26/10/13

Hà Sĩ Phu - Nhân vật lịch sử Phan Châu Trinh và những bài học cho hôm nay

Nhân vật lịch sử Phan Châu Trinh và những bài học cho hôm nay

         Phan Chu Trinh (1872-1926 )


Hà Sĩ Phu
Kính gửi BBT  Din đàn XHDS
Một trăm năm qua, Phan Châu Trinh đã chỉ ra con đường sáng, sao đến hôm nay ta vẫn loay hoay tìm đường vào nơi tối tăm? Xin gửi Diễn đàn một bài viết cũ nhưng đang rất thời sự, tưởng như cụ Phan đang nói với Quốc hội đang họp lần này, và với ông Tấn Dũng vừa ký cái “học viện Khổng Tử”.!
Kính thư
Hà Sĩ Phu
Mấy lời viết thêm (26-10-2013) gửi Quốc hội đang họp tại Hà Nội:
Đọc lại những lời Phan Châu Trinh trước đây một thế kỷ mà tưởng như lời một Blogger hay một Trí thức phản biện của ngày hôm nay. Cứ như thể cụ Phan đang nói với kỳ họp Quốc hội lần 6 khóa 13 này, nói về Hiến pháp sắp được thông qua, phản đối chủ trương độc đảng và “sở hữu toàn dân”, phản đối việc cho đạo Khổng nô dịch dân Việt, yêu cầu phải thực thi tam quyền phân lập và đa đảng đa nguyên…
  Đúng như nhận định của nhà văn hóa Nguyên Ngọc:Những vấn đề cơ bản nhất làm nền tảng cho độc lập tự chủ và phát triển dân tộc mà Phan Châu Trinh đã thống thiết nêu lên từ đầu thế kỷ XX… thì đến nay vẫn còn nguyên đấy”, “Đó là một nhiệm vụ, một món nợ mà lịch sử còn để lại cho chúng ta hôm nay”.
Đảng, Nhà nước và Quốc hội hôm nay chẳng những không giải quyết được những yêu cầu của dân tộc như cụ Phan đề xuất mà còn làm ngược lại và chống lại gần như trăm phần trăm!
Vậy: Nếu đã coi Phan Châu Trinh là nhà Ái quốc, nhà Văn hóa, nhà Cách mạng đầu tiên của Việt Nam (như đã viết trên báo Nhân dân_báo giấy)… thì những người, những chủ trương phản lại các yêu cầu căn bản ấy ắt phải coi là Phản quốc, Phản văn hóa, Phản cách mạng…! Lô-gích tự nhiên buộc ta phải kết luận như thế, làm sao khác được?
Một trăm năm trước cụ Phan đã nhìn ra con đường sáng, lẽ nào con cháu hôm nay vẫn quẩn quanh ở vạch xuất phát tìm đường, lại tìm đường… về nơi tối tăm?
 ————-
A. Con đường dẫn ta về với Phan Châu Trinh
Trong những nhân vật lịch sử của dân tộc ta hồi đầu thế kỷ 20, gắn liền với cuộc đấu tranh chống Pháp, có ba nhân vật đặc biệt mà tầm ảnh hưởng sâu rộng hơn cả là Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh và Nguyễn Tất Thành tức Hồ Chí Minh.
Nói về tinh thần đánh Pháp và đi đến thành công thì nổi bật nhất là Hồ Chí Minh, rồi đến Phan Bội Châu, rồi mới đến Phan Châu Trinh, vì hai vị trên chủ trương dùng bạo lực đánh Pháp ngay, còn Phan Châu Trinh lại bắt đầu bằng sự tiếp xúc ôn hoà với Pháp. Ấn tượng Phan Châu Trinh để lại trong đầu chúng tôi chỉ là hình ảnh một nhà nho nghĩa khí không sợ Côn Lôn (nhà tù của Pháp), một bức thư “thất điều” kể tội vua Khải Định, một cái án tử hình sau giảm thành lưu đày chung thân, vài hoạt động nhân quyền ở Pháp, một số văn thơ yêu nước, và đặc biệt là đám tang lịch sử khơi dậy một cao trào đấu tranh toàn quốc, thế thôi, chẳng mấy ai chú ý đến vấn đề tư tưởng. Phan Châu Trinh mặc dù vẫn được kính trọng song đối với chúng tôi quả thực chưa có gì thu hút lắm .
Nhưng từ khi biết vươn ra khỏi “tháp ngà” chuyên môn của mình để suy nghĩ và viết ra những ưu tư về tình hình đất nước, chúng tôi mới thực sự để tâm tìm đọc cụ Phan.
Điểm khởi thuỷ dẫn chúng tôi đến với Phan Châu Trinh là từ hai chữ “dân trí”. Nhất định trước hết phải khai thông dân trí, mà “tổ sư” đề cao dân trí là Phan Châu Trinh. “Khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh”, Cụ đưa dân trí lên hàng đầu trong chiến lược hành động!
Điểm thứ hai là phương pháp đấu tranh ôn hoà bất bạo động, hơn thế còn lợi dụng những yếu tố tiến bộ của chính nước Pháp là kẻ đang cai trị mình để dần dần thoát khỏi thân phận bị cai trị. Điểm này cũng đang lặp lại với hoàn cảnh Việt Nam hiện nay (chiến thuật “diễn biến hòa bình” với kẻ đang cưỡi trên cổ mình!). Đây chính là thủ pháp “hiệp khí đạo”, nhìn bề ngoài nó giống như sự mềm yếu xin xỏ vậy, điểm khác nhau là ở chỗ lợi dụng sự “cầu hoà” ấy để tranh thủ nâng cao dân trí, tự lập tự cường, nâng trình độ văn minh của dân mình lên. Nâng cao được dân trí là củng cố được hậu phương, gây lại được sức mạnh cho mình. Có nội lực cao cường rồi thì lật ngược thế cờ lúc nào chẳng được? Dân trí chưa cao thì dân chưa đủ năng lực làm chủ, có đem máu xương đổi lấy chính quyền ngay thì dân cũng không làm chủ được chính quyền ấy, và rút cuộc dân lại chuốc lấy một kẻ áp bức khác thôi.
Phan Châu Trinh hơn hẳn những người cùng thời ở suy nghĩ ấy. Chúng tôi khâm phục và coi cụ Phan như người Việt Nam đầu tiên tiếp cận phương pháp chuyển đổi xã hội bằng con đường văn minh nhất, mà ngày nay gọi là phương pháp “diễn biến hoà bình”.
Nhưng như thế chưa đủ. Điều quan trọng có tính xuyên suốt là phải có một tư tưởng, vì sự nghiệp lớn nào chẳng cần một triết lý để quán xuyến và làm nền cho dân trí.
Những chân lý phổ quát đã phổ biến trên thế giới là một chuyện, có Việt hoá được chân lý ấy để tạo ra sức mạnh lôi cuốn dân tộc, đủ sức chống lại những thiên hướng sai lầm hay không, thì không phải dễ. Đem những hạt giống tư tưởng ưu việt ở nơi khác gieo vào mảnh đất Việt Nam chắc gì đã mọc, hay mọc rồi cũng còi cọc lụi tàn? Đâu có thể sang Tây Trúc hay “Mỹ Trúc” gì đó để thỉnh kinh?
Thử điểm lại chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh: Chủ nghĩa Mác tuy là ngoại lai nhưng trước đây vào được Việt Nam vì nó bắt rễ rất nhanh vào lòng khát khao đổi đời của người bị trị cùng khổ, nay tình hình đã đảo ngược, nếu những người bị trị cùng khổ lại tiếp tục áp dụng nó thì lịch sử sẽ lặp lại một chu kỳ nữa chăng?
“Tư tưởng Hồ Chí Minh” xuất hiện mấy năm gần đây có ưu điểm là giống “local” nhưng khốn nỗi lại là cái không có thật, mới chế biến ra thôi, thực chất vẫn là hạt giống Quốc tế 3, là hạt giống hiện nay đã bị loài người gạt ra ngay tại mảnh đất quê hương của nó.
Không phải cứ chấp nhận có “Tư tưởng Hồ Chí Minh” mới là yêu quý cụ Hồ, có khi còn ngược lại. Làm người thì trong đầu ai cũng có tư tưởng (hiểu theo nghĩa đó thì cụ Hồ cũng có tư tưởng như 80 triệu người dân thôi), nhưng nói “Tư tưởng Hồ Chí Minh” là dùng đến một thuật ngữ, xác nhận cụ Hồ là một nhà tư tưởng. Chính cụ Hồ không nhận mình là nhà tư tưởng là rất đúng. Những điều cụ Hồ suy nghĩ thực ra không có gì vượt khỏi tư tưởng Mác-Lênin, mà chỉ nằm gọn trong tư tưởng ấy. Chưa có độc lập thì phải giành độc lập, rồi đi theo tư tưởng Mác-Lênin thì vẫn là tư tưởng Mác-Lênin thôi, không phải vì thế mà coi là sự “kết hợp” để thành một tư tưởng mới. Vận dụng thêm một số suy nghĩ có tính nông dân hay tính Khổng giáo thì chỉ là sự cộng hưởng để tô đậm thêm tính chất phong kiến cũng vốn có sẵn trong tư tưởng Mác-Lênin, như đã phân tích ở phần trên.
Thành công của cụ Hồ Chí Minh một phần lớn thuộc về phương pháp, đặc biệt là phương pháp vận động quần chúng. Cũng giống như cụ Phan, cụ Hồ cũng phải phê phán những nhược điểm của tính cách dân tộc và ngay từ đầu đã thấy tầm quan trọng của dân trí, và là người đầu tiên coi sự “dốt” là “giặc”.
Chỉ có tư tưởng của Quốc tế 2, tức tư tưởng dân chủ xã hội là kết hợp được mấy yêu cầu cơ bản, làm đòn bẩy để xây dựng và phát triển:
  • Đó là một nhánh của chủ nghĩa Mác nên không xa lạ với điều kiện Việt Nam.
  • Tuy xuất phát từ chủ nghĩa Mác nhưng đã loại trừ được hai độc tố là chuyên chính vô sản và kinh tế chỉ huy, nên rất tiến bộ.
  • Đã được nhiều nước kiểm nghiệm là rất thành công. Những nước theo tư tưởng ấy (các nước Bắc Âu, một số nước Trung Âu) hiện nay đạt nhiều chỉ số văn minh, nhân đạo vào loại cao nhất thế giới, đối lập hẳn với tấm gương tan vỡ của các nước theo Quốc tế 3.
  • Nhờ có quan hệ huyết thống với chủ nghĩa Mác nên hy vọng Đảng Cộng sản có thể chấp nhận, ít gây sốc nhất (mặc dù trước đây Đảng Cộng sản Việt Nam rất phê phán xu hướng gọi là “xét lại” này). Kinh tế thị trường và nhà nước pháp quyền là hai thứ trước đây bị Đảng Cộng sản coi là của tư sản nên ghét như kẻ thù, nhưng nay Đảng đã bảo hai thứ ấy là của chung nhân loại rồi (nên ta cứ dùng thoải mái, không có gì phải ngượng), thì nay có áp dụng tư tưởng dân chủ xã hội cũng là một cách “trở về với Mác” thôi mà(!), cũng là của mình cả, trước mình bỏ đi nay mình dùng lại chứ có phải của tư bản đâu mà tự ái? Đảng không phải tự ái, mà mỗi đảng viên cũng không phải lấy thế làm day dứt. Vẫn có thể dựng tượng Mác kia mà! Đối với chính trị thì điều này rất quan trọng (tuy có làm cho một số người nông nổi cực đoan thấy khó chịu).
  • Một ưu điểm nữa là mặc dù trước đây các vị Quốc tế 3 rất ghét tư tưởng “đệ nhị” nhưng chính các nước liên quan đến “đệ nhị” này lại luôn chân thành và hào phóng giúp đỡ Việt Nam, nay nếu ta cũng đi theo đường đó thì sự giúp đỡ của họ chắc còn lớn hơn nhiều. Khi ấy Trung Quốc và Hoa Kỳ khó lòng mà “bắt bí” được ta.
Về lý thuyết, những luận điểm của tư tưởng dân chủ xã hội tuy không có sự đột phá gì ghê gớm, nhưng rất thuận lẽ tự nhiên, điều chỉnh được một số nhược điểm của xã hội tư bản, điều chỉnh cả những sai lầm của lý thuyết cộng sản, tạo được những nhà nước phúc lợi (Etat-providence, welfare state), kinh tế và dân quyền cùng phát triển và không ngăn cản gì việc tiếp tục đổi mới về sau, nên có ý nghĩa thực tế vô cùng to lớn.
Tư tưởng dân chủ xã hội là một tư tưởng tiến bộ, nếu được tiếp nhận vào nước ta thì đó là cách hoá giải tốt nhất, đỡ mất sức nhất, trong hoàn cảnh một xã hội đang bị ngự trị bởi “người anh em sinh đôi” rất cực đoan là tư tưởng cộng sản.
Nghĩ được đến đấy, chúng tôi đã mừng. Nhưng rồi tiếp tục tìm hiểu về Phan Châu Trinh chúng tôi đã gặp những kết quả bất ngờ. Cụ Phan không chỉ là một nhà ái quốc, một người làm dậy sóng phong trào, người có một phương pháp cách mạng uyển chuyển, mà trước hết cụ là một nhà tư tưởng. Sàng lọc và kết hợp chính xác hai hai luồng tư tưởng Đông Tây, cụ đã trở thành một nhà dân chủ-nhân quyền, rồi từ dân chủ Phan Châu Trinh lại trở thành một nhà dân chủ xã hội , tán thành một kiểu xã hội “xã hội chủ nghĩa” nhưng phi Mác-xít.
Đó cũng là những đúc kết sơ bộ về tư tưởng Phan Châu Trinh trong ba tiểu luận nghiên cứu của tác giả Mai Thái Lĩnh đăng trên trang Web talawas, ngày 24.2.2007 [1] , 26.2.2007 [2] và 24.3.2007 [3] .
B. Sàng lọc và kết hợp văn hoá Đông Tây, Phan Châu Trinh trở thành nhà dân chủ-nhân quyền
Là một nhà nho cụ Phan hiểu biết sâu sắc về Nho giáo, Khổng giáo, nhưng đây cũng là lĩnh vực mà cụ Phan thể hiện tinh thần sàng lọc và phê phán mạnh mẽ nhất. Cụ phân loại, tách bạch đâu ra đấy. Cụ phân biệt đạo đức với luân lý. Những phẩm chất thuộc về cá nhân riêng biệt thì thuộc ĐẠO ĐỨC, như “Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín, Cần, Kiệm”, như “Sĩ khả sát, bất khả nhục”, như “phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất”. Đạo đức là những phẩm chất của mỗi con người riêng biệt, nó dạy làm người, muốn làm một con người thì phải như vậy nên đạo đức này rất ổn định, dù là Đông hay Tây, là kim hay cổ cũng tương tự nhau. Đạo đức như vậy đương nhiên là tốt.
Những phép ứng xử trong các mối quan hệ gia đình và xã hội thì thuộc về LUÂN LÝ, như trong các quan hệ “Quân thần, phụ tử, phu phụ, huynh đệ, bằng hữu”, quan hệ giữa dân với nước… Luân lý lại chia thành luân lý gia đình gọi là “tư đức” hay đức nhỏ, luân lý quốc gia và luân lý xã hội thì gọi là “công đức” hay đức lớn. Luân lý dạy con người trong những mối quan hệ, cho biết bổn phận, trách nhiệm giữa người trên kẻ dưới, giữa riêng và chung. Luân lý có thể khác nhau theo quốc gia và theo chế độ chính trị. Các chế độ thường uốn nắn luân lý sao cho có lợi cho vai trò chính trị của mình.
Sự tách bạch này rất quan trọng để có thể tiến hành sàng lọc.
Nếu cụ Phan còn sống thì chắc chắn cụ không thể chấp nhận khái niệm “Đạo đức xã hội chủ nghĩa”,vì cụ đã khẳng định:
Đạo đức đã như thế thì không có mới có cũ, có đông có tây nào nữa, nghĩa là nhất thiết đời nào, người nào cũng phải giữ đạo đức ấy mới là người trọn vẹn. Dầu nhà bác học xướng ra học thuyết nào khác nữa, dầu các chính thể khác nhau hoặc dân chủ, hoặc quân chủ, hoặc cộng sản nữa, cũng không tài nào vượt qua khỏi chân lý của đạo đức, nghĩa là đạo đức thì không bao giờ thay đổi được.” (Nguyễn Q. Thắng, tr. 478-479) [4]
Người ta có thể thay đổi luân lý mà không thay đổi được đạo đức…, thay đổi được thì là đạo đức giả.” (Nguyễn Q. Thắng, tr. 479)
Cũng vì muốn uốn đạo đức để phục vụ nhu cầu chính trị nên Nho giáo ở Trung Quốc đã bị biến dạng, thoái hoá từ sau đời nhà Tần, và chính cái Nho giáo thoái hoá ấy đã du nhập vào Việt Nam nên Nho giáo ở Việt Nam mang nhiều tính chất tiêu cực về chính trị. Các triều đại phong kiến hết sức đề cao giường mối “quân sư phụ” chẳng qua là để được thảnh thơi cưỡi cổ thiên hạ. Cụ nói: “Khi còn ở trong gia đình thì thở cái không khí chuyên chế của gia đình, khi đến trường học thì thở cái không khí chuyên chế trong trường học (tính người mình hay thích giao con cho một ông thầy dữ đòn) thì làm sao khi bước chân ra ngoài xã hội khỏi quen tính nô lệ, chịu lòn cúi người. Cái tính nô lệ của người mình ngày nay chính là mang từ lúc trong gia đình chuyên chế mà ra vậy.” (Nguyễn Q. Thắng, tr. 485-486).
Nhưng trong sự đề cao nam giới thì người cha và người chồng cũng là kẻ được kéo vào để ăn theo, cho có đồng đội thôi, chủ mưu là người đàn ông trên cùng là vua: “Chẳng những vua quan chuyên chế mà thôi, họ còn lại lập mưu kéo cả kẻ làm cha, kẻ làm chồng vào cái cạm bẫy độc ác ấy nữa để cho tiện việc chuyên chế của bọn họ.” (Nguyễn Q. Thắng, tr. 484).
Vua quan cần lợi dụng cái “luân lý xã hội” (tức cái công đức), để tăng uy quyền, nhưng khi luân lý xã hội đã thoái hoá thì nó chi phối cả “luân lý gia đình” (tức cái tư đức) nên cá nhân và gia đình cũng hư hỏng theo. Phát hiện của cụ Phan xem ra cũng rất đúng cho xã hội Việt Nam ngày nay. Phải yêu dân đến mức nào, phải quý đạo đức đến mức nào một nhà nho mới khám phá ra được những điều sâu xa chua chát ấy.
Sự sàng lọc của Phan Châu Trinh đối với Nho giáo là tôn trọng những đạo đức cá nhân nhưng phê phán kịch liệt sự trung thành mang tính nô lệ của chữ “trung” Nho giáo (gái trinh không thờ hai chồng, tôi trung không thờ hai vua). Cụ không bảo những điều Khổng Mạnh nói ra là không tốt, nhưng cụ vạch ra tính chất một chiều của giáo lý ấy. Cụ lật ngược tình huống để chất vấn: “Đức Khổng đã nói rằng: Vua phải thương dân, dân phải thương vua, song nếu vua không thương dân thì dân phải làm sao? Tiếc thay! Ngài không dạy đến. Ông Mạnh cũng nói rằng: Dân ‘quý’ mà vua ‘khinh’, nhưng ngày nay dân hỏi vua, vua bảo rằng vua ‘quý’ mà dân’khinh’ thì dân phải làm sao? Ông cũng không hề nói đến”. Cụ đã phát hiện đúng chỗ yếu nhất của thuyết Nhân trị.
Luân lý ấy cốt dạy điều “tôn quân” mà nhẹ điều “ái quốc”, tôn trọng bề trên quá thì không có dân chủ, dân không làm chủ thì tự mình không thể yêu nước theo ý chí của mình. Nhiều trường hợp anh dũng đánh giặc nhưng chắc gì đã là yêu nước mà chỉ là buộc phải theo vua. Yêu nước theo kiểu khác đi là bị cấm ngay. Cụ viết rằng: “Không phải là cái độc quyền chuyên chế từ xưa đã thâm căn cố đế trong người nước ta rồi đấy ư? Tiếng thương (yêu) nước đã có luật Gia Long cấm. Những kẻ học trò và dân gian không được nói đến việc nước, lo đến việc nước”. (Nguyễn Q. Thắng, tr. 489)
Thực ra thì bệnh “thâm căn cố đế” của mọi thể chế chuyên quyền là bắt dân chỉ được yêu nước theo cách của họ (nhưng nói toẹt ra như luật Gia Long thì thật quá kém về thuật mỵ dân). Rất đáng hoan nghênh lời phát biểu mới đây của cựu Thủ tướng Võ Văn Kiệt: “Có hàng trăm cách yêu nước khác nhau!”. Kể từ ngày có Đảng lãnh đạo đến nay, lần đầu tiên tôi được nghe thấy một đảng viên dám nói cái chân lý sơ đẳng ấy.
Thuyết Nhân trị hay Đức trị cứ nói đạo đức một chiều, không dám lật ngược tình huống để phản biện, nên khi gặp điều trái ngược thì không có giải pháp, bế tắc thì khùng lên, từ chỗ đạo đức dẫn đến chỗ phải chém giết nhau để giải quyết, và luân thường đảo lộn.
Vì thế Nhân trị sẽ dẫn đến bất nhân. Hiểu được nghịch lý này Phan Châu Trinh đã tìm đến nền dân chủ pháp trị. Chỉ trong sân chơi dân chủ mới có thể giải quyết mâu thuẫn bằng phương pháp hoà bình mà bây giờ ta gọi là “diễn biến hoà bình”.
Những người cộng sản Trung Quốc và Việt Nam, cũng sàng lọc đạo Khổng, nhưng sàng lọc ngược với Phan Châu Trinh, đề cao chữ Trung là chữ mà cụ Phan kịch liệt phê phán. Rất nhiều đảng viên cộng sản nói rằng vì có tư duy nho học nên tiếp cận chủ nghĩa Mác được dễ dàng, chẳng qua là do giống nhau ở tinh thần đức trị, giáo huấn từ trên xuống, coi nhẹ sự phản biện, “feed back” từ dưới lên. Chữ Trung ấy bao giờ cũng kèm theo ý niệm về tôn ti trật tự, người trên kẻ dưới rõ ràng, công dân loại một loại hai, và đây là đặc điểm giống nhau giữa cộng sản và phong kiến.
Khẩu hiệu “Trung với nước, hiếu với dân” là dẫn xuất từ giường mối “quân sư phụ”, nhưng trong điều kiện Đảng lãnh đạo “trực tiếp, toàn diện và tuyệt đối” thì thực chất trung với nước cũng là trung với Đảng thôi, nhưng những người kế thừa Chủ tịch Hồ Chí Minh còn muốn trực tiếp hơn cho chắc ăn nên đổi thẳng ra là “Trung với Đảng, hiếu với dân”. (Dù trung hay hiếu, dù Đảng hay dân thì cuối cùng vẫn thu về một mối là trung với Đảng thôi, kiểm nghiệm qua thực tế càng thấy đúng như vậy.)
Cũng sàng lọc, nhưng Phan Châu Trinh và Nguyễn Tất Thành là hai nhánh sàng lọc ngược nhau, một đằng đề cao quốc gia và bảo vệ quyền làm chủ của dân, một đằng sa vào thuyết tranh đấu giai cấp nên đề cao quyền lãnh đạo của Đảng. Ai gần với phong kiến hơn ai? Điều ngược đời là tính dân chủ, tính cách mạng, tính hiện đại lại ở phía người nhiều tuổi hơn. Hoá ra già không phải ở tuổi mà ở tư tưởng. Biết nghĩ cho chín để bắt đúng cái mạch của tương lai thì thành trẻ trung.
Nhà duy tân Phan Châu Trinh nổi tiếng ở sự du nhập tư tưởng dân chủ phương Tây, nhưng sao cụ lại dành nhiều công sức khảo cứu và bàn thảo về đặc điểm phương Đông cổ truyền của ta như vậy? Hãy nghe cụ giải thích: “Vẫn biết phép chắp cây của người Tây tài tình thật, nhưng nay đem một cây rất tươi tốt như cây luân lý ở các nước bên Âu Tây kia mà chắp với một cây đã cằn cộc như cây luân lý ở nước Việt Nam ta thì tưởng cũng không tài nào sinh hoa tươi, quả tốt được. Muốn cho sự kết quả về sau được tốt đẹp, tưởng trước khi chắp cây cũng nên bồi bổ cho hai bên sức lực bằng nhau đã. Tôi diễn thuyết hôm nay là cốt ý mong anh em nên cứu chữa lấy cây luân lý cũ của ta, rồi sẽ đem chắp nối với cây luân lý của Âu châu vậy”. (Nguyễn Q. Thắng, tr. 505-506)
Cái mầm khoẻ mạnh tươi tốt của châu Âu mà cụ chọn để ghép vào cái gốc Việt Nam ta chính là tư tưởng dân chủ và pháp quyền, hai điều tinh tuý mà ngót một thế kỷ sau, xã hội Việt Nam mới nhìn ra (mà nhãn quan của giới chính thống hôm nay xem ra vẫn chưa theo kịp cụ đâu).
Trước khi kết hợp văn hoá Đông và Tây, Phan Châu Trinh còn nhận xét: “Vua Âu châu ở xứ thượng võ, cho nên làm cái gì cũng hung hăng mà ngay thực, cho đến sự độc ác cũng vậy”. “Vua Á Đông thì họ không làm như thế. Họ lựa ở trong các lời nói của ông Khổng, ông Mạnh, hoặc ở trong các sách cổ những câu nói có nhiều nghĩa để họ dựa vào đó; họ lập ra pháp luật để bó buộc cai trị dân; cái ngôi vua thì gọi là con Trời, nhưng họ cũng cứ xưng họ là người, chẳng những họ không đứng ra ngoài cái hàng bà con của dân mà họ lại đứng vào cái hàng thân thiết của dân, như là ta nói ‘quân, sư, phụ’, lại thường nói ‘vua, cha, chồng’. Dù ở chốn hương thôn dốt nát không biết ông vua thế nào, nhưng mà họ thấy đứng vào hàng cha, thầy, chồng, thì họ cũng cho đứng vào đám thân thiết. Dân ngu thì (đối với vua_HSP) họ cứ kính, cứ yêu, chớ họ có biết đâu đến hồi giận của ông vua thì ông giết cả ba họ người ta.” (Nguyễn Q. Thắng, tr. 458)
Vậy sự độc đoán chuyên quyền ở châu Á vẫn có truyền thống thâm độc hơn, giỏi nguỵ trang nên khó trị hơn. Trong 4 nước cộng sản điển hình còn sót lại thì 3 nước là của châu Á đâu có phải ngẫu nhiên?
C. Từ dân chủ, Phan Châu Trinh trở thành nhà dân chủ sã hội, hướng về một chủ nghĩa xã hội phi Mác-xít
Điểm nổi bật trước tiên trong quan điểm chính trị của Phan Châu Trinh là tinh thần dân chủ, “đa số các nhà làm sử đã công nhận: Phan Châu Trinh là nhà dân chủ đầu tiên ở Việt Nam[5]
Dân chủ là quyền làm chủ của dân trong một nước, một quốc gia. Nhưng thế nào là một quốc gia, khi nào thì hình thành quốc gia? Theo Phan Châu Trinh, thoạt đầu trong chế độ quân chủ chưa có quan hệ giữa dân và nước, mà chỉ có vua và các thần dân của vua, vua thu hết mọi thứ vào trong tay của mình, xử sự mọi việc như trong nhà của mình, mình chết thì con mình lên thay.
Quan hệ ấy là “gia đình luân lý” và khi ấy chưa có quốc gia. Từ khi có tư tưởng Khai sáng, bác bỏ tính chất “đại gia đình”, bác bỏ quyền lực của vua là do trời định sẵn, vạch rõ quan hệ của vua với mọi người trong xã hội là bình đẳng, quyền lực của vua là do mọi người trong xã hội giao cho…, khi ấy khái niệm nước (quốc gia) mới hình thành, gia đình luân lý mới chuyển thành quốc gia luân lý. Và sau này từ quốc gia luân lý sẽ hình thành xã hội luân lý, từ chủ nghĩa quốc gia sẽ phát triển thành chủ nghĩa xã hội. Theo Phan Châu Trinh, khái niệm Chủ nghĩa xã hội (socialism) có căn nguyên như thế. Sự tiến triển ấy theo Phan Châu Trinh là “lẽ tiến hoá tự nhiên”.
Đối chiếu tiến trình “tiến hoá tự nhiên” ấy vào nước ta cụ Phan thấy trình độ Việt Nam thời ấy còn quá lạc hậu: “Bàn đến quốc gia luân lý thì tôi xin thưa rằng, nước ta tuyệt nhiên không có” (NQT, tr. 487). “… quốc gia luân lý của ta từ xưa đến nay chỉ ở trong vòng chật hẹp hai chữ vua và tôi. Không nói đến ‘dân và nước’ vì dân không được bàn đến việc nước!” (NQT, tr. 487). Chưa có một nhà nước dân chủ thì chưa thể nói đến quốc gia theo đúng nghĩa được (quan niệm dân chủ của Phan Châu Trinh thật là triệt để, quyết liệt).
Theo Phan Châu Trinh, chủ nghĩa quốc gia (nationalism) phải tiến sang chủ nghĩa xã hội (socialism)để giải quyết hai mâu thuẫn, mâu thuẫn giữa người với người trong mỗi quốc gia và mâu thuẫn giữa các quốc gia trên thế giới. Bên trong thì “giàu nghèo cách biệt thái quá, người ngồi không kẻ cắm đầu làm, thành ra kẻ lao động, người tư sản xung đột nhau mà trong nước không yên” (NQT, tr. 506). Trên thế giới thì “Mê tín quốc gia chủ nghĩa về đời trung cổ thái quá, yêu nước mình, ghét nước người, cho nên phải mang hoạ chiến tranh mãi mãi” (Nguyễn Q. Thắng, tr. 506).
Chủ nghĩa xã hội giải quyết quan hệ “người này với người kia, người có giúp người không, người mạnh giúp cho người yếu” (tức là làm giảm bớt sự cách biệt về tiền bạc và về quyền lực), ngoài ra còn giúp giải quyết quan hệ “loài người với loài người” tức quan hệ bình đẳng giữa các quốc gia.
Nghiên cứu quan điểm Phan Châu Trinh về xã hội chủ nghĩa so sánh với quan điểm Mác-xít, ông Mai Thái Lĩnh đã rất đúng khi kết luận: “Với quan niệm như trên, rõ ràng là cái nhìn của Phan Châu Trinh hoàn toàn khác với quan điểm Mác-xít. Theo nhà chí sĩ họ Phan, xã hội loài người tiến lên theo con đường ‘gia đình – quốc gia – xã hội’, trong khi đối với Marx thì “lịch sử tất cả các xã hội cho đến ngày nay chỉ là lịch sử đấu tranh giai cấp” (Mai Thái Lĩnh, bđd). Thực tế cho thấy không bao giờ có chuyệnVô sản toàn thế giới (vượt qua ranh giới các quốc gia) mà liên hiệp lại được.
Điều đáng khâm phục ở Phan Châu Trinh là khi phê phán nền quân chủ, phê phán nạn bất công, phê phán thói độc tài, phê phán những sai lầm, yếu kém của bạn bè, cụ là người thẳng thắn đến mức rất nặng lời, rất quyết liệt (như phê phán Phan Bội Châu, Nguyễn Tất Thành…), nhưng khi tìm đường giải thoát cho dân tộc cụ lại luôn nghĩ đến con đường trung dung, ôn hoà, hợp pháp.
Phải chọn con đường ôn hoà là bởi thương dân. Khi phê phán con đường bạo lực cách mạng của Phan Bội Châu, của Nguyễn Tất Thành, cụ giải thích: Lực mình yếu mà muốn dùng bạo lực tất phải nhờ vả người khác, thế thì “thảng như cái phương pháp của ông Phan (Phan Bội Châu) mà thành công, thì quốc dân đồng bào vẫn nguyên là cái lưng con ngựa, chỉ thay người cỡi mà thôi”. (Thư Phan Châu Trinh gửi Nguyễn Ái Quấc)
Vì thế mà phải tự lực, lúc đầu phải chọn con đường hoạt động hợp pháp, hợp pháp tối đa, thậm chí phải “khẩu thuyết vô bằng” để chính quyền không kiếm được cớ mà trị tội. (Chứ không phải chưa chi đã ngang nhiên tuyên bố thế này thế khác để giương oai!). “Chỉ vì tính cách và trình độ của ông (tức Phan Bội Châu) cùng với tánh cách và trình độ của quốc dân trong nước tương ứng với nhau, nên người trong nước mê theo mà không biết, vui theo mà quên chết. Do đó cuộc dân biến không khác nào ông Phan Bội Châu trực tiếp giết dân”. Cụ lên án thái độ cứ ở bên ngoài xúi giục người trong nước hy sinh để mình “đãi thời đột nội”. Cụ lên án sự bạo động của “chủ nghĩa báo thù” hay chỉ biết “đâm đầu vào lửa chết vô ích”.
Thời kỳ Phan Châu Trinh ở Pháp (1911-1925) là thời kỳ thế giới đầy biến động về các quan điểm cách mạng, trong đó có cách mạng vô sản Nga tháng Mười 1917, sự phân ly giữa Đảng Xã hội và Đảng Cộng sản Pháp ở Đại hội Tours tháng 12-1920.
Trong khi Nguyễn Tất Thành chọn con đường cộng sản của Quốc tế 3 thì Phan Châu Trinh rất gần gũi với Léon Blum, Jean Jaurès, Jules Roux, Marius Moutet… là những đảng viên Đảng Xã hội không chịu gia nhập Đảng Cộng sản mà vẫn tiếp tục con đường Jean Jaurès vạch ra.
Phan Châu Trinh không gần gũi với ‘cánh tả’ của Đảng Xã hội, tức là phái xã hội chủ nghĩa từ cuối năm 1920 đã rời bỏ Đảng Xã hội (SFIO) để thành lập Đảng Cộng sản, gia nhập Quốc tế III. Trước và sau Đại hội Tours (12/1920), đã có nhiều Việt kiều khuynh tả lôi kéo ông tham dự các cuộc họp của cánh tả Đảng Xã hội và sau này là Đảng Cộng sản. Nhưng có thể vì bản tính ôn hoà, hoặc vì quan niệm về ‘dân chủ, cộng hoà’ của ông đã bắt rễ khá sâu trong nhận thức, ông xa rời Đảng Cộng sản Pháp một cách tự nhiên; và những người cộng sản cũng “dị ứng” với ông một cách tự nhiên…” (Mai Thái Lĩnh, bđd.)
Trong một lá thư đề ngày 26.3.1922 Phan Châu Trinh viết: “Say mê chủ nghĩa xã hội, tôi đã luôn đấu tranh chống lại chế độ độc tài chuyên chế hiện nay đang có mặt ở Đông Dương, do các nhà chức trách Pháp cũng như do các quan lại bản xứ thực hiện” (Mai Thái Lĩnh, bđd.). Cũng đau lòng vì cảnh đất nước trong vòng nô lệ, cũng một môi trường trưởng thành là Paris nước Pháp, lại cũng yêu lý tưởng xã hội đến say mê, vậy mà khác với Nguyễn Tất Thành, Phan Châu Trinh không sa vào chủ nghĩa chuyên chính. Trước sau trong tâm hồn nhà nho cách mạng vẫn thắp sáng một ngọn đèn dân chủ.
Chính ngọn đèn ấy đã dẫn cụ đến tư tưởng đa đảng đa nguyên từ những ngày đầu thế kỷ. Hồi ấy ở Paris cũng có một du học sinh tên là Đông gửi thư cho Phan Châu Trinh bày tỏ lo ngại “đa đảng đa nguyên thì loạn” (như quan điểm của ĐCSVN hôm nay), cụ đã trả lời: “Còn anh lo trong nước sinh ra nhiều đảng phái mà hại, ấy là anh hiểu lầm; trong nước nhiều đảng thì cãi cọ nhau nhiều, cãi cọ nhiều thì thì sự lợi hại mới biết, dân mới có thể lựa đảng nào phải mà theo; anh xem các nước văn minh, nước nào mà không có bè đảng, chỉ có nước dã man, thì chỉ có một lệnh vua mà thôi” (Mai Thái Lĩnh, bđd.). Cụ chủ trương xã hội pháp trị (dân trị) và vạch rõ những tệ hại, tuỳ tiện, may rủi của chủ nghĩa nhân trị (đức trị, quân trị) mà hôm nay không ít người vẫn còn say mê. Phan Châu Trinh chủ trương tam quyền phân lập. “Đảng tiền phong” ngày nay đã đi chậm sau ông già nhà nho ấy ngót một thế kỷ, mà bây giờ cũng đã chịu nghe đâu?.
Phan Châu Trinh là một người dân chủ xã hội. Nhưng “mặc dù gần gũi với những người thuộc Đảng Xã hội, tư tưởng của Phan Châu Trinh vẫn không hoàn toàn giống họ. Trong khi những người xã hội chủ nghĩa ở Pháp vẫn còn bị ràng buộc ít nhiều với chủ nghĩa Marx thì quan niệm về chủ nghĩa xã hội của Phan Châu Trinh lại không có dính dáng chút gì với chủ nghĩa Marx. Không có đấu tranh giai cấp, không có sự lên án đối với chế độ tư hữu, và do đó cũng không có chủ trương quốc hữu hoá.” (Mai Thái Lĩnh, bđđ.)
Vấn đề là tại sao Phan Châu Trinh không đả kích chế độ tư hữu, không lên án kịch liệt giai cấp tư sản như những người mác-xít hay những người cộng sản? Ngoài bản tính ôn hoà mà ông đã có ngay từ thời bắt đầu hoạt động chính trị, chúng ta cần chú ý đến chủ trương của ông về kinh tế. Ngay từ khi phát động Phong trào Duy Tân, Phan Châu Trinh đã đề ra khẩu hiệu ‘khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh’, kêu gọi mọi người lập ‘hội nông’, ‘hội buôn’, ‘hội nuôi tằm’, v.v. nói chung là khuyến khích dân làm giàu. Như vậy, nếu ông không lên án chế độ tư hữu, không đặt quốc hữu hoá thành mục tiêu hàng đầu thì cũng là điều dễ hiểu. Có thể do Phan Châu Trinh không coi chế độ tư hữu là nguồn gốc của mọi bất công xã hội. Hoặc ông cho rằng nước Việt Nam còn quá nghèo, đất nước muốn phát triển còn cần nhiều đến những nhà tư sản yêu nước. Do đó, ông không đả kích người giàu, mà chỉ đề ra yêu cầu ‘người giàu giúp đỡ người nghèo’. Nói một cách chính xác, quan niệm của ông nghiêng về ‘công bằng’ (justice) hơn là ‘bình đẳng’ (égalité)”. (Mai Thái Lĩnh, bđd.)
Phan Châu Trinh thuộc những nhà dân chủ xã hội tiên phong, một chủ nghĩa dân chủ xã hội mang dấu ấn Việt Nam, sinh ra từ điều kiện Việt Nam. Cái chủ nghĩa xã hội nhân đạo mà ta đang định hướng về Bắc Âu để kiếm tìm thì nay chẳng những không phải tìm đâu xa, mà còn sẵn có một phương sách thích hợp hơn với dân với nước ta nữa.
D. Từ Phan Châu Trinh, nghĩ về một vài bài học cho hôm nay
a. Vai trò tiên phong của tư tưởng Phan Châu Trinh
Trong cuốn sách nghiên cứu về Phan Châu Trinh, TS Thu Trang Công Thị Nghĩa viết: “đa số các nhà làm sử đã công nhận: Phan Châu Trinh là một nhà dân chủ đầu tiên ở Việt Nam” (Thu Trang, sđd).
Tinh thần dân chủ Phan Châu Trinh được bộc lộ một cách toàn diện: Điều hành xã hội bằng luật pháp chứ không bằng ý thức hệ, phải “tam quyền phân lập” và đa đảng đa nguyên (bên cạnh một đảng cánh tả rất cần có một đảng cánh hữu), chú trọng tự do tư tưởng, tự do ứng cử bầu cử, tự do lập hội. Phan Châu Trinh luôn coi sự phản biện trong mọi lĩnh vực là tối cần thiết, ngay khi diễn thuyết cũng phải theo nguyên tắc “nghịch luận” (tạo những ý kiến trái ngược để cùng bàn luận). Phan Châu Trinh luôn coi trọng sự khác biệt, đồng thời coi trọng sự hợp tác tương hỗ. Về hoạt động thực tiễn Phan Châu Trinh là chiến sĩ dân chủ-nhân quyền đầu tiênchiến sĩ “diễn biến hoà bình” đầu tiên của Việt Nam.
Tiến bộ đặc biệt của Phan Châu Trinh là sớm biết phê phán bản chất lạc hậu của Nhân trị (hay Đức trị), nó cản trở pháp luật, cản trở nền dân chủ pháp trị: “Nhân trị nghĩa là cai trị một cách rộng rãi hay là nghiêm khắc chỉ tuỳ theo lòng vui, buồn, thương, ghét của một ông vua mà thôi, pháp luật tuy có cũng như không.” Đừng quên rằng sau bao năm cầm quyền mà thủ tướng Phạm Văn Đồng vẫn chưa có ý thức rõ ràng về xây dựng nền luật pháp (e pháp luật sẽ “trói tay” Đảng làm Đảng khó lãnh đạo), và ngay đến thế kỷ 21 này ĐCSVN vẫn chưa dám thực hiện “tam quyền phân lập”, và không ít cán bộ cũng như trí thức vẫn còn lưu luyến Nhân trị thì mới biết cụ Phan đã đi trước dân tộc một đoạn dài lắm.
Tiếp tục đi xa hơn, Phan Châu Trinh đã trở thành nhà xã hội dân chủ đầu tiên, người đầu tiên chủ trương “định hướng” xã hội chủ nghĩa, nhưng là xã hội chủ nghĩa phi Mác-xít, mà thực chất rất gần gũi với nền chính trị của nhiều quốc gia tiên tiến nhất của thế kỷ 21 này.
Vậy nếu tôn vinh Phan Châu Trinh là nhà tư tưởng lớn của dân tộc này thì có xứng đáng không?
Học giả Hoàng Xuân Hãn nói: “Những tư tưởng của Phan Châu Trinh về cơ bản vẫn còn giá trị lớn đối với xã hội ta ngày nay”. Bởi vì, như ý kiến của nhà văn Nguyên Ngọc: “Những vấn đề cơ bản nhất làm nền tảng cho độc lập tự chủ và phát triển dân tộc mà Phan Châu Trinh đã thống thiết nêu lên từ đầu thế kỷ XX, trong đó trung tâm là vấn đề dân trí… thì đến nay vẫn còn nguyên đấy”, “Đó là một nhiệm vụ, một món nợ mà lịch sử còn để lại cho chúng ta hôm nay: nhiệm vụ xây dựng một xã hội dân chủ trên cơ sở một dân trí được nâng cao”. [6]
Nhà sử học Daniel Héméry, một người nghiên cứu khá sâu về Việt Nam, (và khá sâu về Chủ tịch Hồ Chí Minh) đã viết: “Khuôn mặt vĩ đại của Phan Châu Trinh theo tôi là khuôn mặt đáng chú ý nhất trong lịch sử văn hoá và chính trị Việt Nam ở thế kỷ XX, bởi chính ông đã xác định một cách rành mạch, sáng rõ nhất những nan đề (les problématiques) đặt ra lâu dài mà các thế hệ người Việt Nam sẽ phải – và mãi mãi còn phải – đảm nhận”. [7]
b. Phan Châu Trinh biết chắt lọc và kết hợp một cách sáng tạo những tri thức của thế giới. Với cái vốn Hán học, Phan Châu Trinh ngoài việc tiếp thu những tư tưởng của Lương Khải Siêu, Khanh Hữu Vi, Tôn Dật Tiên… còn đọc các bản dịch chữ Hán các cuốn De l’esprit des lois của Montesquieu, Contrat social của J. J. Rousseau. Đọc như thế chưa phải là nhiều, nhưng cụ rút ngay ra được nhiều điều tinh tuý là bởi cách đọc thông minh. Huỳnh Thúc Kháng viết về Phan Châu Trinh: “Tiên sinh (…) đọc sách có con mắt riêng, làm văn tạo xuất cách mới, không làm những lối tìm câu lặt chữ, vẽ bóng pha mầu (…). Bất kỳ đề mục gì vào đến tay tiên sinh thì sao cũng mở ra một lối mới để tỏ ý bi ca khảng khái của mình”. [8]
Với lối đọc sách như thế, kết hợp với thực tiễn tổ chức và tham gia tranh đấu và tù đày trong nước, kết hợp với sự quan sát học hỏi trong môi trường chính trị ở Pháp, dưới sức thôi thúc của tinh thần ái quốc tự thân, (không bị bất cứ trào lưu nào làm cho mất tính chủ động) và ở vào độ chín sung mãn nhất của đời người (từ 35 đến 55 tuổi) Phan Châu Trinh đã kịp kết tinh và thăng hoa.
Từ tấm gương ấy, mỗi chúng ta đều có thể rút lấy một phần kinh nghiệm. Thời nay bao nhiêu người được đọc nhiều sách, nhưng ngập trong rừng sách mà làm nô lệ cho sách, bao nhiêu người từng dấn thân sâu vào cuộc tranh đấu nhưng vì thế mà mất hết tính chủ động, có thể nhìn vào tấm gương Phan Châu Trinh mà tự gỡ cho mình.
c. Phan Châu Trinh là người biết kết hợp nhận thức-tư tưởng với hoạt động thực tiễn. Trước hết Cụ là người của hành động, chủ trương “thực học”. Mục đích của cụ là “ Chống lại chế độ độc tài chuyên chế hiện nay đang có mặt ở Đông Dương, do các nhà chức trách Pháp cũng như do quan lại bản xứ thực hiện”. Cụ không bao giờ là người lý thuyết suông (có thể nói: Lý thuyết cụ vốn không ham!). Nhưng cụ biết vai trò rất căn bản của tư tưởng nên phải “sục” vào kho tàng tư tưởng để xác định nền móng và tìm phương hướng, cuối cùng (như “vô tình”) thành nhà tư tưởng với một nội dung rất sắc sảo và phong phú. Vì cần giải phóng dân tộc mà một nhà nho tự biến mình thành một nhà “Tây học” (mà không hề lai căng), vỡ lòng học lấy những điều mới lạ, không chút tự ái bảo thủ.
Ngày nay, một số người Tây học hoạt động dân chủ lại chỉ đề cao hành động (thực ra mới chỉ là hành động bề nổi, chưa đáng gọi là hoạt động chính trị) mà coi khinh nền tảng tư tưởng.
Một bạn trẻ tâm sự với tôi đầy tự tin: “Đã biết chân lý là dân chủ đa nguyên thì ta cứ xốc thẳng tới đó mà tiến, chẳng phải rắc rối quanh co gì hết! Còn cả thế giới bên ngoài, sợ gì!”
Ta đã từng chê cười chủ trương trước đây “dựa vào sức mạnh vô địch của phe ta, để tiến nhanh tiến mạnh tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội”, nhưng hiện nay xốc nổi như thế thì khác nào “dựa hẳn vào sức mạnh Hoa Kỳ để tiến nhanh tiến mạnh tiến vững chắc lên dân chủ đa đảng đa nguyên”? (Có người còn dự đoán năm 2007, năm 2008… dân chủ sẽ toàn thắng!) Vẫn giống nhau cái tâm lý thực dụng, ăn xổi, võ biền thì rất khó rút kinh nghiệm. Ai phê bình là tự ái ngay.
Có người lại hỏi: “Thế bên Tiệp, cũng xã hội chủ nghĩa, sao người ta làm Cách mạng Nhung, xoạch một cái là xong? Chờ xây dựng dân trí thì đến mùng thất!”. Xin thưa, cái nền dân trí của Tiệp đã cao hơn mình hẳn một tầm, nhưng dân trí là cái vô hình, nó ngấm sâu vào tâm lý, vào nhiều mặt sinh hoạt khác nên ta không để ý. Dân trí lại phụ thuộc nhiều vào giới trí thức tinh hoa. Dân trí chỉ xuất lộ trước những biến cố, nên ngồi nói chuyện với một người dân Tiệp có thể thấy họ cũng chẳng hơn gì mình, nhưng đừng vì thế mà nghĩ rằng dân trí hai nước như nhau. Châu Âu đã từng trả bao nhiêu xương máu (từ thế kỷ 18-19) để có ý thức dân chủ ngày nay, để bây giờ có cái Nghị quyết 1481. Nước mình đổ xương máu cũng nhiều, nhưng chỉ để trả cái nợ độc lập cho dân tộc còn chưa xong, cuộc tranh đấu cho dân chủ mới chỉ bắt đầu.
d. Vững tin vào con đường dân chủ-xã hội (Social Democracy)
Mấy năm gần đây, tuy chưa khai thác được “kho báu” tư tưởng Phan Châu Trinh, nhiều trí thức Việt Nam trong và ngoài nước tự mình cũng đã lưu tâm đến con đường dân chủ xã hội (cũng gọi là xã hội dân chủ) và tìm thấy ở đó sinh lộ cho tình hình Việt Nam.
Bài “5 nhà trí thức phát biểu về “Con đường xã hội – dân chủ” ở nước ta” của Lê Bảo Sơn-Phan Trọng Hùng (talawas 2.9.2005) [9] đã giới thiệu tóm tắt ý kiến của Phan Đình Diệu, Lữ Phương, Lê Đăng Doanh, Nguyễn Xuân Nghĩa, Hà Sĩ Phu về con đường XHDC ở nước ta.
Sau đó là tác phẩm Huyền thoại về một nhà nước tự tiêu vong và bài “Dân chủ – Xã hội là gì?” của Mai Thái Lĩnh, bài “Xưa nhích chân đi, giờ nhích lại” của Hà Sĩ Phu… và rất nhiều bài viết khác của các tác giả trong và ngoài nước (tôi xin lỗi, vì không có văn bản chính thức trong tay nên không kể được ra đây) từ những cách tiếp cận khác nhau đều gặp nhau ở niềm hy vọng vào con đường dân chủ xã hội (cũng gọi là xã hội dân chủ), bạn bè khắp nơi giới thiệu những thành tựu đỉnh cao của Thuỵ Điển, Na Uy.
Đến khi phát hiện con đường dân chủ xã hội trong kho tàng tư tưởng Phan Châu Trinh thì chúng tôi mừng lắm, khâm phục viễn kiến của Phan Châu Trinh vô cùng, như đã giới thiệu trong các phần trên.
Một thắng lợi bất ngờ là lại đến. Tác giả Trung Quốc Tạ Thao giới thiệu công trình nghiên cứu của một đảng viên cộng sản Trung Quốc, ông Tân Tử Lăng.
Tác giả khẳng định sự thắng lợi của chủ nghĩa xã hội dân chủ, tức Quốc tế Hai, là tất yếu, thất bại của “chủ nghĩa xã hội bạo lực” của Lênin là tất yếu. Vì chính cuối đời Marx và Engels đã thấy sai lầm và sửa đổi theo tinh thần xã hội dân chủ (?), chỉ có Lênin lúc ấy còn chống lại. 
Xin trích vài dòng trong bài viết của Tạ Thao:
  • Quyển 3 Tư bản luận đã lật đổ kết luận của quyển 1 Tư bản luận”, ”chủ nghĩa cộng sản Marx đề xướng lúc trẻ nhưng vứt bỏ lúc cuối đời” (?);
  • “Breznev nói với em trai: Chủ nghĩa cộng sản cái gì, đều chỉ là những lời nói trống rỗng nhằm dỗ dành dân chúng”;
  • “Cái viết trên ngọn cờ chủ nghĩa Mác đương đại là chủ nghĩa xã hội dân chủ, kiên trì chủ nghĩa Mác là kiên trì chủ nghĩa xã hội dân chủ”, “Khi chủ nghĩa xã hội bạo lực đi đến sơn cùng thuỷ tận, thì chủ nghĩa xã hội ở Tây Âu và Bắc Âu lại giành được thành công cực lớn”;
  • Thuỵ Điển là tấm gương của chủ nghĩa xã hội dân chủ, kinh nghiệm của Thuỵ Điển có giá trị phổ cập thế giới, là cống hiến vĩ đại cho văn minh nhân loại”;
  • “Chỉ có chủ nghĩa xã hội dân chủ mới có thể cứu Trung Quốc”;
  • Năm 2004, Hồ Cẩm Đào nói chuyện tại Quốc hội Pháp, đã trịnh trọng nói rõ với thế giới: “Phát triển chính trị dân chủ xã hội chủ nghĩa là mục tiêu phấn đấu trước sau không thay đổi của chúng tôi”, “hàng loạt chính sách mới đó thuộc về chủ nghĩa xã hội dân chủ, nhưng để tránh nỗi nghi ngờ “chủ nghĩa xét lại” chúng ta đã gọi nó là con đường xã hội chủ nghĩa có sắc thái Trung Quốc”… [10]
Đây là lời những đảng viên cao cấp của Đảng Cộng sản Trung Quốc, những người “một lòng canh cánh cứu Đảng”, dũng cảm gấp trăm lần những đảng viên cộng sản Việt Nam, và đi trước Đảng Cộng sản Việt Nam nhiều lần, nhưng thưa rằng so với Phan Châu Trinh thì họ chỉ là những người nói sau ngót một thế kỷ!
e. Phan Châu Trinh, lý tình trọn vẹn
Phan Châu Trinh sống giữa một giai đoạn đầy biến động của một dân tộc đang tìm đường cứu nước, nên tính mâu thuẫn giữa các xu hướng là điều nổi bật.
Nhưng phê phán nhau kịch liệt (về phương pháp) mà vẫn không quên ca ngợi sở trường của bạn, bảo vệ quan điểm của mình mà vẫn dũng cảm nhận ra sở đoản của mình, mà vẫn khuyên nhủ thuyết phục nhau, vẫn ủng hộ nhau, mà vẫn vui sướng khi xu hướng khác mình giành được thắng lợi như các vị ấy thì thật hiếm có.
Trong những cuộc bàn thảo vừa xung đột vừa cảm động ấy (đặc biệt là giữa Phan Châu Trinh với Phan Bội Châu và Nguyễn Tất Thành) Phan Châu Trinh luôn là người chủ động nhất và cũng là người có nhiều trăn trở dằn vặt nhất. Sở dĩ như vậy là vì Phan Châu Trinh luôn là người trung dung, dân chủ, ôn hoà, mà người như thế thường là chiếc cầu ở giữa nối các phía cực đoan gần lại với nhau.
Nhưng từ khi Phan Châu Trinh mất đi, phe ôn hoà không còn, chỉ còn toàn những phe chủ trương bạo lực thì tình hữu ái tương đối ấy không còn nữa, tuy cùng muốn cứu nước mà lại tìm cách vu cáo nhau, thôn tính nhau, tranh công của nhau đến một mất một còn. Bài học ấy đáng để những người đương thời suy ngẫm.
f. Tại sao tư tưởng Phan Châu Trinh bị chìm lắng?
Đã 81 năm kỷ niệm ngày mất của chí sĩ họ Phan (24.3.1926), hôm nay đã có đủ độ lùi để nhìn lại một giai đoạn lịch sử dân tộc. Tất nhiên lịch sử là cái đã qua, nhưng với niềm luyến tiếc ta cứ thử nghĩ về một chữ “nếu”.
Nếu đoàn tàu Việt Nam thuở ấy rẽ vào đường ray Phan Châu Trinh, nhằm hướng xã hội dân chủ như Na Uy, Thuỵ Điển bây giờ thì sao nhỉ?
Nếu nương vào Pháp để đi lên thành công, không thành cộng sản, thì giản ước được bao nhiêu thứ:
  • không có cuộc đánh Pháp 9 năm
  • không có cuộc “Nam Bắc phân tranh lần thứ 2” dẫn đến cuộc đánh Mỹ
  • không phải tham chiến ở Căm-pu-chia
  • không tranh giành gì để phải đánh Tàu năm 1979 (và đứng trước nguy cơ Bắc thuộc mới)
  • không có lý do gì phải tiến hành cuộc “đổi mới hay là chết”
  • không có lý do gì để xuất hiện làn sóng đòi dân chủ-nhân quyền, dẫn đến hài kịch bịt miệng bị cáo trước toà cho thiên hạ xem, vân vân…
Nghĩa là tiết kiệm được bao nhiêu thời gian, bao nhiêu gương anh hùng, bao nhiêu nạn nhân, bao nhiêu máu xương, bao nhiêu hận thù…, và tăng thêm được bao nhiêu là hạnh phúc. Lịch sử không thể quay lại để kiểm chứng, nhưng ai cũng có quyền giả thiết để suy ngẫm, để rút kinh nghiệm cho hiện tại và tương lai.
Nhưng tổ tiên mình thuở trước chắc vụng đường tu nên Trời đã sai lão Thiên lôi ra “bẻ ghi” để con tàu Việt Nam không thể đi vào đường ray Phan Châu Trinh, mà ngoặt sang đường ray Quốc tế số 3, có chữ “tiên tiến nhất trong xã hội loài người”, và thế là hôm nay ta đang ngồi đây giữa sân ga hiện thực này, tụt hậu so với xung quanh gần nữa thế kỷ, với bao vết thương trên thịt da và trong phủ tạng.
Sau khi đã công nhận những điều ưu điểm tuyệt vời trong tư tưởng Phan Châu Trinh, ta thường an ủi cho sự đi trệch đường ray đó bằng cách giải thích:
Lịch sử, do những éo le của nó, đã không đi được theo con đường Phan Châu Trinh sáng suốt lựa chọn gần 100 năm trước” (Nguyên Ngọc, bđd.). Có lẽ hầu hết chúng ta đều làm dịu vết thương của mình như thế.
Nhưng cái gì là “sự éo le” của lịch sử? Ta bảo đó là “kẻ thù đã buộc chúng ta…”.
Cũng có thể kể ra một loạt sử liệu làm “bằng chứng cấu thành tội phạm” để kết án kẻ thù đã làm chúng ta “lỡ tàu”, để tự an ủi bằng chữ “bất khả kháng”. Nhưng mọi kẻ thù xưa nay, dù ở mức độ này hay mức độ khác, bản chất chúng bao giờ cũng thế thôi, bao giờ kẻ thù chẳng buộc chúng ta chọn con đường bất lợi. Quy tội cho chúng một nghìn lần cũng vô ích.
Vấn đề là ở mình. Nhìn số phận của mình mà lại thấy nguyên nhân nằm ở ngoài mình thì có nghĩa là mình bó tay. Cứ chịu bó tay, cứ chịu thua kém thiên hạ thì kẻ thù lại đến, và mình lại phải gồng lên để lại tiếp tục “anh hùng”! (Năm 1975, sau “đại thắng”, ta tuyên bố từ nay trở đi không kẻ thù nào dám xâm phạm bờ cõi ta nữa, thì chỉ 4 năm sau, một kẻ thù khác lại xâm phạm bờ cõi ngay chứ họ sợ gì đâu? Rồi đây, cái “biên giới mềm” lại càng khó bảo vệ hơn nữa). Phan Châu Trinh là người Việt Nam đầu tiên nhận ra nguyên nhân gốc rễ của cái chuỗi khổ ải lặp đi lặp lại bất tận ấy, là thua kém thiên hạ một tầm văn minh, và có giải pháp cơ bản để thoát ra và chấm dứt nó.
Nhưng bất hạnh thay, lịch sử đã không “chọn” Phan Châu Trinh.
Không, đừng nói lịch sử, phải nói: dân tộc này đã không “chọn” Phan Châu Trinh. Đổ cho lịch sử khách quan là vô trách nhiệm với chính mình.  
Mặc dù đã cố gắng hết mình, lo cho số phận dân tộc, Phan Châu Trinh vẫn không thoát khỏi số phận cô đơn. Nếu Phan Châu Trinh cũng hô “Trí phú địa hào, đào tận gốc trốc tận rễ”, cũng “thề phanh thây uống máu quân thù” (lời cũ bài Quốc ca) thì chắc “lịch sử” đã chọn cụ rồi. Chọn cái gì, không chọn cái gì là do tâm lý dân tộc, sở thích của dân tộc, nhận thức của dân tộc, và chúng ta lại trở về với hai phần đầu của bài viết này (về mấy nhược điểm chính trong tính cách của dân tộc ta).
Thay vì “phanh thây” quân thù ta cần “nội soi” và mổ xẻ chính cơ thể mình với bàn tay tinh tế của y thuật.
Phan Châu Trinh lo cho dân trí của dân tộc này, nhưng chưa kịp làm cho dân trí trưởng thành thì dân trí đã gạt cụ ra bên lề lịch sử (mặc dù vẫn kính trọng cụ nhưng kính nhi viễn chi thôi, chỉ “cung kính” chứ không “tòng mệnh”, không đi theo đường).
Nhưng điều oái oăm là trong khi những người muốn đổi mới số phận dân tộc còn đang lúng túng trước dân trí thì phía cai trị bao giờ cũng hiểu dân trí rất rõ và tận dụng rất tài những nhược điểm của dân trí .
*
Mở đầu bài viết tôi chỉ muốn kính gửi đến các ông Võ Văn Kiệt, Bùi Tín, Lê Hồng Hà (và đến tất cả mọi người) mấy ý kiến nhỏ mà các ông đề cập về tình hình thời sự-chính trị, mà rồi lan man phải nhắc đến cụ Phan Châu Trinh 100 năm về trước, có lẽ một phần vì những điều các ông phát biểu (nhất là bài của ông Lê Hồng Hà) đều phảng phất có hình bóng Phan Châu Trinh trong đó, gợi ra cái nhu cầu phải ôn lại nhân vật lịch sử kiệt xuất này, làm chút ánh sáng giúp ta tránh một số điều mù quáng hiện nay. Nhưng đây là lĩnh vực tôi ít hiểu biết nhất. May mà có những người đi trước đã khảo cứu khá sâu về Phan Châu Trinh như các vị Nguyễn Q. Thắng, Nguyễn Văn Dương, Nguyên Ngọc, TS Thu Trang, Mai Thái Lĩnh…, lại thêm ở quê nhà Quảng Nam của cụ Phan cũng đã có nhiều hoạt động để nối tiếp con đường của cụ. Tôi xin cảm ơn các vị ấy.
Để kết luận, tôi thấy không gì bằng dùng lời kết của TS Thu Trang khi viết về Phan Châu Trinh: “ CHỚ ĐEM THÀNH BẠI LUẬN ANH HÙNG!”.
Bà nhắc lại lời của triết gia Nietzsche: “Có vô vàn sự việc mà nhân loại đã thu đạt được trong bao thời kỳ trước, nhưng với một vẻ rất nhỏ, rất yếu tựa như còn trong trứng, nên người ta không trông thấy được sự thành hình. Nhưng với thời gian, có khi cần đến hàng thế kỷ, những sự việc ấy mới nổi bật lên trong ánh sáng” (Thu Trang, sđd)
Sinh thời, bao giờ Phan Châu Trinh cũng rất yêu mến bạn bè và dân chúng, thế mà rất nhiều lần cụ phải nhắc đến chữ “ngu”, như nhắc đến một kẻ thù nguy hiểm, không thể coi thường. Chính cụ cũng lấy chữ ngu ra để tự răn mình.
Vâng, cái ngu dốt thật đáng sợ, nhưng đáng sợ nhất là ngu dốt mà được hoan hô và nhất thời thắng lợi, vì như thế nó phá huỷ mất khả năng nhận thức ra chân lý.
Đà Lạt, viết xong ngày 24.5.2007

[1]Mai Thái Lĩnh, “Tìm hiểu quan niệm chính trị của Phan Châu Trinh – Về những nguyên tắc căn bản của chế độ dân chủ (Phần 1)”, talawas 24.2.2007
http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=9307&rb=0306
[2]Mai Thái Lĩnh, “Tìm hiểu quan niệm chính trị của Phan Châu Trinh – Về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội (Phần 2)”, talawas 26.2.2007
http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=9321&rb=0306
[3]Mai Thái Lĩnh, “Tìm hiểu quan niệm chính trị của Phan Châu Trinh – Về nền tảng đạo đức Nho giáo (Phần 3), talawas 24.3.2007
http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=9553&rb=0306
[4]Nguyễn Q. Thắng, Phan Châu Trinh – Cuộc đời và tác phẩm, Nxb Văn học, 2006 (tái bản lần thứ tư, có bổ sung)
[5]TS Thu Trang, Những hoạt động của Phan Châu Trinh tại Pháp 1911-1925, Nxb Văn Nghệ TPHCM, 2000
[6]Nguyên Ngọc, “Nhà cải cách giáo dục lớn đầu thế kỷ XX”, tạp chí Tia sáng, Bộ Khoa học và Công nghệ, tháng 10.2002, Hà Nội
[7]Daniel Héméry, tríchI theo Nguyên Ngọc, tạp chí Tia sáng (bài đã dẫn)
[8]Trích theo Huỳnh Lý, Lời giới thiệu – Phan Châu Trinh toàn tập, tập I, Nxb Đà Nẵng, 2005, tr. 13-14
[9]Lê Bảo Sơn; Phan Trọng Hùng, “5 nhà trí thức phát biểu về ‘Con đường xã hội-dân chủ ở nước ta’”, talawas 2.9.2005; http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=5273&rb=0401
[10]Tạ Thao, “Mô hình chủ nghĩa xã hội dân chủ và tiền đồ Trung Quốc, talawas 22.5.2007

25/10/13

Alan Phan - ĐI TÌM NGUỒN CỘI




Alan Phan

22/10/2013

Đêm qua, tôi vẫn còn mơ màng giữa tỉnh và thức vì chưa quen với múi giờ mới của xứ Mỹ vừa quay lại. Bỗng giật mình vì comment của một bạn đọc,” Người mà không biết nguồn cội của mình thì không phải là con người.” Tôi khá quen với những tuyên bố quá khích của đủ loại nhân vật, đen đỏ tím vàng; nhưng vẫn sốc với những suy nghĩ…ngoài hành tinh của “một bộ phận không nhỏ”. Trước đó, anh bạn doanh nhân Nguyễn Văn Đực còn cả quyết là ngay cả ông già Alan vẫn muốn “rụng về cội” huống gì các bạn khác.


Tôi không biết sự nhắc nhở liên tục các khúc ruột ngàn dặm về “nguồn cội” này có liên quan gì đến số lượng kiều hối gần 12 tỷ USD năm nay? Nhưng nếu có một cụm từ bị lợi dụng thường xuyên trong lịch sử, đó là “tổ quốc, đất nước, dân tộc, quê hương…và nhẹ nhàng hơn, “nguồn cội”.

Tôi còn nhớ những ngày đầu tị nạn của 1975, nghèo khổ chạy khắp nơi tìm một chiếc xe cũ cho gia đình. Qua lời giới thiệu của TV, rồi bạn bè, chúng tôi chạy lên tận Rose Bowl ở Pasadena, dự buổi đấu giá xe dành cho dân nghèo. Tay chủ xị áo quần hình Cờ Hoa bảnh bao, văn chương hoa mỹ, bắt mọi người phải làm lễ chào cờ, rồi ca bài America the Beautiful, do cô con gái xinh đẹp dẫn dạo (không biết có là con gái thực không?).  Sau đó là những màn thủ thuật bịp bợm với giá cả còn cao hơn cả giá các xe ở Beverly Hills. Ngay cả dân nghèo tứ xứ cũng bị vài anh chị Mỹ trắng giàu có tìm cách móc túi. Từ đó, hễ làm ăn buôn bán mà dính vào …”tổ quốc” thì tôi chỉ ôm quần mà chạy.
Ngay cả triết thuyết “tam vô” (vô gia đình, vô tổ quốc, vô tôn giáo) của Đệ Tam Quốc Tế Cộng Sản cũng không ngăn Mao Trạch Đông mô tả cuộc cách mạng của mình là mang bản chất cốt lõi của dân tộc Trung Quốc. Vào thời Trung Cổ, dân du mục của Âu Châu (gypsies) bị các giáo sĩ Thiên Chúa thiêu sống vì họ không có “nguồn cội” (thuộc dòng giõi của quỷ). Gần đây hơn, cả triệu dân Do Thái cũng bị Đức Quốc Xã cho vào lò nướng vì nguồn cội …hơi khác người.

Khi dính đến quyền lợi hay quyền lực, cách dễ nhất để tranh đoạt chiến thắng là chụp một chiếc mũ to tướng lên đầu đối thủ, danh từ sử dụng càng to càng khó hiểu, càng hiệu lực. Dân thì chỉ khôn hơn lợn có vài bậc, nên rất nhất trí với các quan. Điều quan trọng là phải luôn coi phe nhóm mình là biểu tượng duy nhất của “tổ quốc, đất nước, dân tộc…gì đó, không ai có quyền bàn ra tán vào, ngay cả khi vài thủ hạ cao cấp có…hộ chiếu và tổ tiên …người Hán.

Nhưng khi ngồi chém gió với một số các “bộ phận không nhỏ” này, chính tôi cũng không yên ổn lắm với câu chuyện về nguồn cội của mình hay mọi người.

Nếu suy nguồn cội của tất cả loài người từ nguyên thuỷ, chúng ta đều bắt đầu bằng vài nguyên tử atom lạc lõng đâu ngoài vũ trụ. Cách đây trăm ngàn năm, thì nhân loại chỉ là một nhúm nhỏ cư dân tụ tập ngoài thềm lục địa Phi Châu, có chung tù trưởng, thầy pháp, công an và dân đen. Cách đây 10 ngàn năm, khi các bộ lạc đông đúc hơn và phải rời Phi Châu đi về Âu Á kiếm ăn, thì phần lớn gia đình di cư bên nhau để sống còn. Một giả thuyết là có khi ông tổ nội của Tưởng Giới Thạch có thể là tình nhân của ông tổ nội Đặng Tiểu Bình? (một học giả vừa xác định là hôn nhân đồng tính phát sinh từ 12 ngàn năm trước).

Cách đây 5 ngàn năm thì nguồn cội của dân tộc Việt là các khu dân cư dọc theo bờ sông Dương Tử; rồi trôi dạt về châu thổ sông Hồng. Dĩ nhiên, tôi không là một sử gia, nên rất mù mờ về lai lịch, nguồn cội của mọi người; nhưng tôi tin là nếu nhìn tất cả dưới lăng kính lâu dài của lịch sử; thì tất cả dân Việt, dân Tàu, dân Hàn, dân Ấn, dân Pháp…đều đã từng ăn mằm với nhau rất thắm thiết.

Rồi bây giờ, vì những biến động của lịch sử hình thành từ các xung đột quyền lợi, chúng ta phải phân loại nguồn cội và đối nhau như kẻ thù? Ngay cả khi ta cùng một tổ tiên, nhưng nếu có vài lãnh tụ nhanh tay cướp “bằng khoán” của đất nước, dân tộc…thì phần dân số còn lại phải nghe theo lệnh ban phát từ…nghị quyết của một thiểu số???

Chúng ta được “lệnh” là phải yêu tổ quốc qua bệ thờ của các lãnh tụ đã “hy sinh” cho hạnh phúc người dân. Cũng OK đi, dù cái chữ hạnh phúc này rất khó nuốt. Tuy nhiên, theo nhà thơ tư tưởng đỉnh cao Tố Hữu thì “thương cha thương một, thương ông (Stalin) thương mười”. Do đó, mỗi năm, cu Tèo nhà tôi có phải lên Google tìm bản đồ mộ của ngài Stalin để qua Nga khóc cho cái nguồn cội “vịt què” của mình? Hay là vì bác Chế Lan Viên có dặn là “bác Hồ ta đó chính là bác Mao” thì thị Hĩm nên xin visa chạy lên Tử Cấm Thành ở Bắc Kinh để khóc thương cho một người cha chung của dân tộc?

Suy ngẫm thêm về các dân tộc khác, tôi thấy cũng có nhiều quan điểm và hành xử tương phản nhau. Dân Do Thái lang thang khắp thế giới cả ngàn năm, chịu nhiều bạc đãi, mà không quan tâm lắm về nguồn cội của mình. Cho đến Thế Chiến 2 khi bị Đức Quốc Xã giết hại trong sự kiện gọi là Holocaust. Sau chiến tranh, họ về Palestine dựng nên quốc gia Israel và dân Do Thái khắp thế giới dồn tiền bạc và sức mạnh chính trị với lời thề là “never again” (không bao giờ sẽ có một holocaust thứ hai).

Tuy nhiên, khi tiếp xúc với những người Mỹ gốc Do Thái, chúng ta có thể thấy rõ là họ không ưa dân Israeli lắm. Sau bức màn PR, họ nghĩ cư dân của Israel là những anh chị không có văn hóa, ngạo mạn, tham lam và ích kỷ. Nhưng họ vẫn lobby mạnh cho mọi viện trợ quân sự, kinh tế cho Israel vì đây là “nguồn cội” (vả lại tiền của Âu Mỹ là tiền thuế chung của dân, một nguồn OPM lý tưởng).

Trong khi đó, nếu hỏi một gười gốc Ireland hay Poland ở Mỹ, tôi chắc chắn là họ sẽ hãnh diện tuyên bố họ là dân Mỹ, dù không dấu giếm gì gốc Irish hay Polish của họ. Nguồn cội không bao giờ là một đề tài.

Còn nếu “nguồn cội” là giải giang sơn gấm vóc, tiền rừng bạc biển mà tiền nhân đã dầy công vun đắp thì không gì quý hơn là dựng tượng các công thần đã hết sức phá rừng mấy chục năm nay, trồng cao su, xây thủy điện, bán gỗ nguyên sinh…đem cho con cháu chúng ta vài trận lụt kinh hoàng mỗi năm…để học kinh nghiệm. Còn các em trẻ đang vui đùa dưới dòng sông Thị Vải, thân thể đã được công ty bột ngọt Vedan tiêm không biết bao nhiêu là liều vắc xin ung thư miễn phí? Yêu nguồn cội đến thế thì thôi.

Trên hết, trí tuệ của vài ba thế hệ Việt đã được khai phá tận tình với nền giáo dục ưu việt mà chỉ Cu Ba hay Triều Tiên mới bắt kịp. Đây là điểm sáng ngàn đời của chúng ta, xây dựng vững bền một bức tường dân trí kiên định không đời nào địch có thể xuyên thấu.

Còn nếu theo suy ngẫm của tôi, quê hương nguồn cội…là những ký ức tuyệt vời của những ngày mới lớn, khi tâm hồn còn tinh khôi áo mới, thì cái đẹp chân thiện trong tâm linh đó làm sao mà mất được để cần ai phải bảo vệ hay tôi phải đóng thuế? Cái trí tuệ mà tôi đã tự do vun đắp qua đủ mọi sách vở và trải nghiệm có cần ai phải làm “giáo trình” theo lề trái, lề phải? Những món ăn nuôi lớn khôn tôi là những món nợ chịu ơn từ chục ngàn người khắp thế giới, đâu phải chỉ vài lon bo bo viện trợ từ mẫu quốc?

Nói thế, nhưng tại sao trong những đêm chờ sáng cho quê hương, lòng ông già xa xứ vẫn bùi ngùi khi nhìn thấy bức hình bà mẹ Việt còng lưng quảy gánh dưới mưa? Vẫn đau buốt khi nghĩ về những đạo quân bán vé số khắp nước sau vài thế kỷ của “hạnh phúc”? Vẫn thuơng xót cho những đám trẻ không thể có tương lai trong một nền giáo dục què quặt? Nguồn cội còn đồng nghĩa với một tiếng thở dài?

Alan Phan

Source  :GOC NHIN ALAN

 ( http://www.gocnhinalan.com )

24/10/13

TẢN MẠN VỀ KHỔNG TỬ VÀ VIỆN KHỔNG TỬ SẮP MỞ Ở VIỆT NAM

 Phùng Hoài Ngọc
 Suốt gần ngàn năm qua trong nhiều hoàn cảnh bị cai trị trực tiếp mà người Việt học Khổng tử vẫn không bị Hán hoá, bây giờ có cần phải lo lắng một cái Viện Khổng tử chăng?
 Ngày xưa người Việt học Hán ngữ và Khổng tử vì không thể không học. Tuy nhiên thời ấy các cụ nhất định phiên âm Hán ngữ ra âm Hán-Việt để xài, quyết không học nguyên vẹn tiếng Hoa, nhằm giữ vững tự chủ tự lập, tránh khỏi bị đồng hoá. Khi thấy chữ Hán không đủ phục vụ nhu cầu cần thiết, các cụ soạn ra chữ Nôm để ghi âm nốt một phần tiếng Việt cho đủ dùng.
 Tìm hiểu vai trò của Khổng tử ở Trung Quốc và Việt Nam, tưởng chúng ta cũng nên điểm qua vài nét về Khổng học.
 Khổng tử  sống vào cuối thời Xuân thu (sinh 551 trước CN, mất 479 tr CN) .
Thời Xuân thu (770 – 455 tr.CN) xã hội Trung Hoa đang bước vào giai đoạn sơ kỳ phong kiến. Thể chế xã hội chia hai bậc cai trị chính thức: hoàng đế và chư hầu . Hoàng đế nhà Chu ngày càng tỏ ra không đủ sức cai quản lãnh thổ ngày càng rộng lớn với cả trăm nước chư hầu (chư 诸: các, số nhiều). Đã vậy còn nảy sinh một bậc chen giữa không chính danh là “vương”, có lúc lên tới 14 vị (nguyên là , nhưng còn dùng chữ bá 伯 không chính thức kèm với vương, bá tức là “bác”, anh của cha, nhưng giữ quyền cao hơn cha, tức là lạm quyền.  Vậy người dân mới bực mình dùng chữ “bá/bác” với ý mỉa mai, bực bội trong các từ bá đạo, bá quyền, bá chiếm…Bá vương lấn lướt tung hoành bất chấp hoàng đế. Dân chúng chịu một cổ ba tròng. Đây là giai đoạn loạn lạc, đời sống bất an do các chư hầu đua nhau “tranh bá đồ vương”, họ vơ vét của cải thuế khoá, tuyển lính để chứng tỏ lực lượng mình hùng hậu, nhằm tham dự các đại hội chư hầu bầu chọn “bá vương”. Nếu đạt được tước “vương” thì sẽ tiếp tục lôi kéo chư hầu và bá vương khác, nhắm cái đích cuối cùng là tranh “đế”. Trong hoàn cảnh như vậy, kẻ sĩ hay võ sĩ thấy cần phải chọn đúng minh chúa mà theo (làm chính trị thời ấy như đánh bạc). Đất nước bất an thì lòng người cũng ly tán, lối sống bừa bãi, tệ nạn xã hội phát triển, chả biết đâu là chuẩn mực văn minh…
 Trong bối cảnh ấy, nhiều trí thức học giả thấy cần phát huy vai trò của mình để vãn hồi trật tự, sao cho giữ được cuộc sống thanh bình an lạc ngày xưa. Lão Tử đưa ra học thuyết “Đạo đức kinh” (kinh: đường dọc vạch ra làm chuẩn) không ngoài mục đích trên… Kế đến nhà giáo Khổng tử xuất hiện. Tuy làm quan cho vua Lỗ, tham mưu cho một ông vua, Khổng tử lại không được nhà vua tin cậy nên ông thấy cần phải biên soạn bài giảng mở lớp dạy học, phổ biến tư tưởng cho mọi người. Ông lại chọn một số môn đệ cùng đi qua nhiều nước chư hầu khác thuyết giảng. Nói chung tư tưởng của ông chỉ được các vua hầu khen chứ không sử dụng…Khổng tử nêu gương các minh chúa tiền nhân từ giai đoạn đầu nhà Chu trở về trước (đến các vua truyền thuyết Nghiêu -Thuấn- Vũ) làm điểm xuất phát cho học thuyết. Hạt nhân của Khổng học là chữ “Lễ”, từ đó học thuyết được phát triển khá phong phú, toàn diện.
 Trước khi soạn bài giảng, ông sưu tầm tài liệu và biên soạn thành sách. Do khiêm tốn ông đều nói rằng “cổ nhân dạy”, thực ra đó là tư duy của chính ông, chiêm nghiệm của chính mình về thời cuộc. Điều đặc biệt là cách hành xử của ông trong cuộc sống thường nhật, ông giảng bài làm sao thì thực hành đúng như vậy.
 Bộ sách Khổng tử gồm: Ngũ kinh có 5 sách: Kinh Lễ, Kinh Thượng thư, Kinh Xuân thu, Kinh thi và Kinh Dịch. Tứ thư có 4 sách: Đại học, Trung dung, Luận ngữ (bài giảng của ông và có phần học trò phát triển) và Mạnh tử thư là trước tác của Mạnh tử (385–303 tr.CN, Mạnh tử ra đời sau Khổng tử gần một trăm năm) tập trung vào đối tượng vua chúa để khuyên răn, được coi là phát triển sâu sắc tư tưởng của Khổng tử. Do đó đời sau gọi đầy đủ là học thuyết Khổng-Mạnh, nhưng nếu gọi vắn tắt là “Khổng học” cũng không sai mấy và được chấp nhận. .. Đến thời nhà Hán (203 tr.CN– 220)  sau khi thống nhất giang sơn, họ Lưu chủ yếu đã xoá bỏ hai cấp “bá vương” và “chư hầu” để xây dựng chế độ phong kiến quân chủ tập trung (quy trọn vào chữ “đế”), họ bắt đầu vận dụng học thuyết Khổng tử làm nền tảng giáo dục, từ đó kéo dài suốt gần hai ngàn năm, tạm tính đến 1911.
 Sách Khổng tử ngày nay chỉ thấy có ba cuốn còn ít nhiều giá trị là Luận ngữ,  Kinh thi và Kinh Dịch. Người Việt đã từng biên dịch phát hành nhiều lần, nhà nho hiện đại Viêt Nam có đủ khả năng truyền bá những gì cần thiết về Khổng học cho các lớp hậu sinh.
 Ngày nay, các nước mở tung cửa tri thức cho con người lựa chọn. Chúng ta có cần phải lo lắng một cái Viện nhỏ đặt trong một cái trường đại học không thuộc hàng đầu ở Hà Nội không ? Người ta chỉ ngạc nhiên vì sao phải cần hai Thủ tướng mới ký kết được một cái văn bản nho nhỏ ấy đặt trong “Tuyên bố chung” ? Thay vì chỉ cần hai Bộ giáo dục hay Bộ văn hoá, thậm chỉ hai trường đại học ký kết với nhau cũng được. Còn một điều lạ nữa: viện Khổng tử không dám tự nhiên tồn tại độc lập ngoài mặt tiền, mà chịu nép mình vào trong khuôn viên một trường đại học cỡ trung bình ở Hà Nội (Đại học Hà Nội nguyên là trường Cao đẳng SP Hà Nội mới nâng cấp). Có lẽ họ còn e dè, nghe ngóng tình hình và thái độ  phản ứng mặn hay nhạt của dân Hà Nội, dân Việt Nam chăng ?
 Khổng học đã lặn sâu vào nền văn hoá Việt với nhiều mức độ, trên nhiều lớp người khác nhau. Nhiều lần tôi ngẫu nhiên tiếp xúc mấy cụ già không biết chữ, nói chuyện đời, các cụ bật ra những câu văn Khổng tử khiến tôi giật mình. Sau đoán rằng các cụ “học Luận ngữ” qua một số tích chèo, tuồng đồ và cải lương hay qua chuyện trò khi nhâm nhi rượu trà với các cụ đồ nho làng…
 Bàn về vai trò của một học thuyết trong lịch sử.
 Sáng lập và chủ trương một học thuyết là nhu cầu khát vọng của nhà trí thức. Khi họ viết ra, hầu như chỉ muốn giãi bày với thiên hạ, họ không hình dung được về sau thiên hạ sẽ sử dụng ra sao. Việc sử dụng học thuyết trong một chế độ cai trị bạo ngược vô pháp vô thiên lại là việc khác. Một chế độ độc tài toàn trị  trong lịch sử loài người từ thời xưa đến nay vẫn ưa dùng một học thuyết (nào đó) để làm bình phong, làm ngọn cờ.. Thành ngữ thời phong kiến nói “Ngoại nho nội pháp” (ngoài miệng nói nho giáo trọng chữ Nhân, thực tế coi trọng dùng Pháp gia tức hình phạt. Bao nhiêu chế độ độc tài đều dùng hai lực lượng tay trái- tay phải này: Ban tuyên truyền mị dân rao giảng học thuyết (có biên tập, cắt xén) và “Công cụ vũ lực đàn áp khủng bố” mỗi khi mị dân bất thành (mị: làm cho si mê vì nịnh khéo, làm cho ngủ say).
 Tô đã từng đọc thấy một số bài báo của một số ít người, thậm chí của một số học giả nho học có tiếng ở Việt Nam, phê phán Nho học rất nặng nề. Rằng Nho giáo kìm hãm đất nước Trung Quốc và Việt Nam vào vòng lạc hậu lâu dài, rằng Khổng học trở thành công cụ cho giai cấp phong kiến thống trị đè nén áp bức nhân dân. v.v… Tôi nghĩ, nhà thống trị họ muốn làm gì thì làm, quen thói bá đạo bá quyền, họ chỉ cần học thuyết để mị dân thôi. Họ hiểu đúng đắn hay sai lạc học thuyết ấy cũng chẳng sao.  Họ vận dụng hay xếp xó cũng không sao. Họ cũng lập ra Viện, Khoa triết học này nọ nghiên cứu học thuyết ông A, ông B hoặc  ghép bừa bãi hai ông thành học thuyết A-B nhưng chẳng thực hành được gì đáng kể nếu chưa nói là đã thực hành sai be bét. Khi thấy học thuyết A-B mất giá thì họ đẻ ra Tư tưởng C, họ ghép lung tung cho có như một bức bình phong nham nhở, nhà văn Nguyễn Huy Thiệp từng bi quan than thở rằng “chính trị”ở xứ ta là một “món lẩu thập cẩm” quả không sai.
 Chúng ta biết rằng đến thế kỷ 18, phương Tây mới trỗi dậy, vượt qua mặt phương Đông nhờ các thành tựu khoa học kỹ thuật và tư tưởng cộng hoà, và tất nhiên không thể thiếu vai trò các nhà lập thuyết. Như vậy, trước đó phương Đông chúng ta có cái khoa học xã hội – nhân văn nào hay hơn Khổng học đâu? Lỗi là ở các giai cấp thống trị phương Đông không mở mang giao thương với phương Tây sớm hơn, chứ đâu phải lỗi tại Khổng tử khiến cho chế độ phong kiến TQ trì kéo 2000 năm, Việt Nam non 1000 năm !
 Văn Miếu- Quốc tử giám nghìn năm trầm mặc ở giữa thủ đô Thăng Long- Hà Nội, dân chúng và trí thức chẳng hề phàn nàn (họ chỉ phàn nàn cái bức tượng một ông Tây đứng giơ tay chỉ trỏ ở một vườn hoa gần bờ Hồ Hoàn Kiếm vài chục năm qua mà đặt thơ lục bát giễu nhại chơi). Người Việt Nam, kể cả nhà nước ngày nay vẫn tự hào về Văn Miếu- Quốc tử giám, coi đó như biểu tượng văn hoá nghìn năm của mình, cái cổng vào là Khuê văn các (bên trong cổng chính) được chọn là biểu tượng logo Hà Nội, hễ có khách quốc tế thì thế nào cũng dẫn họ đến đó chiêm ngưỡng. Tôi chưa biết một quan điểm nào phê phán quần thể kiến trúc đó.
 Liên hệ đến Karl Marx, dù ông là kẻ thù của chủ nghĩa tư bản (theo cách nhìn của những người cộng sản), nhưng nước Anh tư bản thâm niên cổ thụ vẫn tôn trọng ông trong công viên nghĩa trang Highgate với mộ phần cả gia đỉnh và tượng đài Marx trang nghiêm ở đó. Có thể, người ta coi ông là nhà phản biện vĩ đại không tự nguyện, vô hình trung giúp chủ nghiã tư bản tự cải thiện mình. Có thể, người ta gạn đục khơi trong, chọn ra được những trước tác triết học của Marx có ích cho tư duy nhân loại. Họ chỉ không cần kỷ niệm cái giải pháp thất bại thảm hại đầy hệ luỵ của ông là “dùng bạo lực chuyên chính vô sản lật đổ chủ nghĩa tư bản” mà thôi.
 Viện Khổng tử, vì thế chỉ là cây cầu truyền bá ngôn ngữ, văn hoá nói chung, đại thể như một “Trung tâm văn hoá Trung Hoa”. Giả sử không có Viện đó thì hiện nay ở nước ta vẫn lai rai nghiên cứu học tập ngôn ngữ và văn hoá TQ (trong đó có Khổng học), tuỳ theo đa dạng nhu cầu của nhân dân và nhà nước…
 Một người bạn đồng nghiệp góp bàn chí lý rằng: Người ta không sợ ông Khổng, hay cái Viện Khổng tử, mà người ta sợ cái kẻ (cả phía TQ lẫn phía VN) đang muốn lợi dụng Khổng giáo cho mục đích riêng họ. Và Khổng giáo cùng Viện Khổng tử bị lên án là vì (vô tình)  trở thành công cụ cho những kẻ này. Đạo Khổng có những nội dung bất cập, đồng thời có nhiều điểm hay, nhưng chắc chắn nó chưa đầy đủ. Trong khi người dân VN còn đang rất thiếu hiểu biết về tự do, dân chủ, pháp quyền (những khái niệm xa lạ với Khổng giáo) mà nhà nước không những đã không tạo điều kiện để làm tăng sự hiểu biết của người dân về những vấn đề trên, lại đi lo vun đắp cái tinh thần Khổng giáo, là điều mà truyền thống VN cũng đã thấm nhuần lắm rồi, lại xuất phát từ chủ trương của một anh thực dân (mới nổi lên) là TQ, thì việc ấy chẳng phải cũng đáng lo lắm sao ?
Do đó tôi nghĩ rằng chẳng cần phải lo ngại Viện Khổng tử sắp mở ở Việt Nam nhưng chúng ta vẫn thường xuyên nâng cao cảnh giác.
 Mời đọc tham khảo (trích bài viết của tác giả Huỳnh Văn Út trên Trần Nhương blog):
 “Viện Khổng Tử thuộc Trường Đại học McMaster University Canada bị đóng cửa từ tháng 7/2013 sau năm năm hoạt động. Học viện này bị chỉ trích là được chỉ đạo bởi Tổng Lãnh sự Trung Quốc tại Canada để làm công tác tình báo nhằm chi phối và gây ảnh hưởng tới các quan chức bản xứ. Người Anh cho rằng sự tồn tại của Viện Khổng Tử ở Trường Kinh tế và Khoa học Chính trị Luân Đôn (LSE- London School of  Economics and Political Science) là một điều kỳ quặc vì Khổng Tử vốn trọng Nho học và xem khinh buôn bán. Tờ China Daily đưa ra một thống kê cho rằng có 64 Viện Khổng Tử đang hoạt động trong các trường đại học ở Mỹ (Cũng tờ báo này lại mâu thuẩn khi đưa ra một thống kê rằng có 81 Viện Khổng Tử ở Mỹ). Năm 2012 có 51 trong số 600 giảng viên người Trung Quốc làm việc trong các Viện này buộc phải về nước vì vi phạm luật di trú của Mỹ”.
 Thế đấy, Viện Khổng tử sắp mở, hàng ngàn lao động TQ bất hợp pháp đang tồn tại trên đất VN, phim Tàu bá chiếm hầu hết đài truyền hình trung ương và địa phương suốt ngày đêm, cái nào cũng đáng ngại và cảnh giác.
 GNLT.PHN
Source  : Blog GNLT

The White House - Remarks by the President on Immigration Reform

 
  1. The White House
Office of the Press Secretary
East Room 10:47 A.M. EDT


THE PRESIDENT:  Thank you very much.  Please have a seat, everybody.  Good morning, and welcome to the White House.  Today I’m here with leaders from business, from labor, from faith communities who are united around one goal -- finishing the job of fixing a broken immigration system.
This is not just an idea whose time has come; this is an idea whose time has been around for years now.  Leaders like all of you have worked together with Republicans and Democrats in this town in good faith for years to try to get this done.  And this is the moment when we should be able to finally get the job done.
Now, it’s no secret that the American people haven’t seen much out of Washington that they like these days.  The shutdown and the threat of the first default in more than 200 years inflicted real pain on our businesses and on families across the country.  And it was a completely unnecessary, self-inflicted wound with real costs to real people, and it can never happen again.
Even with the shutdown over, and the threat of default eliminated, Democrats and Republicans still have some really big disagreements -- there are some just fundamentally different views about how we should move forward on certain issues.  On the other hand, as I said the day after the shutdown ended, that's no reason that we shouldn’t be able to work together on the things that we do agree on.
We should be able to work together on a responsible budget that invests in the things that we need to grow our economy and create jobs even while we maintain fiscal discipline.  We should be able to pass a farm bill that helps rural communities grow and protects vulnerable Americans in hard times.

And we should pass immigration reform.  (Applause.)  We should pass immigration reform.  It’s good for our economy.  It’s good for our national security.  It’s good for our people.  And we should do it this year.
Everybody knows that our current immigration system is broken.  Across the political spectrum, people understand that.  We’ve known it for years.  It’s not smart to invite some of the brightest minds from around the world to study here and then not let them start businesses here -- we send them back to their home countries to start businesses and create jobs and invent new products someplace else.
It’s not fair to businesses and middle-class families who play by the rules when we allow companies that are trying to undercut the rules work in the shadow economy, to hire folks at lower wages or no benefits, no overtime, so that somehow they get a competitive edge from breaking the rules.  That doesn’t make sense.
It doesn’t make sense to have 11 million people who are in this country illegally without any incentive or any way for them to come out of the shadows, get right with the law, meet their responsibilities and permit their families then to move ahead.  It’s not smart.  It’s not fair.  It doesn’t make sense.  We have kicked this particular can down the road for too long.
Now, the good news is, this year the Senate has already passed an immigration reform bill by a wide, bipartisan majority that addressed all of these issues.  It’s a bill that would continue to strengthen our borders.  It would level the playing field by holding unscrupulous employers accountable if they knowingly hire undocumented workers.
It would modernize our legal immigration system, so that even as we train American workers for the jobs of the future, we’re also attracting highly-skilled entrepreneurs from beyond our borders to join with us to create jobs here in the United States.
It would make sure that everybody plays by the same rules by providing a pathway to earned citizenship for those who are here illegally -- one that includes passing a background check, learning English, paying taxes, paying a penalty, getting in line behind everyone who is trying to come here the right way.
So it had all the component parts.  It didn't have everything that I wanted; it didn't have everything that anybody wanted; but it addressed the core challenges of how we create a immigration system that is fair, that’s just, that is true to our traditions as a nation of laws and a nation of immigrants.  And that's passed the Senate by a bipartisan majority.  (Applause.)
So here's what we also know -- that the bill would grow the economy and shrink our deficits.  Independent economists have shown that if the Senate bill became law, over the next two decades our economy would grow by $1.4 trillion more than it would if we don't pass the law.  It would reduce our deficits by nearly a trillion dollars.
So this isn’t just the right thing to do; it’s the smart thing to do.  Securing our borders; modernizing our legal immigration system; providing a pathway to earned, legalized citizenship; growing our economy; strengthening our middle class; reducing our deficits -- that’s what common-sense immigration reform will do.
Now, obviously, just because something is smart and fair, and good for the economy and fiscally responsible and supported by business and labor -- (laughter) -- and the evangelical community and many Democrats and many Republicans, that does not mean that it will actually get done.  (Laughter.)  This is Washington, after all.
So everything tends to be viewed through a political prism and everybody has been looking at the politics of this.  And I know that there are some folks in this town who are primed to think, “Well, if Obama is for it, then I’m against it.”  But I’d remind everybody that my Republican predecessor was also for it when he proposed reforms like this almost a decade ago, and I joined with 23 Senate Republicans back then to support that reform.  I’d remind you that this reform won more than a dozen Republican votes in the Senate in June.
I’m not running for office again.  I just believe this is the right thing to do.  (Applause.)  I just believe this is the right thing to do.  And I also believe that good policy is good politics in this instance.  And if folks are really that consumed with the politics of fixing our broken immigration system, they should take a closer look at the polls because the American people support this.  It’s not something they reject -- they support it.  Everybody wins here if we work together to get this done.  In fact, if there’s a good reason not to pass this common-sense reform, I haven’t heard it.
So anyone still standing in the way of this bipartisan reform should at least have to explain why.  A clear majority of the American people think it’s the right thing to do.
Now, how do we move forward?  Democratic leaders have introduced a bill in the House that is similar to the bipartisan Senate bill.  So now it’s up to Republicans in the House to decide whether reform becomes a reality or not.
I do know -- and this is good news -- that many of them agree that we need to fix our broken immigration system across these areas that we’ve just discussed.  And what I’ve said to them, and I’ll repeat today, is if House Republicans have new and different, additional ideas for how we should move forward, then we want to hear them.  I’ll be listening.  I know that Democrats and Republicans in the Senate, those who voted for immigration reform already, are eager to hear those additional ideas.  But what we can’t do is just sweep the problem under the rug one more time, leave it for somebody else to solve sometime in the future.
Rather than create problems, let’s prove to the American people that Washington can actually solve some problems.  This reform comes as close to anything we’ve got to a law that will benefit everybody now and far into the future.  So let’s see if we can get this done.  And let’s see if we can get it done this year.  (Applause.)
We’ve got the time to do it.  Republicans in the House, including the Speaker, have said we should act.  So let’s not wait.  It doesn’t get easier to just put it off.  Let’s do it now.  Let’s not delay.  Let’s get this done, and let’s do it in a bipartisan fashion.
To those of you who are here today, I want to just say one last thing and that is -- thank you.  I want to thank you for your persistence.  I want to thank you for your activism.  I want to thank you for your passion and your heart when it comes to this issue.  And I want to tell you, you’ve got to keep it up.  Keep putting the pressure on all of us to get this done.  There are going to be moments -- and there are always moments like this in big efforts at reform -- where you meet resistance, and the press will declare something dead, it’s not going to happen, but that can be overcome.
And I have to say, Joe, as I look out at this room, these don’t look like people who are easily deterred.  (Laughter.)
THE VICE PRESIDENT:  I don’t think so.
THE PRESIDENT:  They don’t look like folks who are going to give up.  (Applause.)  You look fired up to make the next push.  And whether you’re a Republican or a Democrat or an independent, I want you to keep working, and I’m going to be right next to you, to make sure we get immigration reform done.  It is time.  Let’s go get it done.
Thank you very much, everybody.  (Applause.)

END

10:59 A.M. EDT

WWW.WHITEHOUSE.ORG