Friedrich Nietzsche
Buổi hoàng hôn của những thần tượng
hay Làm cách nào triết lí với cây búa
Nguyễn Hữu Hiệu dịch và giới thiệu
“Lí trí” trong triết học
1.
Bạn hỏi tôi tất cả đặc chất nơi những triết gia là gì?... Chẳng hạn sự thiếu cảm thức lịch sử của họ, sự thù ghét ý tưởng về Biến Dịch của họ, chủ trương tồn cổ kiểu Ai Cập của họ. Họ tưởng họ làm vẻ vang một sự việc khi họ tước bỏ khía cạnh lịch sử của nó, sub specie aeterni [1] ,- khi họ biến nó thành một xác ướp. Tất cả những ý tưởng mà những triết gia mân mê hàng năm chỉ là những ý tưởng xác ướp; không có gì thực thoát ra khỏi bàn tay họ mà còn sinh động. Họ giết, họ lột da, nhồi trấu khi họ tôn sùng, những vị sùng bái ý tưởng này, - họ trở thành một hiểm họa chết chóc cho tất cả mọi sự khi họ tôn sùng. Chết chóc, thay đổi, tuổi tác, cũng như sinh sản và trưởng thành đối với họ đều là những dị luận - những bác luận nữa. Cái đang hiện hữu không biến dịch; cái biến dịch không hiện hữu… Bây giờ họ hoàn toàn tin, tới độ tuyệt vọng nữa, vào Hữu Thể [2] . Nhưng vì họ không thể nắm được nó, họ tìm kiếm lí do tại sao họ bị ngăn trở không đạt tới. Phải có một Hiển Thể [3] , một sự lừa gạt, ngăn cản không cho chúng ta tri giác Hữu Thể: kẻ lừa gạt ở đâu?” - “Chúng ta nắm được nó rồi”, họ sung sướng kêu lên; “đó là nhục cảm. Những giác quan này, đồng thời cũng rất vô luân, chính chúng lừa gạt chúng ta về thế giới chân thực. Luân lí: thoát ra khỏi sự lừa gạt của giác quan, khỏi biến dịch, khỏi lịch sử: lịch sử không là gì khác hơn sự tin tưởng vào giác quan, tin tưởng vào dối trái. Luân lí: khước từ tất cả những kẻ tin vào giác quan, khước từ toàn thể nhân loại: tất cả những kẻ đó đều thuộc về “quần chúng”. Là một triết gia, là một xác ướp, trình bầy thuyết monotonothéisme bằng cách bắt chước điệu bộ của phu đào huyệt! - Và trên hết, tẩy chay thân xác, cái idée fixe [4] đáng thương của những giác quan! Nhiễm đầy khuyết điểm của luận lí, bị bác bỏ, bất khả nữa, dù khá trơ trẽn khi cư xử như thể nó có thật…”
2.
Với một niềm kính cẩn vô biên, tôi đặt riêng tên tuổi Héraclite [5] sang một bên. Nếu tất cả bọn triết gia khước từ chứng cớ minh bạch của những giác quan bởi chúng cho thấy phức tính và biến chuyển, thì ông cũng khước từ chứng cứ minh bạch của bọn họ vì họ trình bày sự vật như thể chúng có trường cửu tính và nhất tính. Ngay cả Héraclite cũng bất công với những giác quan. Giác quan không lừa dối theo cách những triết gia trường phái Éléates tưởng, cũng không như ông tưởng - chúng không lừa dối bao giờ cả - Chính điều ta tạo nên từ chứng cớ minh bạch của chúng là cái đầu tiên du nhập sự dối trá vào; chẳng hạn sự dối trá của nhất thể, sự dối trá của thực tại, của bản thể, của trường cửu… Lí trí chính là nguyên do của sự xuyên tạc chứng cớ minh bạch của giác quan. Chừng nào mà giác quan chỉ sự biến dịch, sự chuyển biến, sự đổi thay, chúng không dối trá… Nhưng Héraclite sẽ mãi mãi đúng khi tuyên bố rằng Hữu Thể chỉ là một ảo tưởng rỗng tuếch. Thế giới “hiển lộ bề ngoài” là thế giới duy nhất: thế giới “chân thực” chỉ là do sự dối trá thêm vào…
3.
Và những giác quan của chúng ta là những dụng cụ quan sát tinh xảo biết bao! Cái mũi chẳng hạn, mà không triết gia nào không từng cung kính và biết ơn khi nói tới, ngay như cái mũi tạm thời là dụng cụ tế nhị nhất thuộc quyền sử dụng của chúng ta: dụng cụ này có thể ghi nhận những sự sai biệt nhỏ nhặt nhất trong sự vận chuyển, mà ngay cả kiếng quang phổ cũng không thể ghi nhận được. Ngày nay chúng ta có khoa học tới chừng độ nào mà chúng ta quyết định chấp nhận chứng cớ minh bạch của những giác quan,- tới chừng độ mà chúng ta làm bén nhọn và võ trang những giác quan, học suy tưởng chúng tới cùng. Còn lại là sự sẩy non chứ chưa phải là khoa học nữa: nghĩa là siêu hình học, thần học, tâm lý học hay nhận thức luận. Hay khoa học hình thức, lí thuyết về biểu tượng: như luận lí và luận lí học ứng dụng, toán học. Trong tất cả những khoa học này thực tại không hề lộ diện, dù như một vấn đề; cũng hiếm hoi như câu hỏi một hệ thống kí hiệu quy ước như luận lí có giá trị gì vậy.
4.
Đặc chất khác của các triết gia cũng không kém phần nguy hiểm: nó hệ tại việc lẫn lộn cái cuối cùng với cái đầu tiên. Họ đặt cái đến sau cùng - bất hạnh thay! bởi nó không bao giờ được đến! - những “khái niệm cao nhất”, nghĩa là những khái niệm đại cương nhất và rỗng tuếch nhất, đám khói cuối cùng của thực tại bốc hơi, lên đầu và như cái khởi đầu. Một lần nữa đây lại là cách duy nhất biểu lộ lòng sùng kính của họ: cái cao cả nhất không được phép nẩy sinh từ cái thấp nhất, không bao giờ được phép nẩy sinh… Luân lí: tất cả những gì thuộc thượng đẳng phải là causa sui [6] . Bắt nguồn từ một căn nguyên khác bị coi như một vấn nạn, như đáng hồ nghi về giá trị. Tất cả mọi giá trị siêu đẳng phải thuộc thượng đẳng, tất cả mọi khái niệm siêu đẳng như hữu thể, tuyệt đối, chân, thiện, hoàn hảo - tất cả đều không thể “trở thành” do đó phải là causa sui. Nhưng những khái niệm siêu đẳng này cũng không thể bất tương xứng với nhau… Vì lẽ đó họ đi tới khái niệm kì dị của họ về “Thượng đế”… Cái cuối cùng, cái mong manh nhất, trống rỗng nhất được đặt lên đầu, như nguyên nhân của chính nó, như ens realisimum [7] … Nhân loại phải coi trọng những bệnh tưởng đau màng óc của những tên dệt mạng nhện bệnh hoạn này! - Và nhân loại còn phải trả giá rất đắt vì đã làm vậy!...
5.
Để kết luận, chúng ta hãy thiết định đường lối khác biệt trong đó chúng ta (- tôi nói “chúng ta” vì lịch sự…) quan niệm vấn đề sai lầm và hiển thể. Trước kia người ta thường coi sự thay đổi, đột biến là bằng chứng của hiển thể như một dấu hiệu của sự hiện diện của một cái gì đó phải có ở đó để dẫn dắt chúng ta vào chỗ lầm lạc. Ngày nay ngược lại, chúng ta thấy rõ rằng chừng nào mà lí trí bắt buộc chúng ta phải qui định nhất tính, sự trường cửu, thực thể, nguyên do, thực tại, hữu thể là một cách nào đó chúng ta bị vướng mắc vào sai lầm, cần phải sai lầm; dù chúng ta chắc chắn thế nào, căn cứ trên sự kiểm chứng gắt gao, thì sự sai lầm vẫn có ở đó. Ở đây cũng chẳng khác gì sự vận hành của mặt trời: trong trường hợp kia sự sai lầm có con mắt của chúng ta làm nhân chứng, trong trường hợp này có ngôn ngữ của chúng ta không ngớt biện hộ. Trong căn nguyên của nó, ngôn ngữ thuộc về thời đại của những hình thức sơ khai nhất của tâm lí học: chúng ta sẽ thấy mình ở giữa lòng sự sùng bái vật thần thô thiển nếu chúng ta triệu hồi những điều kiện cơ bản của khoa siêu hình học của ngôn ngữ, nghĩa là của lí trí, tới trước ý thức. Khắp nơi nó chỉ thấy tác nhân và tác động [8] : nó tin vào ý chí như nguyên nhân tổng quát; nó tin vào “tự ngã”, tin vào tự ngã như hữu thể, tin vào tự ngã như thực thể và nó phóng chiếu lòng tin tưởng vào tự ngã-thực thể [9] của nó lên tất cả mọi sự vật - chỉ bằng cách đó nó mới sáng tạo ra khái niệm “sự vật”… Khắp nơi hữu thể được quan niệm, tiếp dẫn vào, như là nguyên nhân; chính từ khái niệm về “ngã” mới tiếp nối, nẩy sinh ra khái niệm về “hữu thể”… Thoạt kì thuỷ, là sự sai lầm tai hại lớn lao cho rằng ý chí là một cái gì tác động, rằng ý chí là một năng lực… Ngày nay chúng ta biết rằng đó chỉ là một danh từ không hơn không kém… Rất lâu sau, trong một thế giới trăm ngàn lần sáng lạn hơn, sự chắc chắn, sự xác tín chủ quan, trong sự sử dụng những phạm trù của lí trí [10] đột nhiên đến với ý thức của những triết gia: họ kết luận rằng chúng không thể đến từ kinh nghiệm, - vì quả thực tất cả những gì thuộc kinh nghiệm đều không thích hợp với chúng. Vậy thì chúng bắt nguồn từ đâu? Ở Ấn Độ, cũng như ở Hy Lạp, người ta đều mắc chung một lỗi lầm này: “Ngày xưa chắc chắn chúng ta phải ở trong một thế giới cao siêu hơn (- thay vì nói trong một thế giới hạ đẳng hơn rất nhiều, điều đó mới đúng!) - “chắc chắn chúng ta phải thần thánh lắm, bởi vì chúng ta có lí trí!”… Từ trước tới nay không có gì có sức thuyết phục ngây thơ hơn sự sai lầm về hữu thể, như nó được hình thành bởi những triết gia thuộc trường Éléate chẳng hạn: vì mỗi chữ, mỗi câu chúng ta thốt ra đều nói lên vì nó! - Ngay cả những đối thủ của trường Éléate cũng chịu cái ảnh hưởng quyến rũ của khái niệm về hữu thể của họ: trong số những người đó có Démocrite, khi ông phát kiến ra nguyên tử… “Lí trí” trong ngôn ngữ: Ôi! thật là một con mụ lường gạt đáo để! Tôi sợ rằng chúng ta sẽ chẳng bao giờ thoát khỏi Thượng Đế vì chúng ta hãy còn tin vào văn phạm…
6.
Người ta sẽ cảm ơn tôi nếu tôi cô đọng một sự sáng suốt vô cùng mới mẻ và quan trọng vào bốn luận đề: bằng cách này tôi sẽ khiến nó dễ hiểu hơn, bằng cách này tôi sẽ khơi ra sự mâu thuẫn.
Mệnh đề thứ nhất: Những lí do khiến thế giới “này” được coi như một thế giới của hiển thể, chính là những lí do chứng minh thực tại của nó, - một thực tại khác tuyệt đối không thể chứng minh được.
Mệnh đề thứ hai: Những đặc tính người ta gán cho “hữu thể chân thực” [11] của sự vật thẩy đều là những đặc tính của vô thể [12] của hư thể [13] - “thế giới chân thực” được xây dựng bằng cái mâu thuẫn của thế giới đích thực: quả thực thế giới hiển lộ [14] nếu được nhìn như thế, thì nó chỉ là một ảo tưởng thị giác luân lí.
Mệnh đề thứ ba: Nói về một thế giới “khác” thế giới này là điều hoàn toàn vô nghĩa, miễn là chúng ta không có một bản năng mãnh liệt buộc chúng ta phỉ báng, dèm pha và lên án cuộc đời này: trong trường hợp sau chúng ta trả thù cuộc đời bằng sự lạm dụng ảo tưởng về một cuộc đời “khác”, một “cuộc đời tốt đẹp hơn”.
Mệnh đề thứ tư: Chia thế giới ra làm một thế giới “thực” và một thế giới “hiển lộ” hoặc theo lối của Kitô giáo hay lối của Kant (sau rốt, cũng chỉ là một tín đồ Kitô xảo quyệt) thì cũng chỉ là một dấu hiệu của sự décadence - một triệu chứng của cuộc sống sa đoạ. Sự kiện người nghệ sĩ đặt hiển thể lên trên thực tại không phải là một vấn nạn chống lại mệnh đề này. Bởi “hiển thể” ở đây cũng có nghĩa là thực tại nữa nhưng mà dưới một hình thức lựa chọn, kiên cường hoá, sửa sai… Người nghệ sĩ bi tráng không bi thảm, - hắn chính là kẻ khẳng định tất cả những gì còn hồ nghi và khủng khiếp trong cuộc đời, hắn là một kẻ theo Dionysos.
*
“Thế giới chân thực” cuối cùng trở thành một huyền thoại như thế nào
Lịch sử một lầm lẫn
1.
Thế giới chân thực, rộng mở cho hiền nhân, kẻ mộ đạo, người đức hạnh - hắn sống trong đó, hắn là thế giới đó.
(Hình thức tư tưởng cổ điển nhất, khá dễ hiểu, đơn giản, hùng hồn. Uyển-khúc-pháp của mệnh đề: “Ta, Platon, ta là chân lí.”) [15]
2.
Thế giới chân thực, khép kín với giây phút, nhưng hứa hẹn với hiền nhân, kẻ mộ đạo, người đức hạnh (“với kẻ tội đồ ăn năn”).
(Sự tiến bộ của tư tưởng: nó trở nên tế nhị hơn, phỉnh gạt hơn, khúc mắc hơn, - nó trở thành đàn bà, nó trở thành tín đồ Kitô giáo…)
3.
Thế giới chân thực, khép kín, không thể chứng minh, không thể hứa hẹn, nhưng, dù chỉ mơ tưởng, là một an ủi, một mệnh lệnh.
(Vẫn là mặt trời xưa cũ, nhưng mờ tối vì sương mù và hồ nghi; ý tưởng trở nên xanh xao, thuộc về miền bắc, của người ở Königsberg [16] )
4.
Thế giới chân thực, khép kín? Khép kín trong bất cứ trường hợp nào. Và vì khép kín nên cũng bất khả tri. Vì lẽ đó nó cũng không an ủi, không cứu rỗi, không bổn phận: làm thế nào một bất khả tri có thể buộc chúng ta một điều gì đó?
(Sớm mai xám. Những cái ngáp dài đầu tiên của lí trí. Tiếng gà gáy của thuyết duy nghiệm).
5.
Thế giới “chân thực” - một ý tưởng vô dụng, không có ý nghĩa ngay cả như một bổn phận nữa - một ý tưởng đã trở nên vô tích sự, dư thừa, do đó, một ý tưởng bị bác bỏ: chúng ta hãy tiêu diệt nó đi!
(Ngày sáng lạn; bữa điểm tâm đầu tiên; sự trở về của bon sens và vui tươi; Platon đỏ mặt vì mắc cỡ; tất cả mọi tinh thần tự do gây huyên náo dữ dội.)
6.
“Thế giới chân thực”, chúng ta đã tiêu diệt rồi: còn lại thế giới nào? Có lẽ thế giới hiển lộ chăng?... Nhưng không! Với thế giới chân thực chúng ta đã tiêu diệt thế giới của những hiển thể!
(Giữa ngọ: khoảnh khắc bóng tối ngắn ngủi nhất: chung cục của sự sai lầm lâu dài nhất; cực điểm của nhân loại; INICIPIT ZARATHUSTRA.) [17]
*
Luân lí như một cái gì phản tự nhiên
1.
Tất cả mọi đam mê đều có một thời trong đó chúng chỉ là tai hoạ, trong đó chúng dìm những nạn nhân dưới sức nặng của sự điên cuồng của chúng, - và một thời kế tiếp, rất lâu sau trong đó, chúng kết hợp với tinh thần, trong đó chúng tự “tinh thần hoá”. Ngày xưa, vì sự điên cuồng trong đam mê, người ta đã gây chiến với chính đam mê: người ta âm mưu tiêu diệt nó, - tất cả mọi quái vật luân lí cổ điển đều đồng tâm nhất trí với nhau về điểm này: “il faut tuer les passions” [18] . Định thức lừng danh nhất cho việc này nằm trong Tân Ước, đoạn Bài Giảng trên Núi, nơi, xin nói qua, những sự vật không hề được nhìn từ một đỉnh cao. Chẳng hạn nói về dục tình: “Nếu con mắt các ngươi lăng nhục các ngươi, hãy móc mắt ra.”: may mắn thay không tín đồ Kitô giáo nào theo lời khuyên này. Tiêu diệt những đam mê và khát vọng chỉ vì sự điên cuồng của chúng, và để ngăn ngừa những hậu quả tai hại của chúng - dường như đối với chúng ta ngày nay chỉ là một hình thức bén nhọn của điên cuồng. Chúng ta không còn thán phục những nghệ sĩ chuyên nhổ răng để chúng không làm đau được nữa… Đằng khác có thể công bình chấp nhận rằng, trên lãnh vực mà Kitô giáo tăng trưởng, ý tưởng về sự “tinh thần hoá đam mê” không thể quan niệm được. Bởi Giáo Hội nguyên thuỷ, như mọi người đều biết, chống lại những kẻ “thông minh” vì lợi ích của những kẻ “nghèo khó trong tinh thần”, làm sao người ta có thể trông đợi nó một cuộc chiến thông minh chống lại đam mê được? Giáo Hội đánh phá những đam mê bằng cách làm cỏ tận rễ, biện pháp cách “chữa trị” của Giáo Hội là thiến. Giáo Hội không bao giờ hỏi: “Làm thế nào người ta có thể tinh thần hoá, tô điểm, thần thánh hoá một dục vọng?”- Giáo Hội luôn đặt nặng kỷ luật của mình lên sự tuyệt diệt (dục vọng, lòng kiêu căng, tham vọng quyền lực, biển lận, thù hận) - Nhưng tấn công đam mê tận gốc rễ của nó có nghĩa là tấn công cuộc đời tận gốc rễ của nó vậy: biện pháp của Giáo Hội thù nghịch với cuộc đời…
2.
Cũng phương thuốc đó: sự thiến và diệt dục đó, được chọn dùng một cách tự nhiên theo bản năng trong cuộc chiến đấu chống lại dục vọng bởi những ý chí quá yếu đuối, quá sa đoạ để có thể cưỡng bách dục vọng đó phải chấp nhận một giới hạn; bởi những bản chất cần la Trappe [19] , nói một cách ẩn dụ (và không hình ảnh), một sự khai chiến quyết liệt của lòng cừu hận, một vực thẳm ngăn cách giữa họ và đam mê. Chính những kẻ sa đoạ mới thấy những phương tiện triệt để là tối cần thiết; sự yếu đuối của ý chí, rõ rệt hơn sự bất lực không thể phản ứng chống lại một sự kích thích, chính nó mới là một hình ảnh của sa đoạ. Lòng cừu hận triệt để, sự căm thù không đội trời chung đối với nhục cảm luôn luôn là một triệu chứng trầm trọng cần phải xét lại; người ta có quyền đặt những giả thiết về tình trạng chung của một kẻ cực đoan về phương diện này. - Tuy nhiên, lòng cừu hận, sự căm thù này chỉ lên tới cao độ khi những bản chất này không còn đủ quả cảm ngay cả cho sự chữa trị tận gốc rễ, cho sự khước từ “ma quỷ” của họ. Thử nhìn lướt qua toàn thể lịch sử những tu sĩ và những triết gia, kể cả những nghệ sĩ nữa: những lời nói hiểm độc nhất nhằm chống lại giác quan không xuất phát từ những kẻ bất lực cũng chẳng từ những kẻ khổ hạnh, mà là từ những kẻ thấy mình không thể trở nên khổ hạnh, vì những kẻ cần trở nên khổ hạnh…
3.
Sự tinh thần hoá nhục cảm được gọi là tình yêu: đó là một chiến thắng lớn lao trên Kitô giáo. Một chiến thắng khác nữa là sự tinh thần hoá lòng cừu hận của chúng ta. Nó hệ tại sự thấu hiểu sâu xa giá trị của việc có kẻ thù: tóm lại, hệ tại sự hành động và suy tưởng ngược lại đường lối người ta hành động và suy tưởng ngày xưa. Giáo Hội bao giờ cũng chỉ muốn tiêu diệt kẻ thù: chúng ta, những kẻ vô luân và chống Kitô giáo, chúng ta thấy rằng Giáo Hội tồn tại là điều ích lợi cho chúng ta… Trong chính trị cũng vậy, lòng cừu hận đã trở nên tinh thần hơn - thận trọng hơn, chín chắn hơn, an hoà hơn rất nhiều. Hầu hết mọi đảng đối lập của họ không đi đến chỗ suy yếu là điều có lợi cho chính sự tự bảo tồn của họ; sự kiện này đúng cả trong trường hợp đại chính trị. Một sự sáng tạo mới, một Đế quốc chẳng hạn, cần thù hơn cần bạn: chỉ khi đối chọi, nó mới tự cảm thấy cần thiết, chỉ khi đối chọi, nó mới trở nên cần thiết… Chúng ta chấp nhận một thái độ tương tự đối với kẻ “nội thù”: ở đó chúng ta cũng tinh thần hoá cừu hận, ở đó chúng ta mới hiểu giá trị của nó. Người ta chỉ phong phú với điều kiện phải trả giá bằng cách có nhiều mâu thuẫn; người ta chỉ trẻ với điều kiện tâm hồn không nghỉ ngơi, tâm hồn không khát khao yên ổn. Không có gì xa lạ với chúng ta hơn cái khát vọng “thanh bình của tâm hồn” ngày xưa, khát vọng của người Kitô; không có gì khơi dậy trong lòng chúng ta ít thèm muốn cho bằng con bò cái luân lí và sự thoả mãn mập ú của lương tâm yên ổn… Người ta đã khước từ cuộc đời vĩ đại khi người ta khước từ chiến tranh… Quả thực, trong nhiều trường hợp, sự “thanh bình của tâm hồn” chỉ là một điều ngộ nhận, - nó là một cái gì khác không biết làm thế nào tự cho mình một cái danh xưng lương thiện hơn. Không quanh co và không thành kiến, đây là một vài trường hợp. Chẳng hạn sự “thanh thản của tinh thần” có thể là sự phát quang êm dịu của một thú tính phong phú vào trong lãnh vực luân lí (hay tôn giáo). Hay có thể là sự bắt đầu của mỏi mệt, bóng tối đầu tiên mà buổi chiều, tất cả mọi thứ chiều, toả ra. Hay có thể là một dấu hiệu chỉ rằng không khí ẩm ướt, rằng gió nồm sắp thổi. Hay có thể là lòng cám ơn miễn cưỡng đối với một sự tiêu hoá tốt đẹp (đôi khi còn có tên là tình thương nhân loại). Hay có thể là sự tĩnh lặng tạm thời của người mới khỏi bệnh thấy tất cả mọi sự vật đều có một hương vị mới và chờ đợi… Hay có thể là trạng thái tiếp theo sau một sự thoả mãn mãnh liệt của nỗi đam mê mạnh nhất của chúng ta, cảm giác thích thú của một sự no đầy hiếm có. Hay có thể là sự suy nhược của ý chí chúng ta, của những ước vọng của chúng ta, của những tật xấu của chúng ta. Hay có thể là sự lười biếng, bị thuyết phục bởi lòng phù phiếm, tự trang điểm bằng luân lí. Hay có thể là sự xuất hiện của một niềm xác tín khủng khiếp, sau sự căng thẳng kéo dài và sự dày vò của hồ nghi. Hay có thể là sự biểu lộ của trưởng thành và tự chủ, giữa hành động, sự sáng tạo, cố gắng, ước muốn, một hơi thở lặng lẽ khi sự “tự do của ý chí” đã đạt tới… Hoàng Hôn của những thần tượng: Ai biết? Hay đó cũng có thể là một thứ “thanh bình của tâm hồn” mà thôi…
4.
Tôi đặt một nguyên tắc thành định thức. Tất cả mọi chủ trương duy nhiên trong luân lí, nghĩa là tất cả luân lí lành mạnh, đều bị chế ngự bởi bản năng sống [20] ,- một giới luật của cuộc sống nào đó, được làm tròn qua một qui luật “Phải” và “Không được”, một sự ngăn cấm hay một sự cừu hận nào đó trên đường đời, như thế đều bị gạt qua một bên. Luân lí phản tự nhiên, nghĩa là tất cả nền luân lí từ xưa tới nay đã được giảng dạy, tôn kính và thuyết giáo, ngược lại, chắc chắn nhằm chống lại những bản năng sống, nó là một sự lên án những bản năng này, khi thì bí mật, khi thì ồn ào và trơ trẽn. Khi nói rằng: “Thượng Đế nhìn thấu suốt con tim”, nó đã khước từ những ước vọng sâu xa nhất và cao viễn nhất của cuộc sống và coi Thượng Đế như kẻ thù của cuộc đời… Bậc Thánh mà Thượng Đế hài lòng là một kẻ bị thiến lí tưởng… Cuộc đời chấm dứt ở nơi mà “nước Chúa” bắt đầu…
5.
Khi người ta đã hiểu sự phạm thượng trong một cuộc đời loạn chống lại cuộc đời như thế này, như nó đã trở thành cực kỳ tôn nghiêm trong luân lí Kitô giáo, chính nhờ điều đó người ta sẽ may mắn hiểu được thêm một vài điều khác nữa: đó là sự vô ích, mê vọng hão huyền, phi lí, dối trá của một sự nổi loạn như vậy. Vì một sự lên án cuộc đời bởi một kẻ đang sống cuối cùng chỉ là triệu chứng của một lối sống xác định nào đó: vấn đề sự lên án này đúng hay không đúng không hề được đặt ra. Người ta phải đặt mình ở bên ngoài cuộc đời, và mặt khác phải hiểu biết thấu suốt cuộc đời như bất kỳ, như đa số, như tất cả mọi người đã cảm nghiệm nó, mới được phép đụng chạm tới vấn đề giá trị của cuộc đời: đó là những lý do túc lí để thấy rằng vấn đề này là một vấn đề ở ngoài tầm đối với chúng ta. Khi chúng ta nói về giá trị, chúng ta không nói vì cảm hứng và từ lăng kính của cuộc đời: chính cuộc đời buộc chúng ta phải thiết định những giá trị; chính cuộc đời đã đánh giá trị qua chúng ta khi chúng ta thiết định những giá trị [21] … Do đó tất cả mọi luân lí phản tự nhiên coi Thượng Đế như khái niệm mâu thuẫn và lên án cuộc đời, thực ra đầu chỉ là một sự đánh giá giá trị cuộc đời, - cuộc đời nào? Thứ cuộc đời nào? - Nhưng tôi đã trả lời rồi: cuộc đời xuống dốc, suy nhược, mệt mỏi, bị lên án - Luân lí, như được hiểu từ xưa tới nay - như cuối cùng được thiết định thành định thức bởi Schopenhauer, như là sự “khước từ ý chí sinh tồn” - thứ luân lí này chính là bản năng suy đồi, tự biến thành một mệnh lệnh: nó nói: “Hãy diệt vong đi!” - đó là sự phán xét của những kẻ bị phán xét…
6.
Sau cùng chúng ta hãy thử xem người ta ngây thơ đến chừng nào khi nói rằng: “Người ta phải thế này thế nọ!” Thực tế cho chúng ta thấy biết bao mẫu người kì lạ, biết bao sai biệt và biến đổi trong hình thức; thế mà nhà luân lí lười biếng đã đi rêu rao: “Không, con người bắt buộc phải khác”?... Hắn còn biết con người bắt buộc phải khác như thế nào nữa, kẻ cuồng tín đáng thương này, hắn tự vẽ chân dung hắn lên tường và nói: “ecce homo!” [22] … Nhưng ngay cả khi nhà luân lí quay sang nói riêng một mình với cá nhân: “Bạn phải giống như thế này!”, hắn vẫn không ngừng khiến mình trở thành lố bịch. Cá nhân, trong quá khứ và trong hiện tại, là một mảnh định mệnh, một luật lệ thêm nữa, một thiết yếu thêm nữa cho tất cả những gì biển hiện và tất cả những gì sắp tới. Nói với nó: “Bạn hãy thay đổi bạn đi!” có nghĩa là đòi hỏi rằng tất cả phải thay đổi, ngay cả trong quá khứ… Quả thật, có nhiều nhà luân lí hợp lí khi muốn rằng con người phải khác, nghĩa là phải có đức hạnh, họ muốn hắn phải rập theo hình ảnh của họ, theo hình ảnh của những kẻ giả đạo đức. Chính vì lẽ đó mà họ đã chối bỏ thế giới. Không phải không điên chút nào!... Chừng nào mà luân lí lên án vì lợi ích của chính nó, không đếm xỉa gì tới cứu cánh và mục đích của cuộc đời, thì nó là một sự sai lầm đặc biệt người ta không thể nương tay, một đặc chất của những kẻ sa đoạ đã gây ra không biết bao nhiêu là tai hại! Trái lại chúng ta, những kẻ phi luân, chúng ta mở rộng tâm hồn đón nhận tất cả mọi thứ hiểu biết, thấu hiểu và tán thành [23] . Chúng ta không phủ định một cách nông nổi dễ dàng, chúng ta tìm danh dự của chúng ta trong việc trở thành những kẻ khẳng định [24] . Cặp mắt chúng ta luôn luôn mở rộng hơn nữa cho sự cần kiệm còn cần dùng và biết dùng tất cả cái mà sự điên rồ thiêng liêng của những tu sĩ và lí trí bệnh hoạn của những tu sĩ thải đi, cho sự cần kiệm trong luật đời rút tỉa lợi ích cho mình từ những loại đạo đức giả, những tu sĩ và những kẻ đức hạnh nhơ nhớp nhất, - lợi ích gì? - Nhưng mà chính chúng ta, chúng ta những kẻ phi luân, chính chúng ta đây đã là một lời giải đáp sống động rồi…
*
Bốn sai lầm trầm trọng
1.
Sai lầm giữa nguyên nhân và hậu quả. - Không có sự sai lầm nào nguy hiểm hơn sự lầm lẫn cho hậu quả là nguyên nhân: tôi gọi điều đó là sự đảo điên thác loạn đích thực của lí trí. Tuy nhiên, sự sai lầm này là một trong những tập quán cố cựu nhất và mới mẻ nhất của nhân loại: nó còn được thần thánh hoá giữa chúng ta nữa, nó mang tên “tôn giáo” và “luân lí”. Bất cứ mệnh đề nào phát biểu, bởi tôn giáo và luân lí cũng đều chứa đựng sai lầm này; những tu sĩ và những kẻ thiết định qui tắc luân lí là những kẻ chủ xướng sự bại hoại này của lí trí. Tôi đan cử một thí dụ. Tất cả mọi người đều biết cuốn sách nổi tiếng của Cornaro trong đó ông ta giới thiệu sự ăn uống kiêng khem nghiêm nhặt của ông như phương pháp cho một đời sống lâu dài và sung sướng - một đời sống đức hạnh nữa. Ít có cuốn sách nào được đọc nhiều đến thế và ngay cả bây giờ ở Anh, mỗi năm người ta in hàng trăm ngàn cuốn. Tôi tin rằng ít có cuốn sách nào (trừ Kinh Thánh, dĩ nhiên) lại tác hại nhiều như thế, lại rút ngắn nhiều đời sống như sự kỳ lạ đầy hảo ý đó. Lý do: lầm lẫn cho hậu quả là nguyên nhân. Tác giả người Ý đáng kính này nhìn thấy trong sự ăn uống kiêng khem là nguyên nhân của sự trường thọ của ông: trong khi điều kiện tiên quyết để sống lâu, sự chậm rãi lạ lùng trong sự tiêu hoá, sự thẩm thấu yếu ớt, là nguyên nhân của sự ăn uống kiêng cữ của ông. Ông ta không tự ý muốn ăn nhiều ít thế nào cũng được, sự đạm bạc của ông ta không phải là một “sự tự do theo ý muốn”: ông ta đau ốm ngay khi ông ta ăn nhiều. Nhưng khi người ta không phải là một kẻ ốm trơ xương thuộc loại đó, thì không những người ta phải ăn uống đầy đủ mà người ta còn tuyệt đối cần phải ăn uống đàng hoàng nữa. Một nhà bác học thời đại chúng ta, với sự tiêu thụ năng lượng trí não mau chóng, chẳng bao lâu sẽ tàn tạ với régime [25] của Cornaro, Credo experto [26] .
2.
Định thức phổ quát dùng làm căn bản cho mọi tôn giáo và luân lí là: “Phải làm việc này việc nọ, không được làm việc này hay việc nọ - và người sẽ được sung sướng! Nếu không…” Tất cả mọi luân lí, mọi tôn giáo là mệnh lệnh đó, - tôi gọi đó là tội tổ tông của lí trí, sự phi lí muôn đời. Trong miệng tôi định thức này đổi thành ngược lại - thí dụ đầu tiên về sự “đảo hoán mọi giá trị” của tôi: một người cường tráng, một người “sung sướng” bắt buộc phải làm một số hành động nào đó và tự nhiên chùn lại sợ không dám làm một số những hành động khác; hắn mang đẳng cấp hắn tiêu biểu về phương diện sinh lí vào trong những giác quan của hắn với con người và sự vật. Phát biểu thành định thức: đức hạnh của hắn là kết quả của hạnh phúc hắn… [27] Cuộc sống trường thọ con cháu đầy đàn, không phải là phần thưởng của đức hạnh đúng hơn chính đức hạnh, là sự trì trệ trong tiến trình thẩm thấu mà một trong những hậu quả của nó là một cuộc sống trường thọ và hậu huệ đầy đàn, tóm lại, cái mà người ta gọi là chủ thuyết Cornaro. - Giáo Hội và Luân lí dạy: “Tật xấu và sự xa hoa làm tiêu diệt một chủng tộc hay một dân tộc.” Trái lại lí trí đã được chỉnh đốn lại của tôi khẳng định: “Khi một dân tộc diệt vong, suy đồi về phương diện sinh lí, thì từ đó mới nảy sinh những tật xấu và sự xa hoa (nghĩa là nhu cầu kích thích mỗi ngày một mạnh hơn và thường hơn, như tất cả những bản chất suy nhược đều biết). Gã trai trẻ kia gầy yếu xanh xao và mòn mỏi trước tuổi. Bạn bè hắn nói: bệnh này hay bệnh nọ là nguyên nhân của sự kiện đó. Tôi trả lời: chính sự kiện hắn bệnh tật, chính sự kiện hắn thất bại không thể chống lại bệnh hoạn, tự nó đã là hậu quả của một cuộc sống nghèo nàn, một sự suy nhược di truyền rồi. Những kẻ đọc báo [28] nói: đảng này sẽ suy sụp nếu phạm phải một lỗi lầm như thế. Chính trị cao viễn của tôi trả lời: một đảng phái mà phạm phải một lỗi lầm như thế là đã đến lúc tàn mạt rồi vậy - nó không còn có sự chính xác bản năng nữa. Tất cả mọi lỗi lầm, bất cứ thuộc loại nào, là hậu quả của sự suy đồi của bản năng, của sự phân hoá của ý chí: đó hầu như là định nghĩa của cái xấu. Tất cả mọi sự tốt lành là bản năng [29] - và do đó dễ dàng, thiết yếu, thong dong. Sự cố gắng là một vấn nạn, thần thánh đặc biệt khác hẳn người anh hùng (nói theo ngôn ngữ của tôi: đôi chân nhẹ nhàng là đặc tính đầu tiên của thần tính).
3.
Sai lầm về một giả nguyên nhân. - Người ta luôn luôn tưởng mình biết thế nào là một nguyên nhân; nhưng chúng ta rút sự hiểu biết của chúng ta, hay đúng hơn, lòng tin tưởng vào sự hiểu biết của chúng ta, từ đâu ra? Từ lãnh vực của những “sự kiện nội tại” lừng danh mà cho đến bây giờ chưa có một sự kiện nào tự chứng tỏ là một sự kiện xác thực. Chúng ta tin tưởng chúng ta là tác nhân trong hành động theo ý chí: ít ra là ở đây chúng ta tin rằng chúng ta bắt được quả tang nguyên nhân giữa đường trường. Tương tự như vậy, người ta không bao giờ ngờ được rằng mọi anteccedentia [30] của một hành động, nguyên nhân của nó, phải tìm trong ý thức và có thể khám phá thấy ở đấy nếu người ta tìm kiếm chúng - như những “duyên cớ”: bởi nếu không người ta đã không tự do hành động, chịu trách nhiệm về hành động đó. Cuối cùng, kẻ nào đã bàn cãi rằng một tư tưởng đã được khởi lên, rằng cái tôi đã khơi nguồn tư tưởng?... Từ ba “sự kiện nội tại” và nhờ đó nguyên nhân hầu như được đảm bảo, nguyên nhân thứ nhất và cũng là nguyên nhân hùng hồn nhất, là ý chí như là nguyên nhân; quan niệm về một ý thức (“tinh thần”) như nguyên nhân, và sau đó quan niệm về cái tôi (“chủ thể”) như nguyên nhân chỉ là sản phẩm hậu sinh, sau khi nguyên nhân, trên nền tảng ý chí, đã được thiết định vững vàng như một sự kiện, như kinh nghiệm… Trong khi đó chúng ta suy nghĩ chín chắn hơn về điều đó. Tất cả những điều đó ngày nay chúng ta không còn tin tưởng một chữ nào nữa. “Thế giới nội tại” đầy những ảo ảnh và ánh sáng giả tạo: ý chí là một trong những ảo ảnh đó. Ý chí không còn chuyển động được cái gì nữa, do đó không còn giải thích được gì nữa - nó chỉ đi theo những biến cố, nó còn có thể vắng mặt nữa. Cái được gọi là “duyên cớ”: một sự lầm lẫn khác. Đó chỉ là một hiện tượng hời hợt của ý thức, một cái gì đi bên cạnh hành động, che dấu hơn là bầy tỏ những tiền sự của hành động. Còn về phần cái tôi! Cái tôi đã trở thành một huyền thoại, một sự tưởng tượng, một trò chơi chữ: nó đã hoàn toàn ngừng suy nghĩ, cảm và muốn!... Từ đó xẩy ra điều gì? Không có cái gì là nguyên nhân tinh thần cả! Toàn thể nền tảng kinh nghiệm vững chắc bảo đảm cho nó đã đi đời nhà ma! Đó là cái nối tiếp theo! - Và chúng ta đã lạm dụng “duy nghiệm thuyết” một cách khôn ngoan, chúng ta đã sáng tạo thế giới trên nền tảng của nó như một thế giới của nguyên nhân, như một thế giới của ý chí, như một thế giới của tinh thần. Nền tâm lý học cổ điển nhất và sống dai dẳng nhất đã ra tay làm việc ở đây, thực ra nó không làm việc gì khác: tất cả mọi biến cố đối với nó đều là hành động, tất cả mọi hành động đều là hậu quả của một ý chí; đối với nó thế giới trở thành vô vàn tác nhân, một tác nhân, một “chủ thể” nằm tại căn đế của mọi biến cố. Con người đã phóng ra ngoài nó ba “sự kiện nội tại” mà nó tin tưởng chắc chắn, là ý chí, tinh thần và tự ngã, - trước hết nó diễn dịch ý niệm về hữu thể từ ý niệm về tự ngã, nó giả thiết “sự vật” hiện hữu theo hình ảnh nó, theo ý niệm của nó về tự ngã như là nguyên nhân. Có gì đáng ngạc nhiên đâu khi sau này nó luôn tìm thấy trong sự vật cái mà nó đã đặt vào trong sự vật? - Chính sự vật, xin nhắc lại lần nữa, khái niệm về sự vật, chỉ là phản ảnh của niềm tin vào tự ngã như là nguyên nhân… Và ngay cả nguyên tử của quí vị, thưa quí vị theo cơ giới luận và vật lí học, thứ tâm lí sai lầm không biết chừng nào mà kể vẫn bám chặt vào nguyên tử của quí vị! - Ấy là chưa nói gì về “sự vật tự nội”, cái horrendum pudendum [31] của nhà siêu hình học! Sự sai lầm của tinh thần được coi như nguyên nhân, lẫn lộn với thực tại! Và đo lường thực tại! Và được gọi là Thượng Đế!
4.
Sai lầm về những nguyên nhân tưởng tượng. - Lấy giấc mơ làm khởi điểm: với một cảm giác xác định nào đó, chẳng hạn cảm giác gây ra bởi tiếng súng đại bác từ phía xa, một nguyên nhân liền sau đó thường được gán ghép vào (thường là cả một cuốn tiểu thuyết nhỏ mà dĩ nhiên kẻ mơ mộng là nhân vật chính). Trong khi đó cảm giác tiếp tục kéo dài, như một thứ âm hưởng dội lại, một cách nào đó nó chờ đợi cho đến khi bản năng về nguyên nhân cho phép nó đi lên hàng đầu - từ nay trở đi không phải như một sự tình cờ nữa mà như một “ý nghĩa”. Tiếng súng đại bác tự biểu lộ dưới hình thức nguyên nhân, trong một sự đảo lộn thời gian thấy rõ. Cái đến sau, trình bày duyên cớ, lại được cảm nghiệm trước, thường với hàng trăm chi tiết lướt qua như một tia chớp, tiếng súng tiếp theo… Điều gì đã xẩy ra? Những ý tưởng được tạo ra bởi một trạng thái đặc biệt được diễn dịch sai lầm như nguyên nhân của chính trạng thái đó. Quả thực, chúng ta hành động tương tự như vậy khi chúng ta tỉnh thức. Phần lớn những cảm giác tổng quát của chúng ta - tất cả mọi loại câu thúc, dồn ép, căng thẳng, bột phát trong tác động hỗ tương của những giác quan, và đặc biệt hơn nữa trạng thái của nervus sympathicus [32] - kích động bản năng về nguyên nhân của chúng ta: chúng ta muốn có một lý do để được ở trong một trạng thái như thế như thế - để cảm thấy mạnh khoẻ hay đau yếu. Chẳng bao giờ chúng ta thoả mãn khi chỉ nghiệm thấy sự kiện chúng ta cảm thấy thế này hay thế nọ: chúng ta chỉ chấp nhận sự kiện - chúng ta chỉ ý thức về nó - khi nào chúng ta đã cung cấp cho nó một thứ nguyên nhân nào đó. - Ký ức, trong những trường hợp này, tự nhiên trở nên linh động một cách máy móc, mang gợi lại những trạng thái trước tương tự như vậy và những diễn giải - nguyên nhân liên kết với chúng, - chứ không phải nguyên nhân của chúng. Chắc chắn sự tin tưởng rằng những ý tưởng, những tiến trình song hành của ý thức, là nguyên nhân, cũng do ký ức đem lại. Do đó nẩy ra thói quen về một cách diễn giải nguyên nhân nào đó, quả thực, ngăn trở và cấm đoán nữa, sự truy tìm nguyên nhân đích thực.
5.
Giải thích tâm lí sự kiện trên. - Lôi kéo một cái gì chưa biết về cái đã biết rồi, là trấn an tinh thần, làm tinh thần nhẹ nhõm, thoả mãn, ngoài ra còn tạo ra một cảm thức về sức mạnh. Cái chưa biết bao hàm sự nguy hiểm, bất an, lo âu - bản năng đầu tiên là diệt trừ những hoàn cảnh đau đớn này. Nguyên tác thứ nhất: bất cứ một giải thích nào đó cũng hơn là thiếu giải thích. Bởi vì tựu trung chỉ cần trừ khử những ý tưởng ghê sợ, người ta không cần lưu tâm tới những phương tiện dùng để trừ khử chúng: cái ý tưởng thứ nhất, nhờ nó, cái chưa biết tự chứng tỏ là cái biết rồi tạo ra một cảm giác thoải mái đến nỗi nó “được coi là đúng”. Chứng cứ khoái lạc (“sức mạnh”) như tiêu chuẩn của chân lí. - Vậy bản năng - nguyên nhân được điều kiện hoá và kích thích bởi cảm giác sợ hãi. Câu hỏi “tại sao?”, nếu có thể, không những cung cấp nguyên nhân cho chính nó, mà còn cả một thứ nguyên nhân nữa - một nguyên nhân trấn an, giải thoát và làm tinh thần nhẹ nhõm. Kết quả đầu tiên của nhu cầu này là một cái gì đã biết nay đã hoàn toàn kinh nghiệm và được ghi nhận trong kí ức, được đặt làm nguyên nhân. Cái mới lạ, cái chưa kinh nghiệm, cái xa lạ bị loại khỏi nguyên nhân. - Vậy thì người ta không tìm một giải thích về nguyên nhân mà là tìm một lối giải thích chọn lọc và được ưa chuộng, lối giải thích tiêu trừ nhanh chóng nhất và thường nhất cái cảm giác xa lạ, chưa kinh nghiệm - những lối giải thích thông thường nhất. - Hậu quả: một lối qui định nguyên nhân có khuynh hướng đi tới chỗ càng ngày càng chế ngự nhiều hơn nữa, trở thành tập trung trong một hệ thống và cuối cùng đi tới chỗ độc tôn nghĩa là loại trừ những nguyên nhân khác và những giải thích khác. Chủ ngân hàng nghĩ ngay tới “áp- phe”, tín đồ Kitô giáo nghĩ tới “tội lỗi”, thiếu nữ nghĩ tới “tình yêu” của mình.
6.
Toàn thể lãnh vực luân lí và tôn giáo thuộc về ý niệm “những nguyên nhân tưởng tượng đó”. - “Giải thích” về cảm giác khó chịu chung. Những cảm giác này tuỳ thuộc nơi những kẻ thù nghịch với chúng ta (những tinh thần tội lỗi: đó là trường hợp nổi tiếng nhất - những kẻ mắc bệnh ưu uất thần kinh bị hiểu lầm là phù thuỷ). Những cảm giác này tuỳ thuộc những hành động không thể thẩm định (cảm thức “tội lỗi”, “phạm tội” được gán cho một sự khó chịu thuộc về sinh lí - người ta luôn luôn tìm thấy lí do để bất mãn với chính mình). Những cảm giác này tùy thuộc sự trừng phạt, chuộc lại một việc gì mà chúng ta đã không được làm, một cái gì mà chúng ta đã không được là (ý tưởng được tổng hợp, dưới một hình thức trơ trẽn, thành một mệnh đề trong đó luân lí hiện ra đúng chân tướng của nó, nghĩa là như chất kịch độc và sự phỉ báng cuộc đời: “Tất cả mọi đau đớn, thuộc thể xác hay tinh thần, đều cho thấy chúng ta xứng đáng được, bởi nó không đến với chúng ta nếu chúng ta không xứng đáng nhận lãnh nó. (Thế giới như Ý Chí và Biểu Tượng II, 666). Những cảm giác này tùy thuộc những hành động bồng bột thiếu suy nghĩ có những hậu quả tai hại (- những đam mê, những giác quan bị coi như là nguyên nhân, như là phạm tội; những tai biến sinh lí trở thành hình phạt “xứng đáng” nhờ những tai biến khác). - “Giải thích” những cảm giác dễ chịu chung. Những cảm giác này tuỳ thuộc lòng tin tưởng vào Thượng Đế. Chúng cũng tuỳ thuộc ý thức về những hành động tốt (cái mà người ta gọi là “lương tâm yên ổn”, một trạng thái sinh lí đôi khi giống như một sự tiêu hoá tốt, như nó thường bị hiểu lầm như thế.) Chúng tuỳ thuộc kết quả thành công của một vài công việc nào đó (- Kết luận ngây thơ: kết quả thành công của một công việc không mang lại cho một người mắc bệnh ưu uất hay một Phascal bất cứ một cảm giác thú vị chung nào cả). Chúng có thể tuỳ thuộc đức tin, tình yêu và lòng hy vọng - những đức tính Kitô giáo. Trong thực tế, tất cả những cái tự nhận là giải thích này chỉ là những hậu quả của những trạng thái thú vị hay khó chịu nào đó và được di dịch sang một thổ ngữ sai lầm: một người ở trong trạng thái hi vọng bởi vì cảm giác sinh lí trỗi vượt hơn cả của con người hắn, một lần nữa lại mãnh liệt và đầy đủ; người ta tin tưởng vào Thượng Đế bởi vì cảm giác về sự tràn đầy và sức mạnh mang lại cho tâm trí hắn sự nghỉ ngơi. - Luân lý và tôn giáo hoàn toàn thuộc về tâm lí học về lầm lẫn; trong bất kì trường hợp đặc thù nào nguyên nhân cũng bị lầm lẫn với hậu quả hoặc chân lí với hậu quả của cái mà người ta coi như chân lí; hay hơn nữa, một trạng thái của ý thức với một chuỗi nguyên nhân gây ra trạng thái này. -
7.
Sự sai lầm của tự do ý chí. - Ngày nay chúng ta không còn chút thiện cảm nào đối với khái niệm về “tự do ý chí” nữa: chúng ta biết nó quá rõ - cái xảo thuật thần học khả ố nhất trần đời của những nhà thần học để khiến cho nhân loại “có trách nhiệm” theo kiểu những nhà thần học, nghĩa là: làm cho nhân loại tuỳ thuộc vào những nhà thần học… Ở đây tôi chỉ nêu ra tâm lí của khuynh hướng làm con người có trách nhiệm này. - Ở bất cứ nơi nào mà người ta tìm kiếm trách nhiệm thì thường là bản năngtrừng phạt và kết án bắt tay vào việc tìm kiếm. Biến dịch bị tước đoạt mất sự hồn nhiên vô tội khi người ta đưa bất cứ một trạng thái nào về ý chí, ý định, về những hành động có trách nhiệm: lí thuyết ý chí được tạo ra chủ yếu nhằm mục đích trừng phạt, nghĩa là với ý định vạch tội. Toàn thể tâm lí học cổ điển, tâm lí học chủ ý chí bắt nguồn từ sự kiện những người tạo ra nó, những tu sĩ đứng đầu những tập thể cổ xưa, muốn tạo ra quyền ra hình phạt - hay đúng hơn họ muốn tạo ra quyền đó cho Thượng Đế… Con người được coi là “tự do” để có thể bị kết án và trừng phạt, - để có thể có tội: do đó tất cả mọi hành động đều phải coi như do ý muốn, nguồn gốc của tất cả mọi hành động như nằm trong ý thức (- do đó sự giả mạo căn bản nhất in psychologicis được đặt làm nguyên tắc của chính tâm lí học)… Ngày nay khi chúng ta đi vào hướng ngược lại, khi chúng ta, những kẻ vô luân, cố gắng tìm kiếm loại khỏi thế giới những khái niệm về tội lỗi và hình phạt, cũng như tẩy sạch tâm lí học, lịch sử, thiên nhiên, những cơ cấu và luật lệ xã hội, chúng ta nhận thấy chúng ta không có đối thủ nào triệt để hơn những nhà thần học, những kẻ tiếp tục làm ung độc sự hồn nhiên của biến dịch với “tội lỗi” và “hình phạt” bằng khái niệm về “trật tự luân lí”. Kitô giáo là siêu hình học của đao phủ…
8.
Lí thuyết duy nhất của chúng ta có thể là gì? - Là không một ai có thể cho con người những đặc tính của nó, ngay cả Thượng Đế, xã hội, cha mẹ và tổ tiên, ngay cả chính hắn nữa (- ý tưởng phi lí cuối cùng bị bác bỏ ở đây, đã được giảng dạy như “tự do minh nhiên” của Kant và có thể bởi Platon trước nữa). Không một ai chịu trách nhiệm bởi sự kiện hắn hiện hữu, hay được cấu tạo như con người hiện tại của hắn, hoặc sống trong những hoàn cảnh và môi trường trong đó hắn đang sống cả. Định mệnh của bản chất hắn không thể tách khỏi định mệnh của tất cả những cái đã là và sẽ là. Hắn không phải là kết quả của một ý hướng cá biệt, một ý chí, một mục đích nào, hắn không phải là một sự thí nghiệm để đạt tới một “con người lí tưởng” hay một “hạnh phúc lí tưởng” hoặc một “đạo đức lí tưởng” thật là phi lí khi muốn lái bản chất hắn về bất cứ mục tiêu nào khác. Chúng ta đã tạo ra ý tưởng về mục đích: trong thực tế không có “mục đích”… Con người vốn thiết yếu, con người là một mảnh định mệnh, con người thuộc toàn thể, con người ở trong toàn thể - không có gì có thể phán đoán, đo lường, so sánh, lên án cuộc hiện hữu của chúng ta… Nhưng không có gì bên ngoài toàn thể! - Không một ai còn có trách nhiệm nữa, loại hạng của hữu thể không thể đưa về causa prima [33] được nữa, thế giới là một nhất thể không phải như thế giới khả giác cũng không phải như tinh thần duy có điều này là sự giải thoát tối thượng - duy bởi đó sự hồn nhiên của Biến dịch được khôi phục lại… Ý tưởng về “Thượng Đế” cho tới bây giờ là một vấn nạn lớn lao nhất đối với cuộc đời… Chúng ta khước từ Thượng Đế, chúng ta khước từ trách nhiệm nơi Thượng Đế: chỉ bằng cách đó thôi chúng ta mới cứu vớt được thế giới.
--------------------------------------------------------------------------------
[1]Từ quan điểm vĩnh cửu - Ghi chú của Dịch giả.
[2]Sein, Pêtre, Being
[3]Schein, Apparence, apparence. - G.c.D.
[4]Pháp văn trong nguyên bản: định kiến
[5]Héraclite là triết gia tiền-Socrate duy nhất tin vào Biến Dịch, vào hiển thể và những gì giác quan chứng nghiệm. - G.c.D.
[6]Nguyên nhân của chính nó.
[7]Hữu thể chân thực nhất. - G.c.D.
[8]Täter und Tun - G.c.D.
[9]Ich-Subsstanz.
[10]Vernunft Kategorien. “Phạm trù” (Kategoric) ở đây chỉ có nghĩa là phương tiện, không mang một âm hưởng nào “Phạm trù” của Kant cả - G.c.D.
[11]“wahres Sein”
[12]Nicht-Sein
[13]Hay hư vô, Nicht
[14]Danh từ Phật giáo: Sắc giới - G.c.D.
[15]Wahrheit = chân lí, tương đương với wahre Wet = thế giới chân thực.
[16]Nietzsche muốn nói tới Kant và tỉnh Königsberg, miền bắc nước Đức, nơi Kant sống và chết. - G.c.D.
[17]NƠI ĐÂY BẮT ĐẦU ZARATHUSTRA (Và bắt đầu triết lí Nietzsche) - G.c.D.
[18]Pháp văn trong nguyên bản: “Phải giết chết những đam mê”. - G.c.D.
[19]Dòng Trappe, dòng luyện tâm, nổi tiếng vì kỷ luật khắt khe. - G.c.D.
[20]Instinkte des Lebens, Thoát ra ngoài sự câu thúc của ngôn ngữ, “Instinkte des Lebens”, ở đây còn có thể hiểu như “khuynh hướng về đời sống”. Trái với tất cả những nền luân lí khác đàn áp cuộc sống, đầy những cấm kỵ, hướng về điều “thiện” như một cứu cánh tuyệt đối, đức lý lành mạnh theo Nietzsche nhằm xiển dương cuộc đời, kích thích bản năng sinh động, hướng về một cuộc sống giải thoát, nguy hiểm, mãnh liệt. Tư tưởng sau có thể nói lên chủ trương của tất cả những nền đức lý lành mạnh (gesunde Moral) ấy: “Tất cả những gì sống đều thiêng liêng.” (everything that lives is holy - William Blake, America) và Cuộc sống đích thực của những giác quan và xác thịt tôi siêu thăng những giác quan và xác thịt tôi” (the real life of my senses and flesh transcending my senses and flesh - Walt Whitman, Leaves of Grass) - G.c.D.
[21]das Leben selbst zwingt uns, Werte anzusetzen; das Leben selbst wertet durch uns, wenn wir Werte ansetzen…
[22]Lời của Pilate khi rửa tay trao Jésus Christ do dân Do Thái “Ecce homo” có nghĩa là: “”Đây là con người đó!” hay “Hãy nhìn người này!” (Saint Jean, XIX, 5) - G.c.D.
[23]Ở đây chúng ta không thể không nhắc tới Spinoza, một trong những triết gia mà Nietzsche coi như tiền bối của mình, với chủ trương đón nhận tìm hiểu và không bao giờ lên án con người tương tự: “Seduce curavi, humanas actiones non redere non lugere neque detestari, sed intelligere”,Tractatus politieus (1677) ch. 1, 4. “Tôi đã cố gắng một cách thận trọng để không chế giễu hay thương hại hoặc ghê tởm những hành vi con người, mà chỉ để thấu hiểu chúng” - G.c.D.
[24]Wir verneinen nicht leicht, wir suchen unsre Ehre darin, Bejahende zu sein. Tất cả định tắc luân lí của Nietzsche nằm trong một chữ “Ừ” hoặc “Phải” hay “Vâng” (Yea) trước cuộc đời, trước tất cả những nguồn vui, trước tất cả khổ đâu, trước tất cả dâu biển tang tương thê thảm và khủng khiếp của cuộc đời. Con người lí tưởng của Nietzsche khẳng định giống như những nhân vật bi tráng trong bi kịch Hy Lạp sau khi đã trải qua tất cả khảm kha bất bình: “Tất cả đều tốt lành.” (Tout est bien) - G.c.D.
[25]Pháp văn: Phép ăn uống kiêng cữ.
[26]Hãy tin kẻ đã thí nghiệm!
[27]In Formel: seine Tugend ist die Folge seines Glücks… - G.c.D.
[28]Hạng người “thời đại” Nietzsche khinh bỉ - G.c.D.
[29]Alles Gute ist Instinkt.
[30]Việc trước, tiền sự của một sự việc hay sự kiện gì. - G.c.D.
[31]Phần xấu xa đáng xấu hổ. - G.c.D.
[32]Thần kinh giao cảm. - G.c.D.
[33]Nguyên nhân đệ nhất. - G.c.D.
Nguồn: Hồng Hà in lần thứ nhất tại Sài Gòn năm 1971.
13/7/10
Friedrich Nietzsche : Buổi hoàng hôn của những thần tượng (1)
Friedrich Nietzsche
Buổi hoàng hôn của những thần tượng
hay Làm cách nào triết lí với cây búa
Nguyễn Hữu Hiệu dịch và giới thiệu
Lời giới thiệu
1.
Năm 1888 trong cuộc đời và tư tưởng Nietzsche
Mặt trời lên cao đỉnh rồi bùng vỡ trong Van Gogh trong năm 1888. Đó cũng chính là thời kì sáng tạo dữ dội nhất của ông. Bóng tối lưỡng lự đã bị lùa ra khỏi tranh. Bàn tay trở nên chính xác một cách tàn bạo. Nét cọ tung hoành như sấm sét. Màu sắc loé sáng trong khi tâm trí đã bắt đầu hôn ám. Nhưng trong buổi hoàng hôn của tâm thức đó, viễn tượng đã kết hợp một cách kì diệu với thực tại. Ngày 21 tháng 4 năm sau, Van Gogh viết cho em: “Điều an ủi anh đôi chút là anh bắt đầu coi sự điên cuồng như một chứng bệnh giống như những bệnh tật khác, trong khi đó ngay cả trong những cơn khủng hoảng, anh thấy dường như tất cả những gì anh tưởng tượng trước kia đều là thực tại cả.” Và ông lăn xả vào công việc, vẽ từ sáng tới tối. Người ta kể lại rằng những người bạn đồng phòng với ông khi đi ra thấy ông đang vẽ một tấm tranh, vài giờ sau trở vào đã thấy ông vẽ một tấm tranh khác. Ông làm việc như kẻ bị quỉ ám, “j’ai une fureur sourde de travail plus que jamais” (9/1889). Ông không thể ra khỏi hội hoạ, nghĩa là ra khỏi thực tại, làm mồi cho điên cuồng và phiền não. “Trong tất cả mọi trường hợp, tìm cách trung thành với sự thực có lẽ là một phương thuốc để chống lại bệnh tật đang làm anh lo âu” (thư cho Théo, 12 tháng 2 năm 1890). Có lẽ Vincent van Gogh linh cảm thấy rằng phần ánh sáng dành cho ông sắp hết và ông phải tận dụng nó, nhìn lần cuối cùng trong ánh sáng viễn tượng những thực tại đã bị thói quen giả dối chôn vùi. Trường hợp Nietzsche cũng tương tự như vậy. Năm 1888 là cực điểm sáng suốt và sáng tạo của Nietzsche, đồng thời cũng là cực độ của đau khổ và cô đơn của ông. Ngày 12 tháng 2 năm 1888, Nietzsche viết cho bá tước Seydlitz: “Bây giờ tôi cô đơn, cô đơn một cách phi lí; trong cuộc chiến tàn khốc và âm thầm mà tôi theo đuổi (dưới uy thế Đảo Hoán mọi Giá Trị) chống lại tất cả những gì đã được mọi người tôn sùng và quí trọng từ xưa tới nay, chính tôi đã trở thành một cái u hồn cốc mà không hay…” Trong tình cảnh đó ông chỉ cầu xin một điều: “Sự thanh bình, quên lãng, sự khoan dung của mặt trời và của mùa thu cho một cái gì đang muốn chín tới, cho sự chứng thực và biện minh của toàn thể con người tôi…” (thư cho Paul Dessen, 3 tháng Giêng năm 1888). Kết quả là năm tác phẩm cuối cùng, chín mùi nhất, mãnh liệt nhất của Nietzsche hoàn thành trong năm này: Trường hợp Wagner, Hoàng hôn của những thần tượng, Kẻ chống Chúa, Nietzsche chống Wagner, Ecce Homo và tụng ca Dionysos.
Quả thực năm 1888 là cực điểm của cuộc đời và tư tưởng Nietzsche. Trước hết nó là cao độ của một thập niên đầy sáng tạo khởi đầu từ 1878 với Phàm phu, quá phàm phu, tác phẩm đầu tiên mà trong đó chan hoà ánh sáng thiên tài, kế đó Ý kiến tương hợp và châm ngôn (1879), Lữ khách và bóng hình mình (1880), Bình minh (1881), Tri thức hân hoan (1882 - bổ túc thêm năm 1887), Zarathustra đã nói như thế (1883–1885), Phi thiện ác (1886) và Phổ hệ luân lí (1887). Song song những tác phẩm trên, trong nhiều thập niên này Nietzsche còn đưa ra nhiều tư tưởng dũng mãnh quanh chủ đề Ý chí hùng cường. Sang năm 1888, Nietzsche bỏ Ý chí hùng cường và thay thế bằng Cuộc đảo hoán mọi giá trị, trong đó Kẻ chống Chúa, là tác phẩm mở đầu.
Năm 1888 còn có ý nghĩa cực điểm trong cuộc đời và tư tưởng Nietzsche ở chỗ toàn bộ tác phẩm viết trong năm này là những cuộc duyệt xét lại và toát lược lại toàn thể những chủ đề triết lí của ông và của hai ngàn năm triết học Tây phương trong ánh sáng chói loà cuối cùng của tâm thức, ở một cao độ buốt giá, bằng một bút pháp sắc bén, cô đọng. Sau đó là bóng tối và yên lặng hoàn toàn. Đầu tháng Giêng 1889, tinh anh ông đã vỗ cánh bay cao, và ông không viết thêm một dòng nào nữa mặc dầu thể phách còn ngồi lại mười năm nữa, tới tháng 8 năm 1990.
2.
Buổi hoàng hôn của những thần tượng
Tác phẩm Buổi hoàng hôn của những thần tượng hay làm cách nào người ta triết lí với cây búa? (Götzen-Dämmerung, oder: Wie man mit dem Hammer philosophiert?) được viết trong khoảng thời gian từ cuối tháng Sáu tới đầu tháng Chín năm 1888 và được đem ấn hành vào tháng Mười cùng năm. Mới đầu tác phẩm mang tựa đề Sự nhàn rỗi của một tâm lí gia hay Những giờ nhàn cư của một tâm lí gia (Müssiggang eines Psychologen). Nhưng sau đó, theo lời yêu cầu của Peter Gast, một cao đồ trung thành của Nietzsche, đòi ông phải tìm một tựa đề “huy hoàng” hơn cho tác phẩm, Nietzsche nhượng bộ, phỏng theo nhan đề vở Hoàng hôn của những thần thánh (Götterdämmerung) của Wagner, đặt lại là Hoàng hôn của những thần tượng (Götzen-Dämmerung).
Thần thoại Bắc Âu kể rằng tất cả mọi thần thánh đều có ngày tàn mạt, ngày họ tan biến vào hư vô. Đó là buổi hoàng hôn của thần thánh. Richard Wagner đã mượn thần thoại này để dựng vở kịch thứ tư trong bộ Tứ ca bộ kịch (Tétralogie) của ông, Nietzsche thay đổi tựa đề và cả ý nghĩa. “Thần tượng” là biểu tượng Nietzsche dùng để chỉ chân lí. “Buổi hoàng hôn của những thần tượng” có nghĩa là sự sụp đổ của mọi chân lí.
Không một thực tại, một ý tưởng, một lí tưởng, một chân lí, một “thần tượng” nào tác phẩm này không chạm tới. Từ những chân lí vĩnh cửu đến những chân lí, giá trị mới mẻ. “Một cơn gió lớn thổi qua rặng cây… và trái chín rụng rơi tơi tả: những chân lí”. (Ecce Homo). Nhưng những cái người ta có thể lượm trong tay chẳng có gì ngọt ngào. Vì đó chỉ là những trái thối hư, thực phẩm vô vị đã hết dưỡng chất của hai ngàn năm qua cần phải liệng bỏ. Tất cả mọi chân lí đều nhạt phai và phải xoá đi, mọi thần tượng đều hết thiêng liêng và phải tiêu diệt. Duy chỉ có cuộc đời là vĩnh cửu. Tất cả mọi hiểu biết đều sai lầm, mọi luân lí đều độc hại. Duy chỉ có bản năng là tốt lành.
Đây là cuộc Tuyên chiến vĩ đại. Đây là cuộc mổ xẻ tàn nhẫn lí trí, luân lí, tâm lí học, lòng ái quốc, vị tha, tình nhân loại… Đây là cuộc lột mặt nạ không thương tiếc những nhân vật, “những thần tượng” tượng trưng cho những chân lí, những giá trị cũ: Socrate, Platon, thiện ác, đẹp xấu… và những “thần tượng” tượng trưng cho những chân lí và giá trị mới: Renan, Rousseau, Sainte-Beuve, G. Eliot, George Sand, Schopenhauer, Comte, Kant, Schiller, Zola, Victor Hugo, Listz, Carlylle, nghệ thuật vị nghệ thuật, dân chủ, tiến bộ…
Trên tất cả, chúng ta tìm thấy trong tác phẩm này những tư tưởng hữu thể học quan trọng nhất của Nietzsche. Đúng hơn, chúng ta thấy những diễn dịch về những vấn đề cốt yếu từ quan điểm biến dịch siêu hình của ông dựa trên phương trình căn bản cũng là tiền đề của ông - là: hữu thể học truyền thống coi là “hữu thể chân thực” (Wahres-Sein) cái thực ra chỉ là một ảo tưởng, một ảo tưởng có tất cả đặc tính của phi thể (Nicht-Sein) và vô thể (Nichts) và chối bỏ, coi như “phi hữu” và phi thực cái thực ra là hữu thể đích thực và hữu thể duy nhất. Cái từ xưa tới nay, người ta coi là hiện thể đích thực, thực ra chỉ là mộng huyễn bào ảnh, trong khi cái từ xưa tới nay người ta coi là mộng huyễn bào ảnh lại chính là hiện thể chân thực. Cái từ xưa tới nay được coi là “hữu thể” (Sein) đối nghịch với biến dịch không có, trong khi chỉ có cái biến dịch hiện hữu mà thôi. Không có “hữu thể” siêu thời gian và không gian, cũng như không có tâm linh thế giới, Linh tượng giới (le monde des idées) hay thế giới của những ý tưởng vĩnh cửu mà chỉ có thế giới khả giác (monde sensible), hiện hữu trong không gian thời gian. Không có thế giới tự nội (monde en-soi), mà chỉ có thế giới hiển lộ (monde des apparences). Không có thế giới khác mà chỉ có thế giới này, thế giới chân thực, duy nhất, linh động mà nguyên động lực là ý chí hùng dũng. Không có thế giới nào khác. Tất cả những ý nghĩ, khát vọng về một thế giới khác chỉ là cách trả thù cuộc đời “bằng sự lạm dụng ảo tưởng” về một cuộc đời “tốt đẹp hơn”. Sự chia thế giới ra làm một thế giới “tự nội” và một thế giới “bề ngoài” là dấu hiệu của sự suy đồi- một triệu chứng của sa đoạ. “Sự kiện người nghệ sĩ đặt bề ngoài lên trên thực tại không phải là một vấn nạn chống lại mệnh đề này. Bởi “bề ngoài” ở đây cũng có nghĩa là thực tại nữa, nhưng mà là dưới một hình thức lựa chọn, kiên cường hoá, sửa sai… Người nghệ sĩ bi tráng không bi thảm,- hắn gật đầu nói “ừ” trước tất cả những gì còn hồ nghi và khủng khiếp của cuộc đời, hắn là kẻ theo Dionysos”.
Chương quan trọng nhất và cũng là trọng tâm của tác phẩm là chương “Lí trí trong triết học”. Trước đó là “Vấn đề Socrate”, sau đó là “Luân lí như một cái gì phản tự nhiên”. Trước kia Nietzsche lên án khoa học, triết học vì chúng bị đầu độc bởi luân lí. Bây giờ Nietzsche lên án luân lí, triết học, khoa học bởi chúng bị đầu độc bởi lí trí, hay đúng hơn, bởi những sự lầm lẫn lớn lao của lí luận. Những triết gia lầm lẫn lấy hậu quả làm nguyên nhân, nguyên nhân làm hậu quả. Nietzsche bài bác gắt gao phương trình quái gở và bệnh hoạn này của Socrate: lí trí = đức hạnh = hạnh phúc. Socrate, Platon là những triệu chứng suy đồi. Thế nào là suy đồi (décadence)? “Bị bắt buộc phải chiến đấu chống lại bản năng đó là định thức của suy đồi, khi cuộc đời hướng thượng, hạnh phúc và bản năng là một.” Tất cả mọi sự tốt lành đều thuộc bản năng. Alles Gute ist Instinkt. Nietzsche coi như có bổn phận chống lại quan niệm cho Thượng Đế = thế giới khác của “hữu thể chân thực”. Vì quan niệm như thế, người ta bắt buộc phải coi rẻ những thực tại trần gian mà giác quan chứng nghiệm, khi coi chúng là hiển thể (Schein) không thực thể, và đi đến chỗ khước từ cuộc sống nhục cảm, lành mạnh, coi như “tội lỗi”. Theo Nietzsche, với Thượng Đế, người ta đặt thành tuyệt đối thể một hữu thể tưởng tượng, phi thời gian bên trên những thực tại trần gian, những cái duy nhất có thực thể trong dòng biến dịch. Một Thượng Đế, nếu được quan niệm như thế, sẽ làm nền tảng cho một thứ luân lí vô cùng nguy hại cho con người và cuộc đời. Đó là một hữu thể học luân lí hoá hay một luân lí hữu thể học hoá. Cần phải giải phóng hiện thể khỏi thứ hữu thể học hay luân lí này. Đó là một nhiệm vụ nặng nề mà Nietzsche gọi là cuộc “Đảo hoán mọi giá trị”. Đó là công việc của người nghệ sĩ bi tráng, kẻ nói “ừ” trước tất cả mọi hồ nghi và khủng khiếp. Người nghệ sĩ bi tráng chọc thủng hiển thể để đạt tới thực thể một cách can đảm. Hắn dám chấp nhận cái chết của Thượng Đế và dám đập “bằng cây búa” tất cả những chân lí cắm rễ sâu nhất trong lòng đời và dám đốn ngã những thần tượng được tôn kính của truyền thống và thừa can đảm để gây nên những “âm thanh trống rỗng” của buổi chiều tà. Đi vào “Hoàng hôn của những thần tượng” và đương đầu với “Đêm tối của Hư vô chủ nghĩa” là những sứ mệnh lịch sử của người nghệ sĩ bi tráng cũng như của tất cả những tinh thần tự do không chấp nhận làm rêu mốc bám trên những bậc thềm, những bờ tường nứt nẻ của những miếu đường hoang vắng nữa. Nếu “Hoàng hôn của những thần tượng” có nghĩa là sự lạm phát của mọi chân lí, mọi giá trị thiết định lấy “thế giới chân thực” bên ngoài trần gian, bên kia đời sống làm bản vị, coi những kẻ bạc nhược sa đoạ là những kẻ làm giấy bạc, coi đền thờ là những ngân hàng và Thượng Đế là kẻ chế tài thì “Đêm tối của Hư vô chủ nghĩa” chính là sự phá giá của tất cả những chân lí, những giá trị đó. Cả hai đều là những giai đoạn tất yếu và cần phải vượt qua của lịch sử. Chân lí, trần gian, cuộc đời sẽ và chỉ thuộc về những kẻ chân thực, dám đốt đi những bản di chúc hứa hẹn huy hoàng nhưng giả dối và giả tạo như tấm ngân phiếu không tiền bảo chứng, những kẻ sau khi buông rời cây búa phá huỷ còn đủ sức mạnh cầm tay cầy khai phá cánh đồng khả thể, khơi mở dòng đời, tạo dựng đời sống trong dòng Hồn nhiên của Biến dịch.
3.
Song luận
Sự thức tỉnh của nhân loại bắt đầu với song luận này: “Hoặc chúng ta phá huỷ sự sùng bái của chúng ta hoặc chúng ta phá huỷ chính chúng ta” (Der Will zur Macht, III) Chúng ta đã phải trả giá khá đắt cho những “chân lí” thiêng liêng, những sai lầm in physiologicis (Ibid, II) Nietzsche tự coi như bổn phận việc “sửa soạn cho nhân loại một giây phút tuyệt vời trở về chính mình, một buổi giữa ngọ rực rỡ để quay về quá khứ và đưa mắt nhìn về tương lai, để rũ khỏi ách đô hộ của tình cờ và của những giáo sĩ và đặt câu hỏi tại sao và thế nào trong toàn bộ của nó lần thứ nhất, bổn phận này thiết yếu bắt nguồn từ lòng xác tín rằng nhân loại tự mình đã không đi theo đúng chính đạo, đã không được điều động bởi một thần tính mà trái lại đã để bị lôi cuốn và chế ngự bởi một bản năng tiêu cực, hư hỏng, bởi bản năng suy đồi mà nhân loại đặt lên hàng những giá trị tối thiêng liêng” (Ecce Homo, III, 2), vì thế “sự khôn ngoan xuất hiện trên trái đất này từ xưa tới này như một con quạ khoang bị hấp dẫn bởi mùi tử khí”, hay cũng có thể nói như một con cú vọ chuyên soi mói những khía cạnh đen tối cuộc đời và thốt lên những tiếng bi ai. Đó là sự khôn ngoan của tinh thần nặng nề, tìm sự giải thoát bằng cách tiêu diệt ý chí sống. Nietzsche gây chiến chống lại chủ trương tiêu cực mệt mỏi đó. Kết quả của nỗ lực bền bỉ, can đảm, cứng cỏi, âm thầm này là sự hân hoan hay “tri thức hân hoan” theo ngôn ngữ Nietzsche. “Kẻ nào trèo lên núi cao, kẻ ấy tự cười mọi bi kịch giả tạo hay có thực.” Trên bàn thờ những giá trị mới, tiếng cười chiến thắng đã thay thế tiếng thở dài đầu hàng. “Tôi đã phong thánh tiếng cười, hỡi những con người siêu đẳng, hãy học cười!”. Bằng tiếng cười hồn nhiên ròn rã, chúng ta quét sạch mọi thần tượng trang trọng đăm chiêu và đón chào một thế giới tinh khôi rực rỡ.
Nguyễn Hữu Hiệu
Vạn Hạnh, 26-09-1971
Khai từ
Duy trì được sự thanh thản giữa một sự vụ u sầu và có thể biện minh quá độ chừng đâu phải là một nghệ thuật không đáng kể: tuy nhiên có điều gì cần thiết hơn thanh thản chăng? Chẳng việc gì thành công nếu lòng hăng hai chẳng tham dự vào. Chỉ có sự thặng dư của sức mạnh mới là bằng chứng của sức mạnh. Đảo hoán mọi Giá Trị, dấu hỏi quá đen, quá lớn hắt bóng tối lên kẻ đặt ra nó, -định mệnh của một công việc như vậy buộc người ta từng giây phút phải lao thẳng vào mặt trời, rũ bỏ vẻ trang nghiêm đã đè ta quá nặng. Tất cả mọi phương tiện đều được biện minh, mọi “cơ hội” đều là cơ hội tốt. Trên tất cả, chiến tranh. Chiến tranh luôn là sự minh mẫn thận trọng ghê gớm của tất cả những tinh thần đã trở nên quá chuyên tâm, của tất cả những tinh thần đã trở nên quá thẳm sâu; khả năng chữa trị đã nằm ngay trong vết thương. Một câu phương ngôn mà xuất xứ tôi cố tình dấu nhẹm óc tò mò trí thức, từ lâu đã trở thành phương châm của tôi:
increscunt animi, virescit volnere virtus [1]
Một hình thức chữa trị khác, trong một vài trường hợp còn thích hợp với tôi hơn nữa, đó là thăm dò những thần tượng… Trên thế giới có nhiều thần tượng hơn là thực tại: đó là “ác nhãn” của tôi đối với thế giới này, đó cũng là “ác nhĩ” của tôi nữa… Ở đây đặt ra những câu hỏi với một chiếc búa và có thể nhận được như một hồi âm cái âm thanh trống rỗng thốt lên tự lòng hiu hiu tự đắc - thích thú thay cho kẻ nào có một đôi tai khác nữa sau đôi tai của mình, - đối với tôi, một tâm lý gia và một kẻ đánh bẫy chuột cố cựu, trước sự hiện diện của kẻ đó quả thực những gì muốn thủ khẩu như bình cũng phải thốt lên tiếng nói…
Cả cuốn sách này nữa - nhan đề đã bộc lộ nội dung - trước hết là một sự giải trí, một chấm ánh sáng, một cuộc đào thoát vào những giờ nhàn rỗi của một tâm lý gia. Có thể còn là một cuộc chiến tranh mới nữa? Và biết đâu có thể bắt được quả tang những bí mật của những thần tượng mới?... Cuốn tiểu luận này là một cuộc khai chiến vĩ đại; còn về vấn đề nhằm thăm dò những thần tượng, lần này không phải là những thần tượng thời đại mà là những thần tượng vĩnh cửu ở đây sẽ bị đụng chạm đến bằng một chiếc búa như thể bằng cái âm thoa - cuối cùng không còn những thần tượng cổ kính nữa… Cũng không còn những thần tượng trống rỗng nữa… Nhưng điều đó không ngăn cản được người ta tin tưởng nhất; cũng như không ngăn cản người ta, ngay cả trong những trường hợp cao quí nhất, không gọi là thần tượng nữa…
Turin, 30 tháng Chín, 1888, ngày hoàn tất cuốn sách đầu tiên của Cuộc đảo hoán mọi Giá Trị [2]
Friedrich Nietzsche
Châm ngôn và tên nhọn
1.
Nhàn cư là khởi đầu của tất cả mọi tâm lý học. Sao? tâm lý học có thể là… một tật xấu?
2.
Ngay cả kẻ can đảm nhất trong chúng ta cũng ít khi có đủ can đảm khẳng định điều hắn thực sự biết.
3.
Để sống một mình người ta phải là một con vật hay một thần thánh - Aristote nói như vậy. Còn có trường hợp thứ ba nữa: người ta phải vừa là thú vật vừa là thần thánh - đó là triết gia.
4.
“Tất cả mọi chân lý đều đơn giản.”- Đó không phải là một lời dối trá phức tạp sao?
5.
Nói một lần dứt khoát, có nhiều điều tôi không muốn biết. - Minh triết vạch ra những giới hạn, ngay cả đối với hiểu biết.
6.
Chính vì trong bản chất của người ta có chất man rợ mà người ta có thể khôi phục lại được sự ác tà của mình, tôi muốn nói tâm linh tính…
7.
Sao? Con người chỉ là một sự nhầm lẫn của Thượng Đế hay Thượng Đế chỉ là một sự nhầm lẫn của con người?
8.
Trường chiến tranh của đời.- Cái gì không giết tôi khiến tôi mạnh mẽ hơn.
9.
Hãy tự giúp mình: rồi tất cả sẽ trợ giúp mình. Nguyên tắc bác ái của Kitô giáo.
10.
Chúng ta đừng hèn nhát trước những hành động của chúng ta! Chúng ta đừng bỏ rơi chúng ta trong cơn bối rối! - Sự hối hận của lương tâm là điều khiếm nhã.
11.
Con lừa có thể bi thảm không? - Bị đè bẹp dưới một gánh nặng mà người ta không thể mang cũng không thể quẳng đi?... Trường hợp của triết gia.
12.
Nếu người ta - thủ hữu câu hỏi tại sao của cuộc đời, người ta sẽ quen với bất cứ câu hỏi thế nào nào - Con người không khát vọng hạnh phúc; chỉ có người Ăng Lê làm vậy thôi.
13.
Người đàn ông đã tạo ra người đàn bà - nhưng bằng gì vậy? Bằng xương sườn Thượng Đế của hắn, - bằng lý tưởng của hắn…
14.
Sao? Bạn đang tìm kiếm gì? Bạn muốn nhân bạn lên một chục lần? Một trăm lần? Bạn tìm kiếm những kẻ theo mình? - Tìm hư không! [3]
15.
Những con người sống lại sau khi đã chết [4] - như tôi chẳng hạn - ít được hiểu hơn những người sống phù thời, nhưng họ được người ta lắng nghe chăm chú hơn. Nói rõ hơn: chúng ta không bao giờ được hiểu cả - và đó chính là quyền uy của chúng ta.
16.
Giữa đám quần thoa. - “Chân lý! Ồ! Chị không biết chân lý là gì rồi! Nó chẳng phải là một toan tính xâm phạm pudeur [5] của chúng ta sao?
17.
Đây là một nghệ sĩ, như những nghệ sĩ tôi yêu, đơn giản trong nhu cầu: hắn thực sự cần có hai điều: bánh mì và nghệ thuật của hắn, - panem et Circen…
18.
Kẻ nào không biết đặt ý chí của mình vào sự vật, muốn ít nhất đặt vào trong đó một ý nghĩa: điều đó khiến hắn tưởng trong đó đã hàm chứa một ý chí (nguyên tắc “tin tưởng”).
19.
Sao? Bạn đã chọn đức hạnh và tâm hồn cao thượng đồng thời lại ghen ghét nhìn lợi lộc của những kẻ thô lỗ phóng tâm trục vật? Nhưng với đức tính người ta khước từ “lợi lộc” mà… (để viết trên cửa nhà những kẻ bài Do Thái).
20.
Một người đàn bà hoàn toàn xúc phạm văn chương cũng như nàng phạm một tội lỗi nhỏ: để thử chơi, trong khi quay đầu lại ngó xem ai có để ý không, và để cho một người nào đó để ý…
21.
Phải đặt mình vào những hoàn cảnh trong đó người ta không được có những đức tính giả hình, nhưng trong những hoàn cảnh ấy, tựa như một người múa trên dây hoặc là người ta té hoặc đứng thẳng hoặc từ bỏ…
22.
“Những người độc ác không biết hát”. Vậy thì tại sao những người Nga lại biết hát?
23.
“Tinh thần Đức”: từ mười tám năm nay [6] là một contradictio in adjecto [7] .
24.
Vì muốn tìm nguồn gốc khởi nguyên, người ta trở thành một con tôm [8] . Nhà sử học nhìn lại đằng sau: cuối cùng ông ta tin tưởng vào phía sau.
25.
Sự thoả mãn bảo vệ người ta khỏi ngay cả sự cảm lạnh. Một người đàn bà biết mặc áo quần đầy đủ có cảm lạnh không nhỉ? - Tôi giả thiết trường hợp nàng mặc quần áo mong manh.
26.
Tôi hồ nghi tất cả những người muốn thiết lập hệ thống và tránh xa họ. Ý muốn lập hệ thống là sự thiếu ngay thẳng thanh liêm.
27.
Người ta nói rằng người đàn bà sâu sắc - tại sao? Bởi vì người ta không bao giờ tới được đáy sâu của họ. Người đàn bà không hời hợt nữa.
28.
Khi người đàn bà có những đức tính đàn ông, người ta lảng tránh nàng, và nếu nàng không có những đức tính ấy, nàng sẽ chạy trốn chính nàng.
29.
Trước kia lương tâm phải cắn nhiều xiết bao! Nó có bộ răng tốt biết mấy! Và ngày nay? Có chuyện gì trục trặc xảy ra? - Vấn đề của nha sĩ.
30.
Ít khi người ta phạm nguyên chỉ một lỗi lầm khinh xuất. Với lỗi lầm khinh xuất đầu tiên, người ta luôn làm quá. Chính vì lý do đó, người ta thường phạm lỗi thứ hai - và bây giờ thì lại quá ít.
31.
Khi bị giẫm chân lên, con con sâu sẽ cuộn mình lại. Đó là tính thận trọng khôn ngoan. Bằng cách đó nó giảm dần tai hoạ bị giẫm lên trên lần nữa. Nói theo ngôn ngữ đạo đức: lòng khiêm tốn.
32.
Sự ghét dối trá và che đậy có thể khởi lên từ quan niệm thái quá về danh dự; sự khinh ghét tương tự có thể khởi lên từ lòng hèn nhát, vì sự dối trá bị cấm bởi luật thiêng liêng. Quá hèn nhát để nói dối…
33.
Cần ít biết chừng nào để được hạnh phúc! Tiếng sáo mục tử. - Không âm nhạc cuộc đời sẽ là một lỗi lầm. Người Đức còn tưởng tượng ngay cả Thượng Đế như một người đang ca hát nữa.
34.
On ne peut penser et écrire qu’assis [9] (G. Flaubert) - Thế là ta tóm được ngươi rồi, kẻ theo hư vô chủ nghĩa! Ngồi đúng là phạm tội với Thánh Linh. Chỉ có những tư tưởng đến với ta khi đang bước đi mới có giá trị mà thôi.
35.
Có những trường hợp chúng ta giống như những con ngựa, chúng ta, những tâm lý gia, và chúng ta trở nên bồn chồn sợ hãi: chúng ta nhìn thấy bóng chúng ta chập chờn trước mặt mình. Tâm lý gia phải quay mặt đi đừng nhìn mình để có thể nhìn thấy tất cả.
36.
Chúng ta có gây tổn thất gì cho đức hạnh không, chúng ta những kẻ vô luân? - Cũng ít như những kẻ vô chính phủ làm hại những ông hoàng vậy thôi. Chỉ khi nào đã bị bắn rồi họ mới có thể ngồi lại một cách vững vàng trên ngôi. Luân lý: người ta phải bắn bỏ luân lý.
37.
Bạn chạy trước những người khác? - Bạn làm như vậy như một mục tử? Hay như một kẻ ngoại hạng? Trường hợp thứ ba có thể như một kẻ đào ngũ… Câu hỏi thứ nhất của lương tâm.
38.
Bạn chân thật? Hay chỉ là một kẻ đóng trò? Một đại diện? Hay chi rlà một kẻ được đại diện? Cuối cùng có lẽ bạn chỉ bắt chước kẻ đóng trò… Câu hỏi thứ hai của lương tâm.
39.
Kẻ bất mãn nói. - Tôi tìm kiếm những vĩ nhân nhưng bao giờ cũng chỉ tìm thấy con khỉ bắt chước lí tưởng của họ.
40.
Bạn là kẻ ngắm nhìn? Hay một kẻ bắt tay vào công việc? - Hay một kẻ ngó lơ quay đi chỗ khác… Câu hỏi thứ ba của lương tâm.
41.
Bạn muốn đi chung cùng bạn hữu? Hay dẫn đầu? Hoặc đi riêng lẻ một mình?... Người ta phải biết mình muốn gì và phải biết rằng mình muốn. - Câu hỏi thứ tư của lương tâm.
42.
Đối với tôi chúng chỉ là những bậc thang và tôi đã bước lên chúng - do đó tôi phải vượt qua chúng. Nhưng chúng lại tưởng rằng tôi muốn ngồi lên chúng.
43.
Có quan hệ gì việc tôi giữ lẽ phải! Tôi có quá nhiều lẽ phải. - Và kẻ nào cười nhiều hôm nay cũng sẽ là kẻ cười cuối cùng.
44.
Định thức hạnh phúc của tôi: một tiếng ừ, một tiếng không, một con đường thẳng, một mục tiêu…
Vấn đề Socrate
1.
Bàn về cuộc đời, những kẻ khôn ngoan nhất của mọi thời đại đều đưa ra một phán đoán tương tự như nhau: cuộc đời vô giá trị… Bất cứ ở đâu và bao giờ cũng vậy người ta đều nghe thấy câu nói đó thốt ra từ miệng họ. - Một câu nói đầy nghi ngờ, đầy phiền não, đầy chán chường cuộc đời, đầy khinh miệt cuộc đời. Ngay cả Socrate cũng nói lúc lâm chung: “Sống - là đau bệnh một thời gian lâu dài: Ta nợ đấng cứu nhân độ thế Esculape một con gà [10] ” Ngay cả Socrate cũng chán mứa cuộc đời. - Điều đó chứng tỏ gì? Điều đó muốn trỏ cái gì?- Ngày xưa có lẽ người ta sẽ nói (- Ồ, người ta đã nói rồi và nói khá lớn, nhất là những kẻ bi quan của chúng ta): “Chắc chắn phải có một cái gì chân thực ở đây! Consensus sapientium [11] là bằng chứng của chân lý.” – Ngày hôm nay chúng ta sẽ còn nói như thế không? Chúng ta còn được phép làm thế không? “Chắc chắn phải có một cái gì bệnh hoạn ở đây” - đó là câu trả lời của chúng ta. Những kẻ khôn ngoan nhất của mọi thời đại, ta phải nhìn họ thật gần! Có thể tất cả những người đó chân không còn đứng vững? Chậm trễ? Run rẩy? Décadents [12] biết đâu? Có lẽ sự khôn ngoan xuất hiện trên trái đất này như một con quạ khoang bị hấp dẫn bởi mùi tử khí?
2.
Quan niệm bất kính cho rằng những bậc hiền nhân vĩ đại là những mẫu sa đoạ [13] khởi lên trong tôi chính trong trường hợp trong đó thành kiến bác học và thành kiến vô học đối chọi nhau kịch liệt: tôi nhận ra Socrate và Platon như những triệu chứng suy đồi, như những công vụ của sự băng hoại của Hy Lạp, như những kẻ nguỵ Hy Lạp, như những kẻ bài Hy Lạp (Sự khai sinh của bi kịch, 1872). Sự consensus sapientium - như càng ngày tôi càng thấy rõ - chẳng chứng tỏ một chút nào rằng họ có lý về điều mà họ đồng ý với nhau: nó chỉ chứng tỏ rằng chính họ, những kẻ khôn ngoan nhất, một cách nào đó về phương diện sinh lý, họ tương tự như nhau để có cùng một thái độ như nhau đối với cuộc đời - để bắt buộc phải có thái độ đó. Sau hết, những phán đoán và những thẩm định giá trị về cuộc đời, dù tán dương hay chống lại, đều không thể đúng được: giá trị đích thực của chúng nằm trong sự kiện chúng là những triệu chứng; chúng chỉ có thể được coi như là triệu chứng mà thôi - trong tự thể những phán đoán này là những điều xuẩn ngốc. Chúng ta phải cố gắng bằng mọi cách để lãnh hội sự tế nhị siêu phàm này là giá trị của cuộc đời không thể thẩm định được [14] . Không thể thẩm định được bởi một người còn sống, bởi hắn là thành phần, là đối tượng của chính cuộc tranh luận nữa, chứ không phải là quan toà; cũng không thể bởi một người đã chết vì một lý do khác. - Về phần một triết gia, nhìn một vấn đề trong giá trị của cuộc đời, là một vấn nạn chống lại chính hắn, một dấu hỏi về sự khôn ngoan của hắn, một sự thiếu khôn ngoan [15] nữa - Sao? Tất cả những người khôn ngoan vĩ đại này - không những họ là những décadents mà họ còn không khôn ngoan nữa sao? - Nhưng tôi xin trở lại vấn đề Socrate.
3.
Xét về nguồn gốc, Socrate thuộc về đẳng cấp thấp hèn nhất: Socrate thuộc dòng hạ lưu. Người ta biết, người ta có thể thấy ông ta xấu xí biết chừng nào nữa. Nhưng sự xấu xí tự nó đã là một vấn nạn, hầu như là một bác luận nơi người Hy Lạp. Socrate có đúng là người Hy Lạp không? Sự xấu xí thường là dấu hiệu của một sự phát triển bị ngăn chặn, một sự phát triển bị cản trở bởi sự pha giống. Trong trường hợp khác, nó hiện ra như một sự phát triển suy đồi. Những nhà nhân chủng học chuyên khảo về tội ác học tuyên bố rằng kẻ tội phạm đặc trưng xấu xí: monstrum in fronte, monstrum in animo [16] . Nhưng kẻ tội phạm là một kẻ décadent [17] . Socrate có phải là một kẻ tội phạm đặc trưng không? - Dù sao điều đó cũng không trái ngược với ý kiến của nhà chuyên coi tướng mạo, ý kiến khiến bằng hữu của Socrate tức giận. Trong khi đi qua thành Nhã Điển, một người ngoại quốc biết coi tướng mặt đã nói thẳng vào mặt Socrate rằng ông ta chỉ là một quái vật, ông ta chứa dấu trong mình tất cả những tật xấu và những khát vọng đồi bại. Và Socrate chỉ đáp: “Thưa ông, ông biết tôi rõ lắm”.
4.
Không những sự hoang đàng và hỗn loạn của bản năng chỉ sự décadence nơi Socrate: mà sự bội dư của những khả năng luận lý, và sự độc ác méo mó còn là những đặc tính nổi bật nơi ông ta nữa. Chúng ta đừng quên rằng những ảo tưởng thính giác, dưới danh từ “con quỷ của Socrate”, được diễn giải theo một ý nghĩa tôn giáo. Tất cả mọi sự nơi ông ta đều quá đáng, hài hước, hoạt kê, đồng thời đều dấu diếm, có ẩn ý, tà khuất. Tôi cố gắng tìm hiểu xem đặc tính nào đã có thể khai sinh ra cái phương trình Socrate này: lí trí = đức hạnh = hạnh phúc: cái phương trình quái gở nhất, và đặc biệt, nghịch lại tất cả mọi bản năng Hy Lạp xưa.
5.
Với Socrate, thị hiếu Hy Lạp biến đổi theo chiều thuận lợi cho biện chứng pháp: thực ra điều gì đã xảy ra? Trước hết, thị hiếu cao nhã đã biến mất; với biện chứng pháp, đám hạ lưu len chân tới thượng đỉnh. Trước Socrate, những lề lối biện chứng bị khai trừ trong xã hội thượng lưu: chúng bị coi như những kiểu cách xấu xa, chúng có tính cách thoả hiệp bình dân. Thanh niên được cảnh giác lánh xa. Người ta còn nghi kị cả những kẻ trình bầy lý lẽ của mình. Những sự việc lương thiện cũng như những con người lương thiện không mang phơi trần những lý lẽ của mình cách ấy. Phơi bầy cái tốt lành của mình là điều vô phép. Cái cần phải chứng rỏ không có giá trị bao nhiêu. Bất cứ nơi nào mà uy quyền hãy còn thuộc tập tục tốt, bất cứ nơi nào mà người ta không “luận lý” mà chỉ ra lệnh, thì nhà biện chứng pháp là một thứ hề: hắn bị chế nhạo, hắn không được coi trọng. Socrate là tên hề thành công trong việc bắt người khác coi mình là trọng: vậy thì chuyện gì đã thực sự xảy ra?
6.
Người ta chỉ chọn biện chứng pháp khi nào không còn cách nào khác. Người ta biết rằng biện chứng pháp gây ra nghi ngờ, rằng nó không hùng hồn lắm. Không có gì dễ xoá bỏ hơn hiệu quả biện chứng: sự kiện này được chứng minh trong những cuộc hội thảo. Nó chỉ có thể là sự tự vệ cuối cùng của những người không có khí giới. Người ta phải dành giật quyền hành của mình: nếu không, người ta không dùng đến nó. Đó là lý do tại sao, những người Do Thái đều là những nhà biện chứng; Lão Cáo- già [18] là nhà biện chứng: sao vậy? Socrate cũng là một nhà biện chứng sao?
7.
Sự hài hước của Socrate là một biểu lộ của phản kháng? Của lòng hờn oán của đám hạ lưu? Ông ta có thích thú nếm mùi tàn bạo của chính mình trong mũi dao nhọn của tam đoạn luận, như một kẻ bị áp chế không? Ông có trả thù những người quí phái ông dụ hoặc không? - Là một nhà biện chứng, người ta nắm trong tay một khí cụ tàn nhẫn; với sự trợ giúp của nó người ta có thể làm một bạo chúa; người ta thoả hiệp trong khi chiến thắng. Nhà biện chứng để nó lại cho địch thủ để chứng tỏ rằng hắn không phải là một tên ngốc: hắn làm người ta nổi điên và đồng thời trở nên bơ vơ không nơi nương tựa. Nhà biện chứng bất lực hoá trí tuệ đối thủ. Sao? Biện chứng pháp chỉ là một hình thức trả thù trong trường hợp Socrate?
8.
Tôi đã cho thấy bằng cách nào Socrate có thể làm người ta xa lánh: bây giờ điều quan trọng nhất là giải thích sự kiện ông ta đã mê hoặc cách nào. Ông ta đã khám phá ra một nghệ thuật chiến đấu mới, ông ta là kiếm sư đầu tiên của những giới quí tộc ở Nhã Điển, đó là lý do thứ nhất. Ông ta mê hoặc bởi ông ta khêu gợi những bản năng hiếu chiến của người Hy Lạp, - ông ta đã đưa vào trường đô vật giữa người lớn và thanh niên một sự thay đổi. Socrate còn là một người đại dâm đãng.
9.
Nhưng Socrate còn tiên đoán nhiều cái khác nữa. Ông ta nhìn thấu suốt những nhà quí phái Nhã Điển; ông ta thấy rằng trường hợp của ông ta, trường hợp riêng của ông ta, chẳng phải là trường hợp ngoại lệ phi thường, ngay cả trong thời đại ông ta. Sự suy đồi tương tự thầm lặng sửa soạn ở khắp nơi: thành Nhã Điển cổ kính đang hấp hối. Và Socrate hiểu rằng toàn thể thế giới cần ông ta - cần phương thuốc, cách chữa trị, phương thức tự bảo tồn đặc biệt của ông ta. Ở khắp nơi, những bản năng đều ở trong tình trạng hỗn loạn; khắp nơi người ta chỉ cách xa sự thái quá có một bước: monstrum in animo là hiểm hoạ chung. “Bản năng muốn đóng vai bạo chúa chuyên chế; cần phải tạo ra một phản bạo chúa mạnh hơn”… Khi nhà chuyên coi tướng mạo đã cho Socrate thấy con người thực của ông ta, một miệng núi lửa đầy rẫy mọi khát vọng xấu xa, nhà đại hài hước này đã thốt ra một câu cho chúng ta một cái chìa khoá mở vào bản chất của ông ta. “Điều đó đúng, nhưng tôi đã chế ngự được tất cả.” Bằng cách nào Socrate đã tự chủ được chính mình? Trường hợp của ông ta, rốt cuộc cũng chỉ là trường hợp thái quá, một thí dụ rõ rệt nhất của một trạng thái tuyệt vọng đang bắt đầu trở thành phổ quát: không ai còn có thể tự làm chủ mình nữa, những bản năng đang trở nên chống đối lẫn nhau. Ông ta cám dỗ vì là thí dụ thái quá của trạng thái này - sự xấu xí khủng khiếp của ông ta khiến mọi mắt nhìn đều tỏ rõ: ông ta còn cám dỗ hơn nữa, điều đó tự nhiên, như một câu trả lời, như một phương sách, như một cách chữa trị hiển nhiên của trường hợp này.
10.
Khi người ta thấy cần phải biến lí trí thành một bạo chúa chuyên chế, như Socrate đã làm, thì hiểm hoạ một cái gì khác cũng muốn thủ vai bạo chúa chuyên chế không phải là nhỏ. Chính lúc đó lí trí được khám phá như một đấng cứu thế. Cả Socrate lẫn những “kẻ bệnh hoạn” không được tự do chọn có lí hay không có lí: điều đó tính cách de rigueur, đó là phương thuốc cuối cùng của họ. Sự cuồng tín mà toàn thể tư tưởng Hy Lạp nhào vào lí trí tố cáo một tình trạng khẩn trương: như người ta đang trong cơn hiểm hoạ, người ta chỉ có một sự lựa chọn duy nhất: hoặc là chìm đắm tận đáy hoặc - lí trí một cách phi lí… Chủ trương đạo đức của những triết gia Hy Lạp từ Platon bị điều kiện hoá của một cách bệnh hoạn; sự thẩm định về biện chứng pháp của họ cũng vậy. Lí trí = đức hạnh = hạnh phúc chỉ có nghĩa: người ta phải bắt chước Socrate và đương đầu với những đam mê đen tối bằng cách thường trực tạo ra ánh sáng ban ngày - ánh sáng lí trí. Phải thận trọng, sáng sủa, minh bạch bằng mọi giá: tất cả mọi nhượng bộ cho bản năng, vô thức đều đưa xuống dốc…
11.
Tôi đã cho thấy cách mà Socrate cám dỗ: ông ta có vẻ là một thầy thuốc, một đấng cứu thế. Có cần phải vạch ra sự sai lầm trong niềm tin vào “lí trí với bất cứ giá nào” của ông ta nữa không? - Đó là một sự tự lừa dối về phía những triết gia và những nhà luân lí khi họ tin tưởng rằng họ thoát ra khỏi sự décadence bằng cách gây chiến với nó. Điều đó ở trên khả năng của họ: cái họ chọn lựa như một phương thuốc, như một phương tiện cứu chuộc, lại chỉ là một sự biểu lộ khác của sự décadence - họ chỉ thay đổi cách biểu lộ của nó, chứ họ không huỷ bỏ được chính nó. Socrate là một sự ngộ nhận; toàn thể luân lí nhằm cải thiện, kể cả luân lí Kitô giáo là một sự ngộ nhận… Ánh sáng chói lọi nhất, lí trí với bất cứ giá nào, đời sống minh bạch, lạnh lùng, thận trọng, ý thức, không phải bản năng, chống lại bản năng, chỉ là một sự bệnh hoạn, một thứ bệnh hoạn mới - chứ không phải là một sự trở về “đức hạnh”, “sức khoẻ”, hạnh phúc… Bắt buộc phải chiến đấu chống lại bản năng - đó là định thức của sự décadence: chừng nào mà cuộc đời còn đi lên thì hạnh phúc và bản năng đồng nhất.
12.
Tự ông ta có hiểu điều đó không, ông ta, người thận trọng nhất trong những kẻ tự lừa dối mình? Ông ta có tự thú nhận với mình vào giây phút cuối cùng, trong sự khôn ngoan của lòng can đảm trước cái chết không?... Socrate muốn chết: - Không phải Nhã Điển mà chính là ông ta tự trao cho mình chén thuốc độc… “Socrate không phải là thầy thuốc”, ông ta thầm nhủ: “Chỉ có cái chết mới là thầy thuốc ở đây… Chỉ có Socrate mới đau một cơn đau dài…”
--------------------------------------------------------------------------------
[1]Tinh thần lớn mạnh, sức khoẻ gia tăng bởi vết thương - Ghi chú của Dịch giả (G.c.D.)
[2]Tức Kẻ chống Chúa - (G.c.D.)
[3]Suche Nullen! “Nullen” có nghĩa là không ai cả, số không và đồng thời cũng có nghĩa là Hư không. - (G.c.D.)
[4]Posthume menschen. Nietzsche thường tự coi mình như một con người sống phi thời gian (unzeitghe mäss), trên thời gian, độc lập với thời đại, sống như một cái bóng trong lúc sinh thời và chỉ hồi sinh, sống động sau khi đã chết đi. Con người thuộc về tương lai, sống cho và sống với thế hệ mai hậu. CT. “Những suy tưởng phi thời” (Unzeitgemässe Betrachtungen). - G.c.D.
[5]Pháp văn trong nguyên bản: “Ist sie nicht ein Attentat auf alle unsre pudeurs?”: “Nó không phải là sự xâm phạm tiết hạnh của chúng ta sao?” - G.c.D.
[6]Kể từ ngày thành lập Reich (Đế Quốc)
[7]Trái ngược về thời gian
[8]Có lẽ phải viết: “Vì muốn tìm về nguồn gốc khởi nguyên, người ta trở thành một con cua”. Nhưng Nietzsche viết: “Damit, dass man nach den Anfăngen sucht, wird man Krebs” - G.c.D.
[9]Pháp văn trong nguyên bản: “Người ta chỉ có thể suy tưởng và viết khi ngồi.” - G.c.D.
[10]Esculape hay Asklêpios viết theo tiếng Hy Lạp, là Thần Y thuật hay tổ sư nghề thuốc.
[11]La văn: sự đồng ý của những kẻ khôn ngoan. “Der consensus sapientium beweist die wahrrheit”: “Sự đồng ý của những kẻ khôn ngoan là bằng chứng của chân lý.”
[12]Pháp văn trong nguyên bản: suy đồi, một trong những khai ngữ của Nietzsche, chỉ những kẻ bi quan, hướng vọng quá khứ, Thiên Đàng, Thượng Đế và tuyệt vọng - G.c.D.
[13]Niedergangs – Typen - G.c.D.
[14]der Wert des Lebens nicht abgeschätzt werden kann.
[15]Nietzsche công kích Engène Dühring, tác giả Giá trị của cuộc đời - G.c.D.
[16]La văn trong nguyên tác: một quái vật trên nét mặt, một quái vật trong linh hồn.
[17]Nietzsche phân biệt hai thứ tội phạm, một thứ tội phạm vì dũng mãnh, một thứ tội phạm vì yếu hèn. Do đó có một thứ tội phạm phẩm cách cao nhã, một thứ tội phạm đáng kinh tởm. Ở đây nói về loại thứ hai, trong khi ở đoạn 45, chương “Những cuộc viễn hành của con người phi thời” đề cập tới loại thứ nhất. - G.c.D.
[18]Reineke Fuchs - G.c.D.
Nguồn: Hồng Hà in lần thứ nhất tại Sài Gòn năm 1971.
Buổi hoàng hôn của những thần tượng
hay Làm cách nào triết lí với cây búa
Nguyễn Hữu Hiệu dịch và giới thiệu
Lời giới thiệu
1.
Năm 1888 trong cuộc đời và tư tưởng Nietzsche
Mặt trời lên cao đỉnh rồi bùng vỡ trong Van Gogh trong năm 1888. Đó cũng chính là thời kì sáng tạo dữ dội nhất của ông. Bóng tối lưỡng lự đã bị lùa ra khỏi tranh. Bàn tay trở nên chính xác một cách tàn bạo. Nét cọ tung hoành như sấm sét. Màu sắc loé sáng trong khi tâm trí đã bắt đầu hôn ám. Nhưng trong buổi hoàng hôn của tâm thức đó, viễn tượng đã kết hợp một cách kì diệu với thực tại. Ngày 21 tháng 4 năm sau, Van Gogh viết cho em: “Điều an ủi anh đôi chút là anh bắt đầu coi sự điên cuồng như một chứng bệnh giống như những bệnh tật khác, trong khi đó ngay cả trong những cơn khủng hoảng, anh thấy dường như tất cả những gì anh tưởng tượng trước kia đều là thực tại cả.” Và ông lăn xả vào công việc, vẽ từ sáng tới tối. Người ta kể lại rằng những người bạn đồng phòng với ông khi đi ra thấy ông đang vẽ một tấm tranh, vài giờ sau trở vào đã thấy ông vẽ một tấm tranh khác. Ông làm việc như kẻ bị quỉ ám, “j’ai une fureur sourde de travail plus que jamais” (9/1889). Ông không thể ra khỏi hội hoạ, nghĩa là ra khỏi thực tại, làm mồi cho điên cuồng và phiền não. “Trong tất cả mọi trường hợp, tìm cách trung thành với sự thực có lẽ là một phương thuốc để chống lại bệnh tật đang làm anh lo âu” (thư cho Théo, 12 tháng 2 năm 1890). Có lẽ Vincent van Gogh linh cảm thấy rằng phần ánh sáng dành cho ông sắp hết và ông phải tận dụng nó, nhìn lần cuối cùng trong ánh sáng viễn tượng những thực tại đã bị thói quen giả dối chôn vùi. Trường hợp Nietzsche cũng tương tự như vậy. Năm 1888 là cực điểm sáng suốt và sáng tạo của Nietzsche, đồng thời cũng là cực độ của đau khổ và cô đơn của ông. Ngày 12 tháng 2 năm 1888, Nietzsche viết cho bá tước Seydlitz: “Bây giờ tôi cô đơn, cô đơn một cách phi lí; trong cuộc chiến tàn khốc và âm thầm mà tôi theo đuổi (dưới uy thế Đảo Hoán mọi Giá Trị) chống lại tất cả những gì đã được mọi người tôn sùng và quí trọng từ xưa tới nay, chính tôi đã trở thành một cái u hồn cốc mà không hay…” Trong tình cảnh đó ông chỉ cầu xin một điều: “Sự thanh bình, quên lãng, sự khoan dung của mặt trời và của mùa thu cho một cái gì đang muốn chín tới, cho sự chứng thực và biện minh của toàn thể con người tôi…” (thư cho Paul Dessen, 3 tháng Giêng năm 1888). Kết quả là năm tác phẩm cuối cùng, chín mùi nhất, mãnh liệt nhất của Nietzsche hoàn thành trong năm này: Trường hợp Wagner, Hoàng hôn của những thần tượng, Kẻ chống Chúa, Nietzsche chống Wagner, Ecce Homo và tụng ca Dionysos.
Quả thực năm 1888 là cực điểm của cuộc đời và tư tưởng Nietzsche. Trước hết nó là cao độ của một thập niên đầy sáng tạo khởi đầu từ 1878 với Phàm phu, quá phàm phu, tác phẩm đầu tiên mà trong đó chan hoà ánh sáng thiên tài, kế đó Ý kiến tương hợp và châm ngôn (1879), Lữ khách và bóng hình mình (1880), Bình minh (1881), Tri thức hân hoan (1882 - bổ túc thêm năm 1887), Zarathustra đã nói như thế (1883–1885), Phi thiện ác (1886) và Phổ hệ luân lí (1887). Song song những tác phẩm trên, trong nhiều thập niên này Nietzsche còn đưa ra nhiều tư tưởng dũng mãnh quanh chủ đề Ý chí hùng cường. Sang năm 1888, Nietzsche bỏ Ý chí hùng cường và thay thế bằng Cuộc đảo hoán mọi giá trị, trong đó Kẻ chống Chúa, là tác phẩm mở đầu.
Năm 1888 còn có ý nghĩa cực điểm trong cuộc đời và tư tưởng Nietzsche ở chỗ toàn bộ tác phẩm viết trong năm này là những cuộc duyệt xét lại và toát lược lại toàn thể những chủ đề triết lí của ông và của hai ngàn năm triết học Tây phương trong ánh sáng chói loà cuối cùng của tâm thức, ở một cao độ buốt giá, bằng một bút pháp sắc bén, cô đọng. Sau đó là bóng tối và yên lặng hoàn toàn. Đầu tháng Giêng 1889, tinh anh ông đã vỗ cánh bay cao, và ông không viết thêm một dòng nào nữa mặc dầu thể phách còn ngồi lại mười năm nữa, tới tháng 8 năm 1990.
2.
Buổi hoàng hôn của những thần tượng
Tác phẩm Buổi hoàng hôn của những thần tượng hay làm cách nào người ta triết lí với cây búa? (Götzen-Dämmerung, oder: Wie man mit dem Hammer philosophiert?) được viết trong khoảng thời gian từ cuối tháng Sáu tới đầu tháng Chín năm 1888 và được đem ấn hành vào tháng Mười cùng năm. Mới đầu tác phẩm mang tựa đề Sự nhàn rỗi của một tâm lí gia hay Những giờ nhàn cư của một tâm lí gia (Müssiggang eines Psychologen). Nhưng sau đó, theo lời yêu cầu của Peter Gast, một cao đồ trung thành của Nietzsche, đòi ông phải tìm một tựa đề “huy hoàng” hơn cho tác phẩm, Nietzsche nhượng bộ, phỏng theo nhan đề vở Hoàng hôn của những thần thánh (Götterdämmerung) của Wagner, đặt lại là Hoàng hôn của những thần tượng (Götzen-Dämmerung).
Thần thoại Bắc Âu kể rằng tất cả mọi thần thánh đều có ngày tàn mạt, ngày họ tan biến vào hư vô. Đó là buổi hoàng hôn của thần thánh. Richard Wagner đã mượn thần thoại này để dựng vở kịch thứ tư trong bộ Tứ ca bộ kịch (Tétralogie) của ông, Nietzsche thay đổi tựa đề và cả ý nghĩa. “Thần tượng” là biểu tượng Nietzsche dùng để chỉ chân lí. “Buổi hoàng hôn của những thần tượng” có nghĩa là sự sụp đổ của mọi chân lí.
Không một thực tại, một ý tưởng, một lí tưởng, một chân lí, một “thần tượng” nào tác phẩm này không chạm tới. Từ những chân lí vĩnh cửu đến những chân lí, giá trị mới mẻ. “Một cơn gió lớn thổi qua rặng cây… và trái chín rụng rơi tơi tả: những chân lí”. (Ecce Homo). Nhưng những cái người ta có thể lượm trong tay chẳng có gì ngọt ngào. Vì đó chỉ là những trái thối hư, thực phẩm vô vị đã hết dưỡng chất của hai ngàn năm qua cần phải liệng bỏ. Tất cả mọi chân lí đều nhạt phai và phải xoá đi, mọi thần tượng đều hết thiêng liêng và phải tiêu diệt. Duy chỉ có cuộc đời là vĩnh cửu. Tất cả mọi hiểu biết đều sai lầm, mọi luân lí đều độc hại. Duy chỉ có bản năng là tốt lành.
Đây là cuộc Tuyên chiến vĩ đại. Đây là cuộc mổ xẻ tàn nhẫn lí trí, luân lí, tâm lí học, lòng ái quốc, vị tha, tình nhân loại… Đây là cuộc lột mặt nạ không thương tiếc những nhân vật, “những thần tượng” tượng trưng cho những chân lí, những giá trị cũ: Socrate, Platon, thiện ác, đẹp xấu… và những “thần tượng” tượng trưng cho những chân lí và giá trị mới: Renan, Rousseau, Sainte-Beuve, G. Eliot, George Sand, Schopenhauer, Comte, Kant, Schiller, Zola, Victor Hugo, Listz, Carlylle, nghệ thuật vị nghệ thuật, dân chủ, tiến bộ…
Trên tất cả, chúng ta tìm thấy trong tác phẩm này những tư tưởng hữu thể học quan trọng nhất của Nietzsche. Đúng hơn, chúng ta thấy những diễn dịch về những vấn đề cốt yếu từ quan điểm biến dịch siêu hình của ông dựa trên phương trình căn bản cũng là tiền đề của ông - là: hữu thể học truyền thống coi là “hữu thể chân thực” (Wahres-Sein) cái thực ra chỉ là một ảo tưởng, một ảo tưởng có tất cả đặc tính của phi thể (Nicht-Sein) và vô thể (Nichts) và chối bỏ, coi như “phi hữu” và phi thực cái thực ra là hữu thể đích thực và hữu thể duy nhất. Cái từ xưa tới nay, người ta coi là hiện thể đích thực, thực ra chỉ là mộng huyễn bào ảnh, trong khi cái từ xưa tới nay người ta coi là mộng huyễn bào ảnh lại chính là hiện thể chân thực. Cái từ xưa tới nay được coi là “hữu thể” (Sein) đối nghịch với biến dịch không có, trong khi chỉ có cái biến dịch hiện hữu mà thôi. Không có “hữu thể” siêu thời gian và không gian, cũng như không có tâm linh thế giới, Linh tượng giới (le monde des idées) hay thế giới của những ý tưởng vĩnh cửu mà chỉ có thế giới khả giác (monde sensible), hiện hữu trong không gian thời gian. Không có thế giới tự nội (monde en-soi), mà chỉ có thế giới hiển lộ (monde des apparences). Không có thế giới khác mà chỉ có thế giới này, thế giới chân thực, duy nhất, linh động mà nguyên động lực là ý chí hùng dũng. Không có thế giới nào khác. Tất cả những ý nghĩ, khát vọng về một thế giới khác chỉ là cách trả thù cuộc đời “bằng sự lạm dụng ảo tưởng” về một cuộc đời “tốt đẹp hơn”. Sự chia thế giới ra làm một thế giới “tự nội” và một thế giới “bề ngoài” là dấu hiệu của sự suy đồi- một triệu chứng của sa đoạ. “Sự kiện người nghệ sĩ đặt bề ngoài lên trên thực tại không phải là một vấn nạn chống lại mệnh đề này. Bởi “bề ngoài” ở đây cũng có nghĩa là thực tại nữa, nhưng mà là dưới một hình thức lựa chọn, kiên cường hoá, sửa sai… Người nghệ sĩ bi tráng không bi thảm,- hắn gật đầu nói “ừ” trước tất cả những gì còn hồ nghi và khủng khiếp của cuộc đời, hắn là kẻ theo Dionysos”.
Chương quan trọng nhất và cũng là trọng tâm của tác phẩm là chương “Lí trí trong triết học”. Trước đó là “Vấn đề Socrate”, sau đó là “Luân lí như một cái gì phản tự nhiên”. Trước kia Nietzsche lên án khoa học, triết học vì chúng bị đầu độc bởi luân lí. Bây giờ Nietzsche lên án luân lí, triết học, khoa học bởi chúng bị đầu độc bởi lí trí, hay đúng hơn, bởi những sự lầm lẫn lớn lao của lí luận. Những triết gia lầm lẫn lấy hậu quả làm nguyên nhân, nguyên nhân làm hậu quả. Nietzsche bài bác gắt gao phương trình quái gở và bệnh hoạn này của Socrate: lí trí = đức hạnh = hạnh phúc. Socrate, Platon là những triệu chứng suy đồi. Thế nào là suy đồi (décadence)? “Bị bắt buộc phải chiến đấu chống lại bản năng đó là định thức của suy đồi, khi cuộc đời hướng thượng, hạnh phúc và bản năng là một.” Tất cả mọi sự tốt lành đều thuộc bản năng. Alles Gute ist Instinkt. Nietzsche coi như có bổn phận chống lại quan niệm cho Thượng Đế = thế giới khác của “hữu thể chân thực”. Vì quan niệm như thế, người ta bắt buộc phải coi rẻ những thực tại trần gian mà giác quan chứng nghiệm, khi coi chúng là hiển thể (Schein) không thực thể, và đi đến chỗ khước từ cuộc sống nhục cảm, lành mạnh, coi như “tội lỗi”. Theo Nietzsche, với Thượng Đế, người ta đặt thành tuyệt đối thể một hữu thể tưởng tượng, phi thời gian bên trên những thực tại trần gian, những cái duy nhất có thực thể trong dòng biến dịch. Một Thượng Đế, nếu được quan niệm như thế, sẽ làm nền tảng cho một thứ luân lí vô cùng nguy hại cho con người và cuộc đời. Đó là một hữu thể học luân lí hoá hay một luân lí hữu thể học hoá. Cần phải giải phóng hiện thể khỏi thứ hữu thể học hay luân lí này. Đó là một nhiệm vụ nặng nề mà Nietzsche gọi là cuộc “Đảo hoán mọi giá trị”. Đó là công việc của người nghệ sĩ bi tráng, kẻ nói “ừ” trước tất cả mọi hồ nghi và khủng khiếp. Người nghệ sĩ bi tráng chọc thủng hiển thể để đạt tới thực thể một cách can đảm. Hắn dám chấp nhận cái chết của Thượng Đế và dám đập “bằng cây búa” tất cả những chân lí cắm rễ sâu nhất trong lòng đời và dám đốn ngã những thần tượng được tôn kính của truyền thống và thừa can đảm để gây nên những “âm thanh trống rỗng” của buổi chiều tà. Đi vào “Hoàng hôn của những thần tượng” và đương đầu với “Đêm tối của Hư vô chủ nghĩa” là những sứ mệnh lịch sử của người nghệ sĩ bi tráng cũng như của tất cả những tinh thần tự do không chấp nhận làm rêu mốc bám trên những bậc thềm, những bờ tường nứt nẻ của những miếu đường hoang vắng nữa. Nếu “Hoàng hôn của những thần tượng” có nghĩa là sự lạm phát của mọi chân lí, mọi giá trị thiết định lấy “thế giới chân thực” bên ngoài trần gian, bên kia đời sống làm bản vị, coi những kẻ bạc nhược sa đoạ là những kẻ làm giấy bạc, coi đền thờ là những ngân hàng và Thượng Đế là kẻ chế tài thì “Đêm tối của Hư vô chủ nghĩa” chính là sự phá giá của tất cả những chân lí, những giá trị đó. Cả hai đều là những giai đoạn tất yếu và cần phải vượt qua của lịch sử. Chân lí, trần gian, cuộc đời sẽ và chỉ thuộc về những kẻ chân thực, dám đốt đi những bản di chúc hứa hẹn huy hoàng nhưng giả dối và giả tạo như tấm ngân phiếu không tiền bảo chứng, những kẻ sau khi buông rời cây búa phá huỷ còn đủ sức mạnh cầm tay cầy khai phá cánh đồng khả thể, khơi mở dòng đời, tạo dựng đời sống trong dòng Hồn nhiên của Biến dịch.
3.
Song luận
Sự thức tỉnh của nhân loại bắt đầu với song luận này: “Hoặc chúng ta phá huỷ sự sùng bái của chúng ta hoặc chúng ta phá huỷ chính chúng ta” (Der Will zur Macht, III) Chúng ta đã phải trả giá khá đắt cho những “chân lí” thiêng liêng, những sai lầm in physiologicis (Ibid, II) Nietzsche tự coi như bổn phận việc “sửa soạn cho nhân loại một giây phút tuyệt vời trở về chính mình, một buổi giữa ngọ rực rỡ để quay về quá khứ và đưa mắt nhìn về tương lai, để rũ khỏi ách đô hộ của tình cờ và của những giáo sĩ và đặt câu hỏi tại sao và thế nào trong toàn bộ của nó lần thứ nhất, bổn phận này thiết yếu bắt nguồn từ lòng xác tín rằng nhân loại tự mình đã không đi theo đúng chính đạo, đã không được điều động bởi một thần tính mà trái lại đã để bị lôi cuốn và chế ngự bởi một bản năng tiêu cực, hư hỏng, bởi bản năng suy đồi mà nhân loại đặt lên hàng những giá trị tối thiêng liêng” (Ecce Homo, III, 2), vì thế “sự khôn ngoan xuất hiện trên trái đất này từ xưa tới này như một con quạ khoang bị hấp dẫn bởi mùi tử khí”, hay cũng có thể nói như một con cú vọ chuyên soi mói những khía cạnh đen tối cuộc đời và thốt lên những tiếng bi ai. Đó là sự khôn ngoan của tinh thần nặng nề, tìm sự giải thoát bằng cách tiêu diệt ý chí sống. Nietzsche gây chiến chống lại chủ trương tiêu cực mệt mỏi đó. Kết quả của nỗ lực bền bỉ, can đảm, cứng cỏi, âm thầm này là sự hân hoan hay “tri thức hân hoan” theo ngôn ngữ Nietzsche. “Kẻ nào trèo lên núi cao, kẻ ấy tự cười mọi bi kịch giả tạo hay có thực.” Trên bàn thờ những giá trị mới, tiếng cười chiến thắng đã thay thế tiếng thở dài đầu hàng. “Tôi đã phong thánh tiếng cười, hỡi những con người siêu đẳng, hãy học cười!”. Bằng tiếng cười hồn nhiên ròn rã, chúng ta quét sạch mọi thần tượng trang trọng đăm chiêu và đón chào một thế giới tinh khôi rực rỡ.
Nguyễn Hữu Hiệu
Vạn Hạnh, 26-09-1971
Khai từ
Duy trì được sự thanh thản giữa một sự vụ u sầu và có thể biện minh quá độ chừng đâu phải là một nghệ thuật không đáng kể: tuy nhiên có điều gì cần thiết hơn thanh thản chăng? Chẳng việc gì thành công nếu lòng hăng hai chẳng tham dự vào. Chỉ có sự thặng dư của sức mạnh mới là bằng chứng của sức mạnh. Đảo hoán mọi Giá Trị, dấu hỏi quá đen, quá lớn hắt bóng tối lên kẻ đặt ra nó, -định mệnh của một công việc như vậy buộc người ta từng giây phút phải lao thẳng vào mặt trời, rũ bỏ vẻ trang nghiêm đã đè ta quá nặng. Tất cả mọi phương tiện đều được biện minh, mọi “cơ hội” đều là cơ hội tốt. Trên tất cả, chiến tranh. Chiến tranh luôn là sự minh mẫn thận trọng ghê gớm của tất cả những tinh thần đã trở nên quá chuyên tâm, của tất cả những tinh thần đã trở nên quá thẳm sâu; khả năng chữa trị đã nằm ngay trong vết thương. Một câu phương ngôn mà xuất xứ tôi cố tình dấu nhẹm óc tò mò trí thức, từ lâu đã trở thành phương châm của tôi:
increscunt animi, virescit volnere virtus [1]
Một hình thức chữa trị khác, trong một vài trường hợp còn thích hợp với tôi hơn nữa, đó là thăm dò những thần tượng… Trên thế giới có nhiều thần tượng hơn là thực tại: đó là “ác nhãn” của tôi đối với thế giới này, đó cũng là “ác nhĩ” của tôi nữa… Ở đây đặt ra những câu hỏi với một chiếc búa và có thể nhận được như một hồi âm cái âm thanh trống rỗng thốt lên tự lòng hiu hiu tự đắc - thích thú thay cho kẻ nào có một đôi tai khác nữa sau đôi tai của mình, - đối với tôi, một tâm lý gia và một kẻ đánh bẫy chuột cố cựu, trước sự hiện diện của kẻ đó quả thực những gì muốn thủ khẩu như bình cũng phải thốt lên tiếng nói…
Cả cuốn sách này nữa - nhan đề đã bộc lộ nội dung - trước hết là một sự giải trí, một chấm ánh sáng, một cuộc đào thoát vào những giờ nhàn rỗi của một tâm lý gia. Có thể còn là một cuộc chiến tranh mới nữa? Và biết đâu có thể bắt được quả tang những bí mật của những thần tượng mới?... Cuốn tiểu luận này là một cuộc khai chiến vĩ đại; còn về vấn đề nhằm thăm dò những thần tượng, lần này không phải là những thần tượng thời đại mà là những thần tượng vĩnh cửu ở đây sẽ bị đụng chạm đến bằng một chiếc búa như thể bằng cái âm thoa - cuối cùng không còn những thần tượng cổ kính nữa… Cũng không còn những thần tượng trống rỗng nữa… Nhưng điều đó không ngăn cản được người ta tin tưởng nhất; cũng như không ngăn cản người ta, ngay cả trong những trường hợp cao quí nhất, không gọi là thần tượng nữa…
Turin, 30 tháng Chín, 1888, ngày hoàn tất cuốn sách đầu tiên của Cuộc đảo hoán mọi Giá Trị [2]
Friedrich Nietzsche
Châm ngôn và tên nhọn
1.
Nhàn cư là khởi đầu của tất cả mọi tâm lý học. Sao? tâm lý học có thể là… một tật xấu?
2.
Ngay cả kẻ can đảm nhất trong chúng ta cũng ít khi có đủ can đảm khẳng định điều hắn thực sự biết.
3.
Để sống một mình người ta phải là một con vật hay một thần thánh - Aristote nói như vậy. Còn có trường hợp thứ ba nữa: người ta phải vừa là thú vật vừa là thần thánh - đó là triết gia.
4.
“Tất cả mọi chân lý đều đơn giản.”- Đó không phải là một lời dối trá phức tạp sao?
5.
Nói một lần dứt khoát, có nhiều điều tôi không muốn biết. - Minh triết vạch ra những giới hạn, ngay cả đối với hiểu biết.
6.
Chính vì trong bản chất của người ta có chất man rợ mà người ta có thể khôi phục lại được sự ác tà của mình, tôi muốn nói tâm linh tính…
7.
Sao? Con người chỉ là một sự nhầm lẫn của Thượng Đế hay Thượng Đế chỉ là một sự nhầm lẫn của con người?
8.
Trường chiến tranh của đời.- Cái gì không giết tôi khiến tôi mạnh mẽ hơn.
9.
Hãy tự giúp mình: rồi tất cả sẽ trợ giúp mình. Nguyên tắc bác ái của Kitô giáo.
10.
Chúng ta đừng hèn nhát trước những hành động của chúng ta! Chúng ta đừng bỏ rơi chúng ta trong cơn bối rối! - Sự hối hận của lương tâm là điều khiếm nhã.
11.
Con lừa có thể bi thảm không? - Bị đè bẹp dưới một gánh nặng mà người ta không thể mang cũng không thể quẳng đi?... Trường hợp của triết gia.
12.
Nếu người ta - thủ hữu câu hỏi tại sao của cuộc đời, người ta sẽ quen với bất cứ câu hỏi thế nào nào - Con người không khát vọng hạnh phúc; chỉ có người Ăng Lê làm vậy thôi.
13.
Người đàn ông đã tạo ra người đàn bà - nhưng bằng gì vậy? Bằng xương sườn Thượng Đế của hắn, - bằng lý tưởng của hắn…
14.
Sao? Bạn đang tìm kiếm gì? Bạn muốn nhân bạn lên một chục lần? Một trăm lần? Bạn tìm kiếm những kẻ theo mình? - Tìm hư không! [3]
15.
Những con người sống lại sau khi đã chết [4] - như tôi chẳng hạn - ít được hiểu hơn những người sống phù thời, nhưng họ được người ta lắng nghe chăm chú hơn. Nói rõ hơn: chúng ta không bao giờ được hiểu cả - và đó chính là quyền uy của chúng ta.
16.
Giữa đám quần thoa. - “Chân lý! Ồ! Chị không biết chân lý là gì rồi! Nó chẳng phải là một toan tính xâm phạm pudeur [5] của chúng ta sao?
17.
Đây là một nghệ sĩ, như những nghệ sĩ tôi yêu, đơn giản trong nhu cầu: hắn thực sự cần có hai điều: bánh mì và nghệ thuật của hắn, - panem et Circen…
18.
Kẻ nào không biết đặt ý chí của mình vào sự vật, muốn ít nhất đặt vào trong đó một ý nghĩa: điều đó khiến hắn tưởng trong đó đã hàm chứa một ý chí (nguyên tắc “tin tưởng”).
19.
Sao? Bạn đã chọn đức hạnh và tâm hồn cao thượng đồng thời lại ghen ghét nhìn lợi lộc của những kẻ thô lỗ phóng tâm trục vật? Nhưng với đức tính người ta khước từ “lợi lộc” mà… (để viết trên cửa nhà những kẻ bài Do Thái).
20.
Một người đàn bà hoàn toàn xúc phạm văn chương cũng như nàng phạm một tội lỗi nhỏ: để thử chơi, trong khi quay đầu lại ngó xem ai có để ý không, và để cho một người nào đó để ý…
21.
Phải đặt mình vào những hoàn cảnh trong đó người ta không được có những đức tính giả hình, nhưng trong những hoàn cảnh ấy, tựa như một người múa trên dây hoặc là người ta té hoặc đứng thẳng hoặc từ bỏ…
22.
“Những người độc ác không biết hát”. Vậy thì tại sao những người Nga lại biết hát?
23.
“Tinh thần Đức”: từ mười tám năm nay [6] là một contradictio in adjecto [7] .
24.
Vì muốn tìm nguồn gốc khởi nguyên, người ta trở thành một con tôm [8] . Nhà sử học nhìn lại đằng sau: cuối cùng ông ta tin tưởng vào phía sau.
25.
Sự thoả mãn bảo vệ người ta khỏi ngay cả sự cảm lạnh. Một người đàn bà biết mặc áo quần đầy đủ có cảm lạnh không nhỉ? - Tôi giả thiết trường hợp nàng mặc quần áo mong manh.
26.
Tôi hồ nghi tất cả những người muốn thiết lập hệ thống và tránh xa họ. Ý muốn lập hệ thống là sự thiếu ngay thẳng thanh liêm.
27.
Người ta nói rằng người đàn bà sâu sắc - tại sao? Bởi vì người ta không bao giờ tới được đáy sâu của họ. Người đàn bà không hời hợt nữa.
28.
Khi người đàn bà có những đức tính đàn ông, người ta lảng tránh nàng, và nếu nàng không có những đức tính ấy, nàng sẽ chạy trốn chính nàng.
29.
Trước kia lương tâm phải cắn nhiều xiết bao! Nó có bộ răng tốt biết mấy! Và ngày nay? Có chuyện gì trục trặc xảy ra? - Vấn đề của nha sĩ.
30.
Ít khi người ta phạm nguyên chỉ một lỗi lầm khinh xuất. Với lỗi lầm khinh xuất đầu tiên, người ta luôn làm quá. Chính vì lý do đó, người ta thường phạm lỗi thứ hai - và bây giờ thì lại quá ít.
31.
Khi bị giẫm chân lên, con con sâu sẽ cuộn mình lại. Đó là tính thận trọng khôn ngoan. Bằng cách đó nó giảm dần tai hoạ bị giẫm lên trên lần nữa. Nói theo ngôn ngữ đạo đức: lòng khiêm tốn.
32.
Sự ghét dối trá và che đậy có thể khởi lên từ quan niệm thái quá về danh dự; sự khinh ghét tương tự có thể khởi lên từ lòng hèn nhát, vì sự dối trá bị cấm bởi luật thiêng liêng. Quá hèn nhát để nói dối…
33.
Cần ít biết chừng nào để được hạnh phúc! Tiếng sáo mục tử. - Không âm nhạc cuộc đời sẽ là một lỗi lầm. Người Đức còn tưởng tượng ngay cả Thượng Đế như một người đang ca hát nữa.
34.
On ne peut penser et écrire qu’assis [9] (G. Flaubert) - Thế là ta tóm được ngươi rồi, kẻ theo hư vô chủ nghĩa! Ngồi đúng là phạm tội với Thánh Linh. Chỉ có những tư tưởng đến với ta khi đang bước đi mới có giá trị mà thôi.
35.
Có những trường hợp chúng ta giống như những con ngựa, chúng ta, những tâm lý gia, và chúng ta trở nên bồn chồn sợ hãi: chúng ta nhìn thấy bóng chúng ta chập chờn trước mặt mình. Tâm lý gia phải quay mặt đi đừng nhìn mình để có thể nhìn thấy tất cả.
36.
Chúng ta có gây tổn thất gì cho đức hạnh không, chúng ta những kẻ vô luân? - Cũng ít như những kẻ vô chính phủ làm hại những ông hoàng vậy thôi. Chỉ khi nào đã bị bắn rồi họ mới có thể ngồi lại một cách vững vàng trên ngôi. Luân lý: người ta phải bắn bỏ luân lý.
37.
Bạn chạy trước những người khác? - Bạn làm như vậy như một mục tử? Hay như một kẻ ngoại hạng? Trường hợp thứ ba có thể như một kẻ đào ngũ… Câu hỏi thứ nhất của lương tâm.
38.
Bạn chân thật? Hay chỉ là một kẻ đóng trò? Một đại diện? Hay chi rlà một kẻ được đại diện? Cuối cùng có lẽ bạn chỉ bắt chước kẻ đóng trò… Câu hỏi thứ hai của lương tâm.
39.
Kẻ bất mãn nói. - Tôi tìm kiếm những vĩ nhân nhưng bao giờ cũng chỉ tìm thấy con khỉ bắt chước lí tưởng của họ.
40.
Bạn là kẻ ngắm nhìn? Hay một kẻ bắt tay vào công việc? - Hay một kẻ ngó lơ quay đi chỗ khác… Câu hỏi thứ ba của lương tâm.
41.
Bạn muốn đi chung cùng bạn hữu? Hay dẫn đầu? Hoặc đi riêng lẻ một mình?... Người ta phải biết mình muốn gì và phải biết rằng mình muốn. - Câu hỏi thứ tư của lương tâm.
42.
Đối với tôi chúng chỉ là những bậc thang và tôi đã bước lên chúng - do đó tôi phải vượt qua chúng. Nhưng chúng lại tưởng rằng tôi muốn ngồi lên chúng.
43.
Có quan hệ gì việc tôi giữ lẽ phải! Tôi có quá nhiều lẽ phải. - Và kẻ nào cười nhiều hôm nay cũng sẽ là kẻ cười cuối cùng.
44.
Định thức hạnh phúc của tôi: một tiếng ừ, một tiếng không, một con đường thẳng, một mục tiêu…
Vấn đề Socrate
1.
Bàn về cuộc đời, những kẻ khôn ngoan nhất của mọi thời đại đều đưa ra một phán đoán tương tự như nhau: cuộc đời vô giá trị… Bất cứ ở đâu và bao giờ cũng vậy người ta đều nghe thấy câu nói đó thốt ra từ miệng họ. - Một câu nói đầy nghi ngờ, đầy phiền não, đầy chán chường cuộc đời, đầy khinh miệt cuộc đời. Ngay cả Socrate cũng nói lúc lâm chung: “Sống - là đau bệnh một thời gian lâu dài: Ta nợ đấng cứu nhân độ thế Esculape một con gà [10] ” Ngay cả Socrate cũng chán mứa cuộc đời. - Điều đó chứng tỏ gì? Điều đó muốn trỏ cái gì?- Ngày xưa có lẽ người ta sẽ nói (- Ồ, người ta đã nói rồi và nói khá lớn, nhất là những kẻ bi quan của chúng ta): “Chắc chắn phải có một cái gì chân thực ở đây! Consensus sapientium [11] là bằng chứng của chân lý.” – Ngày hôm nay chúng ta sẽ còn nói như thế không? Chúng ta còn được phép làm thế không? “Chắc chắn phải có một cái gì bệnh hoạn ở đây” - đó là câu trả lời của chúng ta. Những kẻ khôn ngoan nhất của mọi thời đại, ta phải nhìn họ thật gần! Có thể tất cả những người đó chân không còn đứng vững? Chậm trễ? Run rẩy? Décadents [12] biết đâu? Có lẽ sự khôn ngoan xuất hiện trên trái đất này như một con quạ khoang bị hấp dẫn bởi mùi tử khí?
2.
Quan niệm bất kính cho rằng những bậc hiền nhân vĩ đại là những mẫu sa đoạ [13] khởi lên trong tôi chính trong trường hợp trong đó thành kiến bác học và thành kiến vô học đối chọi nhau kịch liệt: tôi nhận ra Socrate và Platon như những triệu chứng suy đồi, như những công vụ của sự băng hoại của Hy Lạp, như những kẻ nguỵ Hy Lạp, như những kẻ bài Hy Lạp (Sự khai sinh của bi kịch, 1872). Sự consensus sapientium - như càng ngày tôi càng thấy rõ - chẳng chứng tỏ một chút nào rằng họ có lý về điều mà họ đồng ý với nhau: nó chỉ chứng tỏ rằng chính họ, những kẻ khôn ngoan nhất, một cách nào đó về phương diện sinh lý, họ tương tự như nhau để có cùng một thái độ như nhau đối với cuộc đời - để bắt buộc phải có thái độ đó. Sau hết, những phán đoán và những thẩm định giá trị về cuộc đời, dù tán dương hay chống lại, đều không thể đúng được: giá trị đích thực của chúng nằm trong sự kiện chúng là những triệu chứng; chúng chỉ có thể được coi như là triệu chứng mà thôi - trong tự thể những phán đoán này là những điều xuẩn ngốc. Chúng ta phải cố gắng bằng mọi cách để lãnh hội sự tế nhị siêu phàm này là giá trị của cuộc đời không thể thẩm định được [14] . Không thể thẩm định được bởi một người còn sống, bởi hắn là thành phần, là đối tượng của chính cuộc tranh luận nữa, chứ không phải là quan toà; cũng không thể bởi một người đã chết vì một lý do khác. - Về phần một triết gia, nhìn một vấn đề trong giá trị của cuộc đời, là một vấn nạn chống lại chính hắn, một dấu hỏi về sự khôn ngoan của hắn, một sự thiếu khôn ngoan [15] nữa - Sao? Tất cả những người khôn ngoan vĩ đại này - không những họ là những décadents mà họ còn không khôn ngoan nữa sao? - Nhưng tôi xin trở lại vấn đề Socrate.
3.
Xét về nguồn gốc, Socrate thuộc về đẳng cấp thấp hèn nhất: Socrate thuộc dòng hạ lưu. Người ta biết, người ta có thể thấy ông ta xấu xí biết chừng nào nữa. Nhưng sự xấu xí tự nó đã là một vấn nạn, hầu như là một bác luận nơi người Hy Lạp. Socrate có đúng là người Hy Lạp không? Sự xấu xí thường là dấu hiệu của một sự phát triển bị ngăn chặn, một sự phát triển bị cản trở bởi sự pha giống. Trong trường hợp khác, nó hiện ra như một sự phát triển suy đồi. Những nhà nhân chủng học chuyên khảo về tội ác học tuyên bố rằng kẻ tội phạm đặc trưng xấu xí: monstrum in fronte, monstrum in animo [16] . Nhưng kẻ tội phạm là một kẻ décadent [17] . Socrate có phải là một kẻ tội phạm đặc trưng không? - Dù sao điều đó cũng không trái ngược với ý kiến của nhà chuyên coi tướng mạo, ý kiến khiến bằng hữu của Socrate tức giận. Trong khi đi qua thành Nhã Điển, một người ngoại quốc biết coi tướng mặt đã nói thẳng vào mặt Socrate rằng ông ta chỉ là một quái vật, ông ta chứa dấu trong mình tất cả những tật xấu và những khát vọng đồi bại. Và Socrate chỉ đáp: “Thưa ông, ông biết tôi rõ lắm”.
4.
Không những sự hoang đàng và hỗn loạn của bản năng chỉ sự décadence nơi Socrate: mà sự bội dư của những khả năng luận lý, và sự độc ác méo mó còn là những đặc tính nổi bật nơi ông ta nữa. Chúng ta đừng quên rằng những ảo tưởng thính giác, dưới danh từ “con quỷ của Socrate”, được diễn giải theo một ý nghĩa tôn giáo. Tất cả mọi sự nơi ông ta đều quá đáng, hài hước, hoạt kê, đồng thời đều dấu diếm, có ẩn ý, tà khuất. Tôi cố gắng tìm hiểu xem đặc tính nào đã có thể khai sinh ra cái phương trình Socrate này: lí trí = đức hạnh = hạnh phúc: cái phương trình quái gở nhất, và đặc biệt, nghịch lại tất cả mọi bản năng Hy Lạp xưa.
5.
Với Socrate, thị hiếu Hy Lạp biến đổi theo chiều thuận lợi cho biện chứng pháp: thực ra điều gì đã xảy ra? Trước hết, thị hiếu cao nhã đã biến mất; với biện chứng pháp, đám hạ lưu len chân tới thượng đỉnh. Trước Socrate, những lề lối biện chứng bị khai trừ trong xã hội thượng lưu: chúng bị coi như những kiểu cách xấu xa, chúng có tính cách thoả hiệp bình dân. Thanh niên được cảnh giác lánh xa. Người ta còn nghi kị cả những kẻ trình bầy lý lẽ của mình. Những sự việc lương thiện cũng như những con người lương thiện không mang phơi trần những lý lẽ của mình cách ấy. Phơi bầy cái tốt lành của mình là điều vô phép. Cái cần phải chứng rỏ không có giá trị bao nhiêu. Bất cứ nơi nào mà uy quyền hãy còn thuộc tập tục tốt, bất cứ nơi nào mà người ta không “luận lý” mà chỉ ra lệnh, thì nhà biện chứng pháp là một thứ hề: hắn bị chế nhạo, hắn không được coi trọng. Socrate là tên hề thành công trong việc bắt người khác coi mình là trọng: vậy thì chuyện gì đã thực sự xảy ra?
6.
Người ta chỉ chọn biện chứng pháp khi nào không còn cách nào khác. Người ta biết rằng biện chứng pháp gây ra nghi ngờ, rằng nó không hùng hồn lắm. Không có gì dễ xoá bỏ hơn hiệu quả biện chứng: sự kiện này được chứng minh trong những cuộc hội thảo. Nó chỉ có thể là sự tự vệ cuối cùng của những người không có khí giới. Người ta phải dành giật quyền hành của mình: nếu không, người ta không dùng đến nó. Đó là lý do tại sao, những người Do Thái đều là những nhà biện chứng; Lão Cáo- già [18] là nhà biện chứng: sao vậy? Socrate cũng là một nhà biện chứng sao?
7.
Sự hài hước của Socrate là một biểu lộ của phản kháng? Của lòng hờn oán của đám hạ lưu? Ông ta có thích thú nếm mùi tàn bạo của chính mình trong mũi dao nhọn của tam đoạn luận, như một kẻ bị áp chế không? Ông có trả thù những người quí phái ông dụ hoặc không? - Là một nhà biện chứng, người ta nắm trong tay một khí cụ tàn nhẫn; với sự trợ giúp của nó người ta có thể làm một bạo chúa; người ta thoả hiệp trong khi chiến thắng. Nhà biện chứng để nó lại cho địch thủ để chứng tỏ rằng hắn không phải là một tên ngốc: hắn làm người ta nổi điên và đồng thời trở nên bơ vơ không nơi nương tựa. Nhà biện chứng bất lực hoá trí tuệ đối thủ. Sao? Biện chứng pháp chỉ là một hình thức trả thù trong trường hợp Socrate?
8.
Tôi đã cho thấy bằng cách nào Socrate có thể làm người ta xa lánh: bây giờ điều quan trọng nhất là giải thích sự kiện ông ta đã mê hoặc cách nào. Ông ta đã khám phá ra một nghệ thuật chiến đấu mới, ông ta là kiếm sư đầu tiên của những giới quí tộc ở Nhã Điển, đó là lý do thứ nhất. Ông ta mê hoặc bởi ông ta khêu gợi những bản năng hiếu chiến của người Hy Lạp, - ông ta đã đưa vào trường đô vật giữa người lớn và thanh niên một sự thay đổi. Socrate còn là một người đại dâm đãng.
9.
Nhưng Socrate còn tiên đoán nhiều cái khác nữa. Ông ta nhìn thấu suốt những nhà quí phái Nhã Điển; ông ta thấy rằng trường hợp của ông ta, trường hợp riêng của ông ta, chẳng phải là trường hợp ngoại lệ phi thường, ngay cả trong thời đại ông ta. Sự suy đồi tương tự thầm lặng sửa soạn ở khắp nơi: thành Nhã Điển cổ kính đang hấp hối. Và Socrate hiểu rằng toàn thể thế giới cần ông ta - cần phương thuốc, cách chữa trị, phương thức tự bảo tồn đặc biệt của ông ta. Ở khắp nơi, những bản năng đều ở trong tình trạng hỗn loạn; khắp nơi người ta chỉ cách xa sự thái quá có một bước: monstrum in animo là hiểm hoạ chung. “Bản năng muốn đóng vai bạo chúa chuyên chế; cần phải tạo ra một phản bạo chúa mạnh hơn”… Khi nhà chuyên coi tướng mạo đã cho Socrate thấy con người thực của ông ta, một miệng núi lửa đầy rẫy mọi khát vọng xấu xa, nhà đại hài hước này đã thốt ra một câu cho chúng ta một cái chìa khoá mở vào bản chất của ông ta. “Điều đó đúng, nhưng tôi đã chế ngự được tất cả.” Bằng cách nào Socrate đã tự chủ được chính mình? Trường hợp của ông ta, rốt cuộc cũng chỉ là trường hợp thái quá, một thí dụ rõ rệt nhất của một trạng thái tuyệt vọng đang bắt đầu trở thành phổ quát: không ai còn có thể tự làm chủ mình nữa, những bản năng đang trở nên chống đối lẫn nhau. Ông ta cám dỗ vì là thí dụ thái quá của trạng thái này - sự xấu xí khủng khiếp của ông ta khiến mọi mắt nhìn đều tỏ rõ: ông ta còn cám dỗ hơn nữa, điều đó tự nhiên, như một câu trả lời, như một phương sách, như một cách chữa trị hiển nhiên của trường hợp này.
10.
Khi người ta thấy cần phải biến lí trí thành một bạo chúa chuyên chế, như Socrate đã làm, thì hiểm hoạ một cái gì khác cũng muốn thủ vai bạo chúa chuyên chế không phải là nhỏ. Chính lúc đó lí trí được khám phá như một đấng cứu thế. Cả Socrate lẫn những “kẻ bệnh hoạn” không được tự do chọn có lí hay không có lí: điều đó tính cách de rigueur, đó là phương thuốc cuối cùng của họ. Sự cuồng tín mà toàn thể tư tưởng Hy Lạp nhào vào lí trí tố cáo một tình trạng khẩn trương: như người ta đang trong cơn hiểm hoạ, người ta chỉ có một sự lựa chọn duy nhất: hoặc là chìm đắm tận đáy hoặc - lí trí một cách phi lí… Chủ trương đạo đức của những triết gia Hy Lạp từ Platon bị điều kiện hoá của một cách bệnh hoạn; sự thẩm định về biện chứng pháp của họ cũng vậy. Lí trí = đức hạnh = hạnh phúc chỉ có nghĩa: người ta phải bắt chước Socrate và đương đầu với những đam mê đen tối bằng cách thường trực tạo ra ánh sáng ban ngày - ánh sáng lí trí. Phải thận trọng, sáng sủa, minh bạch bằng mọi giá: tất cả mọi nhượng bộ cho bản năng, vô thức đều đưa xuống dốc…
11.
Tôi đã cho thấy cách mà Socrate cám dỗ: ông ta có vẻ là một thầy thuốc, một đấng cứu thế. Có cần phải vạch ra sự sai lầm trong niềm tin vào “lí trí với bất cứ giá nào” của ông ta nữa không? - Đó là một sự tự lừa dối về phía những triết gia và những nhà luân lí khi họ tin tưởng rằng họ thoát ra khỏi sự décadence bằng cách gây chiến với nó. Điều đó ở trên khả năng của họ: cái họ chọn lựa như một phương thuốc, như một phương tiện cứu chuộc, lại chỉ là một sự biểu lộ khác của sự décadence - họ chỉ thay đổi cách biểu lộ của nó, chứ họ không huỷ bỏ được chính nó. Socrate là một sự ngộ nhận; toàn thể luân lí nhằm cải thiện, kể cả luân lí Kitô giáo là một sự ngộ nhận… Ánh sáng chói lọi nhất, lí trí với bất cứ giá nào, đời sống minh bạch, lạnh lùng, thận trọng, ý thức, không phải bản năng, chống lại bản năng, chỉ là một sự bệnh hoạn, một thứ bệnh hoạn mới - chứ không phải là một sự trở về “đức hạnh”, “sức khoẻ”, hạnh phúc… Bắt buộc phải chiến đấu chống lại bản năng - đó là định thức của sự décadence: chừng nào mà cuộc đời còn đi lên thì hạnh phúc và bản năng đồng nhất.
12.
Tự ông ta có hiểu điều đó không, ông ta, người thận trọng nhất trong những kẻ tự lừa dối mình? Ông ta có tự thú nhận với mình vào giây phút cuối cùng, trong sự khôn ngoan của lòng can đảm trước cái chết không?... Socrate muốn chết: - Không phải Nhã Điển mà chính là ông ta tự trao cho mình chén thuốc độc… “Socrate không phải là thầy thuốc”, ông ta thầm nhủ: “Chỉ có cái chết mới là thầy thuốc ở đây… Chỉ có Socrate mới đau một cơn đau dài…”
--------------------------------------------------------------------------------
[1]Tinh thần lớn mạnh, sức khoẻ gia tăng bởi vết thương - Ghi chú của Dịch giả (G.c.D.)
[2]Tức Kẻ chống Chúa - (G.c.D.)
[3]Suche Nullen! “Nullen” có nghĩa là không ai cả, số không và đồng thời cũng có nghĩa là Hư không. - (G.c.D.)
[4]Posthume menschen. Nietzsche thường tự coi mình như một con người sống phi thời gian (unzeitghe mäss), trên thời gian, độc lập với thời đại, sống như một cái bóng trong lúc sinh thời và chỉ hồi sinh, sống động sau khi đã chết đi. Con người thuộc về tương lai, sống cho và sống với thế hệ mai hậu. CT. “Những suy tưởng phi thời” (Unzeitgemässe Betrachtungen). - G.c.D.
[5]Pháp văn trong nguyên bản: “Ist sie nicht ein Attentat auf alle unsre pudeurs?”: “Nó không phải là sự xâm phạm tiết hạnh của chúng ta sao?” - G.c.D.
[6]Kể từ ngày thành lập Reich (Đế Quốc)
[7]Trái ngược về thời gian
[8]Có lẽ phải viết: “Vì muốn tìm về nguồn gốc khởi nguyên, người ta trở thành một con cua”. Nhưng Nietzsche viết: “Damit, dass man nach den Anfăngen sucht, wird man Krebs” - G.c.D.
[9]Pháp văn trong nguyên bản: “Người ta chỉ có thể suy tưởng và viết khi ngồi.” - G.c.D.
[10]Esculape hay Asklêpios viết theo tiếng Hy Lạp, là Thần Y thuật hay tổ sư nghề thuốc.
[11]La văn: sự đồng ý của những kẻ khôn ngoan. “Der consensus sapientium beweist die wahrrheit”: “Sự đồng ý của những kẻ khôn ngoan là bằng chứng của chân lý.”
[12]Pháp văn trong nguyên bản: suy đồi, một trong những khai ngữ của Nietzsche, chỉ những kẻ bi quan, hướng vọng quá khứ, Thiên Đàng, Thượng Đế và tuyệt vọng - G.c.D.
[13]Niedergangs – Typen - G.c.D.
[14]der Wert des Lebens nicht abgeschätzt werden kann.
[15]Nietzsche công kích Engène Dühring, tác giả Giá trị của cuộc đời - G.c.D.
[16]La văn trong nguyên tác: một quái vật trên nét mặt, một quái vật trong linh hồn.
[17]Nietzsche phân biệt hai thứ tội phạm, một thứ tội phạm vì dũng mãnh, một thứ tội phạm vì yếu hèn. Do đó có một thứ tội phạm phẩm cách cao nhã, một thứ tội phạm đáng kinh tởm. Ở đây nói về loại thứ hai, trong khi ở đoạn 45, chương “Những cuộc viễn hành của con người phi thời” đề cập tới loại thứ nhất. - G.c.D.
[18]Reineke Fuchs - G.c.D.
Nguồn: Hồng Hà in lần thứ nhất tại Sài Gòn năm 1971.
Gérard de Nerval - Mùi hương xuân sắc (4)
Gérard de Nerval
Mùi hương xuân sắc
Bùi Giáng dịch
XII. Cha Dodu
Tôi sắp trả lời, tôi sắp quỳ xuống bên chân nàng, tôi sắp xin đem dâng tặng nàng ngôi nhà cậu tôi, ngôi nhà tôi có thể chuộc lại được, bởi vì bọn thừa kế chúng tôi đông, và di sản nọ thì còn công hữu; nhưng lúc đó chúng tôi đã về tới Loisy mất rồi. Bữa ăn tối đang chờ chúng tôi. Nồi “xúp” nấu hành bốc mùi hương mộc mạc. Nhiều bạn láng giềng được mời tới dự tiệc của ngày đưa tiễn buổi hội đi. Tôi bỗng nhận ra ngay một ông tiều phu già, cha Dodu đó, chính ông ngày xưa đã kể cho chúng tôi nghe giữa đêm khuya những chuyện cổ tích thật vui hoặc thật khủng khiếp. Hết làm nghề mục phu, đưa tin tức, kiểm lâm, ông lại đi chài cá, đi săn trộm thú rừng; cha Dodu, trong những giờ rỗi rảnh cũng đã từng chế tạo những chiếc xe bò hai bánh và những cái máy quáy thịt. Trong một thời gian khá lâu, ông chuyên làm cái việc đưa dẫn người Anh Cát Lợi đi du lãm vùng Ermenonville, ông dắt họ tới nơi xưa kia Rousseau từng đã tới chiêm niệm, suy tưởng, ông kể lại cho họ nghe những ngày cuối cùng của đời triết gia nọ. Chính ông xưa kia là thằng bé được vị triết gia nuôi để làm cái công việc là sắp đặt, chia loại các thứ hoa cỏ của mình, chính ông ta là kẻ đã được vị triết gia sai đi ngắt những nhánh độc cần đem về vắt nước vào ly cà phê sữa. Chủ quán La Croix d’Or không thừa nhận là sự vụ đó có thật; từ đó nảy ra những oán thù kéo dài dậm duộc. Xưa kia người ta cũng có trách cha Dodu có sở hữu một vài bí ẩn vô tội, như là: chữa lành bệnh bò cái bằng một vài tiết kinh Thánh đọc lộn ngược, hoặc bằng một câu thơ đọc theo lối nói lái, hoặc dùng bàn chân trái mà ra dấu thập giá; nhưng từ lâu ông đã thôi không giở những trò quỷ dị đó nữa - ấy là nhớ kỷ niệm, theo ông nói, nhờ kỷ niệm những buổi trò chuyện của ông Jean-Jacques Rousseau.
“A! Chú đó ư, chú bé Parisien kẻ chợ! Chú tới đây mục đích là gieo mầm hư hỏng cho gái miền này? – Tôi ấy à, cha Dodu sao lại nói kỳ cục thế? – Chú dẫn bọn con gái vào rừng những khi chó sói không lang thang trong đó? - Cha Dodu ôi, chính cha mới thật là một con sói già đấy nhé. – Ta là sói chừng nào mà ta tìm ra được cừu gái tơ; nay ta chỉ còn gặp những con dê cái mà thôi, mà dê cái thì chúng biết lối tự vệ thực là tài. Nhưng còn các chú, các chú là bọn tinh ranh quỷ quái Paris. Ông Jean-Jacques Rousseau nói thật là có lý: “Con người ta hư hỏng tính tình trong bầu không khí nhiễm độc đô thị phồn hoa.”
"Cha Dodu ơi, cha cũng biết quá rõ là con người ta thì hư hỏng khắp chốn chốn nơi nơi.”
Cha Dodu bèn cất giọng ngâm một điệu ca nhậu nhẹt; người ta cố sức ngăn ông để ông chịu dừng lại, đừng có dấn tới cái đoạn tục tĩu trong bài ca, mà ai ai cũng thuộc lòng cả. Nhưng vô ích. Ông ồ ề buông tuồng hát tuốt hết. Chúng tôi yêu cầu cô Sylvie hát, cô từ chối, bảo rằng: ở bàn ăn, không ai hát bao giờ. Tôi đã có để ý thấy anh chàng si cô, gặp đêm trước, nay được ngồi cạnh cô, phía bên trái. Hình như có cái gì đó trong khuôn mặt anh ta, khuôn mặt tròn vo, có cái gì đó trong đầu tóc rối bơ phờ, coi có vẻ quen quen. Anh ta đứng lên, tới phía sau chiếc ghế tôi ngồi, nói: “Chú không nhận ra được tôi sao, chú Parisien?” Một người đàn bà, vừa trở vào phòng lúc ăn dessert, sau khi đã loay hoay dọn tiệc cho chúng tôi, lại gần ghé vào tai tôi nói nhỏ: “Cậu không nhận ra người anh em bạn sữa của cậu sao?” Nếu không có lời nhắc nhở đó, ắt tôi đã ngu ngơ lố bịch mất rồi. “A! Anh đó ư! Chàng cao tóc quăn! Tôi thốt, chính anh rồi, chính cái chàng đã kéo tôi ra khỏi cơn niết nước!” Sylvie cười rộ lên. Đó là không kể, chú ta hôn tôi và nói, không kể cái sự việc này: thuở đó, chú có một cái đồng hồ trái quít bằng bạc thật đẹp, và lúc quay về nhà, chú lo lắng cho cái đồng hồ đó nhiều hơn lo lắng cho thân chú, bởi vì cái đồng hồ đó đã ngừng chạy. Chú nói: “Con thú vật nó chếết đuốốối rồi, nó không kêu tích tắc nữa, cậu sẽ ngầy ngà tôi…”
"Một con thú vật ở trong một cái đồng hồ trái quít!" Cha Dodu nói, "đó đó, người ta bày dạy cho con trẻ như rứa đó ở Paris!"
Sylvie buồn ngủ, tôi nhận thấy rằng tôi chẳng còn chiếm giữ chút gì trong trí óc nàng nữa. Tôi bị mất tích rồi. Nàng lên phòng, và trong lúc tôi hôn nàng, nàng nói: “Ngày mai, anh ghé lại chơi!”
Cha Dodu ở nán lại bàn tiệc với Sylvain và anh em bạn sữa của tôi; chúng tôi nói chuyện rất lâu, quanh một chai rượu thuốc. “Con người ta bình đẳng, cha Dodu nói giữa hai khúc ca ngâm, ta uống rượu với một gã làm bánh ngọt, cũng hệt như ta ngồi yến ẩm với một ông hoàng, bà chúa tiểu thư. – Gã làm bánh ngọt là ai ở đâu? – Hãy nhìn bên cạnh chú thì thấy! Một thằng làm bánh ngọt lại có tham vọng lập gia đình.”
Người anh bạn sữa của tôi có vẻ bối rối. Tôi đã hiểu hết mất rồi. - Thật là một định mệnh tai quái dành cho tôi: có một người anh em bạn sữa tại một vùng lẫy lừng tăm tiến bởi Rousseau – cái người đã chủ trương bãi bỏ tệ đoan kiếm người mẹ vú! – Cha Dodu nói cho tôi biết rằng sự vụ đã thành vấn đề: đám cưới Sylvie với chàng cao tóc quăn, anh chàng có ý định lập nghiệp, dựng một cửa hàng làm và bán bánh ngọt tại Dammartin. Tôi không còn biết dò hỏi chi hơn. Tôi không phải yêu sách ai cái gì nữa nữa. Qua ngày hôm sau, chiếc xe Nanteuil-le-Haudoin chở tôi về trở lại Paris.
XIII. Aurélie
Paris! - Chiếc xe đi có tới năm tiếng đồng hồ. Tôi chỉ gấp về là về tới cho kịp chiều nay. Vào khoảng tám giờ, tôi đã ngồi chững chạc trong căn phòng quen thuộc từ bao. Aurélie reo rắc nguồn tươi vui cảm hứng và vẻ kiều diễm thu hút của mình trên những câu thơ không tuyệt diệu mấy của Schiller. Trong cái xen vườn lá mộng, nàng trở nên tài tình trác tuyệt, phát tiết hết tinh anh. Lớp bốn, nàng sẽ không hiện ra sân khấu, trong thời gian đó, tôi chạy đi mua một đóa hoa tại hàng bà Prévost. Tôi bỏ vào trong đó một lá thư âu yếm, ký tên: một người không quen biết. Tôi tự nhủ: “Đó là một cái gì yên định, gắn kết cho mai sau”, - và qua ngày mai, tôi lên đường đi qua nước Đức.
Tôi qua non nước đó làm chi! Để thử gắng xếp đặt ổn đáng cho những lớp tơ tình. Nếu tôi viết một cuốn tiểu thuyết, ắt chẳng bao giờ tôi có thể làm độc giả chấp thuận một chuyện tình của một trái tim đồng thời si mê hai hồng nhan một lúc. Tôi mất Sylvie là lỗi tại tôi. Nhưng tái ngộ một ngày đã đủ làm cho tinh thần tôi phấn phát; từ nay, tôi sẽ đặt nàng riêng một cõi, như một bức tượng với một nụ cười hiền hậu bao dung, trong điện đại Hà Thánh Khiết Hiền Thanh. Cái nhìn của nàng đã cầm giữ tôi lại trước bờ hố thẳm. Tôi càng xô đuổi mãnh liệt hơn nữa, cái ý tưởng đi tìm hội kiến Aurélie, để mà tranh chấp một phút với bao nhiêu kẻ tầm thường đang yêu nàng, đã sáng chói một lúc ở bên nàng rồi rụng rơi lả tả. Một ngày nào, tôi tự nhủ, một ngày nào ta sẽ biết người thiếu nữ nọ, có hay không có, một trái tim.
Một buổi sáng, tôi đọc nhật báo thấy nói rằng Aurélie lâm bệnh. Tôi viết thư cho nàng, từ những rặng núi tại Salzbourg. Lá thư nhuốm đầy chất thần bí Nhật Nhĩ Man, thì hẳn là tôi không thể mong đợi thành công gì cho lắm, nhưng cũng không đòi hỏi được hồi âm. Tôi đặt niềm tin nơi rủi may ngẫu nhĩ và nơi những kỳ ngộ khôn dò.
Hàng tháng trôi đi. Qua những bận phiêu dạt ngược xuôi, và những giờ rảnh rỗi, tôi đã định ghi tạc trong một vở kịch thơ những ân tình của nhà hội họa Colonna đối với giai nhân Laura, nàng Laura bị cha mẹ đưa vào con đường tu khổ hạnh, nàng Laura mà họa sĩ yêu cho tới lúc chết. Có gì trong sự đó liên can tới những mối triền miên chuyên niệm của tôi. Viết xong câu thơ cuối của vở kịch, tôi chỉ còn nghĩ tới việc quay trở về Pháp.
Còn biết nói chi nữa bây giờ? Nói gì mà không là câu chuyện của bao người? Tôi đã kinh qua hết thảy mọi vần xoay xuôi ngược trong những miền thử thách mà thiên hạ gọi là kịch trường. “Tôi đã ăn vào trong mình tiếng trống chiêng, và uống vào trong mình giọng chũm chọe” như lời nói, hầu như không có nghĩa gì rõ, của những kẻ đã thụ pháp nữ thần Cérès tại Eleusis. Câu đó chắc hẳn là có nghĩa rằng: nếu cần, phải vượt qua biên giới của cái vô nghĩa và lẽ phi lý: cái lý đối với tôi, là: chinh phục và ghi tạc hình bóng lý tưởng của mộng tưởng Lý tôi.
Aurélie đã chấp nhận thủ vai chính trong vở kịch của tôi mang từ nước Đức trở về. Tôi sẽ không bao giờ quên cái ngày nàng cho phép tôi đọc vở kịch cho nàng nghe. Những xen ân tình đều soạn sửa thể theo hồn em đó, thưa em. Tôi tưởng mình đã đọc với hết cả tâm hồn, và nhất là đọc với niềm say mê phấn chấn. Tiếp sau đó, tôi cho nàng rõ: cái người không quen biết trong hai lá thư chính là tôi. Nàng bảo: “Anh thật là điên; nhưng mai kia hãy trở lại thăm tôi nhé… Tôi chả bao giờ gặp được một kẻ biết yêu tôi.”
Ôi người phụ nữ! Em tìm kiếm tình yêu… Còn tôi, ấy vậy?
Những ngày sau đó, tôi viết những lá thư âu yếm nhất đời, những lá thư đẹp nhất mà bình sinh chắc hẳn nàng đã nhận được, có lẽ. Tôi nhận được những lá hồi âm đầy lý tính. Một phen, nàng cảm động, gọi tôi lại gần, và thú thật với tôi rằng khó mà dứt bỏ một niềm luyến ái xưa cũ hơn.
"Nếu quả thật vì tôi mà anh yêu tôi", nàng nói, "thì anh sẽ hiểu rằng tôi tôi chỉ có thể là bạn trăm năm của một kẻ duy nhất mà thôi."
Hai tháng sau, tôi nhận được một lá thư chan chứa. Tôi chạy bay tới nàng. Trong khoảng thời gian hai tháng đó, có kẻ cho tôi biết một chi tiết quý báu. Chàng trai đẹp đẽ mà tôi đã từng gặp một lần tại câu lạc bộ, chàng đó đã đầu vào kỵ binh tại Algérie.
Mùa hè năm sau, có nhiều chuyến xê dịch về Chantilly. Ban kịch sĩ cùng bọn với Aurélie trình diễn tại đó. Theo lệnh người giám đốc ban kịch, bọn kịch sĩ lưu lại Chantilly ba hôm. Tôi may mắn đã quen thân với ông giám đốc này từ trước. Ông có cách điệu của nòi, có “lửa”. Tôi theo ban kịch với danh nghĩa lãnh chúa thi nhân: tôi bàn với viên giám đốc, tôi thuyết phục ông, khuyên ông nên mở nhiều cuộc trình diễn tại Senlis và Dammartin. Ông ta thì có ý chọn quận Compiègne; nhưng Aurélie lại biểu đồng tình với tôi. Qua ngày hôm sau trong khi người ta lo đi điều đình với các nhà chủ cho mướn phòng, với các nhà cầm quyền địa phương, thì tôi lo thuê ngựa, và chúng tôi lên đường theo con lộ về những hồ nước Commelle để đi ăn điểm tâm tại lâu đài bà chúa Bạch. Aurélie, ăn vận theo lối nữ kỵ sĩ, với làn tóc óng ả tung bay, vượt qua rừng trông giống như một nữ chúa thời xưa, và các nông dân dừng lại nhìn, ngây ngất. Bà bá tước F… là người phụ nữ duy nhất họ được thấy, đã có cái phong độ uy nghiêm và kiều lệ tới mức đó, trong cái điệu chào phong vận thế kia… Sau bữa ăn, chúng tôi phi ngựa xuống các thôn làng na ná làng thôn Thụy Sĩ. Tại đây giòng khe Nonette đang xô sóng về cho vận động các xưởng máy cưa. Những cảnh tượng đó thân yêu xiết bao đối với tôi, nàng cũng lưu ý hân hoan, nhưng không dừng chân nán lại. Tôi đã định dẫn Aurélie vào viếng cung điện, gần hạt Orry, ngay trên nội cỏ xanh mà xưa kia tôi đã được ngắm nhìn Adrienne lần thứ nhất. Nàng chẳng có vẻ chi là kích động cả. Thế rồi, tôi kể lại hết cho nàng nghe, tôi nói cho nàng biết cội nguồn của mối tình tôi, thoáng nhìn một lần đầu tiên trong đêm tối, chiêm bao tơ tưởng mãi về sau, cuối cùng cũng được thành tựu nơi nàng đó ạ. Nàng chăm chú lắng nghe và bảo: “Anh không yêu tôi! Anh chờ nghe tôi nói: “Cô đào hát và nàng tu nữ cũng là một”; anh đi tìm một bi kịch bơ vơ, thật là như vậy, chỉ có thế thôi, nhưng xen kết thúc, anh không thể nắm được. Nó bay bổng mất rồi. Thôi, tôi không còn tin anh nữa.”
Lời nói đó là một tia chớp lóe. Những phấn kích dị thường tôi cảm thụ từ bao lâu, những mộng tưởng ước mơ kia, những giòng lệ kia, những niềm tuyệt vọng và âu yếm kia… vậy là không phải tình yêu chăng? Thế thì tình yêu là cái gì? Tình yêu ở tại đâu?
Đêm đó, Aurélie trình diễn tại Senlis. Tôi tưởng nhận thấy nàng có niềm thiên ái đối với viên giám đốc kịch trường. Ông ta tính tình thật tốt và đã giúp đỡ nàng nhiều.
Một ngày kia Aurélie nói với tôi: “Kẻ yêu tôi, chính là ông ấy.”
XIV. Tờ cuối
Như vậy đó là những ảo mộng quyến rũ lung lạc và ê hoặc trong buổi thanh xuân của đời sống. Tôi đã thử gắng ghi tạc chúng một cách không thứ tự gì lắm, nhưng nhiều tâm hồn sẽ hiểu tôi. Những ảo tưởng cứ nối đuôi nhau mà rơi rụng, giống như lớp vỏ một trái cây, và trái cây, ấy là duyệt lịch. Hương vị nó đắng chua; tuy nhiên, cũng có một chất gì chát chát làm vững mạnh thêm – xin người hãy tha thứ cái lối nói sáo hủ đó của tôi. Rousseau bảo rằng cảnh tượng thiên nhiên tồn lưu an ủi được mọi thứ. Đôi lúc tôi tìm gặp lại những cụm rừng Clarens thân thuộc, lẫn bóng trong sương mờ, ở phía Bắc Paris. Mọi thứ đó đã thay đổi xiết bao!
Ermenonville! Xứ sở mơ màng còn đủ chỗ cho những luyến ái cổ kính, cho những tình duyên thuần khiết đâm bông hồi sinh trong hoài niệm, cứ như lời Hồng Lĩnh bảo Châu Phong – Ermenonville! Ngươi đã đánh mất ngôi sao duy nhất của ngươi rồi, ngôi sao từng đã lấp lánh hai tia ngời trước con mắt của ta. Lúc xanh lúc tía, khi lục khi hồng, như vì tinh tú mê hoặc của Aldebaran ấy là Adrienne, ấy là Sylvie, ấy là hai cánh song song phiêu bồng của một tình yêu duy nhất. Một bên là lý tưởng tuyệt luân, một bên là thực tại êm đềm. Còn có nghĩa gì nữa với ta ngày nay, Ermenonville! Hỡi những cụm mây, chùm lá, và những mặt hồ và ngay cả sa mạc hoang liêu của ngươi còn nói gì với ta nữa ngày nay? Othys, Montagny, Loisy, những thôn làng lang thang lân cận, Châalis – mà thiên hạ đang trùng tu – các ngươi chẳng còn gìn giữ chút gì của quá khứ kia! Đôi lúc ta cần về viếng lại những nơi chốn nọ của tịch mịch mơ mòng. Ta buồn rầu khêu dậy trong hồn mình những dấu vết thấp thoáng tàn phai của một thời đại mà cái hồn nhiên đã thành kiểu sức; đôi lúc ta mỉm cười đọc lại trên mặt đá nham, trên sườn hông hoa cương thạch, một vài câu thơ của Roucher xưa kia đã có lần ta thấy là tuyệt diệu - hoặc những câu cách ngôn phúc thiện ở phía trên một suối nước, một giòng khe, một thạch động thờ sơn thần Pan. Những mặt hồ luống công phơi trải làn nước chết, con thiên nga không thèm ghé lội chơi. Đã qua rồi, cái thời ông hoàng Condé về đây săn bắn; với đoàn Nương Tử cao kiêu cưỡi ngựa, cái thời còi thổi gọi nhau trùng điệp với bao nhiêu tiếng vang dội lại!... Muốn tới Ermenonville, ngày nay không còn đường tới thẳng. Đôi lúc tôi về theo ngả Creil và Senlis, đôi lúc theo ngả Dammartin.
Tới Dammartin, bao giờ cũng vào lúc chiều tối. Tôi mướn phòng ngủ tại khách sạn Image Saint-Jean. Thường thường người ta cho tôi mướn một căn phòng sạch sẽ, giấy cũ dán tường, một tấm họa treo trên chiếc gương soi. Ngủ ấm áp dưới tấm nhung mao, bốc mùi chim nhạn biển. Đó là loại mền thân thuộc của xứ này. Sáng hôm sau, mở cửa sổ nhìn ra, cửa sổ lòa xòa những nhành nho với tường vi thắm đóng khung, tôi đê mê nhìn một chân trời màu lục phơi trải suốt mười dặm gió dài, với những hàng bạch dương đứng trang nghiêm như những đoàn binh dàn trận. Vài thôn xóm rải rác đây đó nép mình bên những tháp chuông nhọn hoắt. Ta nhìn thấy thôn Othys trước tiên, rồi thôn Eve, thôn Ver, còn thôn Ermenonville? Nếu Ermenonville có một tháp chuông, ắt ta sẽ nhận ra được ở bên kia khu rừng, nhưng tại chốn tư tưởng triết học nọ, người ta lơ đễnh bỏ quên nhà thờ. Sau khi hít vào phổi đầy đủ khí mát thuần khiết vo ve trên cao nguyên gió hây hây bình minh, tôi vui vẻ xuống làng thôn thăm chàng bán bánh ngọt. “Coi tề! Chào chú bé bỏng Parisien!” Chúng tôi đấm thoi nhau đôi cái chịu chơi theo thói bé rồi tôi leo lên một chiếc cầu thang lai rai. Tiếng kêu mừng rỡ của hai đứa bé con bé bỏng bé chị bé em, ríu rít đón tôi. Nụ cười gái Athénienne của Sylvie làm rạng rỡ khuôn mặt kiều lệ. “Lời đâu kiều diễm…” Lòng chàng không nguôi, chàng tôi tự bảo mình tôi: “Kia là hạnh phúc, có lẽ; tuy nhiên…”
Đôi lúc tôi gọi nàng bằng tên Lolotte, và nàng thấy tôi có hơi giống Werther. Trong khi bác tóc quăn cao ráo lo dọn bữa ăn chúng tôi dẫn mấy bé con đi dạo rừng, đi dạo rú, đi dạo dưới bóng cây bồ đề còn đứng đó kiên gan thu góp nhưng mảnh tàn rơi của gạch vụn lãnh cung. Trong lúc các bé con nô giỡn tập tành bắn cung rơm, cung rạ vào cỏ mọc rạ rơm, với những mũi tên cành nhánh của cha mẹ làm cho, thì chúng tôi đọc vài bài thơ, hoặc vài trang sách mùa thu, mà ngày nay chẳng ai viết nữa.
Tôi quên nói rằng cái ban kịch cô Aurélie trình diễn một bận tại Dammartin, tôi có dẫn Sylvie đi xem, và tôi có hỏi em có nhận thấy rằng cô đào nọ rất giống một người phụ nữ mà em từng có biết một lần. “Giống ai vậy? – Em còn nhớ chứ, cô Adreinne?”
Nàng cười rộ một tiếng thật to: “Coi tề!” Rồi dường như tự trách mình chi đó, nàng ngậm ngùi buông tiếng thở dài: “Tội quá! Adrienne. Cô ấy chết tại tu viện Saint-Sulpice, vào năm 1832.”
Láng giềng đệ lục
Láng giềng khu vực xuân ba
Bốn thu bổ túc tam trùng tích ngân
Nguyệt phơi tích biệt in ngần
Lá rung mạc ngoại bé chần chờ chi
Bé Em hải diện biên thùy
Tình trong Bé Chị quyền uy ra ngoài
Trông chừng Khúc Nghệ Bé Choai
Vi từ chỉ dục vọng hoài chỉ ưng (…)
Quy lai phục niệm chưa từng
Tình trong như thể luống từng ở xa
Tót vời tình điệu kiêu sa
Vườn thơm trắng ngát hồn hoa lạc loài
Phục hồi tú cốc sơ khai
Hương trời tự nhiễm bông lài tự dưng.
Một hai năm
Tặng gà vịt một năm sương tuyết
Vịt gà xin ráo riết hai năm
Ngồi suông nhớ mãi đêm rằm
Văn thừa bích lạc nguyệt cầm tiểu man
Đêm mộng mị về hang núi lạnh
Nhìn gấu beo bên cạnh hùm thiêng
Sịch mành trở giấc u miên
Muôn vàn brigitte nằm nghiêng nghiêng cười.
Tình thứ nhất
Anh chỉ có một tình yêu thứ nhất
Và thứ hai ba bốn chín thêm mười
Bờ tang hải biển dâu xô lật úp
Bến phiêu bồng anh lật đật theo đuôi
Anh chỉ có niềm vui trong chốc lát
Và nỗi buồn cũng chốc lát như nhiên
Tình thứ nhất thoảng đi qua thấm thoát
Tới trăm năm còn thấm thoát như thường
Anh vẫn tưởng đầu đường thương xó chợ
Ai có ngờ xó chợ cũng thương nhau
Hồn tan vỡ song đôi trong hơi thở
Ôi đầu đường ôi xó chợ nơi đâu
Là nơi đó chốn kia anh rất rõ
Trong máu me từng khoảnh khắc sơ đầu
Anh chỉ có một tình yêu thứ nhất
Và thứ nhì cũng đệ nhất như nhiên
Bờ dâu biển phiêu bồng trôi lật đật
Bến phiêu du chớp nhoáng mộng tang điền
Bây giờ anh dại anh điên
Biên Hòa Bệnh Viện bình yên anh về
Anh chào vĩnh biệt sơn khê
Chào anh vĩnh quyết bốn bề nhà ma.
Hồng Quần
Quần sẽ đỏ từ khi trăng là nguyệt
Kinh là kỳ từ châu quận tân toan
Từ xứ sở đắng cay thu đầu chết
Bước dã man sầu xé lá gieo vàng.
Lá sẽ đỏ từ vàng da mũi tẹt
Môi là mềm hoa mọc mật cong môi
Từ bờ cõi chia xương chua là ngọt
Trút lang thang từ nát mộng lên trời.
Mộng sẽ đỏ từ hoa đêm ghẹo chọc
Cánh thay hồng từ cánh đỏ cuồng điên
Từ thung lũng mù kêu mưa gọi móc
Tới phiêu du từ vầng nhật qua miền…
Nguồn: Tân An xuất bản tại Sài Gòn trước 1975, An Tiêm xuất bản tại hải ngoại 1990.
( Bản tiếng Pháp có thể đọc tại: http://www.site-magister.com/sylvie.htm )
Mùi hương xuân sắc
Bùi Giáng dịch
XII. Cha Dodu
Tôi sắp trả lời, tôi sắp quỳ xuống bên chân nàng, tôi sắp xin đem dâng tặng nàng ngôi nhà cậu tôi, ngôi nhà tôi có thể chuộc lại được, bởi vì bọn thừa kế chúng tôi đông, và di sản nọ thì còn công hữu; nhưng lúc đó chúng tôi đã về tới Loisy mất rồi. Bữa ăn tối đang chờ chúng tôi. Nồi “xúp” nấu hành bốc mùi hương mộc mạc. Nhiều bạn láng giềng được mời tới dự tiệc của ngày đưa tiễn buổi hội đi. Tôi bỗng nhận ra ngay một ông tiều phu già, cha Dodu đó, chính ông ngày xưa đã kể cho chúng tôi nghe giữa đêm khuya những chuyện cổ tích thật vui hoặc thật khủng khiếp. Hết làm nghề mục phu, đưa tin tức, kiểm lâm, ông lại đi chài cá, đi săn trộm thú rừng; cha Dodu, trong những giờ rỗi rảnh cũng đã từng chế tạo những chiếc xe bò hai bánh và những cái máy quáy thịt. Trong một thời gian khá lâu, ông chuyên làm cái việc đưa dẫn người Anh Cát Lợi đi du lãm vùng Ermenonville, ông dắt họ tới nơi xưa kia Rousseau từng đã tới chiêm niệm, suy tưởng, ông kể lại cho họ nghe những ngày cuối cùng của đời triết gia nọ. Chính ông xưa kia là thằng bé được vị triết gia nuôi để làm cái công việc là sắp đặt, chia loại các thứ hoa cỏ của mình, chính ông ta là kẻ đã được vị triết gia sai đi ngắt những nhánh độc cần đem về vắt nước vào ly cà phê sữa. Chủ quán La Croix d’Or không thừa nhận là sự vụ đó có thật; từ đó nảy ra những oán thù kéo dài dậm duộc. Xưa kia người ta cũng có trách cha Dodu có sở hữu một vài bí ẩn vô tội, như là: chữa lành bệnh bò cái bằng một vài tiết kinh Thánh đọc lộn ngược, hoặc bằng một câu thơ đọc theo lối nói lái, hoặc dùng bàn chân trái mà ra dấu thập giá; nhưng từ lâu ông đã thôi không giở những trò quỷ dị đó nữa - ấy là nhớ kỷ niệm, theo ông nói, nhờ kỷ niệm những buổi trò chuyện của ông Jean-Jacques Rousseau.
“A! Chú đó ư, chú bé Parisien kẻ chợ! Chú tới đây mục đích là gieo mầm hư hỏng cho gái miền này? – Tôi ấy à, cha Dodu sao lại nói kỳ cục thế? – Chú dẫn bọn con gái vào rừng những khi chó sói không lang thang trong đó? - Cha Dodu ôi, chính cha mới thật là một con sói già đấy nhé. – Ta là sói chừng nào mà ta tìm ra được cừu gái tơ; nay ta chỉ còn gặp những con dê cái mà thôi, mà dê cái thì chúng biết lối tự vệ thực là tài. Nhưng còn các chú, các chú là bọn tinh ranh quỷ quái Paris. Ông Jean-Jacques Rousseau nói thật là có lý: “Con người ta hư hỏng tính tình trong bầu không khí nhiễm độc đô thị phồn hoa.”
"Cha Dodu ơi, cha cũng biết quá rõ là con người ta thì hư hỏng khắp chốn chốn nơi nơi.”
Cha Dodu bèn cất giọng ngâm một điệu ca nhậu nhẹt; người ta cố sức ngăn ông để ông chịu dừng lại, đừng có dấn tới cái đoạn tục tĩu trong bài ca, mà ai ai cũng thuộc lòng cả. Nhưng vô ích. Ông ồ ề buông tuồng hát tuốt hết. Chúng tôi yêu cầu cô Sylvie hát, cô từ chối, bảo rằng: ở bàn ăn, không ai hát bao giờ. Tôi đã có để ý thấy anh chàng si cô, gặp đêm trước, nay được ngồi cạnh cô, phía bên trái. Hình như có cái gì đó trong khuôn mặt anh ta, khuôn mặt tròn vo, có cái gì đó trong đầu tóc rối bơ phờ, coi có vẻ quen quen. Anh ta đứng lên, tới phía sau chiếc ghế tôi ngồi, nói: “Chú không nhận ra được tôi sao, chú Parisien?” Một người đàn bà, vừa trở vào phòng lúc ăn dessert, sau khi đã loay hoay dọn tiệc cho chúng tôi, lại gần ghé vào tai tôi nói nhỏ: “Cậu không nhận ra người anh em bạn sữa của cậu sao?” Nếu không có lời nhắc nhở đó, ắt tôi đã ngu ngơ lố bịch mất rồi. “A! Anh đó ư! Chàng cao tóc quăn! Tôi thốt, chính anh rồi, chính cái chàng đã kéo tôi ra khỏi cơn niết nước!” Sylvie cười rộ lên. Đó là không kể, chú ta hôn tôi và nói, không kể cái sự việc này: thuở đó, chú có một cái đồng hồ trái quít bằng bạc thật đẹp, và lúc quay về nhà, chú lo lắng cho cái đồng hồ đó nhiều hơn lo lắng cho thân chú, bởi vì cái đồng hồ đó đã ngừng chạy. Chú nói: “Con thú vật nó chếết đuốốối rồi, nó không kêu tích tắc nữa, cậu sẽ ngầy ngà tôi…”
"Một con thú vật ở trong một cái đồng hồ trái quít!" Cha Dodu nói, "đó đó, người ta bày dạy cho con trẻ như rứa đó ở Paris!"
Sylvie buồn ngủ, tôi nhận thấy rằng tôi chẳng còn chiếm giữ chút gì trong trí óc nàng nữa. Tôi bị mất tích rồi. Nàng lên phòng, và trong lúc tôi hôn nàng, nàng nói: “Ngày mai, anh ghé lại chơi!”
Cha Dodu ở nán lại bàn tiệc với Sylvain và anh em bạn sữa của tôi; chúng tôi nói chuyện rất lâu, quanh một chai rượu thuốc. “Con người ta bình đẳng, cha Dodu nói giữa hai khúc ca ngâm, ta uống rượu với một gã làm bánh ngọt, cũng hệt như ta ngồi yến ẩm với một ông hoàng, bà chúa tiểu thư. – Gã làm bánh ngọt là ai ở đâu? – Hãy nhìn bên cạnh chú thì thấy! Một thằng làm bánh ngọt lại có tham vọng lập gia đình.”
Người anh bạn sữa của tôi có vẻ bối rối. Tôi đã hiểu hết mất rồi. - Thật là một định mệnh tai quái dành cho tôi: có một người anh em bạn sữa tại một vùng lẫy lừng tăm tiến bởi Rousseau – cái người đã chủ trương bãi bỏ tệ đoan kiếm người mẹ vú! – Cha Dodu nói cho tôi biết rằng sự vụ đã thành vấn đề: đám cưới Sylvie với chàng cao tóc quăn, anh chàng có ý định lập nghiệp, dựng một cửa hàng làm và bán bánh ngọt tại Dammartin. Tôi không còn biết dò hỏi chi hơn. Tôi không phải yêu sách ai cái gì nữa nữa. Qua ngày hôm sau, chiếc xe Nanteuil-le-Haudoin chở tôi về trở lại Paris.
XIII. Aurélie
Paris! - Chiếc xe đi có tới năm tiếng đồng hồ. Tôi chỉ gấp về là về tới cho kịp chiều nay. Vào khoảng tám giờ, tôi đã ngồi chững chạc trong căn phòng quen thuộc từ bao. Aurélie reo rắc nguồn tươi vui cảm hứng và vẻ kiều diễm thu hút của mình trên những câu thơ không tuyệt diệu mấy của Schiller. Trong cái xen vườn lá mộng, nàng trở nên tài tình trác tuyệt, phát tiết hết tinh anh. Lớp bốn, nàng sẽ không hiện ra sân khấu, trong thời gian đó, tôi chạy đi mua một đóa hoa tại hàng bà Prévost. Tôi bỏ vào trong đó một lá thư âu yếm, ký tên: một người không quen biết. Tôi tự nhủ: “Đó là một cái gì yên định, gắn kết cho mai sau”, - và qua ngày mai, tôi lên đường đi qua nước Đức.
Tôi qua non nước đó làm chi! Để thử gắng xếp đặt ổn đáng cho những lớp tơ tình. Nếu tôi viết một cuốn tiểu thuyết, ắt chẳng bao giờ tôi có thể làm độc giả chấp thuận một chuyện tình của một trái tim đồng thời si mê hai hồng nhan một lúc. Tôi mất Sylvie là lỗi tại tôi. Nhưng tái ngộ một ngày đã đủ làm cho tinh thần tôi phấn phát; từ nay, tôi sẽ đặt nàng riêng một cõi, như một bức tượng với một nụ cười hiền hậu bao dung, trong điện đại Hà Thánh Khiết Hiền Thanh. Cái nhìn của nàng đã cầm giữ tôi lại trước bờ hố thẳm. Tôi càng xô đuổi mãnh liệt hơn nữa, cái ý tưởng đi tìm hội kiến Aurélie, để mà tranh chấp một phút với bao nhiêu kẻ tầm thường đang yêu nàng, đã sáng chói một lúc ở bên nàng rồi rụng rơi lả tả. Một ngày nào, tôi tự nhủ, một ngày nào ta sẽ biết người thiếu nữ nọ, có hay không có, một trái tim.
Một buổi sáng, tôi đọc nhật báo thấy nói rằng Aurélie lâm bệnh. Tôi viết thư cho nàng, từ những rặng núi tại Salzbourg. Lá thư nhuốm đầy chất thần bí Nhật Nhĩ Man, thì hẳn là tôi không thể mong đợi thành công gì cho lắm, nhưng cũng không đòi hỏi được hồi âm. Tôi đặt niềm tin nơi rủi may ngẫu nhĩ và nơi những kỳ ngộ khôn dò.
Hàng tháng trôi đi. Qua những bận phiêu dạt ngược xuôi, và những giờ rảnh rỗi, tôi đã định ghi tạc trong một vở kịch thơ những ân tình của nhà hội họa Colonna đối với giai nhân Laura, nàng Laura bị cha mẹ đưa vào con đường tu khổ hạnh, nàng Laura mà họa sĩ yêu cho tới lúc chết. Có gì trong sự đó liên can tới những mối triền miên chuyên niệm của tôi. Viết xong câu thơ cuối của vở kịch, tôi chỉ còn nghĩ tới việc quay trở về Pháp.
Còn biết nói chi nữa bây giờ? Nói gì mà không là câu chuyện của bao người? Tôi đã kinh qua hết thảy mọi vần xoay xuôi ngược trong những miền thử thách mà thiên hạ gọi là kịch trường. “Tôi đã ăn vào trong mình tiếng trống chiêng, và uống vào trong mình giọng chũm chọe” như lời nói, hầu như không có nghĩa gì rõ, của những kẻ đã thụ pháp nữ thần Cérès tại Eleusis. Câu đó chắc hẳn là có nghĩa rằng: nếu cần, phải vượt qua biên giới của cái vô nghĩa và lẽ phi lý: cái lý đối với tôi, là: chinh phục và ghi tạc hình bóng lý tưởng của mộng tưởng Lý tôi.
Aurélie đã chấp nhận thủ vai chính trong vở kịch của tôi mang từ nước Đức trở về. Tôi sẽ không bao giờ quên cái ngày nàng cho phép tôi đọc vở kịch cho nàng nghe. Những xen ân tình đều soạn sửa thể theo hồn em đó, thưa em. Tôi tưởng mình đã đọc với hết cả tâm hồn, và nhất là đọc với niềm say mê phấn chấn. Tiếp sau đó, tôi cho nàng rõ: cái người không quen biết trong hai lá thư chính là tôi. Nàng bảo: “Anh thật là điên; nhưng mai kia hãy trở lại thăm tôi nhé… Tôi chả bao giờ gặp được một kẻ biết yêu tôi.”
Ôi người phụ nữ! Em tìm kiếm tình yêu… Còn tôi, ấy vậy?
Những ngày sau đó, tôi viết những lá thư âu yếm nhất đời, những lá thư đẹp nhất mà bình sinh chắc hẳn nàng đã nhận được, có lẽ. Tôi nhận được những lá hồi âm đầy lý tính. Một phen, nàng cảm động, gọi tôi lại gần, và thú thật với tôi rằng khó mà dứt bỏ một niềm luyến ái xưa cũ hơn.
"Nếu quả thật vì tôi mà anh yêu tôi", nàng nói, "thì anh sẽ hiểu rằng tôi tôi chỉ có thể là bạn trăm năm của một kẻ duy nhất mà thôi."
Hai tháng sau, tôi nhận được một lá thư chan chứa. Tôi chạy bay tới nàng. Trong khoảng thời gian hai tháng đó, có kẻ cho tôi biết một chi tiết quý báu. Chàng trai đẹp đẽ mà tôi đã từng gặp một lần tại câu lạc bộ, chàng đó đã đầu vào kỵ binh tại Algérie.
Mùa hè năm sau, có nhiều chuyến xê dịch về Chantilly. Ban kịch sĩ cùng bọn với Aurélie trình diễn tại đó. Theo lệnh người giám đốc ban kịch, bọn kịch sĩ lưu lại Chantilly ba hôm. Tôi may mắn đã quen thân với ông giám đốc này từ trước. Ông có cách điệu của nòi, có “lửa”. Tôi theo ban kịch với danh nghĩa lãnh chúa thi nhân: tôi bàn với viên giám đốc, tôi thuyết phục ông, khuyên ông nên mở nhiều cuộc trình diễn tại Senlis và Dammartin. Ông ta thì có ý chọn quận Compiègne; nhưng Aurélie lại biểu đồng tình với tôi. Qua ngày hôm sau trong khi người ta lo đi điều đình với các nhà chủ cho mướn phòng, với các nhà cầm quyền địa phương, thì tôi lo thuê ngựa, và chúng tôi lên đường theo con lộ về những hồ nước Commelle để đi ăn điểm tâm tại lâu đài bà chúa Bạch. Aurélie, ăn vận theo lối nữ kỵ sĩ, với làn tóc óng ả tung bay, vượt qua rừng trông giống như một nữ chúa thời xưa, và các nông dân dừng lại nhìn, ngây ngất. Bà bá tước F… là người phụ nữ duy nhất họ được thấy, đã có cái phong độ uy nghiêm và kiều lệ tới mức đó, trong cái điệu chào phong vận thế kia… Sau bữa ăn, chúng tôi phi ngựa xuống các thôn làng na ná làng thôn Thụy Sĩ. Tại đây giòng khe Nonette đang xô sóng về cho vận động các xưởng máy cưa. Những cảnh tượng đó thân yêu xiết bao đối với tôi, nàng cũng lưu ý hân hoan, nhưng không dừng chân nán lại. Tôi đã định dẫn Aurélie vào viếng cung điện, gần hạt Orry, ngay trên nội cỏ xanh mà xưa kia tôi đã được ngắm nhìn Adrienne lần thứ nhất. Nàng chẳng có vẻ chi là kích động cả. Thế rồi, tôi kể lại hết cho nàng nghe, tôi nói cho nàng biết cội nguồn của mối tình tôi, thoáng nhìn một lần đầu tiên trong đêm tối, chiêm bao tơ tưởng mãi về sau, cuối cùng cũng được thành tựu nơi nàng đó ạ. Nàng chăm chú lắng nghe và bảo: “Anh không yêu tôi! Anh chờ nghe tôi nói: “Cô đào hát và nàng tu nữ cũng là một”; anh đi tìm một bi kịch bơ vơ, thật là như vậy, chỉ có thế thôi, nhưng xen kết thúc, anh không thể nắm được. Nó bay bổng mất rồi. Thôi, tôi không còn tin anh nữa.”
Lời nói đó là một tia chớp lóe. Những phấn kích dị thường tôi cảm thụ từ bao lâu, những mộng tưởng ước mơ kia, những giòng lệ kia, những niềm tuyệt vọng và âu yếm kia… vậy là không phải tình yêu chăng? Thế thì tình yêu là cái gì? Tình yêu ở tại đâu?
Đêm đó, Aurélie trình diễn tại Senlis. Tôi tưởng nhận thấy nàng có niềm thiên ái đối với viên giám đốc kịch trường. Ông ta tính tình thật tốt và đã giúp đỡ nàng nhiều.
Một ngày kia Aurélie nói với tôi: “Kẻ yêu tôi, chính là ông ấy.”
XIV. Tờ cuối
Như vậy đó là những ảo mộng quyến rũ lung lạc và ê hoặc trong buổi thanh xuân của đời sống. Tôi đã thử gắng ghi tạc chúng một cách không thứ tự gì lắm, nhưng nhiều tâm hồn sẽ hiểu tôi. Những ảo tưởng cứ nối đuôi nhau mà rơi rụng, giống như lớp vỏ một trái cây, và trái cây, ấy là duyệt lịch. Hương vị nó đắng chua; tuy nhiên, cũng có một chất gì chát chát làm vững mạnh thêm – xin người hãy tha thứ cái lối nói sáo hủ đó của tôi. Rousseau bảo rằng cảnh tượng thiên nhiên tồn lưu an ủi được mọi thứ. Đôi lúc tôi tìm gặp lại những cụm rừng Clarens thân thuộc, lẫn bóng trong sương mờ, ở phía Bắc Paris. Mọi thứ đó đã thay đổi xiết bao!
Ermenonville! Xứ sở mơ màng còn đủ chỗ cho những luyến ái cổ kính, cho những tình duyên thuần khiết đâm bông hồi sinh trong hoài niệm, cứ như lời Hồng Lĩnh bảo Châu Phong – Ermenonville! Ngươi đã đánh mất ngôi sao duy nhất của ngươi rồi, ngôi sao từng đã lấp lánh hai tia ngời trước con mắt của ta. Lúc xanh lúc tía, khi lục khi hồng, như vì tinh tú mê hoặc của Aldebaran ấy là Adrienne, ấy là Sylvie, ấy là hai cánh song song phiêu bồng của một tình yêu duy nhất. Một bên là lý tưởng tuyệt luân, một bên là thực tại êm đềm. Còn có nghĩa gì nữa với ta ngày nay, Ermenonville! Hỡi những cụm mây, chùm lá, và những mặt hồ và ngay cả sa mạc hoang liêu của ngươi còn nói gì với ta nữa ngày nay? Othys, Montagny, Loisy, những thôn làng lang thang lân cận, Châalis – mà thiên hạ đang trùng tu – các ngươi chẳng còn gìn giữ chút gì của quá khứ kia! Đôi lúc ta cần về viếng lại những nơi chốn nọ của tịch mịch mơ mòng. Ta buồn rầu khêu dậy trong hồn mình những dấu vết thấp thoáng tàn phai của một thời đại mà cái hồn nhiên đã thành kiểu sức; đôi lúc ta mỉm cười đọc lại trên mặt đá nham, trên sườn hông hoa cương thạch, một vài câu thơ của Roucher xưa kia đã có lần ta thấy là tuyệt diệu - hoặc những câu cách ngôn phúc thiện ở phía trên một suối nước, một giòng khe, một thạch động thờ sơn thần Pan. Những mặt hồ luống công phơi trải làn nước chết, con thiên nga không thèm ghé lội chơi. Đã qua rồi, cái thời ông hoàng Condé về đây săn bắn; với đoàn Nương Tử cao kiêu cưỡi ngựa, cái thời còi thổi gọi nhau trùng điệp với bao nhiêu tiếng vang dội lại!... Muốn tới Ermenonville, ngày nay không còn đường tới thẳng. Đôi lúc tôi về theo ngả Creil và Senlis, đôi lúc theo ngả Dammartin.
Tới Dammartin, bao giờ cũng vào lúc chiều tối. Tôi mướn phòng ngủ tại khách sạn Image Saint-Jean. Thường thường người ta cho tôi mướn một căn phòng sạch sẽ, giấy cũ dán tường, một tấm họa treo trên chiếc gương soi. Ngủ ấm áp dưới tấm nhung mao, bốc mùi chim nhạn biển. Đó là loại mền thân thuộc của xứ này. Sáng hôm sau, mở cửa sổ nhìn ra, cửa sổ lòa xòa những nhành nho với tường vi thắm đóng khung, tôi đê mê nhìn một chân trời màu lục phơi trải suốt mười dặm gió dài, với những hàng bạch dương đứng trang nghiêm như những đoàn binh dàn trận. Vài thôn xóm rải rác đây đó nép mình bên những tháp chuông nhọn hoắt. Ta nhìn thấy thôn Othys trước tiên, rồi thôn Eve, thôn Ver, còn thôn Ermenonville? Nếu Ermenonville có một tháp chuông, ắt ta sẽ nhận ra được ở bên kia khu rừng, nhưng tại chốn tư tưởng triết học nọ, người ta lơ đễnh bỏ quên nhà thờ. Sau khi hít vào phổi đầy đủ khí mát thuần khiết vo ve trên cao nguyên gió hây hây bình minh, tôi vui vẻ xuống làng thôn thăm chàng bán bánh ngọt. “Coi tề! Chào chú bé bỏng Parisien!” Chúng tôi đấm thoi nhau đôi cái chịu chơi theo thói bé rồi tôi leo lên một chiếc cầu thang lai rai. Tiếng kêu mừng rỡ của hai đứa bé con bé bỏng bé chị bé em, ríu rít đón tôi. Nụ cười gái Athénienne của Sylvie làm rạng rỡ khuôn mặt kiều lệ. “Lời đâu kiều diễm…” Lòng chàng không nguôi, chàng tôi tự bảo mình tôi: “Kia là hạnh phúc, có lẽ; tuy nhiên…”
Đôi lúc tôi gọi nàng bằng tên Lolotte, và nàng thấy tôi có hơi giống Werther. Trong khi bác tóc quăn cao ráo lo dọn bữa ăn chúng tôi dẫn mấy bé con đi dạo rừng, đi dạo rú, đi dạo dưới bóng cây bồ đề còn đứng đó kiên gan thu góp nhưng mảnh tàn rơi của gạch vụn lãnh cung. Trong lúc các bé con nô giỡn tập tành bắn cung rơm, cung rạ vào cỏ mọc rạ rơm, với những mũi tên cành nhánh của cha mẹ làm cho, thì chúng tôi đọc vài bài thơ, hoặc vài trang sách mùa thu, mà ngày nay chẳng ai viết nữa.
Tôi quên nói rằng cái ban kịch cô Aurélie trình diễn một bận tại Dammartin, tôi có dẫn Sylvie đi xem, và tôi có hỏi em có nhận thấy rằng cô đào nọ rất giống một người phụ nữ mà em từng có biết một lần. “Giống ai vậy? – Em còn nhớ chứ, cô Adreinne?”
Nàng cười rộ một tiếng thật to: “Coi tề!” Rồi dường như tự trách mình chi đó, nàng ngậm ngùi buông tiếng thở dài: “Tội quá! Adrienne. Cô ấy chết tại tu viện Saint-Sulpice, vào năm 1832.”
Láng giềng đệ lục
Láng giềng khu vực xuân ba
Bốn thu bổ túc tam trùng tích ngân
Nguyệt phơi tích biệt in ngần
Lá rung mạc ngoại bé chần chờ chi
Bé Em hải diện biên thùy
Tình trong Bé Chị quyền uy ra ngoài
Trông chừng Khúc Nghệ Bé Choai
Vi từ chỉ dục vọng hoài chỉ ưng (…)
Quy lai phục niệm chưa từng
Tình trong như thể luống từng ở xa
Tót vời tình điệu kiêu sa
Vườn thơm trắng ngát hồn hoa lạc loài
Phục hồi tú cốc sơ khai
Hương trời tự nhiễm bông lài tự dưng.
Một hai năm
Tặng gà vịt một năm sương tuyết
Vịt gà xin ráo riết hai năm
Ngồi suông nhớ mãi đêm rằm
Văn thừa bích lạc nguyệt cầm tiểu man
Đêm mộng mị về hang núi lạnh
Nhìn gấu beo bên cạnh hùm thiêng
Sịch mành trở giấc u miên
Muôn vàn brigitte nằm nghiêng nghiêng cười.
Tình thứ nhất
Anh chỉ có một tình yêu thứ nhất
Và thứ hai ba bốn chín thêm mười
Bờ tang hải biển dâu xô lật úp
Bến phiêu bồng anh lật đật theo đuôi
Anh chỉ có niềm vui trong chốc lát
Và nỗi buồn cũng chốc lát như nhiên
Tình thứ nhất thoảng đi qua thấm thoát
Tới trăm năm còn thấm thoát như thường
Anh vẫn tưởng đầu đường thương xó chợ
Ai có ngờ xó chợ cũng thương nhau
Hồn tan vỡ song đôi trong hơi thở
Ôi đầu đường ôi xó chợ nơi đâu
Là nơi đó chốn kia anh rất rõ
Trong máu me từng khoảnh khắc sơ đầu
Anh chỉ có một tình yêu thứ nhất
Và thứ nhì cũng đệ nhất như nhiên
Bờ dâu biển phiêu bồng trôi lật đật
Bến phiêu du chớp nhoáng mộng tang điền
Bây giờ anh dại anh điên
Biên Hòa Bệnh Viện bình yên anh về
Anh chào vĩnh biệt sơn khê
Chào anh vĩnh quyết bốn bề nhà ma.
Hồng Quần
Quần sẽ đỏ từ khi trăng là nguyệt
Kinh là kỳ từ châu quận tân toan
Từ xứ sở đắng cay thu đầu chết
Bước dã man sầu xé lá gieo vàng.
Lá sẽ đỏ từ vàng da mũi tẹt
Môi là mềm hoa mọc mật cong môi
Từ bờ cõi chia xương chua là ngọt
Trút lang thang từ nát mộng lên trời.
Mộng sẽ đỏ từ hoa đêm ghẹo chọc
Cánh thay hồng từ cánh đỏ cuồng điên
Từ thung lũng mù kêu mưa gọi móc
Tới phiêu du từ vầng nhật qua miền…
Nguồn: Tân An xuất bản tại Sài Gòn trước 1975, An Tiêm xuất bản tại hải ngoại 1990.
( Bản tiếng Pháp có thể đọc tại: http://www.site-magister.com/sylvie.htm )
Gérard de Nerval - Mùi hương xuân sắc (3)
Gérard de Nerval
Mùi hương xuân sắc
Bùi Giáng dịch
VII. Châalis
Bốn giờ sáng, con đường chìm trong một nếp đất trồi sụt xuống lên, con đường nhoi trở lên trở lại. Chiếc xe sắp đi ngang qua vùng Orry, rồi La Chapelle. Phía bên trái, có một đường chạy dọc theo khu rừng Hallate. Chính đó là chỗ một đêm kia người anh của Sylvie đã đánh chiếc xe ngựa đưa tôi đi dự một buổi lễ uy nghi. Ấy là vào đêm ngày lễ Saint-Barthélemy. Xuyên qua những khu rừng, bằng những con đường vắng vẻ, ít dội gót chân người, con ngựa bé của anh phi như bay, giống như trong dạ hội ma thuật. Chúng tôi bắt lại đường lát đá nơi nhà người lính kiểm lâm, tại chỗ tu viện Châalis xưa. Châalis, lại thêm một kỷ niệm nữa đây rồi!
Nơi dưỡng lão của những vị hoàng đế xa xưa ngày này chẳng còn chi để ngợi ca lắm; chỉ những phế tích của tu viện mình, với những khung cửa tò vò hình bán nguyệt byzantin (thể điệu kiến trúc Thổ Nhĩ Kỳ xưa) và dãy cuối cùng còn phơi hình hài biển dâu trên làn nước hồ đang nhìn tang thương mà cau mặt – chút di lưu còn sót lại trong quên lãng của ký ức người đời về những công trình kiến thiết cung hiến cho miền cõi thiêng liêng, nằm ngẩn ngơ trong ngậm ngùi thương nhớ giữa những vùng đất đai mà ngày xưa thiên hạ gọi là phân-tô-địa của hoàng đế Charlemagne. Trong cái xứ sở cô tịch hoang liêu này, xa biệt hẳn những bụi đường phồn hoa dấy động, thì tôn giáo còn gìn giữ được những vết tích đặc thù của cuộc cư tưu đằng đẵng của những vị hồng y giáo chủ dòng Este thuộc triều đại tộc họ Médicis: những thói nhà phong vận, những chất hằng trâm anh của thiêng liêng bờ cõi, còn giữ được chút gì cốt cách hào hoa, còn có pha chút gì của phong thái thơ mộng, và con người tao nhã đi về thương yêu hồi tưởng, còn thở được chút hương lừng man mác buổi Phục Hưng dưới những vòm hình cung bán nguyệt của những ngôi nhà thờ nho nhỏ, khía cạnh gieo hồn, đường gân heo hút được trang hoàng bởi bàn tay tài tử của những nghệ sĩ u nùng từ Ý Đại Lợi ghé chơi. Uy nghiêm khuôn mặt tuyệt vời, Thiên Thần, Hiền Thánh trang đời thiên thu. Về đây gọi nước non mù. Dàn xuân sắc dải hoang vu hồng vàng. Pha mờ dấu biếc xuê xoang. Vong hồn ngẫu tượng ngụ trong tính tình. Sôi trào dòng mộng hiển linh. Tình Pétrarque với u tình Colonna. Hoang đường thần bí dư ba. Còn nghe nức nở chan hòa đâu đây… (Les figures des saints et des anges se profilent en rose sur les voûtes peintes d'un bleu tendre, avec des airs d'allégorie païenne qui font songer aux sentimentalités de Pétrarque et au mysticisme fabuleux de Francesco Colonna).
Chúng tôi là những kẻ lai rai phiêu hốt, người anh của Sylvie và chúng tôi có phận sự gì, lấy tư cách gì mà vào dự hội riêng biệt sử hồng được tổ chức đêm kia? Thôi thì tạm nói rằng gió thanh xuân xô đẩy, tấp chúng tôi vào bờ của hồng xum xuê. Xin chào nhau trong một cơn trở mộng. Rồi mai sau trùng ngộ sẽ chia lìa. Một nhân vật chính tông trâm anh đài các, vốn bấy giờ là kẻ sở hữu vùng đất đai này, đã có dự cái cuộc trình diễn tượng trưng huê hòe ẩn dụ hòa an hồ điệp và trong cuộc nọ có xen vào vài mỹ nữ vốn thuộc nòi kỳ túc của một tu viện láng giềng trên trận gió thổi qua. Ấy không phải là một vang bóng mơ hồ những vở kịch đã đi về trong sương bạc Saint-Cyr của thời vua Louis Thập Tứ dìu đặt với bà Maintenon trong từng trận đâm bông của cái buổi thi bá Racine ra chào đời trong lừng vang điệu nhạc. Ấy còn lùi xa hơn về hút heo quá khứ, tới tận cùng miên bạc bẻ bai rầu rĩ của những vong hồn năm tháng cũ đã trữ tình và giải tỏa nếu du dương trong những cuộc dạt bờ vào đất Pháp kể từ thời đại họ Valois. Những gì tôi thấy, những gì tôi nghe, trong cái đêm kỳ ảo nọ, chính là những gì khôn tả còn truyền vọng lời vàng trong bí mật sử xanh. Những y phục gấm hoa, những áo dài, xiêm ngắn, những hồng quần rất mỏng, những tà áo rất thưa, có khác nhau chăng nữa, cũng chỉ băng nơi những màu thanh thiên, lục thúy hoàng, sa, yên hà, man mác khánh vân chiều, bàng hoàng hồng sương sớm, tía hoa cà lổ đổ, lồng lộng tử trúc lâm. Cảnh tượng diễn ra giữa chư thần chư thánh, bùi ngùi chư tiên tử, trên tàn rụng mặt biển dâu. Thanh xuân gọi nước lên cầu. Hồng hoang núi ngủ yên sầu gió khe. Chín mùa dông đổ sau hè. Bây giờ máu ứa trôi về tràng giang. Mây vừa tía, mộng lang thang. Vết chăn vẽ sóng chìm ngang lưng đèo… La scène se passait entre les anges, sur les débris du monde détruit. Chaque voix chantait une des splendeurs de ce globe éteint, et l'ange de la mort définissait les causes de sa destruction… Cảnh tượng diễn ra giữa các thiên thần, trên những mảnh vụn của cõi đời bị tàn phá. Mỗi giọng ngâm, mỗi hát lên một trong những tráng lệ của doanh hoàn tắt lịm, và thiên thần của tử diệt đang xác định những nguyên cớ của diệt vong. Một vị thần linh nhô hình hài lên từ đáy thẳm, tay cầm một ngọn lửa chói chang và triệu tập chư tiên hãy tới nhanh mà mừng rỡ hoan nghênh đón tiếp thịnh triều vinh hiển của Jésus Christ chiến thắng những quỷ ma u ám cõi âm ty. Vị thần linh đó, chính thị là nương tử Adrienne đã từng có phen đi về trong câu hát, đã tạm chết một đêm rằm trong nước xanh, và bây giờ đã hồi sinh trong xiêm nghê biến dạng, như đã từng biến thể bởi tiếng gọi của tài tình tài tử đã ra ngoài phát tiết trận tinh anh. Cái vầng hào quang làm bằng giấy carton nhuộm thắm, bao bọc cái vầng trán bao la thanh khiết, chúng tôi nhìn vào và xem đó quả là một vòng ánh sáng thật sự đang chiếu rọi hào quang một cách thật thiên nhiên; giọng hát của nàng, kể từ bấy tới nay, đã tăng gia cao điệu lồng lộng viễn khơi như hà thanh một thuở, và những rung vang hoa hòe điểm xuyết còn rún rẩy suốt cõi bờ của bầu trời Ý Đại Lợi trong vi vút trường phong với những ca xoang đạm tiên nàng ấy vốn xưa là nổi danh tài sắc chan hòa chiêm bao. Biển dâu sực tỉnh yêu đào. Xuân phong tiếu bộ ai nào gọi ai.
En me retraçant ces détails, j'en suis à me demander s'ils sont réels, ou bien si je les ai rêvés. Ghi lại những chi tiết này, tôi chợt dừng tay tư lự, tự hỏi mình: chẳng biết chúng thật là có thật, hay lại là do mình huyễn mộng mơ ra. Người anh của Sylvie đêm đó có ngà ngà say một chút. Chúng tôi đã dừng lại nơi nhà người giám thị sơn lâm - tại đó, có một sự xui tôi vô cùng kinh ngạc: một con thiên nga vi vu giang rộng cánh bên khung cửa hẹp ngậm ngùi, còn phía bên trong, thì có những chiếc tủ cao bằng gỗ hạnh đào lóng lánh những hình trạm trổ thật long lanh, một cái đồng hồ horloge chễm chệ trong vỏ gỗ-đào-hoa tâm, và những giáp binh, những ngọc trụ có treo đao kiếm, cung tên, ở phía trên một tấm thẻ xạ thuật đỏ xanh sặc sỡ. Một người lùn kỳ dị, đầu đội nón ba tàu, một tay cầm một cái bình, tay kia cầm chiếc nhẫn, như dường đang mời mọc các xạ thủ hãy nhắm cho trúng đích. Người lùn nọ hình như là làm bằng những mảnh tôn cắt ra ghép lại. Những sự hiển hiện kỳ ảo tuyệt thế tài tình của anh hoa phát tiết tài hoa Adrienne, có thật là có thật như những chi tiết phiêu bồng kia, như sự hiện hữu đìu hiu không cách gì chối cãi của tu viện Châalis? Nhưng quả thật tuy nhiên là như vậy, chính đứa con trai của viên giám thị sơn lâm đã dắt chúng tôi vào trong căn phòng làm trường sở cho cuộc trình diễn nọ ấy mà. Chúng tôi đứng tựa bên khung cửa hẹp, đứng sau lưng một nhóm người đông đảo đang tề tựu ngồi nhìn và kích động một cách thật trang nghiêm. Chính là vào cái ngày lễ Saint-Barthélemy, được gắn liền một cách kỳ bí vào với kỷ niệm hoàng tộc Médicis, mà những binh khí di lưu còn kết treo liền bên những gươm đao nhà họ Este, hiện đang đề huề trang hoàng xuân thu cho những tường vách cũ nọ… Kỷ niệm kia có lẽ chỉ là một ám ảnh! May mắn làm sao, này đây là chiếc xe đang tới, chiếc xe dừng trên con lộ Plessis; tôi thoát ra khỏi vòng cuốn hút của mộng ảo mê ly, tôi chỉ còn mười lăm phút bộ hành để về tới xóm Loisy trên những con đường cô tịch.
VIII. Cuộc khiêu vũ tại Loisy
Tôi vào giữa cuộc Loisy. Lúc giờ ủ rũ trên kỳ ủ ê. Êm đềm ánh sáng mô tê. Mần răng như rứa coi tề tái xanh. Rập rờn ngày tới đương nhanh. Trường phong khêu gợi biên thành liễu buông. Bồ đề tát thúy ngõ thuôn. Diên trì thời hạn trên nguồn sử xanh. Ngọn trồng vòi või thiên thanh. Cơn dầu phôi dựng long lanh sáo ngà. Dậy dàng điền dã âm ba. Thôi rồi thua cuộc chan hòa họa mi…
Je suis entré au bal de Loisy à cette heure mélancolique et douce encore où les lumières pâlissent et tremblent aux approches du jour.
Tôi bước vào cuộc hội múa vòng tại Loisy vào cái giờ sầu u và êm dịu của bình minh mới chớm, và ánh nhợt rung rinh trước ngày về sắp tới. Những cây bồ đề, thân dưới còn nhòa tối, trên ngọn đã pha màu sáng xanh lơ. Tiếng sáo đồng quê không còn tranh chấp thiết tha nữa với giọng họa mi uốn éo chiên âm. Mọi người đều xanh xao, và nhìn khắp những nhóm người thưa thớt, tôi khó lòng gặp lại những khuôn mặt quen thân. Cuối cùng, tôi nhìn thấy nàng Lise dong dỏng, chị một cô bạn thiết của Sylvie. Nàng ôm tôi hôn. “Lâu ngày chẳng gặp anh đâu, anh kẻ chợ ạ, nàng nói. - Ồ! Vâng lâu lắm. Anh tới vào cái giờ này ư? - Bằng giao thông xe ngựa. – Và thật chẳng quá xá là nhanh! – Tôi muốn thăm Sylvie; nàng có còn trong cuộc múa? – Nàng sẽ tới vào lúc sáng trời. Nàng thích khiêu vũ xiết bao.”
Một lát sau, tôi đã đứng bên cạnh nàng rồi. Gương mặt nàng có vẻ mỏi mệt; tuy nhiên con mắt đen láy của nàng vẫn sáng ngời nụ cười gái Athénienne ngày cũ. Một chàng trai đứng cạnh nàng. Nàng ra dấu cho chàng ta hiểu: nàng xin khước từ cuộc múa đối diện sắp tới. Chàng ta chào và rút lui.
Ngày đã sáng. Chúng tôi rời cuộc khiêu vũ, bước ra, tay nắm tay. Những đóa hoa tà tà xiêu lệch trên mái tóc lõa xõa xuôi giòng. Chùm bông trên ngực rung cánh trên những miếng đen-ten nhàu rã. Tôi xin phép được đưa nàng về nhà. Trời đã sáng, nhưng khí trời ủ rũ. Giòng sông Thève xào xạc chảy bên bờ. Những khúc quành, nước vòng xoay lặng lẽ, nước tụ im lìm. Những cánh hoa sen mở phơi màu vàng, màu trắng. Những đóa bọt nước thêu thùa chợt vỡ tan như những hàng hoa cúc trắng. Đồng ruộng đầy rẫy những lượm lúa vừa mới cắt xong, và những đống rơm khô, và những đống rạ, và những mùi hương hắc hắc bốc hơi nồng, không đủ xui lòng tôi ngây ngất, như đã làm tôi ngây ngất xưa kia với những mùi thơm của hoa ngàn, của lùm cây, của cụm lá, của sơn-trà-tử ban đầu.
Chúng tôi không có ý băng qua những cánh đồng kia nữa. “Sylvie ạ, em không còn yêu tôi nữa phải không?” Nàng thở dài một cái. “Anh ạ, trước sau gì, rồi cũng phải liệu cho hợp lẽ mà thôi. Chuyện đời nó bước đi không giống như lòng ta ước muốn. Xưa kia, anh có bảo em đọc La Nouvelle Héloïse, em đã đọc rồi, và em có run rẩy trước cái lời đầu tiên của sách: “Gái nào sẽ đọc sách này, gái đó sẽ hỏng mất thân”. Tuy nhiên em đã bỏ qua, em tin nơi lý trí của mình. Anh còn nhớ không cái ngày chúng ta vận vào thân mình những y phục hôn lễ của bà dì?... Những tháp họa trong cuốn sách cũng trình bày những kẻ yêu nhau trong bộ y phục thời trước, và thế đó, đối với em, anh đã là Saint-Preux, còn em, em đã nhận ra mình trong nhân vật Julie. A! Sao anh không sớm quay về ngày đó. Phải chi ngày đó anh chịu về. Nhưng em nghe người ta nói, ngày đó anh ở bên Ý Đại Lợi. Chắc hẳn là bên đất nước đó, anh đã có gặp nhiều những thiếu nữ đẹp hơn em! – Không. Sylvie ạ, không một kẻ nào có được cái nhìn của con mắt em, và những nét dịu dàng trong trắng trên khuôn mặt em. Em là một nữ thần thủy tiên không tự biết mình là tiên trong sóng lục. Vả chăng, những cụm rừng quận hạt này cũng đẹp có thua gì những phong cảnh La Mã bên kia. Đây có những khối hoa-cương-thạch tuyệt diệu chẳng thua gì bên đó, và một thác nước vì vèo, chảy từ ghềnh đá xuống, cũng giống như thác nước bên châu quận Terni. Bên đó, anh không có thấy gì khả dĩ xui anh về đây mà còn nhớ tiếc.
"Còn ở Paris?" Nàng hỏi – "Ở Paris…”
Tôi lắc đầu không đáp.
Bỗng dưng tôi nhớ tới cái hình ảnh hão huyền đã lung trạo xô đẩy tôi lạc nẻo suốt bao ngày.
Sylvie, chúng ta dừng tại đây, em bằng lòng chứ?
Tôi quỳ xuống bên chân nàng; tôi khóc như mưa, thú nhận với nàng những bao nhiêu dùng dằng xuôi ngược, những do dự bần thần, những bàng hoàng luông tuồng ảo vọng tôi gợi lại cái hình hài quỷ dị quái ác đã đi qua trong kiếp sống của mình.
"Em hãy giải cứu cho anh, anh xin trở về cùng em mãi mãi."
Nàng đưa mắt nhìn tôi. Nàng cảm động vô cùng…
Bỗng lúc đó, câu chuyện bị cắt ngang vì một tràng cười mãnh liệt. Đó là người anh của Sylvie đang chạy tới, anh mộc mạc vui cười cách điệu nông dân, lại thêm những yến ẩm tràn lan đêm dạ hội càng làm cho cốt cách nặng thêm ra. Anh gọi chàng si tình kia lại, anh chàng thấp thỏm yêu đương đang mất dạng ở xa kia, sau những lùm cây hoang dại. Anh chàng đó cũng chân nam đá chân xiêu như ông bạn của mình. Anh chàng kia dường như bối rối bởi sự hiện diện của cái cậu Parisien phong nhã này còn hơn là lúng túng bởi sự hiện diện của Sylvie. Gương mặt thật thà, chất phác của anh ta, lòng kính nể pha ngại ngùng của chàng ta, không cho phép tôi oán giận được, dù anh là cái kẻ đã xui em Sylvie nấn ná ở lại hội muộn màng. Tôi xét ra, anh chàng kia chẳng có gì đáng nên gờm sợ hết.
"Phải trở về nhà thôi", Sylvie nói với người anh. "Gặp nhau lần khác nhé!" Nàng bảo tôi và đưa má cho tôi hôn.
Kẻ si tình kia không lấy thế làm tức.
IX. Ermenonville
Tôi không chút ước ao muốn ngủ. Tôi đi Montagny viếng lại ngôi nhà cậu tôi. Một mối buồn bao la xâm chiếm lòng tôi lúc vừa thoáng nhìn thấy đầu hiên vàng vọt, và những cánh song hồ màu lục nhạt phân vân. Mọi vật xem chừng như vẫn giữ nguyên trạng thái ngày trước; duy chỉ cần phải tới nhà người tá điền để lấy chiếc chìa khóa. Lúc những cánh cửa đã mở ra, tôi cảm động nhìn những ghế bàn cũ kỹ còn nguyên tình trạng xưa, và thỉnh thoảng được người ta lau chùi trở lại. Chiếc tủ cao bằng gỗ hồ đào, hai tấm họa flamand (thuộc miền Flandre) mà thiên hạ bảo là tác phẩm của một nhà hội họa ngày xưa, vốn là tổ phụ của chúng tôi. Nhiều tấm ấn họa và cả một série những tháp họa của tác phẩm Emile và La Nouvelle Héloïse do họa sĩ Moreau. Trên bàn, một con chó độn rơm mà tôi quen biết xưa kia thuở nó còn sống, vốn là người bạn đường của tôi trong những cuộc chạy nhảy trong rừng, con chó carlin ngắn mõm, con chó carlin cuối cùng có lẽ, vì nó thuộc nòi chó đã mất giống ngày nay.
"Còn con két", người tá điền bảo, "nó vẫn còn sống. Tôi mang về bên nhà."
Khu vườn phơi bày một bức tranh lộng lẫy những cây lá hoang dại. Trong một góc vườn, tôi nhận ra được một cụm vườn của trẻ nhỏ mà ngày xưa tôi đã vạch cho mình. Tôi hồi hộp vào phòng văn. Vẫn còn đó, tủ sách nho nhỏ đầy những sách chọn lọc, những bạn già thân thiết của kẻ đã lìa đời, và trên bureau, vài mảnh vụn lượm nhặt ở ngoài vườn, những lu, bình, những mề đay La Mã, con-lét-xon địa phương đã xui lòng cậu tôi sung sướng.
“Ta đi viếng con két nhé”, tôi bảo người tá điền. Con két vẫn đòi ăn, như những ngày huy hoàng quá khứ, và nhìn tôi bằng con mắt tròn trịa với viền da xung quanh nhăn nhíu, xui ta liên tưởng tới cái nhìn duyệt lịch của những kẻ lão thành.
Lòng tràn đầy những ý tưởng buồn bã do trở về muộn màng những nơi chốn thân yêu, tôi cảm thấy cần gặp lại Sylvie, khuôn mặt sống động duy nhất và còn tươi trẻ đó, để thắt giây liên lác giữa tôi với xứ sở này. Tôi lên đường về lại xóm Loisy. Vào khoảng đứng trưa. Mọi người ngủ yên, mỏi mệt vì buổi hội. Tôi có ý muốn khuyây khỏa nỗi lòng bằng một cuộc đi dạo viếng Ermenonville, cách một dặm đường rừng. Trời huy hoàng mùa hạ. Tôi hài lòng trong bầu không khí ấm áp và mát mẻ trên con đường giống như lối đi trong một hoa viên. Những cây sồi to lớn xum xuê sắc lục một màu đen, xen lẫn những thân cây phong trắng bạch, cành lá đong đưa rún rẩy. Chim chóc im lìm, chỉ nghe tiếng chim gõ kiến đang đưa mỏ đập vào cây để đào hang làm tổ. Chợt tôi nhận thấy mình có thể lạc mất lối đi, vì trên những cột trụ chỉ đường, bảng ghi chữ đã rã rời nhiều chỗ. Cuối cùng, tôi đành bỏ khu Désert bên tay trái, bước tới chỗ ngã năm khiêu vũ, tại đó còn tồn tại chiếc ghế của những người già. Bao nhiêu kỷ niệm về thời triết học, bỗng tái sinh trong vong hồn kẻ sở hữu đất đai này, chợt xô ùa về trong trí tôi một lúc, trước sự thể hiện bằng mỹ cảnh của tinh thần phong vận học Anacharsis và Émile.
Lúc tôi nhìn nước mặt hồ lấp lánh qua những cành liễu và những cành cây trăn, tôi chợt nhận ra hoàn toàn một nơi chốn mà xưa kia, trong những cuộc đi dạo, cậu tôi vẫn thường dẫn tôi tới nhiều lần: đó là Điện đài triết học, mà kẻ sáng lập ra đã không gặp được cái may mắn hoàn thành. Nó mang cái hình dạng đền vu tiên tri Tiburtine, và nép mình dưới bóng một cụm tùng, nó còn đứng được tại đó để mở phơi ra ngoài mọi tên tuổi lẫy lừng của cõi miền tư tưởng, khởi đầu bằng Montaigne và Descartes, và dừng lại với Rousseau. Tòa lâu đài dở dang nọ, ngày nay chỉ còn là một phế tích. Sắn bìm, đằng la, hèo trường xuân, mây viễn hạ, tha hồ mà vấn leo quấn quít. Những bụi ngấy, những cụm dum, những chùm chà là, những khóm dứa dại, tha hồ thi nhau tràn ngập những bệ thềm hở hang, rã nứt. Tại đó, thuở còn bé con, tôi đã thấy những hội hè, những lễ lạc, với những phần thưởng cấp phát đền bù cho việc học hành, và hạnh kiểm. Nhưng đâu là những cụm tường vi đã từng kỷ độ đâm bông vấn quanh ngọn đồi thơ dại? Và mỉm cười ngang ngửa với sim lục bơ vơ? Giờ chỉ còn dã-tường-vi-hoang dại và phúc-bồn-tử buông tuồng đang phủ lấp mất những du dương hồng cũ, những nụ cuối cùng e ấp đang định liều mình nhắm mắt dấn thân vào nhập cuộc với cỏ cây hoang. Còn những cụm nguyệt quế, có phải con người ta đã chặt đứt mất rồi, như lời trong dao ca - của những gái tơ đìu hiu hát trong sương sớm, không còn muốn vào rừng nữa, vì biết rằng sẽ không hy vọng tao phùng? Hỡi ôi, những đời cỏ hoa mỏng mảnh kia của non nước dịu dàng Ý Đại Lợi, đã đành tử diệt dưới bầu trời u ám của chúng ta. May thay, cây thuỷ lạp của Virgile vẫn còn đâm bông tại đó, như dường gắng gổ chống chỏi để bênh vực cho lời của bậc thầy còn ghi tạc phía tên tấm cửa đằng kia: Nhân vì trí huệ tối cao. Dựng hồn vân thạch, tạc vào sử xanh. Vâng, điện đài này cũng nhào đổ điêu tàn như bao nhiêu điện đài khác, những con người mau quên lãng, những con người mỏi mệt cuộc phù du, sẽ quay mặt đi, không ghé thuyền cập bến, không lần mò tới loanh quanh các miền phụ cận để gùn ghè gạ gẫm vì xa nghe cũng nức tiếng nàng tìm chơi – và thiên nhiên thiên thu hờ hững sẽ hồn hồn ngạc ngạc xâm chiếm trở lại cái mảnh đất đai giang hồ tứ chiếng, mà nghệ thuật đã đoạn trường đau xót vùng vẫy tương tranh để giành lại cho đời; nhưng khát vọng của tri thức tệ năng của thiên thu bất diệt, di động xuê xoang bằng mọi sinh khí uy quyền tồn lưu kêu linh hoạt.
Đây những ngọn bạch dương của hoang đảo, và nấm mộ Rousseau không còn di hài Rousseau trong đó nữa. Hỡi bậc chân nhân hiền thánh! Ngươi đã từng mang bầu sữa mạnh về hạ tứ ban cấp chúng tôi, nhưng chúng tôi đã quá hèn yếu, thì sữa đó đã không giúp ích được gì. Chúng tôi đã quên lãng những bài học mà tổ phụ chúng tôi đã lĩnh hội được, và chúng tôi đã đánh mất ý nghĩa trong nội dung lời ngài, cái tiếng vang cuối cùng của những mạch nguồn thiêng liêng nguyên thủy. Tuy nhiên, chúng tôi cũng xin không tuyệt vọng và cũng xin bắt chước Người trong phút giây vẫy vùng tối thượng, chúng tôi xin quay mặt lại, đưa hai con mắt mà hướng về mặt trời.
Tôi đã nhìn thấy trở lại cung điện cũ, những làn nước tĩnh mịch bọc quanh, ngọn thác than van trong sa thạch, và con đường cao băng qua đồng ruộng, nối liền hai khu xóm của khu làng khang tịnh lại với nhau, mà bốn cái chuồng bồ câu êm đềm đánh dấu cho bốn góc, và nội cỏ xanh rợn đến chân trời như một đại-thảo-nguyên đìu hiu trải trên hồn lục địa, dàn cơn mộng dưới bầu trời, bên điệp trùng những đồi núi long lanh. Ngọn tháp Gabrielle tự xa xôi đằng kia phản chiếu bóng trên mặt những đợt nước một tấm “giả hồ” với những nụ hoa phù du lấp lánh như sao trời sắp sửa rụng; bọt bèo sôi sục, côn trùng xào xạc kêu… Phải thoát ra khỏi vòng lung trạo của bầu khí âm hiểm tai hại kia, đang bốc hơi len lỏi rập rình xâm chiếm những sa thạch nhuốm bụi đầy mình của hoang vu sa mạc và những đồng hoang truông đèo xuôi ngược, với những lùm cây hông tía đang ỡm ờ đùn đẩy màu lục nhạt của dương xỉ phơ phất mảnh đuôi chồn từng ngọn lắt lay. Tịch mịch rầu rĩ xiết bao, ôi linh hồn phong cảnh! Con mắt nhìn kỳ diệu của Sylvie hân hoan cuồng hỉ, những cơn chạy của nàng, những tiếng kêu vui sướng của em, một ngày kia xa lắm đã đem về bao quyến rũ cho những chốn tôi vừa viếng trong hoài niệm đăm chiêu. Ngày kia em còn là một cô bé hoang vu man dại, chân em trần, gót em trụi, mắt cá em truồng, da em sần bánh mật bồ quân, mặc dù em có đội đầu chiếc mũ rạ rộng vành phiêu hốt với dải băng rộng tung bay bồng bềnh với làn tóc tơ đen múa rối. Chúng ta đã đi uống sữa tươi ở nông trại Thụy Sĩ, trên gò cao, đống rộng, và người ta đã bảo tôi rằng: “Chú bé Parisien ạ, cô bồ của chú xinh đẹp vô ngần!” Ồ! Thuở đó, đâu có dễ gì một gã nông dân được diễm phúc múa vòng cùng với em khiêu vũ. Em chỉ múa vòng với tôi thôi, mỗi năm một lượt, vào dịp lễ bắn cung cũng gọi là hội đố lá.
X. Chàng cao tóc quăn
Tôi lại theo con đường về lại xóm Loisy; mọi người đã thức giấc. Sylvie vận một bộ trang phục tiểu thư rất mực đài các, xấp xỉ phong vận phồn hoa. Nàng đưa tôi lên phòng với tất cả niềm thơ ngây ngày trước. Con mắt nàng vẫn sáng ngời trong nụ cười kiều diễm, nhưng vòng cung hàng lông mày đậm nét, đôi lúc đã làm cho gương mặt nàng nhuốm một vẻ trang nghiêm. Phòng trang hoàng giản dị, tuy nhiên bàn ghế lại thuộc loại kim thời, một tấm gương khung vàng đã thay thế chiếc gương cũ treo trên lò sưởi ngày xưa. Lại có một hình chàng mục tử của Tình Ca đang trao tặng một cái tổ chim cho một cô chăn cừu hồng vàng xanh lục. Chiếc giường xưa với những cột mùng trinh bạch phủ thứ vải Ba Tư chim cò lá cành, đã bị thay thế bằng một chiếc giường gỗ hồng đào với diềm hà phụng hoa loan; nơi bệ cửa sổ, trong chiếc lồng nhốt chim bông lau bạc má xưa kia, bây giờ lại nhốt chim kim tước. Tôi mong muốn sớm được ra khỏi căn phòng kia, căn phòng chẳng còn lưu một chút gì của mùi hương quá khứ. “Ngày nay em không còn thêu thùa đen-ten nữa?..." Tôi hỏi Sylvie. "Ồ! Em chẳng thêu đen-ten nữa, chẳng còn ai dùng thứ đó nữa trong làng; ngay cả ở Chantilly, cái sở lớn cũng đóng cửa rồi." – "Thế em làm gì?” Nàng đi lại góc phòng lấy ra một dụng cụ bằng sắt giống hình một cái kẹp dài. “Đó là cái chi vậy?" – "Người ta gọi đó là kẹp máy; dùng để kẹp da găng lại mà thêu." – "Thế ra em đã thành cô thợ dệt găng tay?" "Vâng, chúng em làm việc để cung cấp cho một quận Dammartin, công việc cũng bề bộn lắm; nhưng hôm nay thì rảnh; anh lại muốn dẫn em đi đâu thì đi đó”. Tôi quay mặt ngó về phía làng Othys: nàng lắc đầu; tôi hiểu rằng bà dì không còn nữa. Sylvie gọi một thằng bé, bảo nó thắng cương yên một con lừa. “Hôm nay em còn mệt mỏi vì buổi hội hôm qua, nàng nói, nhưng đi dạo chắc sẽ làm em khỏe khoắn ra, chúng ta hãy đi Châalis”. Và thế là chúng tôi lên đường băng qua rừng rú, theo sau là thằng bé con con, tay cầm một cành cây như khí giới tháp tùng. Chẳng mấy chốc, Sylvie muốn dừng chân, tôi hôn nàng, dìu nàng ngồi xuống. Câu chuyện giữa chúng tôi, bấy giờ chẳng thể nào còn thân mật nữa. Tôi phải kể lại nàng nghe cuộc sống của tôi tại Paris, những chuyến du lịch… “Làm sao người ta có thể đi xa đến thế?" Nàng hỏi…
"Tôi lấy làm lạ về điều đó khi gặp em." – "Ồ! Cái đó tất nhiên!" – "Và hãy nhìn nhận rằng xưa kia em không xinh đẹp bằng." – "Em chẳng rõ." – "Em còn nhớ cái thuở chúng ta còn bé con, và em thì lớn hơn anh một chút?" – "Còn anh thì ngoan hơn em!" "Ồ! Sylvie!" – Người ta đặt hai đứa lên lưng con lừa, mỗi đứa ngồi đong đưa trong một cái thúng ở hai bên hông con lừa. – Và ngày đó em gọi tôi bằng một lối xưng hô rất khác… "Em có nhớ rằng em đã bày vẽ cho anh câu tôm ở phía dưới những nhịp cầu sông Thève và khe Nonette?" – "Và anh, anh có nhớ người anh em sữa của anh, người con của bà vú nuôi anh, ngày nọ đã kéo anh lên vì anh chìm lỉm xuống xiết nước?" – "A! Chàng cao tóc quăn! Chính anh ta đã từng nói với anh rằng có thể lội qua… lội qua xiết nước!”
Tôi vội vã đổi câu chuyện. Kỷ niệm đó nhắc tôi nhớ lại rõ ràng cái thuở tôi tới miền này, vận một bộ y phục lối bé con Anh Cát Lợi, làm cho các anh nông dân cười thật dữ. Riêng Sylvie coi là tôi ăn vận được lắm; nhưng tôi không dám gợi lại cho nàng nhớ ý kiến đó của một thuở xa xôi lăng lắc. Chẳng hiểu vì sao tôi lại nghĩ tới những bộ y phục hôn lễ mà chúng tôi đã vận vào mình tại nhà bà dì ở Othys. Tôi hỏi Sylvie ngày nay những bộ quần áo đó ra sao. “A! Bà dì tốt quá", Sylvie nói, "bà có cho em mượn tấm áo đó để đi khiêu vũ trong ngày hội hóa trang tại Dammartin, kể ra đã được hai năm rồi. Năm sau, bà mất, tội quá!”
Nàng thở ra, nàng khóc, và tôi không thể hỏi bởi hoàn cảnh trường hợp nào nàng đã đi dự hội một buổi hội hoá trang; nhưng cũng đoán hiểu rằng nhờ cái tài khéo tay, khôn ngón của nàng, Sylvie không còn là một cô nông dân cục mịch. Chỉ cha mẹ nàng nằm yên trong phận, và nàng đã sống bên cạnh cha mẹ như một nàng tiên mẫn tài trí, xảo diệu tay chân, gieo rắc mưa móc phì nhiêu ra bốn phía.
X. Trở lại
Ra khỏi khu rừng, nhãn quang nhìn khung trời mở rộng. Chúng tôi đã tới bên bờ những hồ nước Châalis, những hồi lang của tu viện, ngôi nhà thờ với những ngọn tiêm cung dong dỏng cao vút ngọn tháp thời phong kiến và ngôi điện nho nhỏ đã nung nấu che chở những tình ái u nùng, giữa hoàng đế Henri đệ tứ và nương tử Gabrielle tất cả đều nhuốm màu ráng đỏ hoàng hôn man mác bao phủ màu lục đậm núi ngàn. “Đó là một phong cảnh của Walter Scott, phải không anh?” Sylvie nói. – "Ai đã nói với em về Walter Scott? Thế thì từ ba năm nay, em đọc sách nhiều lắm?... Anh, anh gắng quên sách vở, và cái gì thu hút anh, cái gì anh mơ ước, ấy là chính cùng em nhìn lại ngôi tu viện cũ kỹ này. Em nhớ đó, chính đấy là chỗ thuở nhỏ chúng mình đã trốn nhau giữa những phế tích hoang tàn. Em nhớ không, Sylvie, khi người kiểm lâm kể cho chúng ta nghe sự tích những tu sĩ áo đỏ, thì em đã sợ hãi như thế nào?" – "Ồ! Anh đừng nói chuyện đó với em nữa." – "Vậy thì em hãy ca cho anh nghe bài ca của cô gái xinh đẹp bị bắt đi khỏi khu vườn của cha mẹ, dưới cây bạch tường vi." – "Ngày nay, người ta không ca bài đó nữa." – "Chẳng lẽ em đã trở thành nhạc sĩ hay sao?" – "Chút ít." – Sylvie, Sylvie, anh tin chắc rằng em ca những điệu nhạc kịch trường! – "Anh phàn nàn ư? Có chi để phiền trách?" – "Bởi vì anh yêu chuộng những điệu hát xưa, và em sẽ không còn hát chúng nữa.”
Sylvie ngân lên vài thanh âm một điệu nhạc lớn kịch trường… Hỡi ôi nàng uốn giọng cao kỳ!
Chúng tôi đã đi vòng những hồ nước bên. Đây đồng cỏ xanh lục, xung quanh sum sê bồ đề và tiểu du, tại đây chúng tôi xưa kia từng đã múa vòng bao phen! Tôi thở cơn tự ái, lên tiếng định nghĩa những hàng chữ trên những bức tường carlovingiens (thuộc thời đại các vua chúa Carlovingiens) và giải thích những huy hiệu huy chương nhà họ Este. “Anh! Anh đọc sách hơn em nhiều quá! Thế thì té ra anh là một nhà thông thái?”
Tôi hơi tức vì giọng nói pha ý phiền trách của nàng. Trước lúc bấy giờ, tôi vẫn loay hoay kiếm chừng một chỗ thích hợp để nói trở lại câu chuyện tâm sự buổi sáng; nhưng biết nói gì với nàng: phía sau, một con lừa lẽo đẽo hai tai, và một thằng bé tò mò tinh ranh, cứ thích len lỏi mò tới gần bên để nghe cái lối nói của ông kẻ chợ Parisien. Và thế đó, tôi đã không may mở miệng kể lại cho nàng nghe sự hiển hiện kỳ ảo tại Châalis, hiện còn nằm trong kỷ niệm của tôi. Tôi dẫn Sylvie vào chính cái căn phòng bữa trước, tại ngay cái chỗ tôi đã nghe Adrienne hát. “Ồ! Tôi chờ nghe em lên tiếng nói! Tôi bảo. Cầu sao cho giọng nói của em hãy dội lên dóng dả dưới những vòm cung điện này, và xua đuổi những thần linh đang day vò đầu óc tôi, dù là thần thiêng liêng hay ác hại!” Nàng lặp lại những lời và điệu hát:
Hỡi thiên thần, hay mau mau giáng hiện
Xuống tận cùng tĩnh-tội-giới thâm sâu…
"Thật là buồn bã!" Nàng nói.
"Thật là tuyệt diệu… Anh tưởng đó là của Porpora, với những vần thơ được phiên dịch vào thế kỷ mười sáu."
"Em chẳng rõ", Sylvie trả lời.
Chúng tôi đã quay trở về băng qua thung lũng, men theo con đường Charlepont mà nông đan thuần phác, chẳng cần biết tới cái lẽ phải trái của từ nguyên, cứ gọi trại ra thành Châllepont. Sylvie, ngồi trên lưng lừa đã mỏi, tựa mình vào cánh tay tôi. Con đường vắng vẻ; tôi gắng thử tìm cách nói về những nỗi niềm trong dạ, thật tầm thường, hoặc thình lình lại thốt một tiếng rỗng tuếnh tiểu thuyết, mà – Sylvie ắt có lẽ đã có đọc qua rồi. Và thế đó, tôi dừng lại theo phong vận rất cổ điển hào hoa, và Sylvie đôi lúc đã tỏ vẻ ngạc nhiên trước những tâm sự phơi bày nửa chừng thoắt dứt. Lúc tới sát những bờ tường Saint-Sulpice, thì phải coi chừng cái điệu bước, cái cách đi. Người ta băng qua những nội cỏ ướt át, có những dòng khe uốn éo quanh co. “Cô tu nữ ra sao?” Tôi thình lình hỏi.
"A! Anh thật là kinh khủng với cô nữ tu của anh… Ồ…! Thật là… chuyện cô ta, thật có bề không ổn.”
Sylvie không chịu nói thêm lời nào.
Có thật rằng đàn bà cảm thấy được rất rõ rằng một lời nọ, một lời kia, thốt ở trên môi, mà không tuôn từ tấc dạ? Không thể nghĩ như vậy được. Cứ xem các nàng bị phỉnh phờ nhầm lẫn quá dễ dàng. Cứ xem các cô chọn lựa thì rõ: có xiết bao kẻ đàn ông đóng thật giỏi cái tuồng cua gái, yêu đương! Tôi chẳng quen nổi với sự đó, mặc dù biết rằng có đôi cô chấp thuận một cách có ý thức cái việc để cho thiên hạ lừa dối. Không cần là thật hay giả. Cứ nghe bừa cho xong. Nhưng tôi biết làm sao được. Vả chăng, một mối tình kết giao từ thuở nhỏ, là một cái gì thiêng liêng… Sylvie, tôi đã thấy nàng từ bé, lớn dần dần, đối với tôi cũng là một đứa em gái. Tôi không thể mở cuộc quyến rũ dã man… Một ý nghĩ khác xuyên qua óc tôi. “Giờ này, tôi tự nhủ, ở Paris ắt là ta đương ở rạp hát… Thế thì Aurélie (tên cô đào) chiều nay đóng vai tuồng gì? Hẳn nhiên là nàng thủ vai công chúa trong vở kịch mới. Ồ! Ở lớp thứ ba, trông nàng thật là đáng yêu nên cảm kích!... Và trong cái xen yêu đương ở lớp hai! Với cái anh chàng một, mặt mày nhăn nhíu…
"Anh đang cơn say suy ngẫm?” Sylvie nói và mở môi hát:
Tại Dammartin có ba cô gái đẹp:
Riêng có một cô đẹp hơn trời mai sớm…
Riêng một cô kiều diễm hơn sớm mai…
“A! Cô này dã man thật!” Tôi thốt to, thế mà cô dám nói rằng cô không còn biết hát những điệu hát xưa!
“Nếu anh năng lui tới đây nhiều hơn một chút, thì ắt em sẽ nhớ ra nhiều điệu nữa nhưng phải lo nghĩ tới cái gì thiết thực. Anh có công việc của anh tại Paris, em có công việc của em tại đây. Đừng về trễ quá. Ngày mai em còn phải lo dậy sớm cho kịp bước mặt trời.”
Nguồn: Tân An xuất bản tại Sài Gòn trước 1975, An Tiêm xuất bản tại hải ngoại 1990.
Mùi hương xuân sắc
Bùi Giáng dịch
VII. Châalis
Bốn giờ sáng, con đường chìm trong một nếp đất trồi sụt xuống lên, con đường nhoi trở lên trở lại. Chiếc xe sắp đi ngang qua vùng Orry, rồi La Chapelle. Phía bên trái, có một đường chạy dọc theo khu rừng Hallate. Chính đó là chỗ một đêm kia người anh của Sylvie đã đánh chiếc xe ngựa đưa tôi đi dự một buổi lễ uy nghi. Ấy là vào đêm ngày lễ Saint-Barthélemy. Xuyên qua những khu rừng, bằng những con đường vắng vẻ, ít dội gót chân người, con ngựa bé của anh phi như bay, giống như trong dạ hội ma thuật. Chúng tôi bắt lại đường lát đá nơi nhà người lính kiểm lâm, tại chỗ tu viện Châalis xưa. Châalis, lại thêm một kỷ niệm nữa đây rồi!
Nơi dưỡng lão của những vị hoàng đế xa xưa ngày này chẳng còn chi để ngợi ca lắm; chỉ những phế tích của tu viện mình, với những khung cửa tò vò hình bán nguyệt byzantin (thể điệu kiến trúc Thổ Nhĩ Kỳ xưa) và dãy cuối cùng còn phơi hình hài biển dâu trên làn nước hồ đang nhìn tang thương mà cau mặt – chút di lưu còn sót lại trong quên lãng của ký ức người đời về những công trình kiến thiết cung hiến cho miền cõi thiêng liêng, nằm ngẩn ngơ trong ngậm ngùi thương nhớ giữa những vùng đất đai mà ngày xưa thiên hạ gọi là phân-tô-địa của hoàng đế Charlemagne. Trong cái xứ sở cô tịch hoang liêu này, xa biệt hẳn những bụi đường phồn hoa dấy động, thì tôn giáo còn gìn giữ được những vết tích đặc thù của cuộc cư tưu đằng đẵng của những vị hồng y giáo chủ dòng Este thuộc triều đại tộc họ Médicis: những thói nhà phong vận, những chất hằng trâm anh của thiêng liêng bờ cõi, còn giữ được chút gì cốt cách hào hoa, còn có pha chút gì của phong thái thơ mộng, và con người tao nhã đi về thương yêu hồi tưởng, còn thở được chút hương lừng man mác buổi Phục Hưng dưới những vòm hình cung bán nguyệt của những ngôi nhà thờ nho nhỏ, khía cạnh gieo hồn, đường gân heo hút được trang hoàng bởi bàn tay tài tử của những nghệ sĩ u nùng từ Ý Đại Lợi ghé chơi. Uy nghiêm khuôn mặt tuyệt vời, Thiên Thần, Hiền Thánh trang đời thiên thu. Về đây gọi nước non mù. Dàn xuân sắc dải hoang vu hồng vàng. Pha mờ dấu biếc xuê xoang. Vong hồn ngẫu tượng ngụ trong tính tình. Sôi trào dòng mộng hiển linh. Tình Pétrarque với u tình Colonna. Hoang đường thần bí dư ba. Còn nghe nức nở chan hòa đâu đây… (Les figures des saints et des anges se profilent en rose sur les voûtes peintes d'un bleu tendre, avec des airs d'allégorie païenne qui font songer aux sentimentalités de Pétrarque et au mysticisme fabuleux de Francesco Colonna).
Chúng tôi là những kẻ lai rai phiêu hốt, người anh của Sylvie và chúng tôi có phận sự gì, lấy tư cách gì mà vào dự hội riêng biệt sử hồng được tổ chức đêm kia? Thôi thì tạm nói rằng gió thanh xuân xô đẩy, tấp chúng tôi vào bờ của hồng xum xuê. Xin chào nhau trong một cơn trở mộng. Rồi mai sau trùng ngộ sẽ chia lìa. Một nhân vật chính tông trâm anh đài các, vốn bấy giờ là kẻ sở hữu vùng đất đai này, đã có dự cái cuộc trình diễn tượng trưng huê hòe ẩn dụ hòa an hồ điệp và trong cuộc nọ có xen vào vài mỹ nữ vốn thuộc nòi kỳ túc của một tu viện láng giềng trên trận gió thổi qua. Ấy không phải là một vang bóng mơ hồ những vở kịch đã đi về trong sương bạc Saint-Cyr của thời vua Louis Thập Tứ dìu đặt với bà Maintenon trong từng trận đâm bông của cái buổi thi bá Racine ra chào đời trong lừng vang điệu nhạc. Ấy còn lùi xa hơn về hút heo quá khứ, tới tận cùng miên bạc bẻ bai rầu rĩ của những vong hồn năm tháng cũ đã trữ tình và giải tỏa nếu du dương trong những cuộc dạt bờ vào đất Pháp kể từ thời đại họ Valois. Những gì tôi thấy, những gì tôi nghe, trong cái đêm kỳ ảo nọ, chính là những gì khôn tả còn truyền vọng lời vàng trong bí mật sử xanh. Những y phục gấm hoa, những áo dài, xiêm ngắn, những hồng quần rất mỏng, những tà áo rất thưa, có khác nhau chăng nữa, cũng chỉ băng nơi những màu thanh thiên, lục thúy hoàng, sa, yên hà, man mác khánh vân chiều, bàng hoàng hồng sương sớm, tía hoa cà lổ đổ, lồng lộng tử trúc lâm. Cảnh tượng diễn ra giữa chư thần chư thánh, bùi ngùi chư tiên tử, trên tàn rụng mặt biển dâu. Thanh xuân gọi nước lên cầu. Hồng hoang núi ngủ yên sầu gió khe. Chín mùa dông đổ sau hè. Bây giờ máu ứa trôi về tràng giang. Mây vừa tía, mộng lang thang. Vết chăn vẽ sóng chìm ngang lưng đèo… La scène se passait entre les anges, sur les débris du monde détruit. Chaque voix chantait une des splendeurs de ce globe éteint, et l'ange de la mort définissait les causes de sa destruction… Cảnh tượng diễn ra giữa các thiên thần, trên những mảnh vụn của cõi đời bị tàn phá. Mỗi giọng ngâm, mỗi hát lên một trong những tráng lệ của doanh hoàn tắt lịm, và thiên thần của tử diệt đang xác định những nguyên cớ của diệt vong. Một vị thần linh nhô hình hài lên từ đáy thẳm, tay cầm một ngọn lửa chói chang và triệu tập chư tiên hãy tới nhanh mà mừng rỡ hoan nghênh đón tiếp thịnh triều vinh hiển của Jésus Christ chiến thắng những quỷ ma u ám cõi âm ty. Vị thần linh đó, chính thị là nương tử Adrienne đã từng có phen đi về trong câu hát, đã tạm chết một đêm rằm trong nước xanh, và bây giờ đã hồi sinh trong xiêm nghê biến dạng, như đã từng biến thể bởi tiếng gọi của tài tình tài tử đã ra ngoài phát tiết trận tinh anh. Cái vầng hào quang làm bằng giấy carton nhuộm thắm, bao bọc cái vầng trán bao la thanh khiết, chúng tôi nhìn vào và xem đó quả là một vòng ánh sáng thật sự đang chiếu rọi hào quang một cách thật thiên nhiên; giọng hát của nàng, kể từ bấy tới nay, đã tăng gia cao điệu lồng lộng viễn khơi như hà thanh một thuở, và những rung vang hoa hòe điểm xuyết còn rún rẩy suốt cõi bờ của bầu trời Ý Đại Lợi trong vi vút trường phong với những ca xoang đạm tiên nàng ấy vốn xưa là nổi danh tài sắc chan hòa chiêm bao. Biển dâu sực tỉnh yêu đào. Xuân phong tiếu bộ ai nào gọi ai.
En me retraçant ces détails, j'en suis à me demander s'ils sont réels, ou bien si je les ai rêvés. Ghi lại những chi tiết này, tôi chợt dừng tay tư lự, tự hỏi mình: chẳng biết chúng thật là có thật, hay lại là do mình huyễn mộng mơ ra. Người anh của Sylvie đêm đó có ngà ngà say một chút. Chúng tôi đã dừng lại nơi nhà người giám thị sơn lâm - tại đó, có một sự xui tôi vô cùng kinh ngạc: một con thiên nga vi vu giang rộng cánh bên khung cửa hẹp ngậm ngùi, còn phía bên trong, thì có những chiếc tủ cao bằng gỗ hạnh đào lóng lánh những hình trạm trổ thật long lanh, một cái đồng hồ horloge chễm chệ trong vỏ gỗ-đào-hoa tâm, và những giáp binh, những ngọc trụ có treo đao kiếm, cung tên, ở phía trên một tấm thẻ xạ thuật đỏ xanh sặc sỡ. Một người lùn kỳ dị, đầu đội nón ba tàu, một tay cầm một cái bình, tay kia cầm chiếc nhẫn, như dường đang mời mọc các xạ thủ hãy nhắm cho trúng đích. Người lùn nọ hình như là làm bằng những mảnh tôn cắt ra ghép lại. Những sự hiển hiện kỳ ảo tuyệt thế tài tình của anh hoa phát tiết tài hoa Adrienne, có thật là có thật như những chi tiết phiêu bồng kia, như sự hiện hữu đìu hiu không cách gì chối cãi của tu viện Châalis? Nhưng quả thật tuy nhiên là như vậy, chính đứa con trai của viên giám thị sơn lâm đã dắt chúng tôi vào trong căn phòng làm trường sở cho cuộc trình diễn nọ ấy mà. Chúng tôi đứng tựa bên khung cửa hẹp, đứng sau lưng một nhóm người đông đảo đang tề tựu ngồi nhìn và kích động một cách thật trang nghiêm. Chính là vào cái ngày lễ Saint-Barthélemy, được gắn liền một cách kỳ bí vào với kỷ niệm hoàng tộc Médicis, mà những binh khí di lưu còn kết treo liền bên những gươm đao nhà họ Este, hiện đang đề huề trang hoàng xuân thu cho những tường vách cũ nọ… Kỷ niệm kia có lẽ chỉ là một ám ảnh! May mắn làm sao, này đây là chiếc xe đang tới, chiếc xe dừng trên con lộ Plessis; tôi thoát ra khỏi vòng cuốn hút của mộng ảo mê ly, tôi chỉ còn mười lăm phút bộ hành để về tới xóm Loisy trên những con đường cô tịch.
VIII. Cuộc khiêu vũ tại Loisy
Tôi vào giữa cuộc Loisy. Lúc giờ ủ rũ trên kỳ ủ ê. Êm đềm ánh sáng mô tê. Mần răng như rứa coi tề tái xanh. Rập rờn ngày tới đương nhanh. Trường phong khêu gợi biên thành liễu buông. Bồ đề tát thúy ngõ thuôn. Diên trì thời hạn trên nguồn sử xanh. Ngọn trồng vòi või thiên thanh. Cơn dầu phôi dựng long lanh sáo ngà. Dậy dàng điền dã âm ba. Thôi rồi thua cuộc chan hòa họa mi…
Je suis entré au bal de Loisy à cette heure mélancolique et douce encore où les lumières pâlissent et tremblent aux approches du jour.
Tôi bước vào cuộc hội múa vòng tại Loisy vào cái giờ sầu u và êm dịu của bình minh mới chớm, và ánh nhợt rung rinh trước ngày về sắp tới. Những cây bồ đề, thân dưới còn nhòa tối, trên ngọn đã pha màu sáng xanh lơ. Tiếng sáo đồng quê không còn tranh chấp thiết tha nữa với giọng họa mi uốn éo chiên âm. Mọi người đều xanh xao, và nhìn khắp những nhóm người thưa thớt, tôi khó lòng gặp lại những khuôn mặt quen thân. Cuối cùng, tôi nhìn thấy nàng Lise dong dỏng, chị một cô bạn thiết của Sylvie. Nàng ôm tôi hôn. “Lâu ngày chẳng gặp anh đâu, anh kẻ chợ ạ, nàng nói. - Ồ! Vâng lâu lắm. Anh tới vào cái giờ này ư? - Bằng giao thông xe ngựa. – Và thật chẳng quá xá là nhanh! – Tôi muốn thăm Sylvie; nàng có còn trong cuộc múa? – Nàng sẽ tới vào lúc sáng trời. Nàng thích khiêu vũ xiết bao.”
Một lát sau, tôi đã đứng bên cạnh nàng rồi. Gương mặt nàng có vẻ mỏi mệt; tuy nhiên con mắt đen láy của nàng vẫn sáng ngời nụ cười gái Athénienne ngày cũ. Một chàng trai đứng cạnh nàng. Nàng ra dấu cho chàng ta hiểu: nàng xin khước từ cuộc múa đối diện sắp tới. Chàng ta chào và rút lui.
Ngày đã sáng. Chúng tôi rời cuộc khiêu vũ, bước ra, tay nắm tay. Những đóa hoa tà tà xiêu lệch trên mái tóc lõa xõa xuôi giòng. Chùm bông trên ngực rung cánh trên những miếng đen-ten nhàu rã. Tôi xin phép được đưa nàng về nhà. Trời đã sáng, nhưng khí trời ủ rũ. Giòng sông Thève xào xạc chảy bên bờ. Những khúc quành, nước vòng xoay lặng lẽ, nước tụ im lìm. Những cánh hoa sen mở phơi màu vàng, màu trắng. Những đóa bọt nước thêu thùa chợt vỡ tan như những hàng hoa cúc trắng. Đồng ruộng đầy rẫy những lượm lúa vừa mới cắt xong, và những đống rơm khô, và những đống rạ, và những mùi hương hắc hắc bốc hơi nồng, không đủ xui lòng tôi ngây ngất, như đã làm tôi ngây ngất xưa kia với những mùi thơm của hoa ngàn, của lùm cây, của cụm lá, của sơn-trà-tử ban đầu.
Chúng tôi không có ý băng qua những cánh đồng kia nữa. “Sylvie ạ, em không còn yêu tôi nữa phải không?” Nàng thở dài một cái. “Anh ạ, trước sau gì, rồi cũng phải liệu cho hợp lẽ mà thôi. Chuyện đời nó bước đi không giống như lòng ta ước muốn. Xưa kia, anh có bảo em đọc La Nouvelle Héloïse, em đã đọc rồi, và em có run rẩy trước cái lời đầu tiên của sách: “Gái nào sẽ đọc sách này, gái đó sẽ hỏng mất thân”. Tuy nhiên em đã bỏ qua, em tin nơi lý trí của mình. Anh còn nhớ không cái ngày chúng ta vận vào thân mình những y phục hôn lễ của bà dì?... Những tháp họa trong cuốn sách cũng trình bày những kẻ yêu nhau trong bộ y phục thời trước, và thế đó, đối với em, anh đã là Saint-Preux, còn em, em đã nhận ra mình trong nhân vật Julie. A! Sao anh không sớm quay về ngày đó. Phải chi ngày đó anh chịu về. Nhưng em nghe người ta nói, ngày đó anh ở bên Ý Đại Lợi. Chắc hẳn là bên đất nước đó, anh đã có gặp nhiều những thiếu nữ đẹp hơn em! – Không. Sylvie ạ, không một kẻ nào có được cái nhìn của con mắt em, và những nét dịu dàng trong trắng trên khuôn mặt em. Em là một nữ thần thủy tiên không tự biết mình là tiên trong sóng lục. Vả chăng, những cụm rừng quận hạt này cũng đẹp có thua gì những phong cảnh La Mã bên kia. Đây có những khối hoa-cương-thạch tuyệt diệu chẳng thua gì bên đó, và một thác nước vì vèo, chảy từ ghềnh đá xuống, cũng giống như thác nước bên châu quận Terni. Bên đó, anh không có thấy gì khả dĩ xui anh về đây mà còn nhớ tiếc.
"Còn ở Paris?" Nàng hỏi – "Ở Paris…”
Tôi lắc đầu không đáp.
Bỗng dưng tôi nhớ tới cái hình ảnh hão huyền đã lung trạo xô đẩy tôi lạc nẻo suốt bao ngày.
Sylvie, chúng ta dừng tại đây, em bằng lòng chứ?
Tôi quỳ xuống bên chân nàng; tôi khóc như mưa, thú nhận với nàng những bao nhiêu dùng dằng xuôi ngược, những do dự bần thần, những bàng hoàng luông tuồng ảo vọng tôi gợi lại cái hình hài quỷ dị quái ác đã đi qua trong kiếp sống của mình.
"Em hãy giải cứu cho anh, anh xin trở về cùng em mãi mãi."
Nàng đưa mắt nhìn tôi. Nàng cảm động vô cùng…
Bỗng lúc đó, câu chuyện bị cắt ngang vì một tràng cười mãnh liệt. Đó là người anh của Sylvie đang chạy tới, anh mộc mạc vui cười cách điệu nông dân, lại thêm những yến ẩm tràn lan đêm dạ hội càng làm cho cốt cách nặng thêm ra. Anh gọi chàng si tình kia lại, anh chàng thấp thỏm yêu đương đang mất dạng ở xa kia, sau những lùm cây hoang dại. Anh chàng đó cũng chân nam đá chân xiêu như ông bạn của mình. Anh chàng kia dường như bối rối bởi sự hiện diện của cái cậu Parisien phong nhã này còn hơn là lúng túng bởi sự hiện diện của Sylvie. Gương mặt thật thà, chất phác của anh ta, lòng kính nể pha ngại ngùng của chàng ta, không cho phép tôi oán giận được, dù anh là cái kẻ đã xui em Sylvie nấn ná ở lại hội muộn màng. Tôi xét ra, anh chàng kia chẳng có gì đáng nên gờm sợ hết.
"Phải trở về nhà thôi", Sylvie nói với người anh. "Gặp nhau lần khác nhé!" Nàng bảo tôi và đưa má cho tôi hôn.
Kẻ si tình kia không lấy thế làm tức.
IX. Ermenonville
Tôi không chút ước ao muốn ngủ. Tôi đi Montagny viếng lại ngôi nhà cậu tôi. Một mối buồn bao la xâm chiếm lòng tôi lúc vừa thoáng nhìn thấy đầu hiên vàng vọt, và những cánh song hồ màu lục nhạt phân vân. Mọi vật xem chừng như vẫn giữ nguyên trạng thái ngày trước; duy chỉ cần phải tới nhà người tá điền để lấy chiếc chìa khóa. Lúc những cánh cửa đã mở ra, tôi cảm động nhìn những ghế bàn cũ kỹ còn nguyên tình trạng xưa, và thỉnh thoảng được người ta lau chùi trở lại. Chiếc tủ cao bằng gỗ hồ đào, hai tấm họa flamand (thuộc miền Flandre) mà thiên hạ bảo là tác phẩm của một nhà hội họa ngày xưa, vốn là tổ phụ của chúng tôi. Nhiều tấm ấn họa và cả một série những tháp họa của tác phẩm Emile và La Nouvelle Héloïse do họa sĩ Moreau. Trên bàn, một con chó độn rơm mà tôi quen biết xưa kia thuở nó còn sống, vốn là người bạn đường của tôi trong những cuộc chạy nhảy trong rừng, con chó carlin ngắn mõm, con chó carlin cuối cùng có lẽ, vì nó thuộc nòi chó đã mất giống ngày nay.
"Còn con két", người tá điền bảo, "nó vẫn còn sống. Tôi mang về bên nhà."
Khu vườn phơi bày một bức tranh lộng lẫy những cây lá hoang dại. Trong một góc vườn, tôi nhận ra được một cụm vườn của trẻ nhỏ mà ngày xưa tôi đã vạch cho mình. Tôi hồi hộp vào phòng văn. Vẫn còn đó, tủ sách nho nhỏ đầy những sách chọn lọc, những bạn già thân thiết của kẻ đã lìa đời, và trên bureau, vài mảnh vụn lượm nhặt ở ngoài vườn, những lu, bình, những mề đay La Mã, con-lét-xon địa phương đã xui lòng cậu tôi sung sướng.
“Ta đi viếng con két nhé”, tôi bảo người tá điền. Con két vẫn đòi ăn, như những ngày huy hoàng quá khứ, và nhìn tôi bằng con mắt tròn trịa với viền da xung quanh nhăn nhíu, xui ta liên tưởng tới cái nhìn duyệt lịch của những kẻ lão thành.
Lòng tràn đầy những ý tưởng buồn bã do trở về muộn màng những nơi chốn thân yêu, tôi cảm thấy cần gặp lại Sylvie, khuôn mặt sống động duy nhất và còn tươi trẻ đó, để thắt giây liên lác giữa tôi với xứ sở này. Tôi lên đường về lại xóm Loisy. Vào khoảng đứng trưa. Mọi người ngủ yên, mỏi mệt vì buổi hội. Tôi có ý muốn khuyây khỏa nỗi lòng bằng một cuộc đi dạo viếng Ermenonville, cách một dặm đường rừng. Trời huy hoàng mùa hạ. Tôi hài lòng trong bầu không khí ấm áp và mát mẻ trên con đường giống như lối đi trong một hoa viên. Những cây sồi to lớn xum xuê sắc lục một màu đen, xen lẫn những thân cây phong trắng bạch, cành lá đong đưa rún rẩy. Chim chóc im lìm, chỉ nghe tiếng chim gõ kiến đang đưa mỏ đập vào cây để đào hang làm tổ. Chợt tôi nhận thấy mình có thể lạc mất lối đi, vì trên những cột trụ chỉ đường, bảng ghi chữ đã rã rời nhiều chỗ. Cuối cùng, tôi đành bỏ khu Désert bên tay trái, bước tới chỗ ngã năm khiêu vũ, tại đó còn tồn tại chiếc ghế của những người già. Bao nhiêu kỷ niệm về thời triết học, bỗng tái sinh trong vong hồn kẻ sở hữu đất đai này, chợt xô ùa về trong trí tôi một lúc, trước sự thể hiện bằng mỹ cảnh của tinh thần phong vận học Anacharsis và Émile.
Lúc tôi nhìn nước mặt hồ lấp lánh qua những cành liễu và những cành cây trăn, tôi chợt nhận ra hoàn toàn một nơi chốn mà xưa kia, trong những cuộc đi dạo, cậu tôi vẫn thường dẫn tôi tới nhiều lần: đó là Điện đài triết học, mà kẻ sáng lập ra đã không gặp được cái may mắn hoàn thành. Nó mang cái hình dạng đền vu tiên tri Tiburtine, và nép mình dưới bóng một cụm tùng, nó còn đứng được tại đó để mở phơi ra ngoài mọi tên tuổi lẫy lừng của cõi miền tư tưởng, khởi đầu bằng Montaigne và Descartes, và dừng lại với Rousseau. Tòa lâu đài dở dang nọ, ngày nay chỉ còn là một phế tích. Sắn bìm, đằng la, hèo trường xuân, mây viễn hạ, tha hồ mà vấn leo quấn quít. Những bụi ngấy, những cụm dum, những chùm chà là, những khóm dứa dại, tha hồ thi nhau tràn ngập những bệ thềm hở hang, rã nứt. Tại đó, thuở còn bé con, tôi đã thấy những hội hè, những lễ lạc, với những phần thưởng cấp phát đền bù cho việc học hành, và hạnh kiểm. Nhưng đâu là những cụm tường vi đã từng kỷ độ đâm bông vấn quanh ngọn đồi thơ dại? Và mỉm cười ngang ngửa với sim lục bơ vơ? Giờ chỉ còn dã-tường-vi-hoang dại và phúc-bồn-tử buông tuồng đang phủ lấp mất những du dương hồng cũ, những nụ cuối cùng e ấp đang định liều mình nhắm mắt dấn thân vào nhập cuộc với cỏ cây hoang. Còn những cụm nguyệt quế, có phải con người ta đã chặt đứt mất rồi, như lời trong dao ca - của những gái tơ đìu hiu hát trong sương sớm, không còn muốn vào rừng nữa, vì biết rằng sẽ không hy vọng tao phùng? Hỡi ôi, những đời cỏ hoa mỏng mảnh kia của non nước dịu dàng Ý Đại Lợi, đã đành tử diệt dưới bầu trời u ám của chúng ta. May thay, cây thuỷ lạp của Virgile vẫn còn đâm bông tại đó, như dường gắng gổ chống chỏi để bênh vực cho lời của bậc thầy còn ghi tạc phía tên tấm cửa đằng kia: Nhân vì trí huệ tối cao. Dựng hồn vân thạch, tạc vào sử xanh. Vâng, điện đài này cũng nhào đổ điêu tàn như bao nhiêu điện đài khác, những con người mau quên lãng, những con người mỏi mệt cuộc phù du, sẽ quay mặt đi, không ghé thuyền cập bến, không lần mò tới loanh quanh các miền phụ cận để gùn ghè gạ gẫm vì xa nghe cũng nức tiếng nàng tìm chơi – và thiên nhiên thiên thu hờ hững sẽ hồn hồn ngạc ngạc xâm chiếm trở lại cái mảnh đất đai giang hồ tứ chiếng, mà nghệ thuật đã đoạn trường đau xót vùng vẫy tương tranh để giành lại cho đời; nhưng khát vọng của tri thức tệ năng của thiên thu bất diệt, di động xuê xoang bằng mọi sinh khí uy quyền tồn lưu kêu linh hoạt.
Đây những ngọn bạch dương của hoang đảo, và nấm mộ Rousseau không còn di hài Rousseau trong đó nữa. Hỡi bậc chân nhân hiền thánh! Ngươi đã từng mang bầu sữa mạnh về hạ tứ ban cấp chúng tôi, nhưng chúng tôi đã quá hèn yếu, thì sữa đó đã không giúp ích được gì. Chúng tôi đã quên lãng những bài học mà tổ phụ chúng tôi đã lĩnh hội được, và chúng tôi đã đánh mất ý nghĩa trong nội dung lời ngài, cái tiếng vang cuối cùng của những mạch nguồn thiêng liêng nguyên thủy. Tuy nhiên, chúng tôi cũng xin không tuyệt vọng và cũng xin bắt chước Người trong phút giây vẫy vùng tối thượng, chúng tôi xin quay mặt lại, đưa hai con mắt mà hướng về mặt trời.
Tôi đã nhìn thấy trở lại cung điện cũ, những làn nước tĩnh mịch bọc quanh, ngọn thác than van trong sa thạch, và con đường cao băng qua đồng ruộng, nối liền hai khu xóm của khu làng khang tịnh lại với nhau, mà bốn cái chuồng bồ câu êm đềm đánh dấu cho bốn góc, và nội cỏ xanh rợn đến chân trời như một đại-thảo-nguyên đìu hiu trải trên hồn lục địa, dàn cơn mộng dưới bầu trời, bên điệp trùng những đồi núi long lanh. Ngọn tháp Gabrielle tự xa xôi đằng kia phản chiếu bóng trên mặt những đợt nước một tấm “giả hồ” với những nụ hoa phù du lấp lánh như sao trời sắp sửa rụng; bọt bèo sôi sục, côn trùng xào xạc kêu… Phải thoát ra khỏi vòng lung trạo của bầu khí âm hiểm tai hại kia, đang bốc hơi len lỏi rập rình xâm chiếm những sa thạch nhuốm bụi đầy mình của hoang vu sa mạc và những đồng hoang truông đèo xuôi ngược, với những lùm cây hông tía đang ỡm ờ đùn đẩy màu lục nhạt của dương xỉ phơ phất mảnh đuôi chồn từng ngọn lắt lay. Tịch mịch rầu rĩ xiết bao, ôi linh hồn phong cảnh! Con mắt nhìn kỳ diệu của Sylvie hân hoan cuồng hỉ, những cơn chạy của nàng, những tiếng kêu vui sướng của em, một ngày kia xa lắm đã đem về bao quyến rũ cho những chốn tôi vừa viếng trong hoài niệm đăm chiêu. Ngày kia em còn là một cô bé hoang vu man dại, chân em trần, gót em trụi, mắt cá em truồng, da em sần bánh mật bồ quân, mặc dù em có đội đầu chiếc mũ rạ rộng vành phiêu hốt với dải băng rộng tung bay bồng bềnh với làn tóc tơ đen múa rối. Chúng ta đã đi uống sữa tươi ở nông trại Thụy Sĩ, trên gò cao, đống rộng, và người ta đã bảo tôi rằng: “Chú bé Parisien ạ, cô bồ của chú xinh đẹp vô ngần!” Ồ! Thuở đó, đâu có dễ gì một gã nông dân được diễm phúc múa vòng cùng với em khiêu vũ. Em chỉ múa vòng với tôi thôi, mỗi năm một lượt, vào dịp lễ bắn cung cũng gọi là hội đố lá.
X. Chàng cao tóc quăn
Tôi lại theo con đường về lại xóm Loisy; mọi người đã thức giấc. Sylvie vận một bộ trang phục tiểu thư rất mực đài các, xấp xỉ phong vận phồn hoa. Nàng đưa tôi lên phòng với tất cả niềm thơ ngây ngày trước. Con mắt nàng vẫn sáng ngời trong nụ cười kiều diễm, nhưng vòng cung hàng lông mày đậm nét, đôi lúc đã làm cho gương mặt nàng nhuốm một vẻ trang nghiêm. Phòng trang hoàng giản dị, tuy nhiên bàn ghế lại thuộc loại kim thời, một tấm gương khung vàng đã thay thế chiếc gương cũ treo trên lò sưởi ngày xưa. Lại có một hình chàng mục tử của Tình Ca đang trao tặng một cái tổ chim cho một cô chăn cừu hồng vàng xanh lục. Chiếc giường xưa với những cột mùng trinh bạch phủ thứ vải Ba Tư chim cò lá cành, đã bị thay thế bằng một chiếc giường gỗ hồng đào với diềm hà phụng hoa loan; nơi bệ cửa sổ, trong chiếc lồng nhốt chim bông lau bạc má xưa kia, bây giờ lại nhốt chim kim tước. Tôi mong muốn sớm được ra khỏi căn phòng kia, căn phòng chẳng còn lưu một chút gì của mùi hương quá khứ. “Ngày nay em không còn thêu thùa đen-ten nữa?..." Tôi hỏi Sylvie. "Ồ! Em chẳng thêu đen-ten nữa, chẳng còn ai dùng thứ đó nữa trong làng; ngay cả ở Chantilly, cái sở lớn cũng đóng cửa rồi." – "Thế em làm gì?” Nàng đi lại góc phòng lấy ra một dụng cụ bằng sắt giống hình một cái kẹp dài. “Đó là cái chi vậy?" – "Người ta gọi đó là kẹp máy; dùng để kẹp da găng lại mà thêu." – "Thế ra em đã thành cô thợ dệt găng tay?" "Vâng, chúng em làm việc để cung cấp cho một quận Dammartin, công việc cũng bề bộn lắm; nhưng hôm nay thì rảnh; anh lại muốn dẫn em đi đâu thì đi đó”. Tôi quay mặt ngó về phía làng Othys: nàng lắc đầu; tôi hiểu rằng bà dì không còn nữa. Sylvie gọi một thằng bé, bảo nó thắng cương yên một con lừa. “Hôm nay em còn mệt mỏi vì buổi hội hôm qua, nàng nói, nhưng đi dạo chắc sẽ làm em khỏe khoắn ra, chúng ta hãy đi Châalis”. Và thế là chúng tôi lên đường băng qua rừng rú, theo sau là thằng bé con con, tay cầm một cành cây như khí giới tháp tùng. Chẳng mấy chốc, Sylvie muốn dừng chân, tôi hôn nàng, dìu nàng ngồi xuống. Câu chuyện giữa chúng tôi, bấy giờ chẳng thể nào còn thân mật nữa. Tôi phải kể lại nàng nghe cuộc sống của tôi tại Paris, những chuyến du lịch… “Làm sao người ta có thể đi xa đến thế?" Nàng hỏi…
"Tôi lấy làm lạ về điều đó khi gặp em." – "Ồ! Cái đó tất nhiên!" – "Và hãy nhìn nhận rằng xưa kia em không xinh đẹp bằng." – "Em chẳng rõ." – "Em còn nhớ cái thuở chúng ta còn bé con, và em thì lớn hơn anh một chút?" – "Còn anh thì ngoan hơn em!" "Ồ! Sylvie!" – Người ta đặt hai đứa lên lưng con lừa, mỗi đứa ngồi đong đưa trong một cái thúng ở hai bên hông con lừa. – Và ngày đó em gọi tôi bằng một lối xưng hô rất khác… "Em có nhớ rằng em đã bày vẽ cho anh câu tôm ở phía dưới những nhịp cầu sông Thève và khe Nonette?" – "Và anh, anh có nhớ người anh em sữa của anh, người con của bà vú nuôi anh, ngày nọ đã kéo anh lên vì anh chìm lỉm xuống xiết nước?" – "A! Chàng cao tóc quăn! Chính anh ta đã từng nói với anh rằng có thể lội qua… lội qua xiết nước!”
Tôi vội vã đổi câu chuyện. Kỷ niệm đó nhắc tôi nhớ lại rõ ràng cái thuở tôi tới miền này, vận một bộ y phục lối bé con Anh Cát Lợi, làm cho các anh nông dân cười thật dữ. Riêng Sylvie coi là tôi ăn vận được lắm; nhưng tôi không dám gợi lại cho nàng nhớ ý kiến đó của một thuở xa xôi lăng lắc. Chẳng hiểu vì sao tôi lại nghĩ tới những bộ y phục hôn lễ mà chúng tôi đã vận vào mình tại nhà bà dì ở Othys. Tôi hỏi Sylvie ngày nay những bộ quần áo đó ra sao. “A! Bà dì tốt quá", Sylvie nói, "bà có cho em mượn tấm áo đó để đi khiêu vũ trong ngày hội hóa trang tại Dammartin, kể ra đã được hai năm rồi. Năm sau, bà mất, tội quá!”
Nàng thở ra, nàng khóc, và tôi không thể hỏi bởi hoàn cảnh trường hợp nào nàng đã đi dự hội một buổi hội hoá trang; nhưng cũng đoán hiểu rằng nhờ cái tài khéo tay, khôn ngón của nàng, Sylvie không còn là một cô nông dân cục mịch. Chỉ cha mẹ nàng nằm yên trong phận, và nàng đã sống bên cạnh cha mẹ như một nàng tiên mẫn tài trí, xảo diệu tay chân, gieo rắc mưa móc phì nhiêu ra bốn phía.
X. Trở lại
Ra khỏi khu rừng, nhãn quang nhìn khung trời mở rộng. Chúng tôi đã tới bên bờ những hồ nước Châalis, những hồi lang của tu viện, ngôi nhà thờ với những ngọn tiêm cung dong dỏng cao vút ngọn tháp thời phong kiến và ngôi điện nho nhỏ đã nung nấu che chở những tình ái u nùng, giữa hoàng đế Henri đệ tứ và nương tử Gabrielle tất cả đều nhuốm màu ráng đỏ hoàng hôn man mác bao phủ màu lục đậm núi ngàn. “Đó là một phong cảnh của Walter Scott, phải không anh?” Sylvie nói. – "Ai đã nói với em về Walter Scott? Thế thì từ ba năm nay, em đọc sách nhiều lắm?... Anh, anh gắng quên sách vở, và cái gì thu hút anh, cái gì anh mơ ước, ấy là chính cùng em nhìn lại ngôi tu viện cũ kỹ này. Em nhớ đó, chính đấy là chỗ thuở nhỏ chúng mình đã trốn nhau giữa những phế tích hoang tàn. Em nhớ không, Sylvie, khi người kiểm lâm kể cho chúng ta nghe sự tích những tu sĩ áo đỏ, thì em đã sợ hãi như thế nào?" – "Ồ! Anh đừng nói chuyện đó với em nữa." – "Vậy thì em hãy ca cho anh nghe bài ca của cô gái xinh đẹp bị bắt đi khỏi khu vườn của cha mẹ, dưới cây bạch tường vi." – "Ngày nay, người ta không ca bài đó nữa." – "Chẳng lẽ em đã trở thành nhạc sĩ hay sao?" – "Chút ít." – Sylvie, Sylvie, anh tin chắc rằng em ca những điệu nhạc kịch trường! – "Anh phàn nàn ư? Có chi để phiền trách?" – "Bởi vì anh yêu chuộng những điệu hát xưa, và em sẽ không còn hát chúng nữa.”
Sylvie ngân lên vài thanh âm một điệu nhạc lớn kịch trường… Hỡi ôi nàng uốn giọng cao kỳ!
Chúng tôi đã đi vòng những hồ nước bên. Đây đồng cỏ xanh lục, xung quanh sum sê bồ đề và tiểu du, tại đây chúng tôi xưa kia từng đã múa vòng bao phen! Tôi thở cơn tự ái, lên tiếng định nghĩa những hàng chữ trên những bức tường carlovingiens (thuộc thời đại các vua chúa Carlovingiens) và giải thích những huy hiệu huy chương nhà họ Este. “Anh! Anh đọc sách hơn em nhiều quá! Thế thì té ra anh là một nhà thông thái?”
Tôi hơi tức vì giọng nói pha ý phiền trách của nàng. Trước lúc bấy giờ, tôi vẫn loay hoay kiếm chừng một chỗ thích hợp để nói trở lại câu chuyện tâm sự buổi sáng; nhưng biết nói gì với nàng: phía sau, một con lừa lẽo đẽo hai tai, và một thằng bé tò mò tinh ranh, cứ thích len lỏi mò tới gần bên để nghe cái lối nói của ông kẻ chợ Parisien. Và thế đó, tôi đã không may mở miệng kể lại cho nàng nghe sự hiển hiện kỳ ảo tại Châalis, hiện còn nằm trong kỷ niệm của tôi. Tôi dẫn Sylvie vào chính cái căn phòng bữa trước, tại ngay cái chỗ tôi đã nghe Adrienne hát. “Ồ! Tôi chờ nghe em lên tiếng nói! Tôi bảo. Cầu sao cho giọng nói của em hãy dội lên dóng dả dưới những vòm cung điện này, và xua đuổi những thần linh đang day vò đầu óc tôi, dù là thần thiêng liêng hay ác hại!” Nàng lặp lại những lời và điệu hát:
Hỡi thiên thần, hay mau mau giáng hiện
Xuống tận cùng tĩnh-tội-giới thâm sâu…
"Thật là buồn bã!" Nàng nói.
"Thật là tuyệt diệu… Anh tưởng đó là của Porpora, với những vần thơ được phiên dịch vào thế kỷ mười sáu."
"Em chẳng rõ", Sylvie trả lời.
Chúng tôi đã quay trở về băng qua thung lũng, men theo con đường Charlepont mà nông đan thuần phác, chẳng cần biết tới cái lẽ phải trái của từ nguyên, cứ gọi trại ra thành Châllepont. Sylvie, ngồi trên lưng lừa đã mỏi, tựa mình vào cánh tay tôi. Con đường vắng vẻ; tôi gắng thử tìm cách nói về những nỗi niềm trong dạ, thật tầm thường, hoặc thình lình lại thốt một tiếng rỗng tuếnh tiểu thuyết, mà – Sylvie ắt có lẽ đã có đọc qua rồi. Và thế đó, tôi dừng lại theo phong vận rất cổ điển hào hoa, và Sylvie đôi lúc đã tỏ vẻ ngạc nhiên trước những tâm sự phơi bày nửa chừng thoắt dứt. Lúc tới sát những bờ tường Saint-Sulpice, thì phải coi chừng cái điệu bước, cái cách đi. Người ta băng qua những nội cỏ ướt át, có những dòng khe uốn éo quanh co. “Cô tu nữ ra sao?” Tôi thình lình hỏi.
"A! Anh thật là kinh khủng với cô nữ tu của anh… Ồ…! Thật là… chuyện cô ta, thật có bề không ổn.”
Sylvie không chịu nói thêm lời nào.
Có thật rằng đàn bà cảm thấy được rất rõ rằng một lời nọ, một lời kia, thốt ở trên môi, mà không tuôn từ tấc dạ? Không thể nghĩ như vậy được. Cứ xem các nàng bị phỉnh phờ nhầm lẫn quá dễ dàng. Cứ xem các cô chọn lựa thì rõ: có xiết bao kẻ đàn ông đóng thật giỏi cái tuồng cua gái, yêu đương! Tôi chẳng quen nổi với sự đó, mặc dù biết rằng có đôi cô chấp thuận một cách có ý thức cái việc để cho thiên hạ lừa dối. Không cần là thật hay giả. Cứ nghe bừa cho xong. Nhưng tôi biết làm sao được. Vả chăng, một mối tình kết giao từ thuở nhỏ, là một cái gì thiêng liêng… Sylvie, tôi đã thấy nàng từ bé, lớn dần dần, đối với tôi cũng là một đứa em gái. Tôi không thể mở cuộc quyến rũ dã man… Một ý nghĩ khác xuyên qua óc tôi. “Giờ này, tôi tự nhủ, ở Paris ắt là ta đương ở rạp hát… Thế thì Aurélie (tên cô đào) chiều nay đóng vai tuồng gì? Hẳn nhiên là nàng thủ vai công chúa trong vở kịch mới. Ồ! Ở lớp thứ ba, trông nàng thật là đáng yêu nên cảm kích!... Và trong cái xen yêu đương ở lớp hai! Với cái anh chàng một, mặt mày nhăn nhíu…
"Anh đang cơn say suy ngẫm?” Sylvie nói và mở môi hát:
Tại Dammartin có ba cô gái đẹp:
Riêng có một cô đẹp hơn trời mai sớm…
Riêng một cô kiều diễm hơn sớm mai…
“A! Cô này dã man thật!” Tôi thốt to, thế mà cô dám nói rằng cô không còn biết hát những điệu hát xưa!
“Nếu anh năng lui tới đây nhiều hơn một chút, thì ắt em sẽ nhớ ra nhiều điệu nữa nhưng phải lo nghĩ tới cái gì thiết thực. Anh có công việc của anh tại Paris, em có công việc của em tại đây. Đừng về trễ quá. Ngày mai em còn phải lo dậy sớm cho kịp bước mặt trời.”
Nguồn: Tân An xuất bản tại Sài Gòn trước 1975, An Tiêm xuất bản tại hải ngoại 1990.
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)