16/7/14

ĐẠI CƯỜNG KHÔNG ĐƯỢC NGHỈ HƯU: THẾ GIỚI SẼ NGUY HIỂM, NẾU MỸ TỪ BỎ VAI TRÒ LÃNH ĐẠO

ĐẠI CƯỜNG KHÔNG ĐƯỢC NGHỈ HƯU: THẾ GIỚI SẼ NGUY HIỂM, NẾU MỸ TỪ BỎ VAI TRÒ LÃNH ĐẠO

Nguồn : pro & contra 
Tháng 7 16, 2014
Robert Kagan
Phạm Việt Vinh dịch
Trước hiểm họa Trung Quốc ngày càng gia tăng, nhiều người Việt đang đặt hy vọng vào sự “chuyển trục” sang châu Á của Mỹ và vai trò của Mỹ tại khu vực này. Tiểu luận sau đây có thể cung cấp một góc nhìn đáng tham khảo.
Tác giả Robert Kagan, 55 tuổi, là một cây bút và cố vấn chính trị người Mỹ. Là một nhân vật tân bảo thủ có thế lực và là một chuyên gia về chính trị quốc tế, ông viết nhiều cuốn sách, trong đó có quyển Sức mạnh và bất lực bảo vệ đường lối ngoại giao của Mỹ dưới thời George W. Busch. Victoria Nuland, vợ ông, làm việc tại Bộ Ngoại giao Mỹ chuyên trách các vấn đề Châu Âu và Á-Âu. Gần đây nhất, một cuộc điện đàm giữa bà và Đại sứ Hoa Kỳ tại Ukraine về những diễn biến căng thẳng ở Ukraine và vai trò của phương Tây bị nghe trộm và tung lên YouTube, trong đó bà dùng cụm từ “Fuck the EU” và cho biết Mỹ muốn nhân vật dân chủ nào sẽ đứng đầu chính phủ Ukraine mới. Theo cách phân định thường gặp, Robert Kagan đại diện quan điểm của phe được mệnh danh là “diều hâu” trong đường lối ngoại giao và quân sự Hoa Kỳ.
Người dịch
___________
I.
Các đây gần 70 năm, một trật tự thế giới mới đã hình thành từ đống hoang tàn của Thế chiến thứ hai. Trung tâm của trật tự mới này là Hợp chúng quốc Hoa Kỳ. Ngày hôm nay, ở trật tự thế giới đó đã xuất hiện những vết nứt. Thực ra thì những khủng hoảng ví dụ như giữa Nga và Ukraine hay như ở Syria không phải là hy hữu và cũng chẳng phải là không kiểm soát nổi. Ngay cả những phản ứng rụt rè của Liên Hiệp Quốc trước các biến động tại Ukraine, rồi các vụ nổi dậy tại Trung Cận Đông, tại Bắc Phi, các chiến thắng của lực lượng Thánh chiến khủng bố tại Syria và Iraq, sự căng thẳng mang tính quốc gia chủ nghĩa ngày càng gia tăng giữa các cường quốc tại Đông Á hay là sự lấn lướt của toàn trị và sự thoái lui của dân chủ trên khắp thế giới cũng không là điều đặc biệt và bất khả kháng. Nhưng tất cả những điều đó gộp lại cho thấy một cái gì đó đã thay đổi; và sự thay đổi này diễn ra nhanh hơn chúng ta tưởng. Có vẻ như một trật tự thế giới mới đang xuất hiện.
Nếu thật sự là trật tự thế giới cũ sẽ bị sụp đổ, thì nguyên do không nằm ở sự suy giảm thế lực của Mỹ – sự cường thịnh và vai trò của nước Mỹ vẫn đủ lớn để nó có thể giải quyết thành công các thách thức của thế giới hôm nay. Nguyên do này cũng không nằm ở chỗ các vấn đề chính trị toàn cầu hiện nay ngày càng trở nên phức tạp và khó giải quyết hơn. Và nguyên do này cũng không đơn giản nằm ở sự mệt mỏi vì chiến tranh. Điều hy hữu là nguyên do này nằm trong đầu của (người Mỹ) chúng ta, đó là vấn đề về bản ngã và sự quyết đoán của người Mỹ.
Nhiều người Mỹ và các thủ lĩnh chính trị của cả hai đảng (Dân chủ và Cộng hoà), kể cả Tổng thổng Obama đã quên, hoặc lánh xa những cái đã làm nên thành công của ngoại giao Mỹ – trước hết, đó là ý tưởng về một trách nhiệm toàn cầu, trong đó quyền lợi của nước Mỹ được đặt ngang bằng với quyền lợi của nhiều nước khác trên khắp thế giới. Có vẻ như ngày hôm nay nguời ta lại quay về với những khái niệm lợi ích quốc gia được hiểu theo nghĩa hẹp. Điều này nhiều khi được gọi là “chủ nghĩa cô lập”. Nhưng cụm từ này không đúng. Thực chất, nó chính là một nỗ lực tiến tới sự bình thường. Đằng sau sự bức bối của người Mỹ muốn tiếp tục đảm đương vai trò cũ là lòng mong mỏi muốn rũ bỏ những gánh nặng trách nhiệm mà các thế hệ trước đã tự lãnh nhận trong Thế chiến thứ hai và trong toàn bộ tiến trình Chiến tranh Lạnh. Nước Mỹ muốn trở lại thành một quốc gia “bình thường”, muốn quan tâm nhiều hơn tới những nhu cầu riêng và cắt giảm sự chú ý tới những nhu cầu của thế giới.
Để có thể hiểu Mỹ và nhân loại có thể sẽ tiến tới đâu, chúng ta cần phải nhớ lại trong quá khứ  nguời Mỹ đã quyết định như thế nào, và đã tạo ra những biến đổi sâu sắc như thế nào cho thế giới. Cái đã xảy ra trước đây gần 70 năm là một cuộc cách mạng trong chính sách đối ngoại của Mỹ. Trước đó, tức là trước Thế chiến hai, Mỹ luôn từ chối những đóng góp toàn cầu mang tính dài hạn. Đối với phần lớn người Mỹ, đó là sự trả lời hợp lý nhất cho thế giới trong những năm 20 (của thế kỷ trước). Khi đó, hầu như đe dọa không hiển hiện: người ta cho rằng nền Cộng hoà Weimar non yếu rồi sẽ nhanh chóng sụp đổ trước khi nước Đức một lần nữa tìm cách thống trị châu Âu. Nước Nga thì kiệt quệ vì nội chiến và khủng hoảng kinh tế. Và mặc dù đang theo đuổi những ý đồ to lớn thì ở Nhật Bản vẫn có một nền dân chủ mong manh.
Người Mỹ vẫn tiếp tục giữ đường lối bình thường ngay cả khi trật thứ thế giới khi đó bị tẩy xóa và sụp đổ: bắt đầu bằng sự tiến quân của Nhật Bản vào Mãn Châu năm 1931 cho đến khi nước Áo sáp nhập vào nước Đức của Hitler và tiếp theo là sự thâu tóm Tiệp Khắc năm 1938/1939 của nước Đức Quốc xã. Những sự kiện này làm cho người Mỹ kinh hoàng, nhưng họ vẫn không nhìn thấy sự cần thiết phải ra tay.
Ngay cả khi quân Đức tràn vào Ba Lan năm 1939 và Thế chiến hai bùng nổ, những sách lược gia Mỹ vẫn tuyên bố rằng nước Mỹ là bất khả xâm phạm, nước Mỹ được bảo vệ bởi hai đại dương và có trong tay một lực lượng hải quân hùng mạnh. Nhận thức này phổ cập đến mức một vị Tổng thống có đầu óc toàn cầu như Franklin Roosevelt cũng e dè trong ăn nói và phải hứa hẹn rằng nước Mỹ sẽ không tham gia chiến tranh. Trong một diễn văn nổi tiếng vào năm 1936, ông tuyên bố: “Tôi căm ghét  chiến tranh!” Nhưng hai năm sau đó, khi Hiệp ước München được ký kết, ông ta mới phát hoảng và bắt đầu cảm thấy rằng những cường quốc Tây Âu như Anh và Pháp đã mất hết quyết tâm đương đầu với Hitler. Chỉ khi đó Roosevelt mới bắt đầu cảnh báo người Mỹ về một hiểm họa đang bùng phát.
Quyết định tham chiến chỉ diễn ra sau vụ Trân Châu Cảng. Cuộc tấn công năm 1941 của Nhật vào Hạm đội Thái Bình Dương, tuyên bố chiến tranh của Hitler sau đó và cuộc tham chiến toàn diện của Mỹ vào các xung đột tại châu Âu và châu Á là một cú sốc với người Mỹ. Lòng tin của (người Mỹ) chúng ta rằng nước Mỹ vẫn ổn vững giữa một thế giới hỗn loạn đã vỡ vụn trong một ngày. Những sự kiện năm 1941 đòi hỏi phải có một định nghĩa mới cho khái niệm quyền lợi của nước Mỹ. Thêm vào đó, người ta hiểu ra rằng sự thịnh vượng và ngay cả an ninh của nước Mỹ cũng phụ thuộc vào một nền kinh tế toàn cầu lành mạnh.
Với nhận thức rằng nguồn gốc của Thế chiến hai nằm ở sự sụp đổ của trật tự thế giới trên các mặt chính trị, kinh tế và sách lược, ngay sau khi nhảy vào cuộc chiến, chính phủ Mỹ bắt đầu triển khai một trật tự thế giới lâu dài mới. Lần này, nó phải là một trật tự thế giới dựa trên sức mạnh kinh tế, chính trị và quân sự của Mỹ. Người châu Âu đã tự chứng tỏ rằng họ bất lực khi phải gìn giữ hòa bình. Mỹ đứng ra đảm lãnh vai trò quyết định trong việc chiếm đóng và chuyển hóa các nước bại trận. Tại các nước đó, Mỹ tự lãnh trách nhiệm phải tạo ra một chính thể dân chủ nào đó để thay thế chế độ độc tài đã lôi kéo các quốc gia đó vào cuộc chiến. Nước Mỹ phải có một sức mạnh áp đảo về quân sự, và khi cần thiết, phải có khả năng điều một lực lượng chiến đấu cần thiết đi bảo vệ sự ổn định và an ninh tại châu Âu, châu Á và Trung Cận Đông. Trong tính toán của Roosevelt và các cố vấn của ông, vũ lực quân sự đóng một vai trò trung tâm. “Hòa bình phải được gìn giữ bằng vũ lực”, Roosevelt tuyên bố như vậy. Ngoài ra, “không còn con đường nào khác”.
II.
Sách lược tổng thể như trên là một bước ngoặt dứt khoát của Mỹ đối với cái gọi là “sách lược bình thường”. Sách lược này không phải là vô tư hay không vụ lợi. Những người cầm đầu chính phủ Mỹ tin rằng, sách lược trên phục vụ tốt nhất cho quyền lợi của Hợp chúng quốc. Ngoại trưởng Mỹ (từ 1949 đến 1953, ND) Dean Ascheson từng tuyên bố: “Nước Mỹ phải học cách hành xử trong một liên đới trách nhiệm lớn hơn cả lợi ích của bản thân nước Mỹ”. Điều này là một cuộc cách mạng thực sự trong sách lược ngoại giao của Mỹ.
Vào cuối những năm 40 và trong những năm 50, Mỹ đã chi ra hàng tỷ Dollar để tái thiết châu Âu và lập liên minh quân sự với các cựu thù của mình như Đức và Nhật Bản cũng như nhiều nước châu Âu khác mà trước đây Mỹ không mấy tin tưởng. Thậm chí, người Mỹ còn mở rộng lá chắn hạt nhân để ngăn chặn khả năng tấn công thông thường của Liên Xô đối với Tây Âu; bằng cách này, người Mỹ đã tự nguyện đứng ra làm mục tiêu của vũ khí hạt nhân Liên Xô. Trong những năm 50 và 60, nhiều khi Mỹ đã chi ra 10 phần trăm hoặc cao hơn 10 phần trăm tổng thu nhập quốc gia cho quốc phòng. Mỹ cũng tiến hành hai cuộc chiến tốn kém tại Triều Tiên và Việt Nam.
Sau Thế chiến hai, vào những năm 50, Mỹ đã gây dựng và thúc đẩy sự phát triển của một trật tự thế giới tự do;  Mỹ đã tạo ra “thế giới tự do”, trong đó hòa bình và thịnh vượng đã có khả năng ra hoa kết trái ở một thời kỳ có một không hai trong lịch sử thế giới.
Mặc dù sự căng thẳng giữa Mỹ và Liên Xô có những lúc gia tăng đến mức nguy hiểm, nhưng về cơ bản, đây là thời kỳ được đánh dấu bởi nền hòa bình giữa các đại cường. Sự có mặt của Mỹ tại châu Âu và Đông Á kết thúc vòng xoáy chiến tranh đã hủy hoại nặng nề hai vùng đất này kể từ đầu thế kỷ 19. Trên thế giới, số lượng các nền dân chủ tăng lên nhanh chóng. Phần lớn thế giới được thụ hưởng một sự thịnh vượng chưa từng có từ trước tới nay. Mặc dù không thiếu những thảm họa và nguy cơ thảm họa cũng như đã xảy ra hai cuộc chiến tốn kém tại châu Á, nhưng về tổng thể, sách luợc trên đã thành công, và thành công đến mức là Đế chế Xô-viết cuối cùng đã sụp đổ cũng như đã phải tự động thoái lui trước những thành tựu về kinh tế và chính trị của Phương Tây. Tất cả những điều trên là kết quả của nhiều yếu tố, nhưng không một thành tích nào có thể hiển hiện nếu không có ý chí của Mỹ đảm trách vai trò bất bình thường của người gìn giữ và bảo vệ một trật tự thế giới vị tự do.
Sự công nhận rộng khắp thế lực của Mỹ, số lượng đông đảo các nước liên minh và thực tế là không có một cường quốc nào liên kết với Liên Xô để chống lại Mỹ đã tạo ra một tình thế có một không hai, đó là: trong lịch sử thế giới, chưa từng có một quốc gia nào đóng một vai trò toàn cầu to lớn như vậy, và cũng chưa từng có một quốc gia nào có khả năng như vậy. Nhưng điều gì sẽ xảy ra nếu như Liên bang Xô-viết tan vỡ và sự đe dọa của chủ nghĩa cộng sản tiêu tan?
III.
Khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, nhiều người đã nghĩ rằng, cuối cùng thì nước Mỹ cũng được giải phóng khỏi cái trách nhiệm toàn cầu nặng nề mà nó đã mang vác hơn 40 năm. Thế giới vào đầu những năm 90 có vẻ như khá ổn vững. Liên bang Xô-viết hồi đó đang nằm trong tình trạng phá sản về chính trị và kinh tế; Trung Quốc bị cô lập về kinh tế và ngoại giao sau vụ thảm sát Thiên An Môn. Vậy thì có mối đe dọa nào bắt nước Mỹ phải tiếp tục gánh chịu vai trò bất bình thường trên thế giới? Liệu nước Mỹ có thể quay trở lại làm một quốc gia bình thường với một định nghĩa bình thường về lợi ích quốc gia?
Tháng Chín 1990, Jeane Kirkpatrick, nữ đại sứ Mỹ tại Liên Hiệp Quốc dưới thời Tổng thống Ronald Reagan, đã tuyên bố một câu trong bài viết “A Normal Nation in a Normal Time”, rằng “không còn có nhu cầu cấp thiết về chủ nghĩa anh hùng và lòng hy sinh” nữa. Kirkpatrick đã nói ra điều mà nhiều người đã nghĩ sau khi bức tường Berlin đổ sụp. Với tiểu luận  “Sự cáo chung của lịch sử”, nhà nghiên cứu chính trị Francis Fukuyama khẳng định rằng, với chiến thắng của dân chủ thì bóng dáng của những thách thức về ý thức hệ và về địa chính trị cũng biến mất. Nỗi nguy hiểm lớn nhất cho tương lai sẽ là cái tẻ nhạt trống rỗng của sự tồn tại trong một chủ nghĩa tự do Tây phương thiếu vắng tinh thần và hủy hoại tâm hồn.
Điều đáng lưu ý là trong hai thập niên đầu  sau Chiến tranh Lạnh, nước Mỹ đã vẫn theo đuổi sách lược ngoại giao tổng thể có từ thời Roosevelt. Tháng Tám 1990, quân đội Iraq của Sadam Hussein tràn vào Kuwait và nuốt trọn xứ này chỉ trong có vài ngày. Cuộc xâm lược đã diễn tiến một cách tàn bạo, nhưng so với những sự kiến chấn động của thế kỷ 20 thì nó vẫn còn khá êm dịu. Mặc dù tiên liệu việc đánh đuổi quân Iraq ra khỏi Kuwait là “hao tốn và bất trắc”, nhưng chính phủ Bush lo rằng nếu được bỏ qua, thì cuộc xâm lăng của Iraq rất có thể sẽ là “một tiền lệ khủng khiếp cho thời đại sau Chiến tranh Lạnh”. Sự tha thứ cho việc lấn chiếm trong một khu vực sẽ kích thích chiến tranh xâm lược tại những khu vực khác. Tổng thống Bush còn nhớ rất rõ những điều này trong các năm 30. Lần này, ông viết trong hồi ký của mình: “Tôi không muốn luôn phải nhượng bộ trước những hành vi bành trướng”.
Vậy là trong vòng 10 năm sau khi Bức tường Berlin sụp đổ, nước Mỹ đã tiến hành hàng loạt những chiến dịch quân sự: Panama (1989), Iraq (1991), Somalia (1992), Haiti (1994), Bosnia (1995), Iraq lần thứ hai (1998) và Kosovo (1999). Không một cuộc chiến nào trong số đó là phản ứng trước một cái gọi là đe dọa sống còn đối với lợi ích quốc gia. Tất cả đều nhằm mục đích bảo vệ và mở rộng trật tự thế giới vị tự do thông qua việc lật đổ các chế độ độc tài và dẹp các cuộc đảo chính.
Bill Clinton mở rộng khối Nato tới Ba Lan, Tiệp, và thúc đẩy hợp tác quân sự với các nước vùng Baltic. Với hàng tỷ dollar, ông tìm cách cứu vớt cuộc thí nghiệm dân chủ còn ngất ngư của Boris Yeltsin tại Nga, và tiến hành một chính sách ngăn chặn dứt khoát đối với Bắc Triều Tiên, Iran và Iraq – những nước bị gọi là “các nhà nước bất hảo” do đã khinh bỉ một trật tự thế giới vị tự do. Những xung đột tại các vùng xa xôi và bất ổn không phải là điều vô hại đối với lợi ích của nước Mỹ.
Theo nhận định thông thường thì người Mỹ hôm nay đã mệt mỏi với chiến tranh. Nhưng có lẽ sẽ chính xác hơn nếu cho rằng người Mỹ đã “mệt mỏi với thế giới”. Ngày hôm nay, hơn 50 % người Mỹ nghĩ là “trên trường quốc tế, nước Mỹ chỉ nên quan tâm tới các vấn đề của mình và phó mặc cho các quốc gia khác tự giải quyết công việc của họ” – đó là một tỷ lệ cao chưa từng có trong lịch sử thăm dò dư luận tại Mỹ.
IV.
Các sử gia thường nói đến quá trình trưởng thành của chính sách ngoại giao Mỹ kể từ thế kỷ 19. Nhưng nếu một quốc gia có thể học hỏi dần thì nó cũng có khả năng quên dần. Khi quan sát kỹ hơn đường lối ngoại giao của Mỹ hiện nay và các cuộc tranh luận về nó, dần dần người ta sẽ có cảm giác là những tiền đề của sách lược tổng thể thời Roosevelt đã bị lãng quên. Cũng có lẽ đó là điều không thể tránh khỏi. Ngày nay, Thế chiến hai đối với những người sinh vào thời kỳ chuyển tiếp thiên niên niên kỷ cũng xa xưa như cuộc Nội chiến Mỹ đối với thế hệ những năm 30. Một thế hệ không còn nhớ đến thời Chiến tranh Lạnh và chỉ trải qua các cuộc xung đột tại Iraq và Afghanistan sẽ có một cách nhìn khác về vai trò của Mỹ trên thế giới. Người Mỹ hôm nay không còn là những kẻ cô lập như thời những năm 20. Họ ủng hộ một trật tự thế giới tự do khi nào nó cho họ thấy một nguồn lợi trước mắt. Nhưng họ không còn muốn phải hy sinh nhiều để giữ vững trật tự thế giới đó. Như thần Atlas, người Mỹ đang phải vác nặng thế giới trên đôi vai của mình. Đó là một trách nhiệm vĩ đại. Số tiền khổng lồ  mà họ phải chi ra cho kinh phí quốc phòng lớn hơn tất cả số tiền của các quốc gia khác cộng lại. Vậy thì liệu những đồng minh của họ có thể sẽ có những đóng góp lớn hơn không?
Câu hỏi này đã được đặt ra từ khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, nhưng câu trả lời luôn luôn là: Rất có khả năng không! Những nguyên do cho phép nước Mỹ bảo vệ trật tự thế giới tự do cũng lý giải vì sao những đồng minh của Mỹ luôn rụt rè và ít có khả năng làm việc này:  Họ không có sức mạnh và sự an toàn để có thể nhìn vuợt qua lợi ích quốc gia đã bị định nghĩa hẹp của họ và phản ứng một cách thích đáng. Vì thế, chỗ nào mà họ đã thất bại thì họ cũng sẽ lại thất bại. Ngay cả những người châu Âu của thế kỷ 21 với những thành tựu tuyệt vời của họ trong quá trình thống nhất chính trị có vẻ cũng hoàn toàn không có khả năng nắm tay nhau để chống lại một “con thú dữ”, và cũng như trong quá khứ, nếu cần thiết thì họ cũng sẵn sàng ném những kẻ ốm yếu cho “con thú dữ” đó xé xác để cứu vãn sự an toàn (cho túi tiền) của họ.  Đạo đức cũng có giá của nó.
Như phần lớn nhân loại, người Mỹ rất thích tin rằng họ sẽ hành xử đúng và đứng vào phía đúng. Họ cũng mong rằng những hành động của họ là chính nghĩa hay là hợp pháp.
Nhưng trên thế giới không tồn tại một cơ cấu đảm bảo trật tự có tổ chức và theo một luật lệ toàn cầu, đó là chưa nói đến việc nó không thể có một cơ cấu đảm bảo trật tự dân chủ mà tất cả các quốc gia phải tuân theo. Vấn đề chính nghĩa hay phi chính nghĩa không được phân định bởi một tiến trình tìm lẽ phải vô tư, mà hoàn toàn phụ thuộc vào sự phân chia quyền lực trong hệ thống. Về nguyên tắc, để hợp lý thì ngoài lòng tin của bản thân, người Mỹ phải sử dụng sức mạnh của mình để thực hiện những ý tưởng về chính nghĩa của mình mà không cần thêm sự công nhận của bên ngoài. Đó là một gánh nặng về đạo đức cho một xã hội dân chủ. Ở quốc gia của mình, người Mỹ đã quen với việc chia xẻ đều gánh nặng này cho những đôi vai khác nhau trong xã hội. Người dân tạo ra luật pháp, cảnh sát làm cho pháp luật có giá trị, thẩm phán và bồi thẩm ra phán quyết và nhân viên nhà tù thực thi bản án. Trong khi đó, trên trường quốc tế, nước Mỹ vừa là thẩm phán, bồi thẩm, vừa là cảnh sát, và khi có hành động quân sự thì nó đóng luôn cả vai đao phủ. Cái gì đã cho phép nước Mỹ hàng động nhân danh một trật tự thế giới vị tự do? Thực tế là không có cái gì như thế cả, ngoài lòng tin rằng trật tự thế giới vị tự do là một thực thể chính nghĩa nhất.
Nan đề đạo đức này có thể dễ dàng được bỏ qua vào thời Chiến tranh Lạnh; khi đó mọi hành động, ngay cả khi chúng được tiến hành ở những nơi xa xôi nhất, cũng có thể được biện hộ bởi quyền lợi quốc gia lành mạnh. Ngược lại, những biện pháp bảo vệ trật tự thế giới luôn làm bật ra những câu hỏi phức tạp về đạo đức. Mỹ và châu Âu khẳng định rằng chủ quyền của Ukraine là bất khả xâm phạm và người  Ukraine phải được quyền quyết định rằng họ có nên trở thành một thành viên của Liên minh châu Âu hay không. Vladimir Putin biện hộ việc sáp nhập Krym vào Nga bằng những ràng buộc lịch sử và lý giải sự kiện này là một phản ứng trước  việc Mỹ và châu Âu can thiệp vào một khu vực ảnh hưởng lịch sử của Nga. Vậy ai là người có khả năng vô tư để phân định đúng sai giữa những quan niệm đối chọi nhau về pháp lý như trên? Sẽ vô vọng nếu như mang cách nhìn được coi là có ưu thế về đạo đức của thế kỷ 21 đối chọi với  tiêu chuẩn đạo đức được coi là yếu thế của thế kỷ 19.
Thế kỷ hiện nay của chúng ta cũng chẳng có nhiều hơn cái gọi là đạo đức tuyệt mỹ như những thế kỷ đã qua. Và trong thế kỷ này các đại cường cũng không hề trong trắng hơn khi bị lôi kéo vào những xung đột như trong các thế kỷ khác. Tất cả đều ích kỷ, tất cả đều thoả hiệp về đạo đức. Thực tế là như vậy – một quốc gia càng hùng mạnh bao nhiêu thì càng dễ có xu hướng hành xử chẳng có gì là phù hợp với các giá trị đạo đức của Cơ đốc giáo hay là của thời Khai sáng.
Ai có thể khẳng định được rằng việc bảo vệ trật tự thế giới vị tự do là nhất thiết đúng đắn? Người ta chưa bao giờ cho nhân dân toàn thế giới bỏ phiếu tán thành hay phản đối một trật tự thế giới vị tự do. Trật tự này không phải là do Chúa tạo ra. Nó cũng không phải là điểm kết thúc của tiến bộ loài người. Nó chỉ là một trật tự thế giới tạm thời đáp ứng nhu cầu, lợi ích và trước hết là lý tưởng của một bộ phận đông đảo và hùng mạnh, chứ không nhất thiết phải là đòi hỏi và mong muốn của tất cả mọi người. Chủ nghĩa cộng sản có thể là đã phá sản, nhưng tư tưởng toàn trị và các nhà nước chuyên chế vẫn còn. Và không phải là dân chủ, mà chính sự chuyên chế mới là cái đã từng là thước đo trong lịch sử loài người.
Trong những thập niên vừa qua, dưới sự lãnh đạo của Mỹ và châu Âu, dân chủ đã có sức mạnh để xây dựng thế giới theo những ý tưởng của mình. Nhưng ai dám nói rằng Chủ nghĩa Putin ở Nga hay là dạng thái đặc biệt của chuyên chế tại Trung Quốc sẽ không có khả năng tồn tại lâu đúng như nền dân chủ châu Âu, cái mà ở ngoài nước Anh ra thì cho đến nay mới có nhỉnh hơn 100 năm tuổi? Đối với một quốc gia mệt mỏi về quyền lực thì điều này là một câu hỏi làm rối trí. Nhà nghiên cứu chính trị Hans Morgenthau có lần đã nhắc nhở rằng người Mỹ có lẽ “sẽ rất thích thú với ảo tưởng là một quốc gia… sẽ thoát khỏi sách lược quyền lực”, rằng sẽ đến lúc “tấm màn kết thúc sẽ được kéo xuống và trò chơi quyền lực sẽ không còn tiếp diễn”. Suy nghĩ trốn tránh thực tế này đã có một đồng vọng rộng lớn vào những năm cuối thời Chiến tranh Lạnh. Năm 1989 Fukuyama tuyên bố với người Mỹ rằng, với sự cáo chung của lịch sử thì “nền dân chủ vị tự do sẽ không còn đối thủ ý thức hệ nào cần phải chú ý”. Tiến bộ dân chủ là không thể tránh khỏi, và vì vậy, người ta không còn cần phải làm bất cứ gì để thúc đẩy và bảo vệ nó. Trong thời đại mới, cái mà nước Mỹ cần là cắt giảm quyền lực cứng (hard power) và tăng cường quyền lực mềm (soft power).
Đó là suy nghĩ chủ đạo, ít nhất là từ cuối thời Chiến tranh Lạnh cho tới năm 2008 và cho tới khi bắt đầu cuộc khủng hoảng tài chính. Đó là lúc xảy ra sự chuyển đổi mô hình. Bây giờ không phải là hồi kết của lịch sử, mà là hồi kết của nước Mỹ, hồi kết của phương Tây. Khúc khải hoàn đã nhường chỗ cho học thuyết thoái trào. Nếu như trước đó người ta cho rằng việc nước Mỹ dùng sức mạnh của mình để hướng dẫn thế giới vào một trật tự nhất định là không cần thiết, thậm chí là sai trái, thì ngày nay đột nhiên người ta thấy rằng điều đó không còn có khả năng xảy ra, vì Hợp chúng quốc đã không còn đủ sức. Các quan chức cao cấp trong chính phủ Mỹ, đặc biệt là giới trẻ, cho rằng trong cuộc xung đột tại Syria, Mỹ đã bị trói buộc chân tay quá nhiều. Đây là một bài học cho thế hệ của họ, bài học từ Iraq và Afghanistan: rằng Mỹ không còn sức mạnh, không còn sự hiểu biết, và cũng không còn cả khả năng giải quyết các vấn đề của thế giới.
Nhưng chính quan điểm cho rằng những hoạt động quốc tế chỉ là vô bổ lại cất giấu trong lòng nó một huyền thoại. Qua cặp kính màu hồng, chúng ta nhìn lại Chiến tranh Lạnh và tưởng tượng rằng nước Mỹ lúc đó đã dễ dàng thúc đẩy các quốc gia khác làm những gì mà Mỹ muốn. Nhưng nếu bỏ sang một bên những thành công, thì trong Chiến tranh Lạnh, sách lược ngoại giao của Mỹ cũng đã phạm phải hàng loạt những lỗi lầm, những xuẩn ngốc, nhiều tai nạn và cả một số thảm họa theo đúng nghĩa. Ngay từ đầu, các đồng minh của Mỹ đã tự chứng tỏ là họ thích gây rối, hay hờn dỗi và luôn bướng bỉnh. Phải chăng giới chiến lược gia của ngày hôm nay thật sự nghĩ rằng những người tiền nhiệm của họ trong các chính phủ trước đây có nhiều thuận lợi hơn họ?
Đường lối ngoại giao của bất kỳ quốc gia nào cũng thường thất bại nhiều hơn thành công. Ngay cả những cố gắng tác động vào hành xử của dân chúng trong nội địa cũng đã rất khó khăn. Vậy thì việc gây ảnh hưởng lên những dân tộc khác, quốc gia khác mà không lạnh lùng hủy diệt họ đương nhiên phải là một công việc khó khăn nhất của loài người. Điều chắc chắn trong ngoại giao –  nó cũng chắc chắn như sự tồn tại của loài người chúng ta, là tất cả những hành động giải quyết các vấn đề chỉ có thể làm nẩy sinh ra những vấn đề mới. Và điều này có giá trị cho mọi cuộc chiến tranh. Không có một cuộc chiến nào có kết cục hoàn hảo, ngay cả những cuộc chiến có những lý cớ tốt đẹp nhất cũng như vậy. Tiêu chuẩn cho một chiến thắng không nằm ở chỗ là kết quả cuối cùng có đáp ứng 100 % ước vọng ban đầu hay không, mà là liệu kết quả không ưng ý đã đạt được tốt hơn hay xấu hơn so với cái kết quả sẽ có nếu không có hành động. Việc chỉ chú tâm vào những kết quả phục vụ những mục tiêu tối đa với tốn phí tối thiểu là một biểu hiện của tâm thức trốn chạy thực tế.
Thực tế cho thấy người Mỹ ngày nay có vẻ như bị quá tải trước sự phức tạp của thế giới. Họ mong muốn được quay trở lại vị trí “vô tội của người vô trách nhiệm” như nhà thần học Mỹ Reinhold Niebuhr có lần đã nói, hay ít nhất cũng là có được một vị trí bình thường để nước Mỹ có thể giảm thiểu mức độ đóng góp cho thế giới. Với phương cách đó, nước Mỹ có thể sẽ quay trở về không khí của những năm 20. Tuy nhiên, ở đây có một điều khác biệt: Trong những năm 20 người Mỹ tin là Anh quốc và châu Âu có trách nhiệm bảo vệ cái trật tự thế giới mà họ đã tạo ra. Còn bây giờ, liệu người Mỹ có hiểu ra rằng lần này chỉ có họ mới có khả năng giữ vững trật tự thế giới đó?
Khi Tổng thống Obama mới nhậm chức, Peter Baker đã viết trên tờ New York Times rằng Obama muốn “tiếp nhận một thế giới như nó đang hiện hữu chứ không phải như người ta có thể mong muốn”. Đó chính là gốc rễ của cái điệp khúc mà các đại diện của nội các Obama luôn luôn đưa ra để giải thích tại sao Tổng thống lại chống việc tiến hành các hoạt động tại nơi này hay nơi kia trên thế giới để phấn đấu cho một “lý tưởng” đáng mơ ước nhưng khó thực hiện. Có vẻ như càng ngày càng ít người hiểu được rằng, đối với người Mỹ và nhiều người khác, 70 năm qua là một thời hạn ân huệ của chính cái thế giới “đang hiện hữu”.
Giai đoạn hòa bình và thịnh vượng có thể làm cho con người quên mất bản chất thật sự của cái thế giới  “đang hiện hữu”; nó cũng ru ngủ con người với lòng tin là loài người đã đạt đến một cấp bậc sinh tồn cao hơn. Người ta công bố những kết quả nghiên cứu thực nghiệm cho thấy đã đến “giai đoạn chuyển hóa của các quan hệ quốc tế”, và “sự thay đổi biên giới bằng vũ lực” đã giảm mạnh “kể từ năm 1946″.
Nhưng liệu có phải ngẫu nhiên mà trào lưu đáng phấn khởi như trên đã xuất hiện sau khi trật tự thế giới kiểu Mỹ được tạo dựng sau Thế chiến thứ hai? Thật ra thì thế giới – như nó “đang hiện hữu”, là một nơi đầy nguy hiểm và nhiều khi rất tàn bạo. Hành xử của con người, và cả các quan hệ quốc tế, về cơ bản cũng chẳng có nhiều thay đổi. Ngay cả trong thế kỷ 21, vũ lực vẫn là phương tiện cuối cùng. Vấn đề được đặt ra không phải là các quốc gia có sẵn sàng sử dụng vũ lực hay không, mà là các quốc gia đó nghĩ rằng, nếu sử dụng vũ lực thì họ có bị trừng phạt hay không. Khi Vladimir Putin thấy rằng không thể đạt được những mục tiêu của mình tại Ukraine bằng phương tiện chính trị và kinh tế, ông ta đã dùng đến vũ lực vì tin rằng mình có thể làm như vậy. Chừng nào vẫn còn tin rằng hiệu quả cao hơn cái giá phải trả khi dùng vũ khí, ông ta sẽ tiếp tục sử dụng vũ lực. Suy tính này cũng không có gì đặc biệt. Trong cách nhìn như vậy, liệu Trung Quốc sẽ làm tất cả những gì nếu như họ không bị ngăn cản bởi một hàng rào nhiều cường quốc được sự hỗ trợ của Mỹ? Và cũng trong mối liên quan này: Nhật Bản sẽ làm gì nếu như nó sẽ mạnh lên nhiều và ít phụ thuộc hơn vào nước Mỹ? Hiện tại chúng ta chưa phải tìm trả lời cho câu hỏi này vì với vị thế thống lĩnh của Mỹ, chiếc hộp thần tai họa của Pandora vẫn còn được giữ kín.
Hệ thống thế giới là một đan kết chặt chẽ của các tương quan sức mạnh, trong đó mỗi một quốc gia – từ lớn nhất cho tới nhỏ nhất, luôn phải ghi nhận một cách tinh vi những biến động và quấy rối. Từ 1945, và nhất là từ 1989, mối đan kết này đã được tạo ra để choàng vào nước Mỹ. Các đồng minh quan sát thái độ của Mỹ và tìm cách đánh giá độ tin cậy của nó. Các quốc gia cảm thấy bị Mỹ chèn ép hay đe dọa thì soi tìm những chỉ dấu tăng giảm về sức mạnh và quyết tâm của nó. Và khi nước Mỹ có vẻ như lùi bước, thì các đồng minh của nó an lòng trong khi các quốc gia khác hoan hỉ chờ cơ hội.
Trong những năm qua, thế giới đã tiếp nhận những tín hiệu cho thấy người Mỹ không còn muốn tiếp tục gánh vác trên vai sức nặng của trách nhiệm toàn cầu. Mới đây, khi nói về chuyện tiến quân vào Syria, Tổng thống Obama tuyên bố: “Đó không có nghĩa là việc này không đáng làm. Nhưng sau một thập niên chiến tranh, nước Mỹ đã tiến tới giới hạn của mình.”
Đến hôm nay thì những chỉ dấu sụp đổ của trật tự thế giới đã xuất hiện ở khắp nơi. Khi Nga tiến quân vào Ukraine và thâu tóm Krym, thì đây là lần đầu tiên kể từ sau Thế chiến hai, một quốc gia châu Âu đã xâm chiếm lãnh thổ của nước khác. Nếu Iran chế tạo bom nguyên tử, các nước khác bắt buộc phải làm theo. Iran, Saudi Arabia và Nga tiến hành chiến tranh uỷ nhiệm tại Syria, giết hại cho đến nay là 150.000 người và làm cho hàng triệu người phải phiêu bạt. Và những sự kiện mới đây tại Syria và Iraq đang làm tăng khả năng hình thành một nhà nước Thánh chiến Hồi giáo tại trung tâm Cận Đông, một nhà nước không chấp nhận biên giới. Nếu trào lưu này tiếp diễn thì trong tương lai gần, chúng ta sẽ có nhiều chiến tranh về lãnh thổ hơn, nhiều bạo lực vì sắc tộc và tôn giáo hơn, và sẽ nhìn thấy một thế giới vị tự do càng ngày càng thu hẹp.
Câu hỏi là nước Mỹ phải phản ứng ra sao. Liệu nước Mỹ sẽ còn sống sót khi Syria vẫn ở trong tay của Assad hay – có khả năng hơn, là Syria sẽ bị phân rã và trong vòng hỗn loạn,  quân Thánh chiến sẽ kiểm soát thêm nhiều vùng đất mới? Liệu nước Mỹ sẽ còn sống sót nếu như Iran có trong tay bom nguyên tử và để đáp lại thì sẽ xuất hiện những quả bom như vậy tại Saudi Arabia, tại Thổ Nhĩ Kỳ và tại Ai Cập? Liệu nước Mỹ sẽ còn sống sót trong một thế giới mà trong đó nước Nga thống lĩnh Đông Âu, không phải chỉ là ở Ukraine, mà ở cả vùng Baltic và có thể là cả Ba Lan?
Tất nhiên là nước Mỹ có thể còn sống sót. Có thể việc can thiệp thực tế là không bức thiết. Nước Mỹ vẫn có thể làm ăn buôn bán với một Trung Quốc nắm quyền thống lĩnh và cũng có thể tìm thấy một phương thức thỏa thuận chung sống với một đế quốc Nga tái hùng cường. Rồi sẽ như trong quá khứ, người Mỹ sẽ là những người cuối cùng phải chịu nỗi đau khi trật tự thế giới sụp đổ. Và khi họ thực sự cảm nhận được nỗi đau đó thì đã là rất muộn.
Nhà nghiên cứu chính trị Mỹ Robert Osgood, có thể được coi là tư tưởng gia chính trị thực tiễn thông minh nhất của thế kỷ vừa qua, khi nhìn lại thời kỳ trước Thế chiến hai đã phát hiện ra một điều kinh hoàng: Những định nghĩa thuần thực dụng về “lợi ích quốc gia” là hoàn toàn không đủ. Điều nghịch lý là chính những “người có lý tưởng” đã là những người phản ứng một cách “đặc biệt nhanh nhậy trước nguy cơ phát-xít đối với văn hóa và văn minh phương Tây”.  Lý tưởng chủ nghĩa là một “động cơ tinh thần không thể bỏ qua để con người có thể nhận ra những đòi hỏi bắt buộc của một chính sách quyền lực”. Điều này cũng chính là thông điệp của Roosevelt khi ông kêu gọi người Mỹ phải đứng lên bảo vệ “không những nhà cửa đất đai, mà cả lòng tin và tình người của họ”.
Có lẽ người ta lại phải khuyến khích người Mỹ làm như vậy ngay cả khi không có sự đe dọa của một Hitler mới. Nhưng lần này nước Mỹ sẽ không có một thời gian dài 20 năm để suy tính và quyết định. Thế giới biến chuyển nhanh hơn sức tưởng tượng của người Mỹ. Và sẽ không có một siêu cường dân chủ nào khác túc trực đằng sau sân khấu để cứu vãn thế giới nếu như nước Mỹ, siêu cường dân chủ duy nhất hiện nay, tỏ ra ngần ngại.
Nguồn: Robert Kagan: ”Die Welt wird zu gefährlichwenn Amerika den Führungsanspruch aufgibt“, Spiegel 26/2014
Theo : PRO& CONTRA

24/6/14

Kinh Tế và Thế Chiến


Kinh Tế và Thế Chiến


Nguyễn-Xuân Nghĩa - Người Việt Ngày 140623
"Kinh Tế Cũng Là Chính Trị"

Chủ nghĩa quốc gia dân tộc trong những sai lầm của thế giới



Nữ lao công chất bom ở hậu phương cho tiền tuyến

Kể từ tuần này và suốt bốn năm tới, giới bình luận thế giới sẽ còn nói về một biến cố xảy ra đúng trăm năm trước, trận "Thế Chiến I", bùng nổ từ ngày 28 Tháng Bảy năm 1914 và chính thức kết thúc ngày 11 Tháng 11 năm 1918. Rất ngắn gọn, bài này sẽ nói về chuyện đó từ giác độ kinh tế, và mở ra thế giới ngày nay.

***
Mọi sự có thể khởi đầu từ một tai nạn nhỏ.

Ngày 28 Tháng Sáu, tại thủ đô Sarajevo của xứ Bosnia nằm giữa Âu Châu, cỗ xe của Đại công tước Áo là Franz Ferdinand đi lạc, và người sẽ lên làm Hoàng đế của Đế quốc Hung Áo cùng bà vợ đã bị ám sát trong ngõ hẻm. Như một lò xo nhỏ xíu, vụ ám sát bật lên chuỗi nổ liên hoàn của hệ thống liên minh giữa Hiệp ước Tam quốc Anh-Pháp-Nga với Đồng minh Trung ương (chủ yếu là ba Đế quốc Đức, Hung-Áo và Ottoman). Một tháng sau thì dẫn tới đại chiến.

Trận đại chiến trở thành Thế chiến khi nhiều nước ngoài Âu Châu cũng bị lôi vào cuộc, kể cả Trung Hoa, Nhật Bản và nhất là Hoa Kỳ. Kết cuộc thì có 10 triệu chiến binh tử vong, bảy tám triệu thường dân mất mạng và năm sáu chục triệu người bị vạ lây....

Bây giờ, ta nói chuyện kinh tế!

Trong bốn năm liền, các đại cường Âu Châu dành phân nửa sản lượng kinh tế cho quân phí và vì không thu đủ thuế nên mới đi vay. Tức là mắc nợ cả kinh tế - lẫn chính trị sau này. Khi chiến tranh kết thúc, nhà nước phải chu cấp cho người dân vì bốn năm khắc khổ nên mở ra chế độ bao cấp và tăng cường bộ máy can thiệp vào kinh tế. Trong cảnh chi thu eo hẹp ấy - vì có đâu lợi tức mà đánh thuế? - người ta tìm đến giải pháp lạm phát. Như chuyện Việt Nam sau 75.

Tiết kiệm của thành phần trung lưu Âu Châu bị loại thuế trá hình đó bào mỏng, cho nên một thế hệ sau vẫn còn khốn đốn, với hậu quả lây lan từ kinh tế sang chính trị.

Về chính trị quốc tế, các Đế quốc Âu Châu như Anh và Pháp đều có thuộc địa. Khi mẫu quốc lâm nguy, họ huy động tài nguyên từ hậu phương lớn của hệ thống thực dân. Tài nguyên đó cũng là con người, là binh lính hay lao công Á, Phi, Úc. Nhờ vậy, chiến binh, lính thợ và nhất là trí thức từ các thuộc địa Á Châu có dịp nhìn thấy tại chỗ sự suy nhược của Âu Châu. Và nêu câu hỏi về chế độ thực dân và nền văn minh da trắng. Trong số này, có những người như Mohandas Gandhi, Chu Ân Lai hay Phan Chu Trinh.... Khi ấy, Hồ Chí Minh khi đó mới là trẻ ranh học lóm.

Sự chuyển dịch về sức nặng Âu Châu, khởi sự từ năm 1492 khi Columbus khám phá Tân Thế Giới, cũng bắt đầu - và đầu tiên là từ đệ nhất cường quốc toàn cầu thời đó: Đế quốc Anh.

Về nội lực, nước Anh mất toi 70 ngàn người và một thế hệ: trong số tốt nghiệp Oxford khóa 1913, có 31% bị tử vong. Đang là cường quốc kinh tế số một của địa cầu, Anh tụt hạng và mắc nợ một cường quốc mới nổi là Hoa Kỳ.

Khi Thế chiến I bùng nổ, Mỹ cố giữ thế trung lập, là chủ nợ của các nước tham chiến trong nhiều năm liền. Cho đến khi thương thuyền hàng hải Mỹ bị Đức tấn công và luồng chuyển vận trên Đại Tây dương bị đe dọa bởi liên minh Đức-Mễ, dư luận Hoa Kỳ xoay chiều và cho phép Quốc hội khai chiến vào đầu Tháng Tư năm 1917. Bảy tháng sau, Hoa Kỳ mới thực sự tham chiến khi ngần ấy nước Âu Châu đã đuối sức. Kết cuộc thì từ vị trí quốc gia mắc nợ nhiều nhất vì cuộc Nội chiến, Hoa Kỳ trở thành đại cường chủ nợ số một của thế giới.

Là tài chủ khắt khe, Mỹ không chịu giảm nợ cho hai đồng minh Anh-Pháp khiến hai đế quốc tàn tạ này thi đua gọt đầu quốc gia bại trận là Đức, qua Hiệp ước Versailles năm 1919. Với dân Đức, quân viễn chinh có bị đánh bại nhưng lãnh thổ vẫn còn nguyên vẹn nên họ không tin rằng Đức thua trận, rồi bất mãn vì phải bóp bụng bồi thường chiến tranh, lại còn mắc nợ cả Mỹ....

Trong chục năm sau đó, từ 1919 đến 1929, hệ thống tài chánh toàn cầu là những món nợ chằng chịt. Tại Đức, chính quyền non yếu tài trợ gánh nợ bằng lạm phát phi mã, dẫn đến tinh thần phẫn uất trả thù, rồi phong trào Đức quốc xã của Hitler. Đấy là khi kinh tế với chính trị lồng làm một.

Trên đà thắng lợi của một đại gia chủ nợ và cường quốc số một trên Đại Tây dương, Hoa Kỳ có lúc hồ hởi sảng, rồi hốt hoảng bậy khi thị trường chứng khoán Wall Street sụt giá vào năm 1929. Biến cố ấy chặn đứng dòng tư bản chảy từ Tây về Đông, khiến Đức vỡ nợ, Đông Âu khủng hoảng và Hitler lên ngôi. Đấy là trận Tổng khủng hoảng 1929-1933, với tai họa về chính sách là chủ trương bảo hộ mậu dịch, theo kiểu "đèn nhà nào nhà ấy rạng và mạng người nào người ấy giữ". Sự bần cùng hóa tập thể cũng là cái mầm sâu xa của một trận đại chiến nữa, Thế chiến II, biến cố nổi danh về số lượng nhân sinh bị tàn sát.

Y như lần trước, Hoa Kỳ cũng lần lữa đứng ngoài và chỉ tham dự rất trễ, tổn thất ít nhất và trở thành siêu cường số một.

Thế còn siêu cường số hai?

Khi Thế chiến I bùng nổ, dưới sự lãnh đạo của Tổng thống đại trí thức Woodrow Wilson, dân Mỹ theo đuổi lý tưởng "dân chủ đại đồng" của một thế giới có thể sống chung hòa bình qua một tổ chức quốc tế là Hội Quốc liên (League of Nations), dĩ nhiên là do Hoa Kỳ giữ vai điều hợp. Bên kia hai đại dương, Liên bang Xô viết mới nổi từ cuộc đảo chính của một lãnh tụ đại trí thức khác là Lenin thì theo đuổi lý tưởng "vô sản vô cương", một thế giới hết biên cương và giai cấp, dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân, dĩ nhiên là do Nga Xô giữ vai lãnh đạo.

Đấy là siêu cường số hai, được Hoa Kỳ yểm trợ và cứu đói khi vừa thành hình năm 1917. Và hùng cứ được 70 năm thì tàn!

Trong một giai đoạn khá lâu, nhất là qua 40 năm Chiến tranh lạnh, thế giới cứ đong đưa giữa hai ảo tưởng đại đồng và vô sản đó mà không nhìn ra động lực quốc gia. Đầu tiên mà không duy nhất là Hitler, chuyện đã nói.

Từ rất xa, Nhật có tham chiến bên phe đồng minh thì thất vọng vì các nước da trắng không chấp nhận quyền bình đẳng màu da trong hiến chương của Hội Quốc liên nên lui về chủ nghĩa dân tộc cùng chế độ quân phiệt. Là cái mầm sâu xa của trận Trân Châu Cảng năm 1941.

Cũng từ rất xa, Trung Hoa Dân Quốc có góp 10 vạn dân công cho Âu Châu - với hai ngàn người đã chôn xác tại Pháp - nhưng trí thức bất mãn vì các nước Âu Châu không trả lại cho Tầu vùng đất bị Đức chiếm đóng mà trao cho Nhật. Đấy là cái lò xo của phong trào Ngũ Tứ vào Tháng Năm 1919, dẫn tới sự thành lập của đảng Cộng sản Trung Hoa, với sự yểm trợ của Liên Xô.

Trên mảnh vụn của Đế quốc Ottoman, qua mật ước Sykes-Picot trong Thế chiến I, hai nước Anh Pháp đã xé ra và ráp lại vùng đất của các sắc tộc và hệ phái Hồi giáo tại vầng Đông của Địa Trung Hải thành ra một địa dư hình thể mới. Mảng dư đồ ấy đang bị nhiều lực lượng "sắc giáo" – một chữ mới để nói về tôn giáo và sắc tộc - phủ nhận bằng hành vi khủng bố tại Trung Đông.

Động lực ngầm bên dưới không là tư tưởng dân chủ, lý tưởng đại đồng, hay ý thức hệ vô sản, mà là chủ nghĩa dân tộc... Phương pháp có thể là khủng bố, là tập trung quản lý kế hoạch hay kinh tế thị trường có định hướng nhà nước, nhưng trọng tâm vẫn là quyền lợi quốc gia. Chúng ta rơi vào chuyện ngày nay tại Đông Âu, Đông Hải và Trung Đông!

Trong chuyện trăm năm ấy, quyền lợi của quốc gia Việt Nam thì sao? – Xin hỏi người Hà Nội!




NXN



Source : Người Việt . dainamax tribune

15/6/14

Thụy Khuê : Albert Camus (1913-1960)


Albert Camus (1913-1960)
  
Thụy Khuê
  Albert Camus sinh tại Mondovi, thuộc vùng Constantinois, miền Ðông Algérie, ngày 7 tháng 11 năm 1913 và mất ở Villeblevin, gần Montereau, phía đông nam Paris, trong một tai nạn xe hơi ngày 4 tháng 1 năm 1960. Xuất thân trong một gia đình nghèo, học triết song phải bỏ dở vì bệnh lao. Bệnh tật và nghèo đói là hai yếu tố tác thành cái mà sau này Camus gọi là phi lý và tạo nên một ước muốn gần như vô vọng để sống còn, đó là nền móng cơ bản trong Camus con người và tác phẩm.
 Bắt đầu viết báo và gia nhập đảng Cộng Sản từ năm 1934 đến 1937. Tại Alger, Camus xây dựng nhóm Théâtre du travail (Kịch Lao Ðộng), điều khiển một nhà văn hóa và cho in hai tập tiểu luận đầu tiên: L'envers et l'endroit (Bề Trái Và Bề Mặt), 1937 và Noces (Giao Cảm(1)), 1938. Giữa những năm 38 và 40, hoạt động của Camus trong tờ Alger Républicain  rồi Soir Républicain  tố cáo những bất hạnh của người Hồi giáo, đã buộc ông phải rời bỏ Algérie vì bị chính quyền thuộc địa trù ếm, không kiếm được việc làm.
 Trong đại chiến thứ hai, tại Pháp, Camus làm việc cho Combat (Ðấu Tranh) ngay khi tờ báo còn trong thời kỳ bí mật. Sau khi nước Pháp được giải phóng, Camus trở thành chủ bút tờ Combat, một diễn đàn quan trọng trong lịch sử báo chí Pháp.
 Năm 1942, cho in tập Le mythe de Sisyphe (Huyền Thoại Sisyphe) và cuốn tiểu thuyết đầu tiên L'étranger (Người Xa Lạ), hai tác phẩm chủ yếu của Camus. Tiếp theo là hai kịch bản Le malentendu (Ngộ Nhận) 1944 và Caligula 1945.
 Năm 1945, khi người dân thành phố Sétif ở Algérie nổi dậy và bị đàn áp đẫm máu, Camus đã tìm mọi cách đánh động lương tâm người Pháp nội địa. Nhưng vô hiệu.
 Năm 1937, tiểu thuyết La peste (Dịch Hạch) ra đời, tạo được tiếng vang lớn. Rồi sự xuất hiện của tập tiểu luận L'homme révolté (Người Nổi Loạn) năm 1951, dẫn đến các cuộc bút chiến sôi nổi và sự đoạn tuyệt giữa Sartre và Camus. Sartre trách Camus, trong cách phê bình đã lẫn lộn Nazi và Staline, trong khi Camus chỉ muốn xác lập một thứ đạo đức quần chúng hướng về tình nhân loại, trực diện với tội ác, một cách nối dài Dịch Hạch. 1956 xuất hiện La chute (Sa Ðọa(2)), tác phẩm quan trọng cuối cùng của Camus.
 Giải thưởng Nobel 1957 trao cho toàn bộ sự nghiệp văn học của Albert Camus. Kết hợp hài hòa giữa ba yếu tố: Con người, hành động và tác phẩm, Camus tạo ra một toàn bộ chữ nghĩa hướng về thân phận con người, khởi đi từ phi lý, dẫn đến nổi loạn và tự do.
 
 
Albert Camus, giữa ánh dương và khốn cùng
 "Je fus placé à mi-distance de la misère et du soleil". Tôi đã được đặt giữa khốn cùng và mặt trời. Tôi sinh ra giữa ánh dương và cùng khốn. Albert Camus viết như thế trong tập tiểu luận đầu tay L'envers et l'endroit (Bề Trái Và Bề Mặt) xuất hiện năm 1937 tại Alger. Khốn cùng và mặt trời, là hai diện sắc của Algérie Châu Phi, quê hương Albert Camus, nhà văn nhân bản nhất của Pháp trong thế kỷ XX.
 Ngay từ những trước tác đầu tiên, khi còn rất trẻ, Camus đã nhìn nỗi đau Alger như một vết thương mở ngỏ về phía trời (Alger ... s'ouvre dans le ciel comme une bouche ou une blessure).Noces là một tập tùy bút tình ca viết cho quê hương Algérie, quê hương của màu da, của nghèo đói, dậy mùi khổ ngải(3) đắng cay, rạng ánh mặt trời và thẳm sâu biển cả. Noces là một tụng ca tình đất và tình người. Noces hôn phối những địa danh Tipasa, Djémila, Oran, Alger với sa mạc, với những khổ đau và nô lệ, với niềm hoan lạc vô bờ trong tình yêu và sự xác tín về cái chết vô vọng rút ra từ kinh nghiệm một "nghề làm người" (métier d'homme).
 Sau này, Camus giải thích cách phân phối tác phẩm của mình:
 "Trước hết, tôi muốn diễn tả sự phủ định dưới ba hình thức: bằng tiểu thuyết với Người Xa Lạ, bi kịch với Caligula và Ngộ Nhận, và tư tưởng với Huyền Thoại Sisyphe.
 Tôi tiên liệu khía cạnh tích cực, cũng dưới ba hình thức: tiểu thuyết với Dịch Hạch, bi kịch với L'état de siège (Tình Trạng Giới Nghiêm) và Les justes (Những Kẻ Chính Trực) và tư tưởng với L'homme révolté (Người Nổi Loạn). Tôi còn ức đoán một từng lớp thứ ba chung quanh chủ đề tình yêu."  Nhưng chủ đề cuối cùng chưa kịp viết xong, Camus mất.
*
 Cùng trong phong trào hiện sinh, Albert Camus vừa gần, vừa xa Jean Paul Sartre ngay từ những năm 30. Từ lý thuyết hiện sinh -được định vị như sự đi tìm bản thể của con người- Albert Camus giữ lại những hướng chính, đặc biệt là:
Nhân bản: Chủ nghĩa hiện sinh như một chủ nghĩa nhân bản (Sartre). Nhân bản đã nằm trong bản chất Camus con người, đã chi phối cái viết của Camus từ những tác phẩm đầu tiên nghiêng mình xuống Alger đau khổ, đã định hướng những hành động chính trị của Camus, chống lại tội ác đến từ mọi phía (chính phủ thuộc địa, Ðức Quốc Xã, Staline, ...)
Phi lý như một cốt lõi của phận người. Ðưa ra mẫu hình người phi lý, nhân vật Meursault trong L'étranger.
Dấn thân: Chỉ có hành động và qua hành động con người mới thật sự tự do, mới tạo được bản chất của mình.
 Có thể nói Albert Camus và Simone de Beauvoir là hai nhánh lạc quan của hiện sinh, tin rằng con người có thể có hạnh phúc trong cuộc đời phi lý.
*
 Hai tác phẩm lớn đầu tiên của Camus xuất hiện năm 42 là một cặp bài trùng: Huyền Thoại Sisyphe và Người Xa LạHuyền Thoại Sisyphe phân tích phi lý dưới dạng triết lý, và tiểu thuyết Người Xa Lạ đưa ra hình ảnh cụ thể của người phi lý. Chính xác hơn Huyền Thoại Sisyphe là tập hiện tượng luận mổ xẻ hai vấn đề: phi lý và tự tử, tìm mối tương quan giữa hai hiện tượng này. Hai nhân vật Sisyphe và Meursault là chứng từ cho tính chất phi lý trong thân phận con người.
 Mở đầu Huyền Thoại Sisyphe, Camus nói ngay:
 "Chỉ có một vấn đề triết lý thực sự nghiêm chỉnh, đó là tự tử. Xét xem đời đáng sống hay không đáng sống, là trả lời cho câu hỏi cơ bản của triết học." (trang 17, Folio Essais, 1998). Và tác giả đã trả lời câu hỏi này bằng biện chứng phân tâm đối tượng.
 Sisyphe là một nhân vật huyền thoại Hy Lạp, được Homère coi như kẻ minh mẫn nhất và cẩn trọng nhất trong bọn nhân sinh. Nhưng lại có những ý kiến khác rất tiêu cực về Sisyphe. Và đó là lý do khiến các vị thần thánh đã đầy đọa Sisyphe xuống địa ngục, bắt phải triền miên lấy hết sức bình sinh lăn một hòn đá lớn từ chân núi lên trên đỉnh núi, nhìn nó rơi xuống. Rồi lại từ từ xuống núi, và cố gắng lăn nó trở lên đỉnh...
 Sisyphe là biểu tượng của người phi lý: Hình ảnh Sisyphe không xa với hình ảnh một người thợ, một người lao động tay chân hay trí óc: suốt ngày làm một công việc, suốt đời làm một công việc, hoàn tất rồi, lại quay trở lại bắt đầu một công trình khác cũng y như trước. Thân phận con người nào cũng có một chút Sisyphe ở trong: sáng vác ô đi, tối vác ô về. Ðiều đáng chú ý nhất là lúc Sisyphe xuống núi, ý thức được những cố gắng mình vừa hoàn thành, ý thức được tính phi lý của đời mình mà còn có can đảm bắt đầu lại: Lúc đó Sisyphe lớn lao hơn định mệnh và ngoan cường hơn đá tảng: Ðó là giá trị, đó là hạnh phúc của con người. Camus kết luận: "Sự tranh đấu để đạt tới những đỉnh đủ để lấp đầy trái tim con người. Phải mường tượng là Sisyphe sung sướng." (trang 168)
 Tất cả biện chứng trong huyền thoại Sisyphe quay quanh vấn đề: Ðời phi lý, vậy có đáng sống không? Và kết luận lô-gích nhất trong sự khám phá tính chất phi lý phổ quát của cuộc đời, đó là tự tử. Tại sao Sisyphe không tự tử để chấm dứt thân phận nghiệt ngã của mình? Camus từ chối lô-gích tự tử. Bởi cuộc đời dù phi lý, dù vô nghĩa, không có nghĩa là đời không đáng sống. Ngược lại, trong cái vô nghĩa ấy, con người tồn tại, Sisyphe chấp nhận tính vô nghĩa của cuộc đời và tìm thấy hạnh phúc trong thân phận phi lý.
*
 Trong tiểu thuyết Người Xa Lạ, nhân vật Meursault trở thành người phi lý bằng xương bằng thịt, thoát khỏi huyền thoại.
 Meursault bắt đầu câu chuyện của mình bằng câu:
 "Hôm nay mẹ chết. Hay có thể là hôm qua. Tôi không biết." (trang 9, Folio, 1975)
 Trong suốt hành trình tiểu thuyết, Meursault luôn luôn lập đi lập lại ý tưởng: Tôi không biết (je ne sais pas). Không có gì hết (rien). Sao cũng được (ça m'est égal). Thì cũng thế thôi (ça revient au même): Bất khả tri là bộ mặt thứ nhất của hiện sinh con người.
 Mẹ chết ở nhà dưỡng lão. Meursault đến thăm mẹ ở nhà xác. Người gác cửa đề nghị mở quan tài cho anh ta xem mặt mẹ. Meursault từ chối. Hỏi tại sao. Trả lời không biết.
 Lang thang trên bờ biển với bạn. Rồi đánh lộn. Rồi giết người. Ra tòa, người ta hỏi: tại sao giết người? Meursault trả lời: Không biết. Rồi bỗng buột miệng: Tại trời nắng (à cause du soleil). Cả tòa cười ầm lên.
 Meursault không hiểu tại sao người ta cười. Tất cả bi kịch của Meursault xoay quanh hai vấn đề: Tính chất phi lý và bất khả tri trong thân phận con người.
 Bất khả tri -Meursault không biết, không hiểu- Meursault là nguồn cội của sự "xa lạ", nơi con người, đối chất với những biện luận, biện chứng của ý thức hệ chính trị, đạo đức hay tôn giáo, luôn luôn có tính cách giác ngộ giáo điều, làm chủ tình thế, làm chủ cái biết, muốn dạy bảo và giáo dục con người.
 Meursault biểu trưng cho "cái không biết" của con người, về người khác, về chính mình. Cái"xa lạ" giữa mình với người khác, cái xa lạ giữa mình và chính mình. Và đó là nỗi đơn côi cùng cực của con người đối với chính mình: Sự xa lạ đối với chính mình.
 Dưới ánh nắng chói chang của Alger, trong lúc lang thang trên bờ biển, sau khi đánh lộn, nếu trời không nắng quá. Xin nhấn mạnh: nếu trời không nắng quá, Meursault có lẽ đã không phải bước dấn lên một bước để tránh ánh mặt trời chói chang rọi vào mắt. Chính cái bước dấn thêm đó đã làm cho gã Ả-Rập -vừa đánh lộn với bọn Meursault lúc trước- giật mình, rút dao găm ra để phòng thủ và đưa Meursault đến hành động giết người -cũng để tự vệ-.
 Nhưng cái nắng quái ác đó không nằm trong một lô-gích chấp nhận được của quan tòa, mặc dù: tính chất bất kỳ, phi lý là điều kiện thứ nhất của nhân sinh. Trừ mặt trời, Meursault không biết tại sao mình giết người. Trước tòa Meursault hoàn toàn ở trong sương mù như nghe người ta nói về một người khác: Quan tòa, thẩm phán, công tố, nhân chứng, luật sư ... gỡ tội hay buộc tội, mỗi người tạo ra một luận chứng hùng hồn, dựng lên những thoại xa lạ, hoàn toàn không dính dáng gì đến Meursault. Họ tạo nên một thế giới "xa lạ" của những con người không thực biết về nhau. Một thế giới bất khả tri. Bất khả tri nằm trong thân phận con người.
 Mounier, khi phê bình Camus đưa ra nhận xét: "Con người phi lý không phải là con người được giải phóng mà là con người bị vây khổn không có ngày mai." Thật vậy. Con người phi lý không thể giải thích, bởi mọi giải thích đều vô ích, đều là đối thoại với bức tường. Chỉ còn lại hai giải pháp, hoặc là làm loạn, hoặc chấp nhận phi lý. Bị kết án tử hình. Thoạt tiên, đối diện với viên linh mục tư tế (aumônier), Meursault nổi loạn, chống đối, gào thét sự vô tội của mình. Chống đối tính chất phi lý của thân phận. Nhưng rồi Meursault chấp nhận phi lý và cuối cùng, trước khi bị xử, "anh cảm thấy mình hạnh phúc và mong ước có nhiều người đi xem cuộc hành hình và đón nhận anh với những lời hò hét căm thù." (trang 187)
 Người Xa Lạ một trong những cuốn tiểu thuyết chủ yếu của Pháp trong thế kỷ XX. Tính chất bí mật, văn phong lạ, cách đặt vấn đề thân phận con người lồng trong hai nét chính phi lý và bất khả tri, mở cửa cho nhiều ngòi bút khác đến sau. Người xa lạ như một bi kịch kín của con người muốn khám phá bản thân mình trong một mê cung, không lối thoát, và cho đến phút chót, người ấy vẫn "xa lạ" với chính mình.
*
 Trong Dịch Hạch (La peste) thủ phạm của phi lý là vi trùng bệnh dịch. Oran, thành phố Algérie bên bờ Ðịa Trung Hải, thành phố bị bệnh dịch hạch, Oran đóng cửa trao thân cho dịch hạch, cắt đứt với thế giới bên ngoài và ném dân mình chồng chất lên nhau mà chết, người nọ đè lên người kia, trong cô đơn, không lối thoát.
 Vi trùng dịch hạch ẩn dụ thực tại lịch sử: Ðại chiến thứ hai với vi-rút Nazi tàn phá, tiêu diệt con người. Dịch hạch chao đảo giữa hai thực tại: bệnh dịch thể xác và bệnh dịch tâm hồn, trở thành một mẫu mực về sự tàn phá nhân sinh, tự tâm thế của nhân sinh; chúng cầm chân con ngườì trong một tư thế bấp bênh giới hạn giữa sống và chết.
 Tuy Rieux là người "anh hùng" đứng lên chống dịch hạch, nhưng Camus từ chối mọi lý tưởng có tính chất lãng mạn cổ điển thánh giáo; ông tin vào hiện hữu, tin vào mỗi giây phút hiện tại của đời sống. Tranh đấu chống dịch hạch, bác sĩ Rieux không ở trong khái niệm "anh hùng" kiểu Malraux, Rieux nhận trách nhiệm của mình như một kẻ hành nghề, vì nghề, nghề thuốc và nghề làm người.
 Rieux trả lời cha Paneloux:
 "Cứu rỗi nhân sinh là một chữ quá lớn đối với tôi. Tôi không nhìn xa như thế. Tôi chỉ chú ý đến sức khỏe. Sức khỏe con người trước tiên." (trang 198, Folio 1980)
 Bởi sức khỏe là hiện sinh, là đời sống, là đang sống, là vấn đề của con người. Cứu rỗi là lý tưởng, là hy vọng, là kiếp sau, là vấn đề của Thượng Ðế. Người thầy thuốc không hy vọng vào sự sống ra ngoài sự sống như người thầy tu. Sáng suốt, Rieux biết rõ: Cái chết đối với con người chỉ là án treo. Cuối cùng rồi ai cũng phải chết. Rieux ý thức được rằng chiến đấu với bệnh dịch chỉ  để kéo dài thêm án treo, và cuộc chiến đấu ấy vô ích, có tính chất Sisyphe ở trong, nhưng không thể không có được. Vì nó là cơ bản, là nguồn hạnh phúc và lý do tồn tại của con người.
 
 
Camus - L'homme révolté, Người Nổi Loạn
 Trong tác phẩm Dich Hạch, bệnh dịch Nazi càn quét, tiêu hủy Âu Châu, nhưng vẫn có những Rieux điềm tĩnh và can trường "hành nghề làm người", cố gắng phấn đấu với dịch trùng, ngăn chặn làn sóng giết người, chống lại phi nhân bằng có nhân, chống lại tội ác bằng nhân bản. Dịch Hạch là tác phẩm của một Camus lạc quan và tin tưởng vào cuộc đời phi lý.
 L'homme révolté, Người Nổi Loạn, có thể xem như một biến điệu của Dịch Hạch trong thể tiểu luận hùng văn. Tác giả muốn đề nghị với độc giả một suy nghiệm toàn bộ về tiến trình nổi loạn và tội ác.
 Ðứng trước tính chất phi lý của cuộc đời, nổi loạn là cần thiết, là phương tiện duy nhất để vượt qua thân phận phi lý. Nhưng tại sao từ cơ nguyên chính đáng của những người bị đàn áp, người nổi loạn lại chuyển hướng, liên kết với tội ác để tác thành những thể chế độc tài, toàn trị trong thế kỷ XX?
 Người Nổi Loạn được Camus xác định như một cố gắng của tác giả để tìm hiểu thế hệ của ông. Theo Camus, vấn đề chủ yếu trong thế kỷ XX là vấn đề giết người.
 Camus viết: "Ở thời điểm phủ định, đặt vấn đề tự tử là hữu ích. Ở thời điểm ý thức hệ, phải luận về sự sát nhân. Nếu giết người có những lý do của nó, thì thế hệ chúng ta và chính chúng ta cùng liên hệ. Nếu giết người không có lý do thì chúng ta đang điên rồ, và không có ngả nào khác hơn ngoài sự nhìn nhận hậu quả hoặc phải chuyển hướng. Dù sao chăng nữa, chúng ta phải trả lời rõ ràng câu hỏi đặt ra, trong máu và trong tiếng gào thét của thế kỷ, bởi vì chúng ta đang bị tra vấn. Ba mươi năm trước, trước khi quyết định giết người, người ta đã chối dài, đến độ tự chối bằng tự tử. Thượng Ðế lừa dối, con người đồng lõa, trong có chính tôi, vì vậy tôi chết: tự tử là vấn đề.
 Ý thức hệ hôm nay chỉ phủ nhận người khác như những kẻ duy nhất lừa dối. Vì thế người ta giết người. Tảng sáng, những kẻ sát nhân huy chương đầy ngực mò về tiểu tổ: Tội ác là vấn đề." (L'homme révolté, trang 16-17, Folio, Essais)
 Người Nổi Loạn thực chất viết về lịch sử nổi loạn của con người, đi từ kinh thánh, truyền thuyết, xuyên qua các tư tưởng Hy Lạp đến các cuộc cách mạng hiện đại, biện chứng bằng các hình tượng tìm thấy trong tôn giáo, chính trị, văn học, triết học...
 Người Nổi Loạn tiếp nối huyền thoại Sisyphe: Ý thức được tính cách phi lý trong thân phận con người, sự nổi loạn là một tất yếu. Qua hai mươi bẩy năm tù tội oan ức, Sade (1740-1814) là người đầu tiên đã hệ thống hóa hình thức "nổi loạn tuyệt đối". Bị ngược đãi tuyệt đối, Sade trả lời bằng cái không tuyệt đối (le non absolu) trong giấc mơ tận diệt loài người. Sade trình bày một Thượng Ðế sát nhân, đầy đọa và chối bỏ con người. Nếu Thượng Ðế giết người và từ  chối con người thì làm sao ngăn được người-giết-người và người-chối-bỏ-người? (trang 59)"Nổi loạn tuyệt đối" dẫn đến "Nổi loạn siêu hình".
 Nổi loạn siêu hình là sự nổi loạn của con người chống lại điều kiện nhân sinh, chống lại thân phận. Nổi loạn siêu hình dẫn đến "Nổi loạn lịch sử": Nổi loạn lịch sử dẫn đết giết vua và máy chém.

 Nhưng trước tiên, người nổi loạn là gì? Camus trả lời: là người nói: Không. Nhưng nếu hắn từ chối, hắn không từ bỏ: hắn cũng là kẻ đã nói vâng ngay từ đầu. Một người nô lệ, đã ngoan ngoãn nhận lệnh chủ suốt đời, bỗng tự nhiên hắn cưỡng lại: Không! Tiếng không này có nghĩa gì? Có nghĩa rằng: Quá lắm rồi, chịu hết nổi. Chữ không chứng tỏ cái giới hạn mà người chủ không thể vượt qua. Phản kháng là hành động ý thức được cái ranh giới mà kẻ đàn áp không thể vượt qua. Người phản kháng có thể chấp nhận cái chết. Chết đứng, chứ không chịu sống quỳ. (trang 27)
 Nổi loạn, trước tiên là ý thức cá nhân chống lại điều kiện nhân sinh, rồi trở thành ý thức cộng đồng: "Tôi nổi loạn, vậy chúng ta cùng nổi loạn." (Je révolte donc nous sommes)
 Một người nô lệ nổi lên chống chủ, chỉ là một người chống lại một người khác, trên trái đất dã man, xa những nguyên tắc của Thượng Ðế. "Kết quả là sự ám sát một người."
 Tất cả những cuộc nổi loạn như nổi loạn nô lệ, nổi loạn nông dân, nổi loạn khốn cùng... hầu như đều đi trên một con đường: ác giả ác báo.
 Sự nổi loạn của Spartacus, một vài thập niên trước kỷ nguyên Gia Tô là một ví dụ (trang 143). Ðầu tiên là sự nổi dậy của cá nhân Spartacus, một giác đấu (gladiateur), kéo theo một nhóm giác đấu (tức là những người nô lệ, bị bỏ vào đấu trường giết nhau, làm thú tiêu khiển cho chủ). Nổi loạn thành công, bọn giác đấu thả bọn chủ [La Mã] vào đấu trường và kẻ nô lệ lại ngồi trên khán đài xem lũ chủ cũ giết nhau: Vấn đề đảo ngược, nhưng chung quy vẫn là sự giết người. Spartacus thất bại: Không thể lật đổ bạo quyền bằng bạo lực. Máu dẫn đến máu. Giết người không dẫn đến một nguyên tắc bình đẳng mà chỉ có thể tăng trưởng, khuếch trương hành động sát nhân. Camus viết: Muốn cho nguyên tắc chính trực thắng thế thì phải tiêu diệt nguyên tắc bất chính (trang 144), chứ không thể giết người. Các cuộc cách mạng xưa nay dựa trên nguyên tắc diệt người. Diệt người Do Thái là rường mối của chế độ phát-xít: một nhóm người độc trị coi những kẻ khác là nô lệ. Diệt giai cấp là rường mối của chế độ mác-xít, nhân danh một ý thức hệ hứa hẹn tự do, cơm áo cho ngày mai để sử dụng con người hôm nay.
 Tất cả những cuộc cách mạng hiện đại đều đưa đến sự củng cố sức mạnh của thế quyền nhà nước: Cách mạng 1789 của Pháp dẫn đến đế chế chuyên chính của Napoléon, 1848 mở ngõ cho Napoléon đệ tam; cách mạng 1917 dẫn đến Staline. Rồi Mussolini và Hitler (trang 226). Camus trong L'homme révolté, đã đi từ "khủng bố cá nhân" để tiến tới "khủng bố nhà nước". Hitler đã sáng tạo ra cái gọi là "chuyển động chinh phục không ngừng": Nhà nước biến thành bộ máy vận hành chuyển động ấy, tức là bộ máy chinh phục và đàn áp. Mussolini, luật gia la-tinh, dựa trên "lý do quốc gia" (raison d'Etat), biện luận để tuyệt đối hóa quan niệm này: "Không có gì ngoài Quốc gia, trên Quốc gia, chống lại Quốc gia. Tất cả là của Quốc gia, cho Quốc gia, ở trong Quốc gia." Và Ðức Quốc Xã đã bồi bổ thêm cho lập luận này một hình thức tôn giáo. Một tờ báo Nazi viết: "Bổn phận thiêng liêng của chúng ta là phải dìu dắt người về nguồn, người về mẹ. Thực ra, đó là phụng sự Thượng Ðế." (trang 233)
 Ai là Thượng Ðế ở đây? Một tuyên ngôn chính thức của đảng cho biết: "Mọi người trên trần hãy tin tưởng vào Adolf Hitler, vị Fuhrer (nguyên thủ) của chúng ta... và (tâm niệm) rằng đảng Quốc Gia Xã Hội là niềm tin duy nhất đưa dân tộc đến miền vĩnh phúc(4)."
 Marx, với chủ trương vô thần tuyệt đối, đặt "Người trên địa vị tối cao của con người." Nhìn dưới khía cạnh này, chủ nghĩa xã hội của Marx là một "kỹ nghệ" thần thánh hóa con người. Marx vừa là tiên tri trưởng giả, vừa là tiên tri cách mạng. Tín ngưỡng khoa học của Marx thoát thai từ nguồn gốc trưởng giả: Sự tiến bộ, tương lai của khoa học, tôn thờ kỹ thuật và sản xuất là những huyền thoại đã tạo thành những tín điều của thế kỷ XIX.
 Hạ bệ Thượng Ðế cũng là một trong những dòng tư tưởng chủ yếu của thế kỷ XIX. Nietzsche (1844-1900) có đọc Sade. Triết học Ðức phần nào đã môi giới cho các cuộc cách mạng vô thần của thế kỷ XX.
 Mussolini tự cho mình "chịu ảnh hưởng" Hegel, Hitler "ảnh hưởng" "siêu nhân" của Nietzsche.
 Những tiên liệu của Hegel về con người toàn diện, của Nietzsche về cái chết của Thượng Ðế và giấc mơ thần thánh hóa con người của Marx, cuối cùng đều dẫn đến những nhà nước, hợp pháp hay không hợp pháp, nhưng cả hai đều là những nhà nước khủng bố, sau khi Thượng Ðế bị tiêu diệt. (trang 227-228)
 Bẩy triệu người Do Thái vào lò thiêu, bẩy triệu người Âu Châu bị giết hay bị lưu đầy, mười triệu nạn nhân chiến tranh, chưa đủ cho lịch sử phán đoán, lịch sử đã quá quen với tội ác. Nhưng với Hitler, sự càn quét cuối cùng mới thực là ghê gớm: Tại phiên tòa Nuremberg, theo nhân chứng của Speer, Hitler, sau khi bại trận, đã đòi hỏi một cuộc tự vận toàn diện, tiêu hủy hoàn toàn nước Ðức. Ðối với Hitler, chỉ có một giá trị độc nhất là thành công. Ðức thất bại. Ðức đê hèn và phản bội. Ðức phải chết. Hitler nói: "Nếu dân tộc Ðức không có khả năng thắng, dân tộc Ðức không xứng đáng sống." Hitler là một khuôn mặt độc tài duy nhất trong lịch sử, càn quét tất cả những gì trên đường đi, chỉ để lại cho dân tộc và nhân loại hai yếu tố: giết người và tự tử. (trang 236)
*
 Nhưng thần tượng phát-xít, mặc dù có muốn "dìu dắt" thế giới, cũng không bao giờ mơ tưởng đến một "đế quốc toàn cầu" (empire universel). Hitler, ngạc nhiên trước những "thành công" của mình, đã hướng phong trào "tỉnh lẻ" của y về một giấc mơ không chính xác của một đế quốc Ðức không có gì liên hệ với "thế giới đại đồng".
 Người cộng sản, ngay từ nguồn phát xuất, nước Nga, đã tiên liệu sẽ đi đến Thế giới đại đồng của nhân loại. Người cộng sản Nga, dựa vào tham vọng siêu hình (mà cuốn L'homme révolté trình bày và mô tả) để hình thành, sau cái chết của Thượng Ðế, một thế gìới mà con người được thánh hóa. (trang 238)
 Tóm lại, đây là lần đầu tiên trong lịch sử, một chủ nghĩa và một phong trào dựa trên bạo lực võ trang, dám đưa ra mục đích là cuộc cách mạng tối hậu và Ðại đồng chung cục cho nhân loại. (trang 238)
 Theo Marx, tất cả hiện thực con người tìm thấy nguồn cội trong tương quan sản xuất. Kinh tế. Cái sẽ trở thành lịch sử là cách mạng, bởi vì kinh tế là cách mạng.
 Con người như thế, theo Marx, vừa là tác giả, vừa là diễn viên của lịch sử đời mình. Những người chủ trương dân chủ cực đoan (Jacobins) thời cách mạng 1789, lật đổ tính ưu việt của một Thượng Ðế riêng tư để thay bằng tính ưu việt của các nguyên tắc. Marx xây dựng chủ nghĩa vô thần hiện đại bằng cách triệt hạ luôn cả các nguyên tắc. Niềm tin, ở năm 1789, được thay bằng lý trí. Marx triệt hạ tính ưu việt của lý trí và thẩy nó vào lịch sử. (trang 253)
 Tư bản luận lấy lại biện chứng chủ và tớ của Hegel, nhưng thay thế khái niệm "ý thức về mình" bằng "độc lập kinh tế" [con người là một con vật có ý thức về mình (Hegel), con người là một con vật độc lập kinh tế (Marx)]. Và thay thế: "sự thống trị chung cục của tinh thần" bằng "sự hình thành chủ nghĩa cộng sản." (trang 253)
 Con người sinh ra cùng với sản xuất và xã hội. Sự bất công đến từ "sở hữu", đến từ các giai cấp xã hội. Lịch sử con người là lịch sử đấu tranh giai cấp. Phải triệt tiêu giai cấp. Triệt hạ sở hữu. Không phải giai cấp vô sản thần thánh gì, nhưng vì họ bị đầy đọa trong những điều kiện vô nhân nhất. Nhiệm vụ của người vô sản là phải làm rạng nhân cách tối thượng trong cái nhục nhã tối cao. Vì đau khổ và đấu tranh, người vô sản trở thành người-chúa (homme christ), đã chuộc lỗi bán chúa. Nhưng vị Chúa-Người này còn là chúa phục thù. Hắn thực thi, theo Marx, án lệnh mà tư sản tự mang trong mình "Tất cả những ngôi nhà ở thời đại này đều bị đánh dấu bằng một cái thập tự đỏ bí mật. Quan tòa là lịch sử, là kẻ thi hành bản án: Người vô sản." (trang 260)
 Camus viết: "Sự đòi hỏi công lý trở thành phi công lý nếu nó không dựa, trước tiên, trên một nền tảng biện minh có đạo đức về công lý. Thiếu điều đó, tội ác sẽ trở thành nhiệm vụ." (trang 265)
 Cuộc đấu tranh giai cấp, từ nay, sẽ đẫm máu và phản lại tất cả mọi hình thức nổi loạn. Trong cuộc cách mạng mới này "tương lai" là sở hữu tối cao mà những chủ thể cách mạng hứa hẹn sẽ dành cho những nô lệ mới: Một thiên đường chung cục trong thế giới đại đồng xã hội chủ nghĩa.
*
 L'homme révolté, Người Nổi Loạn, ra đời năm 1951, giữa thời kỳ chiến tranh lạnh như một quả bom. Camus bị tứ phía kết tội, nhất là những bạn đồng hành trong nhóm Les Temps Modernes (Thời Mới), chủ yếu là Sartre.
 Lúc đó, Camus và Sartre, cả hai đều biết sự hiện diện của các trại cải tạo dưới thời Staline. Camus chủ trương phải đưa sự thực ra ánh sáng, nhưng Sartre cho rằng phải thận trọng, không nên làm thối chí thành phần vô sản.
 Hầu hết những nhà phê bình thiên tả hoặc có chân trong đảng Cộng Sản, kịch liệt phản đối tác phẩm của Camus, trong đó có Breton (Camus viết rất nặng về Lautréamont và phân chất siêu thực như một thứ thi ca phản kháng nửa mùa, làm mồi cho bạo lực vô cớ). Tạp chí Thời Mới, qua bài viết của Francis Jeanson, phê phán nặng nề Người Nổi Loạn. Camus trả lời, gửi cho chủ bút (Sartre), ngụ ý rằng Sartre đã ném đá dấu tay. Sartre đáp lại Camus trong một bài viết, giọng lịch sự nhưng cực kỳ mỉa mai, khinh mạn và cao ngạo(5), với những hàng: "Trời ơi, Camus, sao anh trịnh trọng thế, và để dùng một chữ của anh, sao anh tầm phào thế! Nếu anh đã lầm? Nếu cuốn sách của anh chỉ chứng minh một cách đơn giản sự không thông thạo triết học của anh? Nếu nó chỉ là một mớ kiến thức thu lượm vội vã, học lóm (seconde main)? [...] Nếu anh lý luận không đúng lắm? Nếu những tư tưởng của anh hời hợt và tầm thường? [...] Tôi không dám khuyên anh đọc cuốn Hữu Thể Và Hư Vô (L'être et le néant(6)), e việc đọc sẽ gây hiểm hóc cho anh: anh ghét những khó khăn tư tưởng ..." Camus không trả lời. Họ dứt khoát đoạn tuyệt.
 Năm 1960, khi Camus mất, Sartre, trong bài tưởng niệm, có những dòng rất cảm động: "Vừa mới hôm qua, chúng tôi vẫn còn hỏi nhau: Anh ấy có sẽ lên tiếng không? Sớm muộn thế nào rồi anh ấy cũng lên tiếng... Tôi thầm hỏi: Anh nghĩ sao? Anh nghĩ sao ngay lúc này đây?"
*
 Camus không trả lời nhưng "lịch sử" đã trả lời: Camus có lý. Những người cùng thời với Camus đã không đủ chín chắn, bình tĩnh để chấp nhận lập luận của Camus về mối tương quan giữa "công lý" và "đạo đức", giữa "cách mạng" và "tội ác". Ở thời điểm 1951, phần đông trí thức còn đang tin vào lý tưởng Cộng Sản, vào Staline. Camus nhìn xa hơn Sartre về vấn đề này. Mãi tới năm 1956, khi chiến xa Xô-Viết tiến vào Hung Gia Lợi, Sartre mới tỉnh ngộ. Một điểm này và chỉ một điểm này thôi, Camus xứng đáng là nhà văn nhân bản và sáng suốt nhất của Pháp trong thế kỷ XX. Ðúng như Sartre đã viết trong bài tưởng niệm Camus: "Trong thế kỷ này, chống lại lịch sử, anh tiêu biểu cho con người hôm nay -thừa kế truyền thống sâu rộng của các nhà văn đạo đức- tác thành tác phẩm, có lẽ độc đáo nhất trong văn học Pháp."
 
 

Camus và La chute, Sa Ðọa, Quỵ Ngã
 Ở ghế bị "buộc tội", Camus đã im lặng trong nhiều năm, không sáng tác gì mới, từ 51, (Người Nổi Loạn), đến 56, La chute ra đời. La chute có thể là sự "trả lời" thầm lặng của Camus, với thế giới quan tòa đã xử ông những năm 51, 52.
 Nhân vật chính, Clamence trong La chute, có nhiều nét giống những bạn đồng hành với Camus ngày trước, đặc biệt "rất Sartre": "đại trí thức", thông thái, trịch thượng, nhà ở khu la-tinh, gần Saint Germain des Prés -cái nôi của hiện sinh-, xuống đường, đấu tranh cho những "nghĩa vụ lớn", "nghĩa vụ nhỏ". Nhưng La chute không chỉ dừng lại ở sự "trả lời", thanh toán một cuộc luận chiến cá nhân, mà nó đã đi xa, đi đến một chân trời khác trong sự suy nghiệm của con người về bản thân mình. Với Người Nổi Loạn, Camus muốn giữ khoảng cách với phong trào hiện sinh, Camus chí trích vô thần và cộng sản. Nhưng chính Camus, với La chute, lại quay về với hiện sinh trong cái nghĩa sâu xa nhất: La chute đi tìm bản thể con người.
 La chute (Sa Ðọa(7)) là tác phẩm bí mật và lạ kỳ nhất của Camus. Bí mật và lạ kỳ như thể chất con người. Tác phẩm phản ánh ý nghĩa đích thực của triết học hiện sinh trên đường đi tìm bản thể. La chute sục lọi, soi mói cái bản thể rách rưới, mờ ám của cá nhân con người, qua Jean Baptiste Clamence, một nhân vật mập mờ giữa buộc tội và sám hối, nửa quan tòa (juge), nửa người phạm tội ăn năn (pénitent).
 Camus đã lật trái, lật phải, soi cho tỏ cùng cái tính chất khả nghi của Clamence để đưa đến kết luận: Không thể có ánh sáng nào giải quyết được sự mờ ám của con người, phân biệt được đâu là tốt, đâu là xấu, đâu trắng, đâu đen, đâu là ăn năn, đâu là buộc tội.
 Nhưng Camus cũng lại là người từ chối "nhãn hiệu" hiện sinh mà người ta hay gán cho ông. Ở chỗ từ chối đó, xuất hiện mối tương phản mà La chute mổ xẻ: sự mập mờ trong tư tưởng và hành động của con người: Jean Baptiste Clamence là ai?
 Bằng một thể văn độc đáo, Camus dựng lên nhân vật Clamence như cái bóng của nhân sinh. Toàn truyện là độc thoại, một thể độc thoại vấn đáp giả tưởng giữa hai người. Clamence nói chuyện với một người (vô hình) trước mặt. "Sự hiện diện" của kẻ kia, không qua ngôn ngữ đối thoại trực tiếp mà qua phản ứng của Clamence: Tôi có làm phiền ngài không? Kìa, trời lại mưa nữa. Chúng ta trú dưới thềm nhà này nhé. Tôi nói đến đâu rồi nhỉ? Chuyện không quan trọng à?
 Họ gập nhau lần đầu, trong một tửu điếm khả nghi có tên lạ kỳ Mexico-City tại Amsterdam, bến tầu đón nhận những thủy thủ tứ xứ. Một giọng nói cất lên, vừa hạ mình, vừa kiêu hãnh lõi đời, sành sỏi, dùng chữ cầu kỳ, kiểu cách. Giọng nói làm quen với một khách uống rượu khác, một kẻ đồng hương (người Pháp), không thạo tiếng Hòa Lan, giúp kẻ đồng hương kia gọi đúng thứ rượu "đỗ tùng" (genièvre) mà hắn muốn.
 Cuộc "đối thoại" bắt đầu. Kẻ nói lân la bắt chuyện, đưa người nghe vào tự truyện của mình.
 "... Ngài may mắn đấy, hắn (chủ quán) không gầm gừ. Khi hắn không muốn tiếp rượu ai, một tiếng gầm gừ là đủ. Không ai dám cự nự, đó là lợi điểm của loài mãnh vật [...] Xin kiếu ngài, rất hân hạnh được hầu ngài. Ða tạ ngài [...] Ngài tốt bụng quá. Vậy xin ngài cho phép tôi được sánh ly cùng ngài." (trang 7, 8)
 Kẻ nói chừa những lỗ hổng để độc giả "đọc" được phản ứng của kẻ nghe: Hắn xin kiếu (kẻ kia mời hắn ở lại). Hắn cảm ơn, nói vài lời xã giao rồi mang ly lại ngồi cùng bàn. Cứ như thế, kẻ nói dẫn "khách" vào cuộc đời của hắn. Với những lời thổ lộ -không biết là bịa hay thật- đứt khúc. Bằng một thứ ngôn ngữ mỉa mai, châm biếm, rỉa róc, để phân chất những hành vi của mình và bình luận như một kẻ ngoại cuộc với những luận bàn thẳng thắn, ác độc.
 Hắn tự giới thiệu: Jean Baptiste Clamence. Trước đây là một luật sư khả kính ở Paris, nổi tiếng liêm khiết, chuyên đứng về phía công lý, bênh vực quả phụ cô nhi, không chỉ chăm lo những việc lớn ngoài tòa mà cả những chi tiết nhỏ nhoi, lặt vặt trong đời sống như dắt người mù qua đường, tốt với bạn bè, rộng rãi với tình nhân... Tóm lại Clamence là người thành công và mãn nguyện.
*
 Rồi một đêm thu, dạo trên Pont des Arts (cầu bắc qua sông Seine, gần trường Mỹ Thuật), bỗng Clamence nghe thấy một tiếng cười ré lên sau lưng. Giật mình quay lại: Bốn bề tịch lặng. Không một bóng người. Hắn đi tiếp. Tiếng cười vẫn réo sau lưng, nhỏ dần, như đến từ bờ nước, từ cõi vô thỉ vô chung, hay tự chính thâm tâm vọng lại.
 Tiếng cười mở cửa vào hậu trường cái tôi của hắn, nhắc Clamence kiểm điểm lại những hành vi của mình: à thì ra mình không chỉ là người hùng bênh vực cô nhi quả phu. Nhớ kỹ hơn, cái bản chất người hùng ấy, đã có lần bị đôi chút sứt mẻ: Một hôm, đang lái xe hơi trong thành phố,  Clamence dừng xe ở cột đèn đỏ. Bỗng một gã nhỏ thó, đi mô-tô, chèn lên, đỗ trước mũi xe hắn, gã vừa ngừng, mô-tô chết máy. Ðèn xanh bật lên, hắn lịch sự như thường lệ, nói nhỏ nhẹ với gã lái xe gắn máy làm ơn dịch xe lên lề để người khác đi. Tay này tỉnh bơ, cứ ngờ ngờ sửa xe giữa đường, lại còn nổi dóa, lỗ mãng văng tục. Chẳng đặng đừng, hắn bèn xuống xe, tính nện cho tên láo lếu một trận (hắn to con gấp đôi gã kia). Không ngờ trong đám đông lại có một tay ngự lâm anh hùng, giữa đường thấy chuyện bất bình chẳng tha: Hắn chưa kịp trở tay đã nhận  được một đòn bạt tai trời giáng của tên d'Artagnan hiện đại. Nhưng thay vì kháng cự, hắn lại ngậm tăm, cun cút quay đầu trở lại xe mình, ngậm luôn hai chữ "đồ hèn" như món quà đệm, kèm theo tiếng mô-tô nổ dòn của gã đi xe máy vừa đề-ma-rê lại được.
 Clamence cố quên cái "tai nạn lịch sử" ấy đi. Cả đời hắn đánh bóng nhãn hiệu người hùng nửa Cerdan (vô địch quyền anh của Pháp những năm 30-40) nửa de Gaulle của hắn; nhưng nào có quên được, "sự cố" này nhắc hắn đến một cái "bản thể" khác, hơi hèn hèn, cùng chung sống trong cái tôi của hắn. Ngẫm nghĩ kỹ thì hắn chỉ bênh vực những kẻ có tội, với điều kiện chúng là những kẻ sát nhân tốt (bons meurtriers) cũng như người ta thường thích bọn mọi rợ tốt (bons sauvages), nghĩa là tội trạng của chúng không gây phiền hà cho hắn mà chỉ làm nổi tài hùng biện của hắn. Ngược lại, khi bị đe dọa, hắn có thể biến ngay thành một ông tòa quyền uy, đứng trên luật pháp, sẵn sàng nghiền nát thằng phạm pháp, bắt nó phải quỳ gối, cúi đầu. Chính hắn, khi dẫn người mù qua đường, đã chẳng cẩn thận cúi chào người mù một cách lịch sự và trịnh trọng ư? Cái chào này có nghĩa gì? Người mù đâu có nhìn thấy? Cái chào này hắn không gửi cho tên mù bất hạnh kia, mà gửi đến bọn sáng mắt chung quanh, cho chúng thấy cử chỉ nhân ái và lịch lãm của hắn. Ðó mới là chính diện của vấn đề: Cái tôi. Tôi. Tôi. Người ta yêu mình trước rồi mới yêu người. Yêu người chỉ là cái cớ để đánh bóng nhãn hiệu của mình.
 Tiếng cười trên sông Seine, vang lên, như cánh cửa đầu tiên mở vào hậu trường bản thể của hắn, nhưng tiếng cười ấy còn nhắc nhở đến một tiếng kêu khác, cách đấy hai ba năm, trong đêm đông, trên Pont Royal (Cầu Nhà Vua). Ðầu đuôi câu chuyện là như thế này:
 "Lúc ấy vào khoảng một giờ khuya, mưa nhẹ như mưa phùn làm tản mạn những khách bộ hành hiếm hoi. Tôi vừa từ giã người tình, chắc nàng giờ này đã yên ngủ. Tôi sung sướng bước đi, thân thể lắng đọng với chút tê mê, như được điều dưỡng bằng một dòng máu dịu mát như mưa bụi. Trên cầu, tôi bắt gặp một hình hài nghiêng xuống lan can, có vẻ như đang nhìn dòng nước. Lại gần hơn, tôi nhận rõ dáng vóc mảnh mai của một người đàn bà trẻ, mặc đồ đen. Giữa mái tóc huyền và cổ áo măng-tô, để lộ chiếc gáy tươi mát và ẩm ướt khiến tôi rạo rực. Nhưng sau chút lưỡng lự, tôi tiếp tục bước. Tới đầu cầu, tôi đi theo bờ sông về phía [đại lộ] Saint Michel, nơi tôi ở. Ði được dăm chục thước, mặc dù với khoảng cách và trong cái tịch lặng của đêm khuya, bỗng nghe một tiếng động dữ dội, tiếng thân người rớt nhào xuống nước. Tôi đứng khựng nhưng không ngoái lại. Liền đó, một tiếng kêu cứu dội lên nhiều lần, tiếng kêu xuôi dòng rồi bỗng tắt hẳn.
 Sự im lặng kéo dài sau đó, trong đêm bỗng đông lại, như vô tận đối với tôi. Muốn chạy nhưng tứ chi bất động. Tôi run, dường như vì lạnh và vì hoảng hốt. Vừa tự nhủ phải lẹ lên, vừa cảm thấy nhuệ khí cùn đi, tứ chi bủn rủn, bất lực. Tôi chẳng nhớ là lúc đó tôi nghĩ gì, đại loại "muộn quá, xa quá"..., hoặc điều gì tương tự.
 Tôi vẫn lắng nghe, bất động. Rồi từng bước nhỏ, dưới mưa, lảng xa dần. Không báo động cho ai hết.
 Nhưng chúng ta đã đến nơi rồi, đây là nhà tôi, chỗ trú của tôi. Mai nhé! Vâng, đúng ý ngài, tôi sẵn sàng dẫn ngài thăm đảo Marken, ngắm vịnh Zuyderzee..." (trích dịch trang 61-62, nxb Folio plus, 1997)
 Ðoạn văn này là cốt lõi của tác phẩm. Qua giọng kể thản nhiên, hầu như không có "việc" gì xẩy ra, người kể, một kẻ đại diện luật pháp, vừa "giết người gián tiếp", nói đúng hơn là hắn không cứu người, ít ra là không tri hô cầu cứu khi thấy người khác lâm nguy. Nhưng chưa hết, còn một chuyện "vặt vãnh" nữa. Một dạo bị tù, trong thời chiến, hắn được bạn tù bầu làm "giáo hoàng" (biệt hiệu của người trưởng nhóm, che chở cho cả bọn). "Giáo hoàng" có nhiệm vụ chia nước cho đồng bọn. Có lần hắn uống tạm phần nước của một bạn tù hấp hối. Nghĩ cho cùng, tay này đằng nào cũng chết, còn hắn, với nhiệm vụ "giáo hoàng" cần phải sống để bảo vệ bạn tù. Trường hợp "tự vệ" của hắn cũng chẳng khác gì trường hợp "tự vệ" của giáo hội, đặc biệt là đức giáo hoàng Pie XII, năm 1942, (và cả các đức giáo hoàng khác, thời khác), đã "bắt buộc" phải đứng về phía trục phát-xít Ðức-Ý-Tây Ban Nha. Không được buộc tội giáo hoàng. Ngài cần phải đứng về phía kẻ mạnh để bảo vệ tôn giáo, đó là vấn đề "nghĩa vụ chung".
*
 Tiếng cười trên sông Seine đánh dấu ngõ quặt trong tư tưởng của Clamence. Trước đó, Clamence "biết mình" trên bề mặt. Sau đó, Clamence tìm mình trong chiều sâu. Những điều tưởng như đã chìm xa trong cõi nhớ, nay lại trở về, rõ ràng như tấm gương phản chiếu, một đời thứ nhì, một sự thật thứ nhì, hoen ố và nham nhở hơn bức chân dung người hùng thứ nhất. Ðể quên bức chân dung thứ nhì tối tăm kia, Clamence quyết định đổi đời: Xông vào cuộc sống trụy lạc, đàng điếm, tội lỗi, tối tăm... mong được "lành bệnh". Nhưng ở vào lúc mà hắn hồ hỡi nhất, tin rằng mình đã bình phục, một hôm, trong chuyến du thuyền với người tình ở Ðại Tây Dương, đứng trên lan can tầu, bỗng nhiên hắn nhìn thấy một điểm đen, dật dờ trên sóng nước. Ðang muốn tri hô cầu cứu, chợt hắn nhìn kỹ thì đó chỉ là một bè rác mà tàu biển thải ra, nhìn xa, tưởng là một người sắp chìm. Hắn hiểu rằng tiếng kêu trên sông Seine chưa bao giờ thoát khỏi hắn, dù bị sóng nước cuốn đi, đêm ấy, nó đã xuôi dòng, qua ngả cửa sông ra biển Manche, rồi hòa cùng nước biển đến với đại dương và thế giới, nhân loại. Hắn hiểu là không bao giờ hắn có thể lành bệnh. Phải cúi đầu nhận tội. Clamence đi đến kết luận: Chúng ta không thể xác quyết sự vô tội cho bất cứ ai, nhưng ngược lại chúng ta có thể quả quyết là mọi người đều có tội. (trang 92-93)
 Dante đã thần tình bịa ra một thứ thiên thần trung lập (ange neutre) giữa Thượng Ðế và Ác Quỷ. Con người phải chăng là loại thiên thần trung gian cưu mang trong lòng cả hai thái cực: Thượng Ðế và Ác Qủy?
 Từ đó tất cả mọi phương tiện để thoát khỏi "chính mình" đều vô hiệu: từ thú tội đến nhận tội, dấn thân vào tội lỗi, sa đọa đều vô ích. Cuối cùng, Clamence bỏ Paris để đến Amsterdam, làm một việc không kém mờ ám khác để kiếm sống: cố vấn pháp luật cho những tay anh chị tứ chiếng giang hồ, trôi dạt đến bờ biển Bắc mờ sương và ám khói này.
 Clamence trở thành ông tòa xám hối (juge pénitent).
*
 Tại sao J.B. Clamence trở thành "ông tòa xám hối"? Ðây là lý do: "Bởi vì người ta không thể kết tội kẻ khác mà không kết tội chính mình, phải tra vấn tội mình trước khi phán xét kẻ khác. Bởi vì tất cả mọi ông tòa rồi cuối cùng cũng phải qua cầu xám hối, vì vậy, phải đi con đường ngược lại, làm nghề xám hối trước khi trở thành quan tòa." (trang 116)
 Và Clamence giải thích thủ thuật của mình: Hắn hành nghề ông tòa xám hối ở quán rượu Mexico-City này: kể tội mình cho bất cứ ai muốn nghe, gia giảm câu chuyện cho hợp nhĩ người nghe. Hắn tạo ra một chân dung vừa cá biệt vừa gần gụi mọi người. Hắn giơ bức chân dung ấy lên: Tôi đây. Nhưng đồng thời những kẻ nghe hắn cũng nhìn thấy ở đó một phần của chính mình.
 Ở trang cuối, Clamence đảo ngược phương trình. "Hãy thú nhận đi, có phải ngài thấy bớt hài lòng về mình hơn, sau năm ngày nghe chuyện của tôi. Tôi biết, chúng ta cùng một sòng [...]. Vậy ngài làm ơn kể cho tôi biết chuyện gì đã xẩy ra trên cầu sông Seine đêm nọ khiến ngài đã không liều mình cứu người thiếu phụ ấy [...] Nhưng yên trí, bây giờ quá muộn rồi, bao giờ cũng quá muộn. May thay!"
 Clamence là một người vừa thời đại, vừa muôn thuở. Hắn biết mình đóng kịch, đóng vai bi kịch của kẻ hai mặt. Tất cả những gì "hiện hữu", "thấy được", chỉ là một hiện thực lừa dối. "Quan tòa liêm khiết", "anh hùng cứu khốn phò nguy" thật không? Hay đằng sau bình phong là một bộ mặt khác? Một kẻ sát nhân? Một tay hèn hạ? Qua Clamence mọi người soi thấy bóng mình. Nhìn lại từng chi tiết xẩy ra trong đời, nhìn lại từng vi ti huyết quản, bên cạnh dòng trong, hẳn có chẩy xuôi một dòng đục. Thế nhân, yêu mình trước khi yêu người, thì cũng thử xét mình trước khi xét người.
 Bên cạnh Meursault là "kẻ xa lạ" với mình, với người. Kẻ ấy luôn luôn lập đi lập lại "tôi không biết". Bên cạnh bác sĩ Rieux, "cứu nhân độ thế", một lòng tẩy trừ nọc độc dịch hạch, Clamence hiện ra như một thứ phản đề: Hắn biết quá rõ về mình, về người, kể cả những người chuyên hy sinh cho những "lý tưởng cao thượng".
 Camus như muốn "sửa sai" những nhân vật xuất hiện trước. Ðối diện với Meursault một kẻ sát nhân "vô tội", hắn, Clamence, một kẻ không cầm súng nhưng cũng giết người. Trực diện với bác sĩ Rieux cứu người, hắn, Clamence dội nước cường toan vào lòng người, làm ô nhiễm những "tâm hồn vô tội" qua tự truyện của hắn.
 La chute như một tiếng rơi, quỵ ngã, như là trụy lạc, sa đọa. Trước hết là tiếng thân người rớt xuống nước, là sự quỵ ngã trong trụy lạc của Clamence, kẻ còn mang tên Jean Baptiste, người tiên tri thiên mệnh của Chúa. La chute phải chăng là tiếng vọng sau cùng của Camus về nỗi đau không cứu được của loài người?
 Vẫn trong lời vĩnh biệt Camus, Sartre cho rằng La chute là cuốn sách hay nhất của Camus và cũng được ít người hiểu nhất. Lời Sartre chứng từ cho nỗi cô đơn, lạc khuất của Sartre, của Camus, trong tình bạn. Chứng từ "muộn quá, xa quá..." trong tình người.
 Trả lời Sartre, La chute vang lên những ảo ảnh cuối cùng về sự cô đơn và bất hạnh. Ở đâu bắt đầu lời sám hối? Ðâu là lời buộc tội? Ðiều chắc chắn là nỗi đau nhân sinh chưa bao giờ thoát khỏi Camus, con người và tác phẩm, thời còn sống cũng như thời đã khuất.
Paris 1/2001
Thụy Khuê

Chú thích:
(1) Trần Thiện Ðạo dịch
(2) Trần Thiện Ðạo dịch
(3) absinthe
(4) Ðiều đáng chú ý là lời tuyên ngôn này cũng na ná giống các khẩu hiệu của đảng Cộng sản: Thánh hóa lãnh tụ và Ðảng. Không biết đảng nào đã đạo văn đảng nào?
(5) cả hai bài của Sartre và Camus đều đăng trong Les Temps Modernes, số 82, tháng 8/1852
(6) tác phẩm của Sartre.
(7) Trần Thiện Ðạo dịch

© Copyright Thuy Khue 2001

 

12/6/14

ĐẦU TƯ TRUNG QUỐC Ở MYANMAR .....

ĐẦU TƯ TRUNG QUỐC Ở MYANMAR: DỰ ÁN ĐƯỜNG ỐNG DẪN DẦU KHÍ TRUNG QUỐC-MYANMAR CÓ THỂ TRỞ THÀNH MỘT QUÂN CỜ

Theo pro&contra
Tháng 6 9, 2014
Ying Hongwei
Phạm Hải Hồ dịch và chú thích
Bài báo sau đây do nhà báo tự do Ying Hongwei viết trên quan điểm lợi ích của Trung Quốc về một dự án năng lượng trong chương trình hợp tác giữa nước này với Myanmar, một dự án rất quan trọng đối với an ninh năng lượng của Trung Quốc. Nó được quảng bá là ít tốn kém và an toàn hơn việc vận chuyển dầu thô bằng đường thủy qua eo biển Malacca. Cũng như một số nhà nghiên cứu Trung Quốc, Ying Howei phê phán dự án đường ống dẫn dầu khí từ vịnh Bengal xuyên qua đất nước Chùa Vàng đến tận thành phố Côn Minh, không những về mặt kinh tế – tài chính, an toàn dự án, mà còn về trách nhiệm doanh nghiệp đối với văn hóa, xã hội và môi trường của nước sở tại.
Trở về quá khứ, khi Myanmar còn sống dưới chế độ quân phiệt thẳng tay đàn áp đối lập, bị quốc tế lên án và phương Tây cấm vận kinh tế thì hầu như chỉ có quốc gia láng giềng phương Bắc làm hậu thuẫn cho nước ấy, bất chấp dư luận thế giới và xem thường mọi giá trị nhân văn. Điều đó chỉ có thể giải thích phần nào bằng sự đói năng lượng của một nước phát triển quá nóng với 1,3 tỉ dân, phải bằng mọi cách thu hút tài nguyên dồi dào của Myanmar và nhiều nước Á- Phi khác. Nhưng một lý do không kém phần quan trọng là chính sách bành trướng của Bắc Kinh núp dưới danh nghĩa “trỗi dậy hòa bình”. Theo “logic” của chính sách này, một phần Siberia, bang Arunachal Pradesh của Ấn Độ, Biển Hoa Đông, phần lớn Biển Đông Nam Á[1] đều thuộc chủ quyền Trung Quốc, còn những nước như Myanmar, Lào, Campuchia, Việt Nam v.v. thì nằm trong vùng ảnh hưởng của nó. Hơn nữa, vị trí địa lý của Myanmar rất lý tưởng để tiếp cận vịnh Bengal và Ấn Độ Dương. Vì các lý do ấy nên khi Myanmar khởi sự quá trình dân chủ hóa và phương Tây lần lượt tháo gỡ lệnh cấm vận, Trung Quốc vẫn tiếp tục đầu tư mạnh mẽ, mặc dù chi phí tăng lên rất nhiều so với dự tính, người dân Myanmar phản kháng ngày càng gay gắt hơn trước những vấn đề xã hội – môi trường do các dự án của họ gây ra và Tổng thống Thein Sein đã cho dừng việc xây dựng đập Myitsone khổng lồ vì “nó trái với ý chí của nhân dân”.
Phạm Hải Hồ
___________
Ngày 28 tháng Bảy 2013, ở miền Tây Bắc Vịnh Bengal[2], các ngọn đuốc dầu khí trên những giàn khoan khổng lồ ngoài khơi Myanmar gây một ấn tượng dị kỳ. Khi ấy, đại diện bốn quốc gia Trung Quốc, Myanmar, Hàn Quốc và Ấn Độ cùng mở van đưa khí đốt từ Vịnh Bengal vào các đường ống dẫn của dự án dầu khí Trung Quốc – Myanmar ở trạm phân phối đầu tiên − trạm Kyaukpyu. Vài giờ sau đó, Phó Tổng thống Myanmar U Nyan Tun Aung cùng đại sứ Trung Quốc tại Myanmar Yang Houlan mở van điều chỉnh ở trung tâm điều chỉnh hệ thống đường ống Mandalay, và họ đốt khí flare[3] ở trạm đo lường Namkham. “Ý tưởng về đường ống dẫn dầu khí Trung Quốc – Myanmar” vốn được hỗ trợ mạnh mẽ cuối cùng đã thành hiện thực.
[Chú thích của nhà xuất bản: Theo kế hoạch, tiếp theo việc khởi động đường ống dẫn khí vào tháng Bảy 2013, đường ống dẫn dầu thô song song với nó sẽ được khởi động. Việc này hoãn lại đến đầu năm 2014 nhưng chắc không được hoàn thành đúng thời hạn vì những vấn đề môi trường và sự chống đối của công chúng Trung Quốc.]
Trong lúc ấy, một tổ chức phi chính phủ Myanmar công bố một báo cáo về quyền sử dụng, sở hữu đất đai, nó cho thấy hơn 18 thành phố lớn nhỏ sẽ bị ảnh hưởng bởi dự án đường ống dẫn dầu khí đi qua các bang Rakhine, vùng Magway, vùng Mandalay và bang Shan[4], với điểm cuối là thành phố Muse [ở sát biên giới Myanmar - Trung Quốc][5] đối diện thành phố Ruili thuộc tỉnh Vân Nam.
Không những các đường ống dẫn được xây dựng dưới điều kiện địa lý và xã hội khó khăn, mà cũng không rõ chúng sẽ hoạt động suôn sẻ trong tình trạng phức tạp hiện nay ở Myanmar hay không.
Việc lắp đặt đường ống dẫn đối mặt với nhiều trở ngại
Theo tuyên bố chính thức của Trung Quốc, việc nhập năng lượng qua các đường ống dẫn dầu khí Trung Quốc – Myanmar rất quan trọng, chỉ sau việc nhập khẩu dầu thô bằng đường thủy, đường ống dẫn dầu Trung Quốc – Kazakhstan, đường ống dẫn khí Trung Á và đường ống dẫn dầu thô Trung – Nga. Sau khi lập xong kế hoạch, đối tác Trung Quốc nhấn mạnh tầm quan trọng của hệ thống đường ống dẫn [Trung Quốc - Myanmar] và hy vọng nó sớm được hoàn thành. Tuy nhiên, sự việc không đơn giản như họ nghĩ, quá trình xây dựng đã gặp nhiều trở ngại.
Trước hết, dự án không mang lại lợi ích cho người dân. Lại phải xây dựng các đường ống dẫn trong những vùng rất khó khăn, không có hạ tầng cơ sở. Các đường ống phải vượt biển, băng qua đồi núi, cao nguyên Shan và nhiều con sông lớn. […]
Với công nghệ tân tiến và tinh thần làm việc cật lực, trong ba năm qua, công nhân Trung Quốc đã vượt qua nhiều khó khăn không thể tưởng tượng và tạo ra một công trình kỳ diệu. Ngày 13 tháng Hai 2012, họ đã hoàn thành công việc xây dựng ở khu du lịch Phật giáo với ngọn núi Popa trong vùng Mandalay. Đây là di sản tôn giáo quốc gia thuộc những Khu Bảo tồn Cảnh quan Quốc gia (National Scenic Area) được bảo vệ nghiêm ngặt nhất về mặt môi trường và du lịch văn hóa – tâm linh.
Tuy nhiên, các cộng đồng địa phương không xem đó là một tin tốt. Ngày 1 tháng Ba 2012, hơn 100 người Myanmar biểu tình phản đối trước tòa đại sứ Trung Quốc ở Thái Lan và yêu cầu Tổng thống Thein Sein dừng dự án xây dựng đường ống dẫn dầu khí Trung Quốc – Myanmar. Lãnh đạo tổ chức Myanmar với tên gọi “Phong trào Khí Shwe” (Shwe Gas Movement) nói: “Dự án này không chia sẻ lợi ích và quyền lợi với nhân dân địa phương, những người vừa mới mất tài sản và phương tiện sinh sống. Trong khi đó, nó lại thiếu minh bạch, trách nhiệm giải trình và trách nhiệm của doanh nghiệp [đối với xã hội và môi trường]. Hoạt động của chúng tôi không chỉ nhằm vào Trung Quốc, mà tất cả các công ty tham gia và các nhân vật có liên quan tới dự án.” Chiến dịch được tổ chức đồng thời trước các đại sứ Myanmar, Ấn Độ, Hàn Quốc và Trung Quốc tại Thái Lan.
Hơn nữa, sự thay đổi chính trị ở Myanmar đã tạo ra những lực lượng mới trong dân chúng ngăn cản dự án đường ống dẫn dầu khí. Tháng Ba 2011, chính quyền quân sự Myanmar đã chuyển đổi thành một chính quyền dân sự, Tổng thống mới U Thein Sein có nhiều sáng kiến, đặc biệt về tự do ngôn luận trên các phương tiện truyền thông đại chúng và quyền xuống đường phản đối. Dưới “sức ép của công luận”, Tổng thống U Thein Sein không những dừng đập Myitsone do Trung Quốc đầu tư xây dựng mà còn yêu cầu đánh giá lại việc đầu tư của Trung Quốc vào dự án khai thác đồng Letpadaung.
Chắc hẳn các biện pháp ấy đã tạo sức ép với việc xây dựng đường ống dẫn dầu khí Trung Quốc – Myanmar. Trước đây, ba dự án nói trên được xem là “ba dự án đầu tư trọng điểm của Trung Quốc tại Myanmar” dùng để thử đánh giá sự thay đổi trong quan hệ giữa chính quyền mới của Myanmar với Trung Quốc.
Trung Quốc nhượng bộ
Chính quyền và các công ty Trung Quốc đã kịp thời nhận thấy tình hình mới và có những biện pháp ứng phó tức thời. Trên bình diện chính phủ, quan chức cấp cao liên tục viếng thăm Myanmar nhằm điều phối việc đầu tư và mời các nhà chính trị chủ chốt của nước này sang thăm Trung Quốc. Cũng như vậy, các công ty cố gắng tạo ra những dự án nhân đạo và cải thiện hình ảnh Trung Quốc trên các phương tiện truyền thông đại chúng của Myanmar.
Theo thỏa thuận trước đây, dự kiến đường ống dẫn khí đã hoàn thành mỗi năm sẽ chuyển 12 tỉ mét khối khí [sang Trung Quốc]. Sản lượng hàng năm của đường ống dẫn dầu dự kiến sẽ là 22 triệu tấn.
Dù mặc cả, chính phủ Myanmar cũng không thể có được điều kiện tốt hơn nữa: họ sẽ nhận đến 2 triệu tấn dầu thô và 20 % tổng số lượng khí tự nhiên sản xuất hàng năm. Các điều kiện này tốt hơn nhiều so với thỏa thuận trước kia: 13 triệu đô la Mỹ cho chi phí quá cảnh. Ngày 28 tháng Bảy, khi tham dự lễ khai mạc nói trên, Phó Tổng thống Myanmar U Nyan Tun tuyên bố dự án đường ống dẫn là một thắng lợi chung của cả bốn quốc gia liên quan, nó “sẽ cải thiện nền kinh tế, quá trình công nghiệp hóa và điện khí hóa của Myanmar, nó quan trọng đối với sự phát triển lâu dài của Myanmar.”
Dầu khí rất quan trọng đối với công cuộc phát triển kinh tế của Myanmar. Kể từ năm 2000, Myanmar là nước xuất khẩu khí tự nhiên nhiều nhất ở châu Á – Thái Bình Dương. Nhà máy lọc dầu thô dự kiến thành lập cũng sẽ góp phần tạo ra sản phẩm xuất khẩu. Chính phủ hy vọng các đường ống dẫn dầu khí sẽ thúc đẩy sự tăng trưởng của Myanmar trong 20 năm tới và giúp nước này khắc phục tình trạng nghèo nàn lạc hậu.
Lý lẽ giả tạo của Trung Quốc cho việc đầu tư ở Myanmar
Mặc dù thế, tầm quan trọng của đường dẫn dầu khí Trung Quốc – Myanmar là điều có thể tranh cãi. Đại diện của Tập đoàn Dầu khí Trung Quốc (China National Petroleum Corporation, CNPC) tuyên bố dự án ấy có tầm quan trọng chiến lược: “Sau khi hoàn thành đường ống dẫn, dầu thô nhập từ Trung Đông và khí tự nhiên từ Myanmar sẽ không còn qua eo biển Malacca nữa. Điều này có tầm quan trọng chiến lược đối với việc đa dạng hóa và an ninh năng lượng của Trung Quốc.”
Cho đến nay, eo biển Malacca đặc biệt quan trọng đối với việc cung ứng dầu thô cho Trung Quốc. Sự đói khát năng lượng khiến Trung Quốc rất lệ thuộc vào dầu thô từ Trung Đông. Chừng 80 % lượng dầu thô mà Trung Quốc nhập khẩu từ Trung Đông đi qua eo biển Malacca.
Do đó, vài học giả nhấn mạnh rằng Trung Quốc cần gấp rút tạo cho mình những nguồn dự trữ dầu riêng vì nếu eo biển Malacca bị kiểm soát bởi những nước khác, Trung Quốc sẽ mất khả năng vận chuyển dầu.
Nhằm giải quyết “tình trạng tiến thoái lưỡng nan ở Malacca”, một số nhóm tư duy chiến lược (think tank) Trung Quốc nảy ra ý tưởng thay thế eo biển Malacca. Đào một đường hầm xuyên qua eo đất Kra ở miền Nam Thái Lan hay hợp tác với Malaysia để xây dựng một đường ống dẫn qua Ấn Độ, đó chỉ là hai trong nhiều sáng kiến. Nhưng đa số các dự án đều rất khó thực hiện vì những lý do địa lý, địa chất, địa chính trị hay tài chính.
Dự án đường ống dẫn xuyên qua Myanmar được chấp thuận ở một thời điểm mà chính quyền quân sự của nước này rất bị cô lập trong cộng đồng quốc tế.
Sau khi hoàn thành, đường ống dẫn sẽ thu ngắn đường vận chuyển dầu thô của Trung Quốc từ Trung Đông và châu Phi đến 1200 kilomet. Nó sẽ giảm chi phí vận chuyển so với đường qua eo biển Malacca và sẽ đạt được 10 % khả năng đảm bảo an ninh năng lượng (energy capability).
Tuy nhiên, tình trạng gọi là “tiến thoái lưỡng nan ở Malacca” dưới cái nhìn của vài học giả thật ra là một lý lẽ giả tạo. Trước hết, không ai dám công khai ngăn chặn tàu Trung Quốc, trừ phi họ muốn chiến tranh với Trung Quốc. Trong trường hợp này, quân đội hùng mạnh của Trung Quốc có thể tấn công một cách hợp lý để bảo vệ lợi ích quốc gia. Hơn nữa, nếu thực sự muốn ngăn chặn tàu Trung Quốc, thì họ cũng có thể làm việc ấy ở Ấn Độ Dương và vịnh Aden, tại sao phải đợi đến eo biển Malacca?
Ở Trung Quốc, những nhà nghiên cứu và hoạch định chính sách phê phán các đường ống dẫn dầu khí chủ yếu vì phí tổn xây dựng cao và những rủi ro chính trị tiềm ẩn. Ông Zha Daojiong[6], chuyên gia an ninh năng lượng thuộc Đại học Bắc Kinh phát biểu trong một cuộc phỏng vấn củaFinancial Times: “Trên lý thuyết, nếu lực lượng thù địch nào muốn quấy rối việc vận chuyển bằng tàu chở dầu của anh, tại sao họ phải chăm chăm nhìn vào Malacca? Có lẽ chỉ vì dự án ở Myanmar gây tranh cãi và bị chỉ trích nên nhà chức trách Trung Quốc mới nhấn mạnh yếu tố chiến lược ấy.”
Hơn nữa, dường như dự án đường ống dẫn Trung Quốc – Myanmar gây nhiều vấn đề hơn “tình trạng bế tắc ở Malacca”.
Đến nay, xung đột quân sự trong nội địa Myanmar đã kéo dài hơn hai năm.[7] Trên 50 kilomet đường ống dẫn nằm trong vùng có chiến tranh, tình trạng an ninh ở Myanmar còn xấu hơn ở eo biển Malacca. Thậm chí chúng ta có thể tưởng tượng nông dân Myanmar sống dọc theo đường ống dẫn có thể dùng cuốc đập vỡ nó một cách dễ dàng. Vì đường ống dẫn nằm trong lãnh thổ Myanmar, Trung Quốc không thể và không có phương tiện để kiểm soát hành vi của họ.
Đánh giá phức tạp của Myanmar về tình trạng thực sự
Trung Quốc không phải là khách hàng duy nhất của Myanmar. Nhất là trong năm 1998, Myanmar trở thành nước xuất khẩu khí tự nhiên và từ năm 2000 đã xuất khẩu nhiều khí tự nhiên nhất vùng châu Á – Thái Bình Dương.
Thứ nhì, cũng nên lưu ý là các đường ống dẫn không chỉ được đầu tư bởi Trung Quốc. Chúng còn được vận hành bởi “Công ty đường ống dẫn Đông Nam Á”, một công ty cổ phần đầu tư liên kết sáu công ty từ Trung Quốc, Myanmar, Ấn Độ và Hàn Quốc. Tuy nhiên, các công ty Trung Quốc nắm giữ hơn 50 % cổ phần. Nhưng cũng không nên đánh giá thấp phần lợi nhuận mà chính phủ Myanmar thu được.
Thứ ba, các cộng đồng Myanmar phải chịu tác động nhưng lại không hưởng lợi ích từ dự án. Một mặt, ngoài lãi cổ phần hàng năm ra, chính phủ Myanmar còn thu được nhiều tiền thuế, tiền thuê đất, chi phí quá cảnh, từ quỹ đào tạo kỹ thuật và nhiều nguồn khác. Vì dự án sử dụng một phần lớn nhân viên địa phương ở Myanmar để vận hành các đường ống dẫn nên cũng sẽ tập huấn một số lớn kỹ thuật viên trong ngành công nghiệp năng lượng.
Tuy nhiên, không dễ gì các mối lợi nhuận và lợi ích ấy được phân phối trực tiếp cho người dân thường, nhất là những cộng đồng ở dọc theo đường ống dẫn đã mất tài sản và bị thiệt hại bởi dự án. Họ than phiền chỉ nhận được ít tiền đền bù, trong khi sinh kế và môi trường của họ bị hủy hoại. Thật ra, Công ty đường ống dẫn Đông Nam Á đã cung cấp hơn 20 triệu đô la Mỹ cho việc bảo đảm an toàn sinh kế, số tiền này được dùng để xây dựng 43 trường học, 2 trường mầm non, 3 bệnh viện, 21 trung tâm y tế, một hồ chứa nước ở đảo Ma Day và đường dây dẫn điện ở bang Rakhine. Nhưng vì công ty không có khả năng thực hiện các dự án ấy ở cộng đồng, họ chỉ cung cấp tiền cho chính phủ Myanmar thực hiện; vì vậy nên việc làm của họ không được nhiều người dân địa phương ghi nhận.
Hậu quả là tình trạng bất ổn và những cuộc biểu tình phản đối của dân địa phương làm chậm tiến trình của dự án và khiến số tiền đầu tư ban đầu 2,54 tỉ tăng lên tới hơn 5 tỉ đô la Mỹ.
Trách nhiệm không được phân chia một cách hợp lý. Công ty tham gia dự án đã giao mọi trách nhiệm thu mua đất, tái định cư và đền bù cho nhà chức trách Myanmar. Nhưng chính quyền địa phương không dùng trọn số tiền đóng góp cho việc đền bù và phúc lợi xã hội. Dân làng ở những vùng bị ảnh hưởng cho phóng viên biết là họ không nhận được khoản đền bù nào cả. Sau khi báo chí đưa tin ấy, chính quyền địa phương mới dần dần trả tiền đền bù.
Các đường ống dẫn làm tăng thêm xung đột
Một điều đáng lo ngại hơn, là xung đột vũ trang ở Myanmar. Trong hai năm qua, xung đột vũ trang giữa quân chính phủ và Quân đội Độc lập Kachin (Kachin Independence Army, KIA) ở miền Bắc Myanmar đã leo thang. Các tác động phụ của chiến tranh ngày càng tăng thêm, như số nạn nhân thương vong, người tị nạn, người bị cưỡng bức di cư, tình trạng suy thoái kinh tế, việc cắt điện v.v. Ngày 23 tháng Mười 2011, lấy danh nghĩa bảo đảm an toàn cho việc xây dựng đường ống dẫn dầu khí, quân đội chính phủ đã tấn công vào lãnh địa của KIA ở bang Shan.
Việc xây dựng đường ống dẫn làm xung đột giữa quân đội Myanmar và KIA trở nên gay gắt, nhưng cuộc xung đột cũng gây nguy hiểm cho đường ống dẫn vì nó đi ngang qua vùng này hơn 50 kilomet. Nếu cuộc tranh cãi về đường ống dẫn Trung Quốc – Myanmar vẫn tiếp diễn, nhân dân Myanmar sẽ không chấp nhận và ủng hộ hoàn toàn dự án ấy, và chắc hẳn trong tương lai nó sẽ gặp nhiều khó khăn.
Phía Trung Quốc cũng phản đối
Cách đây không lâu, ở Trung Quốc cũng xảy ra những vụ phản đối. Giữa lúc tiến hành dự án đường ống dẫn dầu khí Trung Quốc – Myanmar, dự án lọc dầu công suất 10 triệu tấn / năm của Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Trung Quốc ở Côn Minh và những dự án phụ của dự án đường ống dẫn, người dân Côn Minh đã xuống đường phản đối.[8] Vài nhà nghiên cứu đã lưu ý: “Bất kể ở Myanmar hay Trung Quốc, các công ty Trung Quốc quen thương lượng với cấp lãnh đạo cao nhất, phớt lờ những thách thức mà xã hội dân sự và cộng đồng gặp phải. Nếu dự án không hoạt động theo kế hoạch, CNPC sẽ đối mặt với gánh nặng nợ nần và những thiệt hại kinh tế to lớn.”
Triển vọng
Các dự án đường ống dẫn có thể trở thành quân cờ Myanmar dùng để kiềm chế phát triển của Trung Quốc. Tuy nhiên, sau khi quyền hành từ nhóm quân phiệt chuyển sang chính quyền dân sự, xung đột lớn nhất ở Myanmar là xung đột chủng tộc. Trước sự mâu thuẫn về lợi ích kinh tế giữa chính phủ và các nhóm sắc tộc, cộng với các mối bất hòa và mâu thuẫn về văn hóa – tín ngưỡng, sự khẳng định bền bỉ của Trung Quốc về “không can thiệp và công việc nội bộ” sẽ gặp phải nhiều thử thách.
Tóm lại, các đường ống dẫn dầu khí Trung Quốc – Myanmar là một dự án gây nhiều tranh cãi vì viễn cảnh của Trung Quốc và sự hiện thực hóa của nó. Hơn nữa, tương lai của các dự án không chắc chắn bởi tình trạng xung đột quân sự.
__________
Chú thích [của nhà xuất bản]
Trên đây là bản rút gọn từ bài báo “The prospects of the Sino-Myanmar oil and gas pipeline” của Ying Hongwei, đăng trên Phoenix Weekly No 25, Vol 482, tháng chín 2013, trang 44-46.
Ying Hongwei là nhà báo tự do sống ở Trung Quốc.
Ảnh: Đường ống dẫn Myanmar – Trung Quốc là một trong 4 hệ thống đường ống dẫn năng lượng vào Trung Quốc. Ngoài ra, nước này còn nhập dầu thô từ Trung Đông và châu Phi bằng đường thủy qua eo biển Malacca và Biển Đông Nam Á. Ảnh chỉ dùng để minh họa, không có trong bài báo.
Nguồn: Dịch từ bản tiếng Anh: Ying HongweiChinese investments in Myanmar. The Sino-Myanmar oil and gas pipeline project could become a chess piece, Stiftung Asienhaus Hintergrundinformationen 13.03.2014.
Bản tiếng Việt © 2014 Phạm Hải Hồ & pro&contra

[1] “Biển Đông Nam Á” (tên gọi quốc tế: South China Sea) là vùng biển nằm giữa Việt Nam, Trung Quốc, Philippines, Indonesia, Brunei, Malaysia và Singapore. Đường “chín đoạn” hay “lưỡi bò” vô căn cứ mà các thế lực bành trướng Trung Quốc cho là ranh giới lãnh hải của mình chiếm đến 80-90 % biển Đông Nam Á. Từ “Biển Đông” thường được người Việt dùng để chỉ vùng biển nằm phía Đông Việt Nam, bao gồm hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa nhưng chưa xác định ranh giới rõ ràng.
[2] Tác giả đã lầm khi viết “in the southwest of the Bay of Bengal, Myanmar” (ở miền Tây Nam Vịnh Bengal, Myanmar).
[3] Khí nằm lẫn trong dầu mỏ mà khi khai thác người ta thường đốt để loại bỏ nó.
[4]Cộng hòa Liên bang Myanmar gồm 7 bang (state), 7 vùng (region), 1 địa hạt liên bang (union territory), 7 khu tự trị (self-administered zone) và 1 vùng tự trị (self-administered division).
[5] Đúng hơn, điểm cuối là thành phố Côn Minh, thủ phủ tỉnh Vân Nam, nơi Trung Quốc xây dựng một nhà máy lọc dầu.
[6] Giáo sư kinh tế chính trị quốc tế, trình bày quan điểm của mình về dự án đường ống dẫn Myanmar-Trung Quốc trong bài: Zha DaojiongOil Pipeline from Myanmar to China: Competing Perspectives, RSIS Commentaries 74/2009.
[7] Chính quyền và 14 trong 16 nhóm quân nổi dậy đã ký thỏa thuận hòa giải. Tuy nhiên, đến nay xung đột vũ trang giữa quân chính phủ và “Quân đội Độc lập Kachin” vẫn còn tiếp diễn. Xem: Tú Anh, “Chiến sự và lòng nghi kỵ đe dọa nỗ lực hòa bình tại Miến Điện”, rfi 07/05/2014.
[8] Thật ra, người dân Côn Minh đã biểu tình phản đối khi hay tin nhà máy lọc dầu sẽ được xây dựng tại thành phố của họ. Xem: William Ide, “Chinese Environmental Protesters Demand Transparency”, VOA May 17, 2013.
Source : pro&contra