Bắc di cư vào xã hội miền Nam có những tác động gì? Trong việc nêu lên những câu hỏi này, tôi bác bỏ hai cách hiểu sai về Bắc di cư. Một là, tôi thách thức cái quan điểm cho rằng việc có nhiều người Công giáo đến thế ra đi khỏi miền Bắc phần lớn hay hoàn toàn do những cố gắng của CIA hay các cơ quan chính phủ khác của Hoa Kỳ. Hai là, tôi thách thức điều khẳng định rằng sự tái định cư của người Công giáo miền Bắc ở trong và xung quanh Sài Gòn là do chính sách có chủ ý và có tính chiến lược do Ngô Đình Diệm chủ mưu. Trong cả sự bỏ chạy của họ khỏi miền Bắc và trong những cuộc đời mới mà họ tạo lập cho mình ở miền Nam, người Bắc di cư bình thường hoàn toàn không thụ động và thiếu phương hướng.

Địa lý lịch sử của Công giáo Việt Nam

Nhiệm vụ hòa nhập Bắc di cư vào Việt Nam Cộng hòa mới ra đời không phải chỉ là trách nhiệm của chính phủ Ngô Đình Diệm. Trước tình hình đại đa số những người mới đến là dân Công giáo, giáo hội miền Nam cũng phải đối phó với những thử thách vốn có trong việc đồng hóa một tập đoàn giáo dân còn lớn hơn bản thân giáo hội miền Nam. Vào thời gian Hiệp định Geneva 1954, có khoảng 1.900.000 tín đồ Công giáo ở Việt Nam, trong đó chỉ có 520.000. hay 27,4 phần trăm, sống trong hai tỉnh của giáo hội miền Nam là Sài Gòn và Huế. Ngược lại, vào cuối Cuộc Di cư Vĩ đại, các tỉnh này là nơi sinh sống của gần 1.700.000 dân Công giáo Việt Nam (61,6 phần trăm)[4].

Các khó khăn trong việc đồng hóa số lượng khổng lồ giáo dân Bắc di cư lại càng tồi tệ hơn bởi họ thừa kế một văn hóa giáo hội hoàn toàn khác với văn hóa ở miền Nam. Sự phân chia ranh giới giữa miền Bắc (Đàng Ngoài) và miền Nam (Đàng Trong) là một chủ đề diễn đi diễn lại trong lịch sử Việt Nam, và hiện tượng này cũng rõ ràng trong lịch sử và văn hóa Công giáo Việt Nam. Khi Hồ Chí Minh tuyên bố Việt Nam là một nước thống nhất vào tháng Chín 1945, người Công giáo trong các vùng miền khác nhau của Việt Nam tán thành các truyền thống địa phương đặc biệt, các văn hóa, các tự sự lịch sử và các cấu trúc xã hội.

Bên trong giáo hội Công giáo chung, thời kỳ đầu của thực dân Pháp ở Việt Nam trùng với một thái độ thù địch và nghi ngờ đối với những tín ngưỡng khác, thái độ này đặc biệt rõ ràng trong các nhiệm kỳ Giáo Hoàng Piux IX (1846-1878) và Pius X (1903-1914). Trong thế giới quan này, những người Cơ Đốc giáo phải được bảo vệ khỏi xã hội phi- Cơ Đốc, đừng để cho họ rơi vào thói tục vô đạo. Những người mới cải đạo (Neophytes) trong các vùng đất truyền giáo được coi là đặc biệt dễ bị tấn công bởi nguy cơ này, ngay cả khi gia đình của họ đã theo đạo Cơ Đốc hàng mấy đời.

Ở miền Bắc, chủ nghĩa biệt lập tôn giáo này còn tồi tệ hơn vì nỗi lo sợ bị người lương (không theo Công giáo) tấn công về thể xác. Trong thế kỷ mười chín, các quan hệ lương–giáo ở miền này rất căng thẳng và thường dẫn đến bạo lực. Mặc dầu bước sang thế kỷ hai mươi, sự ngược đãi Công giáo đã chấm dứt, nhưng những ký ức còn nóng hổi ở miền nam và phần lớn miền trung, và cái mạng lưới chằng chịt các vấn đề chính trị, tôn giáo và xã hội ngay từ đầu đã gây xung đột phần lớn vẫn còn chưa được giải quyết. Thật ra, trong khi thực dân Pháp đến cai trị dẫn đến đàn áp tấn công về thể xác, thì nỗi oán giận dường như càng nặng nề hơn đối với thiểu số Công giáo vốn được coi là đồng minh của bọn thực dân áp bức.

Bởi vì việc ngược đãi Công giáo nói chung chấm dứt ở Nam kỳ vào khoảng những năm 1860, và ở Trung kỳ vào khoảng những năm 1880, những người Công giáo trong các vùng này dần trở nên quen với việc chung sống hòa bình trong các cộng đồng pha trộn với những người hàng xóm không Công giáo của họ. Ngược lại, những đồng đạo của họ ở Bắc kỳ – đặc biệt những người sống trong những giáo khu lớn như Phát Diệm hoặc Bùi Chu – sống trong các họ đạo [các tiểu giáo khu Công giáo toàn tòng] trong đó họ được cách ly khỏi mối đe dọa của thế giới bên ngoài không theo Công giáo. Trong khi những người Công giáo miền Nam dễ dàng phân biệt việc đạo với việc đời, thì đường phân giới này ở những cư dân họ đạo miền Bắc thường bị xóa nhòa. Và trong khi những người Công giáo miền Nam sẵn sàng thừa nhận rằng họ chỉ được các linh mục dẫn dắt trong các địa hạt tâm linh và tôn giáo, thì sự dẫn dắt của các cha cố trong các họ đạo miền Bắc đôi khi khoác vẻ ngoài của một thứ chính trị thần quyền toàn diện.

Tất nhiên về phương diện cùng là giáo dân Công giáo thì họ có nhiều điểm chung, và nhiều đặc điểm đã sẵn sàng được cả người miền Bắc và miền Nam thừa nhận như nhau. Hơn nữa, tất cả họ là thành viên của một Giáo hội Thiên Chúa giáo chung, nó quy định sự tương đồng trong những lĩnh vực của đời sống tôn giáo như nghi lễ, giáo lý, các phép bí tích và các cấp bậc trong giáo hội, không chỉ ở Việt Nam mà trên toàn thế giới Thiên Chúa giáo. Tuy nhiên, những sự khác nhau giữa người Công giáo miền Bắc và miền Nam vẫn còn là đáng kể. Khi những thăng trầm lịch sử và chính trị của cuộc di cư 1954-1955 ném một bộ phận lớn của giáo hội miền Bắc vào chung sống ngay lập tức với đối tác của họ ở miền Nam, những khác biệt này đôi khi trở thành ức chế việc đồng hóa dễ dàng và thường là nguồn gốc của sự không hiểu được nhau. Nhiệm vụ hòa trộn những người Công giáo bản địa miền Nam với Bắc di cư thành một cơ thể giáo hội thống nhất nhất định phải lâu dài và phức tạp.

Những ai đi vào Nam?

Các hiệp định được ký kết ở Hội nghị Geneva về Đông dương ngày 20 tháng Bảy năm 1954 quy định phân ranh giới tạm thời giữa miền Bắc và miền Nam Việt Nam ở vĩ tuyến 17[5]. Điều 14(d) của Hiệp định quy định tự do đi lại giữa các địa phương miền Bắc và miền Nam trong thời hạn ba trăm ngày tiếp sau ngày bắt đầu của Hiệp định[6]. Vào cuối thời kỳ mở cửa này, hơn 810.000 người đã lợi dụng cơ hội để di dời từ miền Bắc vào miền Nam[7]. Hơn bảy mươi lăm phần trăm là người Thiên Chúa giáo La Mã, phần lớn, nhưng không phải duy nhất, rút ra từ hai giáo khu tập trung đông người Công giáo nhất của miền Bắc là Phát Diệm (ở tỉnh Ninh Bình) và Bùi Chu (ở tỉnh Nam định).[8] Các Giám mục của hai giáo khu này [lần lượt] là Thaddeus Lê Hữu Từ, và Piere Phạm Ngọc Chi, từ cuối những năm 1940 đã là những đối thủ gay gắt của Việt Minh. Mỗi người đã duy trì một lực lượng tự vệ thường xuyên đụng độ với các lực lượng Việt Minh. Về phía mình nhiều người trong hàng ngũ Việt Minh đã coi Giáo hội Thiên Chúa Việt Nam như một đồng minh của thực dân Pháp. Sự đối kháng lẫn nhau này đặc biệt thấy rõ ở những vùng từ lâu nằm dưới quyền kiểm soát của Việt Minh, như trung-bắc Nghệ An. Nhiều người Công giáo đã chiến đấu không chỉ cho lực lượng dân quân Công giáo mà còn trực tiếp dưới quyền chỉ huy của Pháp. Khi cuộc nổi dậy của Việt Minh đã rõ ràng thắng lợi ở miền Bắc, nhiều người Công giáo sợ bị trả thù, sẵn sàng rời bỏ miền Bắc. Cuộc di chuyển lớn của người Công giáo đã bắt đầu ngay khi những tin tức của Hiệp định Geneva và những điều khoản chuyển quân của nó được công bố. Thật ra, cuộc bỏ chạy của người Công giáo từ các làng xã trên khắp bắc bộ và bắc trung bộ đã bắt đầu từ trước khi công bố Hiệp định Geneva[9]. Sau thất bại của các lực lượng Pháp ở Điện Biên Phủ ngày 7 tháng Năm 1954, các chỉ huy quân đội Pháp lựa chọn di tản các lực lượng của họ khỏi các giáo khu Phát Diệm và Bùi Chu để củng cố hành lang chủ yếu do họ kiểm soát từ Hà nội đến Hải Phòng[10]. Phần lớn thường dân Công giáo của các vùng này, vốn không được báo trước về sự rút lui của quân đội Pháp, bỗng nhiên thấy mình đứng trước con đường tiến quân của Việt Minh. Những chỉ thị về rút quân được gửi từ chỉ huy cấp cao của Pháp đến chiến trường vào ngày 15 tháng Sáu 1954, hơn một tháng trước khi kết thúc các cuộc đàm phán ở Geneva[11]. Cuộc chuyển quân của Pháp rất bí mật, nhưng các chức sắc giáo hội rõ ràng đã biết về nó gần như tức khắc, đúng chỉ trong thời gian hai tuần đó mà các giám mục Lê Hữu Từ và Phạm Ngọc Chi đã [lần lượt] rời Phát Diệm và Bùi Chu[12]. Vào thời gian kết thúc Hội nghị Geneva, đã có hai mươi lăm ngàn người Công giáo tị nạn tại Hà Nội, mười lăm ngàn ở Hải Phòng, và năm ngàn ở Hải Dương[13].

Ngoài những người tị nạn từ trung tâm Công giáo, còn những người Công giáo từ các vùng bắc và tây Hà Nội, bắt đầu đến các trụ sở Công giáo ở thủ đô[14]. Ở miền trung, cư dân của các cộng đồng Công giáo ở bắc địa phận Huế (nằm ở các tỉnh Quảng Bình và Quảng Trị) đã bắt đầu chuyển đến thành phố Huế và vùng lân cận phía nam trước khi Việt Minh tiến đến[15].Những cuộc di chuyển này bắt đầu thậm chí trước khi hiệp định được ký; tuy nhiên, ở các địa phương khác trên miền Bắc, đặc biệt những nơi mà người Công giáo chiếm một tỷ lệ nhỏ hơn trong tổng số dân cư, thì sức thúc đẩy di chuyển vào nam cho đến cuối tháng Bảy 1954 không mạnh.

Những số liệu chính thức của Việt Nam Cộng hòa biên soạn tháng Mười 1955 cho thấy rằng những người di cư từ Bắc vào Nam bao gồm 676.348 người Công giáo (76,3 phần trăm toàn bộ Bắc di cư), 209.132 Phật giáo (23.5 phần trăm), và 1041 Tin Lành (0,2 phần trăm)[16]. Các phân tích của chế độ Sài Gòn không phân loại người di cư theo vùng cư trú trước đây ở miền bắc; tuy nhiên giáo hội cung cấp những ước tính về số giáo dân chạy vào Nam từ mười giáo khu Thiên Chúa nằm phía trên giới tuyến (Xem bảng 1)[17].

Bảng 1: Sự di cư của những và linh mục trong các giáo khu miền Bắc, 1954.

Giáo khu
Giáo dân Linh mục
Tổng số người ra đi % của số giáo dân di cư Tổng số người ra đi % của số linh mục di cư
Hà Nội 50.000 33,4% 115 55,6%
Hải Phòng 60.000 52,3% 79 80,6%
Vinh 57.080 31,7% 70 39,3%
Bùi Chu 150.000 71,7% 150 77,7%
Hưng Hóa 8.000 11,8% 23 28,4%
Bắc Ninh 38.000 55,9% 60 75,0%
Phát Diệm 80.000 72,7% 139 87,4%
Thanh Hóa 18.500 20,6% 64 88,9%
Thái Bình 80.000 57,1% 79a 70,6%
Lạng Sơn 2.500 50,0% 14 58,3%


_______________________________________________

a. Con số này dường như rất cao so với ước tính của Hội đồng Giám mục Việt Nam,“hơn 60.”: Giáo Hội Công Giáo Việt Nam, 284. Nguồn: Lê Ngọc Bích, Nhân Vật Công Giáo Việt Nam: Các Vị Giám Mục Một Thời Đã Qua Đời (1933–1995) [Vietnamese Catholic Biography: Deceased. Bishops (1933–1995)] (HCMC, 1995); và Công Giáo và Dân Tộc [Catholicism and the Nation], Công Giáo Sau Quá Trình 50 Nam [Catholicism through a Process of Fifty Years] (HCMC: Công Giáo và Dân Tộc, 1995)

Điều 14(d) Hiệp định Geneva qui định tự do di chuyển không hạn chế qua lại nam-bắc và bắc-nam trong thời kỳ chuyển quân nói trên, và đề nghị rằng những di chuyển như thế được theo dõi và giám sát và đảm bảo được tôn trọng bởi Ủy ban Kiểm soát Quốc tế ICC (Điều 34-36) B.S.M. Murti, một ủy viên ICC sau đó nói rằng lúc đầu chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa bằng lòng cho phép những người muốn rời khỏi vùng kiểm soát của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được ra đi tự do, nhưng sau đó thái độ của họ mau chóng trở nên cứng rắn vì rõ ràng có một số lượng lớn người lợi dụng cơ hội này để đi Nam[18]. Vào giữa năm 1955, có nhiều báo cáo về các trường hợp trong đó các lực lượng quân đội Việt Minh và các cán bộ hành chính Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã tích cực ngăn cản, gây trở ngại cho những người có-thể-ra-đi không để họ đến các điểm xuất phát tại Hà Nội và Hải Phòng[19]. Điều đó được thực hiện thông qua một sự kết hợp giữa các lực lượng quân đội và làm rối về mặt hành chính; thẩm quyền cấp giấy phép ra đi nằm bên phía chính quyền chiếm đóng trong các vùng tương ứng của họ[20].

Hậu quả là, những người Công giáo và những người có-thể-sẽ-di-cư sống tại những giáo khu xa nhất so với các điểm xuất phát (ví dụ Hưng Hóa ở vùng tây bắc) và những người sống trong vùng từ lâu nằm dưới quyền kiểm soát của Việt Minh (như phần lớn các vùng Nghệ An và Thanh Hóa ở Liên Khu IV) gặp khó khăn lớn nhất trong việc đến được các điểm đăng ký coi như cửa ngõ vào miền Nam. Ngược lại, những người Công giáo ở Phát Diệm và Bùi Chu, nằm khá gần đường trục Hà Nội – Hải Phòng, thì có một hành trình tương đối dễ dàng hơn để đến được những nơi mà từ đó họ được trực tiếp chuyển bằng đường biển và đường hàng không vào miền Nam[21].

Tuy nhiên, những khó khăn về vật chất và hậu cần trong hành trình đến điểm xuất phát không đủ để giải thích những khác biệt to lớn về số người ra đi từ những giáo khu khác nhau[22]. Chẳng hạn tại sao các cư dân Công giáo thuộc địa phận Hà Nội, là những người khá sẵn sàng tại điểm xuất phát, lại chỉ có 33,4 phần trăm lựa chọn ra đi? Con số này ít hơn một nửa tỉ lệ những người ra đi từ Phát Diệm, họ phải cất công ra tận Hà Nội hay Hải Phòng để lên đường[23]. Sự khác biệt này có thể một phần vì thủ đô phần lớn đã tránh được chiến sự trong thời gian chiến tranh. Nó cũng phản ánh thái độ tích cực của một số cư dân Hà Nội – trong đó có cả những người Công giáo dân tộc chủ nghĩa – trước sự ra đi của người Pháp và sự kiện Hồ Chí Minh sắp trở về thủ đô.

Tuy nhiên, về sau những sự kiện như thế này không thật quan trọng trọng sự quyết định của người Công giáo so với một điều cân nhắc khác: thái độ của các cha cố ở địa phương. Đối với nhiều người Công giáo miền Bắc — đặc biệt những người sống trong các làng xã — quyết định ở hay đi phần lớn phụ thuộc vào lời nói và việc làm của các linh mục và giám mục.

(còn tiếp)

Nguồn: Journal of Vietnamese Studies, Volume 4, issue 3, Fall 2009.

Bản tiếng Việt © 2010 Hiếu Tân

Bản tiếng Việt © 2010 talawas

[1] Một số cái tên như Phúc Nhạc nhắc đến giáo khu gốc của họ. Gia Kiệm không phải là duy nhất trong những năm 1954–1955, cả loạt những khu định cư mới rộng lớn, hầu như dành riêng cho Công giáo di cư như Thủ Đức, Bình Thạnh, Gò Vấp vân vân, mọc lên ở khu vực xung quanh Sài Gòn, và nhiều khu cuối cùng đã sáp nhập vào ngoại ô của nó.

[2] Điều này là chắc chắn trong những tác phẩm như Harvey Neese. John O’Donnell, Prelude to Tragedy: Vietnam, 1960–1965 (Annapolis, MD: Naval Institute Press, 2001); Robert Shaplen, (The Lost Revolution: The Story of Twenty Years of Neglected Opportunities in Vietnam and of America’s Failure to Foster Democracy There (New York: Harper & Row, 1965); và Charles A. Joiner, The Politics of Massacre: Political Processes in South Vietnam (Philadelphia: Temple University Press, 1974). Xem thêm Robert Scheer, “Genesis of United States Support for the Regime of Ngo Dinh Diem” và “Behind the Miracle of South Vietnam,” trong Vietnam and America: A Documented History, eds. Marvin E. Gettleman và những người khác. (New York: Grove Press, 1985), 118–132 và 137–153,. Joiner ít ra cũng cho cuộc trốn chạy của Bắc di cư trong lịch sử tôn giáo một tầm quan trọng nổi bật trong khi nhiều người khác coi vai trò của họ chỉ đơn giản là bị thúc đẩy bởi thái độ chống cộng quyết liệt của họ, thái độ này nảy sinh từ tư cách chính trị của họ (theo đường hướng lập luận này). Xem: Joiner, Politics of Massacre, 30, 68–69, 162.

[3] Piero Gheddo, The Cross and the Bo Tree, Charles Quinn dịch (New York: Sheed & Ward, 1968); Phan Phát Huồn, Việt Nam Giáo Sử [Vietnamese Church History], 2 tập. (Sài Gòn: Cứu Thế Tùng Thư, 1962–1965); Bùi Đức Sinh, Giáo Hội Công Giáo Việt Nam, 1975–2000 [The Catholic Church in Vietnam, 1975–2000] (Westminster, CA: Asian Printing, 2001); Nguyễn Thế Thoại, Công Giáo Trên Quê Hương Việt Nam [Catholicism in the Homeland, Vietnam], 2 tập. (Vietnam: self-published, 2001). Nhiều số tạp chí lịch sử của giai đoạn này do các cộng đồng người Việt phát hành cũng có ý định phác hoạ bối cảnh cuộc di cư trong luận chiến, cùng tên Phan Phát Huồn. Hơn nữa, mỉa mai thay, nhiều người trong số họ phần lớn lại dựa trên các nguồn sơ và thứ cấp ngoài Việt Nam. Một ngoại lệ đáng chú ý, xem Lê Xuân Khoa, Việt Nam 1945–1995: Chiến Tranh, Tị Nạn; Bài Học Lịch Sử [Vietnam 1945–1995: War, Refugees, Historical Lessons], 2 tập. (Bethesda, MD: Tiên Rồng, 2004). Công trình này không chỉ đề cập đến cuộc di cư một cách bình thản, mà còn dựa chủ yếu trên các nguồn tài liệu Việt Nam.

[4] Bùi Đức Sinh, Giáo Hội Công Giáo Việt Nam [The Catholic Church in Vietnam] (Calgary: Veritas Press, 1998), 3:214. Tính toán chính xác khó khăn vì giáo hội Công giáo Việt Nam được chia thành ba giáo khu, trong đó một giáo khu – Huế – lại nằm trải ra cả trên và dưới vĩ tuyến mười bảy

[5] Trong khi chỉ có ý định như một biện pháp tạm thời cho đến khi tổ chức tổng tuyển cử, việc chia cắt kéo dài đến khi thành lập nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam năm 1976.

[6] Robert F. Randle, Geneva 1954: The Settlement of the Indochinese War(Princeton, NJ: Princeton University Press, 1969), 462–467.

[7] Phủ Tổng ủy Di cư Tỵ nạn (PTUDCTN) [thuộc phủ Tổng thống (PTT), File 343, Folder 4041, Phủ Tổng thống đệ Nhất Cộng hòa (PTTĐNCH) Lưu trữ Quốc gia Vietnam II, Hồ Chí Minh City (VNA-II). Không phải tất cả là người gốc Bắc, 154,400 là lính phục viên và gia đình họ. Thời kỳ di chuyển chính thức lúc đầu hết hạn ngày 15, tháng Năm 1955, nhưng sau gia hạn đến 20 tháng Bảy. Sau ngày đó, các lực lượng Pháp buộc phải rút hoàn toàn khỏi các vị trí của họ ở Hà Nội và Hải Phòng. Số rời miền Bắc tăng lên vào ngày 31, tháng Mười Hai 1955, đến 887.861. Xem PTUDCTN thuộc PTT, 21, tháng Giêng 1956, File 343, Folder 4041, PTTĐNCH, VNA-II.

[8] Khoảng 140.000 người ủng hộ Việt Minh di chuyển theo hướng ngược lại, từ Nam ra Bắc. Phái đoàn Ngô Đinh Diệm tại Hội nghị Geneva đấu tranh không thành công để tách Phát Diệm và Bùi Chu ra khỏi vùng kiểm soát của Việt Minh. Xem Bernard B. Fall, Viet-Nam Witness, 1953–1966 (New York: Frederick A. Praeger, 1966), 62.

[9] “Hàng vạn dân lánh nạn miền xuôi” [Lines of Thousands of Evacuees Head Downwards], Tiếng Chuông [Sound the Bell], July 7, 1954. Xem thêm Edgar O’Ballance, The Indo-China War, 1945–1954: A Study in Guerilla Warfare(London: Faber & Faber, 1964), 239.

[10] O’Ballance, The Indo-China War, 215; “Bùi Chu và Phát Diệm” [Bùi Chu and Phát Diệm], Ánh Sáng [Light], July 9, 1954; “Hà Nội tản cư và hồi cư” [Hà Nội Evacuees and Returnees from Evacuation], Dân Ta [Our People], July 19, 204 Hansen 1954; Martin Windrow, The Last Valley: Dien Bien Phu and the French Defeat in Vietnam (Cambridge, MA: Da Capo Press, 2006), 631.

[11] Windrow, The Last Valley, 631.

[12] “Hà Nội tản cư và hồi cư”; Joseph Buttinger, Vietnam: A Dragon Embattled,vol. 2 (London: Pall Mall Press, 1967), 1092.

[13] Lê Xuân Khoa, Việt Nam 1945–1995, 1:237–238.

[14] Donald Lancaster, The Emancipation of French Indochina (London: Oxford University Press, 1961), 343; “Một nguyện vọng của đồng bào tản cư” [An Aspiration of the Evacuees], Cải Tạo [Transformation], July 24, 1954.

[15] Lê Ngọc Bích, Nhân vật Giáo Phận Huế: Kỷ niêm 150 năm thành lập GiáoPhận Huế [Biographies from the Diocese of Huế: A Memento of 150 Years of the Establishment of the Diocese of Huế], 2 vols. (Huế: Ban Truyền Thống Giáo Phận, 2000), 2:260–261

[16] PTUDCTN thuộc PTT, 22, tháng Mười Một 1955, File 343, Folder 4041, PTTĐNCH, VNA-II. Ủy ban của Giám mục Phạm Ngọc Chi tuyên bố rằng 78.6 phần trăm Bắc di cư là Công giáo. Xem Ủy Ban Hỗ Trợ Định Cư [Resettlement Assistance Committee] (UBHTĐC), Số các làng Đình cư [A List of Resettlement Villages] (Sài Gòn: UBHTĐC, Tháng Chín 1955), 4.

[17] Tại một hội nghị 1959, cựu tổng ủy di cư Việt Nam Cộng hòa Bùi Văn Lương, ước lượng có 794.876 Công giáo trong tổng số 928.152 Bắc di cư, hay 85.6 phần trăm. Số còn lại gọi chung là “Phật giáo và Tin Lành. Xem Bùi Văn Lương, “Role of Friendly Nations,” trong Viet-nam,the First Five Years: An International Symposium, ed. Richard W. Lindholm (East Lansing: Michigan State University Press, 1959), 49. các con số do ủy ban của Phạm Ngọc Chi cung cấp có vẻ chính xác hơn.

[18] B.S.N. Murti, Vietnam Divided: The Unfinished Struggle (New York: Asia Publishing House, 1964), 74–79.

[19] Jacques Dalloz, The War in Indo-China, 1945–1954, Josephine Baker dịch (London: Gill and Macmillan, 1990), 189; Harry Haas, “Catholics in North Vietnam,” trong American Catholics and Vietnam, ed. Tom Quigley (Grand Rapids, MI: William Eerdmans, 1968), 176–177; Gheddo, Cross and Bo Tree, 60–66. Andrew Hardy nhắc lại một cuộc nói chuyện với một người ủng hộ Việt Minh ở Nam Định (Bùi Chu), trong đó ông nhớ lại các hoạt động để tích cực can ngăn các làng Công giáo di cư. Xem Andrew Hardy, Red Hills: Migrants and the State in the Highlands of Vietnam (Copenhagen: NIAS Press, 2003), 156–157.

[20] Murti, Vietnam Divided, 92.

[21]Vào 30 tháng Mười Một và 1 tháng Mười Hai, 1954, các lực lượng quân sự của chính phủ Bảo Đại đã giúp nhiều ngàn người rời khỏi vùng biển Bùi Chu, nhưng sau đó hoạt động này bị gián đoán vì những cuộc tấn công của Việt Minh tăng lên Xem Louis A. Weisner, “Vietnam: Exodus from the North and Movement to the North, 1954–1955,” Vietnam Forum 11 (Winter–Spring 1988): 220.

[22] Haas, “Catholics in North Vietnam,” 176.

[23] Cần lưu ý là một tỉ lệ lớn cư dân Công giáo ở Địa phận Hà Nội trước năm 1954 sống phần lớn ở các làng ngoại ô nhiều hơn là ở thủ đô.


Phản hồi

2 phản hồi (bài “Peter Hansen – Bắc di cư: Dân Công giáo tị nạn từ miền Bắc Việt Nam và vai trò của họ tại Cộng hòa Miền Nam, 1954-1959 (phần 1)”)

1.
Tin 26-4-2010 « BA SÀM nói:
26/04/2010 lúc 8:04 sáng

[...] Peter Hansen – Bắc di cư: Dân Công giáo tị nạn từ miền Bắc Việt Nam và vai trò… (talawas). Qua [...]
2.
Hoà Nguyễn nói:
26/04/2010 lúc 7:38 sáng

Trích:
“Những số liệu chính thức của Việt Nam Cộng hòa biên soạn tháng Mười 1955 cho thấy rằng những người di cư từ Bắc vào Nam bao gồm 676.348 người Công giáo (76,3 phần trăm toàn bộ Bắc di cư), 209.132 Phật giáo (23.5 phần trăm), và 1041 Tin Lành (0,2 phần trăm)116].

Trong một lần góp ý về số người Công giáo di cư vào Nam trong 1954-55, tôi dựa vào sách thường dẫn của GS Lê Xuân Khoa đưa ra tỷ lệ giáo dân tới 75%. Có một độc giả talawas phản đối tỷ lệ này (cho quá cao). Tôi có trả lời là tôi đọc thấy ở chỗ khác con số còn cao hơn thế. Nhưng nay, tài liệu mà bài viết này đưa ra chứng tỏ tỷ lệ đưa ra chính xác (hay gần thế).

© talawas 2009

Bất ổn Thailand: một suy nghĩ từ Việt Nam

Phạm Hồng Sơn – Bất ổn Thailand: một suy nghĩ từ Việt Nam

25/04/2010 | 10:00 sáng | 5 phản hồi


BỨC TRANH CHÍNH TRỊ TÓM LƯỢC CỦA THAILAND

Xã hội Thailand từ năm 2006 trở lại đây dường như được chia thành hai phần đối kháng nhau, vàng và đỏ[i]. Những người mặc áo vàng và áo đỏ liên tiếp tổ chức các cuộc biểu tình khổng lồ chống lại chính phủ cầm quyền thuộc phe kia. Tính chất bạo loạn và con số thương vong đang có xu hướng gia tăng. Mặc dù, biểu tình là một phản ứng tích cực của một xã hội văn minh (ít nhất biểu tình cũng cảnh báo cho ta biết sớm những bất ổn trong đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa của quốc gia) nhưng xu hướng gia tăng những hành vi bạo lực trong biểu tình là một xu hướng kém văn minh, cần phải loại bỏ. Tuy nhiên, biểu tình hay sự gia tăng các hành vi bạo lực trong các cuộc biểu tình chỉ là thể hiện bên ngoài của những nguyên nhân phức tạp ở phía sau.

Phía sau những cuộc biểu tình khổng lồ kèm theo những rối loạn, thương vong đang diễn ra tại Thailand từ năm 2006 đến nay không thể không xét đến 6 yếu tố sau đây:

Vua Bhumibol Adulyadej; Hội đồng Cơ mật (Privy Council); giới tướng lĩnh quân đội, Hiến pháp 1997; cựu Thủ tướng Thaksin Shinawatra cùng phe đối lập; cuộc đảo chính quân sự 2006.

I. Vua Bhumibol Adulyadej

Kể từ năm 1932, sau áp lực ôn hòa của một nhóm quân nhân và dân sự, Thailand bắt đầu thực thi chế độ chính trị dân chủ theo thể thức Quân chủ Lập hiến[ii]. Nhưng Vua Bhumibol Adulyadej của Thailand hiện nay luôn có ảnh hưởng quyết định đối với chính trường Thailand.

Vua Bhumibol Adulyadej hiện 84 tuổi, sinh tại Boston (Mỹ), khi 18 tuổi (năm 1946) ông kế thừa ngôi vua từ người anh trai. Vua Bhumibol Adulyadej được người dân Thailand hết sức tôn kính, nhiều người còn coi ông là một vị Phật sống.

Việc xúc phạm Vua là một tội hình sự trong hệ thống pháp luật của Thailand.

Hầu hết tất cả các cuộc đảo chính từ năm 1946 đến nay của giới quân đội và các chính trị gia muốn giữ chức thủ tướng đều cần phải có sự hậu thuẫn của Vua Bhumibol Adulyadej. Vua Bhumibol Adulyadej đã từng nhiều lần phải can thiệp để giải quyết các tranh cãi, bế tắc giữa các phe phái chính trị[iii]. Trong bế tắc chính trị hiện nay, phe đối lập, từ rất sớm, đã kêu gọi sự can thiệp của Vua Bhumibol Adulyadej.

II. Hội đồng Cơ mật (Privy Council)

Đây là một cơ cấu theo mô hình của các chế độ quân chủ châu Âu thế kỷ XIX. Hội đồng cơ mật gồm các thành viên do vua tự tuyển chọn, có chức năng cố vấn trực tiếp cho vua. Sau nhiều lần thay đổi và có lúc bị bãi bỏ, Hội đồng Cơ mật của Hoàng gia Thailand từ năm 1998 đến nay đều do tướng quân đội Prem Tinsulanonda lãnh đạo (ông cũng là thủ tướng Thailand thời kỳ những năm 1980). Tướng Prem Tinsulanonda mặc dù tuổi cao (90) và đã về hưu từ lâu nhưng vẫn là một nhân vật có ảnh hưởng trong quân đội Thailand. Prem Tinsulanonda phủ nhận tất cả những cáo buộc cho rằng ông đứng đằng sau cuộc đảo chính 2006, nhưng nhiều người thân cận của ông trong Hội đồng Cơ mật đã trở thành thành viên của chính phủ lâm thời (kể cả vị trí thủ tướng) sau đảo chính. Bản Hiến pháp 2007 (sau vụ đảo chính quân sự 2006) đã trao thêm nhiều thẩm quyền cho Hội đồng Cơ mật Thailand.

III. Giới tướng lĩnh quân đội

Quân đội Thailand, đặc biệt là các vị tổng chỉ huy quân đội, từ năm 1932 tới nay luôn có truyền thống đứng ra thực hiện các cuộc đảo chính nhằm thay đổi chính phủ. Trước năm 2001 các chính phủ Thailand đều do các tướng lĩnh điều hành hoặc chỉ là kết quả của các cuộc đảo chính quân sự.

Giữa các đảng phái và Hoàng gia, giới tướng lĩnh quân đội thường gắn bó và trung thành với Hoàng gia hơn bất kỳ một đảng phái chính trị nào.

IV. Hiến pháp 1997 và Tòa án Hiến pháp

Trước Hiến pháp năm 1997, Thailand đã phải trải qua 10 bản hiến pháp khác nhau (kể cả các bản tạm thời) nhưng tất cả 10 bản hiến pháp đó đều do giới quân đội đảo chính kiểm soát từ lúc soạn thảo cho đến khi được Quốc hội thông qua. Bản Hiến pháp năm 1991 cũng cùng chung một số phận như thế sau cuộc đảo chính quân sự của tướng tổng chỉ huy quân đội Suchinda Kraprayoon. Bản Hiến pháp 1991 đã đưa tướng Suchinda Kraprayoon lên nắm quyền thủ tướng và dẫn đến các cuộc nổi dậy rầm rộ của dân chúng sau đó, đỉnh điểm là “tháng Năm đen tối” năm 1992 làm nhiều người thiệt mạng. Tướng Suchinda Kraprayoon chỉ nắm quyền được hơn một năm.

Kể từ “tháng Năm đen tối”, xã hội Thailand bắt đầu nhận ra một nhu cầu phải tìm cách để buộc được chính phủ có trách nhiệm hơn. Rõ hơn nữa là từ năm 1994, trên chính trường Thailand xuất hiện các đòi hỏi phải sửa đổi (tu chính) Hiến pháp năm 1991. Một sự kiện đặc biệt xảy ra năm 1994 đã thúc đẩy việc cải cách Hiến pháp 1991 thêm một bước là nhà hoạt động dân chủ Chalard Vorachat tiến hành tuyệt thực gây phẫn nộ trong dân chúng, đẩy chính phủ của Thủ tướng Chuan Leekpai phải thành lập Ủy ban Phát triển Dân chủ thuộc Hạ viện (Committee of Democracy Development). Ủy ban Phát triển Dân chủ, được lãnh đạo bởi nhà khoa học Prawes Wasi, đã tu chính được một số điểm không lớn nhưng có tính chất tạo cơ sở cho các tu chính sau đó của Hiến pháp 1991. Các nỗ lực trong nhiều năm tiếp theo của các chính trị gia và giới trí thức cùng với sự ủng hộ của dân chúng đã đưa đến một tu chính quan trọng cho Hiến pháp 1991 vào năm 1996: cho phép thành lập một Hội đồng Dự thảo Hiến pháp (CDA) nằm ngoài Quốc hội để đảm trách việc xây dựng một hiến pháp hoàn toàn mới. CDA bao gồm 99 thành viên, trong đó 76 người được bầu trực tiếp từ mỗi tỉnh và 23 thành viên còn lại được Quốc hội chọn ra từ các trung tâm khoa học và các nguồn khác trong xã hội.

Quá trình soạn thảo hiến pháp mới đã tạo ra những cuộc tranh luận sâu rộng và đôi khi gay gắt trong xã hội Thailand lúc đó. Việc lấy ý kiến của dân chúng được thực hiện trên khắp các vùng trong cả nước với sự hỗ trợ tối đa của các phương tiện truyền thông tự do.

Dự thảo Hiến pháp được Quốc hội thông qua và có hiệu lực từ ngày 11 tháng Mười năm 1997. Hiến pháp 1997 của Thailand là hiến pháp có rất nhiều điểm khác so với các hiến pháp trước đó:

1. Lần đầu tiên được soạn thảo bởi một hội đồng do dân bầu ra, vì vậy Hiến pháp 1997 còn được gọi là Hiến pháp Nhân dân. Hiến pháp 1997 còn được đánh giá là “một cuộc cách mạng chính trị của Thailand, là nỗ lực táo bạo nhằm đem lại nhiều quyền lực cho dân chúng Thailand hơn bao giờ hết.”
2. Cải cách thiết chế bầu cử: Tham gia bầu cử là bắt buộc đối với người dân để chống lại sự thờ ơ với chính trị và giảm khả năng mua phiếu bầu. Áp dụng hệ thống bầu cử Hạ viện (500 thành viên) theo cách hỗn hợp dựa theo mô hình Đức[iv] nhằm giảm khả năng mua phiếu bầu, tăng phẩm chất cho ứng cử viên. Thành lập Ủy ban Bầu cử Độc lập để tăng cường sự minh bạch, công bằng cho các ứng cử viên.
3. Cải cách hệ thống hành pháp: Cần phải có 2/5 tổng số đại biểu Hạ viện đồng ý để quyết định việc bỏ phiếu bất tín nhiệm đối với thủ tướng và cần phải chuẩn bị được người thay thế thủ tướng đương nhiệm. Quyết định bất tín nhiệm thủ tướng phải có ít nhất một nửa số đại biểu Hạ viện bỏ phiếu thuận. Đối với bộ trưởng thì chỉ cần 1/5 số đại biểu Hạ viện đồng ý để tiến hành bỏ phiếu bất tín nhiệm. Các cải cách này nhằm tăng khả năng ổn định cho chính phủ.
4. Cải cách hệ thống lập pháp: Lần đầu tiên, Thượng viện (200 thành viên) của Quốc hội Thailand được bầu trực tiếp. Các thượng nghị sĩ không được tham gia đảng chính trị. Thượng viện có quyền thay đổi, phê chuẩn một phần của dự luật nhưng không có quyền bác bỏ. Thượng viện không thể bị thủ tướng giải tán như Hạ viện. Để bác phủ quyết của Hoàng gia, cần phải có ít nhất 2/3 tổng số đại biểu của cả hai viện Quốc hội tán thành.
5. Tăng sự độc lập giữa hành pháp và lập pháp: Các dân biểu (hạ hoặc thượng nghị sĩ) phải rút khỏi Quốc hội khi muốn trở thành bộ trưởng hay bất kỳ thành viên của chính phủ. Nguyên tắc này đảm bảo cho các bộ trưởng phải chịu trách nhiệm cá nhân và chính phủ phải chịu trách nhiệm tập thể.
6. Tăng cường cơ chế Kiểm soát và Đối trọng (Checks and Balances) cho hệ thống quyền lực công: Thành lập các thiết chế độc lập với chính phủ như Tòa án Hiến pháp, Tòa án Hành chính, Cơ quan Tổng Kiểm toán, Ủy ban Quốc gia chống Tham nhũng, Ủy ban Nhân quyền Quốc gia, Cơ quan bảo vệ Người tiêu dùng, Tổng Thanh tra…
7. Cải cách hệ thống tố tụng hình sự: Đòi hỏi phải có lệnh của tòa án trong vòng 48 giờ khi ra lệnh bắt giữ, quyền được tham vấn luật sư trong khi xét hỏi,…
8. Các quyền con người được liệt kê chi tiết tới 40 quyền cần được tôn trọng và bảo vệ, trong đó có các quyền lần đầu được ghi như: quyền của trẻ em, người già, người khuyết tật, quyền tự do thông tin, quyền hưởng giáo dục tự do, quyền người tiêu dùng, đặc biệt là thêm quyền biểu tình để chống đảo chính và các hành động vi hiến (được tiến hành việc phong tỏa, gây tắc ngẽn giao thông). Đồng thời vẫn duy trì các quyền đã được thừa nhận trước đây như: tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do hội họp, tự do lập hội, tự do lập đảng, quyền sở hữu tài sản, sở hữu đất đai, biểu tình…

Tòa án Hiến pháp (Constitutional Court) của Thailand mới được thiết lập và hoàn tất nhân sự vào năm 1998 chiểu theo qui định của bản Hiến pháp năm 1997. Tòa án Hiến pháp Thailand dựa theo mô hình Tòa án Hiến pháp của Italy, gồm 9 thẩm phán được Quốc hội (hai viện) chọn ra từ danh sách đề cử gồm 18 người. Trong số 9 thẩm phán phải có 6 người là chuyên gia luật, 3 người còn lại thuộc ngành khoa học chính trị. Tòa án Hiến pháp Thailand có thẩm quyền phán xử các vấn đề thuộc sáu lĩnh vực: 1. Tính hợp hiến trong các quyết định của Quốc hội. 2. Tính hợp hiến trong các chỉ dụ của Hoàng gia. 3. Thẩm quyền của các định chế do hiến pháp qui định. 4. Bổ nhiệm và phế truất quan chức chính phủ. 5. Các vấn đề của các đảng phái chính trị. 6. Tính hợp hiến của các dự luật.

Trong quá trình tồn tại ngắn ngủi (1998-09/2006), Tòa án Hiến pháp Thailand 1997 đã có ảnh hưởng quan trọng đối với nền chính trị Thailand, bước đầu đã tạo được tập quán đưa các bất đồng chính trị ra tòa án giải quyết và nâng cao ý thức tôn trọng hiến pháp cho cơ quan hành pháp (chính phủ).[v]

V. Cựu Thủ tướng Thaksin Shinawatra và phe đối lập

Nhiều nhà phân tích đánh giá cựu Thủ tướng Thaksin Shinawatra là một trong những nhân vật ảnh hưởng và gây tranh cãi nhất trong lịch sử chính trị hiện đại của Thailand.

Quá trình nắm quyền của ông Thaksin và sự đối đầu của ông với phe đối lập có thể tóm lược như sau:

Ông Thaksin là một trong số doanh nhân thành đạt nhất Thailand vào năm 2000 (với số tài sản có lúc lên tới trên 2 tỷ USD), khi tiến hành chiến dịch tranh cử năm 2001 ông có quan điểm “dân túy”[vi] và đã lên nắm quyền một cách hợp pháp vào năm 2001 sau khi được đa số dân nghèo ủng hộ Đảng TRT của ông trong cuộc bầu cử đầu tiên theo Hiến pháp 1997. Trong bốn năm của nhiệm kỳ đầu tiên, chính phủ Thaksin đã mang lại nhiều thành quả về kinh tế, xã hội cho Thailand, nhưng đồng thời quan điểm “dân túy” và cách ứng xử (đôi khi không khéo) của ông đã biến tầng lớp trung lưu và giới thân Hoàng gia thành phe đối lập gay gắt.[vii] Tháng 02/ 2005 ông Thaksin và đảng của ông lại thắng cử vang dội hơn lần đầu tiên mặc dù bị phe đối lập gia tăng phản đối. Hai cuộc bầu cử (nhất là cuộc bầu cử 2001) đều được đánh giá là tự do và công bằng nhất trong lịch sử Thailand.

Sau khi ông Thaksin đắc cử lần hai, đặc biệt là sau khi một chương trình truyền hình chuyên chỉ trích chính phủ của ông Sondhi Limthongkul (một ông chủ ngành truyền thông giải trí, cựu ủng hộ viên của Thaksin và là thủ lĩnh của phe đối lập) bị đóng lại, phe đối lập gia tăng các hoạt động phản đối và thể hiện quyết tâm bằng mọi cách phế truất ông Thaksin khỏi ghế thủ tướng, kể cả nhờ đến áp lực từ Vua Bhumibol. Phe đối lập đã vận dụng cả chiến thuật biển người (hàng chục nghìn) ôn hòa bao vây tòa nhà chính phủ và cáo buộc pháp lý đối với ông Thaksin. Nhưng tất cả các phương cách của phe đối lập đều không có kết quả (ví dụ: cáo buộc của phe đối lập trong việc chuyển nhượng cổ phần của công ty Shin Corporation bị tòa án bác) hoặc bị ông Thaksin làm cho vô hiệu bằng những cách thức và kỹ thuật chính trị hợp pháp (ví dụ: ông Thaksin giải tán Quốc hội nhưng kêu gọi bầu cử với thời hạn ngắn để phe đối lập không đủ thời gian chuẩn bị nhân sự).

Cho đến trước ngày 19/09/2006, các hành động của cả hai bên (chính phủ Thaksin và phe đối lập) đều được giữ trong khuôn khổ luật pháp hoặc chịu sự điều chỉnh của pháp luật. Hai bên đang trong tình trạng chờ thực hiện cuộc bầu cử vào ngày 15/10/2006 do Tòa án Hiến pháp quyết định sau khi có khiếu nại. Nói một cách khác, hai bên đối kháng chính trị của Thailand lúc đó đều tuân thủ luật chơi dân chủ, đang chờ đợi sự phân giải bằng một cuộc bầu cử hợp hiến.

VI. Cuộc đảo chính quân sự ngày 19/09/2006

Ngày 19/09/2006, trong lúc Thủ tướng Thaksin Shinawatra ở New York để tham dự một cuộc họp của Liên hợp quốc, tướng Sonthi Boonyaratglin, Tổng Chỉ huy quân đội đã tiến hành một cuộc đảo chính êm thấm, phế truất chính phủ của Thủ tướng Thaksin Shinawatra và tự tuyên bố thành lập Hội đồng Cải cách Dân chủ. Hội đồng Lãnh đạo Quân sự được thành lập và chính thức được Vua Bhumibol chấp thuận. Ngay sau khi thành lập, hội đồng này đã tuyên bố bãi bỏ bản Hiến pháp 1997 cùng với các định chế liên quan khác (kể cả Tòa án Hiến pháp), vội vã thiết lập một bản Hiến pháp Lâm thời và tiếp theo là một bản Hiến pháp chính thức với cách thức độc đoán (hội đồng soạn thảo hiến pháp và nội dung dự thảo hiến pháp đều bị Hội đồng Lãnh đạo Quân sự kiểm soát, hội đồng này còn ra chỉ luật cấm phê phán dự thảo hiến pháp và tự cho mình quyền lựa chọn hiến pháp nếu trưng cầu dân ý không chấp nhận). Dự thảo Hiến pháp sau đảo chính 2006 đã được một cuộc trưng cầu dân ý thông qua ngày 19/08/2007 với tỷ lệ 59,3% cử tri đồng ý trong số 55,6% cử tri hợp pháp đi bỏ phiếu. Bản Hiến pháp 2007 đã xóa đi phần lớn các tiến bộ trong bản Hiến pháp 1997 nhưng lại thêm nhiều điều khoản có tính ủng hộ quan điểm của Hoàng gia và đảm bảo an toàn cho những người đảo chính.[viii]

MỘT SỐ SUY NGHĨ VÀ LIÊN HỆ VỚI VIỆT NAM

I. Về cuộc đảo chính quân sự 2006

Cuộc đảo chính này đã phá ngang tiến trình dân chủ đang trên quá trình hoàn thiện bằng thực hành sau cuộc cải cách công phu về lý thuyết bằng bản Hiến pháp 1997.[ix]

Cuộc đảo chính quân sự 2006 cùng với Hiến pháp 2007 không chỉ là sự bức tử một định chế trụ cột (Hiến pháp 1997) của nền dân chủ mà còn đẩy lùi nền chính trị Thailand về phía sau. Hệ lụy chính là sự bất ưng phe đối lập cầm quyền và bất tuân pháp luật của cả hai phe áo vàng và áo đỏ trong suốt thời gian sau đảo chính. Đó chính là nguyên nhân sâu xa của thế giằng co hiện nay trên chính trường Thailand. Các hỗn loạn, thương vong hay âm mưu ám sát chỉ là hệ quả của những ẩn ức bị chà đạp hay thái độ bất chấp pháp luật. Đúng như Thomas More đã nói, “khi ta gạt bỏ pháp luật đi thì chẳng còn cái gì để bảo vệ khi ta lâm sự”.

Với Việt nam: Kể từ năm 1975 đến nay, Việt Nam không có đảo chính quân sự.

II. Về cựu Thủ tướng Thaksin Shinawatra và phe đối lập

Chính sách “dân túy” của cựu Thủ tướng Thaksin Shinawatra về lâu dài có thể không phải là một chính sách tốt nhưng trong bối cảnh hiện nay nó có ý nghĩa lớn trong việc cân bằng lại các chính sách trong quá khứ (chưa quan tâm đủ tới giới cần lao và nông dân các vùng khó khăn của Thailand). Sự phê phán, chỉ trích của phe đối lập (gồm tầng lớp trung lưu và Hoàng gia) cũng là cần thiết cho lợi ích chung và lâu dài của đất nước Thailand nhưng chỉ tiếc phe đối lập với cựu Thủ tướng Thaksin Shinawatra đã không kiên quyết theo đuổi và bảo vệ luật chơi dân chủ đến cùng. Phe đối lập đã ủng hộ biện pháp vi hiến là đảo chính – một khuyết tật lớn của nền chính trị Thailand, mới được Hiến pháp 1997 ngăn chặn.[x] Như một hệ lụy tất yếu, các hành động phi dân chủ của mỗi bên đã kéo theo các hành vi phi dân chủ khác của bên kia với tính chất đặc thù liên quan tới các lợi thế (hay đặc điểm) của mỗi bên. Nếu như bên áo vàng chủ yếu dựa vào giới quân đội, ủng hộ của Hoàng gia và những điều luật mới do Hiến pháp 2007 tạo ra để giành và giữ quyền lực thì bên áo đỏ dựa vào số lượng vượt trội, sự liều lĩnh, thiên bạo động của những người biểu tình có gốc từ vùng Đông Bắc Thailand[xi]. Những diễn biến gần đây trong cuộc biểu tình của phe áo đỏ cho thấy những hành động phi dân chủ của cả hai bên càng bộc lộ rõ (phe áo đỏ kiên quyết kháng cự và thể hiện đối đầu kiểu du kích chiến, bên áo vàng – chính phủ hiện thời – đã sử dụng quân đội với súng đạn để trấn áp biểu tình)

Trong cuộc xung đột hiện nay cũng cần phải nhắc lại việc cựu Thủ tướng Thaksin Shinawatra đã dùng ảnh hưởng để dẹp bỏ một chương trình TV của phe đối lập vào năm 2005. Đây là một sai lầm nhỏ về sự kiện nhưng rất lớn về dân chủ; ông Thaksin đã phạm phải một nguyên tắc cơ bản của dân chủ: “phương thuốc cho mọi vấn đề của tự do ngôn luận là ngôn luận cần tự do hơn”. Lẽ ra khi bị chỉ trích mạnh, ông Thaksin phải mở rộng thêm kênh đối thoại, nhưng đáng tiếc ông Thaksin lại làm ngược lại. Bên cạnh đó, việc ông Thaksin có những động thái quá thân thiện với chính quyền quân sự độc tài của Miến Điện (Burma) khi ông đương quyền, hoặc quan hệ thân thiết với Thủ tướng Hun Sen của Cambodia sau khi ông đã bị lật đổ cũng có thể làm cho phe đối lập của ông càng nghi ngờ hơn về ý định “độc tài” của ông. Về lý thuyết dân chủ, mối nghi ngờ đó của phe đối lập là cần thiết vì một nền dân chủ sẽ an toàn hơn khi các ý định tích tụ quyền lực sớm bị phát hiện. Chỉ đáng tiếc phe đối lập của ông đã hành động quá giới hạn dân chủ.

Lịch sử về chính trị đã cho thấy khi một bên xung đột có những hành động phản dân chủ như ngăn chặn khả năng phản hồi ôn hòa của bên đối lập thì cũng đồng nghĩa với việc đẩy phe đối lập tiến tới những hành động phản dân chủ kém ôn hòa hơn (cực đoan hơn). Rất tiếc, những diễn biến của cuộc xung đột hiện nay trên chính trường Thailand lại đang đi theo xu hướng phản dân chủ này.[xii]

Về qui luật chung, không một đảng cầm quyền nào có thể tránh được sai sót và yếu kém, chưa nói đến những lãnh đạo có những tư tưởng phi nhân, vì vậy việc phê phán, chỉ trích lẫn nhau giữa bên đối lập và bên cầm quyền là một việc tự nhiên và cần thiết trong các thể chế chính trị văn minh. Cạnh tranh là một động lực của tiến hóa tự nhiên và cạnh tranh chính trị là động lực để có những chính quyền tiến hóa theo xu hướng hiệu quả và trong sạch. Có lẽ người dân Thailand đã hiểu rõ những qui luật tiến hóa này nên mặc dù Thailand đã trải qua nhiều xung đột chính trị và nhiều thương vong do biểu tình nhưng, đến nay, không hề thấy bất kỳ người dân Thailand nào (kể cả Vua Bhumibol Adulyadej) tỏ ra phản đối việc cạnh tranh giữa các đảng chính trị, cấm người dân biểu tình hay đóng cửa toàn bộ hệ thống báo chí tư nhân. Điều đó cho thấy xã hội Thailand đã xây dựng được một số nền tảng chắc chắn cho dân chủ. Những gì đang thể hiện chứng tỏ rằng những nền tảng đó đã được thấm nhuyễn vào từng người dân, từ giới trí thức tinh hoa đến những người nông dân nghèo khổ của Thailand. Do đó, vấn đề quan trọng hiện nay của Thailand là phải tiếp tục hoàn thiện nền dân chủ, trong đó có nhiệm vụ phải đảm bảo sao cho sự cạnh tranh chính trị và thực hiện quyền biểu tình, phản kháng diễn ra trong ôn hòa, trật tự và tuân thủ pháp luật như những nền dân chủ trưởng thành hiện đang vận hành.

Những căng thẳng và hành động phản dân chủ của cả hai bên trên chính trường Thailand hiện nay đã đi quá xa so với thời điểm trước khi xảy ra đảo chính (ngày 19/09/2006) và nếu xu hướng này tiếp tục thì chắc chắn “thắng lợi” sẽ không thuộc về bất cứ bên nào. Đặc biệt, nếu lực lượng áo vàng xuống đường để “giải tán” những người áo đỏ (như họ đã tuyên bố) thì tình hình sẽ trở nên trầm trọng khôn lường. Hy vọng các bên trong cuộc xung đột hiện nay và nhân dân Thailand sẽ sớm nhận ra được cạnh tranh giữa các đảng phái chính trị là một tiến bộ của nhân loại nhưng phải được đảm bảo diễn ra trong hòa bình, kiềm chế và thỏa hiệp.

Với Việt Nam: Ở Việt Nam (từ năm 1975 đến nay) Thủ tướng (hay Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng) là người điều hành chính phủ, luôn luôn là thành viên của Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam. Thủ tướng Việt Nam không cần phải tiến hành chiến dịch tranh cử. Không có các cuộc tranh luận công khai giữa các ứng cử viên thủ tướng. Việt Nam không có các chương trình TV hay radio chuyên chỉ trích thủ tướng. Ở Việt Nam không có đảng đối lập nên mọi chính sách của Thủ tướng Việt Nam luôn luôn được thực hiện một cách dễ dàng kể cả các chính sách mang lại những hậu quả xấu cho xã hội. Việt Nam không có hệ thống báo chí, TV, đài phát thanh tư nhân. Muốn biết những thông tin khác biệt với quan điểm của nhà nước (do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo), người dân phải vượt “tường lửa” hoặc nghe các đài phát thanh từ nước ngoài hoặc đọc sách, báo “chui”. Chưa bao giờ người dân được phép biểu tình để thể hiện sự bức xúc, sự không hài lòng đối với những yếu kém, sai sót của chính phủ (từ những việc an ninh lãnh thổ, biển đảo quốc gia bị xâm phạm cho đến những việc có đến 30 người chết vì tai nạn giao thông mỗi ngày) [xiii]

III. Về Hiến pháp 1997 và Tòa án Hiến pháp 1997

Theo lý thuyết dân chủ hiện đại và thực tế của các nền dân chủ trưởng thành, một chế độ Dân chủ Tự do cần nhiều hơn thiết chế bầu cử tự do (phổ thông đầu phiếu). Bên cạnh thiết chế bầu cử tự do, chế độ Dân chủ Tự do còn cần đến một tinh thần Hiến định (tuân thủ Hiến pháp), một cơ quan tư pháp độc lập và chính trực, một cơ quan lập pháp thận trọng và khôn ngoan do dân đề cử và lựa chọn, một cơ quan hành pháp đủ quyền lực để thực thi pháp luật và điều hành đất nước, cùng với sự thừa nhận và bảo vệ các quyền cơ bản của con người như tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do hội họp và tự do lập hội, lập đảng, v.v.

Hiến pháp 1997 của Thailand đã tạo được cơ sở khá vững chắc cho việc thực thi được đầy đủ các tiêu chí cơ bản trên đây. Điểm quan trọng hơn cần nhấn mạnh là cách làm ra Hiến pháp 1997 đã được thực hiện đúng theo tinh thần dân chủ. Hiến pháp 1997 là kết quả của sự thảo luận, nghiềm ngẫm tự do trong một thời gian khá dài (1994-1997) của giới trí thức tinh hoa và được trưng cầu ý kiến của mọi tầng lớp dân chúng Thailand. Hiến pháp 1997 của Thailand vẫn còn những điều cần hoàn thiện, nhưng tất cả các qui định của nó đều là kết quả của sự thuyết phục chứ không phải sự cưỡng ép hay bất chấp ý kiến của dân.

Hiến pháp 1997 là một thành quả lớn và đã là một hy vọng lớn cho sự hoàn thiện nền dân chủ tại Thailand. Song, rất đáng tiếc, bản Hiến pháp 1997 (cùng với Tòa án Hiến pháp 1997) đã sớm bị bức tử sau 10 năm tồn tại và đảm bảo được cho một chính phủ lần đầu tiên đảm nhiệm trọn vẹn một nhiệm kỳ.

Tinh thần tiến bộ và sức hấp dẫn của bản Hiến pháp 1997 chắc chắn vẫn còn sống và đủ để nhắc nhở người dân Thailand một ngày nào đó sẽ làm cho nó sống lại. Một trong những yêu sách của phe áo đỏ đã đưa ra là phải tu chính bản Hiến pháp 1997. Đó là một yêu sách đúng đắn, khiêm nhường và dân chủ.

Với Việt Nam: Nếu chưa xét đến chính thể Việt Nam Cộng hòa (1954-1975), Việt Nam cũng có một bản hiến pháp (Hiến pháp 1946) được các học giả đánh giá là tiến bộ nhất, nhưng sự bức tử của Hiến pháp 1946 của Việt Nam đã diễn ra không ầm ĩ như Hiến pháp 1997 của Thailand. Tuy nhiên so với bản hiến pháp hiện nay của Việt Nam, Hiến pháp 2007 phi dân chủ của Thailand vẫn có nhiều điểm tiến bộ hơn hẳn: Hiến pháp 2007 của Thailand qui định rõ người dân có quyền sở hữu đất đai, có quyền thành lập đảng chính trị, có quyền đệ trình dự luật cho Quốc hội thông qua, có quyền đệ trình yêu cầu phế truất các quan chức chính phủ, có Tòa án Hiến pháp, Hiến pháp 2007 của Thailand không qui định cho bất cứ đảng nào là “đội tiên phong” hay là “lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội”…

IV. Về giới tướng lĩnh quân đội

Nếu như giới tướng lĩnh quân đội Thailand xứng đáng được ghi công vào lịch sử Thailand vì đã góp phần diễn biến hòa bình để chuyển chế độ quân chủ tuyệt đối sang chế độ quân chủ lập hiến vào năm 1932 thì họ cũng đáng phải ghi nhận lỗi lầm đã phá ngang một giai đoạn có những bước trưởng thành của nền dân chủ Thailand.

Sự can thiệp của quân đội Thailand năm 2006 và những diễn biến từ đó cho đến nay đã củng cố thêm nhận định: Các quân nhân hợp với súng ống hơn là chính quyền.

Giới quân đội Thailand cần phải thay đổi triệt để quan niệm về vai trò đóng góp vào sự phát triển đất nước. Nếu những tướng lĩnh Thailand đã dùng đảo chính với ý muốn giúp cho đất nước phát triển tốt hơn thì đến nay họ cần phải ủng hộ để có bản hiến pháp mới theo tinh thần dân chủ như hoặc tốt hơn bản Hiến pháp 1997 và giới quân đội phải xác định chỉ hành động trong nhiệm vụ chính mà quân đội Thailand đã hoàn thành xuất sắc là hành động để bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ, chủ quyền đất nước. Nếu được như thế, giới quân đội Thailand sẽ tiếp tục được ghi công trong lịch sử Thailand với ý nghĩa lớn hơn rất nhiều như họ đã từng làm vào năm 1932.

Với Việt Nam: Kể từ năm 1975 đến nay, quân đội Việt Nam vẫn luôn được mệnh danh là “Quân đội Nhân dân”. Quân đội Nhân dân Việt Nam không có truyền thống đảo chính. Quân đội Nhân dân Việt Nam hiện nay phải tuyên thệ “Trung với Đảng”. Gần đây lãnh thổ của Việt Nam bị mất, bị xâm lấn nhưng vẫn chưa thấy các tướng lĩnh cao cấp nhất của Quân đội Nhân dân Việt Nam lên tiếng hay hành động (!?).

V. Về Hội đồng Cơ mật (Privy Council)

Khi tiếng nói của Vua vẫn có ảnh hưởng quyết định tới chính trị thì Hội đồng Cơ mật không thể tránh được việc trở thành hay bị thao túng bởi các lực lượng chính trị phi dân chủ. Ngay tên gọi của Hội đồng này (cơ mật, private, secret) đã cho thấy hoạt động của nó không phù hợp với đòi hỏi minh bạch, công khai của cách quản trị quốc gia theo kiểu dân chủ. Nhất là khi lãnh đạo của nó là một nhân vật thân cận với lực lượng có truyền thống bất chấp nguyên tắc dân chủ (hay làm đảo chính) thì rủi ro của việc phá vỡ nguyên tắc dân chủ càng lớn. Thực tế năm 2006 đã cho thấy kể cả khi đã có một bản hiến pháp tốt như Hiến pháp 1997, nhưng nếu lực lượng yêu mến dân chủ không đủ mạnh và sáng suốt hoặc quyền lực của các lực lượng phản dân chủ không được kiểm soát thì sự quay trở lại của quyền lực độc đoán chỉ là vấn đề thời gian.

Với Việt Nam: Ở Việt Nam hiện nay không có Hội đồng Cơ mật, nhưng tất cả các cuộc họp, bàn luận của Bộ Chính trị hay của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (đảng đang lãnh đạo toàn diện Việt Nam) là những phiên họp kín đối với nhân dân Việt Nam.

VI. Về Vua Bhumibol Adulyadej

Vua Bhumibo Adulyadej của Thailand là một trong số ít vị vua của thể chế quân chủ lập hiến còn có ảnh hưởng quyết định đối với chính trị[xiv]. Tuy nhiên, công việc quản trị quốc gia theo thể thức dân chủ là một công việc đòi hỏi kỹ thuật hơn là uy tín hay tình cảm. Sự vận hành các định chế dân chủ đòi hỏi sự hiểu biết kỹ thuật và một tinh thần khách quan, công tâm, không thiên vị. Khi cỗ máy dân chủ bị trục trặc thì phải giao cho người có chuyên môn hơn là cho người ta yêu mến. Một nền dân chủ và sự trưởng thành của nền dân chủ đều đòi hỏi tinh thần tự lập và ý thức tự quản của các công dân.

Năm 1995, khi vận động cho cải tổ hiến pháp, chuyên gia xã hội học uy tín của Thailand là Tiến sĩ Prawase Wasi đã nhận định: “Nhu cầu cấp thiết có một bản hiến pháp mới (dân chủ) là để tránh những rối loạn chính trị có thể biến thành bạo lực sau khi Vua Bhumibo Adulyadej băng hà.” Nhưng không một cơ quan báo chí nào của Thailand dám đăng tải nhận định sâu sắc đầy ngụ ý này, vì sợ phạm tội khi quân. Cho đến nay, thực tế dường như đang minh chứng cho nhận định đó.

Yêu mến, tôn ngưỡng vua hay lãnh tụ là quyền của mỗi người. Nhưng dựa dẫm hoặc ủy thác số phận bản thân hay vận mệnh đất nước cho vua hay lãnh tụ là một sai lầm và là điều không có lợi nếu muốn có một xã hội dân chủ tự do. Số phận của cá nhân và đất nước chỉ được an toàn khi có một hệ thống pháp luật công minh và được tuyệt đối tuân thủ. Bởi mỗi người dân đều có thể biết trước mỗi khi ý chí pháp luật thay đổi, còn thì không thể đối với vua hay lãnh tụ mến yêu.

Với Việt Nam: Ở Việt Nam hiện nay không có ai chính thức được gọi là vua và Hiến pháp Việt Nam cũng không có qui định dành cho ai sự tôn kính tuyệt đối như Vua Bhumibol Adulyadej của Thailand. Nhưng các cán bộ công chức của Việt Nam phải “học tập và làm việc theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Thực tế hiện nay cho thấy tại Việt Nam không ai có thể phản đối công khai hay bác bỏ được một quan điểm, một chính sách của chính phủ khi nó đã là “chủ trương lớn” của Đảng Cộng sản Việt nam. Như vậy, ngay cả Vua Bhumibol Adulyadej hết sức tôn kính của nhân dân Thailand cũng không có được quyền lực như Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay[xv].

HY VỌNG CHO THAILAND VÀ VIỆT NAM

Thailand là một trong những quốc gia lập nên Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), là quốc gia không có những cuộc chiến tranh lớn và là quốc gia duy nhất trong vùng không chịu sự đô hộ của chủ nghĩa thực dân thế kỷ XIX. Thailand hiện là quốc gia có nền kinh tế đứng thứ 4 trong ASEAN[xvi]. Sự chia rẽ xã hội hoặc những bạo loạn gây thương vong đang xảy ra trên chính trường Thailand giữa áo vàng, áo đỏ (hoặc có thể là một màu khác) chỉ là hậu quả của việc thiếu, vi phạm hoặc phá vỡ các nguyên tắc dân chủ. Các diễn biến tiếp theo có thể còn nhiều bất ngờ và có thể không sớm chấm dứt. Nhưng để ngăn chặn bạo lực, giải quyết tình trạng bế tắc hiện nay sẽ chỉ có một giải pháp duy nhất là chính trường Thailand phải phục hồi lại được và thiết lập thêm các nguyên tắc dân chủ đã bị phá vỡ hoặc còn thiếu. Việc phục hồi và thiết lập dân chủ đều là những việc cần có thời gian và cần những kỹ thuật khác nhau. Nhưng đó là con đường duy nhất để Thailand có thể tiếp tục phát triển lên những tầm cao hơn hiện nay. Với những gì mà lịch sử Thailand đã cho thấy, và đặc biệt vì người dân Thailand đã thấm nhuần một số nền tảng cơ bản của dân chủ, chúng ta có thể tin rằng nhân dân Thailand sẽ vượt qua được những trục trặc nguy hiểm hiện nay trên con đường tiến tới một thể chế dân chủ tự do (trưởng thành), đất nước Thailand sẽ rực rỡ hơn với nụ cười Siam truyền thống.[xvii]

Việt Nam là một quốc gia cùng trong vùng địa lý quan trọng với Thailand, cùng là thành viên của ASEAN. Chúng ta cũng hy vọng Việt Nam sẽ học hỏi được nhiều từ những bất ổn hiện nay của Thailand. Những gì đang thể hiện ở Thailand có thể cho người dân Việt Nam biết được những điều cần áp dụng và những gì cần tránh nếu người dân Việt Nam không chỉ dừng lại ở những biểu hiện bề mặt hoặc e sợ vì những biểu hiện không đẹp mắt.

Chúng ta hãy cầu mong cho Thailand và Việt Nam sẽ cùng thăng tiến trên con đường tiến bộ. Sự tiến bộ hay phản tiến bộ trong nền chính trị của một quốc gia cũng đều là thành quả hay thất bại chung của nhân loại.

Tài liệu tham khảo chính:

1. http://en.wikipedia.org/wiki/History_of_Thailand

2. http://en.wikipedia.org/wiki/History_of_Thailand_since_1973

3. http://en.wikipedia.org/wiki/2008%E2%80%932010_Thai_political_crisis

4. http://en.wikipedia.org/wiki/Constitution_of_Thailand

5. http://en.wikipedia.org/wiki/1997_Constitution_of_Thailand

6. http://en.wikipedia.org/wiki/2007_Constitution_of_Thailand

7. http://www.asianlii.org/th/legis/const/2007/

8. http://www.asianlii.org/th/legis/const/1997/index.html

9. http://news.bbc.co.uk/2/hi/asia-pacific/8624218.stm

10. http://news.bbc.co.uk/2/hi/asia-pacific/8612783.stm

11. http://news.bbc.co.uk/2/hi/asia-pacific/8607267.stm

12. http://www.thestar.com/news/world/article/489518

13. http://www.foreignaffairs.com/articles/65157/bertil-lintner/the-battle-for-thailand

14. http://www.foreignaffairs.com/articles/65891/phongthep-thepkanjana/thaksin-on-trial

15. http://www.foreignaffairs.com/features/readinglists/what-to-read-on-thai-politics

16. http://www.foreignaffairs.com/articles/62068/lucian-w-pye/the-king-never-smiles-a-biography-of-thailands-bhumibol-adulyade

17. http://www.foreignaffairs.com/articles/61939/duncan-mccargo/toxic-thaksin

18. http://www.foreignaffairs.com/articles/24401/maynard-parker/untying-thailand

19. http://www.foreignaffairs.com/articles/23959/j-l-s-girling/northeast-thailand-tomorrows-viet-nam

20. http://www.foreignaffairs.com/articles/36151/donald-s-zagoria/political-conflict-in-thailand

21. http://www.foreignaffairs.com/articles/30859/lewis-c-austin/military-roles-in-modernization-civil-military-relations-in-thai

22. http://siteresources.worldbank.org/INTEAPHALFYEARLYUPDATE/Resources/550192-1270538603148/eap_april2010_keyindicators.pdf

23. http://www.talawas.org/?p=4903

24. http://www.talawas.org/?p=357, http://www.talawas.org/?p=4956, http://www.talawas.org/?p=4964.

25. http://news.bbc.co.uk/2/hi/asia-pacific/8639956.stm

23/04/2010

© 2010 Phạm Hồng Sơn

© 2010 talawas

[i]Những người mặc áo vàng:

* Thành phần chính thuộc tổ chức chính trị có tên Liên minh Nhân dân vì Dân chủ (tên đầy đủ theo Anh ngữ là the Peoples’ Alliance for Democracy, viết tắt: PAD).
* Phần lớn thuộc tầng lớp buôn bán thành thị và những người có tư tưởng bảo hoàng (muốn duy trì ảnh hưởng của Hoàng gia đối với chính trị).
* Những người này phản đối cựu Thủ tướng Thaksin Shinawatra năm 2006, ủng hộ chính phủ đương nhiệm của Thủ tướng Abishit Vejjajiva, muốn duy trì bản Hiến pháp hiện thời (đang tạo điều kiện cho việc kết tội, thu giữ tài sản của ông Thaksin và cô lập các chính trị gia ủng hộ ông.)
* Những người này đã tổ chức nhiều cuộc biểu tình lớn (các năm 2006, 2007, 2008), đặc biệt cuộc biểu tình từ giữa đến cuối năm 2008, chiếm giữ hai sân bay quốc tế (Suvarnabhumi và Don Muang) làm gián đoạn hàng không trong hơn một tuần, dẫn đến việc Thủ tướng Abhisit Vejjajiva lên cầm quyền vào cuối năm 2009. Số người thương vong: 2007: 2 chết, hàng chục bị thương; 2008: 3 chết, gần 400 bị thương.
* Màu vàng là màu được trang trí trên các xe tăng tham gia vào cuộc đảo chính năm 2006. Màu vàng cũng là màu tượng trưng cho Vua và Hoàng gia Thailand.

Những người mặc áo đỏ:

* Thành phần chính thuộc tổ chức chính trị có tên Mặt trận Dân tộc Đoàn kết Dân chủ chống Độc tài (tên đầy đủ theo Anh ngữ là the National United Front for Democracy Against Dictatorship, viết tắt: UDD).
* Phần lớn thuộc những người nghèo ở vùng nông thôn và những người muốn chính trị độc lập hơn với Hoàng gia.
* Những người này đang phản đối Thủ tướng đương nhiệm Abhisit Vejjajiva, đòi Abhisit Vejjajiva từ chức, yêu cầu cải cách Hiến pháp, bãi bỏ bản Hiến pháp 2007, muốn xóa những phán quyết pháp lý bất lợi cho Thaksin và những chính trị gia ủng hộ ông.
* Những người này đã tổ chức biểu tình lớn (100.000 người) vào tháng 04/2009 gây hủy bỏ Thượng đỉnh Đông Á lần IV tại Pattaya. Hiện đang tổ chức các cuộc biểu tình phản đối rầm rộ tại Bangkok và một số thành phố từ đầu tháng 03/2010 đến nay. Số thương vong: 2009: 2 người chết, nhiều người bị thương (có cả thư ký của thủ tướng); 2010: 25 người chết (trong đó 19 người chết khi quân đội tấn công người biểu tình vào ngày “thứ Bảy đen” 10/04/2010), hơn 800 người bị thương (tính tới ngày 19/04/2010).
* Màu đỏ được những người này cho là biểu tượng của dân chủ. Màu đỏ là một trong ba màu của quốc kỳ Thailand.

[ii]Quân chủ Lập hiến (constitutional monarchy) nhằm phân biệt với Quân chủ Tuyệt đối (absolute monarchy). Trong nền Quân chủ Lập hiến, Vua hay Nữ hoàng là người đứng đầu nhà nước nhưng chỉ có tính nghi lễ thuần túy, quyền lực của Vua hay Nữ hoàng thường được định rõ trong Hiến pháp và thường phải chia sẻ một phần quyền lực (của nhà nước) với chính phủ, phần quyền lực nhà nước còn lại được chia cho hai nhánh độc lập khác của nhà nước là lập pháp (legislature) và tư pháp (judiciary).

[iii]Một can thiệp rõ rệt gần đây nhất là vào năm 1992, Vua Bhumibol đã triệu hai đối thủ chính trị (thủ tướng và thủ lĩnh phe đối lập) tới một cuộc gặp (được truyền hình trực tiếp) để tìm cách tháo gỡ nguy cơ nội chiến. Kết quả là tướng Suchinda (thủ tướng đương nhiệm) chấp nhận từ chức.

[iv]100 thành viên Hạ viện bầu theo nguyên tắc tỷ lệ đại diện của đảng (proportional rule from the party list) theo công thức d’Hondt (d’Hondt formula). 400 thành viên còn lại được bầu theo nguyên tắc số phiếu cao nhất (first-past-the-post) tại các khu vực ứng cử.

[v]Một số vụ việc giải quyết quan trọng của Tòa án Hiến pháp Thailand theo Hiến pháp 1997: 1998 – 2000: xác định tính hợp hiến của việc ban bố Tình trạng Khẩn cấp và thỏa thuận nhận trợ giúp tài chính từ IMF của chính phủ Chuan Leekpai (đều do đảng đối lập NAP lúc đó khiếu nại.); 2001: xem xét việc cáo buộc của Ủy ban chống Tham nhũng đối với vấn đề tài sản riêng của cựu Thủ tướng Thaksin; 2003: xác định tính vi hiến trong việc bổ nhiệm Tổng Kiểm toán Jaruvan Maintaka; 2006: xem xét khiếu nại của một nhóm Thượng nghị sĩ về việc bán các cổ phần trong công ty Shin Corp. của Thủ tướng Thaksin; xác định tính vi hiến của kết quả bầu cử sớm 04/2006.

[vi]Populist: Các chính trị gia chú tâm lấy lòng tầng lớp dân thường, nghèo, ít hiểu biết. Cựu Thủ tướng Thaksin Shinawatra được các nhà chính trị học và giới báo chí đánh giá là một nhà dân túy.

[vii]Một số thành quả chính của chính phủ Thaksin: Giảm tỷ lệ người nghèo xuống một nửa, trả nợ trước kỳ hạn cho IMF, đưa Thailand trở thành quốc gia không cần ODA, triển khai chương trình chăm sóc y tế phổ cập, giảm nạn buôn bán ma túy. Các chỉ trích chính của phe đối lập với Thaksin: Tham nhũng (mờ ám về tài sản riêng), có thái độ thù địch với báo chí tự do, bất chấp quyền con người (trong chính sách làm giảm nạn buôn bán ma túy và giải quyết vấn đề xung đột Hồi giáo ở miền Nam), thiên hướng lạm quyền (khống chế Quốc hội), xúc phạm Hoàng gia.

[viii]Tuy nhiên bản Hiến pháp 2007 có một tiến bộ hơn bản Hiến pháp 1997 là Điều 171 chỉ cho phép một thủ tướng cầm quyền liên tục tối đa hai nhiệm kỳ liên tiếp (8 năm). Có lẽ phe đối lập của Thaksin đã nhận ra một thiếu sót của thiết chế bầu cử tự do là những chính trị gia “dân túy” như Thaksin vẫn có thể thắng cử dễ dàng khi lấy được lòng những người dân nghèo, những người thường chỉ quan tâm đến những lợi ích ngắn hạn.

[ix]Hồi cứu trở lại, ngày 23/06/2006, Thủ tướng Thaksin Shinawatra đã thổ lộ với Tổng thống Hoa kỳ George W. Bush trong một bức thư riêng: “Đang có một mối đe dọa đối với nền dân chủ Thailand từ đầu năm nay. Các định chế dân chủ cơ bản như bầu cử và sự tuân thủ qui định của Hiến pháp về chính quyền đang liên tục bị gây tổn hại bởi những người muốn gây rối loạn và làm tăng các cuộc biểu tình ở Bangkok nhằm giành lấy quyền lực mà họ đã không thể có được bằng bầu cử. Không thể gây ra bạo loạn, các đối thủ của tôi nay đang cố tìm các thủ đoạn vi hiến để ràng buộc ý chí của dân chúng.”

[x]Hiến pháp 1997 đặt đảo chính ra ngoài vòng pháp luật và qui định người dân có quyền biểu tình ôn hòa để chống đảo chính và các hành động vi hiến.

[xi]Đông bắc Thailand là vùng tập trung khoảng 1/3 dân số Thailand, chủ yếu là dân có thu nhập thấp và từng là căn cứ của lực lượng du kích cộng sản Thailand những năm 1970.

[xii]Sau khi chương trình chỉ trích Thaksin bị cấm năm 2005, ông Sondhi đã triển khai ngay chiến dịch “chống Thaksin” và bắt đầu những cuộc biểu tình đông người hơn và sau này chính phủ thuộc phe áo vàng còn có những hành động phi dân chủ (trấn áp mạnh hơn) đối với báo chí, truyền thông của phe áo đỏ; Sau khi phe đối lập của ông Thaksin lên cầm quyền với những hạn chế khắc nghiệt hơn về ngôn luận (kiểm soát báo chí, radio, internet,..), phe áo đỏ của ông Thaksin càng có những thái độ manh động và bạo động hơn; Sau khi bị đàn áp chết nhiều người ngày 10/04/2010, phe áo đỏ đã tăng cường lực lượng và tuyên bố cứng rắn “không đối thoại với chính phủ”, đang lập chiến lũy với hàng rào tre vót nhọn và nhiều vũ khí tự tạo tại trung tâm Bangkok, tuyên bố sẵn sàng đối đầu với các cuộc tấn công mới của chính phủ.

[xiii]Ngày 17/06/2008 ba người Phạm Thanh Nghiên, Nguyễn Xuân Nghĩa và Vũ Cao Quận làm đơn xin phép biểu tình (theo đúng qui định của pháp luật) gửi cơ quan chức năng ở Hà Nội, nhưng yêu cầu không được chấp nhận. Hiện tại Phạm Thanh Nghiên và Nguyễn Xuân Nghĩa đang ngồi tù.

[xiv]Trong Vương quốc Anh hay Vương quốc Thụy Điển (theo Quân chủ Lập hiến) Nữ hoàng hay Vua được pháp luật qui định rõ là không có quyền lực chính trị và trên thực tế Nữ hoàng hay Vua cũng không có tiếng nói quyết định về vấn đề chính trị.

[xv]Điều 151 của Hiến pháp 2007 Thailand qui định: Nếu Vua không chấp thuận một dự luật do Quốc hội đã thông qua hoặc không trả lời cho Quốc hội biết trong thời hạn 90 ngày, Quốc hội phải thảo luận lại dự luật đó và nếu có tối thiểu 2/3 tổng số đại biểu của cả hai viện của Quốc hội bỏ phiếu tán thành dự luật thì Thủ tướng sẽ trình dự luật đó cho Vua một lần nữa. Nếu Vua vẫn không chấp thuận và trả lại Quốc hội trong vòng 30 ngày, Thủ tướng sẽ có quyền công bố dự luật đó thành luật chính thức trên Công báo, coi như Vua đã phê chuẩn.

[xvi]Thailand có GDP bình quân đầu người khoảng 8.000 USD (tính theo sức mua ngang giá) hoặc gần 4.000 USD (tính theo chỉ số thu nhập danh nghĩa), Việt Nam có chỉ số tương ứng là 2.700 USD và 1.000 USD. Bản báo cáo trong tháng 04/2010 của Ngân hàng Thế giới vẫn dự đoán năm nay tăng trưởng kinh tế của Thailand đạt khoảng 6%. Chỉ số tăng trưởng GDP của Thailand trong vài năm gần đây: 2006: 5.1%; 2007: 4 .9%; 2008: 2.5% ; 2009: -2.3%.

[xvii]Theo tin cập nhật vào 13:23 GMT, 23/04/ 2010: phe áo đỏ đã phát ra những nhượng bộ về yêu sách với chính phủ, (Áo đỏ đưa ra điều kiện để đối thoại là: Giải tán Quốc hội trong vòng 30 ngày và 60 ngày tiếp theo phải tổ chức bầu cử, chấm dứt mọi đe dọa và gây hấn đối với phe áo đỏ, chính phủ phải chịu trách nhiệm về các thương vong), trong khi đó tướng Tổng Chỉ huy quân đội Anupong Paojinda đã thể hiện quan điểm không dùng vũ lực để giải tán biểu tình, phó phát ngôn viên của quân đội đã trích lời tướng Anupong Paojinda: “Quan trọng nhất là phải làm cho mọi người dân thông cảm lẫn nhau. Nhiệm vụ của quân đội hiện nay là bảo vệ người dân, không cho phép người Thailand tấn công lẫn nhau.”

© talawas

Lại 30 tháng Tư

Hạnh Đào – Lại 30 tháng Tư

29/04/2010 | 7:00 sáng |




Tôi sinh ra chỉ vài tháng sau ngày 30.4.75. Mỗi năm, trước và sau ngày này khó tránh việc nghĩ về cuộc chiến đã qua và những hậu chấn của nó. Tôi cho là mình may mắn, không sống trong thời chiến nhưng lại đủ gần để tiếp cận với nhân chứng (và bản thân cũng là nhân chứng của thời hậu chiến).

Tôi sinh ra và lớn lên trong hòa bình, nhưng dấu vết chiến tranh (đã) vẫn lẫn quất đâu đó, từ khi tôi ý thức được. Nó hiện diện ở đời sống dù muốn hay không, với bản khai lý lịch “ba là sĩ quan ngụy, đã được (bị) cải tạo”. Nó là sự nhắc nhở như một món nợ (máu) với nhân dân, đúng hơn là với chính quyền, dù chúng tôi tưởng đã trả xong ngày ba tôi được thả về, khi ông đập gãy đôi nạng gỗ quăng xuống sông từ chiếc cầu đá qua con đường làng, như quăng bỏ đi một thời quá khứ đầy máu, nước mắt và uất nhục mà sau này tôi mới hiểu. Đôi nạng gỗ đó đã không trôi đi, nó vướng lại trong đời sống chúng tôi.

Nó ở những tháng năm kế tiếp, khi ba tôi chỉ có thể xoay quanh những việc làm tạm bợ và công an thì thường tới “hỏi thăm”, như một bản án treo không hạn định.

Nó ở trong những cặp mắt nghi hoặc, hay lấm lét sợ sệt khi có bóng dáng công an, thời ấy, như những hung thần.

Nó ở không khí căng thẳng trong gia đình khi mỗi người (lớn) đều mang cảm giác bất mãn, thất bại và không lối thoát.

Nó ở bản khai lý lịch ba (từng) là sĩ quan ngụy, thành phần gia đình là trí thức tiểu tư sản (dù lúc ấy, chúng tôi chẳng còn chút “tư sản” gì).

Nó ở con số phân loại của lý lịch khi anh chị tôi thi vào đại học.

Nó ở sự phân biệt “cũ” và “mới”, như là nhạc cũ, sách cũ, hình cũ, đều phải nghe, xem lén lút (dù lúc đó tôi vẫn còn nhỏ).

Chúng tôi đã bị đẩy dần qua phía bên kia ranh giới, không phải tự trèo qua “vì mặc cảm là người của phía bên kia” như “họ” vẫn nói. Có ai tự nguyện làm công dân hạng hai?

Tôi nhớ lần đầu xem phim Cuốn theo chiều gió, hình ảnh Ashley trở về bại trận, tơi tả, tôi đã vô cùng ngạc nhiên, thế thôi à? Không có trại cải tạo, không có kinh tế mới, không có cảnh người bất kể mạng sống băng rừng, lao ra biển. Hòa bình ấy, thống nhất ấy, đã hơn trăm năm trước. Vấn đề ở người Việt hay ở người cộng sản?

Tới phiên tôi thi vào đại học, may mắn, số phân loại lý lịch đã biến mất. Dấu vết chiến tranh bắt đầu lùi dần vào quá khứ.

Tuy nhiên, từ khi rời Việt Nam, tôi lại tìm tới quá khứ, với lịch sử. Thoát được sự chép, đọc và trả bài, với cách học tự do (suy nghĩ và phát biểu), được tiếp cận với nhiều thông tin lẫn nhân chứng, là cơ hội để tôi đặt câu hỏi, so sánh, suy ngẫm và tìm câu trả lời.

“Tại sao bạn và dân tộc bạn tới đây?” là câu hỏi mà tôi được hỏi và tự hỏi, nhiều lần. Tại sao người ta không bỏ nước, trốn chạy khi chiến tranh leo thang và đẫm máu, mà lại phải ra đi khi hòa bình, thống nhất? Những cuộc ra đi kéo dài tới tận bây giờ dù có thể phải trả giá bằng tài sản, hạnh phúc, phẩm giá, thậm chí cả tính mạng.

Mọi nguyên nhân, ít, nhiều đều qui về hay liên quan, ảnh hưởng, hậu quả từ cuộc chiến Việt Nam 54-75.

Liệu chiến tranh có phải là giải pháp duy nhất và chủ nghĩa cộng sản là phương tiện duy nhất để thống nhất đất nước? Chúng ta đã làm được gì ngoài việc nhớ những gì cần nhớ và quên những điều muốn quên? Ngoài vô vàn những lời tung hô và ngụy biện, có lời xin lỗi nào?

Xác người Việt trải dài, bao gia đình ly tán, những ranh giới giữa lòng người, và những hậu chứng tinh thần của chiến tranh (với người dân cả hai miền) và hòa bình (với người dân miền Nam), có con số thống kê nào ghi lại đủ? Ngoài việc đổ lỗi bên này, bên kia, thế lực quốc tế, thế lực thù địch, có ai thấy mình có trách nhiệm?

Cách đây vài hôm, về nhà, thấy ba mẹ tôi đang xem buổi họp báo của ông Thiệu ở Cali năm 90, trong DVD Quảng Trị, tôi hỏi: “Ông ấy có xin lỗi không?” Mẹ nói: “Ổng nói – ổng chịu trách nhiệm về thất bại của miền Nam, nhưng không một lời xin lỗi”. Phải chăng đó là văn hóa của người Việt? Người càng lớn, quyền càng lớn, trách nhiệm càng lớn, lỗi càng lớn thì sự “nhận lỗi và xin lỗi” càng là chuyện không thể nào? Dù sao, ông vẫn còn can đảm để mở một cuộc họp báo, đối diện và nhận trách nhiệm với bà con.

Bên này, vẫn còn không ít người mặc lại quân phục cũ, đeo huy chương (đem theo khi bỏ chạy hay mua ở một tiệm nào đó?), không chỉ loại bỏ chữ “cựu” trước cấp bực, mà một số còn không quên tự thăng chức theo năm tháng. Họ tự ca tụng hay ca tụng nhau những chiến tích lẫy lừng. Tự huyễn hoặc mình, hậu chứng chiến tranh hay tâm lý tự mãn? Những người lãnh đạo, những người từng tham nhũng, những người từng đào ngũ, có ai thấy mình đã gián tiếp góp phần vào biến cố 30.4.75?

Bên kia, tiếp tục những bài ca chiến thắng cùng công việc thao túng, cắt xén lịch sử. Họ có thể bắt tay với Mỹ, với Trung Quốc, sao không thể với đồng bào của mình? Họ có thể giúp tìm MIA, tưởng niệm những người lính Trung Quốc đã bỏ mình ở Việt Nam, nhưng đã làm gì cho những người đã nằm xuống và thương phế binh (hai bên), những người đã chết ở những trại cải tạo, trên đường vượt biên?

Nghị quyết 36 ngày 26.3.2004 khiến không ít người kỳ vọng, chờ đợi. Nhưng, thay cho lời xin lỗi, nhà nước Việt Nam vào tháng 6.2005 đã gây áp lực với chính quyền Malaysia, đục bỏ tấm bia tưởng niệm những thuyền nhân đã bỏ mình (vừa được kiều bào dựng vào dịp 30.4.2005), tấm bia tưởng niệm những người không may, không có cơ hội thành Việt kiều, Họ có thực lòng muốn hòa giải với quá khứ?

Tin rằng (những) lời xin lỗi chính thức, thành tâm của những người có trách nhiệm (và lương tâm) có thể xoa dịu được vết thương chưa lành, và tin rằng nó có hiệu quả hơn hẳn mười Nghị quyết 36 hay hai mươi Hội nghị Việt kiều.

Vấn đề hòa giải, hòa hợp đơn giản là sự bất cập trong quan niệm. Bên này coi đó là việc chìa tay của kẻ chiến thắng, một sự hợp tác, điển hình, có thể là một (hay nhiều) cuộc họp báo, lời xin lỗi, đối thoại, và những chính sách, nghị quyết công bằng cho mọi kiều bào (từ ngàn, trăm hay dù chỉ chục dặm!). Bên kia coi đó là sự thần phục của người chiến bại, trên tinh thần kẻ góp tiền, người góp quyền, điển hình, là Đại hội Việt kiều (ngàn dặm) vừa qua. Không thống nhất được quan niệm, kêu gọi, tranh luận việc hòa giải hòa hợp hay không cũng bằng thừa.

Lịch sử, chúng ta không thể thay đổi, nhưng giá trị của nó không chỉ ở những vòng hoa chiến thắng mà còn ở những bài học từ lỗi lầm và thất bại. Còn nhớ lần viếng thăm Viện Bảo tàng Holocaust ở Washington DC, chúng tôi đã dừng lại thật lâu trước bức tường ở lối vào, được khắc hàng chữ: “We who did not go their way owe them this. We must make sure that their deaths have posthumous meaning. We must make sure that from now until the end of days all humankind stares this evil in the face… and only then can we be sure it will never arise again.” Ronald Reagan.

Cuộc chiến đã qua 35 năm, tàn dư vẫn còn đó. Được cái gì? Một nước Việt Nam hôm nay, vẫn chưa từng biết tới tự do, dân chủ thật sự, con người thì vô cảm trong một xã hội vô cảm đầy bất an?

Vô cảm là sản phẩm của việc bị bịt tai, bịt mắt, khóa miệng 35 năm, lâu ngày thành tự bịt, tự khóa? Người ta không có lỗi khi bị biến thành như vậy, nhưng có thể tránh trách nhiệm của từng cá nhân vô cảm đã và đang tạo thành một xã hội vô cảm? Người không biết là thiếu trí, có trí mà chấp nhận là thiếu dũng. Sợ cũng là chuyện tất yếu dưới một chế độ độc tài, và để nhận “sợ”, nhận “hèn” cũng cần một chút hay nhiều chút dũng khí và trung thực. Chọn lựa quay lưng là một biện pháp an toàn. “Khi không (chưa) thể thay đổi xã hội chỉ đành thay đổi môi trường sống, nếu có cơ hội”, đây cũng là điều tôi từng nói với bạn bè, khi họ hỏi tôi “có nên đi hay không?” Có lẽ, khi thay đổi môi trường (thoát được cái sự sợ) con người sẽ thoát được sự vô cảm chăng?

Tôi thực sự không biết, nếu không rời Việt Nam, liệu bây giờ tôi (và nhiều người khác ở hải ngoại) có là một (hay nhiều) người vô cảm không?

Tàn cuộc đất nước hôm nay, bất kể vì nguyên nhân nào, cũng cần được dọn dẹp. Nhiều người thấy, nhiều người biết, và dĩ nhiên vẫn còn rất nhiều người quay lưng, và một số khác tiếp tay xả rác và coi đó là cơ hội vàng son để kinh doanh rác. Không có thay đổi từ trên trời rơi xuống, cũng không có phép màu để một ngày rác tự động biến mất. Không phải ai cũng có khả năng và can đảm để đứng ở tuyến đầu. Không phải tôi, tôi biết vậy. Nhưng tôi biết tôi có thể là một phần của đám đông. Không có đám đông, những người ở tuyến đầu sẽ cô độc biết mấy? Sự đấu tranh và hy sinh của họ không phải oan uổng và vô nghĩa hay sao?

Trước khi có thể dọn sạch rác, cần một số đông, thật đông, nhất là trí thức nhìn thấy rác và không xả rác.

Gia nhập đám đông, trước hết bằng sự tìm hiểu và lòng quan tâm. Không chỉ đọc, tôi thường gởi những bài viết chia sẻ với bạn bè ở Việt Nam. Một vài người ủng hộ, trao đổi, bàn luận (không nhất thiết tán đồng), còn số đông khác im lặng. Họ không đọc, không muốn đọc, không dám đọc, hay đọc mà chưa muốn lên tiếng… tôi hiểu và thông cảm. Tôi biết họ không vô cảm, bằng chứng là chưa có ai bảo tôi ngừng gởi. Tôi tin một ngày nào đó họ sẽ đọc, sẽ chuyển tiếp và chia sẻ cho bạn bè họ.

Thế hệ trước (cả Bắc lẫn Nam) đã mất tự chủ và phạm nhiều sai lầm, nhưng ít ra đa số họ đã sống bằng lý tưởng và trách nhiệm với bầu nhiệt huyết của tuổi trẻ và bằng cả mạng sống, đây là điều đáng ngưỡng mộ và học hỏi. Còn chúng ta, đã làm được gì?

Dù sao tôi vẫn cứ hy vọng.

25.4.2010


© 2010 talawas

THƠ - MẸ ĐỢI CON VỀ

MẸ ĐỢI CON VỀ


Trần Hồ Dũng

Mẹ cúi xuống

Trong chập chùng bóng tối

Khóc đứa con ra trận , mãi không về

Không biết xác ở nơi nào để nhận

Không biết hồn còn nhớ lối , thăm quê



Mẹ vẫn thắp cây nhang ngay đầu ngõ

Biết đâu con sẽ nhớ lối tìm về

Mẹ bới sẵn chén cơm hòa nước mắt

Chờ bao năm , sao con chẳng quay về ?

Mẹ như chiếc đèn dầu hao sắp cạn

Đợi con hoài , mẹ đếm : mấy mươi năm !



Mai mốt nọ , mẹ không chờ được nữa

Mẹ sẽ tìm con ở chốn suối vàng

Con hãy nhớ : Mẹ chờ tin con đó

Đợi kiếp này , và cả kiếp mai sau !



THD. Saigon , những ngày cuối tháng Tư , 2010

Tháng Tư và Những đứa con của Mẹ

Tháng Tư & Những đứa con của Mẹ

Trần Hồ Dũng

Thưa Mẹ !
Chúng con đã trở về đây
bên mẹ
Không còn bị ai săn đuổi

Chúng con về
nằm bên mẹ
Như ngày xưa
Nằm trong lòng mẹ
Nghe tiếng ru à ơi
Hình như
chiến tranh đã đi qua
chúng con nằm nghe
Có tiếng người vỗ tay reo mừng chiến thắng
Và nghe tiếng người ngồi ôm mặt khóc
Cho
Những người thân không trở về
Tháng Tư
Có những người con
Nằm nghe cỏ hát
Thay lời ru của mẹ
Chúng con nằm đây
Trong lòng đất mẹ
Không mang theo hận thù
Không mang theo gươm giáo
Không đem theo khẩu hiệu
Không đem theo
những màu cờ
Vàng
Hay đỏ
Không đem theo tước hiệu
Anh hùng - Liệt sĩ
“ vị quốc vong thân “
“tổ quốc ghi công “
Hay những lời
Ngọt ngào đường mật
Của thế gian
Hỡi những người còn sống
Và đang hô khẩu hiệu
Xin hãy để chúng tôi ngủ yên
Trong lòng mẹ
Chúng tôi đã đánh mất
tuổi thanh xuân
Tình yêu
Và mẹ
Vì cuộc chiến tranh này

Xin đừng làm phiền
Người đã chết

Xin hãy để chúng tôi yên !
Nằm nghe cỏ hát
Lời thiên thu
Trong lòng đất mẹ



Tranhodung .saigon cuối tháng Tư 2010 .

Nguyễn Trọng Tạo - ĐỪNG THÊM NHỮNG THÁNG TƯ...

ĐỪNG THÊM NHỮNG THÁNG TƯ...
Tuesday, 27th April 2010



ĐỪNG THÊM NHỮNG THÁNG TƯ...
NGUYỄN TRỌNG TẠO

Lại một tháng Tư sắp qua. 35 tháng Tư qua và hơn thế nữa. Sao người Việt hận thù nhau vẫn còn ghê gớm thế. Tôi đọc trên báo, trên mạng thấy chả ai chịu ai, chả cờ nào chịu cờ nào. Cờ đỏ sao vàng bay khắp cùng nước Việt. Cờ vàng ba sọc phấp phới quận Cam... Một đoàn người hô "đả đảo Việt cộng, đả đảo cộng sản". Dân ta sao cứ đả đảo dân ta? Và cả một chiến sách "chống diễn biến hòa bình" không mệt mỏi. Hòa bình ai chả muốn. Vậy mà lâu nay tôi vẫn không hiểu tại sao lại "chống diễn biến hòa bình"? Có từ gì hay hơn, rõ hơn không? Nếu chống những người âm mưu phản bội lại dân tộc thì cũng nên nói rõ ra, chứ cứ nói lờ mờ thế thật khó mà hiểu nổi. Có lẽ giống ngày xưa đã từng chống "Nhân Văn - Giai Phẩm", toàn là từ đẹp. Thật lạ.

*Chống xâm lược thì tất nhiên cả dân tộc phải chống rồi. Chống Pháp, rồi chống Mỹ, rồi chống Bành trướng Bắc Kinh. Gọi là chiến tranh vệ quốc thì tất nhiên là chính nghĩa. Nhưng Pháp cút rồi Mỹ rút, chiến tranh vẫn cứ xảy ra trên đất nước thân yêu. Bọn ngoại bang thật hiểm ác, chúng trang bị vũ khí cho dân ta đánh dân ta. Ừ thì biết là hai phe đối đầu, nhưng dân ta thì khổ, thì chết chóc tang thương. Phải mất hơn 20 năm dân tộc mới đi qua được chiếc cầu Hiền Lương dài 194 mét. Không thể tính được bao nhiêu xác người Việt thì vắt qua được 1 mét cầu. Và dòng sông chia cắt ấy ám ảnh như một "dòng sông máu" trong lịch sử dân tộc. Có lẽ câu thơ Xuân Diệu viết ngày đầu chia cắt đã ám vào máu dân tộc này: "Dòng sông Bến Hải chảy qua tim"! Vậy mà sau bao nhiêu tang thương ấy, ta được tôn đứng tuyến đầu cho phe này phe kia, lại bị chính cái anh phe mình ra đòn Bành trướng, rồi một anh nữa lại lệnh cấm vận ta. Ngẫm mà đau.

Chiến tranh Việt Nam-Kỷ niệm 40 năm Mậu Thân 1968 by tlvna.Hãy cảnh giác trò "tọa sơn quan hổ đấu". Hãy cảnh giác ngoại bang. Cái khó của những ông vua là làm sao yên dân, và ngoại bang luôn thân thiện. Vậy mà câu nói của Phu-xích luôn văng vẳng đâu đây: "Hãy cảnh giác!".

Vậy thì dân tộc này phải hòa giải. Đó là con đường không thể khác, con đường sống.

Vẫn biết đánh nhau thì kẻ thua người thắng. Nếu không có kẻ thua thì ai thắng được đây. Phải tung hô người chiến thắng. Nhưng cũng phải cám ơn kẻ bại trận chứ. Uýt-man lớn, bởi ông đã viết nên hai câu thơ này:

Hãy nổi kèn lên tung hô đoàn quân chiến thắng trở về!

Hãy nổi kèn lên chúc mừng những người thua chết chìm dưới đáy biển sâu!

Thắng thua thì cũng đã rồi. Vậy mà vẫn cứ đau. Nguyễn Duy đã có lúc đau quá mà thốt lên: "nghĩ cho cùng mỗi cuộc chiến tranh/ phe nào thắng thì nhân dân đều bại". Là nói như Xi-mô-nốp: "Người ta sinh ra không phải để làm lính". Chiến tranh là bắn giết. Nhưng than ôi, họ đều là những con người!

Cứ tưởng đất nước thống nhất rồi chỉ toàn niềm vui. "Non sông thu về một mối" như bài diễn văn chiến thắng đã đọc, nhưng lòng người đã thu về một mối hay chưa? 35 năm vẫn còn trăm mối tơ vò.

Trước khi qua đời, ông Võ Văn Kiệt đã rất đau đớn mà thốt lên: "Ba mươi năm rồi, mà sao dân tộc này vẫn chưa hòa giải đươc?". Câu nói đó cũng là một thú nhận sự bất lực của ông, vì ông từng là Thủ tướng nước này. Nhưng, đó là một lời than có thể chia sẻ được nếu ta vì dân tộc muốn thu về một mối. Tôi chia sẻ với ông vì tôi đã từng nghĩ: Một dân tộc mà lũ trẻ không biết mơ mộng và người già không biết sám hối, đó là một dân tộc bất hạnh. Hãy trân trọng sự sám hối.

Thật khó mà hòa giải được ngay khi phân định thắng bại. Nhưng nếu người chiến thắng dám dang rộng vòng tay, thì người ngã ngựa không sợ mình bị giết. Tôi không nhớ hai từ "hòa giải" xuất hiện sau thống nhất bao năm nhưng hình như cũng chỉ mới đây thôi. Có còn hơn không. Muộn còn hơn không. Tuy vậy, hòa giải thì không thể nói suông. Phải bằng những hành động thực tế. Điều này thì ông Hồ Chí Minh trước đây là một bậc thầy. Ông thu phục được dân chúng, thu phục được nhiều trí thức nhân sĩ Việt ở nước ngoài, còn thu phục được cả đồng minh. Đã làm chính trị thì phải cao mưu, thậm chí thủ đoạn, nhưng cái tâm sáng thì nó sẽ tỏa ra. Ông chọn dương ngọn cờ "độc lập dân tộc" là thượng sách. Dù nhân bất thập toàn, nhưng làm người lãnh đạo hay làm lãnh tụ thì phải vì nghĩa lớn. Người ta trách ông giả làm Trần Dân Tiên để viết về mình, nhưng khi biết điều đó, tôi coi cuốn sách ông viết là một "hồi ký" thì thấy ông viết rất giỏi bởi động cơ và hành động của ông không có gì xấu, mà ngược lại, ông nói về tinh thần yêu nước. Ông nói và làm không khác nhau là mấy.

Lãnh đạo ta đang học gương ông Hồ, nhưng học trò thì cũng ba bảy học trò. Thậm chí có học trò suốt đời lưu ban.

Tuy vậy, không phải tất cả lãnh đạo ở Việt Nam hiện nay không muốn "hòa giải dân tộc". Hòa giải là nguyện vọng cấp thiết của người Việt Nam dù trong hay ngoài nước. Nhưng cái bí nhất là chưa "hóa giải" được. Mà muốn hòa giải được, trước hết phải hóa giải đã. Chúng ta phải làm tuần tự mới hy vọng đươc, phải giải quyết cái dấu "sắc" trước đã, rồi cái dấu "huyền" sẽ đến. Nếu không giải quyết hóa giải hận thù, hóa giải quan niệm dân chủ thì thật khó để tiến tới hòa giải dân tộc được.

Nhìn ngược lịch sử Việt Nam hơn nửa thế kỷ qua, vấn đề "hóa giải" hiện nay đang là một nan đề. Trước hết là ứng xử của nhà cầm quyền với những người từng "ở phía bên kia" hay đang "ở phía bên kia". Phải có cái nhìn trọng thị. Tốt nhất là hãy nói không phân biệt, như Mỹ nói không phân biệt chủng tộc, và Obama được bầu làm Tổng thống là một minh chứng. Tức là không chỉ nói suông, mà nói đi đôi với làm mới dựng được lòng tin giữa muôn dân. Nên nhìn tổn thất trong cuộc chiến tranh trước 1975 là tổn thất chung của dân tộc dù bên này hay bên kia chiến tuyến. Hãy cầu siêu cho cả những người chiến bại. Hãy tuyên dương những người có hành động giữ nước dù họ ở phía nào.

Thiển ý của tôi thì những người Việt chiến bại trước đây, nếu vì lợi ích dân tộc, vì hòa hợp tiến bộ thì cũng đừng cố chấp những sai lầm của kẻ chiến thắng. Bất kỳ công dân nào mang hộ chiếu Việt Nam đều có quyền ứng cử và bầu cử. Hãy tin vào nhân dân, họ nghèo khổ nhưng tâm lớn, họ phận hèn nhưng minh triết.

Tôi biết vài điều tôi nói chỉ là muối bỏ biển. Nhưng đó là vì lòng tôi muối mặn. Hãy hóa vàng đi hỡi hận thù ích kỷ. Hãy hòa vào nhau hỡi dòng máu Lạc Hồng. Mẹ Việt Nam không thể vui khi anh em thù hận. Không ai mong có thêm những tháng Tư thù hận vẫn còn vương...

Cuối tháng Tư 2010