5/7/10

Chiến tranh đi qua những truyện ngắn của Y Uyên

Chiến tranh đi qua những truyện ngắn của Y Uyên

Nguyễn Lệ Uyên

2.07.2010



"Không có nỗi ngây ngất nào rực rỡ như nỗi ngây ngất chiến tranh,
phía sau có lửa, phía trước có máu của mình"
(Y Uyên, Mùa Xuân Qua Đèo)


Trên tờ tuần báo Nghệ Thuật, số dầu tiên ra ngày 1-10-1965, Mai Thảo đã dựng lên một tuyên ngôn của những người cầm bút (trong nhóm) về thái độ của nhà văn trước thực tế của đất nước, bằng một cái nhan rất kêu: “Văn học Nghệ thuật trong chiến tranh hiện tại và hoà bình tương lai” bằng thái độ chọn lựa rạch ròi, bằng trách nhiệm và bổn phận trước quốc gia, dân tộc, lịch sử mà nghe cứ như lời rao giảng ngày tận thế với cơn đại hồng thuỷ và chiếc thuyền của Noé: “Nói đến đời sống, cái chết, chiến tranh và hoà bình, lửa máu và nước mắt, nhân phẩm và danh dự, nói đến hạnh phúc, bất công áp bức, ý thức, thượng đế, thân phận con người, triết thuyết, hành động, thực tế và trí tuệ, cá nhân và toàn thể, nói ở đâu bằng ở Việt Nam không nói, nói ở đâu bằng Việt Nam đau khổ, nói ở đâu bằng Việt Nam treo căng trên từng từng bất hạnh, nói ở đâu bằng Việt Nam có quyền nói đến trước tiên? Văn học nghệ thuật chúng ta phải nói lên bằng được sự thực vĩ đại hiện hình trên Việt Nam quằn quại. Vai trò của Văn học nghệ thuật hiện nay do đó là phải đi vào thực tế chiến tranh, boi thực tế ấy là một sự thực…” (SĐD). Một tuyên ngôn như vậy, trên một tờ báo văn nghệ như vậy, trong thời khắc chiến tranh bắt đầu lan nhanh như một vết dầu bẩn trên phần đất này một cách ồ ạt, khốc liệt có vẻ như thừa, như thiếu hơi, đuối sức?
Trước đó, trước khi nhóm Sáng Tạo hụt hơi trì kéo những trường phái siêu thực, hiện sinh vào văn học miền Nam Việt Nam, thì đã có rất nhiều nhiều người cầm bút đã chọn lựa một thái độ, một trách nhiệm trước cuộc chiến rồi, tác phẩm của họ ít nhiều đã vẽ lên bộ mặt xấu xa, kinh tởm của chiến tranh rồi!
Và như vậy, các nhà văn, khi viết về chiến tranh Việt Nam, mỗi người chọn một đề tài khác nhau, bối cảnh khác nhau, các nhân vật khác nhau, không ai giống ai; muôn màu muôn vẻ để, người đọc có thể nhìn thấy, một cách trọn vẹn, bộ mặt gớm ghiếc của cuộc chiến tranh phi nhân, phi nghĩa này, một cuộc chiến khởi đi từ những mù quáng, căm thù… đẩy cả dân tộc vào thảm cảnh đau thương nhất trong lịch sử.
Ở Tiền Đồn, Thế Uyên nhìn chiến tranh như là một sự phi lý được khắc hoạ một cách kinh hoàng nhất, tởm lợm nhất qua thân xác của người phụ nữ bị kẹp giữa hai lằn ranh của thù hận: ban ngày là sự gần gũi vội vã của người chồng và ban đêm là sự “hì hục cuồng nhiệt” của anh du kích. Tất cả đều diễn ra trên thân xác của người phụ nữ như biểu tượng nhục nhằn của lịch sử, dân tộc. Chị không có sự chọn lựa nào khác giữa vùng xôi đậu này, ở đó Việt Cộng và Quốc Gia thay phiên nhau “cai trị” những người dân hớt hải chạy, hớt hải về. Nói cho đúng, chị không có quyền lựa chọn. Sự chọn lựa đã được sắp đặt sẵn, để thân xác chị luôn bị dày xéo một cách tàn nhẫn từ hai phía. Người đàn bà tên Ba, nhân vật chính trong Tiền Đồn là biểu tượng của sự nhục nhã nhất mà cả dân tộc phải gánh chịu trên vai. Thật kinh khủng!
Với Nhã Ca, bộ mặt chiến tranh cũng trở nên bi thảm không kém đối với những người dân sống “bình yên” trong thành phố. Họ còn trẻ, và là những trí thức đang đứng trước những chọn lựa, những tái độ phải bày tỏ bằng những hành vi cụ thể. Chất bi thảm của thế hệ trẻ là sự lắng nghe, nhìn thấy một cách mơ hồ chiến tranh đang diễn ra đâu đó ngoài rìa thành phố với những cảm giác đầy sợ hãi phập phồng trong Đêm Dậy Thì, Đêm nghe Tiếng Đại Bác. Đến Phan Nhật Nam, Trần Hoài Thư… thì chiến tranh là sự đụng mặt gần sát, là những cuộc hành quân, bao vây, phục kích, là súng nổ, người chết, dân lành gồng gánh trong nước mắt, hối hả chạy trên bờ ruộng hẹp, lo sợ những viên đạn cắm phập vào tim, nhưng không thể không ngoái nhìn lại căn nhà tranh vách đất chẳng đáng giá là bao (nhưng chứa đựng biết bao tình cảm thiêng liêng) đang bốc cháy ngùn ngụt phía sau. Chiến tranh trong tác phẩm của họ là sự nhìn thấy rõ ràng, rất cụ thể: súng nổ, người chết. Những người tham gia các trận đánh là những người bạn, người lính thân yêu bên cạnh mình, từ từ, lần lượt ngã xuống… Và không chỉ có dùng súng đạn để đánh nhau, thậm chí họ còn sử dụng cả lời nói để hạ gục đối phương: “Staline của Nga chết, cha Tố Hữu của ngoài mầy làm thơ: “ông Staline ơi… ông Staline ơi… Thương cha thương một, thương ông thương mười”. Anh Kennedy, Kennedy là Tổng Thống thứ 35 của Mỹ, đẹp trai, con nhà giàu, giỏi, chết, mầy thấy có thằng làm báo miền Nam nào viết bài thơ khóc cái anh Kennedy này chưa? Và sau cùng hết, mầy chỉ làm được một việc này với tao thì tao gọi mầy là thánh tao chịu nghe hết lời của mầy, tao tin mầy là “dân chủ xã hội”. Bây giờ tao hô “đả đảo đế quốc tư bản Mỹ”, mầy hô:”đả đảo đế quốc Trung Hoa đỏ, đả đảo đế quốc Liên Sô”. Đấy mầy và tao cùng hô một lần, tao đếm 1,2,3… thì bắt đầu. Tôi hô: 1,2,3… Nghe trong máy có tiếng rè rè của tầng số bị phá…” (Phan Nhật Nam, Mùa Hè Đỏ Lửa trg 136, NXB Sáng Tạo, SG 1972). Đó là chưa kể nỗi xót xa, đau đớn đến tận cùng khi đồng đội bị thương, khó lòng vượt qua cái chết đang cận kề, đã van nài nhân vật xưng tôi (THT) “mày hãy bắn tao đi, mày hãy bắn chết tao đi!”. Mà đâu chỉ có một mình Trần Hoài Thư mới chứng kiến cảnh đau lòng, xé nát tim gan anh như vây? Hầu hết các nhà văn quân đội khác tôi đã đọc tác phẩm của họ, ít nhiều đều ghi lại những cảnh hãi hùng đó!
Những người trong cuộc lẫn những người dân vô tội đứng bên ngoài hay trong cuộc chiến tương tàn, đều chung một số phận bi hài như nhau.
Nhưng với Y Uyên thì khác, nói như Lê Văn Chính (SBT): “Trước ngày nhập ngũ, anh đã viết nhiều truyện thời chiến. Lúc đó anh còn là nhà giáo, nên truyện thường mang nặng tính chất tưởng tượng hoặc dựa theo những kinh nghiệm chiến tranh mà anh được nghe kể lại” (Núi Tà Dôn và dấu Chân Uy, đăng trong số này). Đúng, khi đọc một tác phẩm ta có quyền lựa chọn, có quyền bình phẩm theo ý thích của riêng ta. Đó là quyền của người đọc. Riêng với nhà văn, khi viết ta viết điều ta yêu thích, điều ta cảm, ta gần gũi, ta sống với nó, hít thở với nó, chứng kiến nó diễn ra hàng ngày, thậm chí ôm nó vào lòng lăn lộn với từng giấc ngủ đầy mộng mị hãi hùng.
Y Uyên sống trong thời khắc cuộc chiến nổ ra ác liệt nhất, trên vùng đất kinh hoàng nhất. Ví dẫu rằng: nếu như anh chưa hề là nhà văn, chưa hề cầm bút thì hàng ngày anh không thể không nhìn thấy chiến tranh diễn ra ngay trước mắt anh, diễn ra một cách bình thường, lặng lẽ mà đau đớn đến nát tan cõi lòng. Với người cầm bút thì anh càng không thể đứng ngoài ngắm nhìn như kẻ bàng quang, kẻ ngoài cuộc, thậm chí là kẻ trốn chạy khỏi vòng vây chiến tranh. Tôi vẫn nhớ như in, hồi còn học Văn Khoa Sài Gòn, GS Nguyễn Văn Trung luôn tự hào về giảng khoá cho đám sinh viên năm dự bị, với cái nhan Nhà văn, người là ai, với ai? Ông đã dựa vào những phát biểu trong bài diễn văn của nhà văn A. Camus đọc tại giảng đường Viện Đại Học Upsal, Thuỵ Điển nhân dịp nhận giải Nobel văn chương năm 1957, xoay quanh cái trục trách nhiệm và thái độ của nhà văn trước cuộc sống để rao giảng cho chúng tôi, những thanh niên mới bước chân vào cổng trường Đại Học, rằng “khi một nhà văn quyết định cầm bút viết văn tức là tự nhận lấy một chức vụ trong xã hội. Từ nay, người đó (ý nói nhà văn) ra khỏi đám đông, quần chúng vô danh, trở thành một nhân vật, được thiên hạ biết đến và sẽ được khen chê ủng hộ đả đảo tùy theo lối nhìn, thái độ của họ” (Nguyễn Văn Trung, Nhà Văn, Người Là Ai, Với ai). Xin lạm nhắc lại chuyện xưa, để nhìn lại thái độ của Y Uyên và những tác phẩm của anh trước cuộc chiến khủng khiếp này!
Những truyện anh viết về chiến tranh không bao giờ có súng đạn nổ chát chúa, không có cảnh quân hai bên giương súng bắn vào nhau, vây nhau tầng tầng lớp lớp như chọn lựa cách viết của Phan Nhật Nam, Trần Hoài Thư, Thảo Trường… mà lại là những điều, những thứ bị cuộc chiến xô đẩy tới bờ vực của đổ nát tan thương, của tiếng lòng dội xé. Đó cũng là cách chọn lựa đề tài, nhân vật, bối cảnh của Dương Nghiễm Mậu, của Võ Phiến, Doãn Quốc Sỹ…
Hầu hết những truyện anh viết và “đọc được” đều bắt nguồn từ khi anh dạy học ở Tuy Hoà, một thị xã nhỏ bé của duyên hải miền Trung giữa lúc chiến tranh đổ ập xuống nửa phần đất nước một cách khốc liệt nhất. Cái thị xã tí xíu mà anh và bạn bè anh đang sống, chẳng phải là một khu phi quân sự, một vòng đai an toàn mà là một lò lửa. Đạn luôn nổ, người chết, nhà cháy, đồng khô, dân quê bồng bế nhau chạy trốn hòn tên mũi đạn, ngày Quốc gia, đêm Cộng sản giành giật nhau… Cuộc chiến rất kỳ cục, phi nhân ấy cứ thế mà diễn ra ngày này sang năm khác để người dân khốn đốn kêu lên “chiến tranh mẹ gì mà lâu dữ vậy?”. Cuộc chiến quái gở ấy không phải chỉ có anh và tôi đánh nhau, mà một bên là có sự trợ giúp công khai, một bên là lén lút nhận vũ khí, quân trang quân dụng để “giương cao ngọn cờ chính nghĩa” đã đẩy người dân vô tội xô dạt bên này hay bên nọ (cốt để tránh hòn tên mũi đạn). Không khí truyện của Y Uyên không “nhảy tọt” vào giữa chiến trường, bởi anh chưa hề là một chiến binh thực thụ, mà anh “chạy theo, áp sát vào” những xô dạt không chừng mực trong những lần chạy giặc dài ngắn để nghe, để thấy, để cảm và chia sẻ nỗi đau của họ.
Những nhân vật của anh luôn là những nông dân nghèo, lam lũ, những người bình thường nhất đang sống ở vùng xôi đậu, đêm chạy trốn nơi an toàn, ngày mò về chắt mót từng hột lúa, củ khoai, là những thầy giáo, cô giáo, những đứa trẻ ngơ ngác. Anh yêu mến tất thảy bọn họ chẳng qua vì anh quá gần gũi với họ hàng ngày, hiểu được những trớ trêu của bọn họ.
Tất cả các nhân vật nữ của Y Uyên không có ai như chị Ba trong Tiền Đồn, như chị Tư trong Người Đàn Bà Mang Thai Trên Kinh Đồng Tháp bị dày xéo, chà đạp đến tàn nhẫn, như là những biểu tượng tượng trưng cho thân phận của toàn thể mọi người dân ở phần đất bị bom đạn cày xới nát tan, phải ngửa mặt ra hứng lấy mọi tai hoạ.
Cái chất dịu dàng, thong thả, nhẫn nhục của người phụ nữ, đa phần là dân quê, lánh nạn ra thị xã. Đó là những người bình thường nhất trong xã hội được Y Uyên phác hoạ là những người trung thực, bị đẩy đưa do hoàn cảnh, chấp nhận sống trong hoàn cảnh bi đát ấy. Những Bích, những Hiền và chị Hiền là một phần của đất nước bị băm vằm bằng nhiều nhát dao oan nghiệt. Họ vì cuộc sống mà phải bỏ làng tản cư lên thị xã, phải nhắm mắt làm người phụ nữ “sạch sẽ” nhất trong thời loạn: “Một lần nghi Bích không tin mình, giấu tiền không cho mình vay, lúc hai người đang nằm ở giường, anh ta chợt nẩy ý tưởng đòi khám Bích. Bích từ chối cầm chừng. Lúc trật hai chiếc xú-chiêng xuống nửa chừng, anh ta sững sờ một lát rồi ôm Bích thật chặt, hôn Bích như một sự đánh liều để cố quên mình đang có một cơ thể bị đòi hỏi hành hạ. Sau đó anh ta nói một câu kỳ quặc nhưng hơi mất bình tĩnh “Vú Bích sáng ngời, nóng và trơn thế mà từ lâu nay nào anh có hay”… Một nửa anh bị ám ảnh bỡi bộ ngực của Bích, một nửa anh ngại, nếu tiến thêm,Bích sẽ nhoà đi như những người đàn bà anh đã gặp” (Bên Ngoài Khán Đài).
Và dẫu không “dữ dội, bi thảm” như chị Ba, chị Tư của Thế Uyên, Thảo trường nhưng những “người đàn bà có chồng lên núi mấy năm nay” của Y Uyên lại phải chịu đựng một cách khác, dơ dáy một cách khác, bi thảm một cách khác:
“-Ai đó?
Giọng Bích cố thoát ra khỏi hai hàm răng. Một cánh tay vòng lấy lưng Bích chắc nịch.
-Qua đây chớ ai.
Nghe có tiếng nói cất lên, Bích thấy đỡ sợ nhưng xúc động sợ hãi vẫn còn rung da thịt. Bích thấy kẻ ôm lưng mình là một bóng den cao lớn đã chui vào mùng từ lúc nào. Vòng tay đó thắt chặt lại. Một tờ giấy được nhét vào tay Bích.Bích chắc là một tờ giấy bạc và thấy mình bị kéo xuống khỏi giường. Bích vùng đạp mạnh vào Hiền, cố giật người thoát ra khỏi vòng tay sau lưng. Hiền nhỏm dậy hỏi:
-Chi đó?
Vòng tay tự nhiên nới rộng, mở ra. Hiền yên lặng đứng dậy, bước ra điềm nhiên:
-Ong xã đó phải không?
Bích đã hết sợ, ngồi dựa vào góc tường, ngạc nhiên.
-Ai ngủ với em trong đó?
Giọng người đàn ông hỏi uy quyền.
-Bạn em đó.
Người đàn ông im lặng một lát rồi Bích thấy Hiền như bị ôm sát.
-Bữa nay có bạn em…
-Bạn em thì sao?
Bích thấy Hiền bị nhấc bổng ra khỏi mùng, theo bước chân người đàn ông ra khỏi cửa. Một lát, bên giường chị Hiền có tiếng trở mình. Bích thấy chị rón rén bước sang giường mình. Bích hỏi:
-Chuyện gì đó chị hai?
Người chị Hiền ghé ngồi vào mùng, nhỏ giọng:
-Còn chuyện chi nữa.
-Hiền nó đi với người đàn ông đến đâu?
-Ra ngoài hiên chớ đâu.
Bích ngạc nhiên:
-Cha đó vào bằng lối nào kìa?
Mùi khế úng lại thoảng vào trong mùng. Bích nghe như có một giọng đáp từ xa:
-Nhà này có khác chi nhà ông xã” (Bên Ngoài Khán Đài)
Hình như ông xã của Y Uyên và tay du kích của Thế Uyên làm cho chiến tranh thêm đậm mùi hơn, cái “mùi khế úng” bay vào chỗ tận cùng của thánh thiện và dơ bẩn nhất của cuộc đời này?
Đó cũng là nỗi lo sợ vu vơ, những hoài nghi vu vơ ngay chính bản thân mình và cho người khác trước cuộc chiến ngày một lan rộng, dữ dội:
“Chiêu hỏi:
-Chừng nào anh vô lại SàiGòn?
Mường ngạc nhiên:
-Anh không có ý định đó.
Chiêu giận:
-Anh giấu em.
(…)
Chiêu quả quyết:
-Có tin những điều anh nói không?
-Không.
-Thực may cho anh. Chính anh cũng không hiểu phải nói gì với Chiêu.
Chiêu bật khóc. “Anh khinh em”. Mường yên lặng thấy mình ngây ngô.” (Gió Cuối Năm)
Làm sao mà Chiêu không “bật khóc” và Mường không “ngây ngô” khi sự chờ đợi của người thiếu nữ là sự chờ đợi mỏi mòn và anh Mường mới giải ngũ không thể tự định đoạt nổi số phận chính mình, huống hồ đèo bòng “thứ tình yêu mới lớn của Chiêu” ? Rồi những chị Bước (Chiều Trong Làng), Kiều (Miền Không Vết Chân Người) vẫn cứ nhẩn nha giữa những tai hoạ đang vây bủa chung quanh, giữa một vùng cát tị nạn ngui ngút những căn lều tạm bợ, ở đó hai vợ chồng một nông dân, một thợ dệt cứ lo ngay ngáy sao cho chiếc giường không kêu “rắc rắc” như chiếc giường của vợ chồng Hai Bát kê ngay bên cạnh. Đó, chiến tranh dưới ngòi bút Y Uyên nó mò sát tới chân giường của đôi vợ chồng nghèo. Rõ ràng anh không hề tưởng tượng hay nghe kể lại, mà chính anh đã “tận mắt ngắm nhìn” một cách cẩn thận để chia sẻ! Bởi hàng ngày anh đụng mặt với nó, bởi những nhân vật kia là phụ huynh của những đứa trẻ anh đang dạy dỗ, là những hàng xóm trong khu nhà trọ, ông chủ quán nấu cơm tháng…
Đến như Bão Khô, một trong số ít truyện ngắn được đánh giá là hay nhất của Y Uyên, thì không khí chiến tranh càng kinh hoàng, thê thảm hơn. Chiến tranh đang tiếp tục lởn vởn, bay nhảy trên thân thể anh lính lệch vai, trên chiếc khăn tang của người đàn bà, những tờ sấm truyền tụi học trò ngồi trong lều chợ buổi trưa, chép chuyền tay nhau, là chiếc xe đò Vạn Hưng bán đồ uống cho Mỹ, là người lính Mỹ ngủ gà gật bên thềm chợ, mấy người đàn ông ăn bánh tráng, bà chủ quán mặc áo dài đi chân đất, là hai người đàn ông mặc áo xanh của một giáo phái kỳ bí với “những lời sấm bọn học trò truyền nhau chép và họ dường như có một liên lạc vu vơ”… Những nhân vật ấy xoay quanh một ngôi chợ tồi tàn bên kia cầu, hằng ngày anh lên xuống bốn bận đi dạy học. Đâu có súng nổ, đâu có bom rơi, đâu có cảnh quân hai bên xung phong xáp lá cà? Vậy mà nó, chiến tranh hiện ra một cách tàn nhẫn trên từng lời nói, cử chỉ, ngôn ngữ của bao nhiêu con người ấy. Nó làm cho ta quay quắt một nỗi đau không cùng. Và giả dụ như những kẻ cầm đầu cuộc chiến tương tàn này, đọc Bão Khô (cùng những tác phẩm khác của những nhà văn khác), họ sẽ nghĩ gì? Sẽ đẩy cuộc chiến tới mức tồi tệ nào nữa?
Với giọng văn rất bình thản, anh đi dần vào thế giới đau thương, tan tác đó bằng những tấm bảng hiệu “Laundry number one” trước hiên quán, hoặc “Refreshment” bên hông xe ba bánh, đến khi người lính lệch vai xuất hiện trên khu chợ, hỏi thăm chiếc xe đò Vạn Hưng phủ kín tấm màn màu đỏ sặc sỡ:
“Người lính nhìn thằng bé lê trên mặt đất với cái mẹt trước mặt.
-Mầy có biết mấy người con gái bán trong xe đó không?
Thằng bé lắc đầu chỉ cho người lính thấy vùng đất bên dưới dốc ngổn ngang những vệt bánh xe.
-Làm sao thấy mà biết. Cửa xe có vải đỏ che kín, đậu dưới đó ai mà dám xuống.
-Con đĩ.
Tiếng người lính nguyền rủa giận dữ. Anh ta bỏ đi vào phí chợ”. (Bão Khô)
Người đàn bà ấy là ai, đi đâu, làm gì?:
“Nỗi sợ hãi thiệt không hình dạng. Đột ngột như cái rùng mình của một cơn say. Anh không muốn hỏi, muốn nghĩ gì cả. Anh không muốn. Người đàn bà chết thảm đó không thể là vợ anh được. Nó đang giấu mặt trong trong chiếc xe đò Vạn Hưng đó… Anh gục xuống với nỗi sợ hãi chập chờn trước mặt. Cánh tay cổ tròn vạch lên tường ngày gà khởi ấp vẫn hợp với người đàn bà gánh lúa, gánh thóc lúc chồng vắng nhà hơn. Những lời đồn đãi về vợ anh, từ trước tới giờ cuối cùng anh vẫn thấy gần lòng tin nhất. Vợ anh ngồi sau tấm màn đỏ theo lời đồn và chết lúc gánh gạo theo trí tưởng tượng mơ hồ và có lý như nhau” (sđd ).
Và người đàn bà thứ hai trong truyện này:
“Từ dưới bãi cát người đàn bà khăn tang trở lên, hai ống quần ướt và quệt đầy bụi. Người lính hỏi bà chủ quán:
-Chồng chết?
-Chết mìn hôm trước đó. Một cái xe Lam, một cái xe nhà binh, chết sáu mươi mấy người.
-Kiếm chi dưới đó?
-Cánh tay có mang cà rá của chồng. Lúc điên, lúc tỉnh, lúc dại, lúc khôn, biết sao mà tin.
Người lính lầm bầm chửi tục, trề môi:
-Chồng chết lấy chống khác, mắc mớ chi mà điên” (sđd)
Và kết thúc truyện:
“Bằng những bước đi dài và nhẹ, chị ta khom người từ từ vào sâu lòng chợ, nơi có một con chó không chạy vào lều, ngồi cúi đầu gậm một khúc xương. Người lính say mửa một hồi lại gục xuống mặt bàn, người như chúi về một phía.
(…) Có một giọng đàn bà lẫn với tiếng gió ở sau tấm liếp như tiếng mẹ thằng bé. Nó nhìn lên mặt lộ. Trên con đường lổn nhổn đá xanh dẫn lên trên đó, người đàn bà có khăn tang nhẩy qua nhẩy lại, rượt theo một con chó ngậm trong mồm một khúc xương” (sđd ).
Cái khúc xương mà con chó ngậm trong mồm có phải là cánh tay người chồng chị đàn bà mang khăn tang bị mìn nổ banh xác? Hay đó là khúc xương người phụ nữ có cổ tay tròn ghi ngày gà khởi ấp trên tường (cũng bị mìn nổ) chết đâu đó? Chị ta là nhân vật chỉ xuất hiện trong truyện qua những dòng suy nghĩ của anh lính lệch vai, chồng chị. Rõ ràng anh ta không mong chị chết, nếu đổi cái chết ấy với chuyện chị ngồi trong chiếc xe đò Vạn Hưng vẫn hơn. Nỗi nhục nhằn buộc phải chứng kiến cảnh nhớp nháp của vợ với những người lính ngoại quốc trong chiếc xe đò phủ vải đỏ sặc sỡ vẫn làm người lính yên lòng hơn là vợ anh chết thật sự, chết đâu đó mất xác như cái chết của chồng người đàn bà khăn tang kia!
Trong lối ví von, so sánh Y Uyên đã đẩy tới tận cùng sự tan nát, đớn đau: thà làm đĩ, có nhơ nhuốc thật, nhưng còn sống vẫn hơn là chết bờ chết bụi!?
Rồi chỉ với một khúc xương trong mồm con chó, Y Uyên đã vẽ ra một cảnh thê lương, hãi hùng của chiến tranh đang phủ chụp xuống, không chừa một ai: Nỗi đau chết trận và nỗi đau của mất mát, chịu đựng không cái nào nhẹ hơn, bỡi một đằng là tức thì với cảnh banh ruột máu me đầm đìa, một đằng kéo dài âm ỉ đau, âm ỉ khổ nhục… Cả hai vẫn thế.
Những người phụ nữ bình thường ở nông thôn, dưới ngòi bút Y Uyên luôn phải mang trên vai những gánh nặng khổ ải nhất trong thời chiến. Chiến tranh không nổ ra ngay tại những toà dinh thự lộng lẫy của các lãnh tụ hai phía, mà diễn ra khắp cùng các làng mạc ở nông thôn, xua đẩy những nông dân xác xơ chạy lánh nơi an toàn ở thị xã, thị trấn. Và như vậy, buộc họ phải coi trọng cái ăn. Những người đàn ông không thể về vùng quê xôi đậu để mang lúa lên sống chờ chiến tranh kết thúc, như anh Hai của Bình, mà là người vợ, chị Hai. Chuyến về lấy lúa ấy, chị mất tích luôn. Chị đi đâu? Làm gì? sống chết? Toàn là những lời đồn đại không thể kiểm chứng:
“… Bình lấy giọng bình thường bảo anh:
-Anh giận hoài chị Hai, tội quá. Chị có chịu khổ như vậy cũng vì phải về lấy lúa lên sống.
-Không nói nữa, mệt quá. Nó nhơ nhuốc, độc ác như con cú mèo.
Bình phủi lớp bụi bám trên vai áo da, kiên nhẫn:
-Anh chị dù sao cũng sống với nhau bảy tám năm rồi…
-Nó đi Nha Trang rồi…
-Anh gặp chị hồi nào hay chỉ nghe nói?
-Cả xã Đại Tùng người ta biết nó. Nó bắt một đứa nhỏ mồ côi đi theo để ăn mày cho dễ (…) Đầu nó bào nhẵn như đầu thầy chùa. Nó băng qua bãi cát mà ra biển. Tới gốc cây đại thọ nó mang thằng nhỏ vào cái hang rễ cây, cầm xương rồng khô đốt cháy mà trui mặt mũi, chân tay thằng nhỏ. Muôn đời nó không dám về cái xứ này nữa.
-Người ta bày đặt, anh chớ có tin … Anh gắng để ý kiếm chị một chút.
-Kiếm để ăn đạn, ăn mìn sao? Không nói nữa, mệt quá” (Mùa Xuân Mặc Áo Vàng)
Đó, chiến tranh đi qua truyện Y Uyên bằng thứ đạo đức xổ dốc, bằng những nhân cách lạnh lùng, bằng sự ích kỷ, sợ sệt bám riết theo các nhân vật. Họ có nhau, là của nhau, nhưng luôn chia lìa, xa cách trong những ý nghĩ hoang mang tột độ; hoang mang với bản thân và với chồng vợ. Hành động của anh Hai, chị Hai không thuộc về bản chất, nó thuộc về một thế giới khác, thế giới của hữu hình và vô hình trộn lẫn để đẩy con người ta vào hóc kẹt tối tăm làm người. Cái thế giới trộn lẫn ấy chính là điều Y Uyên muốn nói đến, nhắc đến, bỡi hàng ngày anh đi qua, anh nhìn thấy, chứng kiến, sờ đụng…
Chiến tranh cùng khắp, ồn ào và không ồn ào, nổ chát chúa và nổ bùm bụp trong cõi lòng. Nổ tung từ vùng nông thôn lan tận rìa thành phố, đâu đâu cũng là sự nhớp nháp của chiến tranh, đẩy con người từ già trẻ gái trai tụt dần xuống miệng hố đen ngòm. Trong hàng triệu con người nhếch nhác ấy, Y Uyên dựng lên một nhân vật có thật, nhếch nhác hơn thế: ông Mịch. Ong muốn bảo vệ cho thứ luân lý, đạo đức, trật tự có sẵn, ngay thẳng, trong sạch nhưng bị kết án là: “Ong già làm bộ giả điên để chửi tất cả cho sướng mồm” (Đuốc Sậy). Ông Mịch ca ngợi Tán Thuật, gây sự với lính Đại Hàn, chửi người lính già commando, theo đoàn người biểu tình chiếm Ty Tâm lý chiến, ”ông kéo lùi chiếc xe díp của một thiếu tá, giữ lại cho mọi người chất vấn, ép phải hô lớn ‘Mẹ Việt Nam bất diệt! Tổ quốc Việt Nam muôn năm!’”. Ông tiếp tục gây sự với mọi người và kêu gào mọi người hãy tham gia vào việc thiết lập tật tự đạo đức bị chà đạp, xuống cấp nghiêm trọng
“Ong túm lấy một người con gái đội mũ nan chóp nhọn, chỉ vào mặt:
-Bọn mầy ở mấy cái xổng chở đĩ tới đây hồi hôm?
Người đàn ông lùi lại kêu lắp bắp:
-Ông không có quyền…
(…) Ông Mịch lùi vào bức cửa sắt đóng kín, hai tay dang ngang, hét lớn “đồ đĩ, đồ đĩ của Mỹ. Tao phải giết hết”. Ong vỗ vào cánh tay, vén ống áo lên tới nách lúc tiến lúc lùi, thủ thế” (ĐS).
Theo sát những hành động và những lời chửi bới điên khùng kia là cảnh: “Bọn người ở dưới làng lên ngủ nhờ bắt đầu đông. Họ vào nhà, cất nón cất xe, hỏi thăm Sương nhưng không ai lên lầu gặp ông Mịch. Họ ra trước cửa ngồi la liệt dưới mái hiên trên hè đường ồn ào nói chuyện” . Nhưng chạy đàng nào, đi ngủ nhờ đàng nào rồi họ cũng nhìn thấy: “Đạn lửa đỏ rực lừng lững nối đuôi nhau, bay trên cánh đồng, ngang qua mặt quốc lộ ngoài kia”. Và rồi mọi chuyện cũng phải kết thúc bỡi đạn bom không chừa một ai, ngay cả người hô hào sự công bằng, đạo đức, lên án mọi phia nghĩa đang bày ra nhan nhản trước mặt: “Những chiếc khăn trắng nhờ nhờ trải đầy trên mặt cát. Ong Mịch đã bỏ đi, đứng cách đó khá xa. Người ông cũng nhuộm màu mây đỏ. Sương thấy ông chậm rãi nằm úp tai xuống cát. Chiếc mũ sắt cắm vục xuống nom đen đủi, tròn bóng. Chắc ông lại nghe xem đoàn quân Tán Thuật lại gần hay chưa?”. Những dòng cuối cùng để kết thúc truyện Đuốc Sậy là sự gãy gập đoạn trường bỡi những biểu tượng cho lòng ngay thẳng, thanh tao, mọi giá trị nhân bản cũng đều gục ngã theo ông Mịch “người ông cũng nhuộm màu mây đỏ”.
Từ những người nông dân chạy loạn, đến ông trí thức giả điên hay điên thật đều được phơi bày một cách trần trụi, bình thản như những tấm lưng cong oằn chịu đựng, như cơn giận bốc lên bất ngờ của ông Mịch. Nhưng những số phận heo hắt đó, đâu chỉ dành riêng cho những người “nhà quê”. Nó còn đè nặng và hơn hết là cảnh sống mỏi mòn chờ đợi của những công chức là các thầy giáo trong ngôi trường ở quận lỵ miền núi, ngày đến lớp, đêm cùng học trò ra trốn ở các lùm bụi rậm, chỉ cách thị xã không bao xa: “Những người dạy ở An Bình tuy cách thị xã cả ba bốn chục cây số, tuy rất dễ gặp một ổ phục kích, một trận đánh, một trái mìn giữa đường, nhưng đường về thị xã còn có thể đi lại được. Ở đây thì hoàn toàn cô lập” (Những Ngày Cuối Năm Trên Miền Núi). Bỡi “đường bị cô lập”, nên những Huỳnh, Ngưỡng, Phan… vẫn còn kẹt tại nơi đèo heo hút gió này, ngóng đợi từng chuyến trực thăng bay về thị xã, với những tâm trạng nôn nao trong những ngày giáp tết để rồi ngày hai bữa vẫn phải ngồi vào bàn ăn: “Vẫn đĩa trứng thường xuyên, vẫn hai bát rau muống chẻ, một khúc cá và ba tô canh bầu hạt tổ bự”. Ngày ngày vẫn phải tới lớp, tối vẫn phải chui trốn với lũ học trò, vẫn phải chứng kiến cảnh: “… có đứa nghỉ hôm trước, hôm sau gửi cho thầy một lá thư đầy lỗi chính tả hẹn ngày “giải phóng” cho thầy”. Và một đứa học trò khác với Ngưỡng: “Thưa thầy em muốn xin rút lại hồ sơ… Em muốn xin thôi học lấy lại hồ sơ để…đi biệt kích” – “Đi biệt kích?” Ngưỡng lạ lùng. “Nhỏ như em làm sao đi lính?”. Thằng bé tự tin: “Em đã hỏi cẩn thận rồi. Cứ lên gặp họ, nói không có chỗ trốn Việt Cộng, họ nhận liền”. Hai đứa học trò bậc tiểu học, một đứa lấy lại hồ sơ để “giải phóng” cho thầy, đứa kia xin đi biệt kích, chỉ vì “không có chỗ trốn Việt Cộng”!? Thử hỏi còn cảnh nào bi thương hơn? Chiến tranh là thứ gì mà nó bóp nát những quả tim bé thơ dưới ngòi bút Y Uyên đến vậy? Mối tình với cô giáo Diệu không thể nào xoá đi cảnh “bốn chiếc oanh tạc cơ bay thành hình bầu dục trên rặng núi trước cổng trường” trong buổi lễ cuối năm.
“Những chiếc máy bay sà xuống thật thấp, lao vút vào những cột khói đen sậm ở chân núi. Những trái rockets như những cái chầy bạc lấp lánh dưới nắng tới tấp phóng xuống trước nền rặng núi xanh đậm. Đất rùng rùng từng đợt dữ dội. Bọn trẻ nhao hướng về phía đó”. (NNCNTMN).
Các nhân vật “học trò” kia không rõ chúng có thực hiện điều mà chúng nói, viết thư cho thầy giáo Ngưỡng hay không, nhưng những toan tính buổi đầu của chúng là sự dã-man-đến-tận-cùng của chiến tranh. Nó không chừa một ai, không dung tha một ai. Tất cả đều bị cuốn hút vào guồng máy súng đạn khổng lồ, căm thù chất ngất, phi lý đến cùng cực, bỡi nó không có hình thù, mặt mũi, chân tay mà lại có thể bất ngờ siết cổ họng anh đến ngạt thở, đưa tay moi móc ruột gan mọi người banh ra ngoài, chiến tranh không có giấc ngủ… : “Chiến tranh và nỗi khổ hỗn độn xung quanh như không trộn lẫn được những người công chức thị xã với người dân nạn nhân.Những đêm nghe bom, đại bác dội về rung cả cánh cửa, anh thấy chiến tranh không có giấc ngủ. Nhưng lúc nom những xác người nằm trong một căn hòng nhà thương, anh lại thấy chiến tranh gồm toàn những giấc ngủ triền miên, anh chẳng thể hỏi han như hỏi han bà hàng vịt lộn” (Bên Ngoài Khán Đài).
Mới hôm nào anh còn là trí thức trên giảng đường đại học, ngoảnh một cái, anh chui tọt vào vòng xoáy chiến tranh, đánh mất tất cả mọi niềm tin: “Tôi chạy đến thì anh tôi đã bỏ đi. Một đám đông bu trước tiệm nước. Chiếc khăn bàn anh tôi ngồi rũ xuống một góc được giữ lại bằng một lưỡi dao ngập trên bàn” (Có Heo May Hà Nội). Hành động của anh chàng đã từng “cắp nách những cuốn triết hoặc cần cù tô từng nét chữ Hán cho đậm nét” kia giờ đã là người lính bất đắc dĩ. Chuyện giận dữ vô cớ cắm lưỡi dao trên bàn, chuyện cãi nhau với mẹ, chuyện xin phép đơn vị về đám giỗ… chỉ là cái cớ để anh trút tất cả nỗi thất vọng, hoài nghi của thế hệ mình vào lớp trí thức sa lông như chú anh (chồng của cô ruột) vẫn cứ hăng hái nói về những lý tưởng, nhớ nhung quá khứ, những người thuộc thế hệ quá khư đều là những anh hùng, sẽ cứu lấy đất nước rách nát, xác xơ này và nhìn ngắm lũ trẻ như là bọn vô tích sự. Và rồi bọn trẻ kia cũng đâu chịu lép vế, họ cũng vùng lên, phản kháng yếu ớt:
“Tao không chịu được những bộ mặt trí thức thất bại lộ ra cả trrong việc theo vợ đi ăn giỗ, nói chuyện thời thế và Hà Nội. Họ khôn khéo ăn nói những thứ mọi người đang thích ăn thích nói để che lấp nỗi nhớ tiếc vốn là mầm sống của họ. Họ không nhớ một mình Hà Nội, cũng không nhớ Hà Nội như tình cảm của một chiến bại, hoặc cao hơn,, một nỗi nhớ cần nhiều cố gắng thực tại để bù đắp sự thất bại còn dây dưa chưa biết đến bao giờ. Họ còn thương nhớ cả những nếp suy nghĩ của mình nữa. Trước tình thế này, họ nên khuất mắt, đừng lẩn quẩn bên chân những người vừa mới lớn lên đã phải nhào vào chống đỡ những sụp đổ do họ gây ra” (CHMHN).
Người chú trí thức (chồng của bà cô ruột), người anh trí thức đang vào lính (anh của nhân vật xưng tôi), hai thế hệ khác nhau cùng sống trong một giai đoạn lịch sử đầy bấc trắc, biến động và cùng có những ảo tưởng khác nhau về cuộc đời, số phận, về trách nhiệm, bổn phận… trước lịch sử, một lịch sử trong thời kỳ mọt rỗng, một đất nước trong thời kỳ mọt rỗng, một bên hiển hiện rõ ràng bằng máu và nước mắt, khăn tang, một bên là những hoài niệm về một thời vàng son của cả dân tộc cùng đứng lên kháng chiến:
“Những ảo tưởng về tương lai tuy chua xót, nhưng bao giờ cũng đáng phấn khởi hơn những ảo tưởng về những chuyện đã qua, dù đẹp nhưng tình và chết như bóng thím Hương trên bức tường hoa, bên nữnh trụ gạch dát hình rồng phượng bằng các mảnh sành mảnh sứ” (CHMHN).
Vâng, con rồng con phượng chỉ là hình tượng đẹp trong trí nhớ mọi người. Còn những mảnh sành sứ là có thật, là những mảnh vỡ được ghép lại!
Chiến tranh đi qua tác phẩm Y Uyên thực không rõ ràng, không hình dạng, bị băm vằm ra từng mảnh. Khi đọc, ta gặp chỗ này một chút, chỗ kia một ít, nhưng khi gập sách lại, chắp nối các chi tiết tác giả đã mô tả, dẫn dắt, bày tỏ thì mới thấy hết phía sâu thẳm tận cùng, bên trong. Có lẽ đây là điều gây khó chịu cho người đọc, làm cho người đọc không thích truyện Y Uyên nhưng vẫn phải đọc, đọc để tìm ra điều tác giả gây khó chịu ấy. Ví như truyện dài Ngựa Tía, những nhân vật Thừa, bốn Phây, Diễn, thằng Mạnh, Thu, Thương… xoay vòng vòng những tâm trạng thấp thỏm âu lo cho công việc, số phận: Thừa trở lại quê nhà tạm nghỉ để chờ chuyến đi tiếp chỉ có thể nhìn thấy cuộc chiến qua hình ảnh của người cha và con ngựa tía; như Thương, một thiếu nữ đầy bất hạnh mang lời ca để vỗ về những người cầm súng hôm qua ở bên kia, hôm nay ở bên này; như ông Phước Hải nuôi chim yến làm giàu và qua hình ảnh ông, người ta như nhìn thấy những kỷ niệm của chính mình do ông cất giữ như một cái bảo tàng, bảo tàng của kỷ niệm, bảo tàng của thứ tình cảm riêng tây?… cùng hàng loạt những nhân vật khác. Tất cả đều xoay vòng vòng đến khó chịu, như câu ca dao anh dẫn ra:
“Con ngựa tía ăn quanh đèo Cả
Vầng nguyệt đem rằm bóng ngả về đông…”.
Trong Ngựa Tía, chiến tranh đi qua đời sống mỗi nhân vật như một định mệnh oan khốc của chính mính, bắt đầu từ làng quê, vùng ngoại ô, rồi lan xuống thành phố vây chặt lấy số phận họ và từ lúc nào nó bùng vỡ ồ ạt mà không ai hay. Tất cả đều lạc lõng, đều bơ vơ trước một nghịch lý cay đắng nhất. Những người trẻ tuổi trong Ngựa Tía như Thừa, Diễn… là những người có số phận buồn thảm nhất. Buồn thảm đến độ bi hài như chính lão chủ quán cơm:
“Ở quầy hàng, một người lính trẻ tuổi gây gỗ với gã chủ tiệm vì gã bắt quân nhân phải đóng trước tiền nửa tháng cơm. Gã chủ tiệm một mắt méo mồm, vận bộ bà ba trắng mặt nhô sau quầy, như không phân giải, không cãi lý, chỉ căng rộng mồm kêu: “… trận núi Sầm vừa rồi, bẩy người không trả tiền cơm, trận Đồng Leo năm người, bữa mìn nổ ở cây số 3 cũng mất hai người nữa, tôi không thể dễ dãi hoài như vậy, tôi không thể dễ dãi, dễ dãi tôi chết cả nhà tôi, tôi không thể…, trận Long Biền mất bốn, trận…” (Ngựa Tía, trg 55).
Đọc đến dòng cuối cùng của trang cuối cùng, người đọc không hề tìm thấy chiến tranh nổ ra, quân hai bên đánh nhau khủng khiếp như những bài bút ký của Phan Nhật Nam, những truyện viết dưới hầm, bên trong lô cốt của Trần Hoài Thư… Vậy mà, sao nó cứ đeo bám nhùng nhằng trên vai mỗi người có mặt trong truyện? Phải chăng vì, như Thanh Tâm Tuyền đã nhận xét về anh: “Y Uyên đã hội đủ những điều kiện để trở thành một nhà văn: có một khung cảnh của riêng mình (như Dickens có Luân Đôn, như Dostoievski có St. Pétersbourg), có những nhân vật mà mình yêu mến) (VĂN số 129).
Những nhân vật của Y Uyên chẳng có gì xa lạ, họ không phải là chàng thanh niên và cô thôn nữ của Lê Xuyên ngồi nấp sau bờ ruộng chờ đợi nụ hôn, không phải là các bà mệnh phụ trong những căn phòng lộng lẫy, những thiếu nữ đài các than thở về mối tình sứt sẹo của bà Tùng Long, hay những trí thức sống trong tháp ngà của Mai Thảo…, mà là những con người rất đỗi tầm thường như Bước, như Phon, như Kiểm… Họ ngơ ngác nhìn tai hoạ đổ ập xuống bụi cỏ xác xơ, bụi tre làng cao ngọn lay lắc buồn thảm, những con đường làng trở nên vắng vẻ, âm u. Lúc nào và ở đâu chiến tranh cũng có thể nhìn thấy được, ngay cả trong giấc ngủ, ngay trong câu nói bâng quơ của người nông dân ít học, ít hiểu biết thời sự nhất:
“-Trước, một buổi mai bán ở chợ dưới, hàng bán còn gấp đôi số hàng bán cả hai buổi bây giờ. Chợ chi mà chỉ có người bán.
-Chiến tranh mà chị
-Chiến tranh mẹ gì mà lâu dữ vậy” (Chiều Trong Làng)
Họ, những người nông dân chất phác, quê mùa chẳng thể biết, hiểu được chiến tranh là cái gì. Nhưng nó, chiến tranh, cứ đeo bám bên hông họ, bên mẹt hàng của họ từ ngày này đến năm khác để phải bật ra tiếng kêu “chiến tranh mẹ gì mà lâu dữ vậy”. Chính cái dây dưa cà cuống nhùng nhằng đó mới đẩy một ông Mịch trở thành kẻ điên, đẩy Bước thành một kẻ luôn lo sợ vu vơ, thành một ám ảnh, thành nỗi hoang mang vô cớ và thường trực trong đầu óc Bước:
“Thuở nhỏ Bước sợ ma quỷ bắt về âm phủ… Bây giờ từ miệng một người phu xe qua thôn, từ một thành phố Bước chỉ tin là có vì được nghe phát thanh chốc chốc nhắc lại “Đây là tiếng nói nước Việt Nam phát thanh từ…” từ một ngôi nhà làng… đâu đâu cũng có lệnh cho Bước, ai ai cũng có thể ra lệnh cho Bước. Dẫu Bước không có một căn cứ cụ thể như có bụi cây để nghĩ ma quỷ lẩn quất ở đó là hợp lẽ, bây giờ Bước vẫn phải tin và tuân những lệnh đóvà vẫn sợ những trừng phạt kèm theo” (Chiều Trong Làng).
Nhắc lại rằng, trong hầu hết các tác phẩm của Y Uyên, các nhân vật không trực tiếp tham gia hay đối diện với những cái chết kinh hãi, của cảnh bom rơi đạn nổ kinh hoàng, nhưng giữa những đổ nát ấy, giữa cảnh máu đổ thịt rơi đang xảy ra đâu đó xa chỗ họ đứng, họ sống thì chiến tranh vẫn thường trực đè nặng lên người họ, tâm trí họ. Những nhân vật hiền lành như Nhưỡng, một giáo viên, như Diệu người yêu của anh ta, đang đi bên nhau vẫn nẩy ra một cảm giác lo sợ vu vơ, bất an ngay trong ý nghĩ:
“Nghe tiếng lá khô loạt xoạt cọ vào nhau liên hồi, Ngưỡng vững lòng. Nếu có người bò trong đám mía, có vấp ngã, những tiếng loạt xoạt cũng át đi, khỏi sợ lộ” (Ngày Về Của Bọn Họ).
Đó cũng là tâm trạng của Hồ, anh cố vượt qua con đèo dài để kịp về sum họp với người thân yêu trong những ngày tết, nhưng anh vẫn cảm thấy như sự bất trắc của bom mìn vẫn chờ chực đâu đó, chờ bước chân anh đi qua, của đoàn người qua đèo mà nổ tung lên:
“Một nỗi hoảng sợ đến kinh dị chiếm lấy Hồ. Hồ cắm đầu chạy nhào đuổi theo đoàn người trước mặt.Lúc đã tới chân dốc, Hồ mới nhận ra vẻ hớt hải của mình”. (Mùa Xuân Qua Đèo).
Truyện ngắn duy nhất mà Y Uyên vẽ ra khuôn mặt người lính là truyện Tiếng Hát Của Người Gác Cầu trong tập truyện ngắn Tượng Đá Sườn Non do nhà Thời Mới xuất bản năm 1966. Đó là truyện ngắn có hình dạng, có chân dung của người lính hẳn hòi. Nhưng những người lính xuất hiện trong truyện không phải là những người anh hùng, không phải là những thiên thần, không có cấp bậc, không bao giờ biết ngồi lên xe “díp” là gì. Họ là những người nông dân vào lính, là những bè bạn trong làng vào lính và cầm súng. Chuyện vào lính của họ là đương nhiên, không thể cưỡng lại, đứng ngoài; còn cách cầm súng của họ không phải ra ngoài mặt trận bắn nhau, mà là để đứng gác trên chiếc cầu dài, mặt phải luôn nhìn xuống dòng nước lũ trôi qua gầm cầu, ở dưới đó sẽ có những bất trắc cho tính mạng chiếc cầu, tính mạng người lính và đám đông. Nhưng thỉnh thoảng người lính gác cầu cũng nhìn đoàn xe chạy vụt qua, nhìn chiếc bảng cấm ở đầu cầu xoay đi xoay lại như chính cuộc đời của bọn họ, những thanh niên nông dân, là bạn bè thân thiết nhau. Đó là Nhựt, Thấu, Phon, Đành… cùng vào nghĩa quân. Phon đứng gác trên cầu nhìn dòng nước lũ và nhìn những con bò, ngựa chết trôi sông và ao ước “có tụi nó ngồi nhậu”. Còn tụi nó, tức đám bạn thân của Phon là nghĩa quân ở xã, cũng nhớ Phon nay đã lên quận, đang ngồi nhậu thịt ngựa với rượu đế và nhớ lời ca ruột của bạn: “Cúc Hoa ơi nếu chúng ta còn cách xa nhau vì kẻ tuyền đài người dương thế thì mãi mãi anh còn là kẻ bị đày ải đơn côi trong ngục thất của tâm hồn…”.
Ngày nào cũng như ngày nào, Phon cầm súng đứng trên cầu và nhìn xuống dòng sông đục ngầu, thỉnh thoảng nhìn tấm bảng xoay qua xoay lại và nhìn xuống dòng nước coi có xác con vật nào trôi qua? Cảnh nhàm chán ấy cứ lặp đi lặp lại mãi đến nỗi Phon cất tiếng hát bài ca của đứa bạn đã chết tên Xanh, như một thói quen nhớ bạn bè. Nỗi nhớ cuồn cuộn chảy dưới gầm cầu được Y Uyên miêu tả đến tận cùng sâu thẳm của tâm hồn Phon, phơi trần bản chất đặc sệt nông dân từ trong suy nghĩ đến hành động. Người con người cùng khổ ấy chỉ có mỗi một ao ước cháy bỏng là được nhậu một bữa cho ra nhậu. Những giọt nước mưa bám trên mặt mũi anh cũng gợi một sự liên tưởng, như một nỗi ám ảnh không nguôi: “Phon ước những giọt nước mưa trên môi mình là rượu. Phon vuốt mặt, nhô ra khỏi cây sắt”. Sự ám ảnh ấy, lại còn dính chặt tầm mắt Phon theo xác con vật trôi trên sông: “Con vật trôi mau. Tựa bụng vào thành cầu, Phon cúi xuống nhìn. Chiếc đầu với hai cái sừng nhô lên một lần nữa. Con vật chắc mới chết. LúcPhon ra gác cầu, trận đánh mạn trên sông mới bắt đầu. Phon chắc nó cũng trúng đạn như con bò tuần trước trôi qua đây (…) Phon bứt rức lắng tai xem có tiếng động nào chứng tỏ con vật còn đang ở dưới chân cầu. Chỉ có tiếng nước xoáy.
-Nó đã bị kẹt vào dây kẽm gai”.
Cái nhìn thấy, sự suy nghĩ của người lính dưới ngòi bút Y Uyên vẫn nguyên hình là những anh nông dân chất phác, thật thà, không chỉ riêng mỗi một nhân vật Phon mà còn cả những nhân vật khác, là bạn thân của Phon đang là lính nghĩa quân dưới làng: “Không phải thịt con ngựa hồi hôm đâu anh Năm. Lòng ngựa xổ cả đống lẫn lộn với lòng Cai Bốn, ai mà dám ăn”. Những người lính nông dân đi cầm súng chỉ để cầm súng, chỉ để ước ao điều mình chưa đạt tới “ngồi trên xe thiết giáp chạy qua bên kia quận” như cách rông chơi chứ không phải đi đánh nhau, và hơn hết:”Một đùi thịt bò còn nóng máu, một xị rượu lúc đã thay quần áo khô, có lẽ không còn điều gì đáng ước ao hơn thế. Tay Phon nhiều lúc đặt trên cán dao bên thắt lưng. Một đùi bò, một xị rượu…”.
Bóng dáng chiến tranh trong hầu hết các truyện ngắn của Y Uyên là sự chập chờn qua dòng suy nghĩ, là lời kể lại, là nhìn thấy một sự khôi hài rất khôi hài, ví như chính trong truyện này, anh đã mô tả lại cảnh cãi nhau giữa hai thiếu uý ngồi trên xe “díp” và những người ngồi trên chiếc M113 ở giữa cầu, để anh lính gác cầu là: “Phon ngẩn ngơ nhìn theo, nghĩ thầm:
-Mỗi ngày gặp một vụ như vậy có khi đỡ sầu”.
Người lính gác cầu buồn vì xa làng, xa bạn, xa những cuộc nhậu, đêm ngày chỉ quanh quẩn bên chiếc cầu dài hun hút, nhìn tấm bảng quay qua, quay lại, nhìn đoàn người xe qua lại một chiều như thể khắc trong đầu anh nỗi buồn thật sự. Đó là những tai ách làm anh và đám bạn anh phải xa nhau, phải buồn.Và rất hiếm hoi, anh mới có chút hăm hở để thấy mình thật sự là mình như từ trước khi vào nghĩa quân:
“Nắng lộ dần trên các vòm cầu. Cánh cửa đóng im ỉm ở đầu nhà ga bật mở. Người con gái sang ngủ ngày với Trưởng đồn nắm chiếc khăn tay đi ra, bước lên một chiếc xe Lam-bét-ta. Phon nắm một con dao, bước xuống bờ sông” (THCNGC)
Đó là mấy dòng cuối cùng của truyện Tiếng Hát Của Người Gác Cầu khép lại một cách lạnh lùng, bình thản như chiến tranh bình thản đi qua trên mỗi số phận, mỗi cuộc đời.
Và rồi khi Đành ở lại xã, đôi bạn nghĩa quân nhớ nhau, Đành đã lên quận tìm Phon đang đứng gác dưới mưa. Mẫu đối thoại giữa đôi bạn thân thật ra không có gì đặc biệt đáng lưu tâm, nó vô vị nhạt nhẽo như nhận xét của nhiều người, đôi lúc có cảm tưởng như anh cố tình kéo dài ra lấp đầy trang. Mẫu đối thoại không đâu vào đâu, không ăn nhập gì tới sự nhớ thương nhau cả:
“Phon giơ tay vẫy, chân bước sang mạn cầu bên kia chờ bạn. Đành hất mặt lên cười với bộ mặt bóng nước.Hắn đạp xe lên, dừng trước mặt Phon, chân phải đặt trên đường dành cho bộ hành.
-Mạnh giỏi mầy?
-Mạnh. Có chuyện chi đó?
-Có chuyện chi đâu.
-Rảnh chuyện vậy na.
-Ờ, tụi tao mà.
Phon sờ vào chiếc áo lụng thụng của bạn:
-Tụi mầy xếp thiệt.
Đành liếm nước quanh môi, nghe những tiếng súng từ vùng núi đầu sông vọng xuống.
-Vậy là đỡ rồi. Chỉ còn có hai tháng nữa mầy đã có lương.
-Bữa đó tao gắng xin về gặp tụi mầy. Nghe nói sau bữa tao đi thằng Năm có chuyện với tụi mầy.
-Nó thông cảm rồi. Bữa thằng con nó chết nó cũng mời tụi tao lại nhậu. Con nó chết được hơn tháng.
-Thiệt tội
-Thằng Thấu nói hay quá nó cũng đỡ sầu.
-Ờ Thấu…
Một chiếc xe ríp phóng vụt qua, Phon quay mặt ra thành cầu
-Cấm nói chuyện trên cầu?
-Cấm.
Đành ngó trước ngó sau rồi vòng xe trở lại:
-Vậy tao về.
Phon dựa lưng vào thành cầu:
-Tao có lời thăm Thấu”
(Tiếng Hát Của Người Gác Cầu).
Chịu khó đọc lại mẫu đối thoại trên lần nữa, ta thấy dường cái vô vị nhạt nhẽo dẫn dần trôi ra khỏi trí óc khi Đành nói “Vậy tao về”. Bình thường, giản dị, cứ y như ta nghe hai người nói chuyện ngoài đời chứ không phải nói trong văn chương. Vậy mà Y Uyên bê vào nguyên xi để ta cảm được cái tầm thường của những người nông dân, ngoài chuyện nghĩ đến ăn nhậu, miếng cơm manh áo, chuyện lo sợ nơm nớp tai hoạ của chiến tranh đổ xuống, nó còn toát lên cái tình, tình bạn chân thành, không giấu giếm, úp mở, khách sáo… và một sự chịu đựng ghê gớm của tầng lớp nông dân đang chạy loạn ở miền duyên hải Trung phần “Vậy tao về” rõ ràng không phải là sự hờn dỗi. Câu nói tầm thường này là cả một sự dàn trải về lòng nhẫn nại, cam chịu, nhịn nhục xuyên suốt toàn bộ cốt truyện. Cái khó chịu trong phong cách sử dụng chữ nghĩa của Y Uyên là chỗ đó, đồng thời nó tạo cho anh có một bút pháp riêng biệt, không giống ai. Nói như nhà văn Võ Phiến, thì: “Giữa một văn đàn náo nhiệt, Y Uyên, kẻ nhỏ tuổi nhất, lại nhỏ nhẹ, bình tĩnh, kín đáo. Y Uyên như thể không bao giờ chịu nói hết lời. Chỉ có chuyện băng ngang qua một quãng đồng dưới nắng rồi ngồi lại duỗi cẳng cho con bú, chỉ có xách Solex đi thăm cô bạn cũ một ngày mưa mù, chuyện vãn lai rai rồi chiều lại xách xe về, vậy mà người đọc đọc xong, buông cuốn sách xuống, ngồi lặng lờ, thấy nhạt cả mồm, thấy ngao ngán. Đời không là thành sầu bể khổ gì ráo, đời không phi lý không hữu lý gì cả, không làm ai buồn nôn lợm giọng gì cả …
Nhưng cuộc sống sao mà … nhếch nhác một cách … "tự nhiên", làm ta rùng mình. Một nỗi buồn nhẹ nhàng cứ lặng lẽ thấm dần, liễm dần vào hồn ta như mưa bụi lặng lẽ thấm ướt cảnh vật một chỗ quận lỵ .
Truyện để lại một âm vang xúc động tựa như thơ.
Cái ma lực của một phong cách văn chương. Ghê thật ."
(Võ Phiến, Văn Học Miền Nam, trg 1856, NXB Văn Nghệ, Hoa Kỳ 1999)
26 tuổi với 7 tác phẩm đã được đón nhận như một nhà văn có cá tính, chân tài đã gây xúc động cho biết bao độc giả yêu mến anh, bạn bè anh, người thân khi anh nằm xuống bên dòng suối dưới chân núi Tà Dôn. Và, 35 năm sau, kể từ ngày anh bỏ bạn bè, rong chơi ở cõi vĩnh hằng, đọc lại những truyện anh viết về một thời loạn lạc, tôi vẫn thấy sự loạn lạc ấy chưa hề chấm dứt như điều anh từng ước mơ “chiến tranh mẹ gì mà lâu dữ vậy?”. Vâng, “Quê Nhà” anh vẫn chưa thật bình yên, mọi người ở quê nhà vẫn là hình bóng con Ngựa Tía của anh…

l’ Aveyron , tháng 11-2004

24/5/10

Tự tình khúc

Tự tình khúc -
Tác giả: Du Nguyên


"Tự tình khúc" chính là tự khúc của Khánh Ly, của tôi, của một ai đó... Thỉnh thoảng nghe những nốt nhạc kia, bất giác ta nhận ra nỗi buồn đang kéo con người ta nhích chân lại với nhau ...

Lại về với Hà Nội của phố, ngồi yên trong chòm ngõ tháng Tư. Lại về trong những hẻm nhớ, con nghách dài li ti... để nghe nỗi buồn khô queo, tỉnh thức úp mở những điều xiên xẹo...

Rồi cuối cùng tháng Tư cũng đến. Năm nay, tôi chẳng có cái gì cho người ngoài lời tạ ơn muộn mằn khi giấc mơ vừa héo quắt.

Những ngày tháng Tư, hai vai mệt mỏi, muốn về trong những du khúc của ông, nghe niềm mục ruỗng hát ngêu ngao trên những tháng năm tật nguyền. Ai đó nói rằng khi buồn, người ta dễ chạm lòng nhau. Tôi đang hát, bài hát Trịnh, ngày chủ nhật buồn trôi trên phím măng...

"Tôi như trẻ nhỏ ngôi bên hiên nhà

chờ nghe thế kỷ tàn phai

Tôi như trẻ nhỏ tìm nơi nương tựa

mà sao vẫn cứ lạc loài"

Tôi đang nghe Khánh Ly kể chuyện đời Trịnh bằng giọng nhỏ nhỏ, đều đều. "Tự tình khúc" ấy cũng chính là tự khúc của Khánh Ly, của tôi, của một ai đó... Thỉnh thoảng nghe những nốt nhạc kia, bất giác ta nhận ra nỗi buồn đang kéo con người ta nhích chân lại với nhau...

Mà sao ta vẫn cứ lạc loài, bơ vơ? Mà sao ta vẫn cứ như năm tháng, phai dần, phai dần? Muốn trở về hình hài một đứa trẻ cầm ngọn cỏ gà rong chơi, ngồi hát nhịp điệu một hai ba bốn năm nhưng rồi chỉ có thể ngồi bên hiên nhà ngồi nhìn thế kỉ tàn phai đi mà thôi. Tuổi ta buồn như gió, Trịnh nhỉ?

"Tôi như là người lạc trong đô thị

một hôm đi về biển khơi

Tôi như là người một hôm quay lại

vì nghe sa mạc nối dài"

Đôi khi mọi thứ tựa hồ như tiếng thở dài. Đôi khi bước chân mình nghi ngại bước chân. Lại về với sự cô đơn cố hữu, ngồi rệch rạc tỉ mẩn từng điều không ai hiểu. Như là người đi lạc quá lâu rồi.. Ồn ào phố thị, ru mình bằng những bước chân chuếch choáng hơi say.

"Đừng nghe tôi nói lời tăm tối

Đừng tin tôi nhé vì tiếng cười

Đôi khi một người dường như chờ đợi

thật ra đang ngồi thảnh thơi"

Cớ sao Trịnh lại gõ những dòng như thế này để tôi ngồi khù khờ cả tháng Tư khô? Để tôi tự hỏi ranh giới giữa những điều kia là gì nếu không phải là trống rỗng? Mà gõ gì gõ ma mị, người nghe cũng ma mị theo cái tự tình khúc gầy rạc kia? Đôi khi tôi rơi vào trạng thái đó, những ngày nối dài lếch thếch lổ loang, tôi không hiểu lòng mình, chẳng hay lòng người. Mọi thứ cứ mỏng manh giữa những được mất, buồn vui... Có những ngày nỗi buồn mốc xì như xí muội sắp đến ngày hết hạn sử dụng vì chờ đợi một điều gì đó như là vui ca. Nhưng rồi một ngày, bất giác tự hỏi chính mình đang làm cái gì? Ở đây để làm gì? Chờ đợi cái gì thế kia? Và rồi mọi thứ nhẹ tênh hênh đi bao nhiêu mùa vợi gió. Vì đợi chờ quá lâu rồi nên ta quên mất mình là người đợi. Vì chẳng còn điều gì quan trọng cả nữa rồi nên ta quên mất mình đã từng là một phần thân thể của người khác.

Nên nếu một ngày thấy khuôn mặt tôi không giống màu kí ức, phẳng lặng mà tênh buồn thì đừng nghĩ rằng tôi đang rơi vào những ngày tuyệt vọng nối dài. Chỉ là muốn bỏ đi thật xa mà thôi. Chỉ là giống một hôm "buồn lên núi nằm xuống" mà thôi.... Vì "đôi khi một người dường như chờ đợi. Thực ra đang ngồi thảnh thơi" .. Thảnh thơi lắm, ôi những khuôn mặt lơ khơ như cỏ mục. Ta đây cười, ngô nghê như đá phiếm du...

"Tôi như là người ngồi trong đêm dài

nhìn tôi đang quá ngậm ngùi

Một hôm buồn ra ngắm dòng sông

Một hôm buồn lên núi nằm xuống"

Tôi không biết trong đời sống kia, có điều gì ca vui như là tiếng thở, như là lời chia tay? Như là một ngày thấy mọi thứ rời rạc, đổ nát, người chán ngán nhìn bức tường mình xây loang lổ bấy lâu? Như là lúc ta và người, cười cong cả kí ức mà chẳng nhớ nổi dáng hình của nhau? Môi này, mắt này, tóc này, gì nữa... ta vô ưu quên mất mà người thì bộn bề chẳng thể mang theo.

Có những đêm dài như là sự sống, bùi ngùi hát một câu ta yêu cuộc đời mà nghe mình xa lạ? Ta yêu người bao nhiêu? Ta yêu mình bao nhiêu? Đủ dài lâu năm tháng không? Sao ta thấy mỏi mệt với thứ tình yêu thương mục ruỗng đó thế? Chỉ muốn mang cả hình hài này, ngồi dưới chòm cây dại, cạnh bờ sông vô thường, chảy mãi, chảy mãi...

"Tôi đi tìm ngày tìm đêm lâu dài

một hôm thấy được đời tôi

Tôi yêu mọi người cỏ cây muôn loài

làm sao yêu hết cuộc đời"

Tôi cứ đi tìm thế, tìm gì chẳng biết. Người cũng đi, xa hơn tôi, lâu hơn tôi, tìm gì chẳng hay. Chẳng ai biết mình sẽ đi về đâu cả cho tới một ngày nhận ra phận đời "treo tình trên chiếc đinh không" chênh vênh bao mùa gió côi cút. Này thì địa đàng, này thì âm u, này thì yêu thương, này thì rã bóng, ta đi bước lẻ, đi bao mùa mới tới ?

"Tôi như đường về mở ra đô thị

chờ chân thiên hạ về vui

Tôi như nụ cười nở trên môi người

phòng khi nhân loại biếng lười

Thì thôi, tôi xin làm đường chỉ tay mới nằm trong lòng bàn tay người nhìn nhân loại hát ca vào hội. Thì thôi, chỉ xin làm một nụ cười thật khẽ an yên rơi trên môi muộn phiền, phòng khi một ngày cuộc đời im lìm như bóng tối, hoa hạnh ngộ héo queo... Thì thôi, thôi nhé, chỉ xin một lần được làm sợi tóc dính trên ngày gió đi hoang, rong chơi khắp nơi nhặt nhạnh nụ cười. Vì có những ngày quá buồn rồi mà...

Tìm tôi đi nhé đừng bối rối

Đừng mang gươm giáo vào với đời

Nếu lúc nào đó người chạm vào mà không thấy ai thì tôi đã thành kiếp gió, buồn vui hội ngộ cùng sương, vì tôi đã biến thành bụi, tan theo những dấu hài rồi... Tìm ta nhé, sau hàng mi của tuổi, mang ta về lại cuộc đời, cho ta ngửi mùi thơm của cỏ cây và nhận ra cuộc đời này hiền lành như đất. Tìm ta và nói khẽ rằng này em, hãy cứ yêu đi dù "đời vắng bóng ai, đời vắng bóng ai", em mệt nhoài...

Còn tôi bây giờ, chỉ như câu hát phờ phạc kia mà thôi, Trịnh à:

"Tôi như ngọn đèn từng đêm vơi cạn

lửa lên thắp một niềm riêng

Tôi như nụ hồng nhiều khi ưu phiền

chờ tôi rã cánh một lần"

Đọc lại Kỷ Vật cho Em

Đọc lại Kỷ Vật cho Em (*)
Nguyễn Lệ Uyên
20.05.2010



Trước và sau thập niên 70, chiến tranh Việt Nam bùng phát dữ dội và đó cũng là hệ quả tất yếu khiến hàng hàng lớp lớp thanh niên, sinh viên học sinh đến tuổi phải từ giã sự nghiệp, sách vở, giảng đường để tham gia cuộc chiến với nhiều cách khác nhau. Đó cũng là thời gian xã hội miền Nam có nhiều biến động nhất: chiến tranh lan rộng sâu tận thành phố, những cuộc biểu tình lớn nhỏ dưới nhiều chiêu bài, khuynh hướng hỗn tạp, đã ít nhiều làm cho thanh niên tỏ vẻ hoài nghi về những hoài bão, lựa chọn của mình. Và chính sự khủng hoảng chính trị, xã hội dẫn tới một hiện tượng không thể phủ nhận: văn đàn miền Nam xuất hiện những khuôn mặt trẻ đầy bất ngờ, mới mẻ, phần nào làm mới sinh khí văn chương vốn dĩ bị che mù bởi dòng văn học hiện sinh, bị lấn át bởi những đàn anh tên tuổi. Đó là những Phạm Thiên Thư, Nguyễn Tất Nhiên, Nguyễn Bắc Sơn, Trần Hoài Thư, Hoàng Ngọc Tuấn, Y Uyên, Vũ Hữu Định, Trần Thị Ngh… Công chúng, nhất là giới trẻ đã đón nhận họ như đón nhận một luồng gió mới, một sinh khí mới trong dòng văn học miền Nam.

Thật ra luồng gió hay sinh khí mới kia cũng chẳng có gì lạ. Họ, những người trẻ viết văn, làm thơ không mang kiểu cách buồn nôn, chán nãn xa lạ mà, họ viết bởi cảm xúc chân thật bắt nguồn từ những gì xảy ra chung quanh, gắn liền với tình cảm, đời sống: một chút nhớ nhung về mối tình thời trai trẻ “anh theo Ngọ về/đường mưa nho nhỏ” hay một chút giận dỗi “nghe nói em vừa thi rớt Luật/môi trâm anh tàn héo nụ xa vời…rớt đi Duyên, rớt để thương người”. Và lắm khi là ngông nghênh, ngang tàn của người “lính thư sinh” sau những lần hành quân “mai ta đụng trận ta còn sống/về ghé sông Mao phá phách chơi/chia sớt nỗi sầu cùng gái điếm/đốt tiền mua vội một ngày vui” và “xin cảm ơn một mái tóc mềm/mai xa lắm trên đồn biên giới/còn một chút gì để nhớ để quên”. Và một tiếng kêu não lòng, xé ruột của Y Uyên: “chiến tranh mẹ gì mà lâu dữ vậy?…

Những tâm tình bùi ngùi như thế lại được âm nhạc tiếp sức, đẩy lên một bậc khiến giới công chúng càng yêu thích luồng gió mới kia nhiều hơn.

Rồi theo trào lưu thơ phổ nhạc ngày càng thịnh hành, bất ngờ công chúng lại được nghe trên đài phát thanh Sài Gòn, trong các phòng trà đô thành, các quán cà phê: “em hỏi anh, em hỏi anh bao giờ trở lại…xin trả lời mai mốt anh về… anh trở về có khi là hòm gỗ cài hoa…” khiến mọi người ngơ ngác hỏi: Linh Phương, tác giả bài thơ, là ai vậy? Hắn trong bưng làm thơ địch vận hay trong nhóm phản chiến? Thần hồn và tứ trong bài thơ cứ bình-thản-nức-nở, bình-thản-nghẹn-ngào, coi như không có gì ghê gớm. Rồi khi cái tứ đó đi qua những cung bậc cao thấp của nhạc sĩ Phạm Duy, cộng với chất giọng của Thái Thanh lại cảng run rẩy, thê thiết hơn. Những năm tháng ấy, kẻ viết bài này chỉ mới là anh sinh viên trong giảng đường, tình cờ đọc trên tờ nhật báo Độc Lập đã thoáng giật mình! Càng giật mình hơn khi được biết Linh Phương viết bài Kỷ vật cho em trong lúc đang hành quân ở Chương Thiện khoảng đầu năm 1970! Trong khi đó, những người bạn tôi đang có mặt trên khắp bốn vùng chiến thuật lại cười ha hả từ những kbc có con tem anh chiến binh bồng súng xông tới, phong bì lấm lem bùn đất, sờn rách: “… mình chắc mẩm hắn cũng là lính. Hắn mô tả tâm trạng, hoàn cảnh sao đúng hoàn cảnh tụi mình quá trời. Mai mốt tụi mình có về trên đôi nạng gỗ có về hòm gỗ cài hoa hay trên trực thăng sơn màu tang trắng… thì các cậu chớ có ngạc nhiên, chớ có buồn! Đời trai chinh chiến mấy thằng sống sót trở về?”. Mấy câu ngắn ngủn kia mãi ám ảnh tôi. Ám ảnh bởi vẻ lạc quan, coi sống chết như chuyện có không của người bạn. Mà hắn đâu để mắt tới Ngũ uẩn giai không, hắn đâu biết gì về tâm kinh đâu ảnh hưởng gì về triết học Phật giáo? Chẳng qua khi đối mặt quá nhiều với cái chết, luôn rình rập bên cạnh, không báo trước thì con người ta chẳng còn buồn để ý đến nó? Cứ chờ đón nó một cách thản nhiên như trong bài thơ Kỷ vật cho em của Linh Phương.


Vào độ tuổi ra trận mạc ấy, hẳn ai cũng có người yêu, chí ít cũng em gái hậu phương, thản hoặc một Dạ Lan từ trời cao thầm thì, chia sẻ với các anh mỗi đêm. Ấy vậy nhưng khi em của Linh Phương hỏi: Em hỏi anh bao giờ trở lại thì nhà thơ cứ thẳng đuột trả lời mai mốt anh về, có thể bằng nhiều cách về khác nhau:

…Anh trở về hòm gỗ cài hoa
Anh trở về bằng chiếc băng ca …
…Mai trở về bờ tóc em xanh
Vội vã chít khăn sô vĩnh biệt …
…Mai anh về trên đôi nạng gỗ
Bại tướng về làm gã cụt chân …

Về bằng con đường nào thì thân thể thế hệ các anh không còn nguyên vẹn như lúc ra đi. Họ đã chắc chắn như vậy, nên chi cứ tạo một tâm thế trong những tình huống khắc nghiệt để em chuẩn bị đón nhận những bất toại trong cuộc sống chỉ có khói lửa trước mặt!


Những tình huống Linh Phương đặt ra trong bài thơ là sự thường tình, vì tự cổ kim các tình huống đó đã đến với mọi chiến binh, như trong Lương châu từ của Vương Hàn:

…Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu
Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi?

Nhưng sự “không trở về” của người xưa có vẻ nhẹ nhàng, thanh thản còn với Linh Phương thì lại ưu uất, dằn xé tâm can:

Thì thôi! Hãy nhìn nhau xa lạ
Em nhìn anh ánh mắt chưa quen
Anh nhìn em anh sẽ cố quên
Tình nghĩa cũ một lần trăn trối.

Một sự chia cắt bi thảm, không phải lỗi ở nơi hai người, anh và em gây ra, mà chỉ vì một viên đạn màu đồng và hàng triệu viên đạn vô tình hay cố ý như thế trong giai đoạn máu lửa kinh hoàng bất ngờ găm thẳng vào ngực, từ những tranh chấp về chủ nghĩa và quyền lực điên cuồng!

Những bài khác trong tập Kỷ vật cho em, giọng điệu thì bớt đi vẻ đau xót, bi thương nhưng những cách nhà thơ đưa hiện tượng cuộc sống vào thi ca, thì bức tranh nguyệch ngoạc kia lại có vẻ tàn nhẫn hơn nhiều, dưới những góc cạnh khác nhau trong xã hội chiến tranh. Chất thơ bớt đi vẻ nồng nàn sâu lắng, nhường chỗ cho loại ngôn ngữ kể sắp lớp, như thể buổi sáng thức dậy đi ngang qua quảng trường, bổng thấy người ta trưng bày xác quân địch cụt đầu, mất chân, ruột gan phơi tràn ra ngoài… với một cảm giác buồn nôn, ớn lạnh:

Có người vợ nào không tủi thân
Trước giờ sinh đẻ
Được tin chồng nằm xuống
Trận Đakto-Đồng Xoài-Bình Giã
Đức Cơ-Phủ Cũ-Tam Quan
Có người mẹ nào không tủi thân
Khi đứa con đầu lòng mở mắt
Đã để tang cho bố.

(Làm vợ người cầm súng)

Càng kinh khủng hơn nữa, khi nàng góa phụ đã chấp nhận mọi cái giá phải trả, thì sợi dây cuối cùng còn lại của tình yêu giữa chàng và nàng là đứa con trai đầu lòng. Hẳn rằng đứa con trai ấy còn rất nhỏ, chưa biết giận hờn, chưa biết yêu ghét, đầu óc sáng trưng như tờ giấy trắng. Vậy nhưng, vì những tai ách giáng xuống, khiến nàng mất tất cả, đến nỗi ngày sinh nhật con nàng phải tặng:

Mẹ cho con viên đạn AK còn ngời sáng
Mẹ cho con quả lựu đạn M.26 còn thơm mùi thép mới tinh
Mẹ cho con mảnh mìn Claymore nằm trong lồng ngực bố
vừa chết trận U Minh
Con ơi con!

(Cho đứa con trai đầu lòng)

Trên đời này hiếm có người mẹ nào hành động như vậy. Rất có thể người mẹ giữ được tất cả các vật dụng vũ khí gây chết chóc kia, nhưng hành động và thái độ tặng cho con những thứ giết người dã man ấy, nhân ngày sinh nhật, thì không hẳn là hận thù chồng chất lên mãi. Nó mang tính chất tố cáo nhiều hơn. Cách dàn trải ngôn ngữ liệt kê như trên, nhà thơ chỉ muốn phơi bày bộ mặt thật, tàn nhẫn của hậu quả chiến tranh. Đó là tiếng gào bi thống, là sự phản kháng không cân sức giữa một góa phụ hay nhiều góa phụ với chiến tranh. Họ biết rõ họ không thể ngăn được cuộc chiến dừng lại, họ cũng không đủ sức trả thù. Và sự trả thù ngọt ngào nhất là sự phản kháng bằng những hành động tưởng chừng phi nhân bản, nhưng kỳ thực đó là tiếng kêu bi thương của loài người đang đứng bên bờ vực hủy diệt, tàn sát phi nhân.

Tâm trạng não nề, chán ngán của tầng lớp thanh niên, trí thức thời kỳ ấy như một đám mây u ám, cứ vần vũ mãi trên bầu trời, che lấp khoảng không gian không xanh, không hồng. Họ chán ngán bởi cuộc chiến kéo dài khủng khiếp, tranh chấp triền miên. Họ tuyệt vọng bởi ngày nối tiếp năm là bom rơi đạn nổ, sự bình yên, niềm hạnh phúc như một miền mơ ước không bao giờ có thực: “Đại bác đêm đêm dội về thành phố, người phu quét đường dừng chổi đứng nghe…”.

Hệ lụy của những tháng năm khói lửa triên miên là thái độ buông thả, thất vọng. Họ hối hả sống, hối hả yêu, hối hả bấu víu mỗi sáng thấy thân thể còn nguyên vẹn:

Tuổi trẻ tôi biết yêu và yêu rất vội
Sợ không kịp yêu đến ngày mai
Sợ chiến tranh còn dài
Đời người thì quá ngắn

(Giấc mơ màu đỏ)

Ngày xưa một mình chàng Kinh Kha qua sông Dịch với con chủy thủ trên tay và vĩnh viễn không quay lại điểm xuất phát! Ngày nay, hàng ngàn Kinh Kha qua hàng trăm sông Dịch như thế với nỗi băn khoăn ồn ào, hy vọng và thất vọng trộn lẫn. Thoắt một cái đời thư sinh chuyển thành đời chiến binh, rồi phế binh: buổi sớm mai anh thay áo học trò/buổi sớm mai anh mặc đồ nhà binh, chỉ một tích tắc, một chớp mắt chuyển dịch! Vậy là:

Thôi trước ngày anh vào lính
Hãy ngủ cùng em đêm nay lần cuối cùng
Hãy dã man trên thân thân thể con gái còn đẹp

(Trước ngày anh vào lính)

Chuyện dã man trên thân thể con gái còn đẹp giữa em và anh trước ngày anh vào lính không phải là vấn đề tình dục, không phải là sự trao đổi thân xác thông thường hay tệ hơn là bán buôn, mà chính là vội vã tranh cướp lấy đời sống ngắn ngủi bởi cảnh ngộ đẩy đưa, bởi sống-chết khó lường/chỉ cần tích tắc.

Phải sống mãi trong những hoài nghi, thất vọng… cũng có lúc lóe lên chút niềm tin, hy vọng. Họ tin ngày mai sẽ có hòa bình, ngày mai tiếng súng sẽ im, sẽ mở ra những viễn tượng tươi sáng trên quê hương. Họ, những chàng tuổi trẻ vốn dòng hào kiệt sẽ nghĩ gì, làm gì trong những ngày tươi đẹp mai sau?

Một ngày mìn định hướng không đặt
Lựu đạn không gài
Máy bay không bỏ bom
…Tôi vui mừng như lần cắp sách đến trường.

Nhưng đó mới chỉ là một ngày tạm yên tiếng súng. Còn mai kia, nếu hòa bình sẽ đến trên quê hương khốn khổ này thì sao? Và Linh Phương đã vẽ ra:

Ngày với chuyến tàu suốt từ Sài Gòn ra Hà Nội
…Ngày em hân hoan mặc áo dài dạo phố
Ngày em hân hoan ngồi trong rạp Rex xem phim lãng mạn ái tình …
…Ngày tôi không còn mặc đồ quân nhân ở nhà nuôi vợ đẻ.

(Trong ngày hòa bình)

Câu thơ như câu nói giữa hai người với nhau. Chất thơ mất đi và thay bằng ngôn ngữ đời thường để tỏ bày một ước vọng nhỏ nhoi, như thể tiếng kêu cứu của những kẻ bị đắm tàu giữa biển khơi mênh mông, trùng trùng sóng dập!

Đó cũng là khuynh hướng chung của những người làm thơ trẻ thuộc thế hệ anh. Những Nguyễn Bắc Sơn, Vũ Hữu Định hay Đinh Trầm Ca, Nguyễn Dương Quang… đều có cùng một tâm trạng như vậy, và bày tỏ niềm hy vọng, mơ ước mong manh như vậy, để cuối cùng chút ánh sáng ở cuối đường hầm vẫn cứ lùi xa tít và tắt ngấm đâu đó trong các trận chiến ngày càng tàn khốc hơn.

Hỡi hòa bình lạ mặt yêu dấu
Sao người cứ kiêu hãnh như giai nhân
Hoài hoài lỗi hẹn
Khi tuổi xuân chúng tôi chỉ có một lần
Làm sao chờ được trăm năm
Mà đến trăm năm còn gì xương máu anh em

(Hà Thúc Sinh – Xin hãy đến Hòa Bình)

Cảnh chiến tranh tàn khốc đã biến các nhà thơ trẻ thành những người cà khịa, ngông nghênh, bất cần đời nhuốm chút ngang tàng dễ thương, trở thành những bài thơ khẩu khí, ví như Nguyễn Bắc Sơn:

Bốn chuyến di hành một ngày mệt ngất
Dừng quân đây nói chuyện tiếu lâm chơi
Hãy dựa gốc cây hãy ngắm mây trời
Hãy tưởng tượng mình đi picnic
Kẻ thù ta ơi các ngài du kích
Hãy tránh xa ra đừng chơi bắn nheo
…Lúc này đây ta không thèm đánh giặc.

(Nguyễn Bắc Sơn – Chiến tranh Việt Nam và tôi, nxb Đồng Dao, SG 1971)

Họ ăn nói, sử dụng ngôn ngữ thơ một cách thoải mái tự do, như giỡn như đùa, không vì chính kiến, không lý tưởng này nọ mà nếu như ở một thể chế khác, các nhà thơ không thể có gan trời như thế!

Còn một Phan Xuân Sinh thì:

Hãy rót cho ta thêm cốc nữa đi
Ngồi với bạn hôm nay làm ta hứng chí
Chuyện ngày mai có chi đáng kể
Dẹp nó đi cho khỏi bận tâm
Thằng lính nào mà không rét lúc ra quân
Khi xung trận mà không té đái
…Uống với bạn hôm nay ta phải uống thật say
Để không phải còn nhìn nhau hận thù ngun ngút

(Phan Xuân Sinh – Uống rượu với người lính Bắc phương)

Có trời mới giải thích tại sao người lính Bắc phương lại dám ngồi “đối ẩm” với người lính phương Nam? Họ đã nhận ra điều gì trong những ngày điên cuồng bắn nhau? Họ đã nhận ra điều gì trong câu khẩu hiệu: “Nhắm thẳng đầu thù mà bắn”. Là anh em với nhau rồi sao? Là máu mủ ruột thịt rồi sao? Hay là chiến tranh làm họ mệt mỏi, buông xuôi là hệ lụy của một thái độ, một chọn lựa từ ý thức trong sạch?

Có thể đó là thái độ bất cần. Nhưng thái độ bất cần đó đâu hẳn là tính vô kỷ luật trong quân đội? Cũng chưa phải là tinh thần phản chiến đang bắt đầu nhẩn nha, đậm đặc trong đầu óc họ? Mà chỉ là sự bày tỏ cách nhìn, cách nghĩ của tuổi trẻ về cuộc chiến tranh quái gỡ phi lý kia. Tuổi trẻ Bắc Nam can cớ chi mà thù hận nhau? Tôi nhớ man máng một truyện ngắn của Lê Văn Thiện trên tạp chí Bách Khoa trước 75, có tựa “Xuất ngoại bằng trực thăng võ trang” có đoạn viết đại ý: Không biết quốc vương Shihanouk có ngồi ỉa như tụi mình?… Sao cứ bắt ra trận đánh nhau hoài? Muốn tranh bá đồ vương thì lãnh tụ hai bên chọn bãi đất đẹp, hai người tha hồ quần thảo, kẻ thắng thì được, ai thua thì mất hết. Sao lại bắt dân đen phải hứng chịu?

Nếu chỉ có vậy thì đâu có E.M. Remarque, đâu có E. Hemingway hay một P. Gallico với những tác phẩm viết về chiến tranh hay đến vậy? Và nếu như thế thì làm gì có một Phan Nhật Nam với Mùa hè đỏ lửa, Thế Uyên với Tiền Đồn, Y Uyên với Bão Khô, Bảo Ninh với Nỗi buồn chiến tranh hay một Kiều Mỹ Duyên với Chinh chiến điêu linh…?

Chiến tranh thật quái gở, bởi không do nhân dân chọn lựa, không phát khởi từ ý thức của nhân dân, mà từ những chủ nghĩa quái gở, từ những quyền lợi của kẻ cả khống chế.

Nhìn nhận được chỗ phi lý kia, lớp người trẻ tuổi bị bắt buộc tham chiến bắt đầu chửi đổng. Chỉ là chửi đổng sau những cuộc hành quân, chửi đổng trong mấy ngày phép được về thành phố… và rồi bật ra những câu “không thể tha thứ” đối với quân kỷ, chủ nghĩa…

Dăm thằng đánh trận. Dăm thằng chết
Chỉ sót mình ta cứ sống nhăn
Đù má nhiều khi buồn hết biết
Lo mãi sau này cụt mất chân
Mấy tháng hành quân chưa ngơi nghỉ
Tóc tai dài thượt giống người rừng
Kinh Kha vác súng qua Dịch thủy
Thề chẳng trở về với tay không
Chiến hữu ta toàn dân thứ dữ
Uống rượu say chửi đổng dài dài
Bồ bỏ. Tức mình xâm bốn chữ
“Hận kẻ bạc tình” trên cánh tay
Chiều qua sém chết vì viên đạn
Du kích bên sông bắn tỉa hù
Cũng may gặp phải thằng cà chớn
Thấy mặt ta ngầu bắn đéo vô
Nhớ hôm bắt được em Việt Cộng
Xinh đẹp như con gái Sài Gòn
Ta nổi máu giang hồ hảo hán
Gật đầu ra lệnh thả mỹ nhân
Mai mốt này đây ra trận tuyến
Gặp ta em bắn chớ ngại ngùng
Cuộc chiến đâu dành cho nhân nghĩa
Đời nào đạo lý với bao dung

(Hành quân)

Trích trọn bài, bởi tôi nghĩ, đây là bài thơ hay nhất, tiêu biểu nhất của Linh Phương, và có thể là tiêu biểu cho cả thế hệ anh trong cuộc chiến tranh không có lối thoát. Hẳn nhiên sẽ có người không đồng tình theo cách nghĩ của tôi, vì trong hàng ngàn bài thơ của hàng trăm nhà thơ thời kỳ đó cũng hay, cũng tiêu biểu? Đồng ý. Tuy nhiên cái hay cái tiêu biểu của những bài thơ kia là những cảm xúc, những phơi bày ở khía cạnh khác; trong khi Hành quân, linh Phương đã phác họa thành công khuôn mặt méo mó của thế hệ anh, đầu óc méo mó với cái nhìn cũng méo mó và chân thực không kém của hàng triệu người hai bờ Nam Bắc phải cúi đầu, nén lòng cầm súng.

kyvatchoem THT cover

Hình bìa Kỷ Vật Cho Em (Thư Ấn Quán tái bản năm 2006)

Nơi xứ người giá rét, đọc được tập thơ này, bỗng nhói đau một thời kỳ đen tối hiển hiện trước mặt và không thể dằn lòng, bèn thốt lên vài tiếng, vẽ vời vài dòng về Linh Phương về tuổi trẻ và chiến tranh Việt Nam kéo dài, tàn phá mọi nhân phẩm đạo đức, đảo lộn mọi trật tự xã hội suốt hai mươi năm trời: Hai mươi năm nội chiến từng ngày. Và để lại một gia tài “di căn mụt nhọt” cho nhiều thế hệ tiếp theo!

(Seatle, đầu đông tuyết phủ mịt mù)

NLU

(*) Linh Phương – Kỷ vật cho em, Thư Ấn quán tái bản, 2006
bài đã đăng của Nguyễn Lệ Uyên

* Đọc lại Kỷ Vật cho Em (*) - 20.05.2010
* Miền Không Dấu Chân Người - 14.05.2010

4 bình luận »

* Phan Đức viết:

Bài viết của Nguyễn Lệ Uyên về văn nghệ miền Nam 1954-1975 khá hay tuy nhiên tác giả đã
“trật đường rầy” khi đem vào bài thơ của Phan Xuân Sinh.Theo chổ tôi biết,PXS.là một người
mới viết sau 1975,thậm chí viết muộn từ sau năm 1990,sau khi tác giả qua Mỹ.
Như vậy,không hiểu tại sao Nguyễn Lệ Uyên lẫn lộn người viết trước và sau thế này nhỉ ,khi
bài viết chủ ý nói đến thời kỳ trước 1975 ?
- 21.05.2010 vào lúc 11:05 pm
* nguyễn Lệ Uyên viết:

Thưa anh Phan Đức,
Cảm ơn anh đã chỉ ra chỗ “trật đường rầy” khi dẫn bài thơ của Phan Xuân Sinh. Vâng, đúng! Có thể Phan Xuân Sinh bắt đầu viết khi định cư ở Hoa Kỳ. Tuy nhiên, cả bài thơ Uống rượu với người lính Bắc phương lại là bối cảnh trong thời chiến tranh Nam-Bắc Việt Nam mà Phan Xuân Sinh đã từng “sống”. Lại nữa, người cầm bút có thể viết ngay những gì mình chứng kiến, cảm xúc… Và đôi khi những cảm xúc phải đợi đến 10 năm thậm chí 20 năm sau mới lắng sâu và bật lên thành câu chữ tràn những “nỗi niềm”. Tôi nghĩ, rất có thể, lúc đó, Phan Xuân Sinh lăn lộn trong khói lửa, đạn bom… hết trận đánh này đến cuộc hành quân khác, và kinh nghiệm bản thân khi “tham dự” kia mãi sau này mới chỗi dậy sau một đêm thao thức, hoặc lúc ngồi một mình trong công viên, trên bãi biển… và rồi, toàn cảnh của những cảnh tượng anh đã trải qua, hiển hiện trước mắt, gây chút xao động trng lòng va bật thành thơ:
Uống với bạn hôm nay ta phải uống thật say
Để không phải còn nhìn nhau hận thù ngun ngút.
Thứ đến khi dẫn mấy câu thơ này, tôi không ý định phân biệt rạch ròi những người viết trước hay sau năm 1975. Tôi chỉ chú trọng đến nội dung của những câu thơ hay đoạn văn dẫn vào bài viết của mình mà thôi.
Anh đã chỉ ra chỗ chưa thật hợp lý Đó cũng là ý kiến khá thú vị.
Chân thành cảm ơn anh.
Nguyễn Lệ Uyên

- 22.05.2010 vào lúc 4:10 pm
* Lương Thư Trung viết:

Thưa hai anh Phan Đức và Nguyễn Lệ Uyên,
Qua ý kiến “viết trước và sau 1975″, có lần trong “Thư gởi ông Nguyễn Văn Lục, tác giả bài viết Hiện trạng lão hóa nơi các nhà văn hải ngoại” đăng trên Talawas, ngày 2-2-2005, tôi có nêu ý kiến về việc này, xin trích lại chia sẻ cùng hai anh:

“Thêm vào đó, ông lại nhận định một phần nhà văn hải ngoại bắt đầu viết văn quá trễ, có người khởi đầu ở tuổi 60, trung bình tuổi cũng trên 40; nhưng ông cũng quên một điều là tuần trăng mật của đôi tân lang và tân giai nhân mới cưới nhau năm 20 tuổi và tuần trăng mật của một đôi uyên ương ở tuổi 50, chắc gì ai hạnh phúc hơn ai. Trăng mật thì không mới nhưng niềm hoan lạc chắc cũng nồng nàn không thua gì nhau. Tuổi trẻ có cái lợi là nhìn đời theo nhãn quan trẻ và người già giàu có ở chất liệu mà họ đã tích lũy được nhiều năm. Tựu trung tác phẩm hay không phải do nhà văn bắt đầu sớm hay muộn, mà do cách diễn đạt của họ, vì viết vốn dĩ là một cách diễn đạt ý tưởng, không hơn không kém. ” (@2005 talawas)

Trân trọng kính chào,
Lương Thư Trung

- 23.05.2010 vào lúc 4:36 am
* Bắc Phong viết:

nghĩ buồn cho người lính miền Nam
đi tù cải tạo sau chiến tranh
toán lính Bắc phương anh mời rượu
bao kẻ thành quản giáo trại giam

Cám ơn anh Nguyễn Lệ Uyên đã phác họa lại phần nào chân dung người lính miền Nam và những mơ ước hòa bình. BP
- 23.05.2010 vào lúc 1:13 pm

23/5/10

Thư Gửi một Quốc gia Ki tô giáo – Phần 3

Sam Harris

PHẦN 4

Tôn giáo, Bạo hành và Tương lai của Nền văn minh

Cả tỉ ngưòi chia xẻ cùng niềm tin với bạn rằng đấng tạo dựng vũ trụ đã viết (hay đọc cho ngưòi khác viết) các cuốn kinh sách của chúng mình. Kém may mắn thay, có quá nhiều cuốn sách đã giả tạo như có nguồn gốc từ các tác giả thánh thần và đã khẳng định những điều không không giống nhau về việc tất cả chúng ta phải sống như thế nào. Các học thuyết tôn giáo cạnh tranh đã làm tan nát thế giới của chúng tan ra từng mảnh cộng đồng đạo đức riêng rẽ, và những chia rẽ này đã trở nên một cội nguồn liên tục của đối kháng nhân loại.

Ðể đáp ứng với tình hình này, nhiều ngưòi nhạy cảm cổ võ cho cái gọi là lòng khoan dung tôn giáo. Dù khoan dung tôn giáo chắc chắn là tốt hơn chiến tranh tôn giáo nhưng sự khoan dung không phải không có vấn đề của chính nó. Nỗi lo sợ của chúng ta về sự khiêu khích các hận thù tôn giáo đã dẫn chúng ta đến việc không sẵn lòng phê bình các tư tưởng đang ngày càng tăng thêm các áp dụng không đúng chỗ và lố bịch rõ rệt. Nỗi lo sợ này cũng ép buộc chúng ta phải tự lừa dối mình – lập đi lập lại và ở những mức cao nhất của bàn luận – về sự tương thích giữa đức tin tôn giáo và hợp lý khoa học. Những cạnh tranh về xác quyết tôn giáo của chúng ta đang cản bước xuất hiện của một nền văn minh toàn cầu vốn có thể thành tựu được. Ðức tin tôn giáo- đức tin cho rằng có một đấng Thiên chúa, Ngưòi quan tâm đến chính cái danh xưng mà mình đưọc xưng danh, đức-tin tin rằng Jesus sẽ trở lại thế gian, đức tin rằng các ngưòi tử đạo Hồi giáo sẽ đi thẳng lên Thiên đàng – đang ở phía sai lầm của cuộc chiến tranh tư tưởng đang leo thang.

Tôn giáo làm tăng những xung đột nhân loại hơn là sự đề cao bộ lạc, phân biệt chủng tộc, hoặc chính trị từng gây ra, vì đó là hình thái duy nhất của những suy tưởng của ngưòi cùng hội /kẻ ngoài hội, đúc khuôn được những khác biệt giữa con ngưòi trong các phạm vi về trừng phạt và phần thưởng đời đời. Một trong những bệnh lý học lâu dài của văn hoá nhân loại là khuynh hướng nuôi dạy trẻ em biết sợ hãi và quỷ ma hóa con người khác bằng những căn bản của đức tin tôn giáo. Do vậy, đức tin tối thiểu đã khơi dậy bạo hành trong hai cách. Một là, con ngưòi thường giết hại kẻ khác vì họ tin rằng đấng tạo hóa muốn họ phải hành động như thế. Những kẻ khủng bố Hồi giáo là thí dụ gần đây nhất cho hành xử loại này. Hai là, rất đông ngưòi rơi vào các đối nghịch với kẻ khác vì họ muốn vạch định tập thể đạo đức của mình trên căn bản của mối quan hệ tôn giáo: Hồi giáo đứng về phe những ngưòi Hồi giáo khác, Thệ phản giáo với thệ phản giáo, Công giáo với công giáo. Những xung đột này không chỉ dứt khoát vì tôn giáo. Nhưng sự mù quáng cố chấp và thù hận vốn chia rẽ cộng đồng này với cộng đồng khác thường còn là các sản phẩm của sự nhận dạng tôn giáo. Bỏi vậy, những xung đột dưòng như bị chi phối hoàn toàn từ những quan hệ trần thế này lại thưòng có căn nguyên sâu xa từ trong tôn giáo. Cuộc chiến đã quấy rối ngưòi Palestine (Do thái giáo chống Hồi giáo), vùng Balkans (Chính thống giáo Serbians chống Công giáo Croatians; Chính thống giáo Serbians chống Hồi giáo Albanian và Bosnian), Bắc Ái nhĩ Lan (Phản thệ giáo chống Công giáo), vùng Kashmir (Hồi giáo chống Ấn độ giáo), Sudan (Hồi giáo chống Ki-tô giáo và những ngưòi theo thuyết vật linh), Nigeria (Hồi giáo chống Ki-tô giáo), Ethiopia và Eritrea (Hồi giáo chống Ki-tô giáo), Ivory Coast (Hồi giáo chống Ki-tô giáo), Sri Lanka (Phật giáo Sinhalese chống Ấn độ giáo Tamil), Phi luật Tân (Hồi giáo chống Ki-tô giáo), Iran và Iraq (Hồi giáo Shiite chống Hồi giáo Sunni) và vùng Caucasus ( Chính thống giáo Nga chống Hồi giáo vùng Chechen, Hồi giáo Azerbaijan chống Công giáo và Chính thống giáo Armenie), tất cả chỉ là những trường hợp rất gần đây trong sự kiện này.

Và cho đến lúc này, khi các phân rẽ tôn giáo trong thế giới của chúng ta là hiển nhiên, nhiều ngưòi vẫn tưởng tượng rằng xung đột tôn giáo luôn luôn có nguyên nhân từ sự thiếu giáo dục, nghèo đói hay chính trị. Hầu hết những ngưòi không theo tôn giáo nào hoặc những ngưòi tự do, ôn hòa hình như cho rằng chẳng có ai phải thực sự hy sinh mạng sống của cá nhân mình hay của ngưòi khác vì các xác chứng tôn giáo của mình. Những ngưòi như thể đơn giản là chưa hiểu được việc muốn chắc được vào chốn thiên đàng là phải như thế nào. Do đó, họ không tin là có ai chắc chắn được lên thiên đàng. Ở đây, cũng đáng để nhớ lại là những không tặc của ngày 11 tháng 9 là những ngưòi tốt ngiệp cao đẳng, những con ngưòi trung lưu rõ ràng là chưa từng trải qua sự áp bức chính trị. Thế mà, họ đã bỏ rất nhiều thì giờ ở các đền thờ địa phương của họ để trao đổi về sự trụy lạc của những tên phản đạo và về những lạc thú đang dành cho những người tử đạo trên thiên đường. Phải cần đến bao nhiêu kiến trúc sư, kỹ sư húc vào bức tường ở tốc độ bốn trăm dặm một giờ trước khi chúng ta tự nhận rằng bạo lực thánh chiến ấy không một mảy may là sự kiện của thiếu giáo dục, nghèo kém hay chính trị? Sự thật, khá lạ lung là như thế này: vào năm 2006, một ngưòi có thể đủ trí tuệ cần thiết và tài nguyên vật liệu để tạo một quả bom hạch nhân và kẻ ấy vẫn tin rằng mình sẽ có được bảy mươi hai trinh nữ trên thiên đường. Những nhà tư tưởng thế tục, tự do và ôn hòa ở phương Tây đã rất chậm hiểu vấn đề này. Sự nhầm lẫn, bối rối có nguyên nhân rất đơn giản: Họ không biết rằng sự cả tin vào Thượng đế là như thế nào.

Hãy đề chúng tôi cân nhắc ngắn gọn xem những xác quyết trái nghịch của tôn giáo sẽ dẫn chúng ta về đâu trên bối cảnh toàn cầu. Hiện nay quả đất là nhà ở của khoảng 1.4 tỉ ngưòi Hồi giáo, đa số họ tin rằng có một ngày bạn và tôi hoặc sẽ cảỉ đạo trở thành Hồi giáo để sống khuất phục dưói một vị giáo chủ Hồi giáo, hoặc sẽ bị giết chết vì sự không tin theo của mình. Hồi giáo hiện là tôn giáo phát triển nhanh nhất ở Âu châu. Mức sinh sản của ngưòi Hồi giáo ở Âu châu nhiều gấp 3 lần ở các láng giềng không Hồi giáo. Nếu khuynh hướng hiện này cứ tiếp tục, và dù ngay ngày mai những cuộc di dân có bị chặn đứng lại, thì hai mươi lăm năm nữa, Pháp sẽ là quốc gia có đa số là Hồi giáo. Khắp Âu châu, các cộng đồng Hồi giáo thường rất ít có khuynh hướng thu nhận các giá trị dân sự và thế tục từ các nước chủ nhà của họ, lại còn lợi dụng tối đa những giá trị này, yêu sách đến sự tha thứ cho tính thù ghét phụ nữ, oán hận ngưòi Do Thái của họ, và lòng oán hận tôn giáo thường xuyên được rao giảng trong các đền thờ của họ. Cưỡng bức hôn nhân, giết người vì danh dự, hãm hiếp tập thể để trừng phạt và sự ghê tởm hành vi giao hợp đồng tính đến độ giết ngưòi, tất cả là hiện là những đặc điểm của một Âu châu thế tục khác nhờ vào Hồi giáo.[i] Sự phải đạo chính trị và nỗi lo sợ về sự kỳ thị chủng tộc đã khiến nhiều ngưòi Âu châu do dự trong việc chống lại các cống hiến tôn giáo đáng sợ của những ngưòi cực đoan lẫn trong họ. Với một vài ngoại lệ, các khuôn mặt cộng đồng từng có can đảm nói thẳng về mối hiểm họa của Hồi giáo đối vói Châu Âu là những ngưòi Phát-xít. Ðây là một dự báo không lành mạnh cho tương lai của nền văn minh.

Ý tưỏng cho rằng Hồi giáo là “một tôn giáo hòa bình bị những kẻ cực đoan cướp đoạt” là một ý tưởng hoang đường, và ý tưởng đó hiện là một hoang đường đặc biệt nguy hiểm vì Hồi giáo đang được thụ hưởng ý tưởng ấy. Không rõ chúng ta sẽ tiến hành cuộc đối thoại của mình với thế giới Hồi giáo bằng cách nào, nhưng tự đánh lừa mình bằng những uyển ngữ không thể là một giải đáp. Hiện nay, rõ ràng các phạm vi của chính sách đối ngoại nói lên sự thật là những cải cách thực sự trong thế giới Hồi giáo không thể áp đặt từ bên ngoài vào. Nhưng nhận thức được nguyên nhân tại sao như vậy là một điều quan trọng – sự thể như vậy là vì hầu hết những ngưòi Hồi giáo đều cực kỳ loạn trí bởi đức tin tôn giáo của họ. Người Hồi giáo có khuynh hướng thường nhìn các vấn đề của chính sách công cộng và xung khắc toàn cầu qua các phạm trù liên quan đến Hồi giáo của họ. Và ngưòi Hồi giáo nào không có cùng cái nhìn như thế sẽ có cơ nguy bị gắn cho nhãn hiệu bội giáo và bị những ngưòi Hồi giáo khác giết chết.

Nhưng làm sao chúng ta có thể mong thuyết phục những ngưòi Hồi giáo nếu như chúng ta không thể tự thuyết phục chính mình? Sẽ chẳng đạt được gì nếu chỉ khẳng định rằng “chúng mình thờ phượng cùng một Thiên chúa”. Chúng ta không hề thờ phượng một Thiên chúa chung, và không có gì thực chứng cho điều này hùng hồn hơn là một lịch sử nhuộm máu vì tôn giáo của chúng ta. Trong nội bộ Hồi giáo, người Shi’a và ngưòi Sunni cũng không thể đồng lòng với nhau trong việc cùng thờ phượng một Thiên chúa chung, và chính vì lý do này mà họ đã chém giết lẫn nhau trong nhiều thế kỷ.

Dường như rất khó để hàn gắn được những rạn nứt trong thế giới chúng ta thông qua đối thoại giữa những người không cùng tín ngưỡng. Người Hồi giáo cuồng nhiệt cũng tin rằng tôn giáo của họ là hoàn hảo như chính bạn tin vào tôn giáo mình như thế và bất kỳ sự trệnh hướng nào cũng sẽ dẫn đến địa ngục. Lẽ dĩ nhiên, thật dễ dàng cho các vị đại diện các tôn giáo lớn thỉnh thoảng hội họp vớí nhau để cùng đồng ý rằng nên có hòa bình trên địa cầu, hay rằng là tình thương yêu sẽ là sợi chỉ xuyên suốt để kết họp được tất cả các đức tin tôn giáo trên toàn cầu. Nhưng không thể thoát khỏi sự thực là niềm tin tôn giáo của một cá nhân đã đon độc chi phối suy nghĩ của y về mối ích lợi của một nền hòa bình cũng như y thực sự muốn nói gì về “tình bác ái”. Có hàng triệu – có lẽ hàng trăm triệu – ngưòi Hồi giáo sẵn sàng chết trước khi họ có thể cho phép phiên bản bác ái của bạn đạt được chỗ đứng trong các bán đảo Ả Rập. Làm sao mà các đối thoại không cùng tôn giáo, ngay cả ở cấp cao nhất, hoà hợp được những thế giới quan vốn đã không thể tương thích tự nền tảng, miễn nhiễm với những cải tiến tự trong nguyên tắc. Sự thật là, cái gì và nguyên nhân tại sao đã khiến nhiều tỉ người tin theo mới là điều hệ trọng.

Kết luận

Một trong những thử thách lớn nhất đối với nền văn minh của thế kỷ hai mươi mốt là để cho nhân loại học hỏi được cách bày tỏ những quan tâm cá nhân sâu kín nhất của mình – về luân lý, kinh nghiệm tâm linh và những đau khổ không tránh khỏi được của con ngưòi – trong những phương cách không tỏa ra mùi vị phi lý. Chúng ta rất cần đến một cuộc bàn luận công khai để khuyến khích những suy tưởng phê phán và lương thiện trí thức. Không có gì ngăn cản dự án này hơn là lòng kính trọng mà chúng ta đang dành cho đức tin tôn giáo.

Chắc tôi là người đầu tiên thú nhận rằng các triển vọng nhằm tiệt trừ tôn giáo trong thời đại của chúng ta không được tốt đẹp lắm. Thế nhưng, một thú nhận tương tự như thế có thể đã từng xảy đến trong nỗ lực tiêu diệt tệ nạn nô lệ vào cuối thế kỷ mười tám. Ai hằng phát biểu tự tin về cuộc diệt trừ nô lệ ở Mỹ vào năm 1775 chắc chắn tưởng là mình phí thì giờ và phí thì giờ một cách nguy hiểm.

So sánh tương đồng ấy không được hoàn hảo lắm nhưng có tính gợi ý. Nếu như chúng ta có từng vưọt qua được niềm hoang mang về tôn giáo của chúng ta, chúng ta có thể sẽ nhìn lại giai đoạn này trong lịch sử nhân loại với nỗi kinh hoàng và hết sức sửng sốt. Làm sao mà con người ta có thể từng tin những điều như thế ở thế kỷ hai mươi mốt này. Làm sao ngưòi ta có thể để cho xã hội của họ trở nên vỡ nát một cách hiểm nghèo bởi những khái niệm trống rỗng về Thiên chúa và Thiên đàng? Sự thật là, một số niềm tin mà chúng ta hằng ấp ủ nhất đã đáng xấu hổ như con tàu chở nô lệ cuối cùng đến Mỹ trễ đến tận cuối năm 1859 (cùng vào niên đại mà Darwin xuất bản Nguồn gốc của Sinh vật).

Rõ ràng, đến lúc chúng ta phải học cách thoả mãn những nhu cầu xúc cảm của mình mà không phải ôm lấy sự lố bịch. Chúng ta phải tìm cách nào để mỗi khi cầu xin đến sức mạnh của các nghi thức tế lễ và ghi dấu các chuyển hoá của đời sống thường nhật vốn đòi hỏi đến chiều sâu – như các việc sinh sản, hôn nhân, tử biệt – mà không phải tự dối mình về chức năng tự nhiên của đời sống. Chỉ khi nào việc nuôi dạy con trẻ để khiến chúng tin mình là ngưòi Ki-tô giáo, ngưòi Hồi giáo hay người Do Thái giáo sẽ bị xem như một sự xuẩn ngốc lố bịch như chính bản thân sự việc ấy. Chỉ khi ấy chúng ta mới có được cơ hội hàn gắn những rạn vỡ quá sâu và nguy hiểm trên thế giới của chúng ta.

Tôi không hề nghi ngờ rằng sự chấp nhận chúa Ki-tô của bạn trùng hợp vói những thay đổi tốt đẹp trong đòi sống của bạn. Có thể là bạn hiện đang yêu kẻ khác trong một phương cách mà bạn chưa hề từng nghĩ rằng bạn có thể yêu thương như vậy. Có thể bạn còn chứng nghiệm được cảm giác hạnh phúc khi bạn cầu nguyện. Tôi không hề có ý dèm pha bất cứ chứng nghiệm nào như thế của bạn. Tuy nhiên, tôi chỉ muốn vạch ra rằng, hàng tỉ con ngưòi khác của cả nhân loại đang có cùng những chứng nghiệm tương tự – nhưng họ có chứng nghiệm ấy khi suy tưởng về Khrisna, hoặc Allah, hoặc Phật thích ca, khi sáng tạo nghệ thuật, âm nhạc, hay khi suy tưởng về vẻ đẹp của thiên nhiên. Không có nghi ngờ gì về năng lực chứng nghiệm những chuyển biến sâu sắc của con ngưòi. Và không có nghi hoặc gì về khả năng diễn đạt sai những chứng nghiệm ấy, và đi xa hơn nữa trong sự tự lừa dối mình vể bản chất của thực tại. Dĩ nhiên, bạn có lý khi tin rằng cuộc đời còn có những điều quan trọng hơn là việc chỉ am hiểu cơ cấu và nội dung của vũ trụ. Nhưng điều này không hề khiến những khẳng định phi lý và không thể biện giải đưọc về cấu trúc và nội dung của vũ trụ trở nên đứng đắn hơn.

Thật là quan trọng để ý thức đưọc rằng khác biệt giữa khoa học và tôn giáo không phải là vấn đề ở sự việc loại trừ trực giác luân lý và chứng nghiệm tâm linh của chúng ta ra khỏi cuộc bàn luận về thế giới; mà vấn đề là ở sự chân thật của chúng ta về những gì chúng ta có thể kết luận hợp lý được từ căn bản của chúng. Có những lý lẽ đúng để tin rằng những đấng như Jesus và Phật thích Ca không hề nói điều vô nghĩa khi phát biểu về năng lực con ngưòi của chúng ta để chuyển hóa đời sống chúng ta bằng những phương cách đẹp đẽ và hiếm có. Nhưng bất cứ khám phá chân thực nào của luân lý hay suy tưởng cuộc sống đòi hỏi các tiêu chuẩn giống nhau về tính hợp lý và tự phê phán để làm sinh động tất cả các bàn luận trí thức.

Như một hiện tượng sinh học, tôn giáo là sản phẩm của tiến trình nhận thức vốn có gốc rễ sâu trong quá khứ tiến hoá của chúng ta. Một số nhà khảo cứu đã nghiên cứu rằng có lẽ bản thân tôn giáo đã đóng một vai trò quan trọng trong việc khiến cho các nhóm lớn các con ngưòi tiền sử gắn bó xã hội với nhau. Nếu điều này là đúng, chúng ta có thể nói rằng tôn giáo đã cống hiến một mục đích quan yếu. Tuy vậy, điều này không có nghĩa là tôn giáo đang cống hiến một mục tiêu quan yếu cho ngày hôm nay. Cuối cùng, không có gì tự nhiên hơn sự hãm hiếp. Nhưng không ai có thể biện luận rằng hãm hiếp là tốt, hoặc hãm hiếp là thích ứng với một xã hội dân sự, bởi vì hãm hiếp có thể có thể đã từng là một lợi thế tiến hoá cho tổ tiên của chúng ta. Một tôn giáo từng phục vụ cho một số chức năng cần yếu cho chúng ta trong quá khứ không thể ngăn ngừa khả năng là tôn giáo ấy đang là bước cản lớn nhất cho việc xây dựng một nền văn minh toàn cầu của chúng ta.

LÁ THƯ này là một sản phẩm của một sự thất bại. Thất bại của những cuộc tấn công đầy tài năng vào tôn giáo từng đến trước đây, thất bại của nhà trường chúng ta trong việc làm thế nào để đả thông được cái chết của Thiên chúa đến từng thế hệ, thất bại của truyền thông trong sự phê phán các khẳng định tôn giáo thấp hèn của những con ngưòi thuộc công chúng của chúng ta – thất bại lớn, hoặc nhỏ đã giữ cho mọi xã hội trên địa cầu này cứ luẩn quẩn lúng túng về Thiên chúa và khinh miệt những ai luẩn quẩn lung túng bằng cách khác.

Những ngưòi không tin vào tôn giáo như cá nhân tôi đứng cạnh bạn, lặng ngưòi đi bên lũ Hồi giáo đang cầu tử thần đến trên cả đất nước của bao ngưòi còn đang sống. Nhưng chúng tôi cũng lặng ngưòi đi vì bạn nữa – vì sự từ chối cái thực tế hiển nhiên của bạn, vì sự khổ đau mà bạn đang tạo ra trong sự phục vụ cho những bí hiểm tôn giáo của bạn, và bởi vì những dính líu của bạn với một Thiên chúa tuởng tượng. Lá thư này là là diễn đạt của những sửng sốt ấy – và, có lẽ của một hy vọng nhỏ nhoi.

LỜI BẠT CHO ẤN BẢN CỦA VINTAGE BOOKS

NHÂN LOẠI đã từng có thời gian dài hoang tưởng với sự hiến máu tế. Thực vậy, không có gì bất thường cả trong việc một đứa trẻ sinh ra trong thế gian này để chỉ được thương yêu và kiên trì dạy dỗ nuôi lớn từ những kẻ cuồng đạo, những kẻ tin rằng cách tốt nhất để giữ mặt trời ở yên trong vòng quay hay để bảo đảm một vụ mùa sung túc là âu yếm dắt đứa trẻ ra đồng hoặc lên núi để giết, chôn vùi hoặc thiêu sống nó như một dâng hiến cho Thiên chúa vô hình. Vô số trẻ em đã bất hạnh sinh ra trong thời kỳ quá đen tối, khi ngu dốt và hoang tưởng không thể tách bạch trong kiến thức và khi tiếng trống của những kẻ cuồng tín tôn giáo thúc lên ăn khớp với mỗi nhịp tim con ngưòi. Thực tế, hầu như không nền văn hóa nào đưọc miễn trừ bởi loài quỷ này : người Sumerians, Phoenicans, Ai Cập, Do thái cổ, Canaaties, Maya, Inca, Aztecs, Olmecs, Hy Lạp, Romans, Carthaginians, Teutons, Celts, Druids, Vikings, Gauls, Hindus, Thái Lai, Tàu, Nhật bản, Maoris, Melanesians, Tahitians, Hawaiians, Balinese, Thổ dân Úc, Iroquois, Huron, Cherokee và vô số không đếm xuể những xã hội giết ngưòi đồng loại cho những lễ nghi tôn giáo vì họ tin vào những nam nữ thánh vô hình thích ăn thịt người sống, để có thể nguôi giận. Thực tế, nhiều nạn nhân của họ vốn có đồng quan điểm đã tự nguyện để bị giết hại, hoàn toàn bị thuyết phục rằng cái chết của họ có thể thay đổi khí hậu, hoặc cứu sống nhà vua khỏi các bệnh sinh dục, hoặc để xin tha cho đồng loại khỏi các cơn giận của những đấng khuất mặt trong một số trường hợp khác.

Trong nhiều xã hội, mỗi khi xây một tòa cao ốc, ngưòi ta từng nghĩ cách khôn ngoan duy nhất là làm thổ công nguôi giận bằng cách chôn sống trẻ con ngay dưói bệ móng (đây chắc là cách thực hành đức tin ở những thế gian không có kỹ sư về cấu trúc). Nhiều xã hội thường hy sinh các trinh nữ để ngăn ngừa lụt lội. Một số nơi khác lại giết con so và ăn cả thịt chúng nữa, như là một phương cách để bảo đảm người mẹ được mắn đẻ. Ở Ấn độ, trẻ thơ sống nhăn bị cúng hiến cho cá mập ở cửa Grange cũng vì những mục đích này. Ngưòi Ấn độ thiêu sống các phụ nữ góa để họ có thể đi theo chồng về thế giới bên kia. Không để cái gì rơi vào may rủi, ngưòi Ấn còn gieo xuống đồng ruộng mình thịt đàn ông tươi sống của một số đẳng cấp được đặc biệt nuôi lớn cho mục đích này và chặt tay chân khi họ vẫn còn sống nhăn, để bảo đảm rằng mọi vụ gặt turmenic sẽ được thắm đỏ đúng mức. Nước Anh đã phải thực sự thúc ép mạnh để chấm dứt những hung bạo giả đạo đức này.

Trong một số nền văn hóa mỗi khi có ai đáng kính trọng qua đời, nhiều đàn ông, đàn bà khác cho phép chính mình được chôn sống theo để phục vụ như những kẻ hầu cận cho đấng quá cố ấy trong thế giới bên kia. Ở Rome thời cổ đại, trẻ con đôi khi bị giết đi để ngưòi ta có thể đọc được tương lai trong ruột chúng. Một số ngưòi phi thường Fijian sáng tạo ra một kiểu lễ ban phước rất quyền lực gọi là “Vakatoga”, nghi lễ này cần một nạn nhân tự chứng kiến tứ chi của một mình bị chặt ra cho kẻ khác ăn sống. Trong những giống người Iroquois, các tù binh bị bắt trong chinh chiến thường được cho phép sống trong bộ lạc trong nhiều năm, ngay cả đưọc phép cưói vợ, tất cả đã bị kết tội chết bằng cách lột da sống để làm lễ vật cúng cho thần chiến tranh, các con trẻ mà họ sinh sản cũng bị giết hết theo trong lễ cúng tế. Một số bộ lạc Phi châu có một lịch sử lâu dài về việc giết ngưòi để gửi đi như một người đưa tin trong cuộc đối thoại một chiều với tổ tiên của họ hoặc đề cải biến các bộ phận cơ thể của họ thành các loại bùa mê. Các loại giết ngưòi để cúng tế như thế này vẫn còn ở nhiều xã hội Phi châu cho đến ngày nay.[ii]

Rất cần yếu để nhận ra rằng những lạm dụng mạng sống con ngưòi một cách ghê gớm đó là rõ ràng từ tôn giáo. Chúng là sản phẩm của điều ngưòi ta nghĩ mình hiểu biết về các nam nữ thần vô hình, và cái hiển nhiên không hề hay biết về sinh học, khí tượng học, y học, vật lý học, và hàng tá các khoa học khác. Và đó là sự dạng chân của lịch sử đáng khinh của hung bạo tôn giáo và ngu dốt khoa học mà Ki tô giáo đang có giá trị như một sự sùng bái vô ý thức và đáng khinh. Ý niệm rằng Jesus Christ đã chết vì tội lỗi của chúng ta và cái chết của ngưòi đã thành công trong việc làm nguôi lòng Thiên Chúa “nhân từ” là sự thừa kế trực tiếp không che dấu của những đổ máu mê tín dị đoan nhiễm dịch bệnh vào con ngưòi hoang mang dọc suốt lịch sử.

Thiên chúa của Abraham, dĩ nhiên không phải là người xa lạ đối với những sự giết hại để tế lễ. Có khi, Ngưòi kết án việc tế thần ( Deuteronomy 12:31; Jeremiah 19:4; Ezekiel 16:20-21), ở những lúc khác, Người lại yêu cầu hoặc ban thưởng việc ấy ( Exodus 22:29-30; Judges 11:29-40; 1 Kings 13:1-2; 2 Kings 3:27; 2 Kings 23:20-25; Numbers 31:40; Deuteronomy 13:13-19). Trong trưòng họp Abraham, Thiên chúa đòi ông phải hy sinh Issac, con trai của mình nhưng Ngài đã dừng tay giết vào phút cuối (Genesis 22:1-18) mà không hề xem hành vi giết hại chính con của kẻ khác là vô đạo đức. Ở những chỗ khác, Thượng đế thú nhận xúi dục sự hy sinh trẻ con để làm ô uế ngưòi thực hành (Ezekiel 20:26) trong khi chính tự Ngưòi lại hành động như thế trong việc giết hại các con so của ngưòi Ai Cập (Exodus 11:5). Nghi thức cắt da quy đầu nảy sinh như một sự thay thế cho việc hiến tế trẻ con (Exodus 4:24-26), và Thiên chúa dường như thường khuyến khích việc thay thế súc vật cho con người. Thực thế, sự khát máu súc vật của Người cũng như sự chú tâm của Người đến các tinh vi của việc giết hại và huỷ diệt chúng thì thật không còn có thể phóng đại vào đâu được nữa.

Khi gặp Jesus lần đầu, Thánh John, nghe đồn đã nói rằng “Ðây là chiên của Thiên chúa, Ðấng sẽ xóa đi tội lỗi của thế gian” (John 1:29). Ðối với hầu hết ngưòi Ki-tô giáo, ý kiến kỳ quặc này vẫn còn có giá trị và duy trì như cốt lõi đức tin của họ. Ðạo Ki-tô gần như đồng nghĩa với sự xác định rằng sự đóng đinh của Jesus đại diện cho những giọt máu cuối cùng và đủ để dâng lên Thiên chúa, Ngưòi dứt khoát cần phải được như thế ( Hebrews 9:22-28). Ðạo Ki-tô chung qui là lời xác định rằng chúng ta phải yêu thương và được yêu thương bởi một Thiên chúa vốn chấp nhận việc tế chuộc, hành hạ và giết hại một con ngưòi-chính là con trai của Thiên chúa – để đền bù cho những cư xử sai lầm, bị xem là tội lỗi của tất cả những ngưòi khác.

Hãy để những tin tốt lành được hiển lộ: chúng ta sống trong một vũ trụ, cõi bao la đến mức chúng ta chắc chắn không thể hình dung, ngay cả sơ sài trong tư tưởng chúng ta, trên một hành tinh tràn ngập các sinh vật mà chúng ta chỉ mới bắt đầu hiểu chúng thế nhưng cả một công trình đã đạt đến thành quả huy hoàng từ hai mươi thế kỷ trước đó, sau khi một sinh vật linh trưởng (của chính chúng ta) leo xuống khỏi những rừng cây, sáng tạo ra nông nghiệp và các dụng cụ bằng kim loại, thoáng thấy (như thể qua lớp kính mờ tối), khả năng giữ cho phân của mình khỏi vương vào thức ăn, rồi lựa ra một con trong số đó để đánh đập tàn bạo xong đóng đinh lên một cây thập tự.

Phép linh Mình Thánh Chúa, một biểu tượng của tục ăn thịt ngưòi đã được thêm thắt vào thần thoại khốn khổ chung quanh cái chết của một con ngưòi bị hành hạ – khổ hình của Chúa- Xin lỗi bạn, tôi dùng chữ “biểu tưọng “. Vì theo Vatican phép Mình Thánh Chúa dứt khoát không phải là một biểu tượng. Thực thế, phán quyết của công đồng Trent vẫn còn hiệu lực như sau :

Tôi cũng công bố rằng trong Thánh lễ, một sự hy sinh thực sự đúng đắn làm

nguôi giận đã dâng lên Thiên chúa thay cho những ngưòi sống và kẻ chết, và

rằng thân xác cùng máu huyết cùng linh hồn và thần thánh của chúa Jesus

chúng ta đã thực sự, đúng như thế chứ không hề tưởng tưọng đã dâng hiến

trong một sự thiêng liêng nhất của phép Mình thánh chúa, và phép ấy mang ý

nghĩa một sự hoán đổi của chất bánh mì thành thân xác, và toàn thể rượu đỏ

thành máu, và sự này nhà thờ công giáo gọi là sự hóa thể. Tôi cũng công bố

rằng tất cả và toàn bộ Chúa Jesus cùng bánh và rượu lễ đã được tiếp

nhận trong từng hình dạng riêng.

Lẽ tất nhiên, Công giáo đã thực hiện một số lý thuyết rất tích cực và rất không thuyết phục về lãnh vực này, trong nỗ lực hợp lý hòa sự việc làm thế nào mà họ có thể thực sự ăn được thịt của Jesus, chứ không phải chỉ là bánh chùm trong chiếc áo ẩn dụ, và thực đã uống máu của ông ấy mà không phải là một giáo phái ăn thịt ngưòi. Tuy vậy, cũng đủ để cho rằng, cái thế giới quan của hình dung rõ nét về “sự hy sinh làm nguôi giận thay cho ngưòi sống và kẻ chết” đang khó bảo vệ được vào năm 2007. Nhưng điều này vẫn không hề ngăn cản được những bậc trí thức khác và những ngưòi có chủ ý trong việc bảo vệ thế giới quan ấy.

Ngày nay, chúng ta được biết rằng ngay cả mẹ Theresa, nhân vật tiểu biểu nổi tiếng nhất của chủ nghĩa giáo điều này trong suốt thế kỷ, đã không ngừng hoài nghi về sự hiện diện của Chúa, của thiên đàng và ngay cả sự hiện hữu của thượng đế như trong phép Mình thánh Chúa :

Lạy chúa, con là ai mà Ngưòi nên tha thứ cho? Đấng con của người – mà giờ

đây đang trở nên kẻ bị ghét bỏ nhất – duy nhất – Ngưòi đã ném bỏ đi như kẻ

không cần đến nữa, không yêu thương nữa – Con gọi, con bám víu, con cầu

cạnh – nhưng không có Ai đáp lời – Không một Ai trong những Ngưòi con

con bám víu – không, Không đấng nào. Cô độc … đức tin của con ở đâu rồi

– ngay cả nơi sâu thẳm dưói kia cũng không có gì ngoài bóng tối và rỗng

không – Chúa ơi – thật đau đớn làm sao cho nỗi đau chưa từng biết đến này –

con không còn Đức tin – con không dám thốt ra những lời nói và ý tưỏng

đang tràn ngập lòng mình – và khiến con đau đớn một nỗi đau không hề được

chỉ dạy.

Biết bao nhiêu tra vấn không được giải đáp sống bên trong e rằng sẽ phải bày

tỏ ra ngoài – bởi vì sự báng bổ – Nếu như có Thượng đế – xin hãy tha thứ cho

con – Khi con muốn dâng ý nghĩ của mình đến Thiên đàng – chỉ có sự trống

không như kết án dội lại như dao nhọn làm đau đớn chính linh hồn con. – Con

được dạy rằng Thiên chúa thương yêu mình – nhưng sao thực tại lạnh lẽo

trống không quá lớn đến nỗi không còn gì chạm đến linh hồn con được. Có

phải con đã nhầm lẫn khi mù lòa quy phục vào lời gọi của đấng thiêng liêng

hay không?

(Xưng tội lên chúa Jesus theo đề nghị của một cha giải tội-

không ghi ngày tháng)

Những thư từ của Mẹ Theresa được xuất bản gần đây đã tiết lộ một tâm hồn bị xé nát bởi hoài nghi (như vốn phải là như thế). Những lá thư cũng lộ ra một ngưòi phụ nữ chắc chắn đã khổ đau từ những chán nản cùng cực, mặc dù giới phê bình thế tục đã bắt đầu lịch sự che đậy sự thực này trong màu sắc thánh thần và tử đạo. Câu trả lời của Mẹ Theresa cho nỗi hoang mang và giả đạo đức (ý của bà) của chính mình đã hé lộ ra đức tin tôn giáo giống như một vùng cát lầy lún như thế nào. Những hoài nghi của bà về hiện hữu của Thiên chúa được diễn dịch từ ngưòi bà xưng tội như dấu hiệu rằng bà đang chia xẻ nỗi giằng xé của Chúa trên thập giá; sự tán dương này về dao động đức tin của bà đã cho phép bà “được yêu bóng tối” mà bà chứng nghiệm về sự vắng mặt hiển nhiên của Thiên chúa. Đó là một thiên tài không thể giả mạo được. Chúng ta có thể nhìn thấy nguyên tắc tương tự trong hàng ngũ những ngưòi Công giáo như bà. Các hoài nghi của mẹ Theresa đã chỉ làm tăng thêm tầm vóc của bà dưói mắt Nhà thờ, được diễn giải như một khẳng định hơn nữa về ơn huệ của Thiên chúa. Hãy tự hỏi chính bạn, khi ngay cả những hoài nghi của các bậc chuyên gia được mang ra để xác định một chủ thuyết, thì còn có thể phủ định cái gì được nữa ?

Đã hơn một năm trôi qua kể từ khi Thư gửi một quốc gia Ki tô giáo được xuất bản, cuốn sách vẫn còn gây ra những nóng giận. Nhiều lời chỉ trích nhằm vào cuốn sách này đã được gom cùng với các công kích về cuốn đầu tiên của tôi, Tận Cùng của Ðức Tin, và vào những ngưòi vô thần khác có các tác phẩm bán chạy, đặc biệt là cuốn Breaking the Spell của Dan Dennett, cuốn The God Delusion của Richard Dawkins và cuốn God is not Great của Christopher Hitchens. Thực tế, tôi, Dennett, Dawkins và Hitchens đã thường xuyên bị tấn công như thể chúng tôi là một ngưòi có bốn đầu. Những lời kết án và tranh luận chống lại chúng tôi luôn luôn giống nhau và luôn luôn sai trật. Thật thế, cái ngạc nhiên nhất của sự tranh luận về đức tin là sự ít ngạc nhiên của nó.

Vấn đề với tôn giáo ôn hòa

Bất cứ khi nào những ngưòi không tin đạo giáo như cá nhân tôi phê bình ngưòi Ki-tô giáo về việc tin vào sự sắp trở lại của Chúa, hay ngưòi Hồi giáo về việc tin vào sự tử vì đạo, thì những ngưòi ôn hòa công bố rằng chúng tôi xuyên tạc Ki-tô giáo và Hồi giáo, mang những “người cực đoan” ra để đại diện cho những tôn giáo “vĩ đại” này, hoặc không nhìn được cả một đại dương lung linh sắc màu. Chúng tôi luôn luôn được bảo rằng sự hiểu biết chín chắn về đức tin từ thánh kinh tuyệt đối phù hợp với lẽ phải, do đó, sự công kích tôn giáo của chúng tôi là sự “đơn giản hóa”, “ giáo điều” và, ngay cả “ Chính thống”.

Nhưng quả có một số vấn đề với lối bảo vệ tôn giáo như thế. Trưóc tiên, nhiều ngưòi ôn hòa (ngay cả một số ngưòi theo chủ nghĩa thế tục) cho rằng “chủ nghĩa cực đoan” tôn giáo thì hiếm có, do đó, không phải tất cả đều là hậu quả từ đấy ra. Nhưng thực tế, chủ nghĩa cực đoan tôn giáo không hiếm, do vậy, hậu quả của nó thực sự rất nặng nề. Hiện nay Hoa kỳ là nhà ở của 300 triệu con ngưòi, có ảnh hưởng nhiều hơn đến công chúng trong lịch sử nhân loại, trong số này, 240 triệu người tin rằng Jesus sẽ trở lại thế gian, sẽ thu xếp việc chấm dứt thế gian này bằng quyền hạn thần thông của Người. Nỗi khao khát được tha tội, một cách thiêng liêng, đạo giáo đã trở nên quá khích trong mọi ý nghĩa của nó – đó là sự tận cùng của hiểm nguy , ngớ ngẩn và đáng phỉ báng – chứ không phài sự tận cùng trong ý nghĩa nào của sự ít ỏi, hiếm hoi. Tất nhiên những ngưòi ôn hòa có thể cũng băn khoăn, nghi hoặc như những ngưòi tin tôn giáo đang băn khoăn, nghi hoặc. Thực tế, nhiều ngưòi vô thần đã tin tưởng rằng các thăm dò ý kiến của chúng tôi không chính xác vì nhiều người thực sự cho rằng chuyện tâm linh của họ là việc riêng tư không cần phải bày tỏ với ai. Nhưng thực không còn nghi ngờ gì rằng hầu hết ngưòi Mỹ khẳng định một cách chắc chắn niềm tin vào những điều lố bịch ngớ ngẩn, và những khẳng định này tự chúng đã thực sự tổn thương đến tiến trình chính trị, chính sách công chúng và uy tín của chúng ta trên thế giói.

Những ngưòi ôn hòa tôn giáo còn có khuynh hướng tưởng tượng ra rằng thực có một đường kẻ rõ ràng phân ranh giữa tôn giáo cực đoan và ôn hòa. Những thật là không hề có một đường phân ranh như thế. Văn bản kinh thánh tự nó vẫn còn là cỗ máy bất diệt của chủ nghĩa cực đoan: Bởi vì, mặc dù Thiên chúa có thể là nhiều thứ khác nhưng Thiên chúa trong Kinh Thánh và kinh Koran không thể là môt đấng ôn hòa. Đọc kỹ kinh bản, ngưòi ta sẽ không thấy các lý lẽ để trở nên một tôn giáo ôn hòa. Người ta sẽ tìm thấy đủ lý lẽ để trở nên một ngưòi điên cuồng tôn giáo đích thực – những ngưòi sợ lửa thiêu của địa ngục, phỉ báng những ai không có đạo, kết án những kẻ đồng tính luyến ái v.v… Lẽ tất nhiên, ngưòi ta có thể lọc lựa từ kinh bản để tìm được những lý lẽ cho việc yêu thương kẻ láng giềng và chìa má bên kia ra. Nhưng càng đặt lòng tin vào kinh sách chừng nào, ngưòi ta càng tin rằng những kẻ dị giáo, phản đạo, chống đạo đáng bị nghiền nát ra thành phân tử trong cỗ máy công lý yêu thương của Thiên chúa.

Những ngưòi theo tôn giáo ôn hòa luôn khẳng định rằng họ “thông thái” hơn ngưòi chính thống (và ngưòi vô thần). Nhưng làm sao một ngưòi có thể là người theo đạo một cách thông thái khi chỉ cần nhìn vào những mập mờ đáng nghi hoặc trong kinh sách để từ đó mà đọc cho kỹ càng hơn, sơ lược hoá những đoạn cần phải sơ lược hoá, để cho những xác quyết về thực tại của kinh sách bị xáo trộn liên tục bởi những hiểu biết mới lạ – một cách khoa học (“Bạn muốn nói rằng trái đất này không phải 6000 năm tuổi? Được thôi”), một cách y học (“ Tôi nên mang con gái mình đến một bác sĩ thần kinh chứ không mang đến một kẻ bị quỷ ám ? Có vẻ hợp lý…”), và một cách đạo đức (“Hừm, tôi không đánh đập nô lệ của mình, ngay cả không được giữ nô lệ nữa hay sao ?). Có một loại khuôn mẫu không thể chối từ được ở đây. Ôn hòa tôn giáo là kết quả trực tiếp của sự việc đọc hiểu kinh bản không đủ và không nghiêm chỉnh. Vậy tại sao vẫn cứ đọc không đủ nghiêm chỉnh ? Tại sao không thú nhận rằng cuốn Thánh kinh chỉ là một sưu tập của nhiều cuốn sách không hoàn hảo viết nên bởi những con ngưòi đầy sai sót ?

Một vấn nạn khác nữa với sự ôn hòa trong tôn giáo là nó đại biểu chính xác cho cách suy luận rằng nó sẽ ngăn ngừa được cái tinh thần hợp lý không giáo phái khỏi nổi dậy trong thế giới của chúng ta. Bất chấp sự thực của chúng tôi là gì, tinh thần hay luân lý, cần phải được khám phá ngay bay giờ. Bởi hậu quả là, sẽ chẳng tạo nên một ý nghĩa gì khi cứ có một đời sống tinh thần của ai đó đóng cọc vào những phép lạ của thời cổ đại. Cái chúng ta cần là sự tranh luận về các chứng nghiệm luân lý và tinh thần vốn không bị cưỡng ép bởi sự ngu xuẩn cổ đại như các tranh luận khoa học đã từng có. Khoa học thực đã vượt quá được tính đỏng đảnh của văn hóa” Không hề có những thứ đại loại như khoa học “của Nhật” khác với khoa học “của Pháp”; chúng ta không nói về “sinh học Ấn độ” hay “Hóa học Do Thái”. Hãy tưởng tượng một thế giới mà chúng ta có thể có một cuộc bàn luận thực sự chân thật và cởi mở về nơi chốn của chúng ta trong vũ trụ, về khả năng làm phong phú kiến thức tự hiểu của chúng ta, các thông thái luận lý và lòng bác ái. Những ngưòi ôn hòa tôn giáo, bằng cách cứ sống như thể các thước đo của mê tín đạo giáo vẫn còn quan yếu đến hạnh phúc của nhân loại, thì chính họ thực đang cản ngăn một cuộc đối thoại như thế khiến không thể hình thành được.

Tính lương thiện trí thức

Tôn giáo từng mang đến lời giải đáp cho nhiều câu hỏi mà ngày nay đã phải nhường lại cho khoa học. Tiến trình lấn chiếm và tước đoạt tôn giáo của khoa học là một tiến trình không thương xót, một tiến trình có định hướng và hoàn toàn có thể tiên liệu được. Khi đi vào thực tiễn, kiến thức chân chính vừa có giá trị vừa có thể tái kiểm nghiệm thông qua các nền văn hóa, và là phương thuốc duy nhất chữa trị được mối bất hoà tôn giáo. Chẳng hạn như Hồi giáo, Ki-tô giáo không thể bất đồng với nhau về nguyên nhân gây bệnh dịch tả, bởi vì bất kể truyền thống của họ nói gì về căn bệnh di truyền này, thì một hiểu biết chân chính về bệnh dịch tả đã đến từ nguồn thông tin khác. Khoa dịch tễ học (rốt cuộc) đã tráo đổi được mê tín tôn giáo, nhất là khi con ngưòi phải chứng kiến con cái mình chết vì tật bệnh. Ðấy chính là nơi mang chứa niềm hy vọng của chúng ta cho một tương lai thực sự không thuộc về giáo phái: khi sự việc gây ra tác động, ngưòi ta có khuynh hướng muốn hiểu được điều gì thực sự xảy ra trên thế giới. Khoa học cung ứng sự hiểu biết này trong một dòng chảy xiết mạnh, khoa học cũng cung ứng sự giám định chân thực trong giới hạn hiện thời của nó. Tôn giáo thất bại với cả hai mong đợi như vậy.

Hy vọng hòa giải được đức tin của mình với các hiểu biết đang tăng trưởng của khoa học về thế giới, nhiều ngưòi tin đạo giáo tìm được chỗ nương náu trong công thức phản bội của Stephen J. Gould về “thẩm quyền không chồng tréo” – Cái ý tưởng cho rằng khoa học và tôn giáo, khi được phân tích, hiểu đúng đắn, không thể đối nghịch được, bởi vì cả hai đại diện cho sự tinh thông của hai phạm trù khác nhau. Chúng ta hãy thử xem điều này tác động ra sao: Trong lúc khoa học là một thẩm quyền cao nhất về các công trình của thế giới vật chất, thì tôn giáo là thẩm quyền cao nhất về …chính xác về cái gì ? Về thế giới không vật chất? Chắc là không thể. Thế còn về ý nghĩa, giá trị, luân lý và đời sống tốt lành ? Thật không may là, hầu hết mọi người – ngay cả các khoa học gia và những người thế tục – đã nhường những bộ phận quan trọng này của hạnh phúc con ngưòi cho sự chăm sóc của các nhà thần học và các nhà biện giải tôn giáo mà không hề tranh cãi gì. Chính điều này đã giữ cho tôn giáo một vị trí tốt ngay cả quyền lực của tôn giáo đã bị tấn công, bị vô hiệu trên mọi mặt.

Nhưng cái khả năng đặc biệt nào khiến một linh mục, một thầy tế Hồi giáo, một giáo sĩ Do Thái có thể đánh giá cái ngụ ý luân lý của việc nghiên cứu tế bào phôi, kế hoạch hóa gia đình, hoặc các ngăn ngừa chiến tranh? Sự thật ở chỗ là cái kiến thức về các truyền thồng kinh sách của một con ngưòi thì chẳng còn liên quan gì với luân lý cũng như chiêm tinh học. Ðại biểu của các tôn giáo trên thế giới có thể nói với chúng ta về các giáo đoàn của họ tin vào điều gì trên một lãnh vực rộng rãi các chủ đề khác nhau (và thường là tin dựa trên những chứng cứ tồi), họ có thể nói cho chúng ta biết các kinh sách của họ đã dạy gì mà ngưòi ta nên tin theo để thoát khỏi lửa hỏa ngục; nhưng điều họ không thể làm-hoặc không thể làm tốt hơn những ngưòi xẻ thịt, ngưòi làm bánh, ngưòi làm đèn cầy là mang lại được một cứ điểm cho thấy tại sao những địa vị chính thống này là hợp đạo đức. Có đạo đức không khi giết một người muốn đổi đạo của mình? Tôi sẽ đánh đổi mạng sống của mình cho câu trả lời “Không”. Nhưng, theo một cuộc thăm dò gần đây, 36 phần trăm ngưòi Hồi giáo Anh (tuổi từ 16-24) không đồng ý với tôi. Như sự thăm dò chỉ ra, các tín đồ Hồi giáo Anh này thuộc một lập trường cứng nhắc của thần học: vì trong khi kinh Koran không rõ ràng đòi hỏi việc giết bỏ những ngưòi bội giáo, chính tài liệu thiêng liêng của hadith đã lập đi lập lại, không lập lờ một đòi hỏi như thế. Chỉ dụ này có hợp đạo đức không? Có thích hợp với một xã hội thường dân hay không? Có phải sự tín nhiệm vào một quyền lực đã mang lại sự man rợ này qua nhiều thế hệ ngay cả nó rất ít liên quan đến khoa học?

Lẽ tất nhiên, thật cũng đúng, một cách bình thường, không đáng kể, rằng tôn giáo và khoa học có tương thích với nhau bởi vì một số nhà khoa học là (hoặc đưọc kể là) những người có đạo. Nhưng nói như thế chẳng khác gì bảo rằng khoa học và dốt nát là có liên quan bởi vì nhiều nhà khoa học đã thoải mái thú nhận sự ngu dốt rộng rãi của mình trong rất nhiều chủ đề. Ðể làm rõ ràng những vấn đề này, rất hữu ích nếu chúng ta tự nhắc mình rằng cả tôn giáo và khoa học đều cấu thành bởi niềm tin và sự minh chứng hoặc thiếu minh chứng của các niềm tin ấy. Có sự đối chọi nào giữa một niềm tin được minh chứng và một niềm tin không được minh chứng không ? Dĩ nhiên đó là con số không. Cho rằng đức tin ấy nói chung chỉ là một sự cho phép mà ngưòi có đạo này ban cho ngưòi có đạo khác để mà mạnh tin vào điều gì vốn không có chứng cứ, thì sự mâu thuẫn giữa tôn giáo và khoa học thật không thể tránh khỏi.

Tôn giáo và khoa học cũng mâu thuẫn bởi vì không có cách gì gỡ rối đưọc những sự thật được khẳng định bởi tôn giáo và khoa học: niềm tin rằng Jesus được sinh ra từ sự đồng trinh có thể là một trọng điểm của Ki-tô giáo, nhưng đấy cũng là một một khẳng định rõ ràng về sinh học; niềm tin rằng Jesus sẽ trở lại thế gian bằng xương bằng thịt trong một tương lai đưa đến nhiều khẳng định khác nhau về lịch sử, con ngưòi sống lại từ sự chết, và, hiển nhiên là, một cỗ máy của con ngưòi bay lên mà không có sự trợ giúp của khoa học kỹ thuật. Ðã đến lúc tất cả những ngưòi có lý trí nhận ra rằng ở đâu có dính dáng đến các khẳng định về bản chất của thực tại, thì ở đấy chỉ có một huấn quyền bất di bất dịch.

Cuộc Ðánh Cược rỗng tuếch

Vấn đề quan yếu của tôn giáo là ở chỗ tôn giáo đã xây dựng trên sự dối trá ở một mức độ đáng chú ý. Tôi không chỉ nhắc đến hai mươi megaton trưng bày về đạo đức giả, khi các nhà rao giảng Phúc âm bị bắt gặp xử dụng thuốc ảo giác hoặc các điếm nam. Hơn thế, tôi muốn nhắc đến sự thất bại ở mọi nơi chốn hàng ngày của những ngưòi sùng đạo nhất đã thú nhận là những khẳng định an toàn nhất của họ về đức tin đã trở nên đáng nghi một cách sâu sắc. Bà mẹ khẳng định rằng ông bà đã đi thẳng lên thiên đàng sau khi chết. Nhưng bà mẹ ấy không thực sự biết là như thế. Sự thực là, bà mẹ đã nói dối – hoặc với chính mình hoặc với con cái mình- và hầu hết chúng ta đều xem hành vi này thật là bình thường. Thay vì dạy con cái chúng ta đau buồn rồi nên vui mặc dù với thực tại của cái chết, chúng ta đã nuôi dưỡng con cái chúng ta bằng sự tự lừa dối.

Cái việc Jesus thực đã sinh ra từ một trinh nữ, đã sống lại sau khi chết, để sẽ trở lại thế gian này bằng chính thân xác mình vào một ngày nào đó trong tương lai thực sự là như thế nào ? Tin vào các móc xích của phép lạ như thế trên căn bản của các khẳng định từ sách Phúc âm, là chuyện có lý hay không? Những học thuyết này nhận đưọc bao nhiêu ủng hộ từ chứng nghiệm của những ngưòi Ki-tô giáo trung bình trong nhà thờ? Các câu trả lời chân thật cho những câu hỏi này chắc sẽ nổi lên một cơn sóng thần của sự hoài nghi. Tôi không biết chắc rằng cái gì sẽ là “Ki-tô giáo” đối với bất kỳ ngưòi Ki-tô giáo nào còn trụ lại.

Nhiều độc giả của Thư gửi một Quốc gia Ki-tô giáo đã cảm hứng từ Blaise Pascal và đã tranh cãi rằng chứng cứ chính ở ngay bên cạnh vấn đề và rằng những ngưòi theo đạo đơn giản đã khôn ngoan hơn trong việc chọn phần chắc ăn: nếu người theo đạo sai lầm về Thiên Chúa, sẽ chẳng có tổn thất gì nhiều cho y hay ai khác, nhưng nếu như đúng, y sẽ thắng được một hạnh phúc đời đời; tuy nhiên, nếu ngưòi vô thần sai, hắn sẽ được dành cho cuộc đời vĩnh viễn trong địa ngục. Căn cứ vào quan niệm này, vô thần là hình ảnh của sự ngu xuẩn liều lĩnh.

Dù Pascal xứng đáng với danh tiếng của ông là một nhà toán học xuất sắc, sự đánh cuộc của ông chẳng có gì khác hơn là một phép loại suy đáng yêu (và sai lầm) mà thôi. Như nhiều ý tưởng duyên dáng khác trong triết học, dễ nhớ và thường được lập lại, ý tưởng này đã vay mượn cho mình một diện mạo không xứng đáng của sự sâu sắc. Một suy nghĩ thoáng qua hé lộ rằng, nếu cuộc đánh cược đó có giá trị, nó sẽ thẩm định được bất kỳ hệ thống niềm tin nào, bất kể nó phản nghịch và lố lăng như thế nào đối với Ki-tô giáo, Một vấn nạn khác của sự đánh cược này- và chính là vấn nạn đã nhiễm bệnh vào các suy nghĩ đạo giáo nói chung- là nó cho rằng một ngưòi có lý trí có thể tự cho phép mình tin vào một xác nhận mà kẻ ấy không hề có một chứng cứ nào. Một ngưòi có thể bày tỏ bất kỳ tín ngưỡng nào mình thích, dĩ nhiên, nhưng để thực sự tin tín ngưỡng ấy, ngưòi đó phải tin rằng tín ngưỡng ấy đúng. Chẳng hạn như, để tin rằng có một Thượng đế, nghĩa là tin rằng mình không đang tự lừa phỉnh mình; nghĩa là tin rằng mình đang đứng trên một số liên hệ với sự hiện hữu của Thượng đế như thế, nếu như Ngưòi không hiện hữu, mình không thể tin vào Người. Cái đánh cược của Pascal lọt vừa vào trong hệ thống này như thế nào? Nó thật không thể lọt vừa được.

Các nguyên nhân để nghi ngờ hiện hữu của Thiên Chúa được đặt trong một bối cảnh dễ hiểu để mọi ngưòi cùng nhìn vào: mọi ngưòi đều thấy rằng cuốn Thánh kinh không phải là những ngôn từ hoàn chỉnh của một đấng toàn trí; mọi ngưòi đều thấy rằng không hề có bằng chứng gì về một Thiên Chúa từng đáp lại lời cầu xin của chúng ta, rằng bất kỳ Thiên Chúa nào từng ban phát các giải vô địch túc cầu cho những ngưòi cầu xin, để chỉ nhỏ từng giọt ra cho chứng ung thư hoặc tai nạn xe cộ đến những trẻ em nam nữ, thì Thiên Chúa ấy không xứng đáng với sự dâng hiến của chúng ta. Mọi ngưòi có mắt để nhìn có thể nhìn thấy rằng nếu Thiên chúa của Abraham hiện hữu, Ngưòi là một kẻ bệnh thần kinh nặng và Thượng đế của thiên nhiên cũng thế. Nếu bạn không thể nhìn thấy những việc này chỉ bằng cách quan sát mà thôi, thì đơn giản bạn là ngưòi đang nhắm nghiền mắt đối vói các thực tiễn của thế giới chúng ta.

Tôi không hề nghi ngờ gì về việc nhiều ngưòi Ki-tô giáo tìm được niềm an ủi lớn lao từ đức tin của mình. Nhưng đức tin không phải là cội nguồn tốt nhất cho an ủi. Ðức tin giống như một tên móc túi cho ngưòi ta vay món nợ bằng chính đồng tiền của ngưòi ấy với các điều kiện rộng rãi. Lòng biết ơn của nạn nhân thì hoàn toàn có thể hiểu được nhưng dứt khoát là không đúng chỗ. Chúng ta là cội nguồn của tình yêu thương mà các linh mục, mục sư quy là do bởi Thiên chúa (chúng ta có cảm thấy cách nào khác không?) Ý thức của chúng ta là căn nguyên, là cốt lõi của bất kỳ chứng nghiệm nào bạn có thể muốn cho là “linh hồn” hay “thần bí”. Nhận thức được như vậy, nhu cầu khả thi nào ở đấy để phải giả vờ như mình thực biết chắc về những phép màu cổ đại ?

Sam Harris

Tháng 9 2007

Nữu Ước

MƯỜI TÁC PHẨM NÊN ÐỌC :

1. The God Dellusion của Richard Dawkins.

2. Breaking the Spell của Daniel C. Dennett.

3. Misquoting Jesus của Bart D. Ehrman.

4. Kingdom Coming của Michelle Goldberg.

5. The End of Days của Gershom Gorenberg.

6. Freethinkers của Susan Jacoby.

7. Extraodinary Popular Delusion and the Madness of Crowds của Charles Mackay.

8. Why I am not a Christian của Bertrand Russell.

9. God, the Devil, and Darwin của Niall Shanks.

10. Atheism: The Case Against God của George H. Smith.

1 Nếu bạn có thể tin được: Vatican đang chống lại việc xử dụng bao cao su để ngăn ngừa bệnh HIV ngay cả giữa những người có cưói hỏi với nhau. Có tin đồn cho rằng Giáo Hoàng đang xem xét lại chính sách này. Hồng Y Javier Lazano Barragan, lãnh đạo Uỷ ban Y tế của tòa thánh, đã thông báo trên đài phát thanh Vatican rằng văn phòng của ngưòi đang “thực hiện một nghiên cứu sâu sắc rất kỹ thuật, khoa học, và đạo đức” về vấn đề này. Thật không cần phải nói, nếu học thuyết Nhà thờ thay đổi do kết quả của những cân nhắc đạo đức giả này, sẽ là một chỉ dấu rằng không phải đức tin ấy thâm thúy mà là đức tin của giáo điều ấy đã phát triển không thể cứu chữa được nữa.

2 Và tính vô thần của Hitler có lẽ đã được phóng đại quá mức như sau :

Cảm thức Ki-tô giáo đã dẫn tôi đến Chúa và bậc cứu rỗi của mình như một chiến sĩ.

Nó hướng tôi đến con ngưòi đã từng cô độc, chung quanh chỉ một vài người tin theo, nhận

ra những ngưòi Do Thái này như chính họ và kêu gọi con người chống lại họ; và chính Người, Lạy Chúa lòng lành – là kẽ vĩ đại không phải chỉ vì sự khổ nhục mà là vì như một

chiến sĩ. Trong tình yêu không bờ bến của một ngưòi Ki-tô hữu và của một con người, tôi

đã đọc được những dòng được những ẩn ngữ dạy cho chúng ta biết cuối cùng đức Chúa

đã vươn dậy trong sự mạnh mẽ của người, cầm roi quét sạch khỏi Ðiện thờ lũ rắn độc. Cuộc chiến đấu cho thế giới chống lại nọc độc Do Thái của người lớn lao biết

dường nào (…) là ngưòi Ki-tô giáo tôi còn có trách nhiệm với riêng dân tộc của mình.

Hitler đã nói như thế trong bài diễn văn đọc ngày 12 tháng 4 năm 1922. (Norman H. Bayes, ed. The Speeches of Adolf Hitler, April 1922- August 1939. Vol. 1 of 2, pp. 19-20. Oxford University Press, 1942.

3 “phỉ báng huyết thống” (với chủ ý đến người DoThái) gồm các cáo buộc sai lầm rằng ngưòi Do Thái đã giết hại những ngưòi không phải Do Thái để lấy máu của họ dùng vào những nghi thức tế lễ. Sự kết án này vẫn còn được tin là thật ở nhiều nơi trong các nước Hồi giáo.

4 Sự thật cần được nói, hiện nay tôi nhận được các điện thư phản kháng từ những ngưòi khẳng định với tất cả chân thành rõ rệt, rằng họ tin Thuỷ thần (Poisedon) và các thần linh khác của thần thoại Hy lạp là có thật.

5 Thí dụ như nhà vật lý học Stephen Hawking hình dung không-thời gian như một hiện hữu đa dạng kín, bốn chiều, không có đầu, không có cuối (giống như bề mặt của một quả cầu)

6 Ðể chữa trị chứng sanh nghẹt thai, chỉ cần đến một giải phẫu đơn giản- chứ không cần phải cầu nguyện. Dù nhiều ngưòi có đức tin vẫn cứ tin rằng cầu nguyện có thể chữa lành nhiều căn bệnh

(bất kể là các chúng bệnh đã được các khảo cứu khoa học tốt nhất tìm ra). Chuyện cầu nguyện này cũng kỳ cục ở chỗ là ngưòi ta chỉ cầu nguyện trong những trường hợp bệnh tật hoặc thương tích có giới hạn thôi. Chẳng hạn như không ai tin rằng lời cầu nguyện có thể khiến cụt tay chân có thể mọc ra lại. Sao không nhỉ? Giống kỳ nhông có thể làm được việc này, đoán chừng là không phải cầu xin gì. Nếu Thiên chúa từng đáp lại lời cầu xin, sao Ngưòi không đôi lúc chữa lành một trường hợp cụt tay chân? Và sao ngưòi có đức tin không trông mong vào cầu nguyện trong những trường hợp ấy? Có một trang WEB rất phi thường đang dốc lòng khám phá bí hiểm này: www.whydoesgodhatesamputees.com

7 Phụ nữ, khi dám chối từ các hôn nhân cưỡng ép, đòi ly dị, phạm tôi ngoại tình hoặc ngay cả khi bị cưỡng hiếp, là nạn nhân của các sách nhiễu tình dục thưòng bị xem là đã “làm mất danh dự” của gia đình mình. Các phụ nữ trong tình huống này thường bị sát hại bởi chính ngưòi cha đẻ, anh em trai của họ hoặc có khi từ sự hợp tác của những phụ nữ khác. Giết ngưòi vì danh dự, có lẽ, quan niệm đúng nhất là một hiện tượng văn hóa (hơn là thuần túy tôn giáo), và nó không chỉ xảy ra riêng trong thế giới Hồi giáo. Tuy nhiên, hành vi này, đã có hậu thuẫn đáng kể từ Hồi giáo, khi tôn giáo này rõ ràng coi ngưòi phụ nữ như tài sản của ngưòi đàn ông và xem ngoại tình như một trọng tội. Trong khắp thế giới Hồi giáo, ngưòi đàn bà nào dám thưa mình bị cưỡng hiếp sẽ phải nhận lãnh sự nguy hiểm của việc bị giết hại như “kẻ ngoại tình” bởi lẽ, cuối cùng ngưòi đàn bà ấy cũng phải nhận tội đã có quan hệ thân xác với kẻ không phải chồng mình.

8 Ðể biết thêm về lịch sử của hy sinh nhân loại, xem N.Davies, Human Sacrifies : In History and Today. Dorset.
Sam Harris