25/9/13

Vũ Thư Hiên - 'Tác phẩm giả tưởng' về Hồ Chí Minh


Vũ Thư Hiên
Cập nhật: 13:59 GMT - thứ tư, 25 tháng 9, 2013 

Chủ tịch Hồ Chí Minh trong một lần gặp lãnh tụ cộng sản Trung Quốc Mao Trạch Đông
Mới đây, nhà bất đồng chính kiến Phạm Quế Dương có nêu câu hỏi trên net: “Đề nghị làm sáng tỏ vụ việc: Hồ Chí Minh là người Việt Nam hay Đài Loan?”
Câu hỏi của ông thế này: “Gần đây, dư luận sôi động về việc Đài Loan xuất bản cuốn sách Tìm hiểu về cuộc đời Hồ Chí Minh ( Hồ Chí Minh sinh bình khảo), do nhà xuất bản Bạch Tượng Văn Hóa ấn hành ngày 01-11-2008. Tác giả là Hồ Tuấn Hùng, giáo sư đã từng dạy học hơn 30 năm, tốt nghiệp trường Đại Học Quốc Lập Đài Loan, khoa lịch sử.”
Đã có khói ắt có lửa đâu đó. Lửa đây là cuốn sách của giáo sư Hồ Tuấn Hùng nói trên (ít người được đọc nguyên bản) và bài “Một nghi án lịch sử Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh: một hay hai người?” của bình luận gia Trần Bình Nam hết lời ca ngợi cuốn sách nọ (“Cuốn sách của ông Hồ Tuấn Hùng viết một cách có phương pháp, trưng dẫn tài liệu xác thực và kết luận một cách có tính khoa học”).
Bài của bình luận gia Trần Bình Nam được cả chục web và blog đăng lại, hẳn có nhiều người đọc. Thú thật, tôi ngán các chuyện tầm phào nọ. Cái đề tài này rõ là tầm phào bên cạnh những chuyện tày trời đang làm nóng dư luận như các vụ xử án vô lối các blogger, vụ Yên Mỹ, vụ nổ súng vì cưỡng chế đất ở Thái Bình, vụ chống cưỡng chế đất liên tục ở… khắp nơi.
Sở dĩ tôi thấy cần phải viết mấy dòng về nó là vì có nhiều bạn gửi nhời hỏi tôi: này, chuyện ấy thực hư ra sao hở ông?
Là người chẳng phải giáo sư hay bình luận gia như hai ngài nói trên, thế tất ý kiến của tôi không thể có trọng lượng với tư cách người khảo cứu. Nó là ý kiến của dân thường, người nghe thấy có lý thì gật cho một cái khích lệ, thấy không ra gì thì phẩy tay cho qua.
Tôi không biết nhiều về ông Hồ Chí Minh, tuy nhiên cũng đủ để thấy chuyện ông Hồ là người Tàu là chuyện tào lao. Mà chẳng phải chỉ mình tôi nghĩ thế. Nếu ông Hồ là người Tàu thật thì tất tần tật những ai từng gặp ông, từng làm việc với ông (có cả nghìn, cả vạn người đấy), tạm kể từ thời Quốc dân Đại hội Tân Trào 1945 cho tới khi ông qua đời năm 1969, hoá ra đều mù dở - khốn nạn, ông là Hồ Tập Chương đấy, là người Tàu đấy, người Khách gia đấy, thế mà không một ai phát hiện.
Trước hết, ta hãy xem những tài liệu cũ còn được lưu xem Quốc tế Cộng sản (QTCS) đánh giá Hồ Chí Minh như thế nào vào thời điểm có tin về cái chết của ông? Những tài liệu này cho thấy vào thời điểm đó ông bị QTCS đánh giá thấp lắm. Thấp đến nỗi ban lãnh đạo QTCS phải cử Trần Phú, Ngô Đức Trì về Đông Dương để sửa chữa những sai lầm của Nguyễn Ái Quốc liên quan tới Hội nghị hợp nhất các đảng cộng sản (1930) do ông chủ trương. Tại Hội nghị TƯ tháng 10-1930, Trần Phú kịch liệt phê phán quan điểm chính trị và tổ chức của ông là “chỉ lo đến việc phản đế mà quên mất lợi ích giai cấp đấu tranh, ấy là một sự rất nguy hiểm…”
Sau đó, Trần Phú được cử làm Tổng bí thư, còn Nguyễn Ái Quốc chỉ còn được giữ chân liên lạc giữa VN và vài chi bộ Đông Nam Á với quốc tế. Thậm chí khi được tin Nguyễn Ái Quốc qua đời ở Hồng Kông, Hà Huy Tập còn viết: “Công lao mà ông đã đóng góp cho Đảng chúng ta thật là lớn. Song các đồng chí chúng ta trong lúc này không được quên những tàn dư dân tộc chủ nghĩa của Nguyễn Ái Quốc, các chỉ thị sai lầm của ông về những vấn đề cơ bản của phong trào CM…Ông đã không đưa ra bàn luận trước về những sách lược mà QTCS đòi hỏi phải áp dụng để loại bỏ những phần tử cơ hội trong Đảng.
Ngoài ra, ông Hồ Chí Minh còn khuyến dụ một sách lược cải lương và hợp tác sai lầm: trung lập hóa tư sản và phú nông, liên minh với trung và tiểu địa chủ”. Một người bị QTCS đánh giá như thế, thử hỏi QTCS tạo ra một người giả ông ta để làm gì?
Lập luận của bình luận gia Trần Bình Nam: “Nhưng sau đó Quốc tế Cộng sản thầy cần người có uy tín như Nguyễn Ái Quốc để phát triển phong trào Cộng sản tại Đông Dương nên dấu nhẹm và tìm cách xóa dấu vết việc Nguyễn Ái Quốc chết và lên kế hoạch dùng phái viên của Quốc tế Cộng sản Hồ Tập Chương có khuôn mặt hao hao giống Nguyễn Ái Quốc và từng làm việc với nhau để làm sống lại nhân vật Nguyễn Ái Quốc”, rõ ràng không thuyết phục. Một câu hỏi khác cũng có người đặt ra: Ờ thì QTCS không làm việc ấy, nhưng nếu Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) làm thì sao? Để phục vụ cho mục đích bành trướng trong tương lai ở Đông Dương chẳng hạn?
Các chứng cứ lịch sử cho thấy ĐCS TQ vào thời kỳ đó rất yếu, thậm chí một địa bàn đủ an toàn cho Đại hội VI của nó (1928) trên lãnh thổ quốc gia cũng không có, phải mượn đất Nga để tổ chức tại Moskva. Cuộc chiến Quốc-Cộng khởi đầu năm 1927 đã buộc những người cộng sản Trung Quốc phải lui về nông thôn và hoạt động bí mật, thắng lợi to lớn nhất mà họ có được là chiếm thành phố Quảng Châu trong vẻn vẹn có 3 ngày để thành lập một Công xã Quảng Châu hữu danh vô thực.
Trong hoàn cảnh ấy, một Khổng Minh tái thế cũng không nghĩ tới việc cho ai đó đóng giả Hồ Chí Minh cho một tương lai trời không biết, đất không hay.
Như thế, QTCS không cần một Hồ Chí Minh giả, ĐCSTQ cũng không nghĩ tới việc ấy. Vậy ai cần, ngoài hai học giả nói trên?Chuyện những nhà cầm quyền độc tài thường sử dụng những người giống hệt mình để đóng thế trong những trường hợp phòng xa bị hành thích là có thật. Có Hitler giả, Stalin giả, Mao giả… nhưng người ta chỉ dùng người đóng thế cùng nòi giống, có diện mạo và hình thể giống người thật khi di chuyển, khi xuất hiện ngắn trước quần chúng, chứ người không cùng nòi giống như Hồ Tập Chương giả Hồ Chí Minh, lại đóng giả dài hạn nhiều năm, như thật, trong đời sống hàng ngày, thì chưa có tài liệu nào nói tới.
Trước hết, cái dễ phân biệt nhất giữa người thật với người giả là ở ngôn ngữ. Những người đã trưởng thành mới học ngoại ngữ dù cho thông thạo đến mấy cũng không thể nào sử dụng nó hoàn hảo như người bản địa được. Ta tính thử: Nguyễn Ái Quốc, năm 1932 đã qua đời vì bệnh lao (ông sinh năm 1890, tức lúc đó 42 tuổi), Hồ Tập Chương (sinh năm 1901, tức lúc đó 32 tuổi) được lập tức thay thế (cứ cho là đã có một viễn kiến không bình thường và ông này đã được dự trữ sẵn để thay thế), thì thời gian học tiếng Việt của Hồ Tập Chương cho tới khi mở lớp huấn luyện cho hội Thanh niên Cách mạng Đồng chí năm 1941 là 9 năm (giả định là chỉ có học tiếng mà thôi). Mở lớp huấn luyện cho nhiều người Việt thì không thể bằng một thứ tiếng Việt không thông thạo được.
Nhưng không một ai trong những người tiếp xúc với Hồ Chí Minh trong thời kỳ ấy tỏ ra nghi ngờ ông không phải người Việt. Không một ai trong những người Việt thuần, ở sát bên ông Hồ Chí Minh trong công việc hàng ngày trong cuộc kháng chiến chống Pháp (9 năm) như Phan Mỹ, Vũ Đình Huỳnh, Nguyễn Văn Lưu, Lê Văn Rạng, Lê Giản, Trần Duy Hưng, Trần Hữu Dực…, và rất nhiều người khác nữa, có một chút nghi ngờ ông Hồ Chí Minh không phải là người Việt.
Tôi từng gặp nhiều người có năng khiếu xuất chúng về sử dụng ngoại ngữ, trong đó có hai người Trung Quốc nói tiếng Việt rất thông thạo là Văn Trang và Lương Phong. Văn Trang đại diện cho phân bộ Hoa Nam ĐCSTQ liên lạc với ĐCSVN, Lương Phong là cán bộ ngoại giao, sau này xếp hàng thứ sáu tính từ Giang Thanh là số 1 trong cuộc Đại cách mạng Văn hoá Vô sản (thập niên 60 thế kỷ trước). Hai người này nói thạo tiếng Việt tới mức làm tôi ngạc nhiên. Nhưng đấy chỉ là cảm giác ban đầu, một lúc sau, khi câu chuyện mở rộng sang nhiều lĩnh vực khác, tinh tế hơn, tức thì họ ngắc ngứ, phát âm sai, hiểu sai.
Ngay trong những người Hoa thuộc những thế hệ ra đời ở VN, lớn lên trên đất Việt, sống chung với người Việt từ tấm bé, ta vẫn nhận ra những nét khác biệt nào đó để ta biết họ không có nguồn gốc Việt. Trong khi đó thì chưa một ai bắt gặp ông Hồ nói sai hoặc hiểu sai tiếng Việt. Còn hơn thế, ông còn có thể bắt bẻ những cán bộ dưới quyền khi họ dùng từ ngữ sai. Những ví dụ về chuyện này nhiều, xin miễn kể.
Nhân vật Hồ Tập Chương của tác giả Hồ Tuấn Hùng là người Hakka (người Hẹ, hoặc Khách gia), là cán bộ hoạt động quần chúng của ĐCSTQ, chắc chắn phải nói được tiếng quan thoại (tiếng Bắc Kinh). Hồ Chí Minh (thật) thì lại không thông thạo tiếng ấy, và ông không giấu giếm điều này. Trong những cuộc gặp gỡ không trù liệu trước với các tướng Tàu như Lư Hán, Tiêu Văn, Long Vân… vào năm 1946, ông đều phải dùng bút đàm. Chuyện này nhiều người biết, và có được ghi lại đâu đó trong những hồi ký. Khi phải dùng quan thoại trong tiếp xúc ông thường phải dùng ông Nguyễn Văn Thuỵ (biệt hiệu Thuỵ Tàu) và Phạm Văn Khoa (biệt hiệu Khoa Tếu) làm phiên dịch.
Còn nhiều, rất nhiều, chứng cứ khác bác bỏ luận chứng của ông học giả Hồ Tuấn Hùng về một Hồ Chí Minh giả.
Tôi có mặt trong buổi mừng thọ 60 tuổi ông Hồ Chí Minh tại thác Dẫng thuộc khu An toàn ở Việt Bắc, tôi lúc ấy 17 tuổi, mắt tinh, đầu tỉnh táo, xác nhận rằng hôm đó tôi đã gặp một người 60 tuổi thật, chứ không phải một người 49 tuổi là Hồ Tập Chương.
Tôi cũng xác nhận rằng trong thói quen ẩm thực ông Hồ Chí Minh là người thích ăn các món ăn Việt Nam như canh riêu, cá kho khô, cà Nghệ muối xổi… và chưa bao giờ đòi hỏi người nấu ăn cho ông phải làm bánh bao, màn thầu, tỉm xắm… hay là thứ gì khác gợi nhớ tới ẩm thực Trung Hoa.
Chắc chắn sẽ còn nhiều người viết về Hồ Chí Minh - chính khách liên quan tới nhiều lĩnh vực: những giai đoạn hoạt động chưa được làm sáng rõ, lý do gắn liền với những bí danh vô số kế của ông, những người đàn bà trong đời ông, công và tội của ông trong thời gian làm chủ tịch nước VNDCCH… Nhưng đó là những chuyện khác, những đề tài khác.
Theo tôi nghĩ, chuyện Hồ Chí Minh là người Tàu tên Hồ Tập Chương của học giả Hồ Tuấn Hùng là một tác phẩm giả tưởng tồi, không đáng để đọc, so với những chuyện giả tưởng của văn học Trung Quốc hiện đại như Ma Thổi Đèn, Mật Mã Tây Tạng.
Bài viết nêu quan điểm riêng của nhà văn Vũ Thư Hiên, hiện đang sống ở Pháp.

Source : BBC

24/9/13

Phạm Thị Hoài - Goodbye, Philipp Rösler!

( Source : pro&contra )

Phạm Thị Hoài


Bầu cử ở Đức chưa bao giờ là một sự kiện hoành tráng, trống dong cờ mở ầm ĩ, truyền thông rầm rộ, sân khấu chói lòa, hồi hộp thót tim đến phút chót. Tôi đã tưởng năm nay nó còn đạt đến đỉnh cao về sự nhạt.
Không nhạt sao được. Mọi kết quả đều đã được báo trước. Uy tín của bà Merkel trong dân chúng mạnh tới mức có tờ báo đã gọi bà là “người khổng lồ”, vây quanh bởi một loạt các “chú lùn”. Bà đã cầm quyền hai nhiệm kì và trong tám năm thế giới xung quanh chìm trong khủng hoảng, nước Đức dường như chưa một ngày chỉ nhúng một ngón chân vào đó. Trái lại. Chưa bao giờ đất nước này thịnh vượng và bình yên hơn; số người thất nghiệp, đặc biệt trong thanh niên, ít hơn. Chưa bao giờ các trường đại học đông sinh viên hơn, hệ thống chăm sóc y tế dư dả vốn giắt lưng hơn, bữa ăn hàng ngày của người bình thường phong phú hơn. Chưa bao giờ trọng lượng quốc tế của Đức nặng hơn, du khách nước ngoài đến Đức nhiều hơn. Nếu bạn muốn tôi có thể kể thêm: chưa bao giờ bóng đá Đức đáng yêu hơn và các tiệm ăn Đức được nhiều sao Michelin hơn. Đó là chưa kể cũng trong thời gian này Đức đã bỏ hẳn nghĩa vụ quân sự và rút từng bước mạnh mẽ khỏi việc sử dụng điện hạt nhân.
Dễ hiểu là người Đức hài lòng và không muốn thay đổi. Nói chung, người Đức thích những điều vững chãi, an toàn, dài lâu. Bí quyết thành công của họ là ở đó và gót chân Achilles của họ cũng ở đó. Họ được thán phục về điều đó và bị chế nhạo cũng vì điều đó. Thay đổi một điều gì trong xã hội Đức chắc phải cần thời gian gấp bốn lần ở Mỹ, gấp ba lần ở Anh và gấp hai lần ở Pháp. Người Đức ngưỡng mộ khiếu hài hước của người Anh, sự năng động của người Mỹ, nghệ thuật sống của người Pháp, sự thảnh thơi vô lo của người Ý; và tự coi mình là dân tộc có khá nhiều phẩm chất ưu tú, nhưng tẻ nhạt nhất hoàn cầu. Bà Merkel là kết tinh hoàn hảo của những điều rất Đức đó. Người phụ nữ được coi là quyền lực nhất thế giới này áp dụng một phong cách chính trị gây được nhiều thiện cảm trong dân chúng: Chính trị của understatement. Tiết chế, tiết kiệm, giản dị, tuyệt đối không phô trương, cần mẫn, nhẫn nại và không hề vướng bất kì một vụ tai tiếng nào, bà là được coi là lương thiện nhất trong hàng ngũ chính khách Đức, nếu nghề này còn cho phép sự lương thiện. Dễ hiểu là với bà, Liên minh Bảo thủ CDU-CSU chắc thắng trong cuộc bầu cử hôm Chủ nhật vừa rồi. Và mọi chuyện diễn ra đúng như vậy. Với gần 42 % số phiếu bầu, đó là thắng lợi vang dội nhất của Liên minh này từ 20 năm qua. Thậm chí ở Berlin và Brandenburg, hai tiểu bang có truyền thống thiên tả và đang do Đảng Dân chủ Xã hội (SPD) nắm quyền, Liên minh Bảo thủ của bà Merkel cũng dễ dàng vượt qua đối thủ chính trị. Không có gì chán hơn một cuộc bầu cử mà chưa bầu đã biết trước kết quả.
Cho nên trong mấy tháng vận động tranh cử trước đó và những tuần nước rút sát đó, nội dung chương trình tranh cử của tổng cộng 30 chính đảng và 81 ứng viên độc lập [i] xem ra không khuấy động dư luận bằng chiếc vòng ba mầu đỏ-vàng-đen ở cổ bà Thủ tướng trong cuộc “đấu khẩu” khá buồn ngủ trên truyền hình với ứng viên Thủ tướng của Đảng SPD, ông Peer Steinbrück; hay “ngón tay thối” của ông này trên bìa một tạp chí; hay “sự nhạy cảm châu Á” của Philipp Rösler, chính khách gốc Việt đầu tiên lên đến chức Phó Thủ tướng ở một quốc gia phương Tây.
Trước bầu cử không lâu, Philipp Rösler nhận lời phỏng vấn trực tiếp của tờ taz, một tờ báo thiên tả độc lập ở Berlin. Khi văn bản ghi cuộc phỏng vấn hoàn thành và được chuyển lại để ông và Văn phòng Đảng Dân chủ Tự do (FDP) đọc xác nhận, một thông lệ rất đáng hủy bỏ ở Đức, ông đã từ chối không cho phép đăng. Tờ taz bèn đăng bài phỏng vấn với tiêu đề “Philipp Rösler: Những câu hỏi và không có câu trả lời“, trong đó phần câu hỏi của tòa báo được đăng nguyên văn, phần trả lời bỏ trống bằng những “dòng kẻ chấm”. Nhưng dư luận, thay vì phê phán hành vi có vẻ như kiểm duyệt báo chí của Philipp Rösler, như tờ taz mong đợi, lại tương thẳng một cơn bão cứt lên tờ báo này. Đơn giản vì những câu hỏi của tờ báo thuần túy tập trung vào xuất thân châu Á của Philipp Rösler và những nỗi khổ mà ông phải chịu đựng từ đó. (Chẳng hạn: “Ông đã trải nghiệm việc người khác có vấn đề với ngoại hình châu Á của ông như thế nào?“, “Ông thường nhận được email chửi rủa. Vì ông là Chủ tịch Đảng FDP? Hay vì nhìn ông là thấy gốc gác không phải người Đức?“, “33 tuổi ông mới trở về thăm Việt Nam lần đầu tiên, do vợ ông đề nghị. Vì sao bản thân ông không quan tâm đến đất nước của cha mẹ ông?“…). Nếu là tôi, tôi đã đứng dậy bỏ đi, sau năm phút và chậm nhất là câu hỏi thứ hai. Nhưng Rösler ngồi hết, trả lời hết, và cuối cùng lại từ chối cho đăng.
Có ai ngờ trong bầu cử Quốc hội Đức năm nay, Việt Nam lại đóng một vai trò lạ lùng như thế. Tôi thấy rất ái ngại cho Philipp Rösler. Bản năng làm mẹ của tôi được đánh thức, khi nhìn chàng trai cao ráo, khôi ngô, lễ phép và dễ thương ấy ngơ ngác, bất lực, không dám buông mà cũng không thể vực dậy con tầu FDP mỗi ngày một chìm sâu. Ở chính khu vực bầu cử của mình tại Hannover, Philipp Rösler chỉ thu được 2,6 % số phiếu. Trong toàn liên bang, Đảng FDP của ông không vượt qua mốc 5 % để lọt vào Quốc hội. Một đảng từng cung cấp những chính khách giỏi giang và đóng dấu ấn Tự do của mình lên nền chính trị quốc gia trong suốt lịch sử CHLB Đức từ ngày lập quốc, nay bị cử tri quét phăng khỏi Quốc hội như không. Cái chết của FDP là bất ngờ đúng lúc hạ màn của cuộc bầu cử nhạt nhẽo này.
Philipp Rösler từng ví mình như cây tre uốn mình trong gió mà không gãy, để rồi bị một lãnh đạo cao cấp trong đảng của mình kháy lại rằng “muốn gây dựng niềm tin thì không thể đung đưa như cọng tre mà phải đứng sừng sững như cây sồi. Chính vì thế mà nước Đức là quê hương của sồi chứ không phải của tre“. Cả sồi lẫn tre, sau một ngày Chủ nhật toàn dân đầu phiếu, đều phải dọn sạch chỗ của mình tại Quốc hội và Nội các. Sai lầm của FDP có lẽ là dùng quá nhiều ẩn dụ [ii]. Goodbye, Philipp Rösler!
Tuần này bà Merkel bắt đầu từ từ đi chợ, để tìm một liên danh cầm quyền. Trong trường hợp xấu nhất – điều chưa bao giờ xảy ra với nước Đức – khi không một “chú lùn” nào trong số 4 đảng vừa được bầu vào Quốc hội chịu liên danh với Liên minh trung hữu CDU-CSU quá áp đảo của bà thì “người khổng lồ” sẽ ngự trên vinh quang với tất cả cô đơn và bất lực. Và nước Đức sẽ phải đi bầu một lần nữa. Dân chủ đương nhiên là nhiêu khê và tốn kém.
© 2013 pro&contra


[i] Trong đó có một chính đảng mang tên “Đảng của những người chống bầu cử” (Partei der Nichtwähler)
[ii] Những đảng cũng thua cuộc khác lại phạm những sai lầm khác. Đảng Xanh yêu cầu mỗi tuần một ngày ăn chay cố định trong các căng-tin trên toàn nước Đức. Dễ hiểu là một dân tộc đã hai lần trải qua chế độ độc tài thì không thích thú gì một nền độc tài mới: “độc tài đậu tương”.

----

LA RETRAITÉ ( Quan về vườn)

PHAN KHÔI: TÁC PHẨM ĐĂNG BÁO 1928



Quan về vườn

(dịch thơ Pháp)



Khuyên ai khá liệu bài qui khứ,

Cuộc trăm năm già nửa đi rồi.

Vô tình ngày tháng đưa thoi,

Dắt nhau đến cái chết coi cũng gần.

Đã lắm lúc biển trần phiêu đãng,

Một lá lau bao quản sóng dồi,

Bây giờ bờ đã đến rồi,

Là ngày hưởng lấy phước trời ban cho.

Cái phú quý là đồ hay nát,

Cất nhà trên đồi cát mà chi!

Xưa nay những kẻ cao vì,

Càng vinh hiển lắm càng nguy hiểm nhiều.

Cây cả phải đứng liều bão đánh,

Nhà cao thường mắc trận gió day.

Sau khi tường đổ ngói bay,

Lều tranh mấy nóc mà đây vẫn còn.

Sướng thay kẻ bụi hồng rũ sạch,

Lòng chẳng còn ham thích lợi danh.

Sá chi những vật ngoài mình,

Làm cho bận đến tấm tình thong dong.

Đem mình để ngoài vòng cho khỏe,

Thú điền viên nhẹ nhẻ thân già.

Đo lòng toan rộng lo xa,

Theo vành duyên phận, chẳng là vui thay!

Ruộng mấy khoảnh giỏi cày người trước,

Một đôi trâu tha thướt chiều thu,

Rảnh mình là khách giang hồ,

Đã trong lăng miếu mưu mô mặc người,

Vậy có lúc cơn trời giông tố,

Nhìn biển khơi sóng gió tha hồ,

Chút con mắt thấy lòng lo,

Mùa màng là kẻ nông phu thường tình.

Lại có lúc buồn mình tuổi tác,

Chốn thảo đường gởi xác từ đây.

Mà xưa cách mấy năm nay,

Vốn là thằng bé chốn nầy mà ra.

Lấy mùa gặt suy qua Giáp Tý,

Cõi trần gian biết mấy xuân thu,

Lần lần bóng xế nhành dâu,

Một sân tùng hóa, nửa đầu sương sa.

C.D.



Nguyên văn tiếng Pháp



LA RETRAITÉ

Tircis, il faut penser à la retraite:

La course de nos ans est plus qu'à demi faite,

L'âge insensiblement nous conduit à la mort.

Nous avons assez vu, sur la mer de ce monde,

Errer au gré des flots notre nef vagabonde;

Il est temps de jouer des délices du port.

Le bien de la fortune est le bien périssable;

Quand on bâtit sur elle on bâtit sur le sable.

Plus on est élevé, plus on court de dangers:

Les grands pins sont en butte au coup de la tempête,

Et la rage des vents brise plutôt le faite,

Des maisons de nos rois que les toits des bergers.

O bien heureux celui qui peut de sa mémoire

Effacer pour jamais ce vain espoir de gloire,

Dont l'inutile soin traverse nos plaisirs,

Et qui, loin retiré de la foule importune,

Vivant dans sa maison, content de sa fortune,

A, selon son pouvoir, mesuré ses désirs!

Il laboure le champ que labourait son père,

Il ne s'informe point de ce qu'on délibère

Dans ces graves conseils d'affaires sccablés;

Il voit sans intérêt la mor grosse d'orages,

Et n'observe des vents les sinistres préseges,

Que pour le soin qu'il a du salut de ses blés.

Il soupire en repos l'ennui de sa vieillesse

Dans ce même foyer où sa tendre jeunesse

A vu dans le berceau ses bras emmaillotés;

Il tient par les moissons registre des années,

Et voit de temps en temps leurs courses enchainées

Vieillir avec lui les bois qu'il a plantés.

RACAN *

-------

* H. de Racan (1589-1670): nhà thơ Pháp

Đông Pháp thời báo, Sài Gòn, s.716 (5.5.1928)

21/9/13

Nguyễn Hưng Quốc - Truyền thông và cách mạng


VOA

21.09.2013 

 Nguyễn Hưng Quốc

Xã hội, bất cứ hình thức xã hội gì, cũng đều được xây dựng trên nhiều nền tảng, nhưng một trong những nền tảng căn bản và quan trọng nhất là: truyền thông. Không có truyền thông, một tập thể người, dù đông đảo đến mấy, cũng không thể trở thành một xã hội.

Điều kiện để một xã hội được hình thành không phải là số đông mà là sự nối kết. Điều kiện để có sự nối kết là một mẫu số chung nào đó. Cái mẫu số chung ấy, dù rất hiển nhiên, như là huyết thống và quyền lợi kinh tế, vẫn không thể được ghi nhận và chia sẻ nếu thiếu một yếu tố: truyền thông. Đó là lý do tại sao, ngay từ xưa, trong quá trình lập quốc, người ta đã đề cao việc có một ngôn ngữ chung; trường hợp không có một ngôn ngữ chung, người ta cố gắng xây dựng một hệ thống chữ viết chung (như trường hợp chữ Hán của Trung Hoa).

Theo Benedict Anderson, trong cuốn Imagined Communities (Verso, 1983), hầu hết các biến chuyển lớn ở Tây phương thời hiện đại đều gắn liền với kỹ nghệ ấn loát mới với việc nở rộ của sách và báo khắp châu Âu. Trước, La Mã dễ dàng đánh bại mọi kẻ thù nhờ họ làm chủ một phương tiện truyền thông hoàn hảo và có ưu thể hơn hẳn (tr. 39). Sau, với sự xuất hiện của máy in, kiến thức được phân phối rộng rãi và tự do, làm cơ sở cho sự nảy nở và phát triển của phong trào Cải cách, dẫn đến sự ra đời của đạo Tin Lành với vai trò nổi bật của Martin Luther, người có sách bán chạy nhất trong nửa đầu thế kỷ 16 – được xem là tác giả best-seller đầu tiên trong lịch sử (tr. 39). Kỹ nghệ ấn loát mới cũng dẫn đến sự hình thành của quốc gia và chủ nghĩa quốc gia (nationalism): Qua sách báo được xuất bản, mọi người, bất kể những khác biệt về huyết thống, giai cấp và phái tính, có một ký ức chung và một tưởng tượng chung vốn là những yếu tính để hình thành một cộng đồng có tên là dân tộc hay quốc gia.

Giống xã hội hay quốc gia dân tộc, các cuộc cách mạng cũng được xây dựng trên truyền thông. Xin lưu ý, cách mạng là một khái niệm khá mới, chỉ xuất hiện trong thời hiện đại. Xưa, người ta có thể cướp ngôi nhau nhưng lại không có cái gọi là cách mạng. Để được xem là cách mạng, ngoài việc thay đổi tầng lớp thống trị, người ta còn phải thay đổi cả hệ thống quyền lực và ý thức hệ làm nền tảng cho hệ thống quyền lực mới ấy cũng như toàn bộ cấu trúc xã hội. Với ý nghĩa như thế, hai cuộc cách mạng lớn được ghi nhận nhiều nhất là: một, cuộc cách mạng tư sản Pháp vào năm 1789 và cuộc cách mạng vô sản ở Nga vào năm 1917.

Hai cuộc cách mạng vừa kể khác hẳn nhau, trong đó, hai sự khác biệt lớn nhất là: một mở đầu cho trào lưu dân chủ và một mở đầu cho hệ thống toàn trị; một thành công, càng ngày càng thành công, và một thất bại sau hơn 70 năm thử nghiệm một cách đẫm máu. Tuy nhiên cả hai lại giống nhau ở một điểm: tận dụng các phương tiện truyền thông hiện đại. Trong Cách mạng Pháp, truyền đơn và các cuốn sách tuyên truyền mong mỏng (pamphlet) được in và phân phát khắp nơi. Trong Cách mạng Nga cũng vậy. Ngoài truyền đơn, lãnh tụ của cuộc cách mạng Lenin còn là một tác giả có sức sáng tác dồi dào dưới nhiều hình thức khác nhau (sau, ở Nga, người ta sưu tập và in các tác phẩm của ông thành 54 tập, mỗi tập dày khoảng 650 trang, như vậy, tổng cộng khoảng 35000 trang!).

Ở Việt Nam, vào đầu thế kỷ 20, trong cuộc vận động chống lại thực dân Pháp để giành độc lập, hầu như tất cả các sĩ phu yêu nước đều ý thức rất rõ tầm quan trọng của truyền thông. Họ làm thơ và viết văn để cổ vũ lòng tự hào dân tộc và tinh thần đoàn kết cũng như bất khuất. Quan trọng nhất, họ sẵn sàng hy sinh tự ái dân tộc để chấp nhận chữ quốc ngữ do các cố đạo Tây phương sáng chế và được thực dân Pháp ủng hộ như hệ thống chữ viết mới cho cả nước, thay thế cho chữ Hán và chữ Nôm, với hy vọng, với thứ chữ viết mới ấy, trình độ dân trí sẽ nhanh chóng được nâng cao và quá trình hiện đại hóa đất nước sẽ dễ dàng được thực hiện.

Ngay từ giữa năm 1944, chưa cướp được chính quyền, Việt Minh, dưới sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh, cũng đã ý thức được ngay tầm quan trọng của truyền thông. Đội quân chủ lực đầu tiên do họ thành lập mang tên là Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân với hai nhiệm vụ chính: vừa quân sự vừa chính trị, trong đó, chính trị được xem là quan trọng hơn quân sự. Thực chất đó là “đội tuyên truyền”. Ngay sau khi cướp chính quyền, Hồ Chí Minh đã nêu lên ba nhiệm vụ chính của chính phủ mới: Diệt giặc đói, diệt giặc dốt và diệt giặc ngoại xâm. Nhiệm vụ trung tâm của chiến dịch “diệt giặc dốt” là phong trào Bình dân Học vụ nhằm xóa nạn mù chữ để ai cũng có thể đọc được… truyền đơn.

Chính vì ý thức rất sớm tầm quan trọng của truyền thông như vậy nên trong suốt thời gian đảng Cộng sản cầm quyền, từ năm 1954 ở miền Bắc và từ năm 1975 trong cả nước, giới lãnh đạo Cộng sản luôn luôn chủ trương độc quyền về truyền thông. Kinh tế có thể đa nguyên hóa. Giáo dục có thể đa nguyên hóa. Xã hội có thể đa nguyên hóa. Nhưng với truyền thông thì tuyêt đối không: Tất cả mọi cơ quan truyền thông, từ xuất bản đến báo chí, từ báo in đến báo nói và báo hình, đều nằm trong tay nhà nước và đều bị kiểm soát và kiểm duyệt nghiêm ngặt. Giới lãnh đạo xem đó là một trong những biện pháp chính yếu để bảo vệ quyền lực của họ.

Nói chung, có ba loại quyền lực chính: Thứ nhất là quyền lực ý tưởng (idea power) thể hiện qua các phương tiện truyền thông, nhằm chinh phục cả trái tim lẫn khối óc của quần chúng để họ không những tin và phục mà còn sẵn sàng vâng lệnh nhà cầm quyền. Thứ hai là quyền lực kinh tế (ở Việt Nam, trước, thể hiện qua chính sách phân phối lương thực, sau, qua vai trò ưu tiên của hệ thống quốc doanh) nhằm kiểm soát bao tử và túi tiền của dân chúng khiến họ phải khuất phục. Và thứ ba, quyền lực vật lý (physical power) thể hiện qua quân đội, cảnh sát, công an, hệ thống tòa án và nhà tù nhằm làm cho mọi người khiếp sợ.

Đối với ba loại quyền lực trên, những nhà đối kháng và muốn đấu tranh cho dân chủ, phần lớn chủ trương bất bạo động, đã né tránh việc đối đầu với chính quyền ở góc độ quyền lực vật lý và, thành thực mà nói, hoàn toàn không có điều kiện và khả năng để thách thức chính quyền về quyền lực kinh tế. Chỉ còn một không gian duy nhất có thể biến thành nơi tranh chấp và có thể làm xuất hiện một thứ đối-quyền lực (counterpower) với chính quyền: quyền lực ý tưởng.

Tập trung vào quyền lực ý tưởng là chọn truyền thông làm mặt trận chính.

Cuộc đấu tranh cho dân chủ ở Việt Nam, trong giai đoạn hiện nay, chủ yếu là cuộc đấu tranh trên phương diện truyền thông để giành giật phần thắng về ý tưởng. Trong cuộc đấu tranh ấy, người Việt có một phương tiện mới rất đắc dụng: internet.

Với internet, người ta có thể xây dựng được một thứ quyền lực từ dưới lên (power from below), hay nói theo chữ của Vaclav Havel, “quyền lực của những kẻ vốn không có quyền lực” (the power of the powerless).

Nhưng đó là chuyện dài. Xin đề cập sau.

 * Blog của Tiến sĩ Nguyễn Hưng Quốc là blog cá nhân. Các bài viết trên blog được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.


20/9/13

Nguyễn Hưng Quốc - Độc tài: Mạnh hay yếu?








Độc tài: Mạnh hay yếu?

 
18.09.2013 
bởi Nguyễn Hưng Quốc

Người ta thường dễ có ấn tượng là các chế độ độc tài đều mạnh: Chúng có quân đội, có công an, có mật vụ, có chỉ điểm viên (và gần đây, ở một số nước, có “dư luận viên”) trùng trùng điệp điệp. Song song với các lực lượng ấy, chúng có súng đạn, tòa án, nhà tù và các bãi bắn hoặc phòng chích thuốc độc. Nếu các yếu tố trên chưa đủ để khiến mọi người khiếp sợ, các chế độ độc tài còn có thêm một yếu tố này nữa để “thuyết phục” mọi người nên tiếp tục khiếp sợ: Chúng thường có một lịch sử rất dài hoặc khá dài.

Trước hết, nên lưu ý: trong lịch sử nhân loại, độc tài có “tuổi thọ” cao hơn hẳn dân chủ. Dân chủ chỉ là một hiện tượng mới. Thực sự là dân chủ lại càng mới. Mới và lạ: Không phải ở đâu người ta cũng thấy được mặt mũi của dân chủ. Chính vì sống quá lâu với độc tài, từ độc tài phong kiến đến độc tài thực dân và độc tài Cộng sản như vậy, nhiều người cảm thấy quen thuộc, ngỡ nó là số mệnh, như một cái gì đương nhiên. Không thể thoát được. Sự chấp nhận dễ dàng ấy càng làm cho độc tài có vẻ mạnh mẽ hơn.

Độc tài càng có vẻ mạnh hơn nữa khi người ta so sánh nó với dân chủ. Dân chủ ,ngay cả khi được xem là hình thức tổ chức hoàn hảo nhất trong tiến trình phát triển của nhân loại, như một điểm “tận cùng của lịch sử” không bao giờ gợi lên ấn tượng về sự mạnh mẽ. Một xã hội càng dân chủ bao nhiêu càng làm cho người ta quên cảm giác về quyền lực bấy nhiêu. Không bị ám ảnh về quyền lực, người ta cũng không có ý niệm về sức mạnh của nó.

Thật ra, tất cả các ấn tượng trên đều giả. Từ góc độ thực tế, các nước dân chủ bao giờ cũng giàu, mạnh và ổn định hơn hẳn các nước độc tài. Từ góc độ lịch sử, xu hướng phát triển chung của nhân loại là chiến thắng của dân chủ trên độc tài chứ không phải ngược lại. Từ góc độ lý thuyết, chính phủ dân chủ bao giờ cũng là chính phủ của đa số, hơn nữa, vì được xây dựng trên nền tảng hiến pháp và luật pháp vững chắc và công minh, luôn luôn bị áp lực của các lực lượng đối lập và của xã hội dân sự mạnh mẽ, chính phủ dân chủ nào cũng cố gắng trở thành chính phủ của toàn dân, của mọi người chứ không phải chỉ giới hạn trong những người đã ủng hộ và bỏ phiếu cho mình.

Chính phủ độc tài, ngược lại, bao giờ cũng là chính phủ của thiểu số. Không bao giờ có thiểu số tuyệt đối: Ngay ngày xưa, dưới chế độ phong kiến, mọi quyền lực hầu như tập trung hết vào tay nhà vua, kẻ được xem là con Trời. Nhưng vua bao giờ cũng tìm cách liên minh với tầng lớp quý tộc và quan lại để tạo thế lực. Do đó, chính nhà vua cũng phải tự động san sẻ quyền lực với những người khác. Thời hiện đại, các nhà độc tài cũng tìm cách san sẻ quyền lực và quyền lợi với người khác, chủ yếu qua hệ thống đảng mà họ lãnh đạo. Nhưng dù mở rộng đến mấy thì đó cũng vẫn là thiểu số. Ở Đức, dưới thời Hitler, đảng Nazi chỉ có trên năm triệu đảng viên trên tổng số khoảng 80 triệu dân. Ở Việt Nam hiện nay, trên tổng số gần 90 triệu dân, số đảng viên Cộng sản chỉ có khoảng bốn triệu. Vẫn là thiểu số.

Chỉ cần làm một bài tính nhẩm cũng có thể thấy ngay thế yếu của các chế độ độc tài: Đó là sự đối đầu của thiểu số đối với đa số, của một nhóm người ít ỏi với một đám quần chúng đông đảo. Các nhà độc tài thừa hiểu điều đó nên bao giờ cũng tìm cách củng cố sức mạnh của họ bằng ít nhất ba biện pháp chính: Thứ nhất, trong khi củng cố tổ chức của họ thật chặt chẽ, họ tìm cách phân hoá cái khối đa số quần chúng đông đảo kia, không cho phép quần chúng tập hợp lại và thống nhất với nhau. Thứ hai, dùng biện pháp tuyên truyền để, một mặt, khuếch đại sức mạnh của mình, mặt khác, để tạo ảo tưởng là họ đang đại diện cho đa số, thậm chí, đại đa số, hơn nữa, của mọi người. Và thứ ba, sử dụng bạo lực để đàn áp và khủng bố mọi người.

Có thể nói, sức mạnh của các chế độ độc tài chủ yếu được xây dựng trên ba nền tảng chính: Một, phân hoá dân chúng, hai, lừa dối, và ba, khủng bố. Biện pháp đầu làm cho người ta nghi ngờ nhau; hai biện pháp sau làm cho người ta sợ hãi. Cũng có thể nói, sức mạnh các chế độ độc tài không nằm ở bản thân nó mà chủ yếu nằm ở sự chia rẽ và  khiếp nhược của mọi người. Khi, vì lý do nào đó, mọi người đoàn kết và can đảm đòi hỏi quyền lợi và quyền lực cho mình thì các nhà độc tài chỉ có thể làm giống như Muammar Gaddafi ở Libya năm 2012: chui xuống ống cống.

* Blog của Tiến sĩ Nguyễn Hưng Quốc là blog cá nhân. Các bài viết trên blog được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.


18/9/13

Trần Vũ và “Giáo sĩ” trong thế giới huyền ảo




Tác giả : BAN MAI
 

 
  Nhà văn Trần Vũ




 “Tuyết quyết định chữa dứt di căn của chứng bệnh thối ruột gan, như nàng đã chữa cho trung úy De Lattre. Tuyết mút dương vật cha cố, hút hết các chất lỏng vàng hôi thối rồi nhổ xuống chậu gốm, cho đến khi chậu gốm đầy ắp phải đem đổ ở gốc sữa. Mỗi tối Alexandre de Rhodes rên la vì thân thể ông căng phồng lên đến mức áo chùng rách bươm, và mỗi khi Tuyết mút quá mạnh, bụng giáo sĩ teo tọp hẳn lại tựa tất cả ruột gan đều trôi vào miệng nàng. Tuyết cũng xấu hổ, biết nàng làm chuyện dơ bẩn, thiếu kính trọng, thiếu đạo đức của một con chiên, nhưng Tuyết quyết tâm chữa cho bằng hết chứng cô buồn giáo sĩ…Mỗi tối nàng miệt mài hút hết chất nước vàng cho đến một đêm chất lỏng trở nên trắng ấm thơm mùi lúa mạch nhuyễn bột như vị bánh thánh ... Kể từ sau đêm ấy, giáo sĩ hoàn toàn khỏi bệnh, ông trở nên khỏe mạnh và trẻ măng như một vị linh mục vừa tốt nghiệp trường thần học ...”.1

Lần đầu tiên đọc truyện của Trần Vũ, tôi sốc.
Thật vậy, nếu ai đã từng đọc truyện của ông sẽ có cảm giác choáng váng trong ma trận chữ nghĩa của nhà văn. Truyện của Trần Vũ luôn tạo ấn tượng đặc biệt nơi người đọc, đồng thời cũng gây nhiều tranh cãi trong làng văn.

Trần Vũ tên thật là Lưu Linh Vũ, sinh tháng 10-1962 tại Sài Gòn, sang Pháp năm 1979 lúc ông 17 tuổi, bắt đầu viết truyện năm 25 tuổi. Tác phẩm đầu tiên:Truyện ngắn Đồng cỏ Miên2 kể về ba thanh niên Việt Nam đi bộ đội sang Campuchia tìm đường thoát sang Thái Lan bị Khmer Đỏ bắn chết… nói lên tâm trạng bế tắc của những thanh niên miền Nam, một giai đoạn lịch sử đầy cay đắng. Truyện gửi đăng trên nguyệt san Làng Văn tháng 5/1988, lập tức gây được tiếng vang. Các truyện ngắn tiếp theo đều gây sự chú ý. Đến Ngôi nhà sau lưng văn miếu3Bên trong pháo đài4 đăng trên tạp chí Văn Học, Trần Vũ trở thành hiện tượng của văn học hải ngoại hai năm 1988-1989 và là người viết trẻ tuổi nhất lúc đó. Giai đoạn 1991-1993 Trần Vũ lại gây xôn xao báo giới, bị công kích gay gắt vì loạt truyện lịch sử về các anh hùng Nguyễn Huệ, Trần Thủ Độ với văn phong và cách nhìn táo bạo, bị cho là đi ngược lại với quan niệm truyền thống. Năm 1994, truyện vừa Giấc mơ Thổ kể về cuộc hành trình ngược dòng quá khứ, với những hình ảnh đầy bạo lực, câu văn như ứa máu cùng cảnh ăn thịt rồng đã gây không ít phẫn nộ, ở một bộ phận độc giả5. Năm 2002 truyện vừa Giáo sĩ lại gây phản ứng dữ dội vì đụng chạm đến tôn giáo.6

Trong hai mươi lăm năm, Trần Vũ đã sáng tác trên 40 tác phẩm gồm nhiều thể loại, truyện ngắn, truyện vừa, bút ký, tiểu luận, truyện dịch.

Trần Vũ đã xuất bản các tập truyện ngắn:

- Ngôi Nhà Sau Lưng Văn Miếu, Thời Văn 1988, Hồng Lĩnh tái bản 1994
- Cái Chết Sau Quá Khứ, Hồng Lĩnh xuất bản 1993
- Sous Une Pluie d’Epines, nxb Flammarion 1998
- The Dragon Hunt, nxb Hyperion 1999

Ngoài ra, ông còn các truyện ngắn: Vũng lầy hào kiệt, Nhã Nam, Táo Mỹ và những nhụy cúc, Vĩ Diên, Dấu hỏi Sorrente; Trưa nắng Hàm Ninh; Làn da Kim Khánh, Shuhun! Tên Em Là Một Trận Cuồng, Phép tính của một nho sĩ. Truyện vừa: Giấc mơ Thổ, Giáo sĩ, Cái chết sau quá khứ. Ký: Sài Gòn ngày lạ mặt, Hiệp Hội tương tế Bắc Việt nghĩa trang, Lưng trần, Di vật 1968. Tiểu luận: Những vòng tường Ghetto, Đông dương 1993, Lịch sử trong tiểu thuyết; Trang tôn kinh huyền hoặc hậu hiện đại. Điện Biên Phủ, định mệnh của kẻ thù; Sát Thát; Suy nghĩ Mãn Thanh; Quân đội Việt Nam: Con đường canh tân; 1979 Cơ hội đánh mất. Dịch phẩm: Rửa tội của Nina McPherson, Chuyến bay của người đẹp ngủ say, María Dos Prazerès của Gabriel García Márquez, Nhật ký Bá Linh của Marta Hillers, Hồ nước thẳm sâu của Yoko Ogawa, Cortázar thuật sĩ kỳ ảo của văn chương Nam Mỹ, Carlos Fuèntes Truyện kể Nhiễm phúc gia đình, Trần Huy Minh trải nghiệm một hiện thức khác, Sylvester Santiago Thi sĩ dấn thân gì?… in rải rác trên các báo, tạp chí: Granta, Le Serpent à Plume, Văn, Văn Học, Hợp Lưu, Trăm Con, Làng Văn, Thế Kỷ 21, Nhà Magazine, Talawas, Văn chương Việt, Da Màu, Litviet.

Viết về Trần Vũ thật không dễ, vì đã có quá nhiều bài viết7. Viết về một nhà văn hải ngoại đối với một người đọc trong nước lại càng là một thách thức, vì những khó khăn về mặt tài liệu. Biết vậy, nhưng tôi vẫn làm một việc “liều lĩnh”8.

Bài viết này, giới hạn trong việc phân tích truyện vừa Giáo sĩ qua đó tìm hiểu bút pháp và quan niệm sáng tác của nhà văn.


***

Truyện vừa Giáo sĩ được Trần Vũ bắt đầu viết vào năm 1991 và đăng đoạn đầu trên Tạp chí Hợp Lưu số 25, tháng 10/19919. Trong version đầu tiên, Hợp Lưu giới thiệu đây là một truyện dài, khởi đăng nhiều kỳ với tựa đề Pháo đài kể về cuộc Thánh chiến ở Cao Bằng, truyện kể xoay quanh mối tình giữa cố đại úy Francis Garnier và dì phước Louise, hình ảnh nhân vật vợ chồng A Phủ bước ra khỏi tiểu thuyết, cha cố A.De Rhodes sống lại còn mờ nhạt. Tuy nhiên, truyện dừng lại ở những chương đầu. Vì nhiều lý do, tác giả không tiếp tục viết tiếp… sau đó nhiều năm vẫn nghĩ đến truyện này, cho đến năm 2002 khi truyện đã chín mùi trong suy nghĩ, ông bắt tay viết lại với nội dung khác và thay đổi nhân vật, lấy tựa đề Giáo sĩ như văn bản đăng trên tạp chí Hợp Lưu năm 2002. Văn bản này lấy Giáo sĩ Alexandre de Rhodes10 làm nhân vật trung tâm, thêm nhân vật trung úy De Lattre11, đức chúa Jésus; Hai nhân vật tiểu thuyết A Phủ, Mỵ trong Vợ chồng A Phủ của nhà văn Tô Hoài được thay thế bằng nhân vật Tuyết trong Đời mưa gió của văn hào Nhất Linh, Khái Hưng. Cố đại úy Francis Garnier và dì phước Louise vẫn có mặt trong truyện nhưng là những nhân vật phụ, làm đầy câu chuyện.

Thời gian diễn biến vào đầu thập niên 50 của thế kỷ 20 tại Bắc Việt, trong khu tam giác Cao-Bắc-Lạng, nơi xảy ra cuộc chiến ác liệt giữa Việt Minh và quân đoàn viễn chinh Pháp trên tuyến đường Biên Giới.


Tình yêu và tôn giáo

Giáo sĩ Alexandre de Rhodes hồi sinh sau 300 năm, mang gương mặt thống khổ và si mê của một oan hồn vất vưởng, chưa hề biết đến tình yêu, mà đã mang nỗi buồn chín thối ruột gan của những người đàn ông không toại nguyện thân xác. Đức cha, bị ám ảnh tình dục, chui rúc trong nhà nguyện, mặc cảm với tất cả đàn bà vì theo đạo nên không thể hành sử chức năng đàn ông. Giáo sĩ chỉ còn một giải trí duy nhất, nỗi đam mê cuối cùng, đam mê tiểu thuyết. Alexandre de Rhodes khám phá ra tiểu thuyết An-Nam của Tự Lực Văn Đoàn và say mê dịch những cuốn tiểu thuyết diễm tình, như ngày xưa ông đã dịch Phép Giảng Tám Ngày từ tiếng Bồ sang tiếng Việt. Rồi đến một ngày giáo sĩ thảng thốt bắt gặp nhân vật Tuyết trong Đời mưa gió bật dậy từ trang sách. Đức cha de Rhodes cứ ngỡ rằng nàng là cô gái thành Goa, người thiếu nữ mà khi còn là chủng sinh Cha đem lòng yêu thương từ năm 14 tuổi, nhưng vì điều răn của chúa trời, Cha không thể thổ lộ tình yêu, và cũng không được quyền yêu. Tình yêu chưa toại nguyện trên trần thế và chiếc bánh thánh ngậm trong miệng không bao giờ tan day dứt linh hồn giáo sĩ: “Cho đến phút lâm chung trút hơi thở cuối cùng, trên giường bệnh trong thành Ba Tư, Alexandre vẫn hãy còn kêu tên người đàn bà mà anh chưa hề biết. Nhưng anh không tìm ra chữ… Anh không thể thốt lên lời tỏ tình chưa ghi chép trong kinh thánh”, để rồi ba trăm năm sau, linh hồn giáo sĩ bỗng bừng cháy khi tìm thấy cô gái thành Goa qua nhân vật Tuyết. Như sống lại thời trai trẻ Cha khao khát tận hưởng trái cấm, bất chấp lời răn đe của hồng y Richelieu, để một lần biết đến hương vị ngọt ngào của tình yêu mà Cha chờ đợi. Những ức chế trong tâm hồn giáo sĩ được khai mở, ước muốn được sống như một người đàn ông bình thường, được yêu thương và tận hưởng, không còn mặc cảm đau đớn của một người đàn ông bất lực. Và Đức cha sẵn sàng đón nhận hình phạt bị lửa Satan đốt cháy khi phạm điều răn của chúa trời.”

Cảnh làm tình của hồn ma giáo sĩ với nhân vật tiểu thuyết là một trường đoạn dữ dội, đam mê chất ngất: Alexandre bị nhấc bổng lên không trung theo điệu múa quỷ quái của quả chuông rồi kéo lê lết đến tận bao lơn tháp trước khi chịu lôi giật về hướng ngược lại. Ở mỗi cơn động kinh Alexandre bị các cuồng lửa bắt xém vào áo chùng làm phỏng rộp thịt da cho đến lúc tấm áo cháy tiêu và thân thể anh hoàn toàn trần truồng. Chính lúc đó Tuyết xuất hiện ở cửa tháp. Chính lúc đó Alexandre tin chắc ngày cuối cùng đã đến và Thiên Chúa sống dậy phán xét loài người.
- Blời ơi! Tận thế rồi!
 Tuyết ôm chầm lấy giáo sĩ lúc đó.
(…) Lửa của buổi sáng đó cũng bắt vào hai vạt áo dài của Tuyết khiến cháy tiêu quần áo trên mình nàng. Tuyết khám phá ra nàng không thể chết. Nàng là một nhân vật tiểu thuyết không có khả năng chết. Gió xô đẩy cả hai đến sát bao lơn, Tuyết khiếp hãi co chân quắp lấy mình Alexandre, cho trĩu thêm sức nặng để cả hai đừng rớt ngã xuống khoảng trống chơi vơi sâu hút. Chính lúc đó trong sâu chín sợ hãi Tuyết đã cảm ra da thịt giáo sĩ tươi rói cứng cáp đâm thẳng vào cửa mình nàng đột ngột bất ngờ như tiếng chuông bỗng hét lên tiếng rú rách trời. Tuyết đã kêu lên đau đớn tưởng chừng nàng có thể ngất đi vì sướng. Chưa bao giờ Tuyết làm tình với một người đàn ông rắn chắc khỏe mạnh như với giáo sĩ, tuồng thân thể anh là chiếc gậy chống của Moise, cây gậy chống dài có thể xẻ đôi Hồng Hải. Tuyết rên la từng cơn, mỗi lúc lửa vây lấy cả hai cháy rực các bức rèm nhung có ngọn, mỗi lúc Alexandre xâm nhập vào sâu trong thân thể nàng làm như anh cũng hoảng sợ cố bám víu vào thân xác Tuyết di truyền một giọt máu. Tuyết kêu la không ngớt, bấu chắc lấy cần cổ Alexandre đánh đu dưới quả chuông đong đưa, theo nhịp giật của dây thừng kéo lôi cả hai từ bao lơn này đến bao lơn khác, hết vực sâu này xuống vực sâu khác, rơi từ vực thẳm của sung sướng xuống những mái nhà ngói đỏ li ti rồi nhảy giật lên tháp trong tiếng rên la của thân xác.  

Nhân vật Bernard de Lattre trong Giáo sĩ là một trong những sĩ quan trẻ của Trung đoàn 3 Lê Dương.12 Anhmang trên mình sức sống còn trinh nguyên của những bông lys trắng chưa héo úa. Viên trung úy trẻ mang vẻ đẹp cao sang quyền quý của những tử tước thời trung cổ, vừa vương giả, vừa tinh khiết của các cô dâu ngày cưới. Nhưng khác hẳn đại tướng Jean de Lattre, là một người lính nhưng Bernard không đi tìm hào quang chiến thắng, không ước muốn chinh phục Ðông Dương, anh chỉ mang một khát vọng duy nhất, đơn sơ, thầm kín, tìm thấy tình yêu lứa đôi trong đời sống”. Và Trần Vũ đã cho De Lattre tìm được tình yêu của mình trước khi chết: trung úy De Lattre vẫn hãy còn nhớ đã choáng váng, lảo đảo như trúng sét. Anh vừa trông thấy rõ rệt định nghĩa tình yêu bấy lâu tìm kiếm, chép đầy đủ trên thân thể cô gái không sót một hàng, một chữ nào. (...) Bernard nhớ rõ, thiếu nữ in hệt người đàn bà trong trí tưởng bấy lâu anh lùng kiếm, đôi mắt lá răm cuống quýt, mái tóc đen bóng tối, nước da ửng mật giữa trưa nóng, cô gái mang suốt thân thể những bí ẩn của tình yêu và điều kỳ lạ, anh đọc được hết tất cả những mật mã ghi chép tường tận trên da mặt cô gái, viết chi chít ở vành môi dầy và lan xuống đến hai vai, ở bắp tay thuôn nõn săn chắc, đầy ắp ở lồng ngực lên xuống chỉ bị che khuất bởi vạt áo lụa đang trải ra trước mắt. Bernard nhớ anh đã vật cô gái ra đất, xé toạc áo sống để nhìn cho rõ những nguyên lý thầm kín của tình yêu chép nắn nót trên hai bầu ngực, viết quanh rốn, xâm từng chữ ở hai đùi và chính giữa bụng thiếu nữ. Và kỳ diệu, mỗi khi đọc đến đâu, xác thân anh sống lại, hai bàn tay ấm dần, tròng mắt trong xanh và môi không còn thâm tím. Bernard đọc ngấu nghiến tất cả những chữ viết xoắn xít trên mình thiếu nữ, anh không thể nhớ đó là chữ La Tinh, An-nam hay Tây Ban Nha, chỉ nhớ anh có thể hiểu hết tất cả, những định nghĩa tình yêu đang chảy đột ngột tuôn vào người anh như sấm sét ”.

Tuyết, nhân vật trung tâm nối kết những người đàn ông, là nhân vật tiểu thuyết bước ra từ trang sách của Tự Lực Văn Đoàn, nàng là sản phẩm sáng tạo của Nhất Linh và Khái Hưng. Trong Giáo sĩ, nhà văn Trần Vũ cho Tuyết sống một cuộc đời khác. Nàng là mẫu đàn bà mà tất cả đàn ông đều ham muốn, vì họ chỉ nhìn thấy khía cạnh nhan sắc, nhục thể ở người đàn bà, mà ít khi quan tâm phụ nữ còn những phẩm chất khác. Trong truyện, nhân vật Tuyết lần lượt chữa lành bệnh “thối ruột” cho giáo sĩ De Rhodes, trung úy De Lattre - chứng bệnh của những người đàn ông chưa một lần thỏa mãn thân xác và thiếu vắng tình yêu. Nàng tượng trưng cho tình yêu thân xác, thỏa mãn nhục dục ở người đàn ông: Trước đây, Tuyết không hề cảm giác gì rõ rệt mỗi khi luyến ái với Chương, do Nhất Linh và Khái Hưng không miêu tả kỹ. Làm tình với Bernard, Tuyết thấy rõ người thanh niên, dù chỉ mới lần đầu đã kiểm soát hơi thở của anh, đã chờ đợi chia sẻ thân xác của cả hai, tựa cả hai cùng chống một chiếc thang hai chân giữa khoảng không chơi vơi, cùng leo lên, cùng đợi nhau và cố nghiêng ngả kềm hãm bấu víu lẫn nhau để chiếc thang khỏi chao đảo ngã đổ, để cùng đi lên đến tận trời. Lần đầu tiên Tuyết nếm vị sữa đậm sệt như cặn rượu chát.”

Mối tương quan giữa tình yêu và tôn giáo, được nhà văn khắc họa rõ nét trong tuyến nhân vật này. Người đọc tự hỏi vậy hạnh phúc con người nằm ở đâu? Con người tin vào thế giới tôn giáo để mong kiếm tìm sự cứu rỗi, thế nhưng tôn giáo có thật sự mang lại hạnh phúc cho con người? Cuối cùng, nhân vật giáo sĩ cũng ngộ ra rằng cuộc đời con người chỉ có hạnh phúc khi có tình yêu ... thứ tình cảm vĩnh cửu của nhân loại còn dai dẳng hơn cả sự sống hứa hẹn đời đời trên nước Chúa”.

Sự xung đột nội tâm của giáo sĩ còn mở ra một chiều kích lớn. Đó chính là cuộc đấu tranh âm thầm nhưng khốc liệt tự vượt lên chính mình của loài người dám phá bỏ lý tưởng, đức tin khi nhận ra sự ngụy tín, hư ảo, để trở về với những giá trị nhân bản của chính con người lập ra. Trần Vũ đề cao bản năng thân xác, vì đó là bản năng bình thường của con người. Thứ bản năng bình thường mà không tầm thường, vì chính là tình yêu – cội rễ của sự sống.

Chính tình yêu cứu chuộc tất cả. Tình yêu khiến con người đứng trên thần chết, cái chết không còn ý nghĩa gì khi có tình yêu. Bởi tình yêu chính là sự sống: “…Tiếng chuông ngân lên lúc đó, bao la và say đắm, tựa tiếng kêu của thiếu nữ lúc ân ái, gọi anh xuất tinh để cùng thỏa mãn. Bernard nhỏm dậy, anh vụt hiểu, vì đâu anh không thể chết. Chính tình yêu tạo ra sự sống và nuôi dưỡng sự sống, giản dị như định nghĩa ghi chép trên mình thiếu nữ. Nguyên lý cơ bản của sự sống khởi đi từ tình yêu và trung úy De Lattre đang yêu không thể chết. Tiếng chuông chín tiếng, như chín lần thiếu nữ gọi anh trở về. Bernard phát lên cười khanh khách (…) Viên trung úy còn thắc mắc vì sao sắc tộc Kinh, lưu trữ bốn ngàn năm quá khứ đã không coi trọng tình yêu, thứ tình cảm đầu tiên và cuối cùng của kiếp người ”.


Chiến tranh Pháp – Việt

Bên cạnh mối tương quan giữa tình yêu và tôn giáo làm khung sườn cho tác phẩm, truyện vừa Giáo sĩ còn phản ảnh cuộc chiến tranh đẫm máu giữa lính Lê Dương và quân đội Việt Minh. Qua Giáo sĩ, Trần Vũ muốn lật lại lịch sử, truy tìm nguyên nhân quân đoàn viễn chinh Pháp thảm bại tại Việt Nam?

Trong truyện, người đọc tinh ý sẽ thấy nhà văn xây dựng các nhân vật Pháp đều là những hồn ma, trong khi đó các nhân vật An-nam là những người đang sống.

Tôi nghĩ rằng, tác giả có dụng ý khi cố tình xây dựng hai tuyến nhân vật ma / người, quá khứ / hiện tại đan xen như vậy, để ám chỉ một điều mà tác giả muốn lý giải: Có phải vào giữa thế kỷ 20 tại Việt Nam, quân đội Pháp đã là những con ma (Đế chế Pháp đã là quá khứ). Thống lĩnh khu biên thùy Đông Bắc Cao Bằng-Lạng Sơn là hồn ma thống chế Ney. Viên thống chế đã theo Napoléon đánh chiếm Moscow năm 1812, áp dụng phương thức chiến tranh lạc hậu từ thế kỷ thứ 19, chống trả lại đại đoàn 308, đại đoàn chủ lực chính quy Việt Minh do Vương Thừa Vũ thống lãnh áp dụng lối đánh chiến tranh nhân dân + du kích + giải phóng + vận động theo phương thức thế kỷ 20.13

Để chứng minh nhận thức chiến thuật sai lầm của tướng lĩnh Pháp, Trần Vũ đã mượn lời đại tá Charton: “Tự trong thâm tâm Charton không phục Ney, mặc dù viên thống chế đã tham dự các trận đánh lẫy lừng Iéna, Austerlitz bên cạnh hoàng đế Napoléon đệ nhất. Nhưng Ney không sao hiểu cách chuyển quân như sóng rừng của sư đoàn 308, không còn di chuyển đội hình ô vuông ban ngày, và Ney cũng không hiểu những quy ước chiến tranh do vong hồn Karl Von Clausewitz đang tiếp tục giảng dạy tại các trường đại học quân sự Tây Phương đã không còn được Việt Minh tuân thủ. Charton tin chỉ một mình ông khám phá ra chiến thuật Việt Minh. Lối đánh Phật giáo, chết đi sống lại luân hồi liên tục, khiến với quân số không tăng viện, trung đoàn Thủ Ðô vẫn có thể xung phong biển người, hết lớp này đến lớp khác, mà các đại liên Bren, Browning, Hotchkiss bốn nòng không thể chận đứng. Bộ đội Việt Minh không thể tử vong”. Quân đội Pháp không thể chiến thắng vì họ không theo kịp thời đại, họ là hồn ma của quá khứ. Chủ nghĩa thực dân chính là bóng ma lịch sử.

Bên cạnh lý do quân sự trên, chúng ta còn nhận thấy trong Giáo sĩ, nhà văn đã biện giải sự thất bại bằng một lý do khác: thất bại về mặt tâm lý. Người Pháp sang Việt Nam với chiêu bài khai hóa, nhưng thực chất xâm chiếm nước khác, khai thác tài nguyên của các nước bản xứ đem về làm giàu cho mẫu quốc. Đó là một cuộc chiến tranh phi nghĩa. Quân đoàn viễn chinh Pháp là một thế hệ thanh niên tươi trẻ, được mẫu quốc rao giảng đi khai hóa các xứ sở man rợ. Những người lính ấy trong lòng vẫn còn mang tâm thức hưởng thụ thời bình ở quê nhà: say mê nghệ thuật Á Đông, yêu phụ nữ bản địa, lòng đang dạt dào nhựa sống. Sang Đông Dương chiến đấu mà trung úy Bernard de Lattre lại được Trần Vũ miêu tả như một vương tử quý tộc thời hoàng kim đầy lãng mạn, chỉ ước mong đi tìm tình yêu đôi lứa, trong khi đó Việt Minh được miêu tả như những người lính can trường, với tâm lý sẵn sàng hy sinh chiến đấu để giành độc lập cho quê hương. Hình ảnh Việt Minh chết rồi đầu thai sống dậy trùng trùng lớp lớp để tiêu diệt quân thù (theo thuyết luân hồi của Phật giáo), tượng trưng cho tinh thần bất diệt chống ngoại xâm của dân tộc Việt. Trần Vũ đã miêu tả khá rõ hình ảnh này qua trường đoạn trung úy Bernard de Lattre lúc chạy từ Đông Khê về Cao Bằng bị Việt Minh luân hồi sống lại chém giết: “…Suốt đêm trung úy De Lattre dẫn đại đội sống sót mở đường máu, dẫm lên những xác chết mà De Lattre kinh hoảng khám phá đang đầu thai từ từ, chậm chạp ngồi dậy, thậm chí có những xác quân chủ lực Việt Minh chồm lên, tròng mắt trắng dã, la hét chụp lấy mã tấu chém xối xả vào đội hình lính Pháp mà chỉ mới một phút trước đây đã bị tiểu liên của binh sĩ Lê Dương cắt đứt đôi người”. Chiến thắng của Việt Minh là cái chiến thắng đã được báo trước. Chiến thắng của sức mạnh ý chí và của cả niềm tin tâm linh. Trong khi đó, quân đội viễn chinh Pháp đánh mất niềm tin vào tôn giáo của chính họ. Khi cuộc chiến đến giai đoạn khốc liệt, binh lính Pháp chỉ còn biết dựa vào niềm tin cuối cùng, tin vào tôn giáo sẽ giúp họ chiến thắng: “Rất đông các sĩ quan Pháp đã tin tưởng lữ đoàn kỵ binh giáp sắt sẽ xuất hiện chống trả Việt Minh ngày Cao Bằng bị tấn công, chỉ cần cha cố rao giảng phúc âm ở tuyến đầu. Hiếm ai lúc đó không tin tưởng vào nhà thờ, như niềm tin chiến thắng cuối cùng”. Thế nhưng, Chúa Jésus xuất hiện ở Đông Khê, đã chỉ có thể đẩy lui tiểu đoàn Hoàng Diệu, không giúp được binh đoàn Le Page chiến thắng. Mặt khác, Công giáo bế tắc không giải thích được sau khi chết rồi vong hồn người ta làm gì cho đến ngày Phán xét cuối cùng? Vì vậy các vong hồn lính Pháp vất vưởng không siêu thoát nên tiếp tục hiện diện ở Đông Dương. Ngược lại, đứng về mặt siêu hình, Phật giáo với thuyết luân hồi lý giải mạch lạc hơn về điều gì xảy ra sau khi chết. Con người sẽ đầu thai một kiếp khác, có thể tốt đẹp hơn. Chính đạo Phật đem đến ý chí bất diệt, sức mạnh và hy vọng cho dân tộc Việt Nam chống Pháp; dù phải chết, sau kiếp nô lệ sẽ là kiếp đời độc lập. Cuộc chiến chống thực dân cũng là cuộc chiến giữa hai khái niệm thế giới người sống-người chết của Công giáo và Phật giáo. Cuối cùng Pháp thảm bại trên cả hai mặt quân sự và siêu hình. Đó cũng chính là sự va chạm của hai nền văn hóa Đông-Tây.


Sự giao thoa văn hóa Pháp – Việt

Bên cạnh những nội dung được trình bày trên, Giáo sĩ còn phản ánh một khía cạnh quan trọng khác, mà theo tôi nội dung này là một trong những chủ đề chính mà tác giả đã có nhiều dụng công suy nghĩ sáng tạo. Sự giao thoa và ảnh hưởng của hai nền văn hóa Pháp-Việt.

Hình ảnh nhân vật Tuyết bật dậy bước ra từ trang sách, để sống một kiếp đời khác, gần như một kiếp luân hồi, là một hình ảnh sáng tạo kỳ lạ của Trần Vũ. Sự kết hợp thân xác giữa giáo sĩ A.De Rhodes – người khai sinh ra chữ quốc ngữ và nhân vật tiểu thuyết, hiện thân của chữ quốc ngữ, là hình ảnh tượng trưng cho sự giao thoa giữa hai nền văn hóa Pháp-Việt. Trong Giáo sĩ, nhà văn đã cố tình cho nhân vật tiểu thuyết lặp lại nhiều lần câu nói: “Vâng em là Tuyết của Đời Mưa Gió, của Nhất Linh và Khái Hưng trong Tự Lực Văn Đoàn, người chịu ơn của anh!” khi gặp đức cha A.De Rhodes và trung úy De Lattre lần đầu.14

Kết thúc truyện người đọc càng nhận rõ hình ảnh tượng trưng này khi: Tuyết hiểu nàng không có tên trên danh sách loài người khi Jésus Christ gỡ tay (…) Sáng đó Tuyết đã khóc thật nhiều vì vụt hiểu ra nàng chỉ có thể hiện hữu bằng tình yêu khai hóa duy nhất của Alexandre Lucien Abel de Rhodes.” Nàng là nhân vật tiểu thuyết được khai sinh từ ngôn ngữ, nàng hiện hữu được là do chữ viết, nàng chính là văn chương nghệ thuật.

Có lẽ, ý nghĩa “khai hóa” mà thực dân Pháp làm được cho dân tộc Việt là khai sinh ra chữ Quốc ngữ. Tôi cho rằng, đoạn lý giải sự khai sinh ra chữ viết của đức cha A. de Rhodes là một trong những trường đoạn hài lòng của Trần Vũ. Bước vào chương này, người đọc như đắm mình trong dòng văn miên man, đầy sảng khoái của tác giả.15

Khai sinh ra chữ Quốc ngữ, người Pháp đã đem nền văn hóa nghệ thuật phương Tây du nhập vào Việt Nam, cộng hưởng với nền văn hóa bản địa tạo ra sự đa dạng màu sắc, giúp văn hóa Việt Nam phát triển.

Ảnh hưởng của nền văn hóa Pháp lên nền văn hóa Việt bàng bạc trên khắp các loại hình nghệ thuật từ tiểu thuyết, thi ca, âm nhạc, hội họa, điêu khắc…Trong Giáo sĩ, sự ảnh hưởng của nền văn chương Pháp thể hiện rõ nét qua thể loại tiểu thuyết. Đầu thế kỷ 20 tiểu thuyết Việt Nam bắt đầu phôi thai qua tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh, phỏng theo “in hệt tiểu thuyết Pháp”, “tiểu thuyết Phạm Duy Khiêm, Nguyễn Trọng Quản không khác mấy thời giáo sĩ viết Phép Giảng Tám Ngày …cho đến thời Tự Lực văn đoàn – hội đoàn do anh em nhà Nguyễn Tường Tam du học từ Pháp về thành lập - tiểu thuyết Việt Nam đã phát triển vượt bậc.


Nội dung chính của tác phẩm

Truyện vừa Giáo sĩ thực chất là tiểu thuyết luận đề về con người, phản ánh rõ nét những chủ đề mà nhân loại hằng quan tâm: tôn giáo, chiến tranh, lịch sử, tình yêu, sáng tạo nghệ thuật. Kết hợp nhiều mối tương quan: quá khứ với hiện tại, sự giao thoa giữa các nền văn hóa, quan hệ giữa người sống với người chết, giữa người đọc và người viết, giữa Công giáo và Phật giáo.

Trần Vũ từ nhỏ đã được gửi vào học trường dòng, và sau đó qua Pháp ở Viện mồ côi 5 năm16 cũng là nơi con chiên của Chúa hành đạo, nên ông hiểu rõ tôn giáo quan trọng như thế nào trong đời sống tâm linh của người phương Tây. Tại sao sống trong lòng xã hội phương Tây gần cả đời người, Trần Vũ lại không đề cao niềm tin tâm linh của phương Tây?

Phải chăng kinh nghiệm cuộc sống trong các trường dòng, kinh nghiệm đối diện với cái chết và sự dã man của con người trong chuyến vượt biển17, và kinh nghiệm cuộc sống lạnh lùng của một xã hội phương Tây hào nhoáng, đã làm ông hoài nghi tất cả, phản kháng tất cả. Ông không tin tôn giáo có thể cứu rỗi con người?

Trong Giáo sĩ, Đức cha A.De Rhodes, dì phước Louise, mẹ bề trên Thérèse …từ bỏ hạnh phúc tự nhiên của con người trần thế để mong tìm hạnh phúc chốn thiên đàng. Nhưng thực chất trong sâu kín tâm hồn họ đều không tìm được sự bình yên, đều không tìm được hạnh phúc. Tất cả đều khao khát được sống như một con người bình thường với tất cả bản năng của con người. Kể cả đức chúa Jésus cũng vậy: “Louise đã chứng kiến đấng Christ im lặng, nỗi im lặng sâu thẳm mà dì phước không đoán nổi, thứ im lặng đớn đau của một người đàn ông bất lực”. Cuộc đời con người thực chất là một chuỗi dài đi tìm hạnh phúc, đi tìm tình yêu. Dẫu rằng tình yêu không chắc đã có thực trong mỗi phận người, nhưng tin vào tình yêu là tin vào một khả hữu hiện sinh trong đời sống con người, hơn là những hứa hẹn của tôn giáo về một thế giới vĩnh cửu của linh hồn. Trần Vũ đã đem tình yêu đặt trên tôn giáo, đặt trên thần chết, với ông tình yêu chính là cội nguồn của sự sống, tình yêu mới là cứu cánh cứu rỗi con người.

Tại sao sống trong lòng nước Pháp ba thập kỷ, từ nhỏ đã tiếp xúc với nền văn hóa Tây Phương, Trần Vũ lại không đề cao nước Pháp. Ông lạnh lùng, mổ xẻ ngọn nguồn sự thất bại của thực dân Pháp tại Đông Dương, thậm chí không ngần ngại nói rõ bản chất phi nghĩa của thực dân Pháp đi xâm chiếm các thuộc địa với chiêu bài khai hóa mà Thập Tự đi trước, giáo mác theo sau? Lý giải sao về ý thức phản kháng trong Giáo sĩ của Trần Vũ: một tác giả phương Đông, vì hoàn cảnh lịch sử dân tộc đã phải lưu vong trên xứ sở của một đất nước từng là kẻ thù trong lịch sử? Tại sao giáo dục phương Tây không ảnh hưởng nhiều tâm hồn Trần Vũ? Phải chăng nhìn lại lịch sử là bản năng của Trần Vũ, cho dù lịch sử nước nào thái độ ông cũng thẳng thừng – khách quan. Phải chăng tâm thức của nhà văn đã định hình từ khi ông còn ở quê nhà – ý thức người Việt đã là máu thịt của ông?

Trong tiểu luận: “Điện biên phủ, định mệnh của kẻ thù”, Trần Vũ viết: “Lịch sử thật, lịch sử thế giới, lịch sử da vàng chiến thắng da trắng lần đầu tiên dân tộc Việt vừa viết lên. Nhưng hơn một trang sử, Điện Biên Phủ mang định mệnh của dân tộc. Trong thế kỷ 20, trước Điện Biên Phủ người Việt đã có một quá khứ nô lệ và sau Điện Biên Phủ, khả năng đi tìm một tương lai khác”.18 Điều đó chứng tỏ, mặc dù sống trên đất Pháp nhưng trong sâu thẳm tâm hồn Trần Vũ vẫn luôn khắc khoải về lịch sử đất nước mình, luôn kiêu hãnh về dân tộc mình.

Trong Giáo sĩ, nhà văn lý giải thực dân Pháp xâm chiếm Việt Nam, cho dù vũ khí, kỹ thuật hiện đại nhưng là cuộc chiến phi nghĩa nên thảm bại. Sức mạnh của cái ác sẽ không bao giờ chiến thắng sức mạnh chính nghĩa. Lịch sử nhân loại từ xưa đến nay đã minh chứng, sự chiến thắng của sức mạnh, của cái ác là vô nghĩa vì kẻ chiến thắng cuối cùng sẽ không được gì, lịch sử đời sau rồi cũng phán xét. Chỉ có những hành động xuất phát từ ý nghĩa cao đẹp của loài người với nhau, mới thực sự có giá trị cho nhau. Chính sự khai sinh ra chữ quốc ngữ của người Pháp, đem lại chữ viết cho dân tộc Việt mang tinh thần nhân bản mới thực sự “cứu rỗi” nước Pháp. Giáo sĩ De Rhodes chỉ được cứu rỗi bởi Tuyết, một sản phẩm của chữ quốc ngữ do chính De Rhodes tạo ra. Văn chương nghệ thuật đã cứu rỗi linh hồn giáo sĩ. Chính sáng tạo nghệ thuật mới cứu rỗi linh hồn con người. Thông qua tác phẩm Giáo sĩ, Trần Vũ đề cao vai trò sáng tạo nghệ thuật. Ông đưa ra quan niệm: “tiểu thuyết cũng nhiệm màu và vĩnh hằng như kinh thánh”.19 Tiểu thuyết có khả năng khai sinh ra tất cả và xóa bỏ tất cả. Nhân vật trong tiểu thuyết là nhân vật giả, chính vì vậy Tuyết có thể bước ra từ trang sách, Jésus Christ trong Giáo sĩ cũng chỉ là một nhân vật tiểu thuyết. Vì thế, chúa Jésus, một nhân vật tiểu thuyết “không trọng lượng” không thể cứu quân đoàn viễn chinh Pháp thất bại ở Việt Nam. Cuộc đời trong tiểu thuyết là một cuộc đời không có thật, đó chỉ là sản phẩm tưởng tượng của nhà văn.

Với bút pháp hiện thực huyền ảo pha nhiều kịch tính giễu cợt, nhà văn cố tình xây dựng câu chuyện một cách hư hư thực thực, với nhiều tình tiết khôi hài như một câu chuyện đùa. Làm sao nhân vật tiểu thuyết lại có thể bước ra từ trang sách làm chức năng “cứu rỗi” những người đàn ông? Làm sao hồn ma giáo sĩ lại có thể làm tình với nhân vật tiểu thuyết? Làm sao trung úy De Lattre lại có thể đọc được định nghĩa tình yêu chép trên thân thể một nhân vật hư cấu? Làm sao chúa Jésus lại tái thế ở Đông Khê để cứu chuộc binh đoàn Le Page và Charton đang sa lầy... Người đọc biết rằng không có thật, nhưng vẫn say mê theo dõi tình tiết, diễn biến câu chuyện. Chính không khí đặc biệt của truyện đi liền với trí tưởng tượng kỳ lạ của tác giả đã tạo ra giá trị của Giáo sĩ.

Tìm ra được chủ đề khác thường để phản ảnh đã khó, đem tất cả những nội dung ấy đan thành một truyện cực kỳ hỗn tạp mà vẫn liền lạc, nhất quán, xuyên suốt có tư tưởng và nhân sinh quan rõ rệt phải là một sự dày công suy nghĩ. Thế nhưng, làm thế nào để lôi cuốn người đọc vào tác phẩm của mình, bằng lối diễn đạt khác lạ, hấp dẫn lại là một điều khó hơn. Vậy mà, Trần Vũ đã làm được tất cả những điều ấy một cách rất nghệ thuật. Giáo sĩ xứng đáng là một tác phẩm xuất sắc tiêu biểu trong dòng văn học hiện thực huyền ảo Việt Nam.


Nghệ thuật xây dựng tác phẩm

Nghiên cứu quá trình sáng tác của Trần Vũ, người đọc dễ dàng nhận thấy sự bứt phá ngoạn mục trong từng tác phẩm. Mỗi tác phẩm là một bứt phá. Từ tác phẩm đầu tiên Đồng cỏ Miên đến Giáo sĩ là một cuộc chạy đua tiếp sức. Chứng tỏ, Trần Vũ là một nhà văn cầu tiến luôn ý thức tự làm mới mình. Có lẽ Trần Vũ là một trong những nhà văn có chủ ý rõ ràng đem hành động vào truyện ngắn Việt Nam. Xem truyện ông, người đọc bị hớp hồn vào không khí đầy hình ảnh, màu sắc, âm thanh, mùi vị với hình ảnh bất ngờ, rõ từng động tác, các nhân vật trong truyện giống như các tài tử đang diễn trong phim. Vận tốc truyện nhanh, hình ảnh luôn thay đổi, thời gian xáo trộn liên tục. Có khi chỉ trong vài dòng tác giả đã xáo trộn thời gian, không gian như một vòng xoáy, làm người đọc không kịp thở: “…De Rhodes đã nhận ra mọi thứ biến hóa cấp kỳ ở An-nam. Lần chứng kiến cố Du tử đạo, De Rhodes đã để ý những khóm dứa trồng quanh pháp trường chỉ cao bằng đọt măng tây, đã lớn nhanh như thổi từ lúc đao phủ của Chúa Nguyễn hươi đao cho đến khi chặt thủ cấp cố Du, đã đơm trái chín vàng ngọt rụng xuống các gánh hàng rong xăm que bán cho khách đi xem hành quyết. (…) De Rhodes cũng chứng kiến sắc tộc Kinh có khả năng học ngoại ngữ rất nhanh. Những ngày ở Ðàng Trong, khuyến khích các con chiên vừa mới theo đạo xưng tội, De Rhodes để ý các cô gái chỉ biết khai bằng tiếng Khmer ông không sao hiểu, nhưng cũng các cô gái đó, khi lập gia đình đến nhờ ông làm phép giao, đã nói lưu loát tiếng Trung Hoa và khi De Rhodes rửa tội cho đứa con đầu lòng, các cô dâu trẻ đã biết nói merci và xin pourboire”. Trong khi đó, truyện ngắn Việt Nam bình thường có nhịp độ chậm, và gần như rất ít hành động.

Trần Vũ thường kết hợp lối viết tương phản trong cùng một tác phẩm tạo ra những trạng thái bất ngờ, gây tâm lý mới lạ cho người đọc, đẩy người đọc đến tận cùng cảm xúc. Lắm lúc, tác giả vừa nâng tâm hồn người đọc lên chín từng mây, tâm trạng còn đang chơi vơi, tiếp liền tức khắc dìm người đọc xuống chín tầng địa ngục.

Chúng ta có thể dễ dàng tìm thấy lối viết tương phản như vậy trong Giáo sĩ, trường đoạn miêu tả nhân vật Tuyết trước và sau khi xuất hiện: đoạn đầu là những hình ảnh thần tiên như phim thần thoại vào một buổi sáng đẹp trời: “…Buổi sáng đó, buổi sáng có những khúc lụa bay chậm rãi trong giấc ngủ thiu thiu, De Rhodes có cảm giác một làn sương sớm tinh khiết thơm cây trái đang phả suốt hầm. Hương hoa mỗi lúc một tỏa ngát đậm đặc. Cha cố tỉnh ngủ hẳn. Ông nhìn trân trối đóa hồng đỏ gắt đang mọc nhú từ từ, trổ từ bức tường lâu năm ám khói, thứ hồng đỏ gắt rực rỡ Nhật Tân mà có lần De Rhodes đã trông thấy ở xứ bảo hộ Bắc Kỳ. Cha cố kinh ngạc không hiểu vì sao khóm hồng đỏ lịm đã có thể đâm xuyên thủng trần hầm thư viện. Nhưng rõ ràng các đài hoa đang nứt rạn vách đá. Trong một phút, ngôi huyệt cổ đơm chi chít mẫu đơn, glaieul và hồng tía, tựa nhà thờ sắp có lễ giao. De Rhodes lấy tay phủi mây để nhìn cho rõ và ông chết cứng khi ấy, khi tay hãy còn nắm níu những cọng mây đang trôi lơ lửng”.

Tiếp theo sau là một không khí âm u, rờn rợn, như những thước phim ma gây cảm giác rùng rợn, kinh dị nơi người đọc.
“Mỗi tối Tuyết dọn ăn trong phòng riêng của cha cố. Tuyết hay hầm chuột sốt vang với mận Tây Bắc, ngâm với lá nguyệt quế, có khi băm nhỏ chục vắt tươi với hành sống tưới mật trộn sữa làm gỏi, những món cha cố rất thích. (…) Các nấc thang gỗ cổ xưa vang những tiếng rên như giam hãm những linh hồn khẩn khoản van nài trên mỗi bậc thang càng làm nàng sợ hãi. Cha cố đã kể nhà thờ Cao Bằng xây bằng những viên gạch đã có từ lâu lắm, từ những thành lũy của Mạc Ðăng Dung, mỗi thỏi gạch đều chứa mang âm hồn An-nam tắm máu chiến tranh và máu người. Tuyết cố gắng đi thật nhanh lên nóc chuông nhưng những bậc thang trơn trợt nhấp nhô rung chuyển tựa có những bàn tay vô hình cứ nắm chắc lấy cổ chân nàng.”

Đặc điểm của Trần Vũ thích mô tả các trạng thái tình cảm con người đến mức cực đại, ông thường sử dụng những từ cực tả như: cực kích thích, cực ham muốn; cực kỳ thỏa mãn; chết sững, chết cứng. Màu sắc dưới mắt Trần Vũ, cũng mang một tâm trạng dữ dội: đỏ gắt, đỏ một màu huyết dụ, xanh hực, sắc xanh hực gai góc. Trần Vũ thích “hình ảnh hóa cảm xúc tình cảm”, tạo ấn tượng mạnh nơi người đọc, nhiều lúc đẩy đến mức cực đoan. Ví dụ để diễn tả sự thiếu vắng tình yêu thân xác của người đàn ông, nhà văn đẩy lên thành căn bệnh “buồn chín thối ruột”. Nỗi buồn thống thiết trống vắng tình yêu ở giáo sĩ lây lan đến khắp vạn vật, đến mức chỉ cần đi đến đâu “…các ruộng mạ mới xanh mơn mởn bỗng dưng héo úa hóa ra cằn cỗi… như đã cháy khô từ bao kiếp nào. Các gốc sữa chai sần không thể trổ hoa và ngay đến con sông Hiểm nổi tiếng hung dữ, mặt nước bình thường cuộn siết xoáy nhận chìm biết bao bè gỗ cũng vụt trở nên lặng lờ thiu chảy”, căn bệnh của giáo sĩ lây đến cả con người “các con chiên giáo xứ òa khóc vật vã tức tưởi” khi trông thấy giáo sĩ xuất hiện, đến mức các viên sĩ quan cấm các binh sĩ lui tới nhà thờ “để tránh hội chứng cô buồn giáo sĩ”. Ngược lại, để diễn tả sự hân hoan khi tình yêu xuất hiện, vạn vật cũng tràn đầy nhựa sống “…khác mọi khi, các gốc sữa phía sau nhà thờ xum xuê rậm rạp trổ hoa trắng khác thường, tiết ra mùi sữa bột Guigoz nhờn nhờn khi vừa trộn nước sôi và vườn cà đã ba trăm năm chưa cho trái chen chúc, lúc nhúc những quả cà to bằng trái bí rợ nằm lổn ngổn trên đất”. Để diễn tả sự say mê sáng tạo nghệ thuật của giáo sĩ, Trần Vũ miêu tả: “…De Rhodes viết đêm ngày, trăng lên trăng xuống ông không hay, mưa bão ông không hề biết, viết đến rách giấy, viết đến thủng bàn gỗ cẩm lai khiến ý văn tung tóe, chảy lai láng trên mặt đất. Thậm chí bình mực đã cạn giáo sĩ vẫn tiếp tục chấm, tiếp tục viết đến lúc ngòi bút cùn vẹt, cán bún lụn dần rồi biến mất mà mực vẫn cứ tiếp tục trào ra chảy ở đầu ngón tay ông sưng đỏ như quả ớt”. Để tỏ tấm lòng trong sáng của Nhất Linh, Trần Vũ đẩy lên thành một cái chết mang ý nghĩa tượng trưng đẹp vô vàn: “Tuyết đã bàng hoàng trông thấy cơn mưa sáng gai góc sắc buốt nhểu xuống khu vườn lan rũ úa bên suối Đa Mê, đã sửng sốt chứng kiến Nhất Linh già đi, ốm yếu, uống từng giọt độc dược đắng, đen, như những giọt mực anh đã dùng viết tiểu thuyết. Nhất Linh đã uống cạn ve thuốc độc như muốn nuốt trôi hết tất cả chữ nghĩa đã viết.” Những giọt mực viết nên tác phẩm cũng chính là những giọt độc dược giết chết tác giả. Cái chết của Nhất Linh là cái chết “sinh nghề tử nghiệp” mà ngàn sau người đời vẫn còn kính phục.

Chính những hình ảnh đẩy đến mức phóng đại của Trần Vũ đã tạo ra những tình tiết nghệ thuật mang tính siêu thực theo kiểu kỹ xảo điện toán của điện ảnh rất phù hợp với trường phái văn học hiện thực huyền ảo. Ngôn ngữ gây sốc, kết hợp với đề tài nhạy cảm, chắc chắn tác giả Trần Vũ đã dự phóng tác phẩm của mình sẽ gặp nhiều phản ứng nơi người đọc. Và dĩ nhiên, người đọc với trình độ khác nhau, tầm đón nhận cũng sẽ khác nhau. Với lối viết mang tính ước lệ cao, người đọc sẽ thỏa sức tưởng tượng theo trường liên tưởng của riêng mình, tạo sự hấp dẫn, thích thú nơi người đọc “lý tưởng”. Tuy nhiên, cũng chính lối viết “tài hoa” ấy đã gây ra nhiều ngộ nhận nơi độc giả. Tiêu biểu cho ý kiến phản đối gay gắt này là độc giả Ngô Lê Từ. Trong thư ngỏ gửi Phùng Nguyễn ngày 12/3/2003, ông đặc biệt cảnh cáo Hợp Lưu về việc đã đăng truyện vừa “Giáo Sĩ” của Trần Vũ, mà theo người viết thư, truyện này mang tính cách đả phá tôn giáo và phản khoa học! Hư cấu như vậy là coi thường độc giả thấp kém. Xúc phạm tu sĩ và tôn giáo quá mức.20

Với lối ẩn dụ táo bạo – Trần Vũ đã cho nhân vật Tuyết chữa lành bệnh giáo sĩ A.De Rhodes bằng một phương pháp quá đặc biệt gây sốc cho người đọc, nếu chỉ nhìn trên phương diện văn bản trần trụi21. Trong tiểu luận: Lịch sử tiểu thuyết – một tùy tiện ý thức, Trần Vũ từng nêu rõ quan điểm của mình: “Tiểu thuyết không nhất thiết phải viết y chang như thật, có thể pha trộn nửa thật nửa ảo và có quyền phóng đại thực tế lên đến mức... tiểu thuyết. Kỹ thuật chính của bút pháp hiện thực huyền ảo nằm ngay trong phương thức phóng đại từng chi tiết nhỏ nhặt này.”22

Và những độc giả như Ngô Lê Từ đã rơi vào hỏa mù đó.
Một lần nữa, Trần Vũ ở hải ngoại đã cùng với Nguyễn Huy Thiệp (Kiếm sắc, Vàng lửa, Phẩm tiết) 23, Phạm Thị Hoài (Thiên sứ), Tạ Duy Anh (Thiên thần sám hối), Hồ Anh Thái (Cõi người rung chuông tận thế)… tạo thêm cú sốc cho người đọc về mặt tiếp nhận tác phẩm, điều này góp phần làm thay đổi cách đọc của người Việt trước những đề tài và bút pháp lạ lẫm so với quan niệm truyền thống.
Bao giờ cũng vậy, cái trái ngược nào cũng gây nhiều phản ứng. Chính những nhà văn tài năng này đã góp phần hình thành nên một cách tiếp nhận mới trong tiến trình tiếp nhận văn học ở Việt Nam.
Trần Vũ viết với một ý thức sáng tạo rõ rệt, ông đặt trọng tâm vào kỹ thuật kể cả giọng văn và cốt truyện, trong khi viết ông luôn dựa trên hư cấu. Trả lời phỏng vấn ông nói: “Trong khi viết tôi luôn dựa trên hư cấu. Viết về một đề tài nào đó mà mình không sống qua, chưa có kinh nghiệm; chẳng hạn lịch sử hay chiến tranh, tôi tìm đọc sách sử và địa lý nhân văn của thời đại đó. Ðọc bốn năm cuốn và đọc đi đọc lại cho đến lúc tất cả chi tiết phong thổ lịch sử thấm vào mình, tưởng như mình đã sống qua, trông thấy, chứng kiến; lúc ngồi vào bàn viết chúng sẽ hiện lên trở lại một cách tự nhiên. Xây dựng truyện trên tưởng tượng còn cho người viết những tự do mà sự thật đã tước đi. Gần đây tôi tin lối thoát của mình là từ bỏ con đường hiện thực. Viết lại sử Việt cận và hiện đại bằng kỹ thuật huyền ảo của Marquez sẽ là một cuộc phiêu lưu kỳ thú.” 24

Nhà nghiên cứu Nguyễn Vy Khanh cũng nhận định: “Kỹ thuật là bận tâm của người viết, vì người đọc chỉ muốn thưởng thức cái được viết ra, câu chuyện!... Như vậy, kỹ thuật tiểu thuyết trở nên quan trọng, là cái riêng của mỗi tác giả, trong cách kể, cách viết, trong không khí mà tác phẩm tạo nên được!” 25

Chính kỹ thuật viết làm nên “căn cước” của tác giả.

Nếu nhà văn Nguyễn Mộng Giác dùng lối viết chân phương, cổ điển, văn phong mềm mại, câu văn dài, diễn biến truyện chậm, dàn trải, thời gian, không gian tịnh tiến, xây dựng tác phẩm dựa trên nền hiện thực thì Trần Vũ hoàn toàn trái ngược.

Trần Vũ thường sử dụng bút pháp hiện thực huyền ảo, ngôn ngữ lạnh và ác, câu văn ngắn, dứt khoát.26 Diễn biến truyện nhanh. Thời gian, không gian xáo trộn liên tục, xây dựng tác phẩm hoàn toàn hư cấu.

Chính kỹ thuật viết khiến các tác giả khác nhau, ở cách truyền đạt và sử dụng ngôn từ. Có người cho rằng kỹ thuật viết một trường thiên tiểu thuyết sẽ kỳ công hơn một truyện ngắn, truyện vừa. Tôi nghĩ rằng không thể so sánh như vậy. Mỗi tác phẩm của mỗi tác giả có những con đường riêng của nó. Nếu trường thiên tiểu thuyết Mùa biển động của Nguyễn Mộng Giác gồm 5 tập dài 1860 trang, hoàn thành trong 7 năm.27 Thì truyện vừa Giáo sĩ của Trần vũ chắt lọc 50 trang, thai nghén và ấp ủ trong vòng 10 năm mới hoàn thành.28 Tiểu thuyết lịch sử của Nguyễn Mộng Giác là một bước tổng hợp giữa sử thi cổ điển với những thành tựu của nghệ thuật tiểu thuyết nửa đầu thế kỷ 20. Giá trị tác phẩm của Nguyễn Mộng Giác không phải chỉ ở chỗ ông là bậc thầy trong việc khai thác tâm lý nhân vật một cách tinh tế, quan trọng chính là những độc thoại nội tâm nhân vật gắn liền với diễn biến lịch sử của đất nước.

Trong khi đó, tiểu thuyết của Trần Vũ là một bước kế thừa và tổng hợp văn hóa Đông-Tây trên con đường hiện đại hóa của thế kỷ 20. Ông là nhà văn Việt Nam tiên phong trong lối viết hiện thực huyền ảo.

Nói như nhà nghiên cứu Phan Cự Đệ: “Một quy luật phổ biến diễn ra trong thế kỷ 20 là các thể loại văn học nghệ thuật muốn tồn tại và phát triển, chúng phải tổng hợp được vào bản thân mình những thành tựu của các loại hình nghệ thuật khác... (...) ...Những xung đột giàu kịch tính tiểu thuyết lấy của sân khấu, những đoạn văn trữ tình thơ mộng tiểu thuyết lấy của thi ca. Những đoạn miêu tả thiên nhiên giàu màu sắc, đường nét và ánh sáng, tiểu thuyết lấy của hội họa. Và tiểu thuyết sử dụng cả nhật ký, bút ký, phóng sự, thư từ... và cả xảo thuật điện ảnh. Điện ảnh tuy mới xuất hiện vào đầu thế kỷ XX nhưng nó đã vượt lên như một loại hình nghệ thuật chủ đạo trong thế kỷ này. Vì điện ảnh đã tổng hợp vào bản thân mình những thành tựu của văn học, sân khấu, hội họa, âm nhạc, điêu khắc và cả những thành tựu của vật lý (quang học), của máy tính (tin học)... chính khả năng tổng hợp nói trên đã làm nên tính hiện đại của điện ảnh29

Cũng như vậy, tiểu thuyết của Trần Vũ mang tính hiện đại của thế kỷ 20 vì nó đã tự làm giàu cho mình bằng cách tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa của các thể loại văn học nghệ thuật nói trên, đặc biệt Trần Vũ đã thành công khi đem kỹ xảo điện ảnh vào tác phẩm của mình – tạo thành một bút pháp kỳ ảo, pha trộn màu sắc “phim kiếm hiệp” của Tàu và “phim hành động, kinh dị” phương Tây.

Tuy nhiên, theo tôi “kỹ xảo” nào cùng có hai mặt của nó. Giống như con dao hai lưỡi, nhà văn tài năng sẽ nâng lên thành nghệ thuật, nhưng nếu chưa đúng tầm cỡ tác phẩm sẽ trở thành sản phẩm “rẻ tiền”. Không phải bất cứ người viết nào cũng làm chủ ngòi bút của mình để sai khiến con chữ một cách mê hoặc người đọc được như vậy. Trần Vũ là một trong số ít nhà văn đạt được tầm cỡ đó.

Trong tư cách nhà văn, Trần Vũ kiêu hãnh cho trí tưởng tượng phong phú của mình tự do tung hoành. Đọc truyện ông, người đọc luôn bắt gặp những trường đoạn sảng khoái, điều mà ít nhà văn có được bởi những giới hạn vô hình.30

Trên con đường hình thành và phát triển tiểu thuyết hiện đại Việt Nam, Trần Vũ là một trong những cánh chim đại bàng dũng mãnh, tự vạch cho mình một lối đi riêng đầy ý thức sáng tạo. Tác phẩm của ông đã có những thành công nhất định về phương diện cách tân trong bút pháp. Chỉ riêng Giáo sĩ, Trần Vũ xứng đáng có vị trí trang trọng trong lịch sử phát triển tiểu thuyết hiện đại Việt Nam.
  
BAN MAI

(Đã đăng trong Tạp chí Văn học năm 2007, hiệu đính lại 01.2012)

(Ban Mai tên thật là Nguyễn Thị Thanh Thúy, Thạc sĩ văn chương, hiện là Chuyên viên chính phòng KHCN và HTQT Trường Đại học Quy Nhơn)

Ghi chú:
 (1) Trần Vũ, Giáo sĩ, tạp chí Hợp Lưu Số 68 - Xuân Quý Mùi,Tháng 12/2002 và tháng 1/2003, California, Hoa Kỳ. http://tranvu.free.fr/baiviet/index.html
(2) Đồng cỏ Miên, in trong tập Ngôi nhà sau lưng Văn Miếu, Thời Văn 1988, Hồng Lĩnh tái bản 1994, Hoa Kỳ.
(3) Ngôi nhà sau lưng Văn Miếu, Thời Văn 1988, Hồng Lĩnh tái bản 1994, Hoa Kỳ.
(4) Bên trong pháo đài, in trong tập Ngôi nhà sau lưng Văn Miếu, Thời Văn 1988, Hồng Lĩnh tái bản 1994, Hoa Kỳ.
(5) Xem thư bạn đọc Diễn Đàn Forum (Paris) số 38. (Trích từ Đoàn Cầm Thi, Từ hành xác đến hành văn đọc “Giấc mơ Thổ” của Trần Vũ, tạp chí Hợp Lưu, số 23, 1995, California, Hoa Kỳ)
(6)Phản ứng qua bài “Giáo sĩ” và trả lời của tác giả. (www.giaodiem.com/doithoaiIII/09_trvu_III.htm - 29k -)
(7) Thụy Khuê, Trường hợp Trần Vũ, Sóng từ trường II (thuykhue.free.fr); Nguyễn Mạnh Trinh, Đọc cái chết sau quá khứ tập truyện Trần Vũ, tạp chí Hợp Lưu số 12; Nguyễn Hưng Quốc, Những họa phẩm của Trần Vũ , tạp chí Văn Học số 53&54) ; Đoàn Cầm Thi, Từ hành xác đến hành văn đọc “Giấc mơ Thổ” của Trần Vũ, tạp chí Hợp Lưu số 23, 1995; Đinh Từ Bích Thúy, Siêu Thị và quái thai, damau.org; Đoàn Nhã Văn, Truyện ngắn của Trần Vũ: Nhảy dựng ngang trời thế đá tung, damau.org.
(8) Tôi mượn lời của nhà văn Nguyễn Mộng Giác khi trả lời phỏng vấn cách đây 7 năm: “Viết trước hết là để thỏa mãn nhu cầu tinh thần của mình, nhưng đã viết, thì cần phải chia sẻ những gì viết được cho người khác, đã nghĩ tới người khác, thì phải viết thế nào để người khác có thể hiểu được, có thể thông cảm với mình được, có thể vui buồn hờn giận theo cùng nhịp tim của mình, đã nghĩ tới người khác (vì người khác vô danh và ở cùng khắp, nên rất đáng ngại), thì người viết không thể chơi trò tiểu xảo được. Người đọc ở khắp nơi, trình độ học vấn và khiếu thẩm mỹ của họ khôn lường, nên không có trò giả trá nào qua được mắt họ. Ta chưa nghe họ nói gì, chỉ vì họ không thèm nói, hoặc họ nói mà ngại ta đau lòng nên nói quá khéo ta chưa hiểu đấy thôi. Càng nghĩ đến nụ cười bí hiểm của những người đọc vô danh, tôi càng thấy viết là một hành động liều lĩnh.” (Họ làm thơ viết văn cho ai; Tạp chí Chủ đề, số 5, Mùa Xuân 2001)
Thực vậy, lời thổ lộ của nhà văn Nguyễn Mộng Giác cũng chính là suy nghĩ của tôi, tự sáng tác đã khó, nhận định về người khác lại càng khó gấp bội. Nghĩ đến nụ cười bí hiểm của người đọc, tôi thấy mình đang làm một hành động liều lĩnh.
(9) Pháo Đài, tạp chí Hợp Lưu số 25, tháng 10/1991, California, Hoa Kỳ.
(10) Tiểu sử Alexandre de Rhodes: Alexandre de Rhodes là một nhà truyền giáo dòng Tên (Jésuites), sinh năm 1591 tại Avignon, miền nam nước Pháp và có thời kỳ sinh sống tại Goa ở Bồ Đào Nha, nơi hồi ức xảy ra trong truyện, trước khi qua đời ở Ba Tư. Năm 1625, A.De Rhodes đến An-nam bắt đầu truyền đạo. Trong hành trình truyền đạo cha gặp rất nhiều khó khăn, vì triều đình dùng chữ Hán, sĩ phu sử dụng chữ Nôm, quần chúng hầu như mù chữ. A.De Rhodes quyết định ký âm ngôn ngữ An-nam ra mẫu tự La-tinh để truyền bá thánh kinh. Chữ quốc ngữ dễ học, gần gũi với người Việt nên nhanh chóng được truyền bá rộng rãi. (Vào thời kỳ De Rhodes thế kỷ 17, chữ quốc ngữ chưa là chữ viết chính thức, chỉ mới xuất hiện trong các xóm đạo, đến cuối thế kỷ 18 chữ quốc ngữ bắt đầu được dạy trong một số trường thông ngôn, và chỉ thật sự được quảng bá rộng từ hậu bán thế kỷ 19, mất ba thế kỷ). Vào năm 1651, cha cho in cuốn Từ Điển Việt-Bồ-La (Dictionarium Annamiticum Lusitanum et Latinum) dựa trên các ký tự tiếng Việt của những giáo sĩ người Bồ Đào Nha và Ý trước đó. Có thể coi đây là mốc đánh dấu sự ra đời của chữ quốc ngữ. Để ca ngợi công đức của cha A.De Rhodes người khai sinh ra chữ quốc ngữ, nguyệt san MISSI viết: “Khi cho Việt Nam các mẫu tự La-tinh, cha Alexandre de Rhodes đã đưa Việt Nam đi trước đến 3 thế kỷ”. “…Thật vậy, giống như Nhật Bản và Triều Tiên, người Việt Nam luôn luôn sử dụng chữ Hán của người Trung Hoa và bị nô lệ vào chữ viết này. Chỉ mới cách đây không lâu, người Triều Tiên mới chế biến ra một chữ viết riêng của họ. Còn người Nhật thì, sau nhiều lần thử nghiệm dùng mẫu tự La-tinh, đã phải bó tay và đành trở về với lối viết tượng hình biểu ý của người Trung Hoa… Trong khi đó, người Trung Hoa đang tìm cách dùng các mẫu tự La-tinh để chế biến ra chữ viết của mình, nhưng cho đến nay vẫn chưa thành công. Vậy mà dân tộc Việt Nam, nhờ công ơn của cha Alexandre de Rhodes (Đắc Lộ), đã tiến bộ trước người Trung Hoa đến 3 thế kỷ”. (http://vi.wikipedia.org/wiki/Alexandre_de_Rhodes)
(11) Tiểu sử Trung úy De Lattre: Trung úy Bernard de Lattre de Tassigny là con trai của đại tướng tổng tư lệnh quân đoàn viễn chinh Jean de Lattre de Tassigny, về sau vinh thăng thống chế. Bernard de Lattre xuất thân dòng dõi quý tộc, biểu tượng của quân đội và sự tinh túy cao đẹp của tuổi trẻ nước Pháp những năm 50. Bernard de Lattre chết ngày 30 tháng 5 năm 1951 tại Ninh Bình, theo báo cáo của toán quân lượm xác khi chết trên mình mang 80 vết thương lưỡi lê và mảnh lựu đạn. Cả nước Pháp khóc ngày Jean de Lattre mang xác con về chính quốc. Khi chết Bernard de Lattre mới được 23 tuổi, chưa lập gia đình, chưa có hôn thê. 34 năm sau khóa sĩ quan 1984-1985 của trường sĩ quan liên quân Ecole Militaire InterArmes mang tên Bernard de Lattre. (http://emia.delattre.free.fr/parrain.html)
(12) Ngoài đời thật, Bernard de Lattre đầu quân tại trung đoàn 1 Săn Giặc Thuộc Địa (1er Régiment de Chasseurs Coloniaux) đồn trú tại Ninh Bình, không tham dự trận Đường Biên Giới, nhưng trong “Giáo Sĩ” được tác giả hoán chuyển về trung đoàn 3 Lê Dương (3ème Régiment Etranger d’Infanterie) đóng đồn Đông Khê.
(13) Trưởng thành trong chiến đấu, hồi ký của Vương Thừa Vũ, nxb Quân Đội Nhân Dân, 1979; Trận đánh 30 năm, ký sự lịch sử, Hoàng Văn Thái và Trần Độ biên soạn, nxb QĐND, 1985.
(14) “Vâng em là Tuyết của Đời Mưa Gió, người chịu ơn anh” do chính tay Nhất Linh viết trong tiểu thuyết Đời Mưa Gió, dòng thứ 13, tr 35, nxb Đời Nay, Sài Gòn, 1961.
(15) Đoạn văn miêu tả quá trình khai sinh chữ quốc ngữ: “Khi đến Gia Ðịnh lần đầu tiên, De Rhodes đã biết ông đặt chân tới một vùng đất kỳ bí. Hơi nóng ngùn ngụt như thiêu, đốt liên tục suốt ngày sắc xanh hực gai góc của những cánh rừng trùng điệp ……..  cho xuất bản hai bộ sách Phủ Biên Tạp Lục cùng Vân Ðài Loại Ngữ”.
Giáo sĩ, tạp chí Hợp Lưu Số 68 - Xuân Quý Mùi, tháng 12/2002 và tháng 1/2003 (tr 226-262)
(16) Ký: Hiệp Hội tương tế Bắc Việt nghĩa trang, Tạp chí Văn số Xuân Quý Mùi tháng 2/2003, California, Hoa Kỳ.
(17) Biển rợn san hô, in trong tập Ngôi nhà sau lưng Văn Miếu, Thời Văn 1988, Hồng Lĩnh tái bản 1994, Hoa Kỳ.
(18) Trần Vũ, Điện Biên Phủ, định mệnh của kẻ thù. tạp chí Hợp Lưu, số 79 tháng 10&11/2004, California, Hoa Kỳ.
(19) Trong tiểu luận Lịch sử tiểu thuyết – một tùy tiện ý thức, Trần Vũ cho rằng kinh thánh ngang hàng với tiểu thuyết “Sự thật nằm trong kinh thánh. Cựu Ước và Tân Ước, những cuốn tiểu thuyết hiện thực huyền ảo”. tạp chí Hợp Lưu, số 72, tháng 8&9/2003, California, Hoa Kỳ. http://tranvu.free.fr/baiviet/index.html
(20)Phảnứng qua bài “Giáo sĩ’ và trả lời của tác giả.
(www.giaodiem.com/doithoaiIII/09_trvu_III.htm - 29k -)
(21) Phản ứng của độc giả Ngô Lê Từ: Trần Vũ viết “…Tuyết quyết định chữa dứt di căn của chứng bệnh thối ruột gan, như nàng đã chữa cho trung úy De Lattre. Tuyết mút dương vật cha cố, hút hết các chất lỏng vàng hôi thối rồi nhổ xuống chậu gốm, cho đến khi chậu gốm đầy ắp phải đem đổ ở gốc sữa. Mỗi tối Alexandre de Rhodes rên la vì thân thể ông căng phồng lên đến mức áo chùng rách bươm, và mỗi khi Tuyết mút quá mạnh, bụng giáo sĩ teo tọp hẳn lại tựa tất cả ruột gan đều trôi vào miệng nàng. Tuyết cũng xấu hổ, biết nàng làm chuyện dơ bẩn, thiếu kính trọng, thiếu đạo đức của một con chiên, nhưng Tuyết quyết tâm chữa cho bằng hết chứng cô buồn giáo sĩ. Nhất Linh đã bắt nàng làm một con điếm không nhân cách, nhưng Tuyết vẫn là một người đàn bà giàu tình thương, lòng trắc ẩn. Tuyết muốn trả ân nghĩa đã thọ ơn cha cố. Mỗi tối nàng miệt mài hút hết chất nước vàng cho đến một đêm chất lỏng trở nên trắng ấm thơm mùi lúa mạch nhuyễn bột như vị bánh thánh Alexandre de Rhodes vẫn cho nàng ngậm mỗi sáng Chủ Nhật rước lễ trong nhà nguyện. Kể từ sau đêm ấy, giáo sĩ hoàn toàn khỏi bệnh, ông trở nên khỏe mạnh và trẻ măng như một vị linh mục vừa tốt nghiệp trường thần học …” (trang 243). …(…) Hư cấu như vậy và coi thường độc giả thấp kém (hay chính tác giả thấp kém vì phản khoa học?). Xúc phạm tu sĩ và tôn giáo quá mức.
(www.giaodiem.com/doithoaiIII/09_trvu_III.htm - 29k)
(22) Trần Vũ, Lịch sử tiểu thuyết – một tùy tiện ý thức, tạp chí Hợp Lưu, số 72, tháng 8&9/2003, California, Hoa Kỳ. (http://tranvu.free.fr/baiviet/index.html)
(23) Với bộ ba Kiếm Sắc, Vàng Lửa, Phẩm Tiết, Nguyễn Huy Thiệp đã gây sóng gió trong giới độc giả trong nước những năm 80. Nói như nhà phê bình Thụy Khuê “Rất có thể là vì cho tới bây giờ, người ta chưa quen với một phong cách văn chương đa diện, đa âm như thế. Trên con đường một chiều, bạn đi dọc ngang, đa đoan, đa dạng, là loạn”. http://chimviet.free.fr/vanhoc/thuykhue/stt1/thiep1.html (Thụy Khuê, Sử quan trong văn chương Nguyễn Huy Thiệp, Sóng Từ Trường).
(24) Nhà văn Trần Vũ trả lời ba câu hỏi chung về sáng tác, tạp chí Văn Học số 114 tháng10/1995, California, Hoa Kỳ.
(25) Nguyễn Vy Khanh, Thế kỷ tiểu thuyết, tạp chí Hợp Lưu số 73, tháng 10&11/2003, California, Hoa Kỳ.
(26) riêng trong Giáo Sĩ câu văn rất dài.
(27) Lời cuối cho một bộ trường thiên: Phải chờ đến bảy năm bốn tháng, cuối cùng tôi mới viết được ba dòng chữ đơn giản sau đây vào trang bản thảo: HẾT. bắt đầu viết ngày 28-01-1982 tại đảo Kuku, Nam Dương. Viết xong ngày 02-06-1989 tại Orange Country, Hoa Kỳ. Nguyễn Mộng Giác, Mùa biển động (tập5), nxb Văn Nghệ, California, Hoa Kỳ. (tr 1849)
(28) Lời tác giả.
(29) Phan Cự Đệ, Những bước tổng hợp mới trong Văn học Việt Nam thế kỷ 20, TCVH số 10/2001, Hà Nội.
(30) Nguyễn Hưng Quốc, May mắn của các cây bút hải ngoại. (Tienve.org)

BAN MAI 
1/9/2013