Tháng 6 6, 2013
Nguyễn Hoàng Văn
Chưa thấy nghệ sĩ nào làm xấu quê hương của mình như Phạm Văn Hạng. Cũng chưa thấy nghệ sĩ nào dai dẳng bám trụ cái công việc ngu muội hóa nhận thức thẩm mỹ dân mình bằng nhà điêu khắc ấy, qua hai công trình mang tính dấu mốc của Đà Nẵng: Mẹ Nhu cứng đờ chỉ lối 1985 và Đầu Rồng loè loẹt bê vàng 2013, nghĩa là suýt soát ba thập niên.
Suýt soát ba thập niên nhưng chỉ nhích nhắc một đọan đường rất ngắn mà, thậm chí, không đáng mặt là “đường” dẫu chỉ một đoạn thực ngắn. Chỉ lởn vởn, xà quần. Xà quần từ thứ mỹ học “công nông binh trí tiến lên” cho đến “mỹ học nhà đòn”, quan niệm màu mè về cái đẹp theo kiểu ma chay tang tế của mấy bang hội người Hoa.
Có thể thấy ngay cái mỹ học màu mè ấy ở con rồng sắt bò trên cây cầu bắc qua sông Hàn, vàng choé và đồng bóng, nhìn xa như một cái cáng khiêng hòm, một món hàng mã hạng sang hay một thứ vật dụng trang trí phong thủy của người Trung Quốc. Nhưng tôi phải nói ngay rằng nhà điêu khắc này không phải là tác giả của mớ hổ lốn ấy. Cây cầu là tham vọng khẳng định mình của đám vua vùng, thứ lãnh chúa tân thời mà, đến thế kỷ 21 rồi, trình độ thẩm mỹ vẫn chưa thoát khỏi mỹ học “lân rồng” và phần việc của kẻ mệnh danh nghệ sĩ này, tập trung ở điểm nhấn đầu rồng, chỉ là tiếp tay phụ họa.
Nhưng vấn đề là vai trò của người nghệ sĩ. Nếu chúng ta kỳ vọng ở giới trí thức sự dũng cảm của trí tuệ và lương thức qua việc thách thức những chính sách gây hại cho đất nước và nhân quần thì, trong lĩnh vực thẩm mỹ, chúng ta cũng có quyền kỳ vọng tương tự với người nghệ sĩ. Là người, họ phải ngay thẳng với cái chân và cái thiện. Là nghệ sĩ, họ phải tự trọng với cái đẹp. Vạn nhất, không ngăn cản nổi những công trình vừa làm kiệt quệ sức dân, vừa tầm thường hoá nhận thức thẩm mỹ của người dân thì, ít ra, họ phải có sự tự trọng tối thiểu để bất hợp tác, không tiếp tay với những công trình vừa hút kiệt nguồn sống của nhân dân, vừa hoàn toàn hủ lậu và bệnh hoạn về cái đẹp.
Thế nhưng trải dài gần ba mươi năm, qua hai công trình thật tốn kém, nhà điêu khắc mệnh danh “người con đất Quảng” vẫn vậy. Vẫn chưa lớn, chưa thật sự trưởng thành trong tư cách nghệ sĩ mà, tệ hơn, còn lún sâu hơn trong cốt cách “văn công”. Mẹ Nhu giữa ngã tư Thanh Khê và Đầu Rồng ở đoạn giữa sông Hàn. Mẹ đồng, đầu rồng sắt. Mẹ ghép đâu từ gần hai ngàn vỏ đại bác Mỹ và đầu rồng cũng hàn, cũng ghép, bằng thép, chẳng rõ thép Mỹ hay thép Tàu. Nhưng cả mẹ cả rồng, như là đồng lòng, đều cùng nhìn một hướng.
Đầu tiên là Mẹ Nhu, một hình mẫu “mẹ đào hầm” [i]. Xưa mẹ đào hầm và mẹ hy sinh rồi, đến lúc đó, 1985, kỷ niệm 10 năm chiến thắng, mẹ vụt đứng lên ở cửa ngõ của Đà Nẵng để chỉ lối soi đường.
Nhưng mẹ, ở đâu, và bao giờ, cũng là… mẹ. Nghệ sĩ phải có khả năng cảm nhận tinh tế hơn người, tinh tế đến mức có thể nghe được cả tiếng cây cỏ bật mầm trong khoảng lặng hiếm hoi giữa hai đợt xung phong ngay trên trận tuyến thì, với mẹ, họ phải thấy được đâu là vòng tay nên đặt chứ? Tay mẹ, dẫu xương xẩu nắng mưa hay êm đềm vị sữa, không nên là cánh tay chỉ hướng. Tay mẹ, nên mở ra, rộng rãi. Tay mẹ, cần khoanh lại, vỗ về. Mẹ rộng mở bao dung và mẹ khép lại chở che, chở che cho cả những đứa con hư lúc thất bại cùng đường huống hồ đây đã chính danh là bà mẹ “Che chở mỗi bước chân con bước”? [ii] Nhưng theo cái mỹ học “tiến lên dưới ánh soi đường”, mẹ cứng đờ chỉ hướng tiến lên. Tiến như những công-nông-binh hùng hục tiến trong những công trình điêu khắc đại trà, những bảng hiệu tuyên truyền cũng rất đại trà: tiến theo hướng phất cán cờ, tiến theo mũi nhọn lưỡi lê, tiến theo đầu ruồi AK-47, tiến với tay súng binh, tay búa công, tay liềm nông và màu mè thêm, là tay sách cùng cặp mắt kính trí. Cứ thế mẹ chỉ. Chỉ như ông Lenin sắt máu Hai sách lược của Đảng Dân chủ – Xã hội trong thời kỳ dân chủ, như ông Mao gian manh và tàn bạo Mâu thuẫn luận, như ông Hồ trần sì tác phong Sửa đổi lối làm việc hay như, con người quyền lực nhất thời ấy, cái ông Lê Duẫn ít chữ lắm lời: Dưới là cờ vẻ vang cuả đảng vì độc lập, tự do vì chủ nghĩa xã hội tiến lên giành những thắng lợi mới [iii].
Nhưng mẹ rất kiệm lời, chỉ đẫn đờ đưa tay về biển. Oái ăm thay, theo hướng mẹ, lớp lớp đàn con âm thầm và hồi hộp dắt díu nhau ra biển, dẫu dắt díu trong đớn đau ray rứt với ý nghĩ một đi không trở lại, cơ hồ chỉ thấy mỗi “thắng lợi” ở tận bên kia biển. Rồi thì đàn con thầm lặng, không ít đứa, đã nhởn nhơ ngược hướng, lăng xăng nhăng nhít với những “thắng lợi” mang về. Rồi thì những mẹ khác, bằng xương bằng thịt, cũng từng là “mẹ đào hầm”, lò dò lặn lội những bước chân ngược hướng theo từng chặng hành trình oan ức [iv]. Chỉ có cái Đầu Rồng thời thượng. Chỉ cái đầu loè loẹt này là theo mẹ để ngóc nhìn cùng một hướng trong âm hưởng của khẩu hiệu “Tiến ra biển lớn” đã rỗng tuếch, sáo mòn.
Cái Đầu Rồng nhìn lên lưng lửng là phần “nghệ thuật” nhất của công trình xây dựng tốn kém theo tham vọng chứng tỏ mình và lưu dấu đời sau, thứ tham vọng mà những pharaoh Ai Cập đã thành hay một Saddam Hussein đã cố nhưng hoàn toàn thất bại. Tham vọng của đám vua vùng hãnh tiến mà tài kinh bang tế thế chẳng qua là vét sạch tài nguyên để dựng lên một bề mặt hào nhoáng: tài nguyên không nằm sâu trong lòng đất thì tài nguyên chính là bề mặt của đất và họ đã đua đòi như những ông lý trưởng khi vét sạch đất hương hỏa của mình hay của người để cung phụng cho cái nhu cầu “khẳng định mình” trong quan niệm thẩm mỹ “sơn son thép vàng”. Phong cách “kinh bang” không khá. Cảm quan thẩm mỹ cũng không khá. Gắng gượng khẳng định mình bao nhiêu đi nữa kết cuộc cũng chỉ là một thứ sản phẩm chắp vá nên, dẫu đã vẽ vời bằng những khẩu hiệu rung trời với mục tiêu “biển lớn”, chỉ mới vượt một con sông không lớn lắm thôi, con rồng mỏng manh đã hụt hơi, tận sức.
Rồng, không tiến ra biển nổi mà, cơ hồ, phải bám trụ, ở bờ Đông sông Hàn.
Bờ Đông của một thời là An Hải, làng chài, còn được thi vị hoá trong vài cái tên là Đông Giang. Bờ Đông của một thời chiến tranh là đất của dân tản cư, của những trại lính, của những snack-bar, của gái điếm và của cô hồn cắc đảng. Bờ Đông của thời bình, lúc mẹ đứng lên ở Thanh Khê chỉ lối, từng bị dè bỉu trong cái nhìn trịch thượng của những thị dân bờ Tây như là “Quận Ba”, đất “nhà quê”, thứ đất của thứ dân chài và những thị dân hạng hai nửa quê nửa tỉnh. Nhưng rồi thì bờ ấy cũng đổi đời như một mảnh đất bê vàng để “rồng” – ví như một biểu tượng “tinh hoa” — bị lụy bờ, sụm xuống. “Khát vọng hoá rồng” đã bị nhấn chìm trong ma lực bê vàng.
Không ai có thể đưa ra một dự phóng chính danh là “khát vọng” khi ngang tàng chà đạp lên sức người và sức đất nhưng đó lại là những chuyện mỉa mai rất thực. Những đám “nhà quê” – bờ Đông hay bờ Tây – đã bị đuổi đi và những cao ốc, những biệt thự lộng lẫy, những khu đô thị khang trang đã nối đuôi nhau mọc lên, choáng ngợp. Một dải biển dài đã bị “ngăn sông cấm chợ” và những resort hạng sang nối tiếp mọc lên, san sát. Dân chài đang mất biển và những thị dân, nửa quê nửa tỉnh hay toàn phần là tỉnh, cũng bị mất biển: không được sống bằng biển quê hương, họ cũng không được tắm cả biển của quê hương. Sức dân và sức đất đã bị chà đạp tàn mạt thế nên “rồng” cứ là yếu ớt mỏng manh, không thể bay ra tới biển.
Nhưng dù không là như thế, dù mãnh liệt và vũ bão, dù hừng hực khát vọng thì rồng vẫn là… rồng. Chúng ta có thể nói thao thao bất tuyệt về con rồng thời Lý, thời Trần hay thời Lê; chúng ta có thể bơm thổi cho rồng vàng “tiến ra biển lớn”, có thể chôn vùi “rồng Nam phun bạc đánh đổ Đức tặc” của thực dân Pháp một thời nhưng, suy cho cùng, rồng nào cũng là rồng, cũng là một thứ sản phẩm thực dân. Nếu thực dân là một thế lực ăn cướp, cướp đất và cướp cả tư cách con người thì dân tộc chúng ta đã bị đặt trên đe và trên thớt của của bao nhiêu là kẻ cướp. Sau bọn cướp đất phương Bắc thì đến bọn cướp đất phương Tây. Hết băng cướp đất phương Tây thì đến đảng cướp đất toàn trị [v]. Chưa thoát ra khỏi cái búa của giặc cướp toàn trị thì lại lấp ló cái mã tấu của giặc cướp phương Bắc, tình thế thật là rối ren và bi đát quá.
Rối ren và bi đát hệt tình cảnh mà những thế hệ như Phan Chu Trinh đã đối mặt khi thức tỉnh ra rằng, để cứu lấy mình, tộc Việt phải tự “đả phá” lấy chính mình: ngày nào còn tiếp tục nhai lại những giáo điều đã học của ông thầy Tàu, như là một sản phẩm của thực dân cũ, ngày đó tộc Việt không thể nào mạnh lên để thoát khỏi ách thực dân mới, không thể “ngửng mặt nhìn năm châu bốn bể”. Và chính sự thức tỉnh này đã mở lối cho cuộc vận động “chấn hưng dân khí và dân trí” nhằm đục bỏ sự nô lệ về tinh thần để xây dựng một ý thức quốc gia mới.
Tôi vẫn nhớ như in nét mặt của điêu khắc gia kiêm hoạ sĩ Lê Thành Nhơn, cách đây mười mấy năm, trong một lần họp mặt tại nhà của nhà phê bình Nguyễn Hưng Quốc. Lê Thành Nhơn say sưa nói về một ý tưởng sáng tạo mà, cho đến lúc trút hơi thở cuối cùng, anh vẫn không có cơ hội thực hiện: một hình khối nửa người nửa đá, hai tay vung ra, tay đục và tay búa, dùng chính sức của mình đục nên hình vóc của chính mình.
Tác phẩm chưa thành của người nghệ sĩ sống hết mình cho nghệ thuật, cơ hồ, cũng là giấc mơ chung bất thành sau bao thế hệ. Bởi vượt qua kiếp đá, vươn lên thành người, hiểu trong hoàn cảnh của chúng ta, là “mạnh lên”, là “ngửng mặt nhìn năm châu bốn bể”. Kể ra thì đó cũng chính là điều gói ghém trong khẩu hiệu “Tiến ra biển lớn” khi ngụ ý ước vọng thoát khỏi hoàn cảnh nhược tiểu để hòa nhập với thế giới như một sân chơi bình đẳng. Và đó vẫn tiếp tục là một giấc mơ xa vời khi “dân trí” và “dân khí” chưa được “chấn hưng”.
Rõ ràng là “dân trí” từng thấp lắm nên bọn ăn cướp toàn trị mới có thế thành công với những lớp mặt nạ mỵ dân “bình đẳng”, “tự do” và “độc lập”. Nhưng cả khi những lớp mặt nạ ấy đã rớt xuống để hở bộ mặt của thứ đầu trộm đuôi cướp ra rồi thì “dân khí” phải thế nào đó nên mới có những thế hệ tiếp nối nhau nhẫn nhịn sống chung. Một dân tộc sống chung với bầy ăn cướp. Một dân tộc tự điều chỉnh mình để thích nghi với những trò ăn cướp. Một dân tộc cam tâm trong vai của một nạn nhân trường kỳ.
Để dân tộc vượt qua thân phận yếu hèn không thể “ngửng mặt nhìn năm châu bốn bể” thì từng cá nhân phải ngửng mặt sống như những con người. Phải vượt qua cái tâm lý nhẫn nhịn và thích nghi trường kỳ, phải vung đôi tay của mình lên đục bỏ những căn tính nô lệ đã kết tủa trong chính não trạng của mình. Công việc lớn lao đó đòi hỏi sự góp phần của người nghệ sĩ bởi, nếu không nâng được cảm quan của công chúng về những giá trị chân thiện mỹ lên thì, ít ra, họ cũng không thể cam tâm dìm nó xuống, không thể cam tâm bắt tay hợp tác với những trò mỵ dân cực kỳ hao tổn tài nguyên nấp dưới cái bóng nghệ thuật.
Mà tự thân người nghệ sĩ cũng vậy. Hắn phải tự vung tay lên để tự tạo lấy hình vóc và tầm cỡ của hắn hay ít ra là để tự giải thoát cho hắn. Ngoan ngoãn đục đẽo tô nắn theo ngón tay duy ý chí của những kẻ đang thao túng nguồn sống của nhân dân thì, dù thực hiện hết công trình “phì đại” này đến công trình “phì đại” khác, trọn kiếp hắn cũng chỉ “tròn kiếp văn công”. Những tác phẩm minh hoạ càng đồ sộ và hoành tráng theo cuồng vọng khẳng định mình của những kẻ cầm quyền hãnh tiến, tư cách nghệ sĩ của hắn càng bé lại, choắt lại, co rúm trong vòng khép của đôi tay cơ hồ hoá đá.
Nhưng thế, hóa đá, kể cũng là sang. Đã “tròn kiếp văn công” thì nói gì là đá, con tim hắn, khối óc của hắn còn tệ hơn, không đáng mặt là đá mà, xét cho cùng, chỉ là một nhúm đất bạc màu.
Đà Nẵng – Sydney 1.6.2013
© 2013 Nguyễn Hoàng Văn & pro&contra
[i] Tên thật là Lê Thị Dãnh (? – 1968), từ năm 1967 đã đào hầm bí mật trong nhà để nuôi giấu cán bộ nằm vùng, đặc biệt là “biệt động thành”. Ngày 21-12-1968, cơ sở bị bố ráp. Theo tài liệu tuyên truyền thì 7 “biệt động thành” vùng chống trả và thoát ra khu, riêng bà mẹ thì bị giết.
Cổng thông tin điện tử Đà Nẵng viết về bức tượng: “Sau ngày thành phố Đà Nẵng được giải phóng, nhà điêu khắc Phạm Văn Hạng đã tác tượng Mẹ Nhu bằng cách ghép nối hàng nghìn vỏ đạn đồng đại bác của Mỹ. Bức tượng đồ sộ cao hơn chục mét của bà mẹ anh hùng mặt hướng về phía cửa biển Đà Nẵng, trong tư thế đang phất tay ra lệnh “tiến lên”, được đặt trên đại lộ Điện Biên Phủ dẫn vào trung tâm thành phố.”
Cổng thông tin điện tử Đà Nẵng viết về bức tượng: “Sau ngày thành phố Đà Nẵng được giải phóng, nhà điêu khắc Phạm Văn Hạng đã tác tượng Mẹ Nhu bằng cách ghép nối hàng nghìn vỏ đạn đồng đại bác của Mỹ. Bức tượng đồ sộ cao hơn chục mét của bà mẹ anh hùng mặt hướng về phía cửa biển Đà Nẵng, trong tư thế đang phất tay ra lệnh “tiến lên”, được đặt trên đại lộ Điện Biên Phủ dẫn vào trung tâm thành phố.”
[ii] Trích từ bài thơ “Đất quê ta mênh mông” của Dương Hương Ly (Bùi Minh Quốc)
[iii] Tên những tác phẩm sặc mùi giáo điều của các lãnh tụ cộng sản này
[iv] Tôi thử google mấy chữ “Mẹ liệt sĩ khiếu kiện” thì chỉ trong vòng 0.31 giây đã nhận được 515,000 kết quả. Thử liệt kê những kết quả đầu tiên:
i/ Mẹ liệt sỹ 90 tuổi trong túp lều xiêu vẹo
ii/ Khiếu nại của mẹ liệt sĩ Nguyễn Thị Ngùy về đất bị thu hồi: Những …
iii/ Đừng để mẹ liệt sĩ phải hoài công khiếu nại
iv/ Một mẹ liệt sĩ mỏi mòn chờ đợi phép công
i/ Mẹ liệt sỹ 90 tuổi trong túp lều xiêu vẹo
ii/ Khiếu nại của mẹ liệt sĩ Nguyễn Thị Ngùy về đất bị thu hồi: Những …
iii/ Đừng để mẹ liệt sĩ phải hoài công khiếu nại
iv/ Một mẹ liệt sĩ mỏi mòn chờ đợi phép công
[v] Xem: “Thực dân, nô lệ, ăn mày”: 1/ http://www.talawas.org/?p=21228, 2/ http://www.talawas.org/?p=21230
Không đồng tình hết với nội dung của bài viết, nhưng quả 2 công trình này của PVH, chất mỹ thuật không cao!
Trả lờiXóahehe ! 9 nguoi 10 y' ma\ ba.n ! I agree with your " view point "!
Trả lờiXóa