12/10/13

Cao Huy Thuần - HUYỀN THOẠI


 Như một người dân hèn mọn đứng xếp hàng trên đường Hoàng Diệu, tôi xin gửi mấy dòng đơn sơ này kính viếng anh linh Đại Tướng. Thật lòng mà nói, người dân hèn mọn có cả một nỗi lòng để thốt ra với Đại Tướng trong ngày quốc táng, nhưng nỗi lòng ấy nghẹn lời ở cổ. Nói được gì chăng, chắc Đại Tướng đã nghe rồi và sắp nghe nữa, quá nhiều. Nhưng quá nhiều mà vẫn chưa đủ. Đáng lẽ phải dùng một con tàu mang di hài của Đại Tướng đi từ Ải Bắc đến Cà Mau để Đại Tướng nghe tiếng nói không nói được trong tim mọi người trên mọi con đường của đất nước.
Bởi vì, thưa Đại Tướng, Đại Tướng là anh hùng của dân tộc. Của cả một dân tộc từ Bắc chí Nam, không phải của riêng ai. Và thế nào là anh hùng ? Thế nào là anh hùng dân tộc? Anh hùng là người đã hiến cả cuộc đời của mình cho một cái gì cao hơn chính mình. Cái ấy phải là thiêng liêng. Anh hùng dân tộc là người đã hiến cả cuộc đời của mình cho một cái gì cao hơn chính mình và cái đó, dân tộc ấy cho là thiêng liêng chung. Với Việt Nam trong thế kỷ 20, cái đó là độc lập. Nhưng như thế vẫn chưa đủ để Đại Tướng là anh hùng dân tộc. Không ai là anh hùng nếu không được người khác truy nhận. Không ai là anh hùng dân tộc nếu không được chính dân tộc truy nhận. Và sự truy nhận ấy trở thành thiêng liêng khi được chuyên chở trên sức mạnh của huyền thoại. Không có huyền thoại thì không có anh hùng. Không có huyền thoại cộng đồng thì không có anh hùng dân tộc. Huyền thoại ấy không phải do một thế lực nào nặn ra. Tự nhiên nó đến qua sự giao cảm thần kỳ giữa một dân tộc với vị anh hùng của họ.
Đại Tướng đang đi vào huyền thoại ấy. Đã là huyền thoại thì không nên cắt nghĩa bằng luận lý. Không nên hỏi : đâu phải chỉ một mình Đại Tướng hiến cả cuộc đời cho độc lập dân tộc ? Nhưng huyền thoại là vậy : huyền thoại của Việt Nam muốn rằng vị anh hùng của dân tộc là tướng. Chẳng phải Đại Tướng là cha đẻ của một quân đội chỉ có dăm ba khẩu súng trường lúc khai sinh đó sao ? Chẳng phải chỉ gọi « Đại Tướng » là ai cũng biết đích danh một người ? Cũng đừng nên hỏi : bao nhiêu vua đã chống xâm lăng, đâu phải chỉ tướng ? Nhưng huyền thoại là vậy : huyền thoại là lịch sử được cảm xúc hóa, tưởng tượng hóa. Lịch sử tôn quý vua, nhưng huyền sử sắc phong thần cho tướng. Vua chỉ huy nhưng tướng ra quân. Và trận mạc đã đi vào tưởng tượng của mọi cái đầu từ thời cắp sách trong suốt thế kỷ. Mở sách giáo khoa của lớp ba ngày xưa, cả mấy thế hệ học trò say mê gì, say mê ai, nếu không phải là sông Như Nguyệt, sóng Bạch Đằng, ải Chi Lăng, áo bào đẫm mùi thuốc súng của Nguyễn Huệ, Thoát Hoan chui vào ống đồng chạy dài ? Hơn thế nữa, cao tột bậc, lịch sử có Trần Nhân Tông, nhưng huyền sử có đức Thánh Trần. Từ nhỏ, trong tưởng tượng, chiến công là của tướng. Vua thì có minh quân và hôn quân, tướng chỉ có trận mạc hiển hách, vuốt ve tự hào dân tộc. Như con người có xương có thịt, dân tộc cần thương yêu và được thương yêu, cần vỗ về và được vỗ về. Nhất là trong giai đoạn mất nước. Nhất là trong giai đoạn thui chột tự hào.
Tôi đã lặp đi lặp lại quá nhiều hai chữ dân tộc. Là bởi vì huyền sử của dân tộc đang làm nhiệm vụ cảm xúc hóa lịch sử để đưa Đại Tướng vào vai trò trưởng tử của Trần Hưng Đạo. Nhân dân đang sắc phong cho Đại Tướng. Bất cứ ở đâu, mọi con mắt đều nhìn về một phương, mọi trái tim cùng đập chung một nhịp. Trong lịch sử chiến tranh gần đây, nếu lấy một thời điểm để nói chính xác rằng mọi con tim cùng đập một nhịp, thì thời điểm duy nhất ấy là Điện Biên Phủ. Tôi thuộc thế hệ những anh học trò sống trong vùng ảnh hưởng của Pháp có bạn bè, thân nhân bị động viên để tham gia chiến trận ngoài Bắc. Không mấy ai trong các anh ấy nghĩ rằng mình cầm súng để bảo vệ một lý tưởng. Không mấy ai nghĩ rằng mình đang đứng vào phía dân tộc. Họ thầm nghĩ : phía của dân tộc là phía kia. Và phía ấy đang vang vọng gầm trời tiếng pháo Điện Biên. Kể cả những người đang cầm súng ở bên này chiến tuyến, súng ấy cũng có trái tim để cùng đập một nhịp với nhịp máu tự hào của cả một dân tộc chiến thắng. Điện Biên không có giới tuyến. Không phải là chiến thắng của một phe. Cho nên Điện Biên là Bạch Đằng. Điện Biên là duy nhất trong huyền sử thoát nhục thuộc địa. Giống như Bạch Đằng, một bên là dân tộc, một bên là kẻ thù chung, từ phương Tây hoặc từ phương Bắc.
Và Điện Biên, và Bạch Đằng chỉ nói lên một điều : là anh hùng dân tộc vị nào đã cầm thanh gươm mà chính dân tộc trao cho để chém một kẻ thù chung. Anh hùng là người ngồi trên ngựa, giữa trận mạc. Huyền sử của Việt Nam muốn thế. Không cần lý luận. Trái tim cộng đồng tạo ra huyền sử ấy không cần lý luận. Cũng không có giới tuyến. Đại bác Điện Biên không có giới tuyến.
« Bất hạnh thay cho những dân tộc nào cần anh hùng », xin Đại Tướng đừng nghe câu nói ấy của Hegel. Dân tộc Việt Nam đang cần anh hùng.

Cao Huy Thuần

Source : diendan 

10/10/13

Nguyễn Quang Lập - Thương nhớ nghìn năm

11-10-2013

Thương nhớ nghìn năm

Nguyễn Quang Lập

Những khi mệt mỏi và buồn chán tôi thường ngồi cửa sổ trông ra, Hà Nội trước mắt tôi lúc này là cái cổng cổ kính làng Đại Từ, ngôi chùa xanh rêu nằm khuất lấp dưới tàng cây cổ thụ, hồ Linh Đàm xanh trong thi thoảng có những đàn cò bay về đỗ trắng bờ hồ.

 Mùa thu nước lên có những chiếc thuyền thúng câu cá bập bềnh trên mặt hồ và những chiếc vó bè bờ bên kia thấp thoáng trong sương mù. Mùa hè nước rặc mặt hồ có nhiều người đi bắtcua, nơm cá. Đôi khi nghe được tiếng hát nổi chìm trong sương khói những buổi chiều yên ắng.


            Góc si già lối rẽ vào đường đôi ra phố có quán nghèo người thương binh già bán chè chén, dăm bảy anh xe ôm thợ xây thợ mộc ngồi thong thả nhả khói thuốc lào. Phía sau đó là chợ làng Đại Từ khi đông nghịt khi thưa thớt dân quê lẫn với dân thị thành. Và trên cao bao giờ cũng có những chiếc diều no gió đứng yên giữa trời xanh.

            Nếu không có tiếng còi tàu vẫn hú lên khẩn thiết, tiếng còi  xe réo gắt đuổi theo nhau và tiếng loa truyền thanh phường vẫn bền bỉ nói những điều không ai buồn để ý, thì tôi sẽ đinh ninh đây chính là miền quê thanh vắng của tôi hoặc Hà Nội nghìn năm trước.

            Hà Nội nghìn năm trước thế nào làm sao tôi biết, tôi chỉ đoán chừng nó cũng na ná Hà Nội qua cửa sổ nhà tôi. Và tôi yêu Hà Nội như thế  hơn rất nhiều lần Hà Nội của cao ốc, của xe cộ, của nhà hàng, của những đường phố nghìn nghịt người qua lại, dẫu biết rằng sự phát triển là tất yếu, không ai có thể cưỡng được và cũng không ai muốn cưỡng.

             Tôi yêu Hà Nội có Lý Thường Kiệt, một người Hà Nội gốc ở phường Thái Hoà- phố Bưởi ngày nay, cưỡi ngựa trắng vượt sông Như Nguyệt, với bài thơ Namquốc sơn hà  như một khúc ca yêu nước vang vọng mãi muôn sau.

            Tôi yêu Hà Nội có chùa Diên Hựu, có hồ Dâm Đàm, có chùa Trấn Quốc, có hồ Lục Thuỷ nơi rùa vàng nổi lên dâng gươm thần cho Lê Thái Tổ cứu nước trừ gian. Khi đất nước an ninh rùa vàng lại nổi lên đòi lại gươm thần và nhà vua đã nhẹ nhàng trả lại như không, cho hay binh đao nước Nam ta chỉ để trấn quốc không bao giờ để hại nhau.

            Tôi yêu Hà Nội có điện Diên Hồng, nơi vua Trần Thánh Tông hỏi muôn dânhoà hay là đánh. Việc thiên tử cúi xuống hỏi dân đen làm cảm động cả đất trời. Thế mới biết một khi triều đình thực bụng coi dân làm gốc, chứ không phải chỉ đầu môi chót lưỡi, thì không có việc khó nào trên đời lại không thể vượt qua.

            Rất nhiều lần đi trên đường Hoàng Diệu có những cây xà cừ cao vút, tán lá sum sê tôi cứ có cảm tưởng hương hồn vị tổng đốc Hà Ninh quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh vẫn còn trên những tàng cây kia, toả bóng mát xuống tâm hồn những người yêu Hà Nội. 

Khi triều đình vứt giáo qui hàng thì ông cũng vứt ngay hai chữ trung vua để đội lên đầu hai chữ xã tắc, đội đến chết không rời. Hà Nội đã có tượng Lý Thái Tổ, người anh hùng dựng nên đất Thăng Long, đã có hay chưa tượng Hoàng Diệu, người anh hùng đã chết vì Hà Nội?

            Không có những anh hùng như Lý Thái Tổ sẽ không có Hà Nội, không có những anh hùng như Hoàng Diệu thì Hà Nội đã tiêu vong, nước Việt ta cũng đã tiêu vong. Hỡi ôi điều giản đơn như cây cỏ nhưng không phải ai ai cũng thấm nhuần.

            Đôi khi tôi rời thế giới ảo internet, nơi có bao nhiêu chuyện đau buồn, nơi này đất lở người chết, nơi kia lũ cuốn nhà trôi…để về thế giới thật, nơi phố phường tráng lệ, thấy cuồn cuộn những dòng người lao vào cuộc mưu sinh, cuộc kiếm chác, cuộc tranh giành đen đỏ, lòng bỗng dưng se lại, chẳng dám trách ai chỉ một mình buồn thiu.

            Thế giới ảo Biển Đông đang nổi sóng, dân chài ta khốn khổ vì tàu lạ, đảo Hoàng Sa đang bị cầm tù, hình như chẳng liên quan gì đến thế giới thật, trên sạp báo, trong nhà hàng tiếng nói cười hân hoan mừng thắng lợi. Cũng chẳng dám trách ai chỉ thấy mình lạc lõng.

            Hà Nội từ nghìn xưa đến nay có cây xanh có ao hồ có vỉa hè, thiếu ba thứ đó không ra Hà Nội. Vỉa hè bị chiếm dụng chật ních, bị xua đuỗi rỗng không. Cây xanh đã già, đã đổ vì bão, vì bị cưa trộm chặt trộm, đã phủ một lớp bụi trắng xoá. Đa phần các ao hồ bị ô nhiễm, bị bức tử, bị san lấp vì một nghìn lý do của ham hố của quan liêu.

            Hà Nội vẫn còn đó rực rỡ ánh đèn, xe cộ đủ loại sang trọng chen chúc trên những con phố được làm ra cho người đi bộ và xe đạp. Còn đó những ngôi nhà cao tầng với kiến trúc hiện đại và sang trọng, những công viên bóng nhoáng, những nhà hàng giàu có. Còn đó bao nhiêu trai thanh nữ tú ngựa xe như nước áo quần như nêm, các gương mặt đều sáng tươi hạnh phúc. Nhưng sao tôi vẫn thấy dửng dưng.

            Nhưng sao tôi vẫn thích ngồi ngắm Hà Nội của tôi qua ô cửa sổ. Tôi không biết vì sao, thật tình là như vậy.

 Có lẽ tâm hồn cổ lỗ của tôi chỉ biết thương nhớ Hà Nội nghìn năm xưa, nơi hồn Việt chất đầy thơm thảo. Nơi có những người Hà Nội  như Lý Thường Kiệt, như Hoàng Diệu. Nơi có những đàn cò trắng chiều chiều vẫn bay về đậu trên những tàng cây sấu, và giờ đây thỉnh thoảng vẫn bay về đậu trằng bờ hồ Linh Đàm. Ôi đàn chim Việt, chúng đã có trên mặt trống đồng nghìn năm xưa, ta vẫn gọi đấy là đàn chim Lạc.

Source : Blog Que Choa

    GS Tương Lai - Những bước đi chậm rãi của lịch sử

    11/10/2013
     
    Tương Lai

    Nhận được tấm ảnh do TS Minh Đường, Viện trưởng Viện SENA chụp gửi vào qua email, nhìn dòng người lặng lẽ xếp hàng trên đường Điện Biên Phủ vòng về Hoàng Diệu viếng Đại tướng trong đó có rất nhiều người trẻ tuổi, lòng tôi trào lên nỗi phấn khích xót xa. Một sự kiện lịch sử.
    Ngoài mọi kịch bản soạn sẵn, bất ngờ cho mọi trù liệu tính toán, hàng chục ngàn người kiên nhẫn nhích từng bước trong trật tự để được bước vào ngôi nhà số 30 phố Hoàng Diệu. Nơi đây vị tướng huyền thoại ấy sống để nhẫn nại và kiên cường trải nghiệm những sóng gió của cuộc đời, của lòng người trong những bước thăng trầm của thân phận con người gắn liền với sự thăng trầm của vận mệnh dân tộc! Liệu có phải là “đường thế đồ gót rỗ kỳ khu” với sự nếm trải “mùi tục lụy lưỡi tê tân khổ” mà xưa kia Nguyễn Gia Thiều đã nói đến? Và rồi, từ mọi nẻo đường Hà Nội, và đâu chỉ có người Hà Nội, có người vượt cả trăm, cả ngàn cây số về đây. Họ tự nguyện đứng xếp hàng để được biểu tỏ tấm lòng thành kính tri ân, nhớ thương một con người đã góp phần viết nên những trang sử vẻ vang của dân tộc nay đã đi vào lịch sử.
    Và phải chăng con đường ngoằn ngoèo người xếp hàng kia cũng đang là biểu tượng một nét dáng của lịch sử. Lịch sử đang đi những bước chậm rãi nhưng chất chứa nhiều tiềm ẩn khó lường. Nếu lịch sử là con người nhân với thời gian, thì sự sòng phẳng của lịch sử chính là ánh phản chiếu của lòng dân tôn vinh người đã góp phần làm nên lịch sử. Vị “tư lệnh của các tư lệnh, chính ủy của các chính ủy” mà có lúc người ta cố tình lảng tránh những oan khuất, vô tình hay hữu ý toa rập cho toan tính bẩn thỉu nhằm che lấp sự thật lịch sử, rồi cũng bằng sự toan tính có thể là ít bẩn thỉu hơn để mong được an toàn hơn với kiểu tự an ủi “Non nươc thề bồi thôi xúy xóa / Qu thần nào chứng ở hai vai” như lời tự diễu thâm thúy của Tú Xương. Thế rồi hôm nay, kích thước của lịch sử được đo bằng những bước chân chậm rãi đang đi trên hè phố kia.
    clip_image002
     clip_image004
    Ảnh:Minh Đường Ảnh: Vietnamnet
    Chính vì vậy, tuy biết là cái ngày đau buồn ấy rồi sẽ đến nhưng vẫn cứ thảng thốt bàng hoàng khi được tin vị lão tướng huyền thoại ấy đã vĩnh viễn ra đi. Một khoảng trống vắng cứ lan tỏa trong tâm thức, cảm giác hụt hẫng mất một điểm tựa tinh thần xâm chiếm đầu óc. Những kỷ niệm cứ chập chờn ẩn hiện, vừa xa vắng, vừa gần gũi. Như người mộng du, tôi lật lại những cuốn sách có di bút của ông đề tặng, miên man đọc những dòng chữ trong Tổng tập Hồi ký của vị tướng ấy để rồi bồi hồi nhớ tiếc. Thế là người cuối cùng thuộc lớp cách mạng đàn anh đáng kính làm nên Cách mạng Tháng Tám, “thế hệ vĩ đại nhất của Viêt Nam” (Vietnam’s “Greatest Generation” như nhận định của Lucky Gold, CNN ngày 7.10.2013) đã tuyệt đối nằm xuống.
    Tôi chỉ là kẻ hậu sinh, may mắn được gặp ông vào quãng hai mươi năm trở lại đây trong một vài lần được ông gọi đến làm việc khi ông đảm trách lĩnh vực khoa học. Và sau đó đôi lần hầu chuyện khi đến thăm ông ở nhà riêng, được ông bảo cùng chụp ảnh kỷ niệm. Lần cuối gặp ông cách nay cũng đã bốn năm, lần kỷ niệm 100 ngày sinh của ông thì chỉ được bay ra dự buổi họp mặt những người thân, ông đang nằm viện. Thẫn thờ ngồi vào bàn, đắm mình trong nỗi nhớ thương, trong óc tôi chập chờn ánh mắt và nụ cười của ông. Thế là vĩnh viễn không bao giờ còn được nhìn thấy nụ cười ấy, bắt gặp ánh mắt ấy nữa rồi. Vừa tháo mắt kính nhòe ướt ra lau, vừa xốn xang nỗi nhớ.
    Báo chí đang tràn ngập những lời đẹp đẽ dành cho vị tướng “ngang tầm với Alexander Đại đế, vượt trội hơn Napoleon” như lời của sử gia Cecil Currey qua Đài NPR của Mỹ. Với sự hiểu biết hạn hẹp của mình, thêm vào những lời tụng ca, cho dù là chân thành nhất, sâu sắc nhất, thì may ra mình cũng chỉ có thể đưa ra những thế phẩm kém xa những bài đã được đọc, vì thế tốt hơn hết là chân thành và mộc mạc ghi lại một vài kỷ niệm ấm lòng may mắn có được với vị lão tướng huyền thoại.
    Trước hết là một kỷ niệm không vui mà giờ đây nghĩ lại tôi rất ân hận. Hôm ấy, ông cho gọi tôi với lý do là ông đang suy nghĩ và đang cho triển khai một nghiên cứu chuyên đề về chiến lược con người. Ông được báo cáo là ở Viện Xã hội học chúng tôi cũng đang chuẩn bị một đề cương nghiên cứu về đề tài này. Tôi vắn tắt trình bày những tư liệu đã thu thập được và đang tìm kiếm thêm. Ông chăm chú nghe rồi đột ngột ngắt lời: “Chúng ta có ít thời gian, tôi hỏi ngay, anh định bao giờ thì hoàn thành công trình nghiên cứu. Dạ thưa hai năm”, tôi trả lời.
    Ông cười, im lặng một lúc, rồi đưa hai ngón tay: “Hai tháng”! Lắc đầu quầy quậy tôi hoảng lên: “Dạ không thể được đâu ạ”. Liệt kê ra những công đoạn nhất thiết phải trải qua, những công việc buộc phải hoàn tất, từ tìm hiểu thông tin về đề tài đã được trong và ngoài nước xuất bản, dịch thuật một số tư liệu quan trọng nhất, đến tiến hành một số khảo sát thực tế, tổ chức những trao đổi chuyên đề trong một số nhà nghiên cứu có kinh nghiệm..., tôi cố bảo vệ kế hoạch đã vạch ra. Ông vẫn điềm tĩnh nghe nhưng nét mặt tỏ vẻ không vui, còn tôi thì vẫn khăng khăng bảo vệ quan điểm của mình.
    Như muốn giảm bớt căng thẳng, đại tá Huân (tôi nhớ không thật chính xác hôm ấy có phải anh Huân không), đề nghị Đại tướng tạm nghỉ giải lao. Một đĩa hai quả chuối và một miếng phó mát đặt trước mặt ông. Còn tôi được mời một chén chè đậu xanh. Mười lăm phút sau, ông vẫn kiên nhẫn thuyết phục và tôi thì vẫn quyết liệt xin thêm thời gian. Cuối cùng ông cười, song nụ cười chẳng vui gì, “Thôi được rồi, tôi không ép anh nữa, nhưng như thế này có được không, anh đã chuẩn bị được những gì rồi thì cho chúng tôi mượn, rồi sẽ hoàn trả lại cho anh”. Tôi thở phào vì trút được gánh nặng. Ông quay sang anh Huân (?): “Nhớ ghi chép cẩn thận, mượn những gì, rồi dùng xong thì trả cho người ta”. Buổi sơ kiến của tôi với Đại tướng là thế đó. Ấy vậy mà rồi sau này, khi cần thiết, ông vẫn cho gọi, không bợn một chút định kiến.
    Có lần ông đang nghỉ ở Cửa Lò, Nghệ An. Tình cờ, chúng tôi cũng có một hội thảo với chuyên gia Canada tại đó. Trên bãi biển, thấy anh Việt Phương, tay bắt mặt mừng, ông hỏi thăm công việc. Biết nội dung và kế hoạch của chúng tôi nơi đây, Đại tướng yêu cầu chúng tôi dành thời gian đến gặp ông. Buổi đầu, tôi trốn. Anh Việt Phương đến, không biết anh đã nói về đề tài gì nhưng khi về, anh bảo tôi: “Anh Văn bảo Tương Lai mai tranh thủ đến trao đổi với anh ấy vấn đề nghiên cứu ở Thái Bình”. Cũng thở phào nhẹ nhõm, nhưng lần này là vì “trúng tủ”. Vấn đề đang sốt dẻo, có chuyện mà nói, chắc không làm ông ấy thất vọng như buổi sơ kiến kia, và cũng có dịp “chuộc tội” nhằm giải tỏa mối băn khoăn mà mấy lần gặp sau đó tôi chưa thực hiện được.
    Vì không mang theo tài liệu, tôi nói vo, thiếu con số cụ thể nên thỉnh thoảng ông ngắt lời, hỏi thêm một số chi tiết. Khi nghe đến đoạn người ta cố tạo nên một “hiện trường giả”, nơi tượng Bác Hồ bằng thạch cao bị vỡ được lôi từ trong kho ra, đặt trong hội trường để vu cho dân đập vỡ, nhằm chứng minh “tính phản động của chúng nó” như lời Vũ Duy Ch..., bí thư đảng ủy xã An Ninh, huyện Quỳnh Phụ đã dằn giọng nói với tôi, Đại tướng gõ gõ ngón tay vào mặt bàn ngắt lời: “Các anh có chụp ảnh hiện trường giảnày không?”. Tôi đáp “Thưa, có chứ ạ. Xin được nói thêm, đây là những bức ảnh để lại nhiều cảm xúc nhất trong nghiên cứu xã hội học của tôi”. Ông cười rất vui khi tôi hứa về Hà Nội sẽ đem trình Đại tướng những bức anh ấy. Ông tỏ vẻ đang suy tư một điều gì rộng hơn đề tài tôi đang báo cáo, lại gõ khe khẽ lên mặt bàn: “Anh nhắc lại nguyên văn câu của anh Tô (Phạm Văn Đồng) anh vừa nói, ‎‎ý này quan trọng lắm”.
    Hôm ấy, sau khi nghe tôi trình bày vắn tắt nhưng cũng tạm đủ toàn bộ báo cáo Khảo sát xã hội học về Sự kiện Thái Bình năm 1997, bác Tô cũng đòi tôi nhắc lại ý kiến vừa nêu “ đây không có địch ta nào hết, ở đây là mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân”. Nghe xong, bác cười “Này Tương Lai, với tôi mà anh cũng sợ à”. Biết bác định nói gì, tôi cũng “cà chớn” thưa lại:” dạ sợ chứ ạ! Vì có phải ai cũng hiểu như anh đâu”. Tôi còn nói cụ thể hơn nữa nhưng xin không viết ra đây. Bác Tô cười vui, rồi nghiêm mặt nói rất rành rọt: “Cũng không có mâu thuẫn nội bộ nhân dân nào ở đây cả. Đây là mâu thuẫn của một bên là những người cầm quyền hư hỏng, thoái hóa, biến chất đè nén, áp bức dân và bên kia là người dân không chịu nổi nữa đã vùng dậy đấu tranh với chúng. Phải phân tích như thế mới có thể tìm ra giải pháp đúng được”!
    Đại tướng trầm ngâm, ông nói với tôi nhưng dường như đang tự ngẫm nghĩ điều gì: “Phiêu nói với tôi là đã giải quyết xong rồi mà”, tôi đoán là ông đang nghĩ đến những điều mà ông đã nghe ông Lê Khả Phiêu nói về chuyện Thái Bình. Tôi thấy đã đến lúc cần phải rành rọt việc này: “Thưa anh, câu chuyện nông dân vẫn còn nguyên vẹn, thậm chí, những điều Qua Ninh và Vân Đình đặt ra trong Vấn đề dân cày xuất bản năm 1940, về cơ bản vẫn còn nóng bỏng. Thực trạng nông thôn Thái Bình vẫn tiềm ẩn những mâu thuẫn gay gắt, câu chuyện người cày với mảnh đất nuôi sống nhiều thế hệ từ đời ông đời cha cho đến hôm nay vẫn là vấn đề muôn thuở giữa đất và người. Nói rằng sự kiện Thái Bình đã được giải quyết chỉ là cách tự trấn an hoặc chỉ giải quyết trên bề nổi. Phần chìm của tảng băng vẫn còn đó. Thấy tôi nhắc đến Vấn đề dân cày đôi mắt của vị lão tướng ánh lên chút ngạc nhiên: “Anh cũng có đọc cuốn sách đó à? Lâu lắm rồi, chính tôi cũng không còn cuốn sách đó”. Nghe tôi hứa là sẽ biếu ông cuốn tôi đang giữ trên giá sách, ông cười vui “Thế thì hay quá!”.
    Biết ông đặc biệt quan tâm đến vấn đề nông thôn và nông dân, tôi nhắc lại hình ảnh vẫn đọng lại đậm nét trong tôi khi đọc “Tổng tập Hồi ký” đoạn nói về Đại tướng từ Mường Phăng, nơi đặt chỉ huy sở đến cầu sắt bắc qua sông Nậm Rốn, thị sát chiến trường hai ngày sau khi kết thúc chiến dịch: “Một anh dân công còn trẻ đứng đợi bên kia cầu. Anh chìa tay ra và nói: Đề nghị anh, cho em bắt tay một cái! Tôi vui vẻ siết tay anh và biết anh quê ở Thanh Hóa, một tỉnh đã cung cấp nhiều nhất về người, cũng như về lương thực phục vụ chiến dịch. Còn người cắm lá cờ chiến thắng trên nóc hầm Đờ Cát là dân Thái Bình. Những người nông dân ấy khi trở về làng với những hiểu biết và trải nghiệm mới, họ nhìn nhận thực trạng quê hương bằng đôi mắt khác với ngày họ “áo vải chân không đi lùng giặc đánh” (Hồng Nguyên) để không thể “súng gươm vứt bỏ lại hiền như xưa” (Nguyễn Đình Thi) được nữa.
    Không kìm được, tôi liều mạng nói một lèo và Đại tướng ngồi yên lặng chăm chú nghe. Đợi tôi nói xong, ông khẽ khàng nhưng rành rọt: “Những điều anh vừa trình bày đáng suy nghĩ. Cần suy nghĩ tiếp và nghiên cứu tiếp. Đối với nước ta, nông dân có một vai trò đặc biệt. Không có chiến lược đúng về nông dân và nông thôn, nông nghiệp thì hậu quả đất nước phải gánh chịu sẽ rất gay gắt”.
    Và đúng vậy, cái gì đến rồi cũng phải đến. Chẳng riêng gì Thái Bình đất chật người đông, chẳng chỉ ở nơi châu thổ sông Hồng bình quân tỷ lệ đất-người vào loại thấp nhất thế giới, với các tỉnh duyên hải của khúc ruột Miền Trung thường xuyên gồng lưng chịu bão lụt, đổ xuôi về mênh mông đồng bằng sông Cửu Long vựa lúa của cả nước, tiếng gọi của đất cũng da diết chẳng kém. Sức hút của đất vẫn đẩy tới những mâu thuẫn, đụng độ giữa người sống với đất phải giữ đất để sống và người lấy đất dưới bất cứ danh nghĩa, động cơ mục đích nào. Trĩu trên vai gánh nặng nhất của sự nghiệp dựng nước, mở nước và cứu nước, mồ hôi và máu của người nông dân thấm đẫm từng thước đất của cha ông họ để lại, làm sao có thể ngồi yên khi mảnh đất tuột khỏi tay họ? Tôi hối hả nói với tác giả của Vấn đề dân cày mà quên mất rằng ngồi trước tôi là một vị tướng lừng danh... Giật mình ngước nhìn, vị Tổng Tư lệnh vẫn trầm tĩnh nở nụ cười, lắng nghe.
    Giờ đây nhớ lại nụ cười ấy, ánh mắt ấy lòng tôi cuộn lên nỗi cay đắng xót xa vì nhớ ra rằng chính ông là người hiếm hoi đã cho tôi hồi âm về nội dung một tiểu luận đóng góp với Đại hội X tôi gửi đến. Tiểu luận khá dài với gần 100 trang khổ A4, chắc cũng đã chiếm khá nhiều thì giờ quý báu của Đại tướng, người đã bước qua tuổi 90.
    Thông cảm và chia sẻ với những day dứt băn khoăn của một người làm khoa học muốn thẳng thắn trình bày những suy nghĩ và kiến nghị của mình, ông nhắn gửi những lời cảm thông. Và rồi khi biết tôi đang gặp những khó khăn do nội dung của tiểu luận động chạm đến những “vấn đề nhạy cảm” như vấn đề chủ thuyết phát triển, vấn đề trở lại với Tư tưởng Hồ Chí Minh, lấy lại tên Đảng Lao động Việt Nam, tên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa... Đại tướng đã ân cần động viên, khích lệ.
    Hôm ấy, khi tôi đến thăm, sau hơn 30 phút trao đổi, ông bảo đại tá Huyên lấy cho ông cuốn Tổng tập Hồi ký, anh Huyên thưa là vừa hết, xin đề nghị để lần sau. Ông cười, “Thế là anh không gặp may rồi”, quay sang anh Huyên, ông dặn: “Nhớ dành sách cho Tương Lai nhé”. Hai tuần sau ra Hà Nội, đang ở nhà khách 35 Hùng Vương tôi nhận được điện thoại của đại tá Huân từ phòng tiếp tân: “Anh xuống đây, có quà của anh Văn”. Cầm tập Hồi ký nặng trĩu, lật trang đầu có dòng chữ đề tặng của Đại tướng, tôi đứng sững. Thông thường, không ai đề tặng sách như vậy cả! Vì thế, quên cả mời vị đại tá, thư ký thân thiết của Đại tướng, đã cất công mang sách sang tận nhà khách cho tôi đang đứng trước mặt, tôi ngồi xuống ghế đặt cuốn sách lên bàn, xúc động đọc kỹ từng lời: “Chúc đc Tương Lai có những đóng góp mới vào lý luận của Đảng. Hà Nội 27.9.2006. Ký, Võ Nguyên Giáp”.
    Anh Huân đứng nhìn tôi cười. Hiểu tôi đang bối rối, anh nói mấy câu động viên rồi bắt tay ra xe. Tai tôi đang ù lên nên không còn nhớ anh đã nói những gì lúc ấy. Trở lên phòng, tôi bồi hồi xem kỹ lại từng chữ của ông. Xúc động vì tấm lòng của Đại tướng dành cho mình, một cán bộ khoa học tầm thường, cũng chỉ vài lần may mắn được gặp ông. Tôi cố suy nghĩ về lý do ông viết cho tôi những dòng động viên, cổ vũ. Mà nào tôi đã làm được gì? Có lẽ, với bản tính nhân văn sẵn có, bằng bản lĩnh và sự trải nghiệm của chính mình, rất tế nhị và thâm thúy, ông chìa bàn tay sẻ chia của một bậc lão thành, chứng nhân của một thời đoạn lịch sử khốc liệt đối với thế hệ đàn em, nhằm nhắc nhở động viên họ giữ vững ý chí chiến đấu, nắm chắc ngòi bút, dám đấu tranh cho điều mà mình tin là chân lý.
    clip_image006
    Dạo ấy, khi đọc lời đề tặng và chữ ký quắc thước của Đại tướng, nhà văn Nguyễn Khải quý mến đã nửa đùa, nửa thật nói với tôi: “Anh phải phóng to ra, đóng khung treo lên, vì nó đẹp như một bức tranh thủy mạc vậy”! Quả là đẹp, quá đẹp. Song, có lẽ chỗ treo trang trọng nhất chính là trong trái tim mình. Một người Việt Nam yêu nước bình thường như triệu triệu người yêu nước khác đã nhận được tấm lòng sẻ chia và thông cảm của ông. Sức hút và sự lan tỏa từ tầm vóc nhân văn của vị võ tướng ấy sẽ là một nguồn sinh lực giúp mình tự mình vượt lên chính mình mà sống xứng đáng với tấm lòng của người đã ưu ái dành cho mình, một trong triệu triệu người bình thường đang đặt thân phận mình trong vận mệnh của dân tộc trước những thách đố nhiễu nhương.
    Vả chăng, “không có huyền thoại nào lớn lao hơn huyền thoại do đời sống dựng nên” như lời nhắc nhở của Andersen, người kể chuyện cổ tích hay nhất thế giới. Với thời gian, câu chuyện về vị lão tướng huyền thoại Võ Nguyên Giáp của chúng ta hôm nay rồi cũng sẽ trở thành chuyện cổ tích, một trong những chuyện cổ tích hay nhất mà những người làm thầy, làm cha, làm mẹ của lớp hậu duệ mai sau sẽ hào hứng kể cho con cháu mình.
    Và rồi, trong dòng chảy bất tận của thời gian, cũng sẽ có những cựu chiến binh và cháu chắt họ sẽ say sưa kể câu chuyện huyền thoại về vị tướng “võ công nết đất, nhân văn tính trời” từng là “một trong những nhà chiến lược quân sự lỗi lạc nhất của lịch sử” (báo Le Parisien, 4.10.2013) như những người lính già kể chuyện “Nguyên Phong” xưa kia để ngợi ca khí phách quân dân đời Trần đánh tan giặc phương bắc, trui rèn tinh thần cảnh giác chống kẻ thù chưa bao giờ từ bỏ mộng bành trướng mà câu thơ bất hủ của Trần Nhân Tông đã nhắc đến:
    Bạch đầu quân sĩ tại,
    Vãng vãng thuyết Nguyên Phong.
    (Người lính già tóc bạc,
    Kể mãi chuyện Nguyên Phong)
    Vậy là, con người huyền thoại từng là thầy giáo lịch sử và trở thành vị tướng làm nên lịch sử ấy sẽ sống mãi với lịch sử (Trong mông lung của biển cả thời gian, những người sống được trong lòng nhân dân sẽ bất tử! như CNN ngày 7-10-13 đưa tin) đã tuyệt đối nằm xuống.
    Vậy là, con người huyền thoại từng là thầy giáo lịch sử và trở thành vị tướng làm nên lịch sử ấy sẽ sống mãi với lịch sử. Trong mông lung của biển cả thời gian, những người sống được trong lòng nhân dân sẽ bất tử!
    T. L.

    Source  BVN.

    Alan Phan - Buôn Mê Thuột : Một chút gì để nhớ

    Nhưng tôi tin họ sẽ thành công. Không một thế lực nào có thể ngăn chặn sự quyết tâm cầu tiến của thế hệ trẻ. Bởi vì thiên nhiên và tuổi trẻ luôn luôn là kẻ chiến thắng sau cùng.

    Tôi đến BMT lần đầu vào 1969. Thị trấn nhỏ, nhiều sương mù, những con đường đất đỏ, người dân Ê Đê hiền lành, không khí có chút đìu hiu, thỉnh thỏang bị cắt quãng bởi những tràng đại pháo của các cuộc chiến lẻ tẻ chung quanh. Một anh bạn thơ gọi BMT là Buồn Muôn Thuở. Có lẽ vì ánh mắt long lanh sẵn sàng nhỏ lệ của những tà áo dài trắng e ấp đằng sau những đồi xanh bạt ngàn.
    Sau 43 năm, tôi trở lại với một BMT đã trưởng thành (hay già đi). Dân số đã lên khoảng 2 triệu người, phần lớn là những người Kinh xông xáo đến lập nghiệp từ khắp xứ, nhà cửa mọc lên san sát, nhiều dấu hiệu của sung túc (siêu thị, đồ chơi điện máy, quán ăn nhậu, xe cộ…); nhưng vẫn giữ được những nét thanh bình giản dị của một thị trấn nhỏ. Bướm trắng bay đầy trong nắng sớm, tiếng ve sầu vang vọng suốt buổi trưa và chiều mưa Tây Nguyên lành lạnh tâm hồn. Bướm bay tìm ai, ve kêu gọi gì và mưa khóc ngày xưa? Dù thế nào, BMT vẫn là một nơi dễ thương và gợi nhiều cảm xúc.
    Vũ Trung Nguyên
    Ngày đầu ở BMT, tôi được mời đi thăm dự án “Cụm ngành cà phê” của Trung Nguyên ở E-Tun. Một dự án đem công nghệ mới từ Israel và vài hợp tác quốc tế để gia tăng năng suất cho nông dân. Anh Vũ đã đề xướng và phát động hơn 10 nãm nhưng kết quả vẫn còn lừng chừng. Văn hóa cà phê mà anh đang theo đuổi qua bảo tàng cà phê, làng cà phê và các hoạt động khắp nơi của Trung Nguyên đã khiến tên tuổi anh đồng nghĩa với thủ phủ cà phê này. Đây là một góc cạnh mới mà tôi mới biết, một Đặng Lê Nguyên Vũ kiên trì nhẫn nhục với mục tiêu của mình. Một người bạn khác cho biết là bạn học cũ ở trường Y với Vũ. Vậy Vũ còn là một bác sĩ đã bỏ nghề 15 năm trước để dấn thân vào kinh doanh. Anh khởi nghiệp khiêm tốn với nghề bỏ mối cà phê và phát triển xây dựng đế chế
    Trung Nguyên hàng đầu ngày nay. Rất đáng phục.


    Vườn uơm giống Macadamia
    Tôi nói về những loại cây trái đặc thù trên thị trường thế giới mà nông dân Việt có thể trồng với số lượng nhỏ nhưng sẽ đem một lợi tức đáng kể, thay vì bầy đàn theo cà phê hay cao su. Tôi đơn cử một thí dụ về quả macadamia trồng ở Hawaii và Úc với giá trị kinh tế gấp 10 lần đậu phọng. Các bạn trẻ liền liên hệ để tôi thăm viếng một cơ sở ươm giống của anh Tùng và gia đình. Gọi đơn giản là Mắc Ca, anh Tùng và giáo sư Hoàng Hòe đã được cơ quan nông nghiệp Úc hổ trợ để giới thiệu việc trồng Mắc Ca tại Tây Nguyên. Sau 5 năm, cơ sở đã thành công ươm 26 loại cây giống để bán cho nông dân và hy vọng trong 5 năm tới sẽ có hơn 3,000 hectares canh tác Mắc Ca.
    Cùng với mô hình công nghệ mới do Trung Nguyên đề xướng, và những sáng tạo về sản phẩm, cũng như cách tiếp cận thị trường qua thương hiệu và giao dịch sàn, đây là hướng đi của chương trình “đem văn minh về cho nông thôn” như tôi vẫn kêu gọi (thay vì đem dân lên các ổ chuột của thành phố lớn). Chắc chắn không phải nông thôn với hình ảnh các ngài “lý trưởng” hống hách bóc lột của những ngày đầu thế kỷ 20; mà là nông thôn hiện đại hiền hòa theo truyền thống cùa Lạc Việt vào thời Internet .

    Đại Học Tây Nguyên
    Trưa thứ sáu, các đại diện sinh viên đến thăm và cho biết giờ chót chánh quyền tỉnh đã rút giấy phép tổ chức buổi nói chuyện của tôi về tài chánh cá nhân tại Đại Học Tây Nguyên. Một anh bạn nói nguyên nhân có lẽ là do anh ta thông báo có đến hơn 1,200 sinh viên đăng ký tham dự. Sợ một ông già phân tích về hướng nghiệp và kinh tế cho hơn ngàn bạn trẻ? Các bác vẫn thiếu tự tin quá.
    Nhưng không hề gì. Kiến thức và tư duy của nhân loại hiện đang nằm trên “đám mây”. Bạn nào muốn nắm bắt để tiến bộ và sáng tạo vẫn là một vụ việc khả thi và dễ dàng. Chỉ tội cho một số anh em (Tiến, Thắng, Bình…) đã vất vả đi từ Saigon lên để mong gặp và nghe “chú”. Phải ghi nhớ tên các anh và đền bù sau vậy.

    Hội thảo cà phê
    Sáng thứ bẩy, tôi trình bày cùng các nhà đầu tư, các quan chức điều hành sàn cà phê và những doanh nhân, nông dân về tổng quan của một sàn giao dịch hàng hóa đúng chuẩn quốc tế. Tôi tiên đoán là trong 10 năm nữa, sàn hàng hóa sẽ lớn hơn sàn chứng khoán vì những đặc thù của nền kinh tế và suy nghĩ khác biệt của các nhà đầu tư Việt. Muốn hoàn tất mục tiêu này sớm hơn, các quan chức cần thay đổi tư duy về luật lệ và thực thi; cũng như phải nhớ rằng để có thanh khoản cho giao dịch và người chơi; sàn cần sự minh bạch, độc lập và đáp ứng được luật cung cầu tự nhiên của thị trường.
    Vài suy nghĩ khi rời BMT


    Từ máy bay nhìn xuống những vườn cà phê của BMT, tôi lại nghĩ về cái đồn điền cà phê nhỏ tôi mua ở Costa Rica 22 năm trước. Dù chỉ có 6 hectares và 9 nhân viên, mỗi năm chúng tôi đã thu hoạch hơn 7 tấn mỗi hectare. Tất cả các con đường phía trong đều được trải nhựa hay đá rất ngăn nắp sạch sẽ. Cơ giới được sử dụng tối đa. Hiện nay, nông dân Việt vẫn loay hoay với sản lượng hơn 2.5 tấn mỗi hectare, và cảnh quan của đồn điền cũng như phương thức canh tác vẫn không khác gì thời Pháp thuộc. Anh Vũ Trung Nguyên và các chuyên gia Do thái đang khuyến khích việc tưới cây và cho phân bón nhỏ giọt vào từng gốc, nhưng chưa được đáp ứng. Trong khi đó, năm 1972, chúng tôi đã giới thiệu kỹ thuật này cho các nhà vườn trái cây quanh Biên Hòa.
    Tôi cũng thắc mắc là dù với đất đai rộng rãi, người dân vẫn xây nhà sát nhau, không quy hoạch, ngay ngoài mặt lộ để “vui hưởng” khói bụi và tiếng ồn? Ai đã thăm các vùng nông thôn Âu Mỹ luôn phải trầm trồ về những biệt thự lớn rộng,với những khu vườn mênh mông hoa trái và cảnh thái thanh bình của thiên nhiên bao quanh. Họ đã sống như vậy cả hai, ba trăm năm trước, khi thế giới còn rất nghèo đói về vật liệu xây dựng cũng như số lương kiến trúc sư. Văn hóa có thể giải thích điều này?
    Nhưng nói chung, người dân và môi trường sinh thái của BMT vẫn gây nhiều ấn tượng. Cùng nhau, họ đang tự khám phá mình và tìm hướng phát triển hài hòa. Trong khi các thế hệ cha anh đã phá rừng đập núi để bán tháo những tài nguyên thiên nhiên, thì một lớp trẻ khác như chị Loan, anh Chiến…đang nổ lực khắc phục và tái tạo môi trường với sự giúp sức của các nhà nghiên cứu nông nghiệp trong và ngoài nước. Trong khi các quan chức vẫn bo bo ôm lấy đống kiến thức thời tiền chiến (1945), thì các anh chị em sinh viên đang tìm tòi học hỏi về thế kỷ 21 của công nghệ số với một tâm huyết vượt xa các bạn đồng môn ở những thành phố lớn. Họ sẽ phải đối diện với rất nhiều rào cản đóng khung trong một tâm trạng ù lì của giới còn quyền lực.
    Nhưng tôi tin họ sẽ thành công. Không một thế lực nào có thể ngăn chặn sự quyết tâm cầu tiến của thế hệ trẻ. Bởi vì thiên nhiên và tuổi trẻ luôn luôn là kẻ chiến thắng sau cùng.
    T/S Alan Phan
    15/4/2012
    T/S Alan Phan là một doanh nhân bôn ba làm ăn trên 43 năm qua tại Mỹ và Trung Quốc. Ông cũng là tác giả của 8 cuốn sách Anh và Việt ngữ về kinh tế tài chánh của các nền kinh tế mới nổi. Ông tốt nghiệp tại các đại học Penn State, American Intercontinental (Mỹ), Sussex (UK) và Southern Cross (Úc). Web site cá nhân là www.gocnhinalan.com.

    Source :  gocnhinalan

    9/10/13

    Nước mắt rơi chung



    Báo Sài gòn Tiếp thị

    http://sgtt.vn/Loi-song/183927/Nuoc-mat-roi-chung.html

    SGTT.VN – Bạn nói có thể chị đàn bà đứng nức nở trên phố Hoàng Diệu ấy vừa đóng quầy may sẵn ở chợ Đồng Xuân, bạn đã bị chị mắng một lần vì “nói giọng miền Nam mà còn mặc cả”. Có thể người đàn ông mếu máo đặt mấy bông cúc vàng ở hàng rào ngôi nhà số 30 kia vừa chạy xong cuốc xe ôm, bạn đã từng bị anh chở đi đường vòng để lấy tiền cho ngọt. Nhưng những va quệt đã từng gặp phải trên đất Hà Nội đã trôi hết, xí xoá hết trong bạn vì những người đã đến khóc trước nhà vị tướng vừa qua đời, trong bản tin tối.

    Ảnh: Đất Việt
    Tivi trong quán ăn tiếng được tiếng mất, nhưng bọn tôi chừng như nghe được tiếng nước mắt chảy. Không chỉ từ những gương mặt lướt qua trên màn hình, mà còn từ những người không xuất hiện trên tivi như bạn, hay từ trong lòng những người giả bộ mình cứng cỏi, như tôi. Tự nhận là già rồi, nghi ngờ cả nước mắt, nhưng bạn nói lần này bỗng tin những người kia cảm động thật lòng. Mà ông tướng đó cũng không phải ruột thịt, hay họ hàng xa, hay láng giềng ở cạnh nhà. Ông giỏi thì khỏi nói, cái đó cả thế giới chịu rồi, “nhưng tụi mình đâu phải thương chỉ mỗi chuyện đó”, bạn quệt cùi tay chùi nước mắt, nói “nghĩ tới ông như là nghĩ tới ông nội mình, không hề có cảm giác xa xôi vĩ đại”. Bàn bên mấy anh đòi nợ mướn cũng thôi chửi thề một con nợ khó nhằn, một anh buột miệng “nhìn ổng hiền như con cọp ăn chay”. Màn hình đông chừng mười lăm giây nụ cười hồn hậu của ông tướng. Tự biết trong lòng người dân, hình ảnh ấy còn đọng lại rất lâu.
    Bạn tôi tin hồi tại thế ông sống như mình có, không cố ý sống sao cho dân phải khóc khi lìa cõi tục. Tự nhiên từ khí chất. Thấy ông tưới phong lan, cũng lui cui như ông già kế bên nhà. Thấy nụ cười, biết rằng những oan khuất nhục vinh đã bị ông phẩy tay bỏ lại. Chỉ dân là ông không quên, khi thỉnh thoảng gửi báo những bài viết tâm huyết đóng góp cho chính sách dân sinh.
    Mấy hôm trước càphê sáng với nhau bạn còn kêu xã hội nhìn đâu cũng rẽ chia xáo xác. Sẵn sàng cãi nhau vì một cuốn sách, ông xài điện thoại Mỹ tôi dùng điện thoại Hàn, vì em mê nhạc sến anh thích sang. Cảm giác loạn lạc từ chính trường cho tới từng mái ấm, từng cái tổ của mỗi người. Đi bên bờ vực ai không chịu được nấy rơi, tưởng không có gì ngăn lại được dòng người chèn lấn. Bỗng tất thảy họ dừng lại chỉ vì một hơi thở vừa dứt vô phương nối lại. Bạn rươm rướm nói, ông tặng cái chết của mình cho người dân như một cơn mưa phúc lành. Họ, cũng như bọn tôi, ẩn nỗi tiếc thương ông già rực rỡ đó, thấy tâm hồn mình bỗng dưng liền sẹo, bâng khuâng vì ý nghĩ mình cũng còn khả năng khóc cho một người dưng.
    Cách khóc mỗi người mỗi khác, có người tận nhà ông già cúi đầu đặt bó hoa, người ở xa ngồi trước tivi lén kéo chéo áo lau đuôi mắt, người nuốt trộng vào lòng, người lại thở hắt ngậm ngùi “rồi ai cũng về, người ở đến gần một trăm lẻ ba năm chớ đâu ít ỏi gì, mà sao ai cũng tiếc, lại có người ở mới sáu mươi mà dân ngán ngẩm thôi rồi”. Chỗ này chỗ kia, tiếng khóc chưa bao giờ tạnh của những người trót sinh ra trên đời này, nhưng không mấy khi cả triệu người cùng chung một niềm mất mát.
    Bạn nói có bốn trong mười phần nước mắt đã chảy ra, chúng ta khóc cho việc sau này chẳng còn ai đủ lớn để dân còn có thể thương chung, khóc cùng. Cúi đầu trước ông, cũng đồng nghĩa bày tỏ thái độ với những ông quan còn đang sống.

    Nguyễn Ngọc Tư (nhà văn)


    7/10/13

    Phạm Thị Hoài - Vĩnh biệt một thời đại


    Tháng 10 7, 2013



    Ông là đại diện cuối cùng của một thế hệ mà chúng ta chỉ còn gặp lại trên những trang hồi kí, Thế hệ Vàng của cuộc Cách mạng Giải phóng Dân tộc, trong sáng, lãng mạn, tràn đầy lí tưởng. Qua mỗi thế hệ đến sau, vàng dần biến thành đồng thau và thế hệ hiện đang lãnh đạo đất nước này trông không khác gì đất sét. Người ta thương tiếc ông như rỏ nước mắt cho những phẩm chất đẹp đẽ cũng theo ông về bên kia, để lại bên này một thế giới chân không về giá trị.
    Ông là một trong hai nhà lãnh đạo Việt Nam tắm trong một hào quang quốc tế. Người kia đã khuất từ chính xác 44 năm trước. Trong cái bóng của ông, các chính khách đương thời của chúng ta trông không khác các vĩ nhân tỉnh lẻ. Gắn với tên ông, chế độ cộng sản ở đất nước này dường như dễ gây thiện cảm hơn, thậm chí lung linh hơn trong mắt thế giới. Hào quang ấy hẳn cũng đã giúp ông tránh được số phận của nhiều đồng chí và cộng sự thân thiết từng bị nuốt chửng trong chiếc hộp đen của quyền lực đỏ đến nay còn khép kín. Những ngày này, khi hào quang ấy cũng theo ông ra đi, người ta bám vào nó như vầng sáng cuối cùng hắt lại từ dĩ vãng.
    Theo ông ra đi là thiên tài quân sự mà huyền thoại đã từ lâu bịt kín mọi ngả nhận thức khác. Thiên tài cầm quân của ông đồng hóa thành thiên tài chống ngoại xâm của Đảng Cộng sản, điều sẽ trở thành biện minh số một cho độc quyền thống trị vĩnh cửu của tập đoàn chính trị mà ông suốt đời trung thành này. Thành tích của vị “Napoléon Đỏ” đã đứng cao hơn núi máu xương chiến trường. Những ngày này hoài niệm đạn bom lên tiếng để hiện thực lặng im, rằng đất nước của vị tướng vĩ đại đã thắng trong chiến tranh và thua trong hòa bình. Gần nửa cuộc đời sau của ông là bằng chứng lặng lẽ của hiện thực ấy.
    Theo ông ra đi là những hi vọng tìm một điểm tựa tầm cỡ khai quốc công thần cho một hành trình cứu quốc mới, đưa Việt Nam ra khỏi vòng tròn ma quái của nghèo hèn, lạc hậu, băng hoại, phụ thuộc, chuyên chế và hỗn loạn. Dù chỉ lên tiếng một số lần, có thể là quá thưa thớt và yếu ớt so với mong đợi, và không bao giờ chạm lằn ranh cho phép của thể chế, ông đã là một biểu tượng, một chỗ dựa tinh thần, một uy quyền đạo đức trong một khung cảnh thiếu vắng mọi điểm tựa. Dù chưa từng có một ảnh hưởng quyết định nào với nền chính trị Việt Nam và quá khiêm nhẫn để đột phá và cách tân, ông đã là một địa chỉ của hi vọng cải cách.
    Theo ông ra đi là thời đại đã thành cổ điển của những đại tự sự giải phóng dân tộc, chống thực dân, chống đế quốc, chống phong kiến, cách mạng vô sản và chủ nghĩa cộng sản như nấc thang tiến hóa cuối cùng của nhân loại. Một thời đại đầy xung đột, lầm than, bạo lực. Một thời đại đầy ấu trĩ, cuồng tín, u mê. Song cũng đầy những vẻ đẹp của niềm tin giản dị và hùng tráng bởi những nhân cách và tầm vóc phi thường. Thời đại ấy đã cáo chung ngay khi ông còn sống. Bây giờ ông có thể cùng thời đại của mình yên nghỉ. Một cuộc đời dài có thể vắt qua hai thế kỉ, song không một vĩ nhân nào trong lịch sử đóng được dấu ấn lên hai thời đại kề nhau.
    Kính cẩn vĩnh biệt ông. Vĩnh biệt một thời đại. Cầu cho thời đại hôm nay không còn cần đến những vị tướng và những chiến trường.

    Phạm Thị Hoài

    source :  pro&contra