28/9/11

Những trận không chiến dữ dội nhất lịch sử Thái bình dương

Những trận không chiến dữ dội nhất lịch sử Thái bình dương
(Thứ Hai, 26 Tháng Chín-2011)


Saburō Sakai

Nguyễn Nhược Nghiễm chuyển ngữ







(Trích đoạn hồi ký )

“Hải quân Hoàng gia Nhật dạy cho tôi một nghề nghiệp duy nhất: Phi công khu trục. Hủy diệt những kẻ thù của tổ quốc, bay và bắn. Tôi đã sống như vậy suốt 5 năm, trên những vùng trời Trung Hoa và Thái Bình dương. Tôi không biết đến đời sống nào khác ngoài đời sống của người lính.
Cuộc đầu hàng thảm khốc ném tôi ra khỏi Hải quân. Mang đầy thương tích của những năm chiến tranh nhưng tôi không thể xin bất kỳ một trợ cấp nào. Chúng tôi đã bại trận. Tôi hiểu ra, tiền cấp dưỡng tàn phế dành cho những thương phế binh, cho dù thâm niên quân ngũ, chỉ dành cho binh sĩ của đạo quân chiến thắng.
Chính sách chiếm đóng ngăn cấm tôi làm hoa tiêu, bất kỳ loại phi cơ nào. Trong suốt 7 năm dài, từ 1945 đến 1952, lý lịch phi công khiến tôi bị loại trừ ra khỏi những công việc thuộc phạm vi công chức.
Đối với tôi, hoà bình đồng nghĩa khởi đầu một cuộc chiến mới, dài hơn và tàn bạo hơn nữa. Tôi phải chiến đấu với những kẻ thù mới, tàn khốc bội phần, sự nghèo túng, đói kém, cùng vô số tước đoạt. Thường xuyên, chính quyền chiếm đóng dựng lên trước mặt tôi, một rào cản ngăn cấm tất cả. Lối thoát duy nhất còn lại là lao động tay chân và sinh sống trong ổ chuột.
Cú đấm chót là cái chết của Hatsuyo. Vợ tôi đã sống sót dưới những trận mưa bom và sống sót qua tất cả những hiểm nguy của chiến tranh nhưng cô không thể kháng cự kẻ thù mới, thứ bệnh trầm trọng của đốn mạt vì suy dinh dưỡng.
Sau cùng, sau những năm bị tước đoạt, tôi cũng dành dụm đủ tiền để mở một xưởng in nhỏ. Làm việc từ sáng đến tối, tôi đủ trang trải phí tổn, rồi kiếm thêm chút đỉnh. Không bao lâu sau, tôi tìm ra quả phụ đô đốc Takijiro Onishi qua nhiều tháng lùng kiếm. Phó đô đốc Onishi đã mổ bụng tự sát, ngay ngày đầu hàng đã chọn cái chết thay vì chọn sống; khi các thuộc cấp của ông nhận tử lệnh không bao giờ trở lại, vì chính đô đốc đã xây dựng các Phi đoàn Thần Phong cảm tử lừng danh – đâm bổ tự sát.
Bà Onishi, đối với tôi, hơn một quả phụ đô đốc; bà còn là dì của hải quân trung úy Sasai, một người bạn thiết. Sasai tử vong trên không phận New Guinea trong lúc tôi bị thương nằm bệnh viện. Trong nhiều năm, quả phụ Onishi đã sống khổ cực lây lất, kiếm sống bằng gánh hàng rong. Trông thấy bà quần áo rách rưới kéo lê quang thúng làm dậy lên trong lòng tôi một cơn giận dữ, nhưng lúc đó tôi không có một phương tiện nào để giúp đỡ bà.
Bây giờ, làm chủ một nhà in khiêm tốn, tôi thuyết phục bà làm phụ tá. Không lâu, nhà in phát triển, tôi lại tìm kiếm và thâu nhận thêm nhiều bà goá và thân thuộc của những đồng đội đã hy sinh.
May mắn, thời thế thay đổi. 10 năm đã trôi qua từ khi chấm dứt chiến tranh. Xưởng in chạy việc giúp tất cả chúng tôi tìm lại được một đời sống đầy đủ. Riêng với cá nhân tôi, những năm gần đây đã diễn ra một cách kỳ lạ. Tôi trở thành khách mời danh dự của các hàng không mẫu hạm Hoa Kỳ và nhiều chiến hạm khác. Tôi vô cùng kinh ngạc trước tiến bộ kỹ thuật của những chiến đấu cơ phản lực. Tôi được mời gặp những phi công Đồng Minh. Ngồi cạnh họ, tôi trao đổi tự do và kết bạn. Chính đây mới thật sự là điều ấn tượng: Cũng chính những phi công Hoa Kỳ này mà tôi nhắm bắn, cách đây 10 năm, đã dành cho tôi tình bạn tự nhiên của họ.
Nhiều lần, Tân Không lực Hoàng gia Nhật Bản đề nghị tôi tái ngũ với cấp bậc sĩ quan tại chức. Tôi đều từ chối. Tôi không muốn quay trở lại quân ngũ với quá nhiều quá khứ.
Nhưng lái máy bay cũng giống bơi lội: không thể quên dễ dàng. Tôi đã không rời mặt đất từ 10 năm nay, nhưng chỉ cần tôi nhắm mắt, cần lái của chiến đấu cơ lại nằm trong lòng bàn tay phải, cần ga trong tay trái, và bàn đạp dưới chân. Tôi tìm lại tức khắc cảm giác của sự tự do thuần khiết, của hấp lực mời gọi của vũ trụ đầy mây mà tất cả phi công đều biết đến.
Không, tôi đã chưa bao giờ quên những động tác phi hành. Nếu nước Nhật còn cần đến tôi, nếu một ngày nào đó tổ quốc này bị cộng sản đe dọa, thì tôi sẽ đáp lại lời động viên. Nhưng với tất cả thành tâm, tôi cầu khẩn Trời cho phép tôi cất cánh vì một lý do nào khác.” [1]

Chương XIX ― Iwo Jima, bay và chết

Một lần nữa, tất cả chiến đấu cơ còn lại trên đảo cất cánh. Kết quả tồi tệ hơn dự tính của chúng tôi. Chỉ còn 9 chiếc Zéro trở về để đáp xuống Iwo Jima. Lần này cuộc tấn công của đối phương cũng lập lại y như lần trước. Các cơ sở tan nát, phi đạo đầy dấu bom. Chỉ còn lại 8 oanh tạc cơ được hầm trú ẩn bao che. Hầu hết oanh tạc cơ và chiến đấu cơ khác đang được sửa chữa hoặc giấu trong hầm trú ẩn đều bị hủy diệt.
Sau khi đáp xuống, chúng tôi bước nặng nhọc đến Bộ Chỉ Huy. Không ai còn nghị lực và tinh thần để bàn tán. Chúng tôi lê thân trên mặt đất, mệt mỏi và tuyệt vọng, đưa mắt nhìn binh sĩ chạy tới chạy lui trên phi đạo cố gắng lấp những lỗ bom, dập tắt lửa đang còn hoành hoành trên mấy ngôi nhà gần đó. Mấy phút sau, trung tá Nakajima chậm rãi bước vô Bộ chỉ huy. Chúng tôi đứng nghiêm. Nakajima khoát tay, biểu chúng tôi ngồi xuống. Ông có vẻ khích động, giọng nói nhỏ và do dự. Ông nói với chúng tôi rằng các sĩ quan tham mưu đã thảo luận suốt đêm, và tất cả đều đồng ý với phương cách chống lại người Mỹ mà chúng tôi sẽ phải thực hiện trong tương lai. Một nhóm sĩ quan nhấn mạnh rằng nếu chúng tôi cứ tiếp tục ngăn chặn các cuộc tấn công của đối phương, một vài ngày nữa chúng tôi sẽ không còn một chiếc máy bay nào. Do đó, chỉ còn một hành động duy nhứt mà chúng tôi phải làm là dốc toàn lực đánh trả đối phương. Một trong những trinh sát cơ của chúng tôi đã phát hiện một lực lượng đặc nhiệm Hoa Kỳ cách phía Đông Nam của Iwo Jima 450 dặm, và chúng tôi có thể tấn công lực lượng này. Nhóm sĩ quan tham mưu thứ nhì đồng ý kế hoạch tấn công trên nguyên tắc. “Nhưng” họ lý luận, “chỉ với 9 chiến đấu cơ và 8 oanh tạc cơ một máy, chúng ta có thể nào chống lại lực lượng đặc nhiệm của đối phương hay không? Các hàng không mẫu hạm Hoa Kỳ có thể tung hàng nhiều trăm phi cơ nghinh chiến cùng một lúc!” Nên biết lực lượng mà chúng tôi tấn công là lực lượng đã quét sạch tất cả các phi cơ thuộc các hàng không mẫu hạm Nhật ở quần đảo Mariana vào ngày 20 tháng Sáu.
Cuộc thảo luận, Nakajima nói, cuối cùng đã đưa ra kết luận khi chỉ huy căn cứ Iwo, đại tá Kanzo Miura, chấp nhận kế hoạch đánh trả hạm đội Hoa Kỳ. Miura định ngày phát xuất của chúng tôi là trưa ngày 4 tháng Bảy, đúng ngày lễ kỷ niệm Độc Lập của Hoa Kỳ. Chúng tôi không bao giờ thực hiện được kế hoạch dự trù. Các phi công Hoa Kỳ đã hung hăng trở lại Iwo vào sáng ngày 4 và xé nát các cơ sở của hòn đảo thành manh múm. Chúng tôi không sao cất cánh nổi. Các phi đạo đều tê liệt. Sau cuộc không kích chúng tôi ngồi quanh Bộ chỉ huy, trong khi các sĩ quan tham mưu thảo luận bên trong. Đại tá Miura, sau này chúng tôi biết được vẫn không thay đổi kế hoạch. “Chúng ta đang kiệt quệ dần,” ông nói với Bộ tham mưu của ông, “sự kết thúc đã nhìn thấy rõ rệt nếu chúng ta cứ tiếp tục nằm trong thế thủ. Chúng ta sẽ làm gì? Ngồi đây để nhìn chiếc phi cơ cuối cùng bị bắn rơi trong khi hạm đội của đối phương vẫn còn nguyên vẹn? Không! Chúng ta sẽ tấn công, ngay hôm nay! Ngay khi các phi đạo được sữa chữa, tôi muốn tất cả các phi cơ rời khỏi mặt đất.” Trung tá Nakajima đã kể lại chi tiết của buổi họp cho chúng tôi nghe. Ông kết luận: “Tôi ý thức nhiệm vụ mà chúng ta sắp thực hiện. Không có cách nào khác hơn: các anh sẽ bay để chết. Nhưng,” tới đây ông do dự, “quyết định đã được đưa ra. Các anh sẽ phải đi.” Ông nhìn đôi mắt của mỗi người. “Và có lẽ may mắn vẫn theo một bên các anh.” Vị trung tá rút ra một tờ giấy trong túi áo và đọc tên những phi công được chọn để thực hiện phi vụ này, một phi vụ không có lượt về, hình như vậy.
Không hề có một sự phấn khởi nào được nhìn thấy giữa nhóm phi công. Mỗi người nghe đọc tên đã đứng dậy và đưa tay chào. Tên tôi đứng hàng thứ chín trong sanh sách. Tôi sẽ cầm đầu nhóm phi cơ thứ nhứt, gồm 9 chiến đấu cơ Zéro. Muto, phi công ưu tú của không đoàn, cầm đầu nhóm thứ hai. Nakajima chỉ định một vị đại úy cầm đầu cả phi đội. Nakajima bước đến tôi, “hiển nhiên là không mấy vui vẻ”. Ông đặt tay lên vai tôi. “Tôi rất buồn phải để anh đi hôm nay, đồng đội thân thiết lâu năm của tôi.” Ông ấp úng nói. “Nhưng, tôi không thể nào làm khác hơn, Sakai… Tôi… chúc anh gặp may mắn.” Tôi lặng thinh. Tôi đưa tay ra. Chúng tôi nắm lấy tay nhau trong lặng yên, rồi Nakajima quay lưng và bước đi. Chúng tôi giải tán, không ai nói tiếng nào. Các phi công được chọn thực hiện nhiệm vụ bỏ lại hết các vật dụng tuỳ thân. Tôi nhìn một vài thứ mà tôi mang theo đến Iwo. Những vật dụng để lại này sẽ được gởi về cho gia đình. Má tôi sẽ phản ứng ra sao khi người ta trao cho bà những thứ này và kể cho bà nghe câu chuyện đã xảy ra? Thì giờ trôi qua quá mau. Thật mỉa mai, tôi nghĩ, chỉ một đôi ngày trước đây, tôi giành giựt mạng sống với 15 chiếc Hellcat. Muto bước vô căn lều của tôi và hỏi tôi có ý kiến gì về nhiệm vụ này không. Tôi nhìn hắn hồi lâu. “Muto, tôi… tôi không biết. Ý kiến gì? Có ý kiến nào của tôi đâu. Khi chúng ta bay đến chiến hạm địch vào trưa nay, chiến đấu cơ địch sẽ bu lấy chúng ta. Tất cả những gì mà tôi có thể nói là… chúng ta đã nhận lịnh. Chúng ta sẽ đi. Chỉ có thế thôi.”
Tôi cảm thấy buồn cho viên phi công trẻ tuổi này. Cá nhân tôi không còn lợi ích mấy cho xứ sở nữa. Những khó khăn mà tôi đã trải qua trong việc né tránh bọn phi công Mỹ thiếu kinh nghiệm, cho tôi sự xác tín rằng đời sống nửa đui nửa sáng của tôi có kéo dài cũng chỉ kéo dài một ngày một bữa. Nhưng Muto… hắn là sự phối họp của Nishizawa, Ota và Sasai. Một phi công tài ba sáng chói. Hắn không thuộc lớp người của chúng tôi. Quẳng hắn vô một nhiệm vụ vô vọng như thế này quả là ngu xuẩn. Hắn có thể làm hơn nữa trong việc bảo vệ xứ sở. Và hiện thời… hoang phí biết bao. Dĩ nhiên Muto không biết tôi đang suy nghĩ gì. Hắn cười sau lời nói của tôi. “Đúng lắm, Sakai. Tôi biết Nếu Thượng Đế vui vẻ…” hắn nhún vai. “Nói cách khác, xin Thượng Đế hãy để cho chúng ta ít ra là được chết chung với nhau, như những người bạn.”
Một giờ sau, tất cả các phi công được chọn lựa thực hiện nhiệm vụ tấn công xếp hàng ngay ngắn trước Bộ chỉ huy. Phía sau căn lều, là một cây cột cao có treo một lá cờ đuôi nheo màu trắng rộng lớn. Trên nền trắng của lá cờ có kẻ một hàng chữ cổ: “Namu Hachiman Daibosatsu”. Có nghĩa là: “Chúng tôi tin tưởng vào vị thần Chiến Trang quảng đại.” Đây là lá cờ phỏng theo hiệu kỳ của một chiến tướng Nhật ở thế kỷ 16, trong thời kỳ xảy ra hàng loạt nội chiến liên tục khiến cho nước Nhật rối loạn cùng cực. Khi còn ở Lae, chúng tôi không bao giờ chống đỡ tinh thần bằng những “cây nạng” tâm lý như thế này. Đối với tôi, sự phô trương có vẻ kinh tởm này là dấu hiệu của sự yếu đuối, không có ý nghĩa gì khác hơn. Nó chứng tỏ đầu óc thoái hoá của các sĩ quan chúng tôi, những kẻ cố làm nổi bật họ lên bằng ánh lửa và sự dũng mãnh của những thời xa xưa, thời mà hầu hết các cuộc chiến đều được quyết định bởi tài ba và lòng dũng cảm cá nhân. Nhưng đó chỉ là thời xa xưa. Tôi không phải là một sĩ quan tham mưu, tôi không tham dự vào bất kì việc soạn thảo kế hoạch mặt trận nào, tôi cũng không phải là một chiến lược gia tập sự, nhưng tôi biết chắc chắn những gì mà các sĩ quan của tôi đang làm không còn phù hợp nữa. Các sĩ quan của chúng tôi đang làm công việc của một loại phù thủy mới. Họ khua chiêng đánh trống để cổ võ lòng yêu nước, để cố thuyết phục không chỉ riêng thuộc cấp mà còn chính họ nữa. Điều này giống như chúng tôi bù đắp những thiệt hại khủng khiếp bằng cách phô trương và đe doạ: “Bọn Mỹ khốn nạn.” Tại sao những người này lại từ chối công nhận sự thật? Làm cách nào để họ ý thức rằng loại chiến đấu cơ Zéro của chúng tôi, mà từ lâu họ đinh ninh là tốt nhứt thế giới, bấy giờ lỗi thời về mọi phương diện so với loại chiến đấu cơ Hellcat, cũng như nhiều loại phi cơ mới khác của đối phương mà tôi chưa thấy qua.
Tôi nhìn lá cờ. Nó hiện diện ở đó biết bao ngày rồi, nhưng hôm nay, lần đầu tiên, tôi mới thực sự nhìn thấy nó. Có thể nào chúng tôi đặt niềm tin của mình vào một vật tượng trưng sức mạnh siêu phàm này? Nó giúp chúng tôi gặt hái chiến thắng? Nó sẽ chận đứng những tia đạn do mấy chiếc Hellcat bắn ra? Là một phi công chiến đấu, tôi nhận thấy tốt hơn hết là tin vào sức mạnh và sự khéo léo của chính mình để thoát khỏi cái chết chỉ xảy ra trong đường tơ kẽ tóc. Tôi chỉ có thể tin vào các phi công bên cánh của tôi, và nhận sự hỗ trợ của các đồng đội khác. Nếu tôi lâm trận bằng cách chỉ la lớn những câu cổ lỗ ấy, tôi đã chết mục xương từ lâu rồi. Nhưng tất cả đã biến đổi ở hiện tại. Sự khéo léo, tài ba đã từng cứu tôi nhiều lần trở thành vô nghĩa… Không một người nào trong số 17 phi công đang đứng nghiêm trước Bộ chỉ huy có được một mảy may hy vọng nào nhìn thấy lại bạn bè.
Tôi yêu xứ sở của tôi tha thiết, và tôi sẽ không bao giờ ngần ngại một phút giây nào khi phải đổi mạng sống để bảo vệ quê hương. Nhưng giữa việc bảo vệ quê hương đến hơi thở cuối cùng và việc hoang phí mạng sống khác nhau xa lắm.
“Namu Ami Dabutsu!”, “Nam Mô A Di Đà Phật”. Đó là lời thì thầm của những người hấp hối để tìm sự khuây khoả và yên ổn tâm hồn khi sắp ra đi. Tôi tin vào nước Nhật, tôi không tin cái gọi là vị thần chiến tranh khoan dung, quảng đại. Tôi muốn chết cho xứ sở của tôi nhưng chỉ chết với niềm tin của mình, truyền thống Samurai, như là một con người, như là một chiến sĩ. Sự suy tư đã xoa dịu nỗi tức giận trong lòng tôi. Và vào lúc đại tá Miura bước ra khỏi căn lều, tôi hoàn toàn thoải mái. Vị đại tá leo lên một cái bục xếp bằng những thùng đựng bia. Chầm chậm, ông nhìn khắp lượt, có vẻ buồn bã, như nhìn mặt chúng tôi lần cuối cùng.
“Các anh sẽ đánh trả đối phương,” ông cất tiếng, “Những trận đánh tự vệ chấm dứt từ đây trở về sau. Các anh là những phi công chọn lọc của phi đoàn Yokosuka, những phi công danh tiếng nhứt của Nhật Bản. Tôi tin rằng hàng động của các anh hôm nay sẽ gây thêm tên tuổi và truyền thống vẻ vang của không đoàn.” Ông lưỡng lự một lúc. “Để cho danh dự vốn sẵn có của các anh trở nên bất diệt, các anh phải chấp nhận nhiệm vụ mà sĩ quan chỉ huy của các anh đã giao phó cho các anh. Các anh không thể, tôi lập lại, các anh không thể hy vọng tồn tại. Trong đầu óc của các anh chỉ có hai tiếng “tấn công”. Hôm nay, các anh sẽ đâu mặt với một lực lượng địch được bảo vệ, dĩ nhiên bởi hàng nhiều trăm chiến đấu cơ. “Do đó, tấn công cá nhân phải được quên đi. Các anh không thể tấn công vô các mục tiêu từng người một. Các anh phải luôn luôn kết hợp thành một nhóm duy nhứt. Các anh phải đánh mở đường xuyên qua những phi cơ nghinh chiến của địch quân và…” Đại tá Miura đứng thật thẳng. “Các anh phải chúi xuống các hàng không mẫu hạm của địch quân cùng một lúc. Chúi xuống, cùng với thủy lôi, đời sống và linh hồn của các anh.” Tai tôi lùng bùng. Ông ta đang nói gì? Tôi có nghe đúng không? “… một cuộc tấn công thông thường sẽ là vô ích. Ngay nếu các anh thành công trong việc thoát khỏi màng lưới chiến đấu cơ của Hoa Kỳ, các anh cũng sẽ bị bắn rơi trên đường trở về hòn đảo này. Cái chết của các anh không lợi ích gì cho xứ sở. Đời sống của các anh sẽ bị hoang phí đi. Chúng ta không thể cho phép việc này xảy ra.” Tiếng nói của ông làm chúng tôi chấn động. “Khi tiến đến mục tiêu, các phi công chiến đấu cơ sẽ né tránh đánh nhau với phi cơ địch. Không tấn công phi cơ oanh tạc phóng thủy lôi của họ từ trên không xuống. Những gì xảy ra không cần biết, các anh cứ giữ phi cơ của các anh chung nhóm. Cánh sát cánh! Không một trở ngại nào có thể chận đứng các anh thi hành nhiệm vụ. Các anh phải làm sao bổ nhào xuống cùng lúc, để gặt hái sự hữu hiệu. Tôi biết những gì mà tôi nói với các anh không phải dễ làm, nếu không nói là khó thể làm được. Nhưng tôi tin các anh có thể làm được, và các anh sẽ phải làm. Đó là, mọi người trong các anh, cùng chúi xuống một hàng không mẫu hạm địch và đánh chìm nó.” Ông ta nhìn chúng tôi một lát rồi nói mau. “Các anh đã nhận lịnh xong.”
Tôi đứng như trời trồng! Trước đây, chúng tôi đã từng được giao phó những nhiệm vụ ít có cơ may sống sót để trở về. Nhưng ít ra tôi có cơ hội tranh đấu cho sự sống còn của mình! Rõ ràng, đây là lần đầu tiên, một phi công Nhật nhận được lịnh tạo ra một cuộc tấn công tự sát. Trong hải quân của chúng tôi đã có một qui luật bất thành văn. Theo đó, viên phi công có thể bổ nhào xuống một chiến hạm địch một khi chiếc phi cơ của hắn què quặt trên biển cả bao la, không thể nào trở về căn cứ được. Không chỉ có phi công Nhật, nhưng phi công Hoa Kỳ, Anh, Đức… cũng làm như vậy… và sẽ luôn luôn làm như vậy bao lâu mà con người còn bay và còn chiến đấu. Nhưng chưa từng có một vị Chỉ huy trưởng Không quân Nhật nào nói với các phi công của mình: “Hãy ra đi và chết!”. (Bốn tháng sau đó, Phi Đội Tấn Công Đặc Biệt Thần Phong lừng danh được tổ chức bởi Phó Đô Đốc Onishi ở Phi Luật Tân. Trước khi tung ra các phi cơ tự sát, Onishi đã hội ý với các phi công dưới quyền để nhận một sự đảm bảo hoàn toàn rằng họ sẽ hy sinh mạng sống để bảo vệ xứ sở. Các cuộc tấn công Kamikaze trước khi được tung ra phải trải qua nhiều sự sắp xếp phức tạp, nhứt là những phi cơ thi hành nhiệm vụ này đều còn trong tình trạng khả dụng và chất đầy bom cũng như được các chiến đấu cơ hộ tống đến mục tiêu. Các phi công chiến đấu cơ hộ tống nhận chỉ thị đặc biệt quay về căn cứ để báo cáo những kết quả cuộc tấn công do chính mắt họ nhìn thấy. Ở Iwo Jima, việc này hoàn toàn khác hẳn. Ngay cả những chiếc Zéro không mang bom khi thi hành nhiệm vụ hầu như đã đến kỳ phế thải cũng cất cánh. Đại tá Miura, người ban tử lịnh cho chúng tôi, đã chết vì nhiệm vụ, trong khi Phó Đô Đốc Onishi cam tâm mổ bụng sau cuộc đầu hàng của Nhật Bản.)
Những lời nói của Miura đã gây sự xúc động dữ dội cho các phi công đứng tập họp. Trường hợp những người hy sinh đời sống của họ với sự cân nhắc, thì lời nói, dáng vẻ, sự dũng cảm phi thường cũng như kinh nghiệm chiến đấu của đại tá Miura sẽ gây phấn khởi tinh thần cho họ. Nhưng hiện tại lại khác hẳn. Hiện tại, họ biết rằng họ sẽ ra đi không bao giờ trở lại, những người lên không trung lần cuối. Tư tưởng tôi hỗn độn. Tôi không phẫn nộ mà cũng không tuyệt vọng. Tim tôi, trí óc tôi có thể nói là đã đông lạnh. Tôi nhớ lại câu: “Một Samurai sống một đời sống như vậy, hắn phải luôn luôn chuẩn bị để chết.” Tuy nhiên, giáo điều Samurai không bao giờ đòi hỏi một người chuẩn bị liên tục để tự hủy. Có sự khác biệt rất xa giữa sự tự hủy và việc bước vào cuộc chiến đấu với một ý chí chấp nhận tất cả mọi thách thức và gian nan. Trường hợp sau này, cái chết được chấp nhận và, có thể, không hối tiếc. Con người sống với chiếc đầu ngẩng cao, hắn có thể chết với dáng vẻ ấy. Hắn không chôn vùi danh dự của chính mình cũng như xứ sở, và hắn mãn nguyện khi trao cho xứ sở tất cả những gì tốt đẹp nhứt mà hắn có. Bất chấp dầu sôi lửa bỏng, bất chấp kẻ thù vượt trội, hắn vẫn chiến đấu khi cần thiết, hắn tấn công khi bị áp lực. Tất cả những điều này đã hình thành đời sống của một chiến sĩ. Nhưng làm sao một người có thể giữ được trầm tĩnh và khách quan để ra đi tự hủy trong vòng một đôi giờ? Tuy nhiên, lịnh vừa ban ra nhắc nhở chúng tôi biết rằng chúng tôi vẫn còn ở trong Hải Quân, nơi mà lịnh vẫn là lịnh. Một sự yên lặng trùm lấp khi đại tá Miura dứt lời. Chúng tôi đưa tay chào. Ông ta quay lưng và các phi công tụ tập thành nhiều nhóm nhỏ. Tôi nói với hai phi công bên cánh của tôi: “Các bạn đã thấu hiểu lịnh của đại tá?” Họ gật đầu. “Tôi tin các bạn đã sẵn sàng chuẩn bị cho những gì mà chúng ta phải làm. Đây là những chỉ thị của tôi: phải sát cánh với phi cơ của tôi cho đến khi chúng ta đến mục tiêu. Không bao giờ được phá vỡ đội hình. Những gì xảy ra không cần biết, cứ đeo dính phi cơ của tôi.” Muto và hai phi công bên cánh đến nhập bọn với chúng tôi. Muto nhe răng cười và nói đùa: “Này, còn một vài giờ nữa là chúng ta bay vào cõi chết, chúng ta phải nhìn mặt nhau cái đã. Tôi muốn nhớ mấy khuôn mặt quen thuộc này một cách chắc ăn.” Hắn đã phá vỡ sự căng thẳng, chúng tôi cười và ngồi bẹp trên mặt đất. Muto không ngớt cười đùa. Tuy nhiên, một vài phút sau, tiếng cười trở nên gượng gạo và những lời nói đùa trở nên gượng gạo.
Nhiều phi công không có tên trong danh sách thi hành nhiệm vụ đến gặp chúng tôi. Họ mang cho chúng tôi thuốc hút, kẹo và nước ngọt. Dĩ nhiên, họ muốn làm cho chúng tôi vui vẻ, họ nói rằng họ rất tiếc đã không được chọn để ra đi với chúng tôi. Nhưng đôi mắt mở rộng và buồn bã ấy đã nói thêm những lời mà họ không thể nói được. Muto thôi đùa giỡn. Hắn ngồi lặng lẽ, suy tư. Nỗi căng thẳng vừa vỡ lại hiện ra.
Đã đến giờ cất cánh lần cuối cùng.
Ba phi công khác bước ra khỏi căn lều, và tất cả chúng tôi đi ra các chiến đấu cơ. Đứng bên cạnh phi cơ, tôi nhìn túi dù của mình. Thế rồi, khi một người quăng túi dù của hắn xuống đất, chín phi công khác đều làm theo. Phi cơ của tôi máy móc không được tốt vì đã bay chiến đấu ròng rã hai ngày, và năng lực thiết yếu đòi hỏi của các trận không chiến làm cho động cơ của nó gần cháy. Thông thường tôi không bao giờ gượng gạo cất cánh với một chiếc phi cơ trong tình trạng này. Nhưng hiện thời? Tôi lấy làm khó nghĩ. Tôi nhìn các chiến đấu cơ khác. Cơ khí viên đang sửa chữa ít nhứt 4 trong số 8 chiếc phi cơ sắp sửa thực hiện nhiệm vụ. Không phải một mình tôi gặp khó khăn. Nhưng ai lại đi đòi hỏi một chiếc phi cơ hoàn hảo trong nhiệm vụ này? Hãy nhớ, Sakai, đây là phi xuất một chiều. Anh chỉ cần nó lết được 450 dặm, không phải 900 dặm. Anh không trở về từ nhiệm vụ này đâu.
Tám oanh tạc cơ chạy ra phi đạo. Chiếc Zéro đầu tiên nằm trong vị thế cất cánh. Tôi chạy chầm chậm theo sau, tiếp đó là hai phi công bên cánh của tôi. Dọc theo hai bên phi đạo, các cơ khí viên và phi công khác đứng nghiêm chỉnh đầu trần, vẫy khăn khi chúng tôi lướt trên phi đạo và cất cánh. Chúng tôi bay dọc theo đội hình chữ V, và xoay hướng trực chỉ về phía hạm đội của địch quân. Tôi quay đầu, Iwo Jima là một chấm nhỏ ở chân trời, càng lúc càng nhỏ hơn, cho đến khi nó chỉ còn là một mũi kim trên mặt đại dương bao la. Tôi nhìn lại một lần nữa, khó thể thấy Iwo ở đâu. Chân trời lờ mờ và gợn sóng trước mắt tôi. Tôi cảm thấy váng vất. Khuôn mặt của má tôi thấp thoáng khắp nơi trên bầu trời. Một ảo ảnh, nhưng rõ rệt quá đỗi. Bà mỉm cười với tôi. Bà không biết rằng tôi sắp chết bằng cách tự giết mình. Tôi nhìn mặt má tôi trừng trừng. Ảo ảnh tan dần và biến mất. Một nỗi cô đơn vây phủ lấy tôi. Tôi như tan biến hẳn trong biển cả vô tận. Khắp nơi chỉ là trời nước mênh mông. Tôi nhìn những chiến đấu cơ bay phía trước tôi, các oanh tạc cơ bay phía trước nữa và thấp hơn một chút. Chúng hình như không chuyển động, đứng một chỗ giữa không gian, lung lay nhè nhẹ, lên xuống rập rình trên một tấm đệm không khí căng phồng. Mọi thứ có thật không?
Tôi lắc đầu để xua đuổi sự mù mịt trước mắt. Nhạc! Hãy lắng nghe! Tiếng dương cầm. “Khúc nhạc dưới trăng”… Hatsuyo đã đàn một lần cho tôi nghe. Hatsuyo! Khuôn mặt nàng hiện ra… một ảo ảnh? Tiếng nhạc lúc đầu phảng phất, rồi dần dần lớn hơn, phá vỡ hai lỗ tai tôi. Tôi chưa bao giờ nói với nàng “Hatsuyo, anh yêu em.” Tôi hét lớn. “Hatsuyo, anh yêu em!” Không ai hết. Chỉ một mình tôi. Tôi nghĩ về nàng… tôi xoay lại nhìn Iwo Jima. Tôi chỉ thấy biển cả vô tận. Tiếng nhạc biến mất. Bầu trời trong sáng trở lại. Động cơ máy bay đập mạnh vào tai tôi. Mấy chiếc Zéro giữ vững đội hình hoàn hảo, chuẩn xác, cùng nhau lướt về phía định mạng của máu và lửa. Niềm cô đơn cũng tan hẳn. Anh quá bi ai, Sakai. Anh là một phi công. Một Samurai. Nhiệm vụ… hãy làm những gì mà anh phải làm!
Tôi cố gắng sắp xếp kế hoạch cho những phút giây cuối cùng trong không gian, phương pháp nào để chúi xuống một hàng không mẫu hạm hữu hiệu nhứt. Chỗ nào yếu nhứt trên chiếc tàu? Ống khói! Chui xuống ống khói. Ba chiến đấu cơ hè nhau đâm vô vỏ mỏng ở ngay mực nước? Hy vọng trên sàn tàu có nhiều dãy phi cơ, bình của chúng chứa đầy xăng, bên trong chứa đầy bom. Chúi xuống những chiếc phi cơ, bom sẽ nổ, xăng sẽ cháy, biến chiếc tàu thành một địa ngục với hàng ngàn người đẫm trong máu, vang dậy tiếng la hét và ngập tràn sự kinh khiếp.
Đại dương trôi lướt phía dưới tôi. Chớp mắt, nhiều phút trôi qua và tôi nhìn thấy, xa về bên phải, một cột khói lả theo chiều gió, trôi chầm chậm trên mặt nước. Đó là hòn đảo Pagan, nổi trên mặt biển khoảng 90 thước, với một nhóm núi lửa ngầm, toả hơi nghi ngút qua sức nóng lan rộng và luồn sâu dưới nước. Nó nhắc tôi, nhớ lại những hình ảnh trong kinh Phật mà tôi từng coi qua lúc còn nhỏ. Mỉa mau thay, mảnh đất cuối cùng mà tôi được nhìn thấy là một mảnh đất lờ mờ, sôi sụt, bốc lửa và gớm ghê. Bốn mươi phút sau, nhiều đám mây đen xuất hiện ở chân trời, phía trước chúng tôi, cách mặt nước hàng ngàn bộ. Những đám mây ấy đang trút cuồng phong và mưa lũ xuống mặt biển phía dưới. Tôi nhìn bản đồ. Lực lượng đặc nhiệm của địch quân, do trinh sát cơ chỉ điểm, nằm ở một nơi nào đó dưới cơn mưa bão dữ dội này.
Chúng tôi đã ở trong vòng bán kính tuần thám của phi cơ địch, và ra đa trên các chiến hạm chắc chắn đã phát hiện chúng tôi. Tám oanh tạc cơ chúi mũi xuống, chiến đấu cơ chúng tôi theo sát phía sau. Ở 16.000 bộ, chúng tôi rớt vô một đám mây dày đặc, trở thành kẻ đui mù trong nhiều giây, rồi lướt xuyên qua và tiếp tục chúi xuống. Ở cao độ 13.000 bộ, một vật gì nhá sáng trên bầu trời, xa về phía trước, và trên chúng tôi nhiều ngàn bộ. Hiện tượng này lập đi lập lại nhiều lần. Đó có thể là do cánh của một chiếc phi cơ phản chiếu ánh sáng mặt trời. Tôi nhìn thấy chiến đấu cơ đầu tiên. Một chiếc Hellcat, với thân và đôi cánh rộng không thể lầm lẫn được, lướt xuống, xuyên qua những đám mây. Một chiếc khác, và nhiều chiếc nữa. Bao nhiêu chiếc? Để coi! Vẫn lướt xuống xuyên qua những đám mây, chiếc này đến chiếc khác, một dọc dài các chiến đấu cơ hình như vô tận. Tôi bắn một loạt để báo cho các phi công khác. Phi đội trưởng và Muto lắc cánh đáp nhận. Ra đa của Hoa Kỳ đã chỉ điểm vị trí của chúng tôi một cách chính xác. Nhóm chiến đấu cơ địch chúi khỏi các đám mây cách phía trước chúng tôi không đầy một dặm, và cách phía trên chúng tôi chỉ nửa dặm.
Tôi bắt đầu đếm, và chỉ đếm con số mười bảy. Đối phương đã nhìn thấy chúng tôi! Chiếc phi cơ thứ mười bảy, tức chiếc mà tôi có thể đếm, bất ngờ lăn tròn về phía trái và chúi xuống. Lập tức, những chiếc còn lại vung ra hai bên và lướt xuống chúng tôi. Lời nói của Miura văng vẳng bên tai tôi: “Không chấp nhận chiến đấu… giữ vững phi cơ các anh chung nhóm.” Lời nói thật minh bạch. Nhưng làm sao đây? Hãy nhìn những chiến đấu cơ đang lướt đến. Bóng dáng của những chiếc Hellcat thấp thoáng khắp mọi nơi, nhiều chiếc đã lấy thăng bằng sau khi chúi xuống để từ phía dưới đánh ngược lên phi cơ của chúng tôi. Một nhóm hai mươi chiếc Hellcat nhìn hung hăng vồ ba chiếc Zéro của Muto. Còn nhóm khác nữa, hơn ba mươi chiếc, bổ nhào xuống rồi lấy thăng bằng và vượt lên nhanh chóng, tấn công các oanh tạc cơ đang bay phía dưới. Tôi nín thở khi nhóm Hellcat chỉa mũi vô các oanh tạc cơ. Hai tiếng nổ làm mở cả không gian phát ra, chiếc oanh tạc cơ thứ nhứt và thứ nhì biến mất. Thủy lôi mang dưới bụng đã xé nát hai chiếc phi cơ làm muôn ngàn mảnh nhỏ li ti. Bấy giờ những chiếc Hellcat đang nằm trong tầm hoả lực của ba chiếc Zéro do Muto cầm đầu, nhưng cả ba đã tránh né bằng cách lộn nhào theo hình thắt nút dây. Tôi đấm tay vô cửa kiếng một cách bất lực. Muto đã có trong tay một tử điểm. Hắn có thể lăn về bên phải và đẩy hai chiến đấu cơ địch rời khỏi không trung mà không cần một cố gắng nào, nhưng hắn không làm.
Một nhóm Hellcat khác lướt đến ba chiếc Zéro của tôi. Tôi kéo cần điều khiển lại phía sau, vọt tới và xoay trôn ốc thật ngặt với hai phi công bên cánh đeo dính sau đuôi tôi. Chúng tôi lấy thăng bằng để nhìn thấy nhiều chiếc Hellcat khác xông tới với các họng súng ở hai bên cánh rực lửa. Tôi lăn tròn. Thật nhanh. Thêm nhiều chiến đấu cơ xông tới nữa. Lăn tròn nữa. Hai lần. Lăn tròn qua trái. Lấy thăng bằng. Nhiều đối thủ lại xông tới, có tất cả bao nhiêu? “… Không chấp nhận chiến đấu…” Có thể y lịnh mãi được không? Tôi không thể. Không, ngay bây giờ. Với bầu trời dầy đặc chiến đấu cơ địch, tôi tránh né như vậy đã đủ lắm rồi. Tôi xoay như chớp, chỉa mũi vô một chiếc Hellcat đang chúi xuống. Những viên đạn của tôi đẩy bật nó ra lập tức. Chiếc phi cơ lảo đảo dữ dội rồi chúi xuống biển, kéo theo một vệt khói càng lúc càng mau. Không có thời giờ để nhìn theo nạn nhân, tôi nhấn bàn đạp bẻ lái, kéo cần điều khiển thật mạnh. Đúng lúc. Một chiếc Hellcat lướt vụt qua chiếc Zéro của tôi, tiếp theo là những chiếc khác và nhiều chiếc khác nữa. Tôi không có thời giờ để nhả bình xăng phụ dưới bụng. Thế rồi chiếc phi cơ địch cuối cùng lướt qua, chúi thẳng xuống biển, và bắt đầu lấy thăng bằng để quày lại. Tôi nhả bình xăng phụ và đảo ngược. Các phi cơ bên cánh vẫn còn với tôi. Nhờ trời, họ ngoan ngoãn thi hành đúng các chỉ thị của tôi, bám sát một bên tôi, đua tài xoay trở với tôi. Mình mẩy tôi ướt đẫm. Tôi định đưa tay lau mặt. Không kịp. Cả 16 chiến đấu cơ địch lại lướt lên cùng một lúc nhảy xổ vô ba chiến đấu cơ của tôi. Một lần nữa, tôi lại chúi, lộn, đảo và lăn. Cần điều khiển lên, xuống, giữa, phải, trái. Đá bàn đạp lái. Loé sáng, những lằn đạn. Trật, và trật nữa. Bọn phi công Mỹ nhắm yếu. Tôi liếc nhìn nhóm oanh tạc cơ. Đó là một lò sát sinh? Uể oải, chậm chạp, với những trái thủy lôi trong bụng, trôi lờ đờ trong không khí, không được chiến đấu cơ bảo vệ vì mắc bận đánh trối chết với lũ Hellcat. Một trái cầu lửa biến mất trong một tia chớp hừng hực. Một oanh tạc cơ nữa nổ tung… Không đầy một phút, cả bảy oanh tạc cơ đều đi đời. Ngay cả một cái thân hoặc một cái cánh nguyên vẹn cũng không nhìn thấy. Tình trạng của mấy chiếc Zéro cũng không lấy gì làm tốt hơn. Tôi nhìn thấy hai chiếc bao trùm trong lửa đỏ, lăn lộn liên hồi. Không viên phi công nào cố nhảy ra khỏi phi cơ. Họ ở lại và chết cháy. Tôi không nhìn thấy một chiếc Hellcat nào gặp rắc rối, ngoại trừ chiếc bị tôi bắn rơi. Chúng tôi hầu như không thể nào né tránh chiến đấu, bởi đối phương quá nhiều và cứ bu theo chúng tôi. Chiến đấu cơ Hellcat nhanh nhẹn hơn chiến đấu cơ của chúng tôi, tốc lực cũng mau hơn nhiều. Chỉ nhờ sự thiếu kinh nghiệm của bọn phi công địch đã cứu chúng tôi. Nếu họ có kinh nghiệm hơn chút nữa, mỗi chiếc Zéro sẽ bị hạ không đầy một phút. Hiện thời chỉ nhóm của tôi còn hiện diện trên bầu trời. Những chiếc Hellcat đã quét sạch các phi cơ Nhật khác, bấy giờ bâu đến kết hợp với 16 chiến đấu cơ đang tấn công nhóm của tôi.
Những chiếc cánh màu xanh và ngôi sao màu trắng chiếu lấp lánh với các họng súng đều rực lửa, ở trên và ở dưới, bên phải và bên trái chúng tôi. Đâu đâu cũng có bóng dáng Hellcat. Những chiếc Hellcat này nhắc nhở tôi nhớ hồi ở Lae, lúc 12 chiến đấu cơ của chúng tôi cố hạ một oanh tạc cơ đơn độc. Chúng tôi đã xé nát đội hình để tấn công đối thủ một cách nôn nóng. Hiện thời mấy chiếc Hellcat cũng làm giống như vậy. Chúng tôi trở nên hỗn loạn, cố tránh né hoả lực và đụng chạm với đồng bọn hơn là với chúng tôi. Chúng tôi bay chính giữa một nhóm Hellcat đông đảo khủng khiếp, và mặc dù đối phương lâm vào tình cảnh hỗn loạn, chúng tôi cũng không thể nào tìm thấy lối thoát. Chúng tôi đã ở cách Iwo Jima 400 dặm, và vẫn còn cách các hàng không mẫu hạm của Hoa Kỳ đâu khoảng 50 dặm. Lực lượng này chúng tôi vẫn chưa nhìn thấy và không thể nào đảo mắt tìm kiếm. Cho dù chúng tôi có nhìn thấy đi nữa, làm sao chúng tôi lướt qua khỏi 60 chiếc Hellcat, chiếc nào cũng bay mau hơn chúng tôi? Một cơ may nhỏ đã đến với chúng tôi. Cuộc không chiến di động về phía một đám mây dày đặc treo lơ lửng trên mặt biển.
Một chiếc Hellcat bỗng tách khỏi vòng vây, bỏ lại một khoảng trống. Tôi lăn tròn và đẩy cần điều khiển về phía trước, chúi hết tốc lực vô đám mây. Tôi liếc lại phía sau. Hai phi cơ bên cánh vẫn đeo dính tôi. Trong nhiều phút, tôi không nhìn thấy gì hết. Thế rồi phi cơ chúng tôi lướt ra khỏi đám mây. Tôi nhìn hai chiếc Zéro, xa phía dưới phi cơ của tôi, đang xoay tít dữ dội, nhưng trong một vài giây, chúng tôi lấy lại thăng bằng, và vượt lên. Bầu trời không còn bóng dáng một chiếc Hellcat nào. Chúng tôi bay trong đội hình chữ V và xoay trở về hướng Nam. Chúng tôi thở phào thoát nạn, nhưng tương lai đen tối đang chờ đợi. Những đám mây dầy đặc hơn khi chúng tôi tiến gần đến hạm đội địch. Mây trở nên dầy đặc hơn nữa, bay là là cách mặt biển không đầy 700 bộ. Một cơn mưa mù mịt đổ xuống, mạnh đến nỗi nhiều lần ba chiếc Zéro lâm hiểm. Mưa quật vô cánh phi cơ như một giòng thác. Chúng tôi vẫn phải lướt tới. Mây càng lúc càng sà thấp xuống mặt biển. Chúng tôi chúi xuống dần chỉ còn cách mặt nước 60 bộ, quét cánh trên đầu những cơn sóng dâng cao. Bão nổi lên dữ dội hơn. Tiếng gió át cả tiếng động cơ máy bay. Mưa quật mạnh khủng khiếp trên cánh và trên thân. Chúng tôi không thể bay thấp hơn. Hiện thời chúng tôi trở nên mù hẳn. Tôi chỉ nhìn thấy màn mưa bao quanh. Không nhìn thấy mặt nước, nhưng chúng tôi biết rằng chỉ cần bước thêm bước nữa, tất cả chúng tôi sẽ biến mất trong biển cả. Ba mươi phút trôi qua. Bão vẫn không giảm. Theo bản đồ, tôi phỏng định phi cơ đang hướng thẳng đến lực lượng đặc nhiệm của đối phương. Ngay cả một hạm đội đồ sộ như vậy mà chúng tôi cũng không thể nào tìm thấy.
Bầu trời càng lúc càng u tối. Đã bảy giờ chiều có hơn. Tôi lo lắng. Cho dù chúng tôi lướt khỏi giông bão, trời đang tối nhanh chóng sẽ khiến chúng tôi không thể nhìn thấy hạm đội địch… Tôi liếc nhìn hai chiến đấu cơ bám sát một bên đuôi. Hai phi công trẻ này sẽ ra sao? Họ ngoan ngoãn theo tôi, sẵn sàng chấp nhận bất cứ những gì mà tôi đã chọn. Nếu tôi chúi xuống biển, họ cũng sẽ chúi theo tôi. Làm gì đây? Tôi soát lại la bàn và đảo một vòng thật rộng. Hai chiến đấu cơ vẫn theo sát phía sau tôi. Tôi không định chắc được vị trí của mình, bởi lẽ chúng tôi đã quần thảo với địch quân, chúi vô mây, và sau đó bay thẳng xuyên qua mưa bão. Tôi có thể ở bất cứ một nơi nào đó trên mặt biển… ngay cả một vòng 180 độ vừa rồi có thể đưa chúng tôi về hướng Nam thay vì về Iwo Jima như dự định. Nhưng tôi phải trở về, tôi phải cố gắng! Lời nói cương quyết của đại tá Miura lại vang đến bên tai tôi “… cả nhóm phải chúi xuống các hàng không mẫu hạm địch!”
Tôi hầu như muốn quày phi cơ trở lại để tìm kiếm chiến hạm địch. Tôi vẫn là một sĩ quan hải quân Hoàng Gia, nơi mà mạng lịnh vẫn là cái gì tuyệt đối. Chưa từng nghe nói đến có người đặt câu hỏi, đúng hoặc sai, trước những mạng lịnh được ban ra. Cho dù tôi trở về Iwo Jima được, làm sao tôi có thể đối diện với vị chỉ huy trưởng vừa giao nhiệm vụ cho tôi? Tất cả là một sự dằng co cùng cực trong tôi. Cho đến nhiều năm sau này tôi mới hiểu hành động của mình là một hành động có ý thức. Nhưng ngay lúc đó, qua nhiều năm chịu đựng thứ kỷ luật cứng rắn và tàn nhẫn, sự dằng co của tôi không thể nào tả xiết. Qua những giây phút khủng khiếp trong phòng lái của chiếc Zéro này, tôi đã chiến đấu và đã thành công trong việc phá vỡ hệ thống chỉ huy và truyền thống của hải quân. Cho dù cả ba chúng tôi tìm thấy chiến hạm, cho dù chúng tôi vượt khỏi chiến đấu cơ Hoa Kỳ, cho dù chúng tôi chúi xuống chính xác, chúng tôi sẽ đạt được kết quả gì với ba chiếc phi cơ nhỏ nhoi, không mang bom, chỉ có một số đạn đại bác và đại liên? Hai phi công trẻ tuổi bay theo tôi đã giao phó tính mạng của họ trong tay tôi, họ đã chứng tỏ tài ba tránh né phi thường của họ trong cuộc đụng độ vừa qua. Họ đã không lùi bước khi bay xuyên qua một cơn mưa bão. Mạng sống của họ phải dành một nơi tốt hơn là đâm đầu xuống biển. Họ thuộc về xứ sở, họ phải có dịp may để bay và chiến đấu trở lại. Do đó mà quyết định của tôi đã được tạo ra.
Tôi quay về Iwo Jima. Đại dương đã biến mất trong màn đêm. Tôi tuyệt đối không nhìn thấy một vật gì phía dưới. Tôi chỉ nhìn thấy những vì sao chiếu lấp lánh trên bầu trời. Gần một giờ trôi qua, chúng tôi vẫn lướt tới. Giây phút của định mạng. Nếu tôi bay đúng hướng, bấy giờ Iwo Jima sẽ ở phía dưới tôi. Nếu không… tôi chưa bao giờ cảm thấy nỗi lạnh lẽo nào như nỗi lạnh lẽo của đại dương ôm choàng lấy khi chiếc Zéro đâm đầu xuống. Nhiều phút nữa trôi qua. Tôi hướng mắt về phía chân trời, hy vọng nhìn thấy một vật gì, một chấm màn đêm nổi bật lên bầu trời đầy sao. Vật gì đó đã thấy kia rồi. Nó đen và to lớn khác thường. Iwo Jima! Chúng tôi đã trở về!
Tôi chúi mũi xuống, Shiga và Shirai tiếp theo sau. Iwo bao trùm trong bóng tối khi chúng tôi đảo phía trên. Thế rồi bốn ánh sáng leo lét xuất hiện. Nhưng đó là những ngọn lửa huyền diệu, kì bí đối với tôi. Những ngọn đèn hiệu dọc theo hai phi đạo chánh. Chúng chớp tắt, báo hiệu cho phi cơ đáp xuống. Những người trên đảo đã nhận ra tiếng động cơ của chúng tôi. Một cảm giác nhẹ nhõm tràn ngập trong tôi. Tôi hầu như mềm lả, sự căng thẳng trong suốt ba giờ bay trở về đã bất thần chùng lại.
Bốn ngọn đèn không soi rõ phi đạo. Thường thường chúng tôi xử dụng 20 ngọn, nhưng 16 ngọn đã bị bom phá hủy. Bốn ngọn hay bốn mươi ngọn đèn, đối với tôi cũng vậy thôi. Sau những gì mà chúng tôi đã bỏ lại sau lưng, tôi cảm thấy có thể đáp xuống trong bóng tối. Thế rồi tôi đáp xuống, lướt trên sân bay với hai chiến đấu cơ liên tiếp theo sau. Đèn tắt. Một đám đông phi công và cơ khí viên chạy ra phi cơ của chúng tôi. Khi họ tới, tôi nhìn họ một thoáng. Tôi cảm thấy không được tự nhiên khi đối diện với họ. Tôi nhảy xuống đất và bước đến Bộ Chỉ Huy. Đám đông không ai cố giữ tôi lại. Mọi người đều biết cảm nghĩ của tôi, họ tránh sang một bên khi tôi bước ngang qua phi trường với hai phi công bên cánh theo sau. Trong bóng tối, tôi đụng phải một người. Tôi thụt lùi. “Ai đó?” Tôi hỏi lớn. Không có tiếng trả lời. Tôi bước lại người tôi vừa đụng, hắn ngồi bệt trên mặt đất. Tôi có thể nhận ra bộ đồng phục phi công. Tôi cúi xuống nhìn mặt hắn.
“Muto!”
Viên phi công ngồi củ rũ, đầu gục trên đôi tay.
“Muto, anh bị thương hả?”
Muto ngước nhìn tôi. “Không.” hắn thẫn thờ đáp. “Tôi không bị thương.” Hắn đứng dậy rồi nhìn Shiga và Shirai một cách lạ lùng. “Sakai… anh mang về cả hai phi công bên cánh của anh!” Hắn thở hổn hển. Hắn nhìn xuống đất, bật khóc. “Sakai… bạn hãy chửi rủa vào mặt tôi đi. Hãy phỉ nhổ tôi đi!” Nước mắt hắn đầm đìa trên mặt. “Tôi bắt buộc phải quay về,” hắn hét lên trong sự đau lòng. “Một mình!”. Tôi nắm vai hắn. “Tôi biết cảm nghĩ của anh, Muto. Nhưng bây giờ không thể làm gì hơn nữa. Quá muộn. Tất cả đã trôi qua. Đã là quá khứ.” Tôi lay vai hắn nhè nhẹ, vào chỉ Bộ chỉ huy: “ Muto, chúng ta cùng vô trong đó.” Hắn gật đầu. Chúng tôi không nhìn nhau. Và rồi có một điều gì chận lấy tim tôi. Cơn thịnh nộ trước những gì xảy ra trong cái ngày khủng khiếp này đã nguội lạnh trong tôi bỗng nhiên nổi dậy. Tôi nghĩ những giọt nước mắt của viên phi công trẻ tuổi đầy hứa hẹn này là những giọt nước mắt lo sợ. Lo sợ sẽ là một tên hèn nhát trước một nhiệm vụ ngu xuẩn. Tôi thề rằng, bất kể vấn đề gì xảy ra, nếu một tên sĩ quan nào trút giận lên mình viên phi công trẻ này, tôi sẽ hạ gục hắn. Tôi sẽ nhồi hắn thành bột.
Đại tá Miura ngồi trơ sau bàn làm việc. Ông lắng nghe chăm chú khi tôi trình bày những gì xảy ra. Ông nhìn tôi chăm chú rồi bình thản nói: “Cảm ơn anh, Sakai!”. Chỉ mấy tiếng vậy thôi. Tới phiên Muto trình bày. Dĩ nhiên, những gì hắn trình bày đều xác nhận những lời tôi vừa nói, cũng chỉ có bốn tiếng. “Cảm ơn anh, Muto!” Chúng tôi chào cáo từ. Đại tá Miura vẫn ngồi bất động, gương mặt u tối, đôi mắt bi thiết. Tôi cảm thấy buồn cho ông ta, người đã ra lịnh cho thuộc cấp thi hành một nhiệm vụ thất bại trước khi bắt đầu. Nhưng phải ra lịnh, bởi vì ông ta không còn cách nào khác để chọn, bởi vì đó là cách tốt nhất cho xứ sở của ông. Khi chúng tôi bước ra khỏi bộ chỉ huy, một người chạy theo chúng tôi. Đó là trung tá Nakajima. Ông đưa hay tay nắm lấy vai tôi, khuôn mặt rạng rỡ. “Sakai!” ông kêu lên. “Tôi hết mong anh trở về!” Tôi muốn nói, nhưng Nakajima chận lời: “Anh không cần biện hộ. Tôi đã biết anh quá nhiều, đồng đội của tôi! Ai ở trên hòn đảo này cũng biết những gì đã xảy ra hôm nay, do đó, việc duy nhứt của anh là trở về. Đừng nhăn nhó nữa! chúng ta sẽ còn nhiều cơ hội, chúng ta vẫn còn có thể đánh nữa mà! Anh về được đây là hay lắm rồi!”. Những lời của Nakajima làm tan băng giá trong tim tôi. Tôi không còn cô độc. Nhưng những lời tử tế của ông cũng không thể nào đẩy lui hoàn toàn cơn phẫn nộ trong lòng tôi.
Các phi công khác chạy đến với chúng tôi, tay mang lề mề thuốc hút, kẹo bánh và những thức ăn khác. Chúng tôi chỉ nói cám ơn và từ chối. Tôi không sao nuốt nổi một miếng nào vô họng. Một giờ sau, một liên lạc viên chạy vô phòng tôi: “Một công điện vừa nhận được từ phía Nam Iwo,” hắn la lớn. “Một trong những oanh tạc cơ vừa đáp xuống đó. Phi hành đoàn an toàn!” Viên phi công tuôn hết thủy lôi và quày phi cơ chạy về. Hắn biết rằng dẫu hắn có cố gắng một ngàn năm đi nữa hắn cũng không thể nào chui lọt bức tường lửa do những chiếc Hellcat tạo ra. Tin tức hầu như xoá hết sự căng thẳng. Nó cho thấy rằng không phải chỉ có tôi và Muto đã chặt đứt “sợi dây xích rắn chắc” của truyền thống và mạng lịnh.

Chương XX ― Rời Iwo Jima

Suốt hai ngày, chúng tôi sống chui rúc như chuột, cố vùi mình xuống bụi cát của núi lửa Iwo Jima càng sâu càng tốt. Suốt 48 tiếng đồng hồ, mười sáu chiến hạm Hoa Kỳ chậm rãi chạy lui chạy tới, hai bên hông tím thẫm ánh lửa loà sáng, tuôn ra những khối sắt thép gào, làm rung chuyển từ đầu đến cuối hòn đảo. Chưa bao giờ tôi cảm thấy mình bất lực và nhỏ nhoi như tôi đã cảm thấy trong hai ngày này. Chúng tôi bó tay, không biết cách nào để chống trả. Mọi thứ trên hòn đảo đều bị xé nát thành manh múm. Không một ngôi nhà nào còn đứng vững. Không một căn lều nào thoát khỏi. Cả bốn chiến đấu cơ trở vừa về từ phi xuất cuối cùng cũng bị đạn đại bác nghiền nát. Nhiều trăm binh sĩ bộ binh và hải quân thiệt mạng. Con số bị thương gấp đôi. Iwo nằm bất tỉnh. Mọi người đều ù tai nhức óc dưới hàng nhiều ngàn quả đạn đại pháo rớt không ngưng nghỉ lên hòn đảo nhỏ bé.
Binh sĩ thuộc tiểu đoàn phòng thủ trở nên đần độn, ngù ngờ bởi cuộc pháo kích khủng khiếp mà họ đã chịu đựng. Đầu óc họ rối loạn, họ ăn nói không đâu vô đâu. Nhưng nhóm phi công nhỏ nhoi còn tồn tại đã gây sửng sốt không kém gì trận mưa pháo. Nhỏ nhoi, nhưng nhóm phi công không có phi cơ chúng tôi quyết tâm bảo vệ hòn đảo, chống lại cuộc đổ bộ mà mọi người đều tin tưởng sẽ xảy ra không chóng thì chầy. Chúng tôi tổ chức thành “Đại đội Thủy quân Iwo Jima” thề nguyền đâu lưng với những binh sĩ bộ binh còn sống sót chiến đấu cho đến người cuối cùng. Chúng tôi nhận võ khí và đạn dược. Chắc chắn chúng tôi sẽ bị tiêu diệt cấp kỳ. Nếu người Mỹ chiếm Saipan (việc này hình như đã xảy ra rồi), nếu họ nắm ưu thế tuyệt đối trên không, nếu các tàu chiến của họ khinh thường hạm đội của chúng tôi, chạy qua chạy lại sát Iwo Jima một cách ngạo mạn, thử hỏi họ không thể nào nuốt trôi hệ thống phòng thủ le que của chúng tôi hay không?
Truyền tin Iwo Jima kêu gọi Yokosuka gởi viện binh liên hồi. Chúng tôi xin thêm chiến đấu cơ. Chúng tôi xin bất cứ thứ gì mà chúng tôi có thể bay được! Yokosuka không có gì cả. Ba mươi chiến đấu cơ Zéro theo chúng tôi đến Iwo Jima là những chiến đấu cơ khả dụng cuối cùng. Không có hơn nữa! Rối loạn đang ngự trị tại Bộ Tư Lịnh Tối Cao ở Đông Kinh.
Tiếng la hân hoan, tiếng thét vui mừng đánh thức chúng tôi vào một buổi sáng, không lâu sau cuộc oanh kích tàn khốc. Hải quân không quên chúng tôi. Nhiều quân vận hạm xuất hiện ở chân trời, hướng về hòn đảo. Chúng tôi chạy xuống bờ biển vừa cười vừa la vừa nhìn các quân vận hạm phụt lên những tia lửa và nước, chìm ngay trước mắt chúng tôi. Tiềm thủy đỉnh Mỹ đã tiên đoán một cuộc di chuyển như vậy và chờ đợi để ra tay. Thảm hoạ cuối cùng này là thảm họa quyết định. Nó trở thành hiển nhiên rằng chúng tôi đang thoi thóp, rằng trong vòng một hoặc hai giờ sau cuộc đổ bộ, quân Mỹ sẽ kiểm soát Iwo. Chúng tôi cảm thấy chỉ còn sống sót một đôi ngày. Quân Mỹ không đến. Hết giờ này sang giờ khác, các quan sát viên trên những vọng canh từ đầu đảo đến cuối đảo chăm chăm nhìn ra biển, tìm kiếm hạm đội đổ bộ. Hết lần này đến lần khác, một quan sát viên vì quá căng thẳng tưởng như nhìn thấy một vật gì đó trên mặt biển nên vội vã báo động. Chuông, tù và, trống hay bất cứ thứ gì có thể gây ra tiếng động, đã phá tan sự yên tĩnh của hòn đảo với một âm thanh khiếp hãi. Chúng tôi lăn khỏi giường, mặt mày đanh lại, ghìm võ khí, sẵn sàng chiến đấu. Nhưng không có gì xảy ra.
Dĩ nhiên, chúng tôi không biết hạm đội Mỹ đã quay hướng sang Phi Luật Tân, và cho mãi đến tám tháng sau họ mới quày lại Iwo Jima. Trong suốt tám tháng này, trung tướng Tadamachi Kuribayashi đã đặt chân lên hòn đảo, mang theo 17.500 binh sĩ bộ binh và gần 6.000 binh sĩ hải quân. Ông biến Iwo Jima thành một pháo đài kiên cố, với những công sự nổi và hệ thống phòng thủ ngầm mạnh mẽ. Ông đổ binh sĩ cho đến khi hòn đảo không còn chỗ để chứa. Sau này, nhiều nhân vật lãnh đạo quân sự Nhật Bản cho rằng cuộc chiến sẽ kết thúc sớm hơn nếu người Mỹ tấn công Iwo Jima vào tháng Bảy năm 1944, thay vì chần chờ cho đến tám tháng sau. Theo những nhân vật này, cuộc đổ bộ ở Phi Luật Tân là một cuộc đổ bộ vĩ đại và đắt giá, rất thành công đối với người Mỹ, nhưng lại là một mặt trận vô nghĩa, gây trì trệ sự chiến bại đã nhìn thấy trước mắt của Nhật Bản.
Cuối cùng, cuộc đổ bộ được phỏng đoán từ lâu đã đến vào ngày 19 tháng Hai năm 1945, qui tụ một sức mạnh quân sự vĩ đại. Theo hải quân Hoa Kỳ, lực lượng của cuộc đổ bộ gồm 495 chiến hạm, trong đó có 17 hàng không mẫu hạm. Tin tức chánh thức của chính phủ Hoa Kỳ cho biết thêm về con số phi cơ không thể tưởng tượng đã yểm trợ cho cuộc đổ quân lên Iwo Jima: 1170 chiến đấu cơ và oanh tạc cơ. Tổng số 75.144 binh sĩ chiến đấu Hoa Kỳ đã tham dự vào mặt trận gay go nhứt của toàn thể cuộc chiến này. Khi các trận đánh trên hòn đảo chấm dứt, 5.324 binh sĩ Hoa Kỳ thiệt mạng và 16.000 bị thương. Cho mãi đến ngày 16 tháng Ba, Hoa Kỳ mới công bố đã kiểm soát được hòn đảo hoàn toàn, khi tên quân phòng thủ cuối cùng của Nhật Bản bị giết.
Sau nhiều lần báo động đổ bộ hụt, một công điện từ Yokosuka đã gây kinh ngạc cho chúng tôi. Bộ Tư Lịnh Yokosuka thông báo cho chúng tôi biết tất cả sĩ quan tham mưu và phi công được rút về Nhật bằng phi cơ đưa tin. Những phi cơ này đang trên đường đến Iwo Jima. Việc bất ngờ này đã gây hưng phấn cho bọn phi công chúng tôi. Chúng tôi đã chuẩn bị chiến đấu đến hơi thở cuối cùng trên mặt đất… và bây giờ mạng sống của chúng tôi được phục hồi. Chúng tôi buông súng và chạy ùa ra phi trường chánh tiếp tay với các cơ khí viên và bộ binh để lấp hàng trăm lỗ thủng do đạn đại pháo địch gây ra. Chúng tôi không bao giờ hy vọng một phép lạ xảy ra do đó không ai nghĩ đến việc sửa chữa phi đạo sau cuộc pháo kích ngày 4 tháng Bảy. Tôi nằm trong số những phi công biến thành cu li, làm việc sốt sắng và hăng say. Dĩ nhiên, không phải tất cả mọi người đều vui vẻ. Còn những người phải ở lại. Chẳng hạn như các nhân viên bảo trì cũng như đơn vị bộ binh phòng ngự. Những người này, không ai thốt một lời phản kháng quyết định bỏ họ ở lại, nhưng có thể nhìn thấy sự đố kỵ và phẫn uất trên nét mặt của họ.
Quá trưa ngày hôm đó, những chiếc phi cơ đưa tin đầu tiên đáp xuống. Đó là những oanh tạc cơ phế thải, lần lượt sà sát mặt nước để tránh ra đa trên các chiến hạm địch quanh quẩn trong khu vực, khám phá. Thật may cho chúng tôi, trong suốt thời gian phi cơ đáp xuống và cất cánh, không có một chiến đấu cơ nào của Hoa Kỳ xuất hiện. Có tất cả 7 oanh tạc cơ hai máy đến chở những người được chọn để trở về Nhật. Ngay cả hệ thống quân giai chặt chẽ đã từng áp dụng cũng trở thành vô hiệu trong tình cảnh tuyệt vọng của chúng tôi ở đây. Mỗi người được di tản lần lượt lên phi cơ theo thứ tự xếp hàng. Nhóm của tôi gồm 11 hạ sĩ quan và binh sĩ phải ở lại vì không đủ chỗ. Chúng tôi nhìn đăm đăm theo chiếc phi cơ cuối cùng lướt trên không trung trực chỉ về Nhật. Ngày hôm sau, một phi cơ duy nhứt quày lại hòn đảo để đón chúng tôi. Tôi mất tin tưởng khi nhìn thấy chiếc phi cơ lảo đảo trên phi đạo. Không chỉ là một chiếc phi cơ phế thải, nhưng còn tồi tệ đến nỗi khó thể tưởng nó có thể bay được. Với 11 người chúng tôi chất lên, chiếc phi cơ xiên xẹo chạy ra phi đạo. Nó không thể nào đạt đủ tốc lực để cất cánh, và một động cơ bốc khói từng cuộn. Viên phi công phải quay lại, và các cơ khí viên bắt tay sửa chữa ròng rã hai tiếng đồng hồ. Hai giờ bằng hai tuần đối với chúng tôi. Chúng tôi cứ dõi mắt lên trời, lo ngại chiến đấu cơ Hellcat xuất hiện rót đạn vô chiếc oanh tạc cơ già nua. Chỉ cần một chiếc Hellcat cũng đủ chôn chân chúng tôi trên hòn đảo.
Cuối cùng công việc sửa chữa hoàn tất. Khi chúng tôi bước lên phi cơ, nhân viên dưới mặt đất nhìn theo với đầy tuyệt vọng cho đến nỗi tôi phải quay lại nói với họ: “Chúng tôi sẽ sớm trở lại. Và sẽ trở lại sớm, với những chiến đấu cơ mới!” Không ai trong số những người ở lại dám mơ tưởng rằng Iwo Jima sẽ được địch quân bỏ quên gần tám thàng ròng rã. Khi chúng tôi bay được mười phút, chiếc phi cơ lắc lư mạnh mẽ. Tôi nhìn ra cửa sổ. Động cơ bên phải của chiếc phi cơ càng lúc càng lung lay dữ dội. Đóng sắt vụn này làm sao nuốt trôi 650 dặm để đưa chúng tôi về Nhật? Phi công phụ, một thanh niên khoảng hai mươi tuổi, bước ra từ phòng lái, “Chuẩn úy Sakai? Thưa chuẩn úy, chuẩn úy có thể bước vô phòng lái để giúp chúng tôi không?” Mặt hắn tái xanh và run còn hơn chiếc phi cơ. Đoán biết hắn muốn gì, tôi đáp trước khi hắn dứt lời. “Quày lại! Với động cơ như vậy chúng ta không thể về tới Nhật đâu. Các anh phải quày phi cơ lại để sửa chữa thêm nữa.” Phi hành đoàn vâng lời lập tức. Trở lại Iwo, lui cui sửa chữa, và phi cơ lại cất cánh. Một giờ sau, chúng tôi chui vô một trận mưa bão cuồng nộ. Mưa đập liên hồi và mạnh mẽ trên thân chiếc phi cơ. Phi cơ dột nát, nước chảy xuống giống như một cái rây. Viên phi công phụ lại quày ra và yêu cầu tôi bước vô phòng lái.
Viên phi công trưởng khoảng hai mươi hai tuổi, hỏi tôi:
“Thưa chuẩn úy, chúng ta nên bay phía trên hay phía dưới lớp mây?”
“Phía dưới!” Tôi ra lịnh.
Mưa bão vẫn tiếp tục, mù mịt đến nỗi nhiều lần mắt chúng tôi như bị bịt kín. Cơn bão này dữ dội hơn cơn bão mà tôi đã gặp mấy ngày trước đây, lúc tôi còn cố tìm kiếm lực lượng đặc nhiệm Hoa Kỳ ở gần Saipan. Chiếc oanh tạc cơ trồi lên hụp xuống, và rơi thấp dần cho đến khi bay hớt trên đầu ngọn sóng. Trong cơn tuyệt vọng, phi công trưởng quay khuôn mặt xanh xám sang tôi và hỏi một câu thật bi ai. “Bây giờ, chúng ta ở đâu, thưa chuẩn úy?” Đó là một câu hỏi đần độn nhứt mà tôi được nghe từ miệng một viên phi công. Tôi sửng sốt mất một vài giây, không thốt nên lời. “Xuống đi! Tôi lái cho!”. Tôi hét. Hắn không phí thời giờ, rời khỏi ghế ngồi trao tay lái cho tôi.
Gần chín mươi phút tôi bay như kẻ đui mù, cố đưa chiếc phi cơ què quặt ra khỏi cơn mưa bão. Cuối cùng, bán đảo quen thuộc phía Nam vịnh Đông Kinh hiện ra trong tầm mắt. Tiếng kêu mừng rỡ của phi hành đoàn và hành khách làm rung chuyển chiếc oanh tạc cơ. Chúng tôi đáp xuống căn cứ oanh tạc cơ Kisarazu, nằm phía bên kia vịnh, đối diện Yokosuka. Tôi đảo mắt quanh phi trường rộng lớn. Nhật Bản! Tôi lại đặt chân lên quê hương! Đã bao lần tôi tưởng không bao giờ nhìn thấy lại xứ sở. Chỉ một đôi giờ bay mà giữa đây và Iwo Jima khác biệt biết bao! Đối với tôi, và mười người khác vừa rời bỏ đống tro than của núi Hades trên đảo Iwo lại sau lưng, nước ngọt ngào và trong lành ở Nhật Bản là vật qúi nhứt trên thế gian này. Nước ở đây không có mùi tro than dễ sợ như nước mưa hứng ở Iwo Jima. Tất cả chúng tôi chạy băng qua sân bay để đến một tháp chứa nước. Chúng tôi mở vòi cho nước mát lạnh bắn tung lên. Tôi uống lấy uống để, thưởng thức cảm giác và mùi vị cùng tận của nước ngọt chảy xuống cổ họng mình.
Nhưng Iwo Jima quá gần phía sau tôi. Muto và tôi đã cùng chung ý nghĩ, nên bỗng nhiên chúng tôi không thể nào uống thêm được nữa. Cả hai cùng nghĩ đến những đồng đội, những người đã chết chỉ một đôi ngày trước đây do thương tích của đạn pháo gây ra, kêu gào trong cơn hấp hối: “Nước! Nước!”. Họ xin nước chúng tôi, nhưng không ai còn một giọt nào cả.
Một tháng sau khi tôi trở về Yokosuka, tôi được thăng cấp Thiếu úy. Sau mười một năm, tôi tiến lên địa vị của một sĩ quan chánh thức. Đó là một thành tích vượt bực trong binh chủng hải quân. Có nhiều quân nhân tham dự trận tấn công tiềm thủy đỉnh vô Trân Châu Cảng đã được thăng đến hai cấp, và trong số đó có người bước ngay lên hàng ngũ sĩ quan, mười năm sau khi họ nhập ngũ. Tuy nhiên, việc thăng thưởng của họ giữ đúng truyền thống của hải quân: thăng cấp sau khi qua đời. Tôi là binh sĩ đầu tiên bước lên cấp bậc sĩ quan chánh thức trong vòng 11 năm mà vẫn còn sống sót.
Muto và tôi được tái bổ nhiệm phục vụ ở Liên Không Đoàn Yokosuka. Chúng tôi không bị gởi trở lại Iwo Jima. Bộ Tư Lịnh Tối Cao bắt buộc phải bỏ trống không phận hòn đảo trong nhiều tháng sắp tới vì lý do thiếu phi công và phi cơ. Hiện thời cuộc đổ bộ của địch quân ở Phi Luật Tân đã nhìn thấy rõ rệt, do đó bao nhiêu phi công và phi cơ đều đổ sang để bao che cho lực lượng Nhật trên quần đảo này. Chúng tôi có gặp trung tá Nakajima khi ông lên đường nhận nhiệm vụ mới ở Cebu, Phi Luật Tân.
Nhiệm vụ mới của tôi là một sự thay đổi đáng phấn kích so với những cú đấm bi thảm mà chúng tôi chịu đựng ở Iwo Jima. Nhiệm vụ này bao gồm công việc huấn luyện tân phi công và thí nghiệm phi cơ. Bộ Tư Lịnh Tối Cao ra lịnh sản xuất hàng loạt chiến đấu cơ mới để thay thế loại chiến đấu cơ Zéro. Ngay cả những sĩ quan cố chấp nhứt cũng không thể nào phủ nhận loại chiến đấu cơ Zéro, có lần được xem là mạnh mẽ, hiện thời đã mất khả năng của chúng. Họ cũng phải công nhận các loại chiến đấu cơ mới của đối phương trên chân các loại chiến đấu cơ cũ của chúng tôi nhiều. Ở quần đảo Mariana và ở các cuộc đụng độ hải-không khác, chiến đấu cơ Grumman F6F Hellcat đã chứng tỏ ưu thế đáng nể về mọi mặt. Nhiều báo cáo từ Nam Thái Bình Dương cho biết loại chiến đấu cơ mới Lockheed P.38 Lightning có những cải tiến lớn, vượt hẳn loại chiến đấu cơ cùng loại đã lâm trận hồi cuối năm 1942. Loại P.38 mới này có tốc lực nhanh, bay cao hơn chiến đấu cơ Zéro rất xa, nhứt là khả năng chúi xuống và vượt lên cũng mau lẹ hơn. Phi công P.38 bay ở cao độ như vậy có thể chọn lựa thời gian và không gian để đánh… với kết quả đầy bi thảm cho phi công của chúng tôi. Cũng không thể hồ nghi khả năng loại chiến đấu cơ Change Vought F4U Corsair của Thủy Quân Lục Chiến và Hải Quân Hoa Kỳ, hầu hết đều hoạt động từ các căn cứ trên đất liền. Nhanh nhẹn không bằng loại Hellcat, tuy nhiên loại Corsair có tốc lực nhanh hơn loại Zéro nhiều, và có tốc độ bổ nhào khủng khiếp.
Các phi công Lục quân của chúng tôi ở Miến Điện đã báo cáo đụng độ với nhiều loại phi cơ mới của địch quân, như loại North American P.51 Mustang, vượt trội chiến đấu cơ Zéro về tầm hoạt động xa. P.51 Mustang ra mắt lần đầu tiên khi hộ tống các oanh tạc cơ B.24 Liberator bốn máy dội bom lãnh thổ Nhật hồi tháng 11 năm 1943. Và điều hiển nhiên Nhật Bản hoàn toàn không chuẩn bị để ứng phó với siêu pháo đài bay B.29 lần đầu tiên xuất phát từ các phi trường ở Trung Hoa bay đến thành phố Kyushu. Những chiến đấu cơ Karasu của Lục quân đã bó tay trước loại oanh tạc cơ bay mau, trang bị hùng hậu và bọc thiết giáp này. Nếu loại oanh tạc cơ B.17 đã từng là một đối thủ phi thường thì loại oanh tạc cơ B.29 này là một đối thủ không thể nào thắng nổi.
Những ý niệm phòng thủ thích nghi của Bộ Tư Lịnh Tối Cao Nhật được đưa ra quá muộn, và cũng quá khiếm khuyết. Đa số chiến đấu cơ của chúng tôi là loại Zéro, tỏ ra hữu hiệu trong thế công vào những ngày đầu của cuộc chiến, nhưng tỏ ra vô dụng khi chống lại loại oanh tạc cơ B.29. Hầu hết phi công oanh tạc cơ Nhật vẫn còn bay loại Mitsubishi Betty, hiện thời quá cũ kĩ, quá chậm chạp, và chỉ còn lại đặc điểm duy nhứt là biến thành ngọn đuốc trước hoả lực của đối phương. Sự thất thủ của Saipan đã thúc đẩy việc phá vỡ bất ngờ những mạng nhện nằm trong kế hoạch của Nhật Bản, Bộ Tư Lịnh Tối Cao kêu gào chiến đấu cơ mới, vượt trội hơn loại chiến đấu cơ Zéro. Vào tháng Mười Một, tôi bắt đầu bay thử hai loại chiến đấu cơ mới. Đầu tiên là loại Shiden (Tia chớp), người Mỹ gọi là George, nặng nề và tầm hoạt động kém hơn loại Zéro, nhưng tốc lực mau hơn và được trang bị đến bốn khẩu đại bác 20 ly. Shiden kiến trúc vững chắc, vỏ bọc sắt an toàn cho phi công. Tôi đã phải kinh ngạc về sự nhanh nhẹn trong thân thể nặng nề của loại phi cơ này. Không may, đặc tính của chiến đấu cơ Shiden là hay dở chứng đòi hỏi phải có một phi công đầy đủ kinh nghiệm. Nhiều người đã có dịp bay thử với Shiden, nhưng không có dịp sống sót để lâm trận với nó.
Loại chiến đấu cơ mới thứ hai là Raiden (Sấm sét), người Mỹ gọi là Jack, trù tính chống lại oanh tạc cơ hạng nặng như B.29 chẳng hạn. Vì mục đích này, Raiden được chế tạo rất hoàn hảo, và nhiều phi công Nhật so sánh nó với loại chiến đấu cơ to lớn Focke Wulf Fw 190 của Đức. Bốn đại bác 20 ly đem tới cho Raiden một quả đấm hiệu quả trong việc chống lại các oanh tạc cơ, và với tốc lực hơn 400 dặm một giờ, được coi là phi thường lúc đó, nó vượt xa loại Zéro. Ngay với trang bị và thân bọc thép dày của Raiden, loại chiến đấu cơ Zéro đã không bì kịp rồi. Raiden rất thích hợp để tấn công oanh tạc cơ, nhưng giống như loại Shiden, nó đòi hỏi tài ba của người lái. Bởi lẽ chỉ chú trọng đến tốc lực và trang bị, nên sự xoay trở lanh lẹ của Raiden rất yếu, so với loại Zéro trên phương diện này, Raiden giống như một chiếc xe hơi. Chúng tôi chịu đựng sự mất mát đáng sợ trong khi huấn luyện. Sau này, khi những chiếc Hellcat và Mustang gầm thét trên không phận Nhật Bản, những phi công lái Raiden đụng độ với đối phương mới nhận thấy sự xoay trở yếu kém của nó, nhưng tất cả đều quá muộn.
Nhiệm vụ thí nghiệm phi cơ đã cho tôi cơ hội thăm viếng gia đình người chú họ một lần nữa. Tôi rời Yokosuka vào một sáng sớm Chủ Nhật để đến nhà chú tôi, lộ trình đi ngang qua Đông Kinh. Trong thời gian tôi vắng mặt, thủ đô sa sút hơn. Mặc dù từ năm 1942 không có trận oanh tạc nào xảy ra, nhưng phố xá có vẻ buồn tẻ và mất sinh khí. Hầu hết các tiệm buôn đều đóng cửa. Việc này có ý nghĩa rõ rệt. Không có hàng để bán và các chủ nhân vắng mặt, họ vô làm việc trong các cơ xưởng chiến tranh. Một vài tiệm buôn gượng gạo mở cửa, nhưng không còn sắc thái rộn rịp như tôi đã từng thấy trước đây, chỉ lèo tèo vài món hàng meo mốc. Sự phong toả của Đồng Minh đã làm cho cái bụng của Nhật Bản thắt lại.
Tôi không ngớt đi qua những đám đông công nhân đang phá hủy nhà cửa dọc theo hai bên đường. Hàng mấy trăm người làm công việc này, nhằm dọn những khoảng trống để lửa không bắt qua, phòng ngừa trước các cuộc oanh tạc. Nhiều gia đình bắt buộc ra khỏi nhà, đứng thành từng nhóm nhỏ trên đường, đưa mắt buồn bã nhìn người ta xé nát căn nhà của mình ra mảnh vụn. Tôi đã từng chứng kiến các trận oanh tạc. Đối với tôi công tác phá hủy này là một cố gắng đáng thương hại, một nỗ lực hoang phí, ít có hiệu quả trong việc chống lại loại bom cháy. Hầu hết dân chúng đi trên đường đều mặc đồng phục làm việc, hoặc loại quần án căn bản của thời chiến, na ná như quân phục. Tôi không nhìn thấy một người đàn bà nào mặc y phục “Ngày Chúa Nhật”, những chiếc Kimono màu sặc sỡ thời tiền chiến. Thay vào đó, họ mặc áo “Monpe” màu nâu sậm, và quần vải trơn rộng thùng thình. Mỗi góc phố đều có đàn bà và trẻ con nối đuôi dài ngoằng, kiên nhẫn chờ đợi thức ăn. Mặt mày họ gầy tóp và lạnh lùng, chứng minh hùng hồn tình trạng thiếu thực phẩm đang đè nặng trên đời sống dân chúng.
Không phải mọi thứ đều đổi thay. Mấy chiếc loa phóng thanh đặt ở mỗi góc phố vẫn còn xỉa xói vô tai những lời hò hét, ca ngợi các chiến thắng tưởng tượng. Bích chương tràn ngập thành phố, kêu gọi dân chúng sản xuất mạnh mẽ hơn, chịu đựng thiếu thốn nhiều hơn, cho đến khi Nhật Bản hạ gục đối phương. Tôi cảm thấy bịnh hoạn. Chưa bao giờ tôi tưởng tượng mình sẽ được nhìn thấy nỗi khổ tận cùng hằn sâu trên gương mặt của dân chúng Nhật đến mức ấy. Tôi chờ nhiều phút trước cửa nhà chú tôi. Có người đang dạo dương cầm… người đó là Hatsuyo chứ không ai khác. Tôi lắng nghe trong giây lát, khúc nhạc đầu tiên của nhiều tháng trước đây. Tiếng nhạc ngưng lại khi tôi gõ cửa. Tôi nghe tiếng chân của Hatsuyo chạy. Nụ cười của nàng rạng rỡ như một tia nắng ban mai. “Saburō! Gặp lại anh thật tuyệt diệu!” Nàng kêu lên. Nàng nhìn tôi chăm chú hồi lâu. “Tất cả gia đình đều cầu nguyện cho anh trở về, Saburō,” giọng nàng êm ái. “Mọi người hầu như đều gặp may mắn. Anh trở về rồi đây, và đã trở thành một sĩ quan.”
Ngôi nhà quen thuộc không có gì đổi khác. Đối với tôi, vẫn là ngôi nhà đẹp hơn bất kì ngôi nhà nào khác, bởi ngôi nhà này là của Hatsuyo. “Em càng ngày càng đẹp,” tôi nói “một vật mỹ lệ nhứt mà anh được thấy trong nhiều tháng nay. Nhưng tại sao em ăn mặc như vậy? Em làm anh choá cả mắt,” tôi tỏ vẻ lạ lùng. Nàng mặc một chiếc áo Kimono trang nhã, thẳng nếp và gọn ghẽ trên thân hình mảnh khảnh của nàng. Nàng cười dòn tan. “Saburō, thỉnh thoảng em thấy anh giống như một gã ngù ngờ! Anh không biết đây là một trường hợp thật đặc biệt hay sao? Em mặc áo này là mặc cho anh. Em kiên nhẫn chờ đợi để được mặc áo khi tiếp đón một tân sĩ quan!” Nàng cười. “Đây, hãy nhìn hai cánh tay áo này?” Hai tay áo bị cắt cụt phân nửa! “Chính phủ ra lịnh cho chúng em cắt ngắn tay áo,” nàng cười thích thú, xoay vòng quanh, hai bàn tay đưa về phía trước. “Anh không biết hả,” nàng thì thầm với dáng vẻ nghiêm trọng, “tay áo dài không thích hợp với tình trạng nguy cấp hiện thời.”
Tôi mỉm cười. “Hatsuyo, mọi người đi đâu hết rồi?” Tôi hỏi. “Chú thím không có ở nhà hả?” Nàng lắc đầu. “Chỉ một mình em ở nhà để đón anh, Saburō. Ba em không có ngày nghỉ. Ông tình nguyện tham gia vào công tác bảo vệ quê hương. Ông gia nhập vào Quân Đoàn Trừ Bị Lục Quân và hiện đang thao dược ở một ngôi trường trung học gần đây. Đêm nay Michio sẽ làm việc phụ trội trong cơ xưởng.” Mặt nàng trở nên u ám. “Má em cũng đi khỏi, Saburō. Bà định mua một món gì đặc biệt để tiếp đãi anh ở… ở chợ đen.”
Tôi nhìn Hatsuyo. Nếu thím tôi làm như vậy, bà sẽ gặp rắc rối với cảnh sát. “Tại sao thím lại làm như vậy?” Tôi lo nghĩ. “Thím không biết việc gì có thể xảy ra cho thím hay sao?” “Em biết, em biết, Saburō.” Nhưng bà cứ muốn được tiếp đón anh một cách trang trọng. Tôi lắc đầu. “Hy vọng mọi việc đều êm xuôi. Khi gọi giây nói cho thím, anh có cho thím biết hiện thời không một quân nhân nào đến thăm một gia đình dân sự lại không mang theo phần ăn của mình bao giờ.” Tôi chỉ cho Hatsuyo thấy cái hộp thức ăn tôi mang theo, cũng như nhiều tặng phẩm khác mà tôi đã mua trong Hợp Tác Xã Quân Đội ở Yokosuka. Hatsuyo bối rối. “Cám ơn anh, Saburō, và em… cám ơn anh.” Nàng nói lảng sang vấn đề khác. “Hãy đến ngồi đây, Saburō. Rồi, bây giờ ngồi bên em, anh hãy kể cho em nghe mọi chuyện từ ngày anh ra đi. Những gì đã xảy ra ở Iwo Jima? Gia đình không nghe đài phát thanh đề cập đến, chỉ toàn là tin tức về cuộc chiến đấu khủng khiếp ở Saipan.” Tôi bối rối. Chúng tôi nhận nghiêm lịnh không được tiết lộ những gì đã xảy ra ở Iwo Jima. Thảm họa mà lực lượng chúng tôi chịu đựng ở đó được xếp vào hàng tối mật, và không ai bên ngoài quân đội được biết đến sự thật xảy ra. Tôi xoay vấn đề, kể về chuyện những chiến đấu cơ mới mà tôi đã bay thử. “Nếu chúng ta có đủ những chiến đấu cơ mới này, chúng ta có thể lật ngược tình thế,” tôi nói “Với tốc độ phi thường, võ trang hùng hậu, loại phi cơ mới đủ sức tiêu diệt bất kì loại phi cơ nào của địch quân.” Tôi nói dối, tôi ý thức rõ điều này. Nếu chương trình huấn luyện cứ giữ một mực, với các khoá sinh đâm đầu xuống đất hàng ngày, chúng tôi sẽ chỉ có một vài phi cơ may mắn lên được không trung để không chiến.
Sau nửa giờ nói chuyện quanh quẩn mọi vấn đề, có một vấn đề cần thiết nhứt mà tôi chưa nói. Tôi liếc nhìn dáng ngồi nghiêng của nàng, nhìn điệu bộ khi nàng nói, đôi mắt lóng lánh ngời sáng khi nàng thích thú, đôi má lúm đồng tiền khi nàng cười. Tôi muốn nói với Hatsuyo, nói một mạch không cần suy nghĩ. Tôi yêu nàng. Tôi muốn nàng biết tất cả mọi suy nghĩ của mình. Hai tháng qua, nhưng đối với tôi hình như chỉ vài phút đây thôi, khi tôi quay đầu lại và nhìn thấy Iwo Jima tan biến dần ở chân trời thì hình ảnh của nàng hiện đến. Lúc ấy tôi nguyện với lòng rằng, nếu có một phép lạ nào cho phép tôi sống sót, tôi sẽ kể cho nàng nghe tất cả những cảm nghĩ cùng tình yêu của mình. Bây giờ… tôi không thể nói! Không có gì thay đổi cả! Tôi vẫn là một phi công chiến đấu, cho dù tôi đã bước lên hàng ngũ sĩ quan. Tôi biết, tôi sẽ bay chiến đấu trở lại, và những chiếc Zéro bùng cháy mà tôi đã nhìn thấy rơi xuống trước họng súng của những chiến đấu cơ Hellcat vẫn còn in đậm trong tâm trí của tôi. Tôi biết, chúng tôi phải đương đầu với những đối thủ vượt trội. Nếu chiến đấu trở lại, tôi sẽ đâm đầu xuống đất và chết cháy. Không biết giây phút nào. Bỗng nhiên Hatsuyo làm tôi bừng tỉnh. “Saburō,” nàng dịu dàng nói, “Anh có biết Fujiko đã lấy chồng rồi không?” Tôi không biết. “Sau khi mọi chuyện êm lắng,” nàng nói tiếp, “Fujiko kết hôn với một phi công… Một phi công… Giống như anh.” Nàng thêm, giọng châm chọc. Tôi muốn nói, nhưng nàng tiếp. “Saburō, tại sao anh chưa chịu lập gia đình? Anh không còn trẻ nữa, anh biết rồi. Anh đã hai mươi bảy tuổi rồi. Anh đã nên người. Anh đã là một sĩ quan. Anh nên lo việc hôn nhân.” “Nhưng anh đã nói với em, Hatsuyo, anh không quen biết một cô gái nào hợp với anh cả.” “Anh không yêu Fujiko?” Tôi không biết nói sao. Một nỗi im lặng bối rối vây lấy chúng tôi. Hatsuyo bước đến vặn nút chiếc máy phát thanh, bắt giờ nhạc êm dịu buổi trưa. Âm nhạc phá tan không khí nặng nề.
Nàng quay lại và ngồi xuống bên tôi. “Được rồi,” nàng nói, “dĩ nhiên, Saburō, anh cần phải tìm một người vợ thích hợp với anh mọi mặt.” Hatsuyo càng làm tôi bối rối. Nàng không chịu nhìn nơi khác, mắt của nàng cứ nhìn tôi đăm đăm. Tôi trở nên luống cuống, định nói nhưng miệng cứ ấp úng mãi. Tôi đứng ngay dậy và bước đến cửa sổ, đưa mắt nhìn ra ngoài. Vườn hoa xinh xắn biến mất, thay vào đó là những gốc rau. “Còn nhiều người đẹp hơn Fujiko nữa, Saburō,” Hatsuyo nói. Nàng đã đến bước đến phía sau tôi, và hiện tại hầu như thân thể nàng chạm vào tôi. “Hatsuyo!” Tôi la lớn. “Anh không muốn nói đến chuyện này nữa!” Cơn thịnh nộ của tôi khiến nàng hoảng hốt. “Chúng ta đã nói đi nói lại bao nhiêu lần rồi. Nhưng thực tế không hề thay đổi. Không có gì thay đổi hết. Anh vẫn là một phi công, em biết chớ? Mỗi lần anh cất cánh là có thể anh không bao giờ trở về. Mỗi lần! Điều đó chắc chắn xảy ra, không chóng thì chầy. Không chóng thì chầy!”
Tôi bực bội và phiền não. Tại sao nàng cứ nói đi nói lại về chuyện hôn nhân? Tôi thấy tôi đáng ghét, do những lời lẽ mà tôi đã thốt ra. Tôi thấy tôi đáng ghét, vì không dám nói ra cảm nghĩ của mình cho nàng nghe.
“Hiện tại không có một phi công nào mà không chuẩn bị để chết, Hatsuyo,” tôi giải thích. “May mắn của chúng anh được đặt ra ngoài. Tài ba vô dụng. Việc này…” “Anh nói giống như trẻ con. Saburō!” Đôi mắt nàng bừng lên nỗi giận dỗi. Tiếng nàng trầm xuống đến nỗi tôi phải cố lắng nghe. “Anh cứ nói vòng quanh, và anh không biết những gì anh đang nói. Anh không biết trái tim của một cô gái.” Nàng giơ tay lên trong một dáng điệu giận dữ. “Anh nói về chuyện bay bổng, về chuyện chết chóc, Saburō. Anh không biết nói gì khác hơn! Anh không biết nói về sự sống còn.” Nàng bước đến tắt chiếc máy thâu thanh với một cử động giận dữ. Không thèm để ý đến tôi, nàng ngồi trước chiếc dương cầm, mấy ngón tay uể oải trên phím đàn. Tôi câm miệng. Nhiều phút trôi qua, tôi đứng chôn chân một chỗ, không nói một lời. Cuối cùng, tôi lên tiếng. “Hatsuyo, anh… anh không biết. Có lẽ, nếu… Đó là lỗi của anh. Anh có thể làm gì được một khi chúng ta đang ở vào thời chiến?” Tôi nói lớn. “Tại sao em cứ nói mãi vấn đề này? Gặp em trong ngôi nhà này, như vậy đã là quá đủ đối với anh rồi.” Tôi tiếp. “Anh muốn…, anh không biết,” tôi ấp úng. “Tất cả những gì anh muốn biết, tất cả những gì mà anh ao ước là được thấy em vẫn còn sống sót và hạnh phúc.” Nàng đập mạnh đôi tay lên phím đàn và quay lại. “Em không muốn sống nữa! Sống để làm gì và… và…” Nàng đặt tay lên ngực: “trống rỗng ở đây? Không một ai trong chúng ta, ngay cả một phi công, ngay cả những người trong ngôi nhà này có thể nhìn thấy trước sự sống còn. Anh không hiểu như vậy sao, Saburō?”
Cơn giận của nàng khiến tôi giật mình. “Một người đàn bà chỉ hạnh phúc,” nàng nói thẳng, “một khi nàng được sống với người đàn ông mà nàng yêu thương. Cho dù, cho dù chỉ một đôi ngày cũng được.” Nàng quay khuôn mặt bi thiết đi, dồn hết giận dữ lên chiếc dương cầm. Tôi đứng như trời trồng, không biết nói hoặc làm gì.
[…]

Saburō Sakai, Tokyo 1956
Nguyễn Nhược Nghiễm chuyển ngữ, Nxb Sông Kiên, Sàigòn 1972
[1] Thay lời tựa của Saburō Sakai trong hồi ký Samuraï, Trần Vũ chuyển ngữ từ bản Pháp văn của Robert de Marolles, Nxb Presses de la Cité, 1957. Samuraï có nhiều phiên bản: Bản Anh ngữ của Martin Caidin và Fred Saito. Bản Việt ngữ “Samurai và Những trận không chiến dữ dội nhất lịch sử Thái Bình dương” của Nguyễn Nhược Nghiễm in tại Sài Gòn năm 1972 được cắt ngắn thành 22 chương so với 31 chương trong bản dịch “Samouraï” của Robert de Marolles.

TRẦN THIỆN ĐẠO - MẠN ĐÀM VĂN HỌC

MẠN ĐÀM VĂN HỌC HL 114
(Thứ Hai, 26 Tháng Chín-2011)

Tác giả : TRẦN THIỆN ĐẠO





Chuyện ...tình còn ít biết
của nhà thơ Victor Hugo

Như mọi người đều biết, Victor Hugo (1802-1885) vừa là nhà thơ trữ tình và châm biếm vừa là kịch tác gia cách tân vừa là nhà văn xã hội Pháp thế kỉ XIX rất ư năng động và sung sức, có nhiều tác phẩm đủ ba thể loại đó để đời. Chẳng hạn, chỉ cần nhắc tới cuốn truyện đầm đià nước mắt Les Misérables (Những kẻ khốn nạn – 1862) (1) là ít ai quên, đặc biệt ở Việt nam, các nhơn vật như anh tù khổ sai Jean Valjean và cô bé Cosette bị cặp vợ chồng nhà chủ tửu quán tên là Thénardier đày đọa khôn cùng. Nhưng ít người biết rằng nhà thơ nhà văn kịch tác gia lớn này đồng thời cũng không kém năng động và sung sức trên… trường tình, cả khi đà gần đất xa trời.
Dưới đây, vào hè, chúng tôi muốn kể cho bạn đọc nghe một giai thoại, hay đúng hơn, một sự cố đã thật sự xẩy ra cũng vào hè hơn một thế kỉ rưỡi trước, dính tới đường tình của văn/thi hào. Sự việc đã được ghi rành mạch trong cuốn sổ trực ban gọi là main courante ngày 5 tháng 07/1845 ở Công an phường Vendôme, Paris quận I, nhưng lại chưa hề được nhắc tới trong văn học sử, hay trong bất luận cuốn tiểu sử nào. Cũng lạ, là bởi chẳng một chi tiết lớn nhỏ liên quan tới một đại văn/thi hào như Victor Hugo mà không tiềm chứa chút ít ý nghĩa. Vì chưng, như đã nói, đương sự vốn rất ư năng động và sung sức về đủ mọi mặt, biết đâu đó lại là nguồn hứng sáng tác.
Ngõ hẻm Saint-Roch
Đây là một trong số ngõ hẻm trải đá hiếm có độ chừng trăm mét còn sót lại ở Paris. Nằm ngay trung tâm thành phố, nối liền hai con đường lớn Pyramides và Saint-Honoré, tranh tối tranh sáng núp bóng dưới tháp nhà thờ Saint-Roch. Chỉ vài bước là đà với tới quảng trường Vendôme xa hoa tráng lệ và vườn Tuileries thuộc Hoàng cung trong khu Palais Royal. Vào giữa thế kỉ XIX, ngõ hẻm có tên Saint-Roch này nổi tiếng không ít, hệt như các xóm đèn mờ, cà phê vườn, cà phê nhạc hiện nay ở bên ta, hay khu Khâm thiên trước kia ở Hà nội thời Pháp thuộc. Có chút gì lạ…thường ở chỗ ngõ hẻm dọc theo sát vách nhà thờ ! Nhà văn khuynh hướng tự nhiên Emile Zola (1840-1902) đúng ba chục năm sau, trong tập Pot-Bouille (Pot-Bouille, 1882), vẫn còn miêu tả khung cảnh đó như vầy : « Hắn (nhơn vật trong truyện) chợt thấy mình lọt thỏm vô trong hành lang thâm u của ngõ hẻm Saint-Roch. Trước mắt hắn, ở ngưỡng cửa nhà nghỉ nằm trong góc tối, Valérie (nhơn vật khác, phái nữ) đang chia tay một ông khách râu ria xồm xoàm. » Khách ở đây là khách làng chơi.
Ngày 5 tháng 07/1845 Victor Hugo đã lang thang đến đây. Để bất thần…bị bắt quả tang đang hành lạc trong phòng trọ nhà nghỉ với cô nường Léonie Biard, đã có chồng, vợ một nhà điêu khắc ít nhiều được giới nghệ sĩ biết tiếng. Biên bản Công an phường Vendôme đã ghi rõ sự việc như vậy. Bạn hãy cứ hình dung cảnh tượng đó. Vào lúc tinh sương hôm ấy, một đội công an hùng hục đột nhập nhà nghỉ (ai bắn tin cho họ ?), rầm rập leo lên garni (phòng trọ) ở từng trên, đập cửa thùm thụp .Victor Hugo và Léonie Biard hốt hoảng quơ lấy quần áo vội vã xỏ vô xỏ vào, trong lúc ngoài cửa công an không ngớt hô hoán : « Au nom de l’Empereur, ouvrez…». Nhơn danh Hoàng đế, mở cửa mau lên ..., bởi bấy giờ Hoàng đế Napoléon III (Napoléon đệ tam) đang trị vì nước Pháp, và công an chưa có thói nhơn danh luật pháp để bắt bớ như ngày nay.
Thời ấy, xã hội và luật pháp ở đây không đùa với những chuyện gian dâm ngoại tình, chẳng thua gì ở bên ta thời xưa với những chuyện lăng loàn và vào thời chống Pháp chống Mĩ với những chuyện hủ hoá. Nên chi Léonie Biard tất bị tống giam trong nhà tù Saint-Lazare dành cho phụ nữ để phục hồi nhơn phẩm hai tháng trời ròng rã. Còn Victor Hugo, lúc bấy giờ đang giữ chức pair de France (nghị viên) Thượng viện và là thi hào tiếng tăm lừng lẫy, dĩ nhiên được miễn thứ. Khiến cho nhà thơ lãng mạn Lamartine (1790-1869) cũng phải lên tiếng mỉa mai, thâm độc : «Mọi thứ đó xem ra thật dễ quên tức khắc. Nước Pháp vốn là một nước cao su, người ta có thể bật nẩy mình nhảy khỏi giường chiếu một cách mau lẹ. »
Tình trường
So với hình phạt gọt gáy bôi vôi hoặc bè chuối trôi sông (2) thời không xa lắm ở bên ta thì hai tháng phục hồi nhơn phẩm (gần một thế kỉ rưỡi sau, thành ngữ này lại được cóp nguyên xi, ứng dụng vào xã hội ta) mà cô nường Léonie Biard trả giá cho hành vi ngoại tình và ngoại dâm của mình xét ra quả thật là quá nhẹ. Còn Victor Hugo thì chẳng những không bị voi giày ngựa xéo (3) như vào thời Tự Đức (1830-1883) mà còn được phép đi nghỉ… xả hơi, xa cách tình trường một thời gian… ngắn.
Tình trường của Victor Hugo bấy giờ nằm khoanh trong một diện tích nhỏ hẹp. Cứ giở bản đồ thành phố Paris mà coi. Bà vợ chánh thức Adèle (họ Foucher) chung sống với ông chồng Victor trong một căn hộ ở quảng trường Royale, nay đổi thành quảng trường des Vosges. Còn cô đào Juliette Drouet (1806-1883, tên thật là Julienne Gauvain), vừa là tình nhơn vừa là nguồn hứng thiết thân với ông từ những năm 1833, thì cư ngụ trên con đường nhỏ Sainte-Anastase kề cận. Và đó là không kể biết bao cuộc tình chóng vánh với các nữ diễn viên mới bước vào nghề trong rạp Comédie Française (Nhà hát Quốc gia Pháp) cũng gần kề. Riêng cô nường son trẻ Léonie Biard, thì đành chịu chấp nhận phòng trọ nhà nghỉ nọ ở ngõ hẻm Saint-Roch hầu cho văn hào được thỏa thích phụ bạc cùng một lúc cả phu nhơn và tình nhơn của mình.
Ngày nay, căn hộ 280 mét vuông ở quảng trường des Vosges được biến thành Maison de Victor Hugo (Nhà lưu niệm Victor Hugo), còn cư quán của Juliette Drouet nằm trên con đường nhỏ Sainte-Anastase thì mang một tấm biển đề Ici vécut Juliette Drouet (1806-1883) (Juliette Drouet, 1806-1883, đã cư ngụ nơi đây). Riêng nhà nghỉ trong ngõ hẻm Saint-Roch nay không còn nữa thì tất nhiên không có một ghi chú nào hết, dẫu rằng sự cố ngày 5 tháng 07/1845, ngoài chỗ đáng thương cho cô nường Léonie Biard, đã là dịp khiến cho Victor Hugo khởi tác thiên truyện nổi tiếng nhứt của mình.
Số là ngay sau khi được miễn thứ, Victor Hugo liền rời khỏi Paris đi nghỉ xả hơi, tạm trú ở tửu điếm Au rendez-vous d’Austerlitz (Chỗ hẹn Austerlitz), xã Montefermeil ở ven đô. Nhà trọ này cũng như nhà nghỉ nói trên nay không còn nữa, nhưng hình bóng của nó vẫn còn hiển hiện qua tên gọi Auberge des Thénardier (Quán trọ vợ chồng Thénardier) trong tác phẩm để đời của văn hào. Ngày 7 tháng 11/1845, chính trong tửu điếm tạm trú này nhà văn đã khởi tác cuốn truyện tràn trề nước mắt Les Misérables, trong đó nhơn vật Jean Valjean lang thang ngoài sương gió như sau : « Hắn cứ nhắm hướng Montefermeil mà bước tới một cách quả quyết như kẻ đã từng đến đó nhiều lần và biết rõ xứ này. » Kẻ đã từng đến đó nhiều lần và biết rõ xứ này, chính là tác giả.
Trở lại tình trường
Chứng nào tật nấy, chẳng mấy lâu sau là Victor Hugo đà quay ngược trở về Paris hú hí với bà vợ Adèle, với người tình muôn thuở Juliette, với người tình mới là cô đào Alice Ozy (tên thật : Julie-Justine Pilloy, 1820-1893) và với biết bao cuộc tình chóng vánh khác. Mang theo bản thảo đã khởi tác ở Montefermeil, để cuối cùng hoàn tất 17 năm sau vào năm 1862 ở biệt thự Hauteville-House, trên hòn đảo nhỏ Guernesey thuộc nước Anh, giữa biển cả đầy sóng gió tựa như cuộc đời của mình - nơi ông lưu vong suốt 15 năm trời (1855-1870), bị chánh quyền Đế chế đệ nhị bấy giờ truy bức. Cũng trong thời gian lưu vong này mà thi hào hoàn tất và khởi tác các tập thơ, châm biếm Châtiments (Hình phạt), trữ tình Contemplations (Trầm tư) và anh hùng ca La légende des siècles (Sử thi ngàn đời), biểu hiện tài thơ nhiều mặt của mình.
Nhưng vẫn khôn thôi năng động và sung sức, cho tới ngày nhắm mắt.

TRẦN THIỆN-ĐẠO
(Paris, 17/08/2006)
____________

(1) Những kẻ khốn nạn, bản dịch của Nguyễn Văn-Vĩnh – Nxb Trung-Bắc-Tân-Văn, Hà nội, 1925. Nguyễn Văn-Vĩnh khéo dùng từ khốn nạn bấy giờ hàm nghĩa nghèo khốn và hoạn nạn, chớ không mang nghĩa hèn mạt như hiện nay, để chuyển đúng nguyên ý misérable của Victor Hugo.
(2) Gọt gáy bôi vôi : người vợ ngoại dâm bị gọt tóc sau ót, bôi vôi trắng, rồi dẫn đi bêu riếu khắp nơi ; bè chuối trôi sông : bị cột trên bè chuối, rồi thả trôi sông, tấp vô bờ là liền bị làng xóm đẩy ra, không ai dám cứu vớt.
(3) Voi giày ngựa xéo : người chồng ngoại dâm bị trói, rồi dẫn ra sân cho voi, ngựa giẫm – trên thực tế, nhờ có vợ bé, vợ nhỏ, nhu cầu tình dục hầu như được thỏa mãn, nên đây chỉ là hình phạt ít khi áp dụng.

Một vì sao rụng
JORJE SEMPRÚN (1923-2011) kÍ ỨC THẾ KỈ XX

Với chúng tôi, Jorje Semprún, vừa từ trần hôm qua thứ ba 07/06/2011, không phải là một nhà văn xa lạ. Chúng tôi đã có hân hạnh gặp ông và trò chuyện với ông 45 năm trước, trong cuộc hội thảo văn nghệ giữa sáu nhà văn Pháp đương đại tổ chức tối ngày 09 tháng 12/1964 ở Paris (1). Trong buổi hội thảo sôi nổi này, tham luận của ông đã đặc biệt khiến cho đại đa số thính giả, trong đó có chính chúng tôi, lấy làm sửng sốt vô ngần. Ngạc nhiên, ngỡ ngàng trước những lời tuyên bố thẳng băng của ông, rằng nhà văn phải tuyệt đối tự do trong tư duy cũng như trong sáng tạo. Bởi, tuy là một quan điểm chẳng có gì mới lạ đối với giới cầm bút, lời phát biểu này trái ngược hẳn đường lối chánh thống, chưa từng nghe, chưa từng thấy cho đến bấy giờ và hết sức bất ngờ, thốt ra từ một nhà văn cán bộ cộng sản. Vào giữa thời kì chiến tranh hai í thức hệ đối lập, một bên gọi là xã hội chủ nghĩa, bên kia là tư bản, đang hoành hành nửa lạnh nửa nóng trên thế giới,
Là phóng viên thường trực không công (ngoại trừ nhuận bút) của bán nguyệt san Văn (Sài gòn), chúng tôi đã ghi vội phát biểu ấy qua mấy dòng sau đây.

Ghi nhận
Trước khi trao lời cho nhà văn Jorje Semprún là nhà văn đồng chí hướng chánh trị và văn nghệ với mình, chủ tọa Yves Buin đọc một diễn văn, đối với những người hằng theo dõi đường lối của tạp chí và đảng của ông (đảng cộng sản Pháp), hết sức là khoáng đạt rộng rãi, khai mạc buổi thảo luận. Ông cho rằng một cuộc hội thảo tranh luận về văn nghệ giữa những nhà văn xu hướng khác nhau như hôm nay điển hình và tiêu biểu cho đường lối riêng biệt của nước Pháp để đi đến chủ nghĩa xã hội. Đồng thời ông tố cáo chủ nghĩa Xtalin và thuyết Jđanov (3) đã làm tê liệt bao nhiêu nguồn hứng một thời gian dài ở Liên xô và ở các nước xã hội chủ nghĩa và luôn cả trong nhóm những nhà văn cực tả ở các nước tư bản, và đã giết hại biết bao tài năng chớm nở nhưng chóng tàn dưới áp lực của một chánh quyền toàn trị không hiểu nổi đặc tánh và bản chất của văn nghệ. Cuối cùng ông đề cao nhà văn Paul Nizan (4), vốn là người bạn quá cố đồng học và đồng chí hướng với Jean-Paul Sartre và đã bị đảng Cộng sản Pháp lúc bấy giờ thóa mạ không tiếc lời.
Đến lượt nhà văn Cộng sản Jorje Semprún, và cũng là một nhà hoạt động chánh trị trực tiếp, lên diễn đàn. Cũng như Yves Buin, Jorje Semprún lên lời tố cáo chủ nghĩa Xtalin và thuyết Jđanov (đã làm tê liệt… và giết hại… v/v…) và đòi cho văn nghệ một chỗ đứng tự trị, không bị chánh trị trói buộc - lời tuyên bố này quả là một cái gì quá ư mới mẻ và bất ngờ, của một nhà văn lệ thuộc một đảng phái chủ trương lãnh đạo văn nghệ và quả tình chứng tỏ rằng đang có một sự biến chuyển lớn lao trong đường lối lãnh đạo nghệ thuật của đảng chánh trị nọ. Ông cho rằng, nhìn vào tình trạng văn nghệ Trung cộng hiện thời, ông nhận thấy rõ rệt cái nghèo nàn của nền văn nghệ Liên xô thời trước, chỉ vì văn nghệ ở kia và ở đây bị lệ thuộc chặt chẽ vào chánh trị. Ông bảo rằng nhà văn thiết yếu phải có tinh thần trách nhiệm trước khi đặt bút, nhưng không phải vì vậy mà nhà văn lệ thuộc mình hẳn vào đường lối chánh trị, vì làm như vậy, tức là khiến cho văn mình bị tù túng một cách tiên nghiệm, thì tác phẩm tạo ta trong tình trạng tinh thần đó sẽ không giữ được tánh chất thẩm mĩ nó buộc phải có để có thể là một tác phẩm nghệ thuật. (5)
Một tràng pháo tay hoan nghinh lời phát biểu bất ngờ này.

Tầng lớp thượng lưu
Gia quyến
Thính giả lại càng lấy làm ngỡ ngàng, ngạc nhiên hơn nữa, lần này về thân thế của ông. Khi được biết rằng nhà văn cán bộ cộng sản Jorje Semprún mở mắt chào đời ở Madrid, thủ đô Tâybannha, ngày 10 tháng 12/1923, trong một gia đình phú quí, sang trọng về mặt vật chất, chức tước và nghề nghiệp. Thật vậy, cứ nhìn lướt qua gia phả môn đăng hộ đối, tương xứng với nhau về phương diện xã hội và tài sản, các dòng họ Semprún (bên nội) và Maura (bên ngoại) của ông thì rõ.
Cha ông, * José Maria Semprún (chữ ú với dấu sắc, đọc i như chữ u của chúng ta) là một nhà giáo lỗi lạc và luật sư danh tiếng. Giữ chức thủ hiến, cai trị vùng Castilla, miền trung Tây ban nha, và vùng tự trị Cantabria, miền tây bắc. Dẫu là một phần tử sùng đạo công giáo, ông không ngừng ủng hộ chánh phủ Cộng hòa, trung kiên với Mặt trận bình dân. Mẹ ông, * Susana Maura, là trưởng nữ của chánh trị gia Antonio Maura liên tiếp năm lần ngồi ghế thủ tướng dưới thời vua Alphonse XVIII (1881-1941), cực lực phản đối chỉ dụ của nhà vua giao toàn quyền cho chánh khách cực hữu José Primo de Rivera y Orbaneja năm 1930. Còn anh em ruột của ông, những * Gabriel, Miguel, Honorio thảy đều nắm nhiều chức vụ cao cấp trên chánh trường, người thì là đại biểu quốc hội, kẻ thì làm bộ trưởng. Trong lúc, tréo cẳng ngỗng thay, Jorje lại là cán bộ cộng sản khi thì công khai khi thì bí mật, rồi trở thành nhà văn tầm cỡ, nổi tiếng trong nước, ngoài nước.
Di tản
Khi tướng Francisco Franco (1892-1975), cấu kết với tập đoàn quốc xã Đức, thúc quân nổi dậy năm 1936 chống chánh phủ Cộng hòa và Mặt trận bình dân, thì nội chiến khai mào. Rồi thắng thế, lập nên chánh thể quân phiệt cho tới năm 1975. Đứng về phe Cộng hòa và Mặt trận bình dân, lại nữa, vốn tộc người do thái, gia đình nhà họ Semprún / Maura dĩ nhiên phải hối hả thoát thân. Vượt biên, trên thực tế là vượt biển, sang Pháp - khiến chúng ta không khỏi nghĩ tới cuộc di tản tháng tư 1975 ở miền nam Việt nam. Hơn nửa thế kỉ sau, chúng tôi vẫn còn được nhiều dịp tiếp xúc, trò chuyện với số người Cộng hòa di tản này lập nghiệp ở Pháp - chúng ta không khỏi nghĩ tới cộng đồng gọi là Việt kiều Mĩ, Đức, Pháp, Bỉ… lập nghiệp sau tháng 04/1975 ở châu Mĩ và châu Âu hiện nay. Cặp bến Bayonne, tạm trú ở miền nam nước Pháp một thời gian, rồi sang Thụy sĩ cư ngụ lân cận thủ đô Geneva. Nơi đây, cha ông, José Maria Semprún, được chánh quyền Cộng hòa giao nhiệm vụ làm đặc phái ngoại giao ở La Haye, thủ đô hành chánh Hòa lan, hai năm trời.
Tháng 02/1939, phòng đại diện chánh phủ Cộng hòa bị chánh quyền Hòa lan, dưới áp lực quốc xã Đức, ra lịnh đóng cửa. Cả gia đình Semprún / Maura buộc phải quay về Pháp. Jorje nội trú truờng Henri-IV là trường trung học tuyệt đỉnh ở Paris. Đậu Tú tài toàn phần, giải nhì cuộc Thi triết học toàn quốc. Ghi tên vào đại học Sorbonne. Rồi nghe tin thủ đô Madrid, nơi chôn nhau cắt rún của mình, bị quân phiệt sở tại chiếm cứ, lật đổ chánh phủ Cộng hòa Mặt trận bình dân : « Sự vật vừa biến mất đó, Jorje Semprún hối tiếc, tủi thân, chính là thành phố tuổi thơ của tôi và, cùng với nó, cả tuổi thơ, kí ức và cuộc đời của tôi. »

Trại tập trung
Buchenwald
Đồng thời, nước Pháp thua trận, kí hiệp ước đình chiến với Đức, buộc phải tiếp nhận quân đội quốc xã cầm quyền chiếm đóng và cai quản. Cả hai bên dãy núi Pyrénées vậy là nằm trọn dưới gót giày phát xít ngoại quốc (Đức) và quốc nội (Franco). Anh chàng Jorje, tuy mới lên 16, liền bỏ học theo kháng chiến. Gia nhập tổ chức cộng sản Pháp FTP-MOI (Francs-tireurs et partisans – Main-d’œuvre immigrée, Du kích và dân quân – Công nhơn nhập cư), rồi vào Đảng Cộng sản Tâybannha (Partido Comunista de Espana, gọi tắt là PCE) hai năm sau. Tổ chức FTP-MOI bấy giờ chuyển ông sang phục vụ mạng lưới Cảm tử Jean-Marie Action thuộc cơ quan tình báo Anh. Mạng lưới khoanh vùng nước Pháp này hoạt động ở miền Bourgogne, có nhiệm vụ tiếp nhận võ khí do đồng minh thả dù tiếp viện kháng chiến, rồi phân phối cho chiến khu miền trung đông thuộc các tỉnh Yonne và Côte-d’or.
Năm 1943, Jorje Semprún bị công an Đức Geheime Staatspolizei (gọi tắt là Gestapo, Công an bí mật quốc gia) vây bắt cùng lượt với lãnh đạo mạng lưới nói trên là Henri Frager (1897-1944, chết trong trại tập trung). Sau mấy ngày biệt giam, họ bị lôi đi đày trong trại Buchenwald (1937-1945) tập trung tộc người do thái và thiểu số txigan trước khi thiêu đốt tiêu diệt họ. Ở đây, tù số 44904 Jorje Semprún được tổ chức bí mật giao cho công vụ gọi là Arbeitsstatistik (Thống kê lao động), dưới quyền chỉ đạo của Bolados, bí danh lãnh đạo cộng sản Jaime Nieto trong trại. Đặc trách văn hóa dành cho tù tập trung Tâybannha cho tới ngày 11 tháng 04/1945. Là ngày trại Buchenwald được quân đội Mĩ do tướng George Patton (1885-1945 - tử nạn giao thông) cầm đầu giải phóng. Cuối tháng, trở về ngoại thành Paris.
Kí ức
Khai mào cuộc sống mới ông gọi là ma deuxième naissance, là cuộc tái sanh của mình. Nhưng kí ức hai năm khổ sai trải qua trong trại tập trung cứ khắc sâu trong tâm khảm. Hình ảnh những lò thiêu khen khét mùi máu thịt, những tên kapo (tù quản giáo) hách dịch ra oai, những cử chỉ nhỏ nhen hèn mọn cũng như tư cách quí phái cao thượng lẫn lộn của con người trong trại (xem trích đoạn cuối bài)… không thể tự dưng phai nhòa tan biến. Cho nên cựu tù tập trung Jorje Semprún cố công ghi chép lại các hình ảnh ấy trên giấy mực, hầu chủ động xóa sạch đau thương, nhưng vô hiệu. Khiến ông bỏ dở, thôi viết, và cố gắng tránh nghĩ tới cảnh tình diễn tiến mấy năm trời trong trại – ông gọi chủ đích này là amnésie volontaire, là nạo óc tự nguyện.
Từ năm 1953 tới năm 1962, trong thời gian, vốn thông thạo nhiều ngôn ngữ, làm phiên dịch cho Unesco (Cơ quan giáo dục, khoa học và văn hóa Liên hiệp quốc) kiếm ăn, ông thường trực đảm nhiệm ở Pháp công tác do Đảng Cộng sản Tâybannha giao phó : chống chế độ quân phiệt. Vượt biên giới khi cần, với giấy tùy thân giả mạo mang tên Rafael Artigas hoặc Juan Larrea, về nước hoạt động, vốn rành tiếng Pháp, dưới danh hiệu một nhà xã hội học… Pháp. Và viết báo chiêu hiền đãi sĩ, tụ họp giới trí thức dưới bút hiệu Federico Sánchez,.
Lập gia đình với Loleh Bellon, tên thật : Marie-Laure Bellon (1926-1999), diễn viên và kịch tác gia nổi tiếng một thời.

Trên chánh trường
Đảng viên
Là cán bộ nhiệt tình, năm 1956, ông được bầu vào ban lãnh đạo và bộ chánh trị PCE, Đảng Cộng sản Tâybannha. Trong chức vụ này, thường đi công cán, đặc biệt ở các nước đông Âu xã hội chủ nghĩa, bên cạnh bà tổng bí thư Dolores Ibárruri (1895-1989 - thường gọi là la Pasionaria) và lãnh đạo Santiago Carrillo (1915-….). Lên thay tổng bí thư tiền nhiệm vào năm 1960, Santiago Carrillo lần lần hợp pháp hóa PCE thành một đảng công khai, công tác bí mật thế là ngưng hẳn, gây nên lục đục trong nội bộ. Jorje Semprún và một số cán bộ nòng cốt như Fernando Claudín (1915-1990) bị khai trừ, vì tội xa rời đường lối của Đảng, hay nói theo nguyên văn là bất đồng quan điểm với đường lối của Đảng ghi rõ trong cuốn Autobiografía de Federico Sánchez (Tự truyện của Federico Sánchez – 1976; một trong số tác phẩm rất hiếm viết bắng tiếng mẹ đẻ) của Jorje Semprún. Họ bị lãnh đạo PCE bấy giờ xem là một lũ intelectuales a cabeza de calito, một lũ trí thức khờ khạo, cạn suy - khiến chúng ta không khỏi nghĩ tới trường hợp những Trần Đức Thảo (1917-1993), Nguyễn Mạnh Tường (1909-1997) … ở miền Bắc Việt nam hơn nửa thế kỉ trước.
Bộ trưởng
Kể từ đây, vỡ mộng, ông xoay hướng cuộc đời, dành nó cho văn chương nghệ thuật (xem tiểu mục tiếp sau). Chỉ gián đoạn trong một thời gian ngắn, không đầy ba năm, khi ông chiều í bạn bè trở lại tham giam trực tiếp chánh trường.
Phải nói rằng vào những năm 80 thế kỉ trước, đại biểu đảng cánh tả PSOE (Partido Socialista Obrero Espana, Đảng Xã hội Công nhơn Tâybannha) đa số trong Cortes Generales (Quốc hội), 202 trên 360. Tổng bí thư PSOE Felipe Gonzáles đương nhiên được vua Juan Carlos Ier vời lên ngồi ghế Thủ tướng bốn nhiệm kì liên tiếp. Thành lập nội các, tân thủ tướng khẩn khoản mời Jorje Semprún vào hội đồng chánh phủ mới này. Đương sự không mấy thiết tha, nhưng cuối cùng nhận chức Tổng trưởng Bộ văn hóa, đảm nhiệm kể từ đầu năm 1988. Trong chánh phủ, hệt như trước kia trong PCE (lục đục trong nội bộ PCE - xem cách mấy dòng trên đây), bộ trưởng Jorje Semprún gặp nhiều xung đột ngấm ngầm với phó thủ tướng Alfonso Guerra vốn là lãnh đạo PSOE thứ hai, có tiếng là tham nhũng. Đầu năm 1991, ông buộc phải từ chức, vì thủ tướng bao che thói tục đáng ngờ của phó thủ tướng đồng cánh với mình. Hai năm sau, trong cuốn Federico Sánchez vous salue bien (Federico Sánchez xin bái chào các ngài – 1993), dưới dạng tiểu thuyết, Jorje Semprún thuật lại kinh nghiệm làm bộ trưởng bất toại ba năm trời trong chánh phủ.

Trên văn đàn
Đề tài
Có thể bảo sự nghiệp văn chương nghệ thuật của Jorje Semprún thảy đều dựa trên kí ức. Kí ức cá nhơn, nhưng lồng trong bối cảnh í thức hệ diễn biến trên lịch sử chánh trị thế kỉ XX ở châu Âu. Tác phẩm của ông đếm có cả thảy 43 đầu sách, đại đa số, trên dưới 40, viết bằng tiếng Pháp, còn lại là bằng tiếng mẹ đẻ. Hầu hết dưới dạng tác giả đề là tiểu thuyết (6), nhưng thuộc loại mà chúng tôi gọi là tự sự hư cấu (7), hay, chánh xác hơn, là hồi kí hư cấu (một thuật ngữ còn trong trứng nước, do chúng tôi cấu tạo).
Nội dung các hồi kí hư cấu này tựu trung xoay quanh ba chủ đề. Thứ nhứt là * kinh nghiệm trải qua trong thời gian ông bị công an Gestapo Đức tra khảo ở Paris, rồi bị đày trong trại tập trung Buchenwald và những khó khăn gặp phải để thích nghi với đời sống bình thường sau khi được giải phóng tái sanh, thí dụ như trong các cuốn Le grand voyage (Du hành xa – 1963), L’Évanouissement (Ngất xỉu – 1967) hay L’écriture ou la vie (Cầm bút hay là sống – 1994)… Thứ hai là * thời ki ông trực tiếp lãnh đạo Đảng Cộng sản Tâybannha và công tác bí mật chống chế độ quân phiệt Franco trong nước ngoài nước, thí dụ như trong các cuốn Autobiografía de Federico Sánchez (sđd), hay La deuxième mort de Ramon Mercadier (Ramon Mercadier lại tử vong lần nữa – 1969)… Thứ ba là * cuộc đời ông lưu vong ở Pháp và các năm đầu thời hậu quân phiệt kể từ năm 1975, thí dụ như trong các cuốn La montagne blanche (Bạch sơn – 1986), Federico Sánchez vous salue bien (sđd), hay Adieu, vive clarté…(Vĩnh biệt, ánh sáng chói lòa… – 1998)…
Điện ảnh
Nhưng chính ngành điện ảnh mới thật sự là nhịp cầu chuyển tiếp và tiếp nối giữa con người cán bộ và con người làm văn. Năm 1965, đạo diễn Alain Resnais đặt hàng, nhờ Jorje Semprún soạn kịch bản cho cuốn phim La guerre est finie (Chiến tranh đà chấm dứt – 1966) ông sắp dàn dựng. Đây là dịp cho phép nhà văn cán bộ cộng sản lần hồi lột xác, như đương sự đã thú nhận : « Trải nghiệm này rút ngắn thời gian lột xác, thay da đổi thịt của tôi. »
Cũng trong dịp này ông thân quen với ca sĩ diễn viên Yves Montand (1921-1991). Họ í hợp tâm đồng, trở thành bạn tâm giao khăng khít với nhau. Cả hai đều khuynh tả, cùng dấn thân, mỗi người trong địa hạt của mình, mưu cầu công lí cho xã hội và chính nghĩa trên chánh trường. Thẳng tay tố cáo mọi hành vi cực đoan do bất kì phe phái nào can phạm, người thì bằng cán bút, kẻ thì bằng biểu diễn. Yves Montand thủ vai các nhơn vật do Jorje Semprún khắc họa vẽ nét trong kịch bản dựa trên lịch sử đương đại. Ba bộ phim lớn của đạo diễn Costa-Gravas biểu hiện sự cộng tác chặt chẽ này.
Trước tiên là * bộ phim Z (Z – 1969), trong đó Yves Montand thủ vai nhơn vật Grigoris Lambrakis, đại biểu và lãnh tụ Đảng Xã hội Hi lạp bị “chế độ đại tá ’’ do quân đội thiết lập ám sát năm 1967. Tiếp sau là * L’Aveu (Thú tội – 1970), trong đó Yves Montand thủ vai thứ trưởng Bộ ngoại giao Tiệp khắc Artur London bị chánh quyền cộng sản bỏ tù trước khi mang ra xét xử trong một vụ án thiếu công minh năm 1961. Và cuối cùng là * État de siège (Giới nghiêm – 1973), trong đó Yves Montand thủ vai Dan Mitrione, cố vấn Hoa kì các chế độ độc tài ở châu Mĩ La tinh, bị tổ chức cực tả Tupamaros (Phong trào giải phóng quốc gia) bắt cóc và thủ tiêu năm 1970. Các nhơn vật lịch sử kể trên trong phim có thật, và đều là nạn nhơn các hành vi quá khích tả, hữu lẫn lộn.

Sự nghiệp
Tặng thưởng
Sự nghiệp nghệ thuật Jorje Semprún cống hiến trên văn đàn Pháp và thế giới già nửa thế kỉ qua đã được tôn vinh. Tác phẩm của ông thưòng xuyên được tặng thưởng giải này giải khác. Phải kể, theo thứ tự thời gian : giải Formentor cho cuốn Du hành xa (1963 – sđd), giải Fèmina cho cuốn Ramon Mercadier lại tử vong lần nữa (1969 – sđd), giải Planeta cho cuốn Tự truyện của Federico Sánchez (1976 – sđd), giải Các nhà xuất bản và thư quán Đức, giải Femina Vacaresco và giải văn chương Nhơn quyền đồng lượt cho cuốn Cầm bút hay là sống (1994 – sđd), giải Les Charmettes - J.J. Rousseau cho cuốn La mort qu’il faut (Cái chết cần thiết – 2001) và sau chót là giải Ulysse năm 2007 cho toàn bộ tác phẩm của ông.
Phần khác, năm 1994, ông được bầu vào hội đồng chấm giải Goncourt là giải văn chương lớn nhứt ở Pháp. Nhưng lại không được vào Académie française (Viện Hàn lâm Pháp), bởi lẽ ông một mực giữ quốc tịch Tâybannha, nơi chôn nhau cắt rún của mình, không chịu chánh thức trở thành dân nước ông thường xuyên cư ngụ. Dầu cho hầu hết tác phẩm, kể cả kịch bản của ông đều viết bằng tiếng Pháp có nội dung và hình thức điểm xuyết, và ngày dài sanh sống (và sắp chôn cất) ở Pháp. Trích đoạn dưới đây tiêu biểu cho chất lượng đó.

Trích dẫn
Mấy dòng này, trích trong tác phẩm Cầm bút hay là sống (sđd, một trong số kiệt tác của ông), đặt vấn đề liên quan tới thể loại tự truyện, qua nhơn vật tù tập trung (chính tác giả) vừa được quân đội đồng minh giải phóng.
Sẽ có kẻ còn sống sót, hẳn nhiên rồi. Như tôi đây chẳng hạn. Một kẻ sống sót làm vì, xuất hiện đúng lúc trước mặt ba vị sĩ quan đồng minh phái đi điều tra để kể cho họ nghe mây khói bốc lên trên lò thiêu, mùi thịt khét lẹt bao trùm vòm trời Ettersberg (8), tiếng kêu cứu nghẹn ngào dưới lớp tuyết đóng băng, lao dịch giết mòn tù nhơn, sự sống kiệt quệ, hi vọng khôn cùng, thú tánh của con vật dã man mang dáng con người, lòng cao thượng bản năng của con người, vẻ trần trụi thân tình điêu đứng trong ánh mắt của bạn bè đồng cảnh. Nhưng làm sao kể hết cho được ? Tôi không mấy tin ngay giây phút đầu tiên. Đó là ngày 12 tháng tư năm 1945, hôm sau ngày trại Buchenwald được giải phóng. Tóm lại là mọi sự đang còn tươi rói. Khỏi cần phải đặc biệt nặn óc. Cũng khỏi cần có trong tay tư liệu đáng tin, đã được kiểm tra. Chết chóc vẫn còn đó, hiện diện. Ngay dưới mắt chúng tôi, chỉ cần liếc qua mà thôi. Hàng trăm con người vẫn đang tắt thở đằng kia, tù lao công bị bỏ đói trong Petit Camp (9), tù do thái sống sót chuyển đến từ trại Auschwitz (10). Chỉ cần thoải mái nghĩ tới nó. Thực tại nằm sẵn đó, chờ đợi. Ngôn từ cũng thế. Vậy mà tôi không tin mình có thể kể rốt ráo được mọi sự . Chẳng phải vì kinh nghiệm sống qua khó miêu tả. Nó quả thật khôngtài nào sống nổi, là một điều khác hẳn, dễ hiểu. Điều khác hẳn này chẳng liên quan tới hình thức kể chuyện có thật, mà tới chính bản chất của nó. Chẳng phải về cấu trúc, mà về mật độ. Chỉ đạt tới bản chất đó và mật độ trong suốt đó những ai biết biến chứng từ của mình thành một vật thể nghệ thuật, một không gian sáng tạo. Hay tái tạo. Chỉ có loại tự sự thuần thục mới thật sự chuyển được một phần nào chứng từ. Nhưng đây đâu phải là điều gì đặc biệt : mọi kinh nghiệm lịch sử lớn lao đều như vậy cả.


Thăng hoa
Nói thí dụ Jorje Semprún mà không làm văn, thì chắc ông chỉ được xem đơn thuần là một chứng nhơn lịch sử. Chứng nhơn ba trận mạc đương đại, diễn biến giữa thế kỉ XX ở châu Âu nhưng chẳng phải là không có tác động trên chánh trường thế giới : nội chiến Tây Ban Nha, bầu trời đen tối trong trại tập trung Buchenwald, công tác đảng phái bí mật rồi công khai sau thế chiến thứ hai. May thay cho chính ông và cho văn đàn thế giới, năng khiếu văn chương đã biến ông một thành nhà văn lớn. Chính năng khiếu này và kinh nghiệm lịch sử lớn lao trải qua đã thăng hoa các sự kiện nói trên, phả vô sự nghiệp của ông một chiều sâu hi hữu.
Ít có nhà văn nào cùng thế hệ với ông đạt tới đỉnh cao này.

TRẦN THIỆN - ĐẠO
(Paris, 7-9/06/2011)
-------------------------------
(1) Sáu nhà văn này là : Jorje Semprún (1923-2011), Jean Ricardou, Simone de Beauvoir (1908-1986), Yves Berger (1931-2004), Jean-Paul Sartre (1905-1980) và Jean-Pierre Faye. Chủ tọa hội thảo là nhà báo Yves Buin, tổng biên tập tạp chí thanh niên cộng sản Pháp Clarté (Ánh sáng). Xem Tin giờ chót (bán nguyệt san Văn, số 24, ngày 15/12/1964).
(2) Xem Trần Thiện-Đạo, Cuộc tranh luận văn nghệ giữa sáu nhà văn Pháp đương đại (Phần I, Văn, số 25, ngày 01/01/1965; Phần II, Văn, số 28, ngày 15/02/1965).
(3) Anđrêï Jđanov (1896-1948). Ủy viên Bộ chánh trị Đảng Cộng sản Liên xô. Chủ đạo và chỉ đạo chánh sách văn hóa, ấn định đường lối văn nghệ hiện thực xã hội chủ nghĩa. Có thể ví với Trường Chinh (Đặng Xuân Khu – 1907-1988), ‘’tác giả’’ cuốn Chủ nghĩa Mác và vấn đề văn hóa Việt Nam (1948), cùng với những Hoài Thanh (Nguyễn Đức Nguyên - 1909-1982), Tố Hữu (Nguyễn Kim Thành - 1920-2002), Nguyễn Đình Thi (1924-2003) và Nguyễn Công Hoan (1903-1982), Xuân Diệu (họ Ngô - 1916-1985), Huy Cận (họ Cù - 1919-2005)… ở CHXHCN Việt nam
(4) Paul Nizan (1905-1940), nhà văn thân thiết với triết gia Jean-Paul Sartre. Đảng viên Đảng Cộng sản Pháp cho tới năm 1938, là năm Liên xô và Đức quốc xã kí hiệp ước thỏa thuận không gây chiến. Phản đối hiệp ước này, ông công bố rút ra khỏi đảng.
(5) Phan Khôi (1887-1960), tám năm trước đó, trong một tình thế khó khăn hơn nhiều, đã cương trực bày tỏ quan điểm của mình trong bài Phê bình lãnh đạo văn nghệ (1956). Kháng cự, phản đối chủ trương “văn nghệ sĩ phải ở dưới quyền lãnh đạo (của đảng cộng sản) ’’ do Trường Chinh phán quyết trong một cuộc tọa đàm ở trụ sở Hội Văn nghệ, tiền thân Hội Nhà văn).
(6) Bùi Ngọc Tấn, tác giả cuốn Chuyện kể năm 2000 (Nxb Thanh niên – 2000), cũng vậy, đề nó là tiểu thuyết. Thật ra, cuốn hồi kí không bị biên tập chúng tôi hiện có trong tay mang tên là Mộng du, một nhan đề thật sự ăn khớp với í nghĩa tác giả muốn gởi tới người đọc.
(7) Xem Trần Thiện-Đạo, Tự sự hư cấu (Hợp lưu, số 113, tháng 3 & 4 năm 2011).
(8) Trại tập trung Buchenwald xây trên cao nguyên Ettersberg, nổi tiếng trước kia là nơi văn hào Johann Wolfgang von Goethe (1749-1832) thường xuyên lên viết lách dưới bóng một cây đại thụ.
(9) Khu dành cho tù lao công khổ sai, ăn uống thiếu thốn, bịnh hoạn lây tràn, chết hàng loạt.
(10) Auschwitz-Birkenau. Trại tập trung lớn nhứt nhốt 90% tù do thái, có lúc không đủ chỗ phải chuyển bớt qua các trại khác. Từ tháng 05/1940 tới tháng 01/1945, hơn một triệu mốt người, già trẻ bé lớn, tử vong : bị thiêu đốt, làm vật thí nghiệm, bịnh hoạn, đói rét, xử bắn.


Đọc sách
Q U I C H Ụ P

Đầu năm ngoái, trong dịp tham dự Hội nghị quốc tế giới thiệu văn học Việt Nam ra nước ngoài (1) do Hội Nhà văn tổ chức tại Hà nội từ ngày 04 tới 10 tháng Giêng 2010, chúng tôi có hân hạnh làm quen với một số văn nghệ sĩ chưa từng gặp mặt trước đó. Trong số này, đặc biệt có hai nhà viết văn và làm thơ gốc miền Trung, một nam một nữ, và về mặt sự nghiệp, một đà già dặn, một còn trẻ : ngoài chỗ nói trên, chúng tôi cũng chưa hề nghe nhắc tới (tên) họ và (được) đọc tác phẩm của họ trên sách báo (2)… cho tới gần đây. Cho tới khi gặp mặt và thân mật trò chuyện, biết chúng tôi ở Pháp về, họ thân tình tặng chúng tôi tác phẩm mới vừa xuất bản của họ, thể như có í âm thầm giãi bày điều gì canh cánh trong lòng, dai dẳng từ mấy thập niên qua mà thời gian, vốn có khả năng xóa nhòa và khỏa lấp mọi sự, vẫn không làm sao giải tỏa được.
Hai tác phẩm đó là tập Tuyển tập thơ và Phụ lục (Nxb Hội nhà văn – 2009) của nhà thơ thương binh Hoàng Cát và tập tự truyện Cánh chim trong Bão tố của nhà thơ nữ Nguyễn Thanh Song Cầm. Hoàng Cát sanh năm 1942 tại Nam đàn, Nghệ an, Nguyễn Thanh Song Cầm năm 1960 tại Cam lộ, Quảng trị : nhắc tới năm sanh và nơi chôn nhau cắt rún của hai nhà thơ này là nhằm ghi liền ở đây những yếu tố liên quan trực tiếp tới thời gian họ bị qui chụp phủ đầu cái tội tày đình là ‘’biểu tượng hai mặt’’ trong tác phẩm. Rồi bị trù dập, để khỏi bảo là bị đọa đày trong miếng cơm manh áo, trong công ăn việc làm : Hoàng Cát kể từ năm 32 tuổi, Nguyễn Thanh Song Cam từ năm 21 tuổi. Thảy đều diễn ra trong thời gian nhà thơ Tố Hữu (1920-2002 – có tên tục là anh Lành) gốc gác Quảng điền, Thừa thiên Huế, làm quan lớn có quyền thế trong bộ máy của Đảng và Nhà nước.
Bài này chỉ nhắc tới tình huống mà Hoàng Cát đã phải gánh chịu suốt thời gian dài từ 1974 tới 1989 (năm văn nghệ được cởi trói, báo chí được phép đăng tải thơ văn của đương sự ; thi phẩm đầu tay được xuất bản năm 1991) - dành trường hợp Nguyễn Thanh Song Cầm cho một bài sau. Những chi tiết thuật lại dưới đây đều rút ra từ tác phẩm Tuyển tập thơ và Phụ lục nói trên và được kiểm chứng qua nhiều buổi chuyện trò trực tiếp và qua điện thoại với bạn bè quen biết đã có dịp theo dõi sát sao vụ việc.

Hoàng Cát và cây táo ông Lành
Hoàng Cát bỗng dưng rước vạ vào thân năm 1974 khi truyện ngắn Cây táo ông Lành của ông đăng trên tuần báo Văn Nghệ, số đặc biệt thiếu nhi, cùng với nhiều truyện khác của những tác giả khác. Câu chuyện khai mào rất ăn khách, hợp cách với độc giả ở lứa tuổi còn cắp sách đến trường, giải thích hai mạng đề cây táo và ông Lành gói gọn trong tên truyện :
Tên thật ông là gì, nhiều người không biết. Đã từ lâu, người ta vẫn gọi ông là ông Lành. Vì tính ông hiền lành và rất yêu lũ trẻ trong làng. Lâu dần, nó thành ra tên của ông. Vườn nhà ông khá rộng, có nhiều cây ăn quả như chuối, mãng cầu, vú sữa, táo... Ông Lành thú nhất là cây táo lai. Nó đứng ở góc vườn, trùm cái tán khum khum lên một vạt đất chừng dăm tấm chiếu. (…) Mé dậu vườn là con đường ống xuyên qua làng. Sáng sáng, lũ trẻ học trò lớp Một đi tắt qua đấy để đến trường. Bao giờ chúng cũng đi thật sớm, tíu tít như một đàn chim, vồ lượm những quả táo rụng. (…) Vốn là một ông già yêu trẻ, ông Lành lấy thế làm niềm vui. (Tuyển tập thơ và Phụ lục, tr. 461-462)
Lũ trẻ không chỉ lượm mót táo rụng, mà còn lấy đá, gạch và các vật cùng loại thi nhau liệng cho táo rụng xuống nhiều hơn, tinh ranh, sung sướng. Bổn tánh hiền… lành, nên ông Lành không quát mắng, mà chỉ nhắc chừng bọn nó chớ nên ngỗ nghịch làm vậy. Nể ông, lũ trẻ xem chừng ngoan ngoãn tuân lời. Cho đến một hôm, đang ngồi vót lạt buộc cái nạng chống đỡ cây táo sai quả thì bỗng nhiên có một cục đất chẳng biết từ đâu rơi đánh bịch trên đầu, tung tóe lên vai lên cổ ông. Ngẩng đầu, ông trông thấy thằng Thìn đang chăm chăm nhìn mình, rồi nghe nó lắp bắp :
- Cháu… cháu lỡ ! Ông tha…
Đang cơn bực mình, ông Lành ném cây rựa xuống sân (…), đứng phắt lên :
- Ông, ông cái con khỉ !
Hoảng quá, thằng Thìn co giò bỏ chạy. (sđd, tr. 463)
Tháo lui giữa chừng thì gặp lũ bạn trờ tới, nó liền đánh tráo cơ sự. Úp mở bảo rằng khi sắp đi ngang qua cây táo, nó bất thần bị một phen hú vía trở tay không kịp. Lũ bạn nhao nháo cả lên. Nó bèn thừa cơ kể tiếp : vừa tới gần cây táo, nó bỗng nghe như có ai réo gọi một cách rợn người. Ngước mắt, nó dòm thấy trên cành cây táo một cái đầu lâu đen ngòm đang trân trân nhìn nó, nạt nộ. Kinh hồn, nó chẳng nói chẳng rằng vắt chưn lên cổ mà thụt mạng thoát chạy. Lũ bạn tái mét mặt mày. Riêng thằng Tỵ và thằng Ngọ thì bán tín bán nghi, rủ nhau đi rình cho ra lẽ. Chưa đầy một sát na, chúng nó quay ngược ù té trở lại, hổn hển không còn một chút máu mặt. Cái chuyện đầu lâu đen ngòm trên cây táo nạt nộ chận đường của thằng Thìn vậy là có thật một trăm phần trăm. Thế là lũ trẻ hết còn dám đi tắt trên con đường ống xuyên làng, hết còn bén mảng tới cây táo sai quả mà phải vòng vèo theo con đường chính mà đến trường. Vắng lũ trẻ, không còn nghe bọn nó ríu rít bên tai, ông Lành buồn tênh, góa bụa đơn chiếc một mình không biết thổ lộ cùng ai. Thấy táo rụng đầy mặt đất cả tuần rồi mà chẳng có đứa nào tới mót, lòng dạ ông đâm ra cồn cào, ruột gan ông đau đáu. Ông bèn kiếm một cái rổ, lượm hết táo rụng đem đi rửa sạch, chờ sẵn, biết đâu rồi cũng có đứa nào mon men ghé qua, nhờ nó mang cho lũ trẻ. Vừa rửa táo xong, ông chợt trông thấy thằng Mùi hớt hải chạy băng ngang qua mà không đếm xỉa gì tới cây táo. Ông liền gọi giật nó lại :
- Nè con !
Thằng Mùi ngoái đầu, “dạ’’ một tiếng rõ to, rồi định quay đi chạy thẳng. Nhưng ông Lành đã kịp bưng rổ táo chín múp chạy tới, giữ nó lại. Thằng Mùi tròn mắt, không dám lấy :
-Táo có ma đầu-lâu-đen, cháu không ăn đâu ông ạ ! (sđd, tr. 466)
Ông Lành lấy làm ngạc nhiên hết sức. Bị ông vấn hỏi, nó liền giơ tay chỉ cây táo. Khai rằng thằng Thìn bảo là có một cái đầu lâu đen ngòm trên cành cây táo thường hay nạt nộ, chận đường không cho bọn trẻ băng ngang qua đến trường. À, thì ra là vậy. Ông bèn lập tức cải chánh, để cho, qua trung gian thằng Mùi, lũ trẻ biết rõ đó không phải là đầu lâu ma quỉ chi ráo, mà chỉ là một ổ kiến có phận sự giết sâu giết bọ, bảo vệ hoa quả. Không thôi thì bọn mày lấy táo ở đâu mà nhai. Rồi bắt nó bưng cả rổ táo vô lớp cho lũ bạn nó.
Và đồng thời nhắn cô giáo Hà dạy lớp Một, ông sẵn lòng cho cô mượn căn nhà xây cạnh cây táo dành cho thằng Sửu, cậu con trai một của ông, khi nó lấy vợ, ra riêng. Ngôi nhà hiện còn trống, để không, có vài chỗ dột do chuột bọ cắn xé vì chẳng có người ở ngăn chận. Bởi nhà vừa xây cất xong thì thằng Sửu đột nhiên xung phong vô bộ đội, chẳng biết tới bao giờ nó mới giải ngũ, lấy vợ đẻ con cho ông một lũ cháu.
Thế là bọn học trò cô Hà ngày nào cũng cắp sách đến trường, vui vẻ vô lớp trong căn nhà mới và xúm xít rộn rã dưới bóng cây táo ông Lành.

Từ cây táo ông Lành đến cây táo anh Lành
Chụp lấy câu chuyện thiếu nhi vừa kể làm vật giảo nghiệm, mổ xẻ soi mói tìm cho bằng được chứng cớ đã gây nên án mạng, tạp chí Học tập (tiền thân tạp chí Cộng sản), cơ quan lí luận và chánh trị của Đảng Lao động Việt Nam (tiền thân Đảng Cộng sản Việt Nam), số tháng 11/1974, sau hơn 30 năm phát động vụ án Nhân văn Giai phẩm (1955-1958), cho đăng một bài xã luận dưới nhan đề cực kì chỉ đạo, chứng tỏ mối quan tâm của giới cầm quyền trong ngành văn hóa văn nghệ bấy giờ. Nhan đề là cả một tuyên ngôn : Tăng cường tính đảng, đi sâu vào đời sống nhân dân, tạo một khí thế mới trong văn nghệ ta (sđd, tr. 458). Chỉ thị này khai mào và kết thúc thẳng thừng như sau :
Một truyện ngắn viết về thiếu nhi đăng trên tuần báo Văn nghệ trong thời gian qua thuộc loại nấm độc nguy hiểm. Với lối viết theo kiểu “biểu tượng hai mặt’’, truyện này gieo rắc hoài nghi trong quần chúng đối với sự lãnh đạo của Đảng ta, gieo rắc tư tưởng chống lại đường lối cách mạng, chống lại chế độ xã hội chủ nghĩa và nền chuyên chính vô sản của chúng ta. Miêu tả cuộc sống heo hút, tâm trạng u buồn của một ông già, người vợ chết vì bom, người con trai độc nhất “vô bộ đội đợt đầu tiên kể từ sau khi có lệnh hòa bình’’ (…). Trong điều kiện chuyên chính vô sản, cuộc đấu tranh giữa hai con đường ở miền Bắc tiếp tục diễn ra gay go phức tạp, truyện ngắn này đưa ra hình ảnh cái đầu lâu khủng khiếp và nói về việc “từ bỏ con đường này để đi theo con đường khác’’ là có tác dụng gì ? (…), cùng với lối viết bóng gió, xuyên tạc ‘’ nhà mới mà đã dột vì chuột bọ’’, tác giả đe dọa “bỏ” con đường mà tác giả cho là “con đường tắt’’ để đi con đường khác ! Đó là một sự thách thức chế độ ta. Chuyện đã không chân thật, chi tiết lại đáng ngờ, gieo rắc những quan điểm, tư tưởng sai trái, đây rõ ràng là một truyện xấu và có hại. Vì tính chất độc hại của nó, truyện ngắn này đã bị đông đảo bạn đọc kịch liệt phản đối.
Những lời cáo buộc chắc nịch, rập khuôn, xây trên nền móng í thức hệ đúc kết trong môi trường lí thuyết và thực tế xã hội chủ nghĩa, trích dẫn trên đây xét ra chẳng cần phải luận bàn, bởi vì nó chẳng có gì để luận bàn và nhứt là vì nó mặc nhiên không cho phép bất kì ai, kể cả bị cáo, lên tiếng luận bàn. (3) Thế cho nên nó đương nhiên quật ngã ngay lập tức tác giả Cây táo ông Lành, khiến cho cuộc đời Hoàng Cát đột nhiên lâm vào cảnh điêu đứng một thời gian dài. Điêu đứng trong miếng cơm manh áo, điêu đứng trong văn chương chữ nghĩa ngót mười mấy năm trời.
Là một bộ đội thương binh ở chiến trường Bình Trị Thiên miền Trung từ năm 1969, được thuyên chuyển ra miền Bắc điều dưỡng và lắp chưn giả năm 1971, rồi làm cán bộ kĩ thuật trong nhà máy cơ khí Hà nội và viết văn làm báo sanh nhai. Ổn định cho tới năm 1974, thì bất thần gặp nạn, dở sống dở chết. Trước hết là cho nồi cơm : ngón đòn đầu tiên là mất công ăn việc làm ở nhà máy (ai ra lịnh sa thải ?), ngón thứ hai là trợ cấp thương binh hạng A bị xóa sổ (ai ra lịnh bôi bỏ ?) ; sau là cho nghiệp văn : ngón đòn thứ ba là tác phẩm gởi tới chẳng báo nào chịu / dám đăng (ai ra lịnh cấm ?), hết toi nhuận bút. Không những thế, người ta (ai ?) còn buộc tuần báo Văn nghệ phải viết bài chánh thức tự kiểm điểm trước bàn dân thiên hạ và, đồng thời, về tận quê quán đương sự ở xóm làng Nam đàn, Nghệ an điều tra lí lịch gia đình. Trong tình cảnh đó, thì, ngoại trừ một thiểu số bạn bè thân tín cương trực như những Võ Văn Trực, Phạm Đình Ân, Trần Hoài Dương còn dám giao tiếp, giúp đỡ (sđd, tr. 476), phần lớn những kẻ quen biết từ trước đều lần lượt lẩn tránh lánh xa, sợ bị liên lụy. Kể cả Xuân Diệu (1916-1985), là người đã đỡ đầu Hoàng Cát thời ông mới tập tành viết lách :
Số là, khi vụ “Cây táo ông Lành’’ xảy ra, Hoàng Cát thân cô thế cô, bị o ép đủ bề chẳng còn biết nương tựa, bấu víu vào đâu. Nghĩ đến tình nghĩa nhiều năm, anh phải chạy lên Xuân Diệu cầu cứu : « Em thế nào anh đã biết. Anh có thề nói giúp để họ hiểu em, tránh suy diễn sai về em. Em tin, với uy tín của anh, chắc chắn anh giúp đỡ được em.»
Thì bỗng dưng nhà thơ không còn mặn mà. (sđd, tr. 475-476) (4)
Nhưng trong cái rủi cũng có cái may : là thương binh cụt chưn nên Hoàng Cát không bị bắt đi học tập cải tạo như các bậc đàn anh của ông trong ‘’nhóm’’ Nhân văn Giai phẩm già nửa thế kỉ trước :
Nếu ta không là thương binh tàn phế suốt đời
Có lẽ đã phải ngồi chơi mấy năm trong nhà đá. (sđd, tr. 472)
Dầu không phải học tập cải tạo, thì vẫn phải kiếm ăn. Nhưng kiếm ăn bằng cách nào, khi chẳng ai dám thâu dụng kẻ bị Đảng và Nhà nước buộc tội chống đường lối cách mạng, chống chế độ xã hội chủ nghĩa, chống nền chuyên chính vô sản (sđd, tr. 469 và tr. 493), khi vợ mình sớm trưa đau yếu, khi con mình hỉ mũi chưa sạch (sđd, tr. 476), khi mình chỉ còn có mỗi một đầu gối để bò ? Đói, Hoàng Cát bắt buộc phải bò trên đầu gối bên mặt còn lại. Khập khiễng làm đủ thứ nghề (đếm cả thảy là 17) để sống còn, bán thuốc lào, bán đậu phộng, bán cà rem, bán nước trà năm xu một tách trên vỉa hè, dán hộp đựng thuốc cho ngành dược, mua da heo nhổ sạch lông thái nhỏ trộn thính với lá chanh biến thành nem chạo chào hàng, nuôi gà giống, nuôi gà công nghiệp, nuôi heo, nuôi chó, nuôi két … (sđd, tr. 498) :
Vấp tai nạn văn chương, trải qua 17 nghề kiếm sống
Nghề nào cũng đớn đau, tủi nhục ê chề
Nuôi lợn, nuôi gà, nuôi chó (hay chó nuôi ta ?)
Bán nước chè 5 xu cũng phải còng lưng đóng thuế
Máu đổ xuống chiến trường, máu không vón cụ
Để thành vàng - sống tạm buổi hoàng hôn. (sđd, tr. 476)
Cuộc sống bị đọa đày, tài năng bị vùi dập - bấy nhiêu khổ ải về thể chất và tinh thần mà Hoàng Cát (và vợ con) đã phải trải qua, tựu trung chỉ vì hai chữ ông Lành và cây táo. Dư luận bấy giờ tin rằng đương sự thâm í mượn tên tục của Tố Hữu để chống đường lối lãnh đạo của Đảng và nói xấu chế độ xã hội chủ nghĩa, nên bị nhà thơ quan chức này trả thù. Trong sân biệt thự của anh Lành chẳng có trồng một cây táo sai quả đó ư ? Tố Hữu minh oan, nói mình không hay biết gì ráo. (sđd, tr. 520) Sự thật ? Mong rằng sẽ có sử gia văn học nào cặn kẽ giải trình.

Trường hợp không hiếm
Thật ra, trường hợp nhà văn nhà thơ bị qui chụp một cách ấu trĩ, thiếu suy xét, a dua, học đòi và nhứt là độc đoán thuật lại trên đây đâu phải là hiếm có. Cứ nghĩ tới vụ án Nhân văn Giai phẩm vào thập niên 50 (thế kỉ trước) mà những Phan Khôi (1887-1959), Hoàng Cầm (1922-2010) (5), Trần Dần (1926-1997), Phùng Cung (1928-1997), Lê Đạt (1929-2008), Phùng Quán (1932-1995) và nhiều nữa đã bị bắt đi học tập cải tạo (trừ Phan Khôi, cương quyết không học), bị treo bút và bị đọa đày như thế nào thì rõ. (6) Có điều là những nhà này thường xuyên được nhắc tới trên sách báo trong nước và ngoài nước. (7) Còn rất nhiều nhà khác ít tên tuổi hơn thì chẳng mấy khi được nói đến, Hoàng Cát là một thí dụ điển hình. Cũng như Nguyễn Thanh Song Cầm, sẽ là đề tài chúng tôi sắp trình bày.
Chủ đích của loại bài này là thiết lập công bằng trong biên khảo và bình luận.
TRẦN THIỆN - ĐẠO
(Paris, 16/04/2011)

(1)Tiếng Anh / Mĩ : International Conference to introduce Vietnam literature abroad. Tiếng Pháp : Conférence Internationale pour la Propagation de la Littérature vietnamienne à l’Étranger. Tiếng Trung :…
(2)Một phần, chắc là vì chúng tôi ở xa nên không có điều kiện xem đủ sách báo trong nước.
(3)Xem : Mặc dù Hoàng Cát khi đó là cán bộ kỹ thuật, trực tiếp sản xuất ở nhà máy cơ khí Trần Hưng Đạo, lại là thương binh từ chiến trường miền Nam trở về, đã đổ máu và để lại một phần cơ thể của mình nơi chiến trường Trị Thiên ác liệt, vậy mà tác giả đã không có được một cơ hội, dù là rất nhỏ, để có dịp trình bày lại. (Huy Thắng, Một cuộc đời chìm nổi – Qua những dòng thơ - sđd, tr. 472)
(4)Về con người Xuân Diệu, xem cảnh ông ’’ nói chuyện thời sự’’ với học viên văn nghệ sĩ trẻ thời chống Pháp chống Mĩ : Anh (Xuân Diệu) nói về xã hội thối nát của Pháp và Mỹ ( …). Xuân Diệu trợn tròn con mắt :
- Các đồng chí có biết bên ấy chúng nó mặc quần áo bằng gì không ? Bằng ni lông. Quần áo ni lông ! Chúng tôi ào lên. Thật không thể nào hiểu được cái bọn người khốn nạn ấy lại có thể lấy ni lông làm quần áo, thứ vải mưa mầu cánh dán trong suốt (…) Thật là một lũ điên loạn, trụy lạc. Mặc quần áo như vậy có khác gì cởi truồng […] Xuân Diệu bồi thêm :
- Còn quần áo may bằng vải thường các đồng chí có biết nó in gì trên đấy không ? Không phải in hoa. Nó in cả một tờ Nữu ước thời báo với đầy đủ hình ảnh, măng sét, tít lớn, tít nhỏ, tin ngắn, tin dài lên mặt vải. Cũng không phải in lên một bộ quần áo mà in lên cả hàng bao nhiêu cuộn vải rồi cứ thế mà cắt ! Không để chúng tôi kịp ngạc nhiên, Xuân Diệu tiếp luôn :- Còn tổng thống ở bên Mỹ, khi hết nhiệm kỳ không làm tổng thống nữa, các đồng chí có biết nó đi làm gì không ? Đi quảng cáo cho các hãng buôn kiếm tiền ! Chúng tôi lại ồ lên. Cái bọn người quái đản ấy cần được cải tạo. Chúng ta sẽ là người cải tạo chúng. Giai cấp vô sản, tầng lớp lao động, những người nghèo khổ bị bóc lột ở những nước ấy sẽ đứng lên. (Bùi Ngọc Tấn, Viết về bạn bè – Nxb Hải phòng, 2003 – tr. 309-310)
(5)Chúng tôi có đến thăm Hoàng Cầm năm 2004. Trong câu chuyện qua lại, nhà thơ thuật cho chúng tôi nghe hoạt cảnh sau đây. Hồi ông bị biệt giam vì vụ bản thảo tập thơ Về Kinh Bắc chuyển ra nước ngoài (nhà thơ Hoàng Hưng cũng bị bắt vì vụ này), một hôm nghe tin Tố Hữu sắp đến thăm, ông rất mừng, tin rằng chắc mình sẽ được thả nay mai. Trò chuyện thoải mái với nhau, rồi vui vẻ chia tay. Ngay ngày hôm sau, Hoàng Cầm vẫn bị biệt giam, nhưng khắc nghiệt hơn (ai ra lịnh ?). Xin hương hồn nhà thơ chứng giám cho lời kể này.
(6)Tố Hữu bấy giờ là Ủy viên trung ương Đảng Lao động Việt Nam, phụ trách đường lối văn chương nghệ thuật và, tất nhiên, đảm nhiệm công cuộc dập tắt phong trào Nhân văn Giai phẩm. Tác giả cuốn tổng kết “Qua cuộc đấu tranh nhóm phá hoại Nhân Văn - Giai Phẩm’’ trên mặt trận văn nghệ (Nxb Văn Hóa – 1958).
(7)Của cả tác giả nước ngoài. Chẳng hạn như khảo luận của Georges Bourdarel, Cent fleurs écloses dans la nuit du Vietnam (Trăm hoa đua nở trong đêm tối ở Việt nam – Nxb Jacques Berton, Paris, 1991).





source : hopluu.net.