Bùi Giáng
Thi ca tư tưởng
(Vân Đài, Xuân Diệu, Hồ Dzếnh, Đinh Hùng, Trần Thy Nhã Ca, Martin Heidegger, Nguyễn Du, Hoài Khanh, Dịch, Nguyễn Du và Shakespeare, Dịch)
Vân Đài
Đọc ông Nguyễn Du mãi cũng chán. Rồi từ Đường Thi, nhảy vọt qua Tây Phương, chạy tìm những Tượng Trưng, Siêu Thực, Siêu Thể, Siêu Hình, hơn hai mươi năm, kể cũng đà tới lúc ớn khắp linh hồn. Thơ Nguyễn Công Trứ là một con zéro. Thơ Cao Bá Quát là một con zéro rưỡi. Thơ theo thể Đường Luật của các ông Nho học uyên bác, toàn là rờ rẫm cóp nhặt Tàu, những bộ xương khô quái gỡ. Hàng vạn bài na ná giọng điệu giống nhau.
Chỉ còn mấy bài của Ngân Giang nữ sỹ và Vân Đài nữ sỹ là có linh hồn. Hai bậc tiền bối này quả có chân thành. Có sống trọn linh hồn. Bài thơ hai bà làm đúng là bài thơ sông núi. Dù có sáo chăng nữa, thì đấy cũng là cái sáo của sông núi phát tiết ra.
Yêu thương dậy lại đầy trời
Lòng ơi! Đường cũ núi đồi còn đây
Đọc câu thơ như thế, quả thật tại hạ muốn làm đứa bé xách giép cho bà, đi sau chân bà, ủng hộ bà trong cuộc ngao du sơn thủy.
Kể chuyện Nerval! Heidegger cho bà nghe.
Bà cũng biết uống rượu
Giốc cạn duyên thơ quá chén rồi
Men nồng thắm đỏ khắp hồn tôi
Vui không có bạn sầu không có
Nằm giữa lòng trăng khóc giữa trời
Đầu ngã cành xanh vai vũ trụ
Tay ôm hương sắc những mùa tươi
Quên nghe thời khắc quên năm tháng
Say uống hương hoa giữa suốt đời
Cái thứ rượu bà uống say kia té ra không phải la de hoặc rượu đế. Tại hạ mừng hụt. Phải chi tiền bối uống rượu thật sự, thì mỗi phen nhậu nhẹt, ắt tiền bối gọi tại hạ tới cho nhấm chút ít.
Dù sao hai câu thơ đồ sộ bát ngát của tiền bối cũng an ủi vãn bối phần nào:
Vui không có bạn sầu không có
Nằm giữa lòng trăng khóc giữa trời
Quả thật bốn ngàn năm văn hiến Việt Nam, chỉ có thể cho nảy hột tinh hoa ra hai câu thơ như thế. Phải chi ông Nguyễn Du, ông Nguyễn Trãi còn sống thì vãn bối đem hai câu thơ ấy đọc cho hai ông nghe.
Lục bát của bà trong bài “Biệt ly” cũng thật dịu dàng. Ta phải coi Vân Đài nữ sỹ như bà ngoại bà nội chúng ta, thì mới cảm hết cái chỗ mênh mông trong mấy vần này:
Lòng ta tràn ngập nỗi buồn
Như người đứng ngã ba đường nhớ ai
Trái tim hồi hộp thở dài
Hòa theo với tiếng bốn trời tiễn đưa
Sáng nay mây trắng bơ phờ
Gió ngừng mặc rặng lau thưa bên nguồn
Thuyền đi sông nước ngại ngùng
Bến xanh xanh vẫn ngóng trông tháng ngày
Giang lăng cách trở đâu đây
Nghe đêm vượn hót nghe ngày chim kêu.
(“Tặng cảnh Cát Bà”)
Xuân Diệu
Nếu đọc Vân Đài và Ngân Giang, phải nghĩ rằng đó là lời thơ của bà ngoại bà nội chúng ta, mới cảm thấy hay thấm thía – thì đọc Xuân Diệu, ắt nên nghĩ rằng đó là thơ của một thằng em. Sự tình tứ đó sẽ đổi hẳn tính cách.
Sau ba mươi năm dài, trải bao trận phiêu du ngoài đời, cũng như lưu ly trong thi ca tư tưởng, ngày nay cầm lại cuốn Thơ Thơ, tại hạ cảm thấy một cái gì không thể tả. Đọc lại thơ Nguyễn Bính, thơ Lưu Trọng Lư, có thể không bồi hồi chi mấy. Nhưng đọc Thơ Thơ, lại khác hẳn. Dường như toàn thể tuổi xuân bỗng sống dậy kêu gào.
Xóa đi những lời lếu láo lải nhải, còn lại những lời chân thật riêng biệt chân thành của tuổi trẻ:
Không có cánh nhưng vẫn thèm bay bổng
Đi sâu trong sân mà nhớ chuyện trên trời
Trút thời gian tong một phút chơi vơi
Ngắm phong cảnh giữa hai bề lá cỏ
Thơ hồn nhiên rộng rãi như thế đúng là thơ của thiên tài tuổi trẻ.
Đi trong sân mà nhớ chuyện trên trời
Ngắm phong cảnh giữa hai bề lá cỏ
Chúng ta đã ngột ngạt vì thơ đoạn trường của Nguyễn Du, thơ đìu hiu của bà huyện Thanh Quan, thơ ồ ạt lếu láo của Nguyễn Công Trứ, thơ trắng trợn của Trần Tế Xương… thơ già trước tuổi của những thi tài nảy ra trong vòng mười năm nay…
Thì bây giờ cũng đã tới lúc xua ùa đi hết mọi thứ thơ não nùng kia, và đọc lại Xuân Diệu:
Vì sao giáp mặt buổi đầu tiên
Tôi đã đày thân giữa xứ phiền
Không thể vô tình qua trước cửa
Biết rằng gặp gỡ đã vô duyên
Kể từ sau 1945, các loại thơ này vốn không mảy may rung động chúng ta được nữa. Chúng ta đứng trước những phong ba, linh hồn chúng ta mang những ưu tư khắc khoải khác. Thơ trữ tình, thơ yêu đương vớ vẩn nhớ nhung kia, chúng ta bỏ trôi mất hút, không một chút bận tâm.
Nhưng rồi phong ba cứ dồn dập, càng ngày càng mang tính cách nhố nhế thêm ra, tủn mủn đầu độc thêm ra, thì ưu tư khắc khoải trở thành chuyện tầm phào, siêu thi, siêu tưởng, siêu triết… trở thành chuyện đĩ điếm. Văn chương văn nghệ trở thành chuyện bán cá ngoài trợ. Nợ tang bồng vay trả trả vay, trở thành chuyện phỉnh phờ con nít. Lưu thủ đan tâm, trở thành chuyện tán gái đâm toang. Chiếu hãn thanh, trở thành chiếu chăn mài cọ lầu xanh meo mốc.
Ngót hai mươi năm rồi, ngụp trong đó, chúng ta lừa lọc nhau và tự lừa dối mình. Bây giờ đã thấm mệt với cái trò nhảy nhót nhấp nháy kia. Thôi xin từ giã mọi thứ đó. Xin chạy theo sau thằng thanh niên ngây ngô ngày trước chơi một trận.
Hồ Dzếnh
Bài “Rằm Tháng Giêng” của Hồ Dzếnh quả thật là một bài thơ hay:
Chị tôi vào lễ trong chùa
Hai chàng trai trẻ khấn đùa hai bên
Lòng thành lễ vật dâng lên
Cầu cho tiểu được ngoài giêng đắt chồng
Chị tôi phụng phịu má hồng
Vùng vằng suýt nữa quên bồng cả tôi
Tam quang ngoài mát chị ngồi
Chị nghe đoán quẻ chị cười luôn luôn
Quỉ thần thóc mách mà khôn
Số này chồng đắt đẻ con cũng nhiều
(“Rằm tháng Giêng”)
Người Việt Nam có thể không đọc Nguyễn Du, nhưng không thể nào không đọc bài thơ kia của Hồ Dzếnh.
Bài “Lời Về” của ông riêng bốn câu cuối cũng đủ là một tuyệt tác cổ kim:
Vó ngựa từ ngày vỗ xuống Nam
Truông mòn đưa lối Hải Vân San
Áo nâu phai nhạt màu cây cỏ
Lá rụng hoa rơi đất nước Chàm
Một bài tứ tuyệt như thế đúng là một tặng vật của Đường Thi. Nhưng Đường Thi ghé xuống Việt Nam, Đường Thi đã nhảy một bước vô biên. Không còn Lý Bạch, Thôi Hiệu, Tô Đông Pha nào chạy kịp được nữa.
Vì trong đó có ba sử lịch đang gùn ghè nhau. Sử lịch Trung Hoa, sử lịch Việt Nam, sử lịch Chiêm Thành:
Lá rụng hoa rơi đất nước Chàm
Một câu thơ đơn giản như thế mang toàn khối Như Lai trong mấy trăm bộ kinh Phật. Và thừa dư công lực hư vô để thiết lập căn cơ cho Siêu Hình Học Tây Phương. Ông Heidegger khỏi phải bận tâm hỳ hục lôi cả Hoelderlin, Sophocle, Parménide, vào trong cuộc thiết lập cơ sở mới làm gì.
Cái cuộc Lữ dị thường của Khổng Tử bỗng nhiên tiếp giáp với Thái Hư Tịch Mịch trong bốn câu thơ kia của Hồ Dzếnh. Đó là điều mà trong tập Điêu Tàn của Chế Lan Viên, ta mỏi mắt tìm không thấy.
Đinh Hùng
Nguồn thơ của Đinh Hùng trong Mê Hồn Ca là nguồn thơ lạ nhất trong thi ca Việt Nam.
Tới Đường Vào Tình Sử, thì nguồn thơ kia bỗng như tắt ngấm. Đinh Hùng trở thành kẻ rờ rờ rẫm rẫm. Tuy nhiên, trong Đường Vào Tình Sử cũng còn mấy bài bát ngát ở lại buồn bã vô song.
Trần Thy Nhã Ca
Chợt tiếng buồn xưa động bóng cây
Người đi chưa lại dấu chân này
Bàn tay nằm đó không ngày tháng
Tình ái xin về với cỏ may
Rồi lá mùa xanh cũng đỏ dần
Còn đây niềm hối tiếc thanh xuân
Giấc mơ choàng dậy tan hình bóng
Và nỗi tàn phai gõ một lần
Kỷ niệm sầu như tiếng thở dài
Khuya chìm trong tiếng khóc tương lai
Tầm xa hạnh phúc bằng đêm tối
Tôi mất thời gian lỡ nụ cười
Đời sống ôi buồn như cỏ khô
Này anh em cũng tựa sương mù
Khi về tay nhỏ che trời rét
Nghe giá băng mòn hết tuổi thơ
Bài “Thanh Xuân” của Trần Thy Nhã Ca nghe như lời chiếu cố của một vị Quan Âm Bồ Tát.
Tưởng chừng như nếu các vị Tổng Thống phu nhân ở thế giới tình cờ đọc được, ắt các phu nhân vui lòng cạo đầu sạch sẽ để đi tu.
Tôi tiếc mình không có tài bàn giải như Kim Thánh Thán Mái Tây, nên tìm không đủ lời tuyệt đối viết ra. Ngày mai ắt tôi sẽ chết không nhắm mắt được.
Thử nêu câu hỏi: Nếu như những ông Khổng Tử đọc bài thơ đó, ắt sẽ gây ra sự gì? Tất nhiên là các ông sẽ chẳng bận tâm hỳ hục soạn Kinh Thi, Kinh Dịch làm gì nữa.
Martin Heidegger
Ông ở lại trên mảnh đất đai Siêu Hình Học Âu Châu, ông cày bừa trên mảnh đất ấy. Suốt hơn một phần ba thế kỷ, ông cặm cụi vạch gai góc và gieo vài hạt giống trên mảnh đất ngổn ngang.
Những hạt giống đầu tiên gieo vào mảnh đất đầy chướng ngại, phải là những hạt giống thích hợp.
Thích hợp với cái gì? Với mảnh đất đai kia với những hàng rào vây bọc mảnh đất đai kia, với bầu khí hậu phong tỏa mảnh đất đai kia. Những gai góc đủ loại đã mọc đầy, bầu khí hậu bị vẩn đục, con người Siêu Hình Học Âu Châu không còn có thể nhìn ra tinh thể những “hàng cây sơ thủy” vốn đã mọc trên đó. (Trong tập thơ Lá Hoa Cồn ngày trước, tôi có ý muốn nói tới sự tình đó, trong những bài “Hàng Cây Sơ Thủy”, “Vào Nguyên Thủy Giục”, “Logos”, vân vân).
Những “hàng cây” nọ cần phải được nhìn ngó trở lại, muốn nhìn ngó trở lại, trước tiên phải tẩy gột những gì làm vướng nhãn quan.
Nhìn ngó trở lại để làm gì? Để đừng sa vào tình trạng vong bản. Quên mất cội nguồn bát ngát ban sơ, đó là lý do đã khiến những triết gia cận đại Âu Châu không cách gì mở đối thoại với Đông Phương.
Heidegger luôn luôn bảo rằng ông chẳng có ý dựng triết thuyết gì cả. Tư tưởng của ông chỉ là một tư tưởng chuẩn bị - nhứt điều chuẩn bị đích tư tưởng. (Xem Sương Bình Nguyên và Trăng Châu Thổ).
Chuẩn bị cho cái gì? Đáp: cho một trận đối thoại về sau giữa Tây Phương và Đông Phương.
Do đó Heidegger lập ngôn trong một Nếp Gấp Nhị Bội, mà các triết gia Âu Châu ít chịu lưu ý tới. Cái điều đối với Heidegger chỉ là điều tạm thời, tạm bợ, người ta cho đó là điều cốt yếu. Cái điều cốt yếu thì Heidegger lại nói thoảng qua trong những mệnh đề phụ - là những hạt giống lơ thơ gieo ra trong một vùng sương bóng vô tức vô thanh tiếp giáp với lục bát thi ca Việt Nam bất tuyệt.
Waehlens theo dõi tư tưởng Heidegger nhiều ngày, vẫn không nhận ra điều cốt yếu nọ. Mọi triết gia bàn tới Heidegger đều bàn lui bàn tới những thứ ở ngoài mép rìa. Nghĩa là: đăng đường thì có, mà nhập thất thì không.
Chung quy có lẽ chỉ vì họ mãi mãi ở trong cái tình trạng: thấy sự vụ đương nhiên là thế, mà không rõ đâu là nguyên do sử lịch đã quyết định sự vụ là thế.
Hoặc nói theo ngôn ngữ người Trung Hoa:
“Tha môn hiển nhiên thị chỉ tri kỳ đương nhiên, nhi bất tri kỳ sở dĩ nhiên”.
Khổ thay. Nếy bây giờ chúng ta lò dò chạy hỏi ông Heidegger xem sự tình gay cấn đó có phải có nguyên nhân éo le như thế chăng, thì Heidegger ắt lửng lơ niêm hoa vi tiếu theo lối Khổng Tử ỡm ờ: - Tại hạ quả thật cũng chả rõ đâu vào đâu cho lắm… Kính thưa các hạ ạ! Kỳ trung nguyên nhân, lão hủ nhứt thời giả thuyết bất thanh sở. Phản chính cứ lão hủ sở kiến, tam thành tựu thị giá dạng đích lặc…”.
Đó là phong thái của những nhà đại tư tưởng cổ kim. Họ đáp theo lối lửng lơ. Trong khi học giả xô bồ, bao giờ cũng tấp nập nối đuôi nhau tấn công ông già kia một cách ráo riết.
Cái thái độ ráo riết kia đã bao phen khiến cho mọi cuộc đối thoại chân chính đành phải chịu phần chấm dứt ngay khi mới vừa khởi đầu.
Nếu bây giờ chúng ta thử bỏ ra khoảng chín mươi chín năm đọc lại Heidegger, ắt là chúng ta sẽ dần dà nhận thấy rằng: cái hạt giống mong manh mà Heidegger đã gieo vào mảnh đất Siêu Hình Học Âu Châu, cái hạt giống bé bỏng đó quả thật đã manh nha mọi thứ cây cối đồ sộ, mà về sau thiên hạ sẽ thi đua nhau về leo trèo hái ngắt mọi thứ hoa quả và có thể tưởng lầm rằng hoa quả ấy là của riêng mình trồng trọt ra, chứ chẳng phải của ông Heidegger hoặc Martin gì ráo!
Định mệnh của những tư tưởng hoằng viễn xưa nay, vẫn mãi mãi là như thế. Những kẻ gieo giống chả bao giờ thấy cây mọc, chẳng bao giờ thấy đâm hoa kết quả, chẳng bao giờ thu hoạch mùa màng. Họ chỉ phụng bồi cho cuộc gieo hạt, và hơn nữa, phụng bồi cho cuộc soạn sửa gieo hạt mà thôi.
Il ne servent qu’aux semailles, et même, plutôt à là préparation de celles-ci. Sie diene der Aussaat und eher noch der Vorbereitung dieser.
(Xem Trăng Châu Thổ, trg 467-468).
Heidegger là kẻ nhìn thấy rất rõ duyên do cuộc tẩu hỏa nhập ma của những Nietzsche, Hoelderlin, và - nhẹ hơn - của Rilke. Ông muốn tránh cho những nhà tư tưởng, những kẻ sáng tạo mai sau khỏi lâm vào tình trạnh tẩu hỏa nhập ma – đó cũng là một trong những duyên do dã khiến ông lập ngôn một cách dị thường ẩn mật.
Nếu bây giờ chúng ta suy gẫm về Đoạn Trường Tân Thanh của Nguyễn Du, nếu ta nghĩ rằng viết Đoạn Trường Tân Thanh, Nguyễn Du tuyệt nhiên chẳng có ý ký thác tâm sự riêng tây của “di thần triều Lê” gì gì cả, thì sự vụ ắt còn rọi vài tia sáng vào cuộc lập ngôn của Heidegger. Nếu như Nguyễn Du viết Truyện Kiều với cứu cánh trực tiếp mở đối thoại với Gia Long? Gián tiếp mở đối thoại với Trung Hoa? Và rộng rãi hơn: mở đối thoại với sử lịch Đông Phương? Hoặc: mở đối thoại với tứ hải? – Thì từ đó, những nếp gấp khôn hàn nào trong Truyện Kiều sẽ chậm rãi mở ra? Và từ đó chúng ta sẽ “làm thơ” theo thể thái nào để đáp ứng?
Bây giờ để thử tránh lỗi tư tưởng một chiều. Chúng ta hãy nêu vài câu hỏi liên can tới tới Nietzsche.
Sự tình “đương nhiên” là Nietzsche có xô bồ công kích Jésus Christ. Nhưng đâu là cái lẽ “sở dĩ nhiên” của cuộc đó? Sau cuộc đó, Nietzsche bị tẩu hỏa nhập ma. Ông thật “bị” tẩu hỏa nhập ma, hay là ông cố tình lao đầu vào chịu trận tẩu hỏa nhập ma? Nếu ông có cố ý, thì đâu là duyên do sự cố ý ấy? Nếu đem sự tình kia ra hỏi Nguyễn Du, thì Nguyễn Du sẽ đáp bằng câu thơ nào trong Truyện Kiều? Khổng Tử sẽ phụ họa vào câu thơ đó bằng cái lời nào của Ngài? Thằng thi sỹ Việt Nam ngày nay có nên nêu mọi sự đó ra bàn luận trực tiếp? Nietzsche có bằng lòng thuận để cho nó nêu ra hay là Nietzsche sẽ bảo rằng: “vấn đề đối với các hạ bây gờ là nên sớm đánh mất tại hạ đi!” Đánh mất bằng cách nào? Sao gọi là đánh mất? Lặng lẽ giũ áo ra đi, hay là lao mình tới công kích? Hay là vừa công kích, vừa bỏ đi, vừa thân tặng ông vài vần thơ lây lất? Hay là chịu chơi gay cấn bảo rằng: - Nhân danh là thi sỹ Việt Nam, tôi xin nguyện làm nô lệ ông suốt đời?
Nguyễn Du
Từ rằng: ân oán hai bên
Mặc nàng xử quyết báo đền cho minh
Nàng rằng: nhờ cậy uy linh
Hãy xin báo đáp ân tình cho phu
Báo ân rồi sẽ trả thù
Từ rằng: việc ấy để cho mặc nàng
Hai lần Từ Hải dùng tiếng “mặc nàng”. Để cho mặc nàng. Mặc nàng xử quyết báo đền cho minh.
Rồi Từ Hải im lặng suốt buổi. Trong cơn im lặng, Từ Hải đã nhìn thấy Kiều chẳng minh mẫn gì hết. Nhưng không hề gì. Điều trầm trọng là cái tiếng “mặc nàng” Nguyễn Du đã để cho Từ Hải thốt lúc bấy giờ.
Hai tiếng “mặc nàng” đó ngày sau sẽ quyết định cuộc đầu hàng của Từ Hải. Việc bây giờ để cho mặc nàng, thì mọi việc về sau cũng sẽ để cho mặc nàng quyết định.
Nghe lời nàng nói mặn mà
Thế công Từ mới đổi ra thế hàng
Chỉnh nghi tiếp sứ vội vàng
Hẹn kỳ thúc giáp quyết đường giải binh
Chỉnh nghi tiếp sứ vội vàng. Nguyễn Du dùng tiếng “vội vàng” một cách thật kỳ bí. Càn khôn vũ trụ gì cùng theo nhau điên tam đảo tứ hết cả, trong hai tiếng vội vàng kia. Cái “triều đình riêng một góc trời” của Từ Hải đang lăn lóc quay lông lốc trong hai tiếng vội vàng.
Từ Hải “chịu chơi” đến cái mức bất khả tư nghị. Tuyệt đỉnh của thiên tài Từ Hải là ở chỗ đó. Trong một nháy, đem xô ùa hết cả cứu cánh đời mình để đáp lại những lời “nhạt như nước ốc” của Kiều. Nhạt như nước ốc, mà chàng thấy mặn mà khôn tả, ấy bởi vì cõi lòng của kẻ anh hùng vốn là: đã chịu chơi, thì bất kể lam hồng tạo bạch. Từ Hải và Tú Bà là hai thái cực. Nhưng đáo cùng, hai thái cực khác nhau ở hai điểm:
Chơi cho liễu chán hoa chê
Cho lăn lóc đá cho mê mẩn đời
Từ Hải đã vì Thúy Kiều mà nghênh ngang dựng một cõi biên thùy, theo chàng nói:
Bao giờ mười vạn tinh binh
Tiếng loa giậy đất uy linh rợp đường
Làm cho rõ mặt phi thường
Bấy giờ ta sẽ rước nường nghi gia
Nhưng bây giờ Kiều đã bảo “Nghìn năm ai có khen đâu Hoàng Sào” thì lập thời Từ Hải vội vàng xóa bỏ hết cái cuộc kia.
Tin lời thành hạ yêu minh
Cái niềm tin thật sự của chàng đã mất, thì bây giờ chàng trở thành đứa bé thơ ngây, tin mọi thứ tầm phào vậy.
Tin lời thanh hạ yêu minh
Ngọn cờ ngơ ngác trống canh trễ tràng…
Từ công hờ hẫng biết đâu
Đại quan lễ phục ra đầu cửa viên
Những tiếng “hờ hẫng, trễ tràng, ngơ ngác”, Nguyễn Du dùng một cách não nuột quỷ khốc thần sầu.
Tôi viết vội vã. Tôi không có một ngàn năm ở trước mặt. Nhưng kẻ nào có được trước mặt một ngàn năm, thì hãy thư thả đọc lại Nguyễn Du và sẽ khám phá ra nhiều thứ thiên thu vạn đại khác.
Heidegger bảo rằng: “nhà tư tưởng càng hoằng viễn, thì phần vô ngôn trong sách họ càng khôn lường”. Lúc nói câu đó, Heidegger ắt là có nghĩ tới Nguyễn Du vậy.
Phần vô ngôn khôn lường? Khôn lường đối với mọi người và khôn lường tự mình đối với mình. Người tư tưởng (cũng như thi nhân) không bao giờ lường được hết tư tưởng mình. Đọc tư tưởng, đọc thi ca, từ đó chúng ta chỉ có thể nêu những câu hỏi đại khái kỳ dị như sau:
Vì sao con đường đi trong đó không bằng phẳng?
Đó có phải là một lối cưỡng bức không?
Nguyễn Du đã cưỡng bức đủ điều. Heidegger đi tới đâu cũng cưỡng bức tràn lan tới đó. Cưỡng bức Nietzsche, Rilke. Rồi quay lại tự mình cưỡng bức chính mình.
Cổ kim có nhà tư tưởng nào tự mình cưỡng bức mình nhiều như Nietzsche, như Heidegger, như Sade? Sự đó có liên can mật thiết gì tới Khổng Tử, Jésus Christ hay không?...
Hoài Khanh
Qua sông là một nhịp cầu
Qua tôi là một kiếp sầu vô chung
(“Tự Tình” – Dâng Rừng)
Thế ra tôi đứng ra để đón lấy kiếp sầu vô chung? Tôi là Tại Thể? Da-sein? Tôi đón lấy sầu kia và thể nghiệm mối tương quan giữa Dasein và Sein? Giữa Tại Thể và Tồn Thể?
Qua sông là…
Qua tôi là…
Thy sĩ hai lần dùng tiếng là. Hai lần dùng tiếng qua.
Nhịp cầu là cái gì qua sông. Sầu vô chung là cái gì qua tôi. Ông Hedeigger trong cuốn Siêu Hình Học Là Gì, đã từng đem cái sầu, khắc khoải, làm tinh thể của Dasein, trong mối sầu đã “nhảy vọt” một cái, băng qua mọi thể hiện của dung nhật thường lệ, và tiếp giáp với mạch tồn thể uyên nguyên.
(Đó cũng là mối sầu bàng bạc khắp Truyện Kiều)…
Nhịp cầu là cái gì giúp qua sông, thì sâu vô chung cũng là cái gì giúp đáo bỉ ngạn.
Dịch
Từ trong tinh thể của nó, dịch là tái tạo. Sự ấy dường như quá hiểu nhiên. Ông Nguyễn Du, ông Nguyễn Khắc Hiếu đều tái tạo triệt để trong các bản dịch chuyện Tàu của các ông.
Nhưng nói gì xa xôi. Thử nói gần gũi hơn. Nếu bây giờ ta đem Truyện Kiều dịch trở lại bằng văn xuôi Việt Ngữ, hoặc bằng thơ thất ngôn, ngũ ngôn, thì ấy cũng là tái tạo.
Một ca nhi đem một bài ca, ca lên, cũng là tái tạo bài ca.
Xét cho cùng, mọi hành động và vô vi, cũng là tái tạo. Tái tạo bằng hơi thở riêng biệt một lần.
Tôi có cảm tưởng rằng lúc thật sự “sáng tạo”, tôi lại cũng đang dịch. Tôi viết vần thơ “độc đáo” nào, cũng là đang dịch. Tôi dịch lại ông Nguyễn Du, ông Hồ Dzếnh. Cũng như ông Nguyễn Du ông Hồ Dzếnh đã từng dịch người trước, và người trước đã từng dịch người xưa, hoặc dịch một cái gì đó ở trong vạn vật đang muốn hiển hiện liên tồn trong âm thanh ngôn ngữ.
Và những người cho rằng kẻ dịch không có tinh thần sáng tạo, những người ấy cũng đang dịch.
Vậy bây giờ chúng ta hay thi đua nhau dịch, và thi đua nhau bỏ dở dang cuộc dịch, và đừng thi đua gì hết cả, để cho cuộc dịch tự nó thành tựu thể thân nó. – “Trời có nói gì đâu… bốn mùa vẫn chuyển nhịp tuần hoàn… Trời có nói gì đâu…” (Khổng Tử)
Kể từ Nguyễn Du và Shakespeare
Hai ông này giống nhau nhiều nhất ở điểm: nêu sự tình bi đát cùng độ, để thỉnh thoảng cho len lỏi vào những lời thơ phiêu bồng thơ ngây khôn tả. Nghĩa là nói cách khác: nêu ra sự chấn động của toàn khối hiện thể để khiến người ta khơi lại mạch nguồn tồn thể (Đó cũng là dụng ý của Nietzsche).
Ông Khổng Tử ngày xưa thì lại cố tình che dấu hết mọi cuộc chấn động hỗn độn. Chẳng phải là ông không biết. Ông biết cùng cực nhưng ông không nói – tri hiểu nhi bất ngôn chi.
Ông Camus Nietzsche cốt cách giống như Khổng Tử, muốn sống và lập ngôn như Khổng Tử, nhưng không thể nào được. Lịch sử đi tới một buổi hoàng hôn riêng biệt.
Trong nền thi ca Việt hiện đại, Nguyễn Thị Hoàng và Trần Thy Nhã Ca là hai hình ảnh biểu hiện nỗi thống khổ cùng cực của lịch sử nhân loại. Những Thánh Nữ Simone Weil không còn lối bước đành làm miếng mồi mềm mại cho những trận Tẩu Hỏa Nhập Ma. Hình như ngành Y Khoa hiện đại đủ sức trị liệu chứng bệnh đó.
Dịch
Từ trong tinh thể nó, Dịch là làm điều cưỡng bức. Dịch văn xuôi là điều cưỡng bức. Dịch thơ lại càng là cưỡng bức triệt để hơn nữa.
Đừng nói chi tới sự vụ dịch thơ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác. Chỉ thử hỏi: Có thể nào đem thơ Việt, dịch ra trở lại làm thơ Việt được không? Có thể nào đem thơ lục bát dịch ra làm thơ thất ngôn, hoặc ngũ ngôn, hoặc song thất lục bát, hay là thơ tám chữ?
Nói triệt để hơn nữa: Có thể nào đem thơ lục bát dịch trở lại làm thơ lục bát? Chính ông Nguyễn Du, ông có thể nào tự mình đem thơ lục bát của mình dịch trở lại làm thơ lục bát?
Không. Lời thơ kia chỉ hiện ra một lần trong phong thái riêng biệt của anh hoa phát tiết một lần. Buộc nó phải hiện ra trở lại trong phong thái khác, thì anh hoa tài tử có thể cho phát tiết một lần nữa, nhưng lần sau không còn là lần trước.
Màu xanh của biển chiều thu năm nay không phải màu xanh của biển chiều thu năm ngoái. Màu xanh biển phút trước, không phải màu xanh biển phút sau. Luôn luôn trong vạn vật cũng như trong sinh hoạt tâm linh, có một trận tái tạo không ngừng. Phải chấp nhận sự đó như là điều hiển nhiên, thì mọi cuộc dịch dy mới có thể còn chút gì chính đáng trong cơn liên tồn cưỡng bức.
Trái lại, nếu quan niệm hẹp hòi, nếu cho rằng dịch phải thật “sát”, không được cưỡng bức dịch dy, thì mặc nhiên người ta đã cưỡng bức một cách không chính đáng. Vì cuộc cưỡng bức nọ không đưa tới tái tạo tinh hoa, mà dẫn tới nô lệ ngục tù, nghĩa là sát phạt tinh hoa.
Thử đưa một thí dụ. Truyện Kiều mở ra với bốn câu:
Trăm năm trong cõi người ta
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau
Trải qua một cuộc bể dâu
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng
Nếu người dịch là kẻ tài hoa, ắt nhận thấy rằng điều cốt thiết trong mấy câu thơ kia, chẳng phải là cái ý tưởng nó hàm ngụ - ý tưởng “tài mệnh tương xung”, “cõi người ta trăm năm ngắn ngủi”, “cuộc biển dâu thương hải tang điền”… là những ý tưởng sáo. Trái lại, cái chỗ bất tử, cái chỗ huyền diệu của câu thơ kia lại là ở những điệp thanh, điệp âm, đối ngữ…
Trăm năm - một cuộc - những điều…
Trong cõi - trải qua – trông thấy…
Chữ tài - chữ mệnh…
Khéo là ghét nhau – mà đau đớn lòng…
Một cuộc tương tranh, một cuộc xô xát, trong một cõi trăm năm, được âm ỷ nêu ra âm thầm triền miên trong những đối ngữ, điệp âm nọ. Đó là cái chỗ thần diệu phát tiết của thơ. Vậy lời dịch làm sao tái lập được cái chất linh diệu đó?
Ông René Crayssac, ông Trương Cam Vũ, vô tình hoặc hữu ý đã tái tạo được trong hai bản Pháp Ngữ và Hoa Ngữ cái chất thơ âm thầm triền miên trong cốt cách lục bát Việt Nam. Mỗi ông theo mỗi lối, thuận theo tinh hoa ngôn ngữ mình, đã thể hiện trở lại trong bản dịch được chín phần mười tinh hoa ngôn ngữ.
Hãy xét bốn câu của Trương Cam Vũ trước:
Nghịch lữ nhân sinh bách tuế trung
Mệnh tài lưỡng tự xảơ tương xung
Nhất kinh thương hải tang điền biến
Mục kích tâm thương kỷ vãng tung
Có thể nghĩ rằng đó là do ngẫu nhiên mà Việt Ngữ và Hoa Ngữ đã hôn phối chặt chẽ. Cũng có thể nghĩ rằng ấy là do cuộc tương giao hằng bao thế kỷ mà nảy ra kết quả đẹp đẽ kia. Dù sao thì dù, lời thơ dịch đã không bỏ lạc cái cốt yếu trong thơ Nguyễn Du. Xin ghi ra những ngôn ngữ gùn ghè tịch hạp:
Bách tuế - lưỡng tự - nhất kinh (trăm năm – hai chữ - một trải qua.)
Đó là những đối ngữ. Và đây là những điệp thanh:
Tuế - tài - tự - tương – tang – tâm – tung nhất kinh - mục kích – thương hải – tâm thương…
Bốn câu dịch bốn câu, Trương Cam Vũ có thể tái lập được chừng đó điểm đặc biệt, lại còn dịch được tiếng “khéo là ghét nhau” ra làm “xảo tương xung” - Thế là người dịch đã thể hội huy hoàng cứu cánh của công việc vậy. Ông vừa thong dong đi sát ý, lại còn thể hiện được viên mãn cái hồn thơ.
Bây giờ xét tới lời dịch của René Crayssac. Crayssac sử dụng Pháp ngữ, Crayssac không thừa thụ những thuận lợi như Trương Cam Vũ – những thuận lợi do những tương giao lâu ngày giữa Hoa Ngữ và Việt Ngữ đem lại – Crayssac đã phải cưỡng bức như thế nào, theo đường lối nào, trong lời dịch?
Những đối ngữ đi mật thiết sát gót nhau trong bốn câu nguyên tác, Crayssac không cách gì thể hiện lại được, thì ông thể hiện theo lối khác bằng cách dịch dôi ra và đưa vào những điệp thanh phong phú.
Bốn câu của Nguyễn Du, ông phải dịch ra làm mười hai câu cả thảy mới tạm gọi là lột được phần nào tinh hoa nguyên tác:
Cent ans – le maximum d’une humaine existence!
S’écoulent rarement sans qu’avect persistance
Et comme si le Sort jalousait leur bonheur,
Sur les gens de talent s’abatte le malheur
Subissant l’âpre loi de la métamorphose,
On voit naitre et mourir si vite tant de choses!
Bien peu de temps suffit pour que fatalement
Surviennent ici-bas d’étranges changements,
Pour que des vert muriers la mer prenne la place
Tandis que, devant eux, ailleurs, elle s’efface!
Or, dans un temps si court, ce que l’observateur
Peut bien voir ne saurait qu’endolorir son coeur.
Nhận định thấy gì?
Những tiếng “trăm năm, một cuộc, những điều” của Nguyễn Du không còn có thể đi sát nhau đẻ gùn ghè mật thiết, vì chúng bị loãng mất trong mười hai câu dài dậm duộc.
Nhưng Crayssac ngược lại đã biết tận dụng những điệp thanh lai láng để thể hiện chất thơ bàng bạc của Nguyễn Du. Xin chép ra đây những âm thanh âm vận láy đi láy lại:
Cent ans – s’écoulent – sans que – comme si – le sort – sur les – s’abatte – subissant si vite – suffit – surviennent – s’efface – si court – ne saurait – son coeur –
Ngoài ra, những đối ngữ thật sự của Nguyễn Du mà Crayssac không thật sự tái lập được, thì ông cũng đã tái lập đối ngữ theo cách khác:
Sans qu’avec – et comme si – Bonheur – malheur
Nâitre – mourir
Tant de choses – bien peu de temps
Prenne la place – elle s’efface
Trên đây chỉ là một trong muôn ngàn thí dụ khác có thể đưa ra khi bàn tới chuyện dịch. Dù sao, điều cốt yếu, chẳng phải là đạt hay không, có lẽ… Điều cốt yếu, là ý thức về cái chỗ gay cấn kia, lúc khởi sự đọc văn thơ. Thơ Nerval, thơ Apollinaire, Baudelaire, Whitman, Dickinson, Rilke, Nietzsche, Heidegger, vân vân, đã bao phen khiến người dịch đành phải bó tay, bó chân, xin nhảy lùi từng trận.
Vậy nên kẻ biết dịch là kẻ biết nhảy lùi. Vì dịch là tư tưởng một cách nghiêm mật. Kẻ tư tưởng thâm viễn bao giờ cũng nhảy lùi. Kẻ biết dịch tối cao, là kẻ không bao giờ chịu dịch. Trường hợp buộc phải dịch, thì đành cưỡng bức. Cưỡng bức để đưa tới đề huề. Trường hợp không thể đưa tới đề huề, thì đành tái điệp nhảy lùi, song trùng bỏ cuộc. Bỏ cuộc thì kể cũng đìu hiu. Bèn nhảy vô cuộc trở lại. Rốt cuộc? Rốt cuộc, con người tẩu hỏa nhập ma sa vào giữa một vòng lẩn quẩn kỳ quặc. Trong cái vòng lẩn quẩn kỳ quặc ấy, hốt nhiên lời thơ Nguyễn Du lại thị hiện một cách não nùng:
Trăm năm trong cõi người ta
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau
Trải qua một cuộc bể dâu
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng
Thơ Nguyễn Du thị hiện một cách đoạn trường như thế, thì sự cố nào xảy ra cho thằng tài tử? Ấy là sự cố Mưa Nguồn, Lá Hoa Cồn… Mọi bài thơ tôi viết ra, đều là vịnh thơ Nguyễn Du tại chỗ gay cấn âm thầm nhất. Dịch thơ từ đó biến ra làm Vịnh Kiều, trong từng cơn cưỡng bức. Thơ Nguyễn Du cũng là tự mình cưỡng bức mình. Người ta công kích thơ tôi, chẳng qua chỉ vì người ta tưởng rằng tôi làm thơ đưa ra cái gì độc đáo lắm.
Lại có kẻ cho rằng thơ tôi làm u ẩn, súc tích, hơn thơ Nguyễn Du. Ấy chẳng qua là người ta không chịu đọc thơ Nguyễn Du trong nếp gấp của nguồn thơ ông đấy thôi.
Nguồn: Bùi Giáng, Thi ca tư tưởng (Sổ đoạn trường - Tức Đi vào cõi thơ cuốn II), Ca Dao xuất bản lần thứ nhất 12/69, Sài Gòn - Việt Nam.
15/6/11
Bùi Giáng - Thi ca tư tưởng ( 1 )
Bùi Giáng
Thi ca tư tưởng
(Phạm Hầu, Hồ Dzếnh, Nguyễn Du, Ngân Giang)
Đi vào cõi thơ
Ghé chơi một trận
Bằng bước gót phiêu bồng
Cõi thơ là cõi bồng phiêu
Hoặc phiêu bồng tâm sự tân toan lệ
Hoặc phiêu bồng tâm ý du dương tiếu
Hoặc phiêu bồng tâm mộng trúc loạn ty
Hoặc sao thì hoặc
Dù sao thì dù
Thể thái sao thì thể thái
Cốt cách nghiễm nhiên rất mực
Vẫn là bất tuyệt phiêu bồng
Vậy kẻ nào
Tự xét mình
Từ trong tinh thể mà ra
Chả có chi là phiêu bồng tí chút
Thì chả nên cưỡng cầu
Tự ép uổng
Ghé vào thi ca thâm xứ làm chi
Cho luống cái công lao trí hải
Cho phí cái công trình bình sinh tâm nguyện
Nay kính cẩn đề kê khai vô dữ ngữ
(Bùi Giáng)
Ví đem vào Sổ Đoạn Trường
Thì treo giải Một mà nhường cho hai
(Thúy Vân và Tam Hợp Đạo Cô)
Phạm Hầu
Đưa tay ta vẫy ngoài vô tận
Chẳng biết xa lòng có những ai
Đó là hai câu thơ cuối bài “Vọng Hải Đài”. Đó cũng là bầu khí hậu mênh mang sầu cô độc bàng bạc khắp mấy bài thơ của Phạm Hầu còn rơi rớt lại chúng ta ngày nay.
“Chúng tôi đã cố công sưu tầm nhưng chỉ được đãi ngộ sáu bài thơ. Âu cũng lấy đó là niềm vui vậy.” (Việt Nam Thi Nhân Tiền Chiến)
Hai ông Nguyễn Tấn Long, Nguyễn Hữu Trọng đã viết một bài hoàn hảo về Phạm Hầu.
Chẳng biết trong lòng ghi những ai?
Thềm son từng dội gót vân hài
Hỡi ơi! Người chỉ là du khách
Giây phút dừng chân vọng hải đài
Kể từ ngày gặp Phạm Hầu trong Thi Nhân Việt Nam (của Hoài Thanh Hoài Chân) tới nay đã ngót một phần tư thế kỷ. Thằng học sinh đầu xanh nay tóc đã bạc. Nó xin đọc ôn lại thơ Phạm Hầu.
Mãi dân trọn hồn vui muôn độ trước
Chưa đủ sao? Đời đòi hỏi thêm chi?
Tai đờ nghe, mi trĩu nặng từ bi
Gió bốn hướng dằn co trong tử biệt
Phạm Hầu viết những lời như thế thuở ông hai mươi mấy tuổi đầu. Hai mươi mấy tuổi mà dường như đã có đủ trong hồn một trăm năm đạo hạnh. Ông đi vào thi ca, nghệ thuật, với tâm hồn con người thanh tu đạt đạo. Người thanh niên ấy đã biết khước từ hết mọi thứ “dưỡng chất trần gian” và âm thầm gửi cho trần gian một chút tặng vật nho nhỏ.
Ngờ đâu tặng vật nho nhỏ kia lại khổng lồ như một Kim Tự Tháp nằm giữa sa mạc mênh mông để ghi lại ngấn tích một nền văn minh huyền ảo nhất thế gian.
Ông là con nhà thế phiệt trâm anh. Ông được kế thừa “y bát” của phụ thân Phạm Liệu. Y bát chân truyền kia đã đặt toàn khối văn học tư tưởng Trung Hoa tới đứng trước trận gió Tây Phương thổi lại. Thơ Phạm Hầu từ đó là cái vùng kết tinh của hai thể tinh văn minh. Hai văn minh đang gặp gỡ nhau, gùn ghè gắn bó hay tương tranh tiêu diệt nhau chơi? Chẳng rõ. Nhưng cái Tại Thể Thi Nhân của Phạm Hầu đã chịu hiến dâng thân mình ra làm Trường Sở Trụ cho cuộc cơn kia. Ông chấp thuận cuộc hôn phối cũng như cuộc giằng co. Và đem thân mình làm chiếc dương cầm cho ngân lên những cung bậc mênh mang chưa từng thấy trong văn chương kim cổ.
Mãi dâng trọn hồn vui muôn độ trước
Chưa đủ sao? Đời đòi hỏi thêm chi?
Tai đờ nghe, mi trĩu nặng từ bi
Gió bốn hướng dằng co trong tử biệt
Trong Thi Ca Tiền Chiến, đã có một Xuân Diệu làm người thanh niên ráo riết, một Huy Cận làm người thanh niên ngậm ngùi, một Hàn Mặc Tử làm người thanh niên đau khổ cực độ, Chế Lan Viên làm người chứng nhân cho điêu tàn, Hồ Dzếnh làm người đề huề giao hảo…lại thêm một Phạm Hầu làm người nghệ sỹ cao vời trang trọng mang một thánh tính u u ẩn ẩn như Nerval. Phạm Hầu mở ra trở lại chân trời bát ngát của Nguyễn Du trong giai đoạn cuối buổi Hoàng Hôn. Ông nói ít hơn Nguyễn Du, ông không đi vào giữa những thiên vạn thể của biển dâu, ông chỉ đơn sơ có mấy lời, nhưng mấy lời đào sâu khôn tả trong mạch giếng tân thanh. “Mãi Dâng Trọn Hồn Vui” là một kỳ tác muốn chìm sâu xuống mạch thẳm sinh tồn. Rồi khi ta cũng chịu ngập mình xuống đáy thẳm kia, thì kỳ tác nọ bỗng hiện thị như một Tòa Cổ Tháp nguy nga. Xin chép hết ra đây bài thơ đấy.
Mãi dâng trọn hồn vui
Mãi dâng trọn hồn vui muôn độ trước
Chưa đủ sao? Đời đòi hỏi thêm chi?
Tai đờ nghe, mi trĩu nặng từ bi
Gió bốn hướng dằng co trong tử biệt
Tiếng rên siết giờ tàn khi chấm hết
Cảnh thường xuyên đêm sáng đổi thay màu
Tim nhói lên nức nở những Ban Đầu
Những giờ cuối rơi rơi thầm tuyệt vọng
Hay đời hỏi thịt êm và tủy nóng
Tôi xin nằm yên ổn cả chân tay
Nắng có lên không mượn rợp cây bày
Mưa có xuống thêm băng hàn chút nữa
Trong đầy ải mình trần tê ngọn lửa
Tiệc chim bằng rỉa rói một lòng đơn
Nếu tôi đau mà người nhẹ căm hờn
Chắc hoa núi vui lay ngàn đóa mộng
Muôn miệng thắm tươi nụ cười hé rộng
Muôn chân say lay động khúc quân thiều
Nếu tôi đau mà người được tin yêu
Trang sách nhỏ nâng niu hồn xứ lạ
Trên đêm thúy hoa nô liều áp má
Đôi bạn đời tay dính nhựa a-giao
Nếu tôi đau, Trời đẹp! Nếu tôi đau
Mà muôn đời mưa nắng hiểu lòng nhau.
Jesus Christ lúc lên Calvaire, ắt Ngài cũng âm thầm nguyện cầu như lời đó. Ngài đã về giữa bụi hồng, rửa chân cho bụi hồng nhân gian, bây giờ Ngài vĩnh biệt nhân gian, bây giờ Ngài vui lòng vĩnh biệt, và lời chúc phúc tối hậu của Ngài hẳn nhiên là: bụi hồng ở lại hãy tiếp tục rửa chân cho nhau.
Còn Như Lai? Như Lai ỡm ờ niêm hoa vì tiếu:- “Ta có thấy bụi hồng nào đâu? Ta đâu nào thấy đâu có bàn chân chi đâu mà rửa với chẳng rửa? – Tu Bồ Đề! Ư ý vân hà?...”
Như Lai có cái tài tình trong phép đánh trống lảng. Đọc mấy bộ kinh Phật, ta xin xóa hết những nhan đề “Kim Cương Kinh, Bát Nhã Kinh, Bà Là Mật Kinh, Hoa Nghiêm Kinh, Pháp Hoa Kinh, Diệu Hoa Kinh, Huyễn Hoa Đệ Nhị Kinh, Ảo Hoặc La Treizième Kinh…” Xóa hết và chép lại là: “Như – Lai – đích – đánh – trống – lảng – tài – tình – tuyệt – kỹ - kinh.
Hồ Dzếnh
Ta không muốn nắn cung đàn
Đêm xưa dạo dưới trăng vàng đợi em
Bền gì thấp thoáng hương duyên
Đẹp gì mấy sợi mây huyền gọi mơ
Thơ dâng ngùn ngụt sắc cờ
Máu tươi hoen ố những giờ ái ân
Quên chân là khách dương trần
Trái tim đau xót bao lần vì yêu
Bình minh về ánh cao siêu
Lên thay lửa sống tiêu điều ngày xưa
Ta cười thấy cháy duyên mơ
Hân hoan khi xé những tờ… rất thơm
Ý thiêng choán hết linh hồn
Còn đâu gió nhớ cung buồn mà ca
Lần đầu trước bóng em xa
Không nghe run trái tim và…rất vui
(Hoa Xuân Đất Việt)
Nguyễn Du
Sen tàn cúc lại nở hoa
Sầu dài ngày ngắn đông đà sang xuân…
Những câu thơ đẹp thiên hình vạn trạng, Nguyễn Du đã dành riêng cho Thúc Sinh một bồ rất lớn.
Mày xanh trăng mới in ngần
Phấn thừa hương cũ bội phần xót xa…
Lưu tâm tới những vần riêng biệt Nguyễn Du dành riêng cho Thúc Sinh, ắt ta sẽ nhận ra một ngụ ý sâu thẳm của Nguyễn Du. Người ta sẽ không xô bồ đứng trên quan điểm tâm lý học để bảo rằng Nguyễn Du đã tả được linh động một nhân vật nhu nhược, sợ vợ, hèn nhát, v.v…
Hình ảnh Thúc Sinh sẽ đứng tại Trung tâm cái vùng tư tưởng thăm thẳm của Liệp Hộ, mà Dịch Kinh sẽ chiếu cố tới bằng những tiếng chả hạn như: “nhứt tịch nhứt hạp vị chi Biến, vãng lai bất cùng vị chi Thông…”
Hoặc: “phù kiền thiên hạ chi chí kiện dã. Đức hạnh hằng dị trĩ tri hiểm. Phù khôn thiên hạ chi chí thuận dã. Đức hạnh hằng giản dĩ tri trở…”
Hoặc: “Nguy giả, an kỳ vị giả dã. Vong giả báo kỳ tồn giả dã. Loan giả hữu kỳ trị giả dã. Thị cố quân tử an nhi bất vọng nguy, tồn nhi bất vọng vong, trí nhi bất vọng loạn…”
Vân vân vân vân. Và mọi thứ vân vân đều có thể lược giảm về một tiếng đơn sơ “vô khả, vô bất khả”.
Riêng một sự nhầm lẫn dị thường của học giả bấy nay về Thúc Sinh, đủ khiến chúng ta kinh dị hãi hùng, chẳng còn biết ăn nói gì ra gì được cả. Chẳng còn biết phải đặt vấn đề từ đâu ra đâu.
(Đã như vậy, còn biết rớ vào đâu mà bừa bãi nêu câu hỏi về Shakespeare, Homère, Lý Bạch, vân vân?)
Cái cuộc Kim Kiều dễ hiểu. Cuộc Từ Hải Kiều, cũng không rắc rối gì lắm. Nhưng cái cuộc Thúc Sinh Kiều, Hoạn Thư Kiều, lại là cái cuộc hàm hỗn gây náo động nhiều nhất trong tác phẩm Nguyễn Du.
Đừng nói chi xa xôi. Chỉ thử hỏi: - Riêng cái việc Kiều tắm hoa trong một mùa Hè, lúc lửa lựu lập lòe đơm bông ở đầu tường, riêng cái việc cô Thúy tắm thôi, đã có gì như một “biến cố” hãi hùng, đến nỗi Nguyễn Du đã phải để chàng Thúc vịnh vào chỗ đó, bằng một bài Đường Thi – nghĩa là bằng cả lịch sử thi ca Trung Quốc? Đem cả một khối lịch sử kia về mở đối thoại với cái tòa thiên nhiên dày sẵn đúc kia, Nguyễn Du có dụng ý gì? Và từ đó Thiên Nhiên (Phusis) đã thành Tượng?
Người ta sẽ xô bồ đáp một cách nông nổi rằng: - Nguyễn Du chả có đặc biệt dụng ý gì hết cả. Ông phỏng theo truyện Tàu, trong truyện Tàu có bài thơ vịnh Kiều tắm, thì ông Nguyễn Du cũng nhắc qua loa cái chuyện Thúc Sinh Vịnh Kiều tắm đấy thôi. Hỡi ôi! Nếu xét cho cùng kỳ lý, thì trong truyện Tàu lại còn tỷ mỷ ghi chép bài thơ nảy lửa nọ ra:
Dạ nguyệt thanh lâu đảo ngọc hồ
Mỹ nhân thừa túy khiết cù du
Băng cơ thỏ phách tranh minh mỵ
Tuyết thái hoa âm bán hữu vô
Sở khởi đái tu hô bạn thức
Dạ hành hàm tiếu thiến nhân phò
Lâm ty khoái nhập phù dung trướng
Chẩm thượng đê thanh xướng chá cô….
Bây giờ chúng ta nghĩ sao? Có phải rằng bấy lâu nay những lời bàn tán của chúng ta về Nguyễn Du, chẳng qua chỉ là tán hươu tán vượn? Nếu có đúng chăng nữa, thì cũng phải nên trả hết những lời ấy về cho truyện Tàu của Thanh Tâm Tài Nhân?
Nếu câu hỏi não nùng ra như thế, bỗng nhiên chúng ta chạm phải một ẩn ngữ không cách gì trực tiếp giải đáp.
Trong truyện Tàu, quả thật Thanh Tâm Tài Nhân đã có dành cho cặp Thúc Sinh Thúy Kiều một chỗ nằm ngồi rộng rãi tình tứ miên miên. Há đâu phải đợi tới ông Nguyễn Du mới có!
Kiều tiễn Thúc Sinh đi, đề mười bài miên man những tán thán “kim tịch thi hà tịch?” những thở than “vấn quân hà nhựt tái quy đầu? Bất tri hà nhựt thị quy kỳ?”, chiêm vọng hương quan hà xứ thị?”…Thúc Sinh đi rồi, Thúy Kiều nằm trong giường mê man hoài niệm ngâm vịnh sáu bài trùng trùng điệp điệp những “tự quân chi xuất hỹ”, những “bất cảm thượng thanh lâu”, những “bất ngôn diệt bất ngữ”, những “vô nhựt bất nam tư”, “tư quân quân bất chí… vân vân…
Kinh khủng thật.
Những lời nồng nàn cháy bỏng máu me liên tồn thốt ra như thế, quả thật không còn coi trời đất ra gì. Chúng ta không dám nấn ná ở lại lâu. Ở lại lâu trong bầu khí hậu đó, ắt sẽ loạn mất tâm thần, tiêu ma tinh thể, còn đâu bình tĩnh sáng suốt mà nhận định đâu vào đâu để bàn tới dụng ý ông Nguyễn Du hay là dụng tâm của ông Du Nguyễn. Xếp lại mọi thứ đó, câu hỏi được nêu thành chất vấn như sau: “Cả ông Nguyễn Du, cả ông Thanh Tâm Tài Nhân, cùng có dụng tâm dụng ý gì, mà lại tả cái cuộc Thúy Kiều Thúc Sinh một cách não nùng thiết tha như thế?”
Phạm Hầu
Sầu hương hoa gạo đỏ bên chân
Xa nắng chiều hoe nhạt mấy phần
Một cột đèn cao mơ góa bụa
Đường dài toan nối hận gian truân
Bốn câu thơ đầu bài “Lý Tưởng” của Phạm Hầu dường như kết tụ cả mối sầu của lớp người ngày trước… Sầu trong Lửa Thiêng, sầu trong những vần tịch mịch nhất của Xuân Diệu, Lưu Trọng Lư, Nguyễn Bính… cùng tìm về đây hội họp. Bốn câu quá sức mênh mang trầm tịch. Dường như tất cả những buổi chiều cô tịch Việt Nam đã ngưng đọng lại một lần. Những buổi chiều Thừa Thiên, chiều Hà Tịnh, chiều Quảng Ngãi Nam, chiều Sơn Tây…
Nhưng mà thật ra trong bài thơ kia Phạm Hầu không có dụng ý tả buổi chiều gì cả. Nhan đề là “Lý Tưởng”. Người thy sĩ đi theo bóng lý tưởng đã bắt gặp màu sắc chiều tàn. Lý tưởng ở đâu? Thiết tha theo đuổi, nhưng chỉ nhìn thấy hoang vu. Chẳng ra lý tưởng là hoang vu hư không? Phải o bế hư không? Hôn phối với hư không, để thành tựu mộng hờ lý tưởng? Lý tưởng là mộng hờ? Biết rõ mộng hờ mơ góa bụa, sao vẫn cứ đeo đai đòi giao hoan với góa bụa?
Biết rằng vô ích sao tôi vẫn
Phung phí đời tôi mấy độ tươi
Cổ kim có một thi nhân, nghệ sỹ, hiền nhân chân chính nào, lại chẳng nhận ra chính mình trong lời thở than đó của Phạm Hầu?
Đời tôi nếu rụng bao nhiêu sắc
Cũng bởi vì tôi quá mộng hờ
Nói theo ngôn ngữ bình dân thì ấy chính là cái cuộc:
Thả mồi bắt bóng
Bóng bắt chẳng được
Mồi kia không còn
Há chẳng là
Đáng tiếc lắm ru?
Vâng. Biết rành rành rằng thế là đáng tiếc, mà sao vẫn cứ lu bù mài miệt trong cuộc đáng tiếc kia? Vì sao như thế?
Ấy bởi lẽ trầm trọng sau đây:
Thằng thi sỹ có cái cảm tưởng cắc cớ rằng: nếu từ bỏ cái cuộc cặm cụi loay hoay bắt bóng nọ, đã đành là trách được một cuộc đáng tiếc, nhưng vì lẽ gì, hỡi ôi! Chính cái sự tình tránh được cuộc đáng tiếc, lại chính đó là điều đáng tiếc khôn hàn, gay cấn trong mọi sự đáng tiếc ở đời.
Do đó, dù biết rằng đuổi đeo là đáng tiếc, là mòn thân mỏi thể, thân tàn ma dại, v.v… vẫn cứ ù lỳ đuổi theo mãi mãi suốt một bình sinh.
Thì cũng chẳng khác chi ông già Heidegger suốt một bình sinh cố công nhọc sức chạy đi kiếm tìm hư vô, để nắm lấy cái hư vô mà dắt dìu dẫn nó về cho Tại Thể đem nó ra mà thiết lập căn cơ cho Siêu Hình Học!!! Một hai lận đận nói mãi rằng Tồn Lưu chỉ có thể nhận diện mình là lúc Tồn Lưu chịu soi bóng mình trong tấm gương vô dạng của Hư Vô!
Một trận hiện diện dị thường trong khiếm diện gây nên một tình tự vừa hoang vắng vừa chan hòa, một khuyết phạp thường hằng lại để mọc ra xum xuê những lá cây viên mãn cứ xô ùa nhau rụng mãi.
Đó là cái tạm gọi là rappochement des extrêmes: participation totale et solitude.
Bây giờ chúng ta nên thư thả đọc lại bài “Lý Tưởng” kia, suốt từ đầu tới cuối, thử đọc thuộc một trận chơi, để xem mai sau trong chiêm bao, có còn cơ hội điều tra ra manh mối chập chờn kia của “Lý Tưởng”.
Lý Tưởng
Sầu hương hoa gạo đỏ bên chân
Xa nắng chiều hoe nhạt mấy phần
Một cột đèn cao mơ góa bụa
Đường dài toan nối hận gian truân
Tôi theo tư tưởng vô cùng tận
Chỉ gặp vô cùng nỗi quạnh hiu
Sáng sớm: rạng đông, chiều: chạng vạng
Những giờ mới lạ có bao nhiêu?
Thuở nhỏ đêm mơ nằm thấy bướm
Giờ không mơ bướm lại mơ thơ
Đời tôi nếu rụng bao nhiêu sắc
Cũng bởi vì tôi quá mộng hờ.
- Ao ước ngày mai sắc nắng thơm
Chiều mai thôi ráng nhuộm cô đơn
Chiều qua gió thổi lời tôi nguyện
Quên thổi giùm tôi hận chập chờn.
Tôi đợi người đây, Tuyệt Đích ơi!
Dẫu xa, xa cách mấy phương trời
Biết rằng vô ích sao tôi vẫn
Phung phí đời tôi mấy độ tươi.
Nếu bây giờ chúng ta đem cái tiếng “lý tưởng” của Phạm Hầu ra bài xích theo lối thô thiển của những người chuyên môn đẽo gọt từ ngữ theo lối phân tích tủn mủn “hợp thời trang”, thì ắt cái lý tưởng kia không còn đất đứng. Phải xóa sạch nó đi để dọn đường cho khoảnh khắc hiện tại. Người ta quên mất rằng mọi ngôn ngữ thi ca là của riêng thi ca. Chúng không có liên can chi tới cái ngôn ngữ máy móc. Chúng nằm trong cái mạch sinh động tuôn trào như một làn phi tuyền từ lòng đất uyên nguyên. Chúng nói lên cái niềm ngạc nhiên nguyên thủy của con người đối diện với cõi thế lưu ly. Nó quên bẵng mọi thứ nhân tuần cập kè trong xã hội ganh đua. Vì thế nó khai trừ cái “ký ức” lếu láo, cái “kinh nghiệm” bon chen, để phục hồi cái ký ức mênh mông, cái kinh nghiệm bát ngát trong những cuộc Lữ dị thường “trải qua một cuộc biển dâu…”
Muốn quên, thì phải có nhớ. Muốn nhớ thì phải có quên. Nhưng quên cái gì và nhớ cái gì? Người ta xao lãng sự xác định đó. Người ta hí hửng a dua lao đầu tới ghì chộp viên kẹo “mới” và cứ tưởng mình tân kỳ biết coi thường cái bánh cũ.
Nếu bây giờ chúng ta thử quên hết mọi giáo lý mà Ki Tô Giáo cũng như Phật Giáo ngày nay nói với ta, thì ắt cái hình ảnh nguyên thủy của Chúa Ki Tô và Như Lai sẽ hiện ra trong một niềm kinh thán bao la. Nếu ta quên đi hết mọi bài giảng giải chuyện Kiều của giáo dục nhà trường và của mọi ông học giả, ắt Nguyễn Du uyên nguyên sẽ hiện trở lại với cái vùng sương bóng của cuộc Lữ mênh mông Liệp Hộ, và của cơn Tịch Nhiên bất động của Thanh Hiên. Từ đó sẽ nảy ra một cuộc Hiện Diện vô ngần trong một cuộc Đối Thoại vô tức vô thanh. Vô tức vô thanh, vì nó không liên can chi tới những âm thanh của học giả. Vô ngần nghĩa là vô ngấn tích. Cuộc hiện diện vô ngấn tích vì nó nằm trong một trận khiếm diện dị thường đối với mọi thứ mưu toan thủ đoạn.
Bài thơ của Phạm Hầu đi về giải thích cho Gia Long cái thái độ im lìm của Nguyễn Du. Giải thích cho Gia Long? Nhưng có đời nào Gia Long hiểu. Những ông vua Gia Long là những ông Chúa Tể Vạn Vật, Những ông ấy không bao giờ chịu làm Kẻ Láng Giếng thơ mộng của Tồn Lưu. Biết rõ rằng những ông ấy không bao giờ nghe ra gì gì cả, nhưng Khổng Tử xưa cũng cứ mở cuộc Lữ Chu Du tới bên gùn ghè đối thoại. Đó cũng là một cách chịu chơi với Sa Mạc. Cuộc Chu Du của Khổng Tử từ đó mang trọn cái ý nghĩa câu thơ:
Một cột đèn cao mơ góa bụa
Đường dài toan nối hận gian truân.
Ngân Giang nữ sỹ
Xin tặng bà mấy câu thơ tôi lắp lại thơ bà một buổi chiều lỡ dở:
Hoa đào ngỏ vắng rụng mong manh
Tỉnh giấc trà suông liễu rủ mành
Đất lạnh xóm nghèo hoa chậm nở
Can tràng ai hẹn với ngày xanh
Ngày xưa chúng tôi không được đọc thơ bà. Sách Hoài Thanh Hoài Chân đã bỏ sót. Nay gặp bà trong sách của Nguyễn Tấn Long, Nguyễn Hữu Trọng. Thấy ông Bùi Khánh Đản họa thơ bà, tôi cũng xin nối điệu chút ít. Tôi không biết họa thơ. Xin gieo vài lời vịnh lạc lõng:
Mưa thu buổi sáng ướt thềm
Tiếng rên rỉ nọ còn thêm nỗi gì.
Dâng lên từng đợt lỗi nghì
Mùa xuân đã chết ai về gọi thu
Tôi đọc kỹ những bài thơ và văn xuôi của bà trong cuốn sách ấy. Tôi biết nói gì bây giờ? Chẳng lẽ lại lảm nhảm nói một điều quá hiển nhiên rằng thơ bà cũng quan trọng như thơ bà Huyện Thanh Quan? Đằm thắm não nùng như linh hồn Đoàn Thị Điểm? Bà hiện giờ ở đâu? Nếu quẩn quanh có mặt ở Sài Gòn? Thì chắc tôi xin rúc ra khỏi gian nhà, đi tìm thăm viếng bà.
Bài “Xuân Tưởng”, bà có ghi: “Dám mong các bạn thơ trả lời bằng những câu hỏi thơ này”.
Tôi cũng không thể trả lời bằng thơ. Trả lời bằng văn xuôi cũng không thể. Chỉ có thế viết câu hỏi của bà đã nêu ra:
Hoa đào múa cánh cuối đông rồi
Một vẫy tay tiên đủ tám bài
Ngày muộn trường văn tàn nét bút
Người làm thơ muộn đấy là ai?
Là ai? tôi không biết. Nhưng người làm thơ muộn có thể biết. Vậy để nhờ người ấy đáp.
Cách mấy mươi năm giấy mực già
Bất ngờ trùng hiện gió xưa hoa
Người làm thơ muộn nêu câu hỏi
Kẻ muộn làm thơ họa há là…
Tạm đáp dở dang như thế. Bây giờ tạm gọi là bình tĩnh yên ổn. Xin chậm rãi chép lại vài bài thơ của bà ra đây.
1. Ngày xưa
Ngày xưa có một người thơ
Vào rừng thông lạnh đợi chờ gió reo
Chim hôm loáng thoáng qua đèo
Cảnh chiều buông tiếng chuông chùa ngân nga…
2. Thế ra
Thế ra thu đã đến rồi
Thảo nào mưa gió tơi bời mấy hôm
Xa xôi ai đấy có buồn?
Thôn Dương ngành liễu võ vàng tương tư
3. Đêm mưa
Gió mưa ướt áo đủ rồi
Sao còn ngấm lạnh lòng tôi thế này
Ốm đau đã mấy tuần nay
Nét cười đã với tháng ngày trôi xa
Giờ không gạn chút vui thừa
Tựa song quạnh vắng nhìn mưa rơi buồn
Nhờ ai chắp hộ mảnh hồn
Đã vì đau giận rũ tan khắp trời
Mưa rơi từng giọt mưa rơi
Lòng ai có lạnh như tôi thế này
Kính thưa Ngân Giang nữ sỹ!
Vãn bối nhận thấy rằng thơ và văn xuôi của tiền bối đều đạt tới mức lô hỏa thuần thanh. Tiền bối hồn nhiên đạt tới như thế là vì tâm hồn tiền bối mênh mông? Hay là tiền bối có chịu khó luyện tập nhiều năm nên mới đạt được thập thành công lực?
Nay mai nếu tôi làm được bài thơ nào, tôi xin đề tặng tiền bối. Và nếu tiền bối cần thỉnh giáo điều gì, tại hạ cũng sẽ sẵn sàng chỉ vẽ cho. Chả hạn? – Chả hạn: tại hạ vốn là thằng thy sỹ đi khắp cõi uyên nguyên, siêu thực, gặp từ con chuồn chuồn nguyên thủy bão giông, tới con hùm thiêng thủy nguyên giông bão, vì lẽ gì tại hạ lại còn chiều chuộng những bài thơ chả có chi bão tố phong ba? – Đáp rằng: tại hạ đã chán ngấy hết mọi thứ phong ba bão tố rồi. Tại hạ thấy nó cũng ù lý le lói ra một thứ nhà ma đó thôi. Ích gì mà triền miên lâu ngày ở trong đó. Nên bế mạc sớm cho xong. Tại hạ tìm tới viếng thăm tiền bối, xin uống một tách nước trà đạm nhiên là đủ. Chỉ cầu mong một điều: trà kia không có pha thêm những bột phấn phồn hoa, và bàn tay pha trà không phải là bàn tay của một kẻ tốt nghiệp chuyên môn nơi một trường cao đẳng Trà Đạo, Trà Lý gì gì hết cả.
Nguồn: Bùi Giáng, Thi ca tư tưởng (Sổ đoạn trường - Tức Đi vào cõi thơ cuốn II), Ca Dao xuất bản lần thứ nhất 12/69, Sài Gòn - Việt Nam.
Thi ca tư tưởng
(Phạm Hầu, Hồ Dzếnh, Nguyễn Du, Ngân Giang)
Đi vào cõi thơ
Ghé chơi một trận
Bằng bước gót phiêu bồng
Cõi thơ là cõi bồng phiêu
Hoặc phiêu bồng tâm sự tân toan lệ
Hoặc phiêu bồng tâm ý du dương tiếu
Hoặc phiêu bồng tâm mộng trúc loạn ty
Hoặc sao thì hoặc
Dù sao thì dù
Thể thái sao thì thể thái
Cốt cách nghiễm nhiên rất mực
Vẫn là bất tuyệt phiêu bồng
Vậy kẻ nào
Tự xét mình
Từ trong tinh thể mà ra
Chả có chi là phiêu bồng tí chút
Thì chả nên cưỡng cầu
Tự ép uổng
Ghé vào thi ca thâm xứ làm chi
Cho luống cái công lao trí hải
Cho phí cái công trình bình sinh tâm nguyện
Nay kính cẩn đề kê khai vô dữ ngữ
(Bùi Giáng)
Ví đem vào Sổ Đoạn Trường
Thì treo giải Một mà nhường cho hai
(Thúy Vân và Tam Hợp Đạo Cô)
Phạm Hầu
Đưa tay ta vẫy ngoài vô tận
Chẳng biết xa lòng có những ai
Đó là hai câu thơ cuối bài “Vọng Hải Đài”. Đó cũng là bầu khí hậu mênh mang sầu cô độc bàng bạc khắp mấy bài thơ của Phạm Hầu còn rơi rớt lại chúng ta ngày nay.
“Chúng tôi đã cố công sưu tầm nhưng chỉ được đãi ngộ sáu bài thơ. Âu cũng lấy đó là niềm vui vậy.” (Việt Nam Thi Nhân Tiền Chiến)
Hai ông Nguyễn Tấn Long, Nguyễn Hữu Trọng đã viết một bài hoàn hảo về Phạm Hầu.
Chẳng biết trong lòng ghi những ai?
Thềm son từng dội gót vân hài
Hỡi ơi! Người chỉ là du khách
Giây phút dừng chân vọng hải đài
Kể từ ngày gặp Phạm Hầu trong Thi Nhân Việt Nam (của Hoài Thanh Hoài Chân) tới nay đã ngót một phần tư thế kỷ. Thằng học sinh đầu xanh nay tóc đã bạc. Nó xin đọc ôn lại thơ Phạm Hầu.
Mãi dân trọn hồn vui muôn độ trước
Chưa đủ sao? Đời đòi hỏi thêm chi?
Tai đờ nghe, mi trĩu nặng từ bi
Gió bốn hướng dằn co trong tử biệt
Phạm Hầu viết những lời như thế thuở ông hai mươi mấy tuổi đầu. Hai mươi mấy tuổi mà dường như đã có đủ trong hồn một trăm năm đạo hạnh. Ông đi vào thi ca, nghệ thuật, với tâm hồn con người thanh tu đạt đạo. Người thanh niên ấy đã biết khước từ hết mọi thứ “dưỡng chất trần gian” và âm thầm gửi cho trần gian một chút tặng vật nho nhỏ.
Ngờ đâu tặng vật nho nhỏ kia lại khổng lồ như một Kim Tự Tháp nằm giữa sa mạc mênh mông để ghi lại ngấn tích một nền văn minh huyền ảo nhất thế gian.
Ông là con nhà thế phiệt trâm anh. Ông được kế thừa “y bát” của phụ thân Phạm Liệu. Y bát chân truyền kia đã đặt toàn khối văn học tư tưởng Trung Hoa tới đứng trước trận gió Tây Phương thổi lại. Thơ Phạm Hầu từ đó là cái vùng kết tinh của hai thể tinh văn minh. Hai văn minh đang gặp gỡ nhau, gùn ghè gắn bó hay tương tranh tiêu diệt nhau chơi? Chẳng rõ. Nhưng cái Tại Thể Thi Nhân của Phạm Hầu đã chịu hiến dâng thân mình ra làm Trường Sở Trụ cho cuộc cơn kia. Ông chấp thuận cuộc hôn phối cũng như cuộc giằng co. Và đem thân mình làm chiếc dương cầm cho ngân lên những cung bậc mênh mang chưa từng thấy trong văn chương kim cổ.
Mãi dâng trọn hồn vui muôn độ trước
Chưa đủ sao? Đời đòi hỏi thêm chi?
Tai đờ nghe, mi trĩu nặng từ bi
Gió bốn hướng dằng co trong tử biệt
Trong Thi Ca Tiền Chiến, đã có một Xuân Diệu làm người thanh niên ráo riết, một Huy Cận làm người thanh niên ngậm ngùi, một Hàn Mặc Tử làm người thanh niên đau khổ cực độ, Chế Lan Viên làm người chứng nhân cho điêu tàn, Hồ Dzếnh làm người đề huề giao hảo…lại thêm một Phạm Hầu làm người nghệ sỹ cao vời trang trọng mang một thánh tính u u ẩn ẩn như Nerval. Phạm Hầu mở ra trở lại chân trời bát ngát của Nguyễn Du trong giai đoạn cuối buổi Hoàng Hôn. Ông nói ít hơn Nguyễn Du, ông không đi vào giữa những thiên vạn thể của biển dâu, ông chỉ đơn sơ có mấy lời, nhưng mấy lời đào sâu khôn tả trong mạch giếng tân thanh. “Mãi Dâng Trọn Hồn Vui” là một kỳ tác muốn chìm sâu xuống mạch thẳm sinh tồn. Rồi khi ta cũng chịu ngập mình xuống đáy thẳm kia, thì kỳ tác nọ bỗng hiện thị như một Tòa Cổ Tháp nguy nga. Xin chép hết ra đây bài thơ đấy.
Mãi dâng trọn hồn vui
Mãi dâng trọn hồn vui muôn độ trước
Chưa đủ sao? Đời đòi hỏi thêm chi?
Tai đờ nghe, mi trĩu nặng từ bi
Gió bốn hướng dằng co trong tử biệt
Tiếng rên siết giờ tàn khi chấm hết
Cảnh thường xuyên đêm sáng đổi thay màu
Tim nhói lên nức nở những Ban Đầu
Những giờ cuối rơi rơi thầm tuyệt vọng
Hay đời hỏi thịt êm và tủy nóng
Tôi xin nằm yên ổn cả chân tay
Nắng có lên không mượn rợp cây bày
Mưa có xuống thêm băng hàn chút nữa
Trong đầy ải mình trần tê ngọn lửa
Tiệc chim bằng rỉa rói một lòng đơn
Nếu tôi đau mà người nhẹ căm hờn
Chắc hoa núi vui lay ngàn đóa mộng
Muôn miệng thắm tươi nụ cười hé rộng
Muôn chân say lay động khúc quân thiều
Nếu tôi đau mà người được tin yêu
Trang sách nhỏ nâng niu hồn xứ lạ
Trên đêm thúy hoa nô liều áp má
Đôi bạn đời tay dính nhựa a-giao
Nếu tôi đau, Trời đẹp! Nếu tôi đau
Mà muôn đời mưa nắng hiểu lòng nhau.
Jesus Christ lúc lên Calvaire, ắt Ngài cũng âm thầm nguyện cầu như lời đó. Ngài đã về giữa bụi hồng, rửa chân cho bụi hồng nhân gian, bây giờ Ngài vĩnh biệt nhân gian, bây giờ Ngài vui lòng vĩnh biệt, và lời chúc phúc tối hậu của Ngài hẳn nhiên là: bụi hồng ở lại hãy tiếp tục rửa chân cho nhau.
Còn Như Lai? Như Lai ỡm ờ niêm hoa vì tiếu:- “Ta có thấy bụi hồng nào đâu? Ta đâu nào thấy đâu có bàn chân chi đâu mà rửa với chẳng rửa? – Tu Bồ Đề! Ư ý vân hà?...”
Như Lai có cái tài tình trong phép đánh trống lảng. Đọc mấy bộ kinh Phật, ta xin xóa hết những nhan đề “Kim Cương Kinh, Bát Nhã Kinh, Bà Là Mật Kinh, Hoa Nghiêm Kinh, Pháp Hoa Kinh, Diệu Hoa Kinh, Huyễn Hoa Đệ Nhị Kinh, Ảo Hoặc La Treizième Kinh…” Xóa hết và chép lại là: “Như – Lai – đích – đánh – trống – lảng – tài – tình – tuyệt – kỹ - kinh.
Hồ Dzếnh
Ta không muốn nắn cung đàn
Đêm xưa dạo dưới trăng vàng đợi em
Bền gì thấp thoáng hương duyên
Đẹp gì mấy sợi mây huyền gọi mơ
Thơ dâng ngùn ngụt sắc cờ
Máu tươi hoen ố những giờ ái ân
Quên chân là khách dương trần
Trái tim đau xót bao lần vì yêu
Bình minh về ánh cao siêu
Lên thay lửa sống tiêu điều ngày xưa
Ta cười thấy cháy duyên mơ
Hân hoan khi xé những tờ… rất thơm
Ý thiêng choán hết linh hồn
Còn đâu gió nhớ cung buồn mà ca
Lần đầu trước bóng em xa
Không nghe run trái tim và…rất vui
(Hoa Xuân Đất Việt)
Nguyễn Du
Sen tàn cúc lại nở hoa
Sầu dài ngày ngắn đông đà sang xuân…
Những câu thơ đẹp thiên hình vạn trạng, Nguyễn Du đã dành riêng cho Thúc Sinh một bồ rất lớn.
Mày xanh trăng mới in ngần
Phấn thừa hương cũ bội phần xót xa…
Lưu tâm tới những vần riêng biệt Nguyễn Du dành riêng cho Thúc Sinh, ắt ta sẽ nhận ra một ngụ ý sâu thẳm của Nguyễn Du. Người ta sẽ không xô bồ đứng trên quan điểm tâm lý học để bảo rằng Nguyễn Du đã tả được linh động một nhân vật nhu nhược, sợ vợ, hèn nhát, v.v…
Hình ảnh Thúc Sinh sẽ đứng tại Trung tâm cái vùng tư tưởng thăm thẳm của Liệp Hộ, mà Dịch Kinh sẽ chiếu cố tới bằng những tiếng chả hạn như: “nhứt tịch nhứt hạp vị chi Biến, vãng lai bất cùng vị chi Thông…”
Hoặc: “phù kiền thiên hạ chi chí kiện dã. Đức hạnh hằng dị trĩ tri hiểm. Phù khôn thiên hạ chi chí thuận dã. Đức hạnh hằng giản dĩ tri trở…”
Hoặc: “Nguy giả, an kỳ vị giả dã. Vong giả báo kỳ tồn giả dã. Loan giả hữu kỳ trị giả dã. Thị cố quân tử an nhi bất vọng nguy, tồn nhi bất vọng vong, trí nhi bất vọng loạn…”
Vân vân vân vân. Và mọi thứ vân vân đều có thể lược giảm về một tiếng đơn sơ “vô khả, vô bất khả”.
Riêng một sự nhầm lẫn dị thường của học giả bấy nay về Thúc Sinh, đủ khiến chúng ta kinh dị hãi hùng, chẳng còn biết ăn nói gì ra gì được cả. Chẳng còn biết phải đặt vấn đề từ đâu ra đâu.
(Đã như vậy, còn biết rớ vào đâu mà bừa bãi nêu câu hỏi về Shakespeare, Homère, Lý Bạch, vân vân?)
Cái cuộc Kim Kiều dễ hiểu. Cuộc Từ Hải Kiều, cũng không rắc rối gì lắm. Nhưng cái cuộc Thúc Sinh Kiều, Hoạn Thư Kiều, lại là cái cuộc hàm hỗn gây náo động nhiều nhất trong tác phẩm Nguyễn Du.
Đừng nói chi xa xôi. Chỉ thử hỏi: - Riêng cái việc Kiều tắm hoa trong một mùa Hè, lúc lửa lựu lập lòe đơm bông ở đầu tường, riêng cái việc cô Thúy tắm thôi, đã có gì như một “biến cố” hãi hùng, đến nỗi Nguyễn Du đã phải để chàng Thúc vịnh vào chỗ đó, bằng một bài Đường Thi – nghĩa là bằng cả lịch sử thi ca Trung Quốc? Đem cả một khối lịch sử kia về mở đối thoại với cái tòa thiên nhiên dày sẵn đúc kia, Nguyễn Du có dụng ý gì? Và từ đó Thiên Nhiên (Phusis) đã thành Tượng?
Người ta sẽ xô bồ đáp một cách nông nổi rằng: - Nguyễn Du chả có đặc biệt dụng ý gì hết cả. Ông phỏng theo truyện Tàu, trong truyện Tàu có bài thơ vịnh Kiều tắm, thì ông Nguyễn Du cũng nhắc qua loa cái chuyện Thúc Sinh Vịnh Kiều tắm đấy thôi. Hỡi ôi! Nếu xét cho cùng kỳ lý, thì trong truyện Tàu lại còn tỷ mỷ ghi chép bài thơ nảy lửa nọ ra:
Dạ nguyệt thanh lâu đảo ngọc hồ
Mỹ nhân thừa túy khiết cù du
Băng cơ thỏ phách tranh minh mỵ
Tuyết thái hoa âm bán hữu vô
Sở khởi đái tu hô bạn thức
Dạ hành hàm tiếu thiến nhân phò
Lâm ty khoái nhập phù dung trướng
Chẩm thượng đê thanh xướng chá cô….
Bây giờ chúng ta nghĩ sao? Có phải rằng bấy lâu nay những lời bàn tán của chúng ta về Nguyễn Du, chẳng qua chỉ là tán hươu tán vượn? Nếu có đúng chăng nữa, thì cũng phải nên trả hết những lời ấy về cho truyện Tàu của Thanh Tâm Tài Nhân?
Nếu câu hỏi não nùng ra như thế, bỗng nhiên chúng ta chạm phải một ẩn ngữ không cách gì trực tiếp giải đáp.
Trong truyện Tàu, quả thật Thanh Tâm Tài Nhân đã có dành cho cặp Thúc Sinh Thúy Kiều một chỗ nằm ngồi rộng rãi tình tứ miên miên. Há đâu phải đợi tới ông Nguyễn Du mới có!
Kiều tiễn Thúc Sinh đi, đề mười bài miên man những tán thán “kim tịch thi hà tịch?” những thở than “vấn quân hà nhựt tái quy đầu? Bất tri hà nhựt thị quy kỳ?”, chiêm vọng hương quan hà xứ thị?”…Thúc Sinh đi rồi, Thúy Kiều nằm trong giường mê man hoài niệm ngâm vịnh sáu bài trùng trùng điệp điệp những “tự quân chi xuất hỹ”, những “bất cảm thượng thanh lâu”, những “bất ngôn diệt bất ngữ”, những “vô nhựt bất nam tư”, “tư quân quân bất chí… vân vân…
Kinh khủng thật.
Những lời nồng nàn cháy bỏng máu me liên tồn thốt ra như thế, quả thật không còn coi trời đất ra gì. Chúng ta không dám nấn ná ở lại lâu. Ở lại lâu trong bầu khí hậu đó, ắt sẽ loạn mất tâm thần, tiêu ma tinh thể, còn đâu bình tĩnh sáng suốt mà nhận định đâu vào đâu để bàn tới dụng ý ông Nguyễn Du hay là dụng tâm của ông Du Nguyễn. Xếp lại mọi thứ đó, câu hỏi được nêu thành chất vấn như sau: “Cả ông Nguyễn Du, cả ông Thanh Tâm Tài Nhân, cùng có dụng tâm dụng ý gì, mà lại tả cái cuộc Thúy Kiều Thúc Sinh một cách não nùng thiết tha như thế?”
Phạm Hầu
Sầu hương hoa gạo đỏ bên chân
Xa nắng chiều hoe nhạt mấy phần
Một cột đèn cao mơ góa bụa
Đường dài toan nối hận gian truân
Bốn câu thơ đầu bài “Lý Tưởng” của Phạm Hầu dường như kết tụ cả mối sầu của lớp người ngày trước… Sầu trong Lửa Thiêng, sầu trong những vần tịch mịch nhất của Xuân Diệu, Lưu Trọng Lư, Nguyễn Bính… cùng tìm về đây hội họp. Bốn câu quá sức mênh mang trầm tịch. Dường như tất cả những buổi chiều cô tịch Việt Nam đã ngưng đọng lại một lần. Những buổi chiều Thừa Thiên, chiều Hà Tịnh, chiều Quảng Ngãi Nam, chiều Sơn Tây…
Nhưng mà thật ra trong bài thơ kia Phạm Hầu không có dụng ý tả buổi chiều gì cả. Nhan đề là “Lý Tưởng”. Người thy sĩ đi theo bóng lý tưởng đã bắt gặp màu sắc chiều tàn. Lý tưởng ở đâu? Thiết tha theo đuổi, nhưng chỉ nhìn thấy hoang vu. Chẳng ra lý tưởng là hoang vu hư không? Phải o bế hư không? Hôn phối với hư không, để thành tựu mộng hờ lý tưởng? Lý tưởng là mộng hờ? Biết rõ mộng hờ mơ góa bụa, sao vẫn cứ đeo đai đòi giao hoan với góa bụa?
Biết rằng vô ích sao tôi vẫn
Phung phí đời tôi mấy độ tươi
Cổ kim có một thi nhân, nghệ sỹ, hiền nhân chân chính nào, lại chẳng nhận ra chính mình trong lời thở than đó của Phạm Hầu?
Đời tôi nếu rụng bao nhiêu sắc
Cũng bởi vì tôi quá mộng hờ
Nói theo ngôn ngữ bình dân thì ấy chính là cái cuộc:
Thả mồi bắt bóng
Bóng bắt chẳng được
Mồi kia không còn
Há chẳng là
Đáng tiếc lắm ru?
Vâng. Biết rành rành rằng thế là đáng tiếc, mà sao vẫn cứ lu bù mài miệt trong cuộc đáng tiếc kia? Vì sao như thế?
Ấy bởi lẽ trầm trọng sau đây:
Thằng thi sỹ có cái cảm tưởng cắc cớ rằng: nếu từ bỏ cái cuộc cặm cụi loay hoay bắt bóng nọ, đã đành là trách được một cuộc đáng tiếc, nhưng vì lẽ gì, hỡi ôi! Chính cái sự tình tránh được cuộc đáng tiếc, lại chính đó là điều đáng tiếc khôn hàn, gay cấn trong mọi sự đáng tiếc ở đời.
Do đó, dù biết rằng đuổi đeo là đáng tiếc, là mòn thân mỏi thể, thân tàn ma dại, v.v… vẫn cứ ù lỳ đuổi theo mãi mãi suốt một bình sinh.
Thì cũng chẳng khác chi ông già Heidegger suốt một bình sinh cố công nhọc sức chạy đi kiếm tìm hư vô, để nắm lấy cái hư vô mà dắt dìu dẫn nó về cho Tại Thể đem nó ra mà thiết lập căn cơ cho Siêu Hình Học!!! Một hai lận đận nói mãi rằng Tồn Lưu chỉ có thể nhận diện mình là lúc Tồn Lưu chịu soi bóng mình trong tấm gương vô dạng của Hư Vô!
Một trận hiện diện dị thường trong khiếm diện gây nên một tình tự vừa hoang vắng vừa chan hòa, một khuyết phạp thường hằng lại để mọc ra xum xuê những lá cây viên mãn cứ xô ùa nhau rụng mãi.
Đó là cái tạm gọi là rappochement des extrêmes: participation totale et solitude.
Bây giờ chúng ta nên thư thả đọc lại bài “Lý Tưởng” kia, suốt từ đầu tới cuối, thử đọc thuộc một trận chơi, để xem mai sau trong chiêm bao, có còn cơ hội điều tra ra manh mối chập chờn kia của “Lý Tưởng”.
Lý Tưởng
Sầu hương hoa gạo đỏ bên chân
Xa nắng chiều hoe nhạt mấy phần
Một cột đèn cao mơ góa bụa
Đường dài toan nối hận gian truân
Tôi theo tư tưởng vô cùng tận
Chỉ gặp vô cùng nỗi quạnh hiu
Sáng sớm: rạng đông, chiều: chạng vạng
Những giờ mới lạ có bao nhiêu?
Thuở nhỏ đêm mơ nằm thấy bướm
Giờ không mơ bướm lại mơ thơ
Đời tôi nếu rụng bao nhiêu sắc
Cũng bởi vì tôi quá mộng hờ.
- Ao ước ngày mai sắc nắng thơm
Chiều mai thôi ráng nhuộm cô đơn
Chiều qua gió thổi lời tôi nguyện
Quên thổi giùm tôi hận chập chờn.
Tôi đợi người đây, Tuyệt Đích ơi!
Dẫu xa, xa cách mấy phương trời
Biết rằng vô ích sao tôi vẫn
Phung phí đời tôi mấy độ tươi.
Nếu bây giờ chúng ta đem cái tiếng “lý tưởng” của Phạm Hầu ra bài xích theo lối thô thiển của những người chuyên môn đẽo gọt từ ngữ theo lối phân tích tủn mủn “hợp thời trang”, thì ắt cái lý tưởng kia không còn đất đứng. Phải xóa sạch nó đi để dọn đường cho khoảnh khắc hiện tại. Người ta quên mất rằng mọi ngôn ngữ thi ca là của riêng thi ca. Chúng không có liên can chi tới cái ngôn ngữ máy móc. Chúng nằm trong cái mạch sinh động tuôn trào như một làn phi tuyền từ lòng đất uyên nguyên. Chúng nói lên cái niềm ngạc nhiên nguyên thủy của con người đối diện với cõi thế lưu ly. Nó quên bẵng mọi thứ nhân tuần cập kè trong xã hội ganh đua. Vì thế nó khai trừ cái “ký ức” lếu láo, cái “kinh nghiệm” bon chen, để phục hồi cái ký ức mênh mông, cái kinh nghiệm bát ngát trong những cuộc Lữ dị thường “trải qua một cuộc biển dâu…”
Muốn quên, thì phải có nhớ. Muốn nhớ thì phải có quên. Nhưng quên cái gì và nhớ cái gì? Người ta xao lãng sự xác định đó. Người ta hí hửng a dua lao đầu tới ghì chộp viên kẹo “mới” và cứ tưởng mình tân kỳ biết coi thường cái bánh cũ.
Nếu bây giờ chúng ta thử quên hết mọi giáo lý mà Ki Tô Giáo cũng như Phật Giáo ngày nay nói với ta, thì ắt cái hình ảnh nguyên thủy của Chúa Ki Tô và Như Lai sẽ hiện ra trong một niềm kinh thán bao la. Nếu ta quên đi hết mọi bài giảng giải chuyện Kiều của giáo dục nhà trường và của mọi ông học giả, ắt Nguyễn Du uyên nguyên sẽ hiện trở lại với cái vùng sương bóng của cuộc Lữ mênh mông Liệp Hộ, và của cơn Tịch Nhiên bất động của Thanh Hiên. Từ đó sẽ nảy ra một cuộc Hiện Diện vô ngần trong một cuộc Đối Thoại vô tức vô thanh. Vô tức vô thanh, vì nó không liên can chi tới những âm thanh của học giả. Vô ngần nghĩa là vô ngấn tích. Cuộc hiện diện vô ngấn tích vì nó nằm trong một trận khiếm diện dị thường đối với mọi thứ mưu toan thủ đoạn.
Bài thơ của Phạm Hầu đi về giải thích cho Gia Long cái thái độ im lìm của Nguyễn Du. Giải thích cho Gia Long? Nhưng có đời nào Gia Long hiểu. Những ông vua Gia Long là những ông Chúa Tể Vạn Vật, Những ông ấy không bao giờ chịu làm Kẻ Láng Giếng thơ mộng của Tồn Lưu. Biết rõ rằng những ông ấy không bao giờ nghe ra gì gì cả, nhưng Khổng Tử xưa cũng cứ mở cuộc Lữ Chu Du tới bên gùn ghè đối thoại. Đó cũng là một cách chịu chơi với Sa Mạc. Cuộc Chu Du của Khổng Tử từ đó mang trọn cái ý nghĩa câu thơ:
Một cột đèn cao mơ góa bụa
Đường dài toan nối hận gian truân.
Ngân Giang nữ sỹ
Xin tặng bà mấy câu thơ tôi lắp lại thơ bà một buổi chiều lỡ dở:
Hoa đào ngỏ vắng rụng mong manh
Tỉnh giấc trà suông liễu rủ mành
Đất lạnh xóm nghèo hoa chậm nở
Can tràng ai hẹn với ngày xanh
Ngày xưa chúng tôi không được đọc thơ bà. Sách Hoài Thanh Hoài Chân đã bỏ sót. Nay gặp bà trong sách của Nguyễn Tấn Long, Nguyễn Hữu Trọng. Thấy ông Bùi Khánh Đản họa thơ bà, tôi cũng xin nối điệu chút ít. Tôi không biết họa thơ. Xin gieo vài lời vịnh lạc lõng:
Mưa thu buổi sáng ướt thềm
Tiếng rên rỉ nọ còn thêm nỗi gì.
Dâng lên từng đợt lỗi nghì
Mùa xuân đã chết ai về gọi thu
Tôi đọc kỹ những bài thơ và văn xuôi của bà trong cuốn sách ấy. Tôi biết nói gì bây giờ? Chẳng lẽ lại lảm nhảm nói một điều quá hiển nhiên rằng thơ bà cũng quan trọng như thơ bà Huyện Thanh Quan? Đằm thắm não nùng như linh hồn Đoàn Thị Điểm? Bà hiện giờ ở đâu? Nếu quẩn quanh có mặt ở Sài Gòn? Thì chắc tôi xin rúc ra khỏi gian nhà, đi tìm thăm viếng bà.
Bài “Xuân Tưởng”, bà có ghi: “Dám mong các bạn thơ trả lời bằng những câu hỏi thơ này”.
Tôi cũng không thể trả lời bằng thơ. Trả lời bằng văn xuôi cũng không thể. Chỉ có thế viết câu hỏi của bà đã nêu ra:
Hoa đào múa cánh cuối đông rồi
Một vẫy tay tiên đủ tám bài
Ngày muộn trường văn tàn nét bút
Người làm thơ muộn đấy là ai?
Là ai? tôi không biết. Nhưng người làm thơ muộn có thể biết. Vậy để nhờ người ấy đáp.
Cách mấy mươi năm giấy mực già
Bất ngờ trùng hiện gió xưa hoa
Người làm thơ muộn nêu câu hỏi
Kẻ muộn làm thơ họa há là…
Tạm đáp dở dang như thế. Bây giờ tạm gọi là bình tĩnh yên ổn. Xin chậm rãi chép lại vài bài thơ của bà ra đây.
1. Ngày xưa
Ngày xưa có một người thơ
Vào rừng thông lạnh đợi chờ gió reo
Chim hôm loáng thoáng qua đèo
Cảnh chiều buông tiếng chuông chùa ngân nga…
2. Thế ra
Thế ra thu đã đến rồi
Thảo nào mưa gió tơi bời mấy hôm
Xa xôi ai đấy có buồn?
Thôn Dương ngành liễu võ vàng tương tư
3. Đêm mưa
Gió mưa ướt áo đủ rồi
Sao còn ngấm lạnh lòng tôi thế này
Ốm đau đã mấy tuần nay
Nét cười đã với tháng ngày trôi xa
Giờ không gạn chút vui thừa
Tựa song quạnh vắng nhìn mưa rơi buồn
Nhờ ai chắp hộ mảnh hồn
Đã vì đau giận rũ tan khắp trời
Mưa rơi từng giọt mưa rơi
Lòng ai có lạnh như tôi thế này
Kính thưa Ngân Giang nữ sỹ!
Vãn bối nhận thấy rằng thơ và văn xuôi của tiền bối đều đạt tới mức lô hỏa thuần thanh. Tiền bối hồn nhiên đạt tới như thế là vì tâm hồn tiền bối mênh mông? Hay là tiền bối có chịu khó luyện tập nhiều năm nên mới đạt được thập thành công lực?
Nay mai nếu tôi làm được bài thơ nào, tôi xin đề tặng tiền bối. Và nếu tiền bối cần thỉnh giáo điều gì, tại hạ cũng sẽ sẵn sàng chỉ vẽ cho. Chả hạn? – Chả hạn: tại hạ vốn là thằng thy sỹ đi khắp cõi uyên nguyên, siêu thực, gặp từ con chuồn chuồn nguyên thủy bão giông, tới con hùm thiêng thủy nguyên giông bão, vì lẽ gì tại hạ lại còn chiều chuộng những bài thơ chả có chi bão tố phong ba? – Đáp rằng: tại hạ đã chán ngấy hết mọi thứ phong ba bão tố rồi. Tại hạ thấy nó cũng ù lý le lói ra một thứ nhà ma đó thôi. Ích gì mà triền miên lâu ngày ở trong đó. Nên bế mạc sớm cho xong. Tại hạ tìm tới viếng thăm tiền bối, xin uống một tách nước trà đạm nhiên là đủ. Chỉ cầu mong một điều: trà kia không có pha thêm những bột phấn phồn hoa, và bàn tay pha trà không phải là bàn tay của một kẻ tốt nghiệp chuyên môn nơi một trường cao đẳng Trà Đạo, Trà Lý gì gì hết cả.
Nguồn: Bùi Giáng, Thi ca tư tưởng (Sổ đoạn trường - Tức Đi vào cõi thơ cuốn II), Ca Dao xuất bản lần thứ nhất 12/69, Sài Gòn - Việt Nam.
Bùi Giáng -Đi vào cõi thơ (5)
Bùi Giáng
Đi vào cõi thơ
Saint John Perse
Trong Sương Bình Nguyên có dịch một đoạn thơ của ông ấy. Ông này thuộc loại thiên tài ngoại hạng, loài génie indéfinissable.
Ngày xưa có một lần tôi đã đả kích Saint John Perse. Chung quy chỉ tại bài phê bình của Rousselot. Cái bài nó viết về Saint John Perse trong tạp chí France-Asie, đã phỉnh gạt tôi khủng khiếp quá. Ngày đó rủi ro, tôi chẳng có tiền mua tác phẩm Saint John Perse nên bị đánh lừa một cách não nùng nhất trong bình sinh.
Lý Bạch
Cái sầu của Tản Đà dễ hiểu. Cái lối cợt nhả của Trang Tử, cũng chẳng có gì lạ. Nhưng mỗi phen nghĩ tới Lý Bạch, lại như chạm phải một cái gì đồ sộ quá xa xuôi. Chúng ta cũng nhiều phen thử uống rượu lu bù, xem có gần gũi được ông Lý chăng. Nhưng lời thơ nhẹ như tơ trời của ông vẫn xa vắng quá.
Yên thảo như bích thy sỹ
Tần tàn đê lục chi
Đương quân hoài quy nhật
Thị tiếp đoạn trường thì…
Hoặc:
Sàng tiền minh nguyệt quang
Nghi thị địa thượng sương…
Rượu chúng ta uống ngày nay không phải là thứ rượu Lý Bạch ngày xưa đã uống. Phong cảnh Trung Hoa ngày xưa cũng chẳng giống phong cảnh thế giới ngày nay. Mà Lý Bạch lại là kẻ thi sỹ quá riêng biệt. Chúng ta có thể làm thơ chữ Hán vượt hẳn Đỗ Phủ, Thôi Hiệu, Lý Thường Ẩn. Nhưng chẳng thể nào viết được những lời đơn sơ bát ngát như mấy câu thơ của Lý Bạch.
Trí Hải
Trí Hải Ni Cô làm thơ cho trẻ con tập đọc. Đọc mấy bài của Ni Cô, chúng ta có cảm tưởng mình biến thành trẻ bé bỏng, được phép gọi Ni Cô là Mẫu Thân bát ngát.
dê mẹ ở hè
nó kêu be he
bé cho nó cỏ
và ba lá tre
*
se sẻ qua đò
cú xo té ngã
quạ ta kẻ cả
chê cú hồ đồ
*
chú quạ bị què
lê ra bờ đê
mổ mè no nê
trở vô ngủ lẹ
*
cú ho sù sụ
quạ qua vỗ về
ru cú ngủ mê
ở kề cổ thụ
*
mơ mơ hồ thu
gió khẽ vi vu
tứ bề ngủ cả
như là mẹ ru
*
gió đi lơ ngơ
gò đá bơ vơ
chả có lá gì
cho gió ru mơ
*
khe ca tỉ tê
mà ru đã ngủ
lá kè ủ rũ
mơ xa gió về
*
gió thở vi vu
nghe xa lá đổ
bò dê đi ở
cỏ mơ sa mù
AC
thu về man mác
xơ xác chim vạc
ngơ ngác nai tơ
bơ vơ chú hạc
AP
mưa sa gió táp
tiêu điều bò cạp
chó Pháp ngáp dài
nhớ nai Hy-lạp
AT
mưa sa hạt mát
giải khát lạc đà
cát vàng bát ngát
bãi xa mờ nhạt
ANG
gió đi lang thang
lá vàng mang mang
mình nghe lành lạnh
mùa thu đã sang
AY
gió nhẹ nhàng lay
lảo đảo vàng bay
ngày thu biền biệt
đất trời như say
ĂNG
băng ngàn tìm trăng
mây mù bủa giăng
như màn the rũ
che mặt ả Hằng
ĂM
gió rét căm căm
người đi xa xăm
tháng năm biền biệt
quê nhà đăm đăm
ĂP
trắng mây về khắp
núi đồi tăm tắp
gió xa sắp về
mây làm cánh chắp.
Nguyễn Thị Hoàng
Thơ Nguyễn Thị Hoàng trang nhã như thơ Bà huyện Thanh Quan, mà lại cũng cay đắng như thơ Hồ Xuân Hương, nhiều lúc nghe thống thiết như thơ bà Đoàn Thị Điểm. Đọc thơ Nguyễn Thị Hoàng, người ta có cảm tưởng như nữ sỹ mang hết trong mình những khổ đau của người phụ nữ Việt Nam.
Giờ xin vĩnh biệt Nhà Chung
Chúa ơi con đã vô cùng đớn đau
Đêm đêm lắng tiếng kinh cầu
Xót thương trăm nỗi tủi sầu một thân
Mưa sa gió táp bao lần
Nhục nhằn tội lỗi nên thân xác này
Con đem số kiếp đoạ đày
Đi tìm kiếm một vài giây huy hoàng
Vài giây huy hoàng, tìm kiếm một cách tuyệt vọng như thế, thật có như là một khúc Tân Đoạn Trường.
Niềm tin vỡ nát bao giờ
Cuộc đời sớm nắng chiều mưa trở về
Tuyệt vọng mà vẫn nhẫn nại đề huề chấp nhận chuyện đời, tự tạo cho mình niềm can đảm vui sống đó là mạch âm thầm trong dòng thơ nữ sỹ:
Chiều hôm nay thứ bảy
Trời giăng mưa trong lá me bay
Em sẽ vì anh bắt đầu từ hiện tại
Câu thơ viết như thế cũng đủ xóa tan đi bớt những u ám quá khứ:
Truyện tình đã chót đa mang…
Trái tim lở lói trăm ngàn vết thương.
Trần Thy Nhã Ca
Tôi bây giờ đứng thu thân
Sống cam phận nhỏ chia phần an vui
Thơ nghe như giọng tiên nữ xuống khép nép xin vào hội hè trần gian. Tiên nữ nhu mỳ khiêm thuận. Đó là điều hiếm có.
Tiên nữ bỏ nhà ra đi lúc còn bé:
Tôi bỏ nhà ra đi năm mười chín tuổi
Đêm trước ngày đi nằm đợi tiếng chuông
Đợi nghe tiếng chuông gõ xong rồi mới ra đi. Đó cũng là phong thái tiên nữ lúc còn nhỏ tuổi. Thong dong gay cấn.
Tuổi nhỏ bị bỏ quên không bao giờ ngó lại
Tôi cũng khuây dần những tình yêu đi qua
Càng gay cấn hơn nữa:
Người cũng vậy, lòng muôn nghìn dối trá
Vờ thương yêu, vờ đắm đuối ân tình
Tôi cũng dại, tin lời, trao tất cả
Đâu biết người mang nửa dạ yêu tinh
Trần Thy Nhã Ca kể ra cũng còn rộng lượng. Cô không viết: “đâu biết người mang toàn dạ yêu tinh”. Cô giấu bớt cho người một phân nửa. Nên chỉ còn lại “nửa dạ yêu tinh” mà thôi.
Thế thì bài thơ của nữ sỹ hình như luôn luôn muốn rằng đừng thốt ra lời gì vượt quá cái mực điều độ. Nghĩa là phải thành tựu cho được tinh thể của “nhã ca”? Nhưng “nhã ca” vốn là cái gì dễ chìm tắt nhất trong bụi hồng. Vì thế phải kêu gọi nó tỉnh dậy.
“Tôi làm con gái gọi trăm lần nhã ca”.
Cái gì đã khiến nữ sỹ tha thiết nói chân tình như thế? Ấy có lẽ cũng chính là dư vang tiếng chuông ở chùa nào ngày nhỏ đã nghe? Nghe ở “cuối cơn điên” và “đầu giấc ngủ”:
Cuối cơn điên đầu giấc ngủ đau buồn
Tiếng chuông đến dịu dàng lay tôi dậy
Chỉ mình tôi nhìn thấy tiếng chuông tan
Tiếng chuông tan đều như hơi thở anh em
Tiếng chuông tan rơi như lệ mẹ hiền…
Tiếng chuông lạ thường kia, nữ sỹ đã nghe? Không. Nhã Ca viết: tôi nhìn thấy… Chỉ mình tôi nhìn thấy tiếng chuông tan…
Nhìn thấy tiếng chuông tan như thế, cũng là nhìn thấy những đổ vỡ sắp xảy đến cho mình. Sắp xảy đến hay là đã xảy ra, thì cũng vậy. Lời thơ sắp đi vào chỗ thống thiết với một “cao cách điệu” hy hữu:
Từ độ xa chuông, khôn lớn giữa đời
Đổi họ thay tên viết văn làm báo
Cơm áo dạy mồm ăn lơ nói láo
Cửa từ bi xưa mất dấu đứa con hư
Tháp cổ chuông xưa sông nhỏ bây giờ
Giòng nước cũ trong mắt nhìn ẩm đục
Con đường cũ trong hồn nghe cỏ mọc…
Tuổi thơ ngây bị vùi lấp hết. Mà lời thơ thật huy hoàng như báo hiệu cuộc hồi sinh. Và quả thật như thế. Cuộc hồi sinh đã đến:
Nhưng sao chiều nay bỗng bàng hoàng nhớ
Tiếng chuông xưa bừng sống lại trong tôi
Tiếng chuông xưa. Kìa. Tuổi dại ta ơi
Chuông òa vỡ trong tôi nghìn tiếng nói
Những mảnh đồng đen như da đêm tối
Những mảnh đồng đen như tiếng cựa mình
Những mảnh đồng đen như màu phục sinh…
Lời thơ xô ùa tới trùng trùng điệp điệp như ngọn triều đại hải:
Tôi thức dậy đây, tôi thức dậy rồi
Thức dậy thật sự rồi
Thức dậy cùng giông bão, thức dậy cùng tan vỡ
Thức dậy cùng trí nhớ
Mẹ hiền ơi, thành phố cũ, chiều nay
Có tiếng chuông nào rơi như lệ trên tay
Trên mặt nước, trên mặt người, mặt lộ
Cho con trở về đứng mê sảng ngó
(“Tiếng Chuông Thiên Mụ”)
Hoài Khanh
Từ Dâng Rừng tới Thân Phận, Hoài Khanh đi một bước riêng biệt choáng váng trong dòng lục bát của ông. Ông không bị một ảnh hưởng nào gò bó. Ông chỉ chịu ảnh hưởng của trời, của sương, của giòng sông, bến quạnh quê hương.
Thỉnh thoảng cố nhiên, ông bị vướng lụy trong bầu khí hậu văn nghệ của hiện tình đất nước chia năm xẻ bảy, ông ngượng gạo viết vài bài khổ nhọc không có cách điệu bồng bềnh bất tuyệt trầm hùng của ông. Nhưng đó là trường hợp hy hữu thôi.
Riêng biệt những bài “xuất thần” bi ca của ông, thì quả thật vô song bát ngát.
Ngày sương thành phố dâng mùa
Bóng thu chìm tịnh cành thưa khởi vàng
Tôi hoài trên bước lang thang
Yêu em vô lượng mà mạn dại buồn
Tóc huyền đó lạnh như sương
Mắt huyền đó mộng bình thường không em
Mỗi đêm nhớ gió trăng tìm
Bãi sông triều giậy đi niềm chia phôi
Khí thơ đi trầm trầm tịch nhiên mà thống thiết như một khúc tân đoạn trường kết tụ dưới thanh hiên.
Mắt em hồ vỡ cung đàn
Thôi xuân nào cũng mộng tàn đêm thâu
Ngùi thương bóng nhỏ giọng sầu
Cõi kia cũng quạnh quẽ màu lưu linh
Thường mỗi phen đọc bài thơ hay, tôi quen thói hình dung tâm hồn ông Nguyễn Du. Tôi tự bảo: nếu ông Nguyễn Du đọc nhữn bài thơ ấy, ông sẽ nghĩ sao về bọn hậu bối.
Suốt bài thơ, dường chẳng thấy sự tình gì xảy ra hết cả. Chỉ nghe một giòng sông đi. Một triều sóng động.
Người ta chấp nhận bài thơ như chấp nhận một trận mưa rào xuống ruộng tình biển ái.
Người ta đi vào bài thơ như đi vào cõi như lai tịch mịch ngậm ngùi. Như đi vào một cung đàn diễm ảo nhớ nhung khép mở, gây một trận tịch hạp chon von, cho nảy ra một niềm đốn ngộ. Người ta không biết đâu bờ bến để phân tích. Không còn chủ nghĩa. Không còn lập trường. Chỉ còn một niềm phiêu dật hồn nhiên tự phóng nhiệm hòa vào cây cỏ, nước mây, là môi trường riêng tây của thi sĩ:
Biển mù mịt đó mưa đan
Tôi ngàn năm nhớ nào tàn mộng xưa
Vi vu màu gió đi mùa
Núi non đồng vọng cũng thừa xót thương
Đà nghe đất giậy môi trường
Cõi miên viễn bỗng vô thường thanh âm
Bơ vơ chiều dựng chuông trầm
Sông dài trôi quạnh hồi âm nẻo nào
Ta nhớ lại cung bậc ban đầu của Dâng Rừng:
Lối xưa mây xám nghẹn màu
Thuyền xuôi qua mấy nhịp cầu chênh vênh
Tóc huyền chìm mấy mông mênh
Thiên thai đâu nhỉ mà quên lối về
Cố nhân chưa vẹn câu thề
Sắt son là mảnh hồn quê ngậm ngùi
Vào thu mây trắng tim rồi
Đêm sâu bỗng lạnh tiếng cười tri âm
Nhưng tại sao lại phải ghi ra nhiều nữa? Hoài Khanh đã hồn nhiên đưa nguồn thơ mình vào lục bát, hồn nhiên dẫn lục bát về cõi uyên nguyên, bỗng nhiên lại khơi mạch gì khiến uyên nguyên trào trở giậy trong vẻ tân kỳ bình đạm thiết tha:
Người ơi năm tháng là gì?
Phải chăng mấy khóm tường vi héo mòn
Đố ai che mảnh trăng tròn
Đố ai đo được lòng son của đời
Thật không thể tưởng tượng. Ông bạn thuở ấy còn nhỏ tuổi, giọng thuần phác như nhiên, đùng một cái, đứng song song lên ngang những thi bá đời Đường mà uyển chuyển như câu hát Kinh Thi, lại pha màu cay đắng của thời đại lao lung nhược tiểu:
Biết bao giờ! đến bao giờ
Cố nhân thì chỉ hững hờ mà thôi
Khách qua tàu đã xa rồi
Là thôi còn một góc trời chênh vênh
Nắng mưa còn thắm ân tình
Dâng đời tất cả riêng mình héo hon
Con tàu nhược tiểu đi đâu như thế? Nó trao được chút gì cho tứ hải hay không? Nó lận đận điêu linh, nó nhẫn nại trong đêm dài bối rối, nó chắp nhặt ân tình, nó mang trở đi đâu, nó mang về không dứt khoát, nó làm hết nhiệm vụ mình và có thể cứ như hờ hững trước mọi tiếng tương giao:
Tàu qua tàu lại vẫn còn
Ngói trơ sương nắng dáng mòn cỏ rêu
Sáo ai buông xuống lưng chiều
Nhà ai lên khói mà nhiều đắng cay
Tàu qua tàu lại đêm ngày
Khăn xanh nào vẫy bàn tay nào mềm
Lệ ai nhỏ ướt sân thềm
Tàu qua thì cả ân tình theo qua
Theo qua là qua mất? Hay theo qua là qua về? Qua lại? Qua đi? Qua bờ bỉ ngạn? Kết tụ tử sinh ? Không biết. Không biết? không biết.
Chỉ biết rằng thy sỹ đã đặt bàn tay thân ái vào giữa cõi lang thang. Và toàn thể quê chung đã quy về cảm thương trong cô độc.
Nát từng nếp áo hoàng hoa
Tâm tư lạnh cả bài ca độc hành
Nhịp đời lẻ khúc thơ xanh
Thế nhân chẳng khóc nhưng tình đơn côi
Lòng ga còn trọn cuộc đời
Chỉ đưa chỉ đón là thôi chứ gì?
Đón đưa gì nhỉ? Tại sao vừa như Tố Như Tử, vừa như Tử Tố Như? Vừa không phải Tố Như Như Tố gì cả?
Chút riêng chọn đá thử vàng
Biết đâu mà gửi can tràng vào đâu
Còn như vào trước ra sau
Ai cho kén chọn vàng thau tự mình?
Mặc người mưa sở mây Tần
Những mình nào biết có xuân là gì?
Thế ra Hoài Khanh đã chạm vào chỗ cốt yếu mà Nguyễn Du đã dành riêng cho tâm sự Thúy Kiều? Anh định làm cái gì thế?
Mùa thu chừ đã đi qua
Lá khô bớt rụng sương sa lại nhiều
Lơ đễnh một chút, ắt ta không ngờ rằng những dư vang thâm hậu Nguyễn Du đã được âm thầm khơi dẫn trở lại một cách kín đáo u nhã u nùng?
Lần lần tháng trọn ngày qua
Nỗi gần nào biết đường xa thế này
Song sa vò võ phương trời
Nay hoàng hôn đã lại mai hôn hoàng
Lần lần thỏ bạc ác vàng
Xót người trong hội đoạn tràng đòi cơn.
Thì chính đó là mạch sầu riêng biệt đã đi về ám lấy núi non. Hoài Khanh ngày xưa không đọc gì nhiều Nguyễn Du, nhưng anh đã hồn nhiên nằm ngay vào giữa mạch sầu thiên cổ của thiên tài Hồng Lĩnh.
Gió lên cuồn cuộn lưng đèo
Chao ôi tâm sự biết chiều hay đêm
Ấy bởi vì quê hương Phan Thiết của anh, với sông, núi, đèo, truông hiu quạnh, những “chiều gió nồm” quả chứa chan màu sắc núi sông Hà Tịnh. Tâm hồn con người cũng được hun đúc trong bầu khí hậu long lanh ngang trái phảng phất những oan nghiệt biển dâu, thôi thúc con người đi suốt xứ tìm trong viễn vọng chiêm bao những ân tình chung thủy:
Em ơi tháng sẽ về năm
Tình ơi chung thủy về thăm mộng lành
Ngàn ngày núi biếc hương xanh
Cho nhau một tấm lòng thành mà thôi
Chúng tôi tưởng, nếu người đọc thơ không có một ý niệm gì hết về phong cảnh núi đồi Hà Tịnh, Phan Thiết, Phan Rang, Tipasa… những phong cảnh bao la ngậm ngùi, đất nước quá đẹp và quá đau thương, nếu không nhìn bằng hai con mắt những sự tình đó suốt bình sinh, ắt sẽ không rõ từ đâu mà những bản bi ca lại xuất hiện trong Dâng Rừng giữa xuân xanh như thế.
Ngàn sâu lắng xuống mịt mùng
Lãng du đêm quạnh lại chùng bước chân
Từ đó chúng ta miên man đọc lại những chiều “xa quê hương nghe gió nồm”, chúng ta trở lại với Dâng Rừng, cùng thi sỹ gọi lại những âm thanh không lời, những lời không có tiếng:
Cố nhân ơi đã đành xa
Thâm u vọng tưởng bài ca sang mùa
Khói hương còn quyện mái chùa
Sắt se chi nữa mà mua tị hiềm
Rừng thiêng mòn mỏi cánh chim
Cũng không giết chết buồng tim đợi chờ
Rồi mai lá rụng cành trơ
Cuốn bao nhiêu gió chép thơ tặng đời
(Dâng Rừng)
Ngậm ngùi một nửa quê hương
Lạnh lùng một dáng chiều buông rủ sầu
Hồn về sáng lại đêm thâu
Lửa hương cầu nguyện cho nhau thâm tình
Không gian chiều xuống thay hình
Thời gian giữ mãi tâm tình trong ta
(Sầu Chiều)
Tập Dâng Rừng cố nhiên có vài chút tạm gọi là “khuyết điểm” theo quan điểm văn nghệ thời nay. Nhưng những khuyết điểm hoặc nhược điểm kia, chính là những đặc ân, ưu điểm của tuổi trẻ. Ngày mai lớn lên, ta khắc phục được những nhược điểm kia, thì cũng chính ngày đó chúng ta đành mất cõi thanh xuân, linh hồn bắt đầu tàn tạ, khép kín. (Kín là kín bưng, kín bít, chứ không phải kín đáo u huyền).
Nhưng làm sao có thể khép kín mãi được? Hãy thư thả nghe lại cung bậc lục bát dị thường trong Thân Phận:
Chim bay tàn bóng xa mù
Thôi sương ở lại đền bù tuổi tôi
Nằm đây lạnh suốt mặt trời
Hoài thương quá khứ đã ngùi phiêu linh
Phố xưa hồn đẫm lệ mình
Sông xưa chiều đã lênh đênh mấy mùa
Nghe tàn cõi mộng hoang thưa
Con chim lại hót trên mùa lang thang
Mắt em hồ vỡ cung đàn
Thôi xuân nào cũng mộng tàn đêm thâu
Ngùi thương bóng nhỏ giọng sầu
Cõi kia cũng quạnh quẽ màu lưu linh…
Màu lưu linh
Chim bay tàn bóng xa mù
Thôi sương ở lại đền bù tuổi tôi
Màu lưu linh là màu lưu ly, linh đinh, hay lung linh sương bóng. Màu lưu linh là một tiếng lãng đãng chia phôi.
Nếu nghĩ tới Kiều, thì đó là màu sắc nhuộm suốt một đời lưu lạc của nàng. Và trong đó không chỉ có đoạn trường thôi? Ly biệt, chia phôi? Nhưng còn ý nghĩa riêng của tu hành trong cuộc Lữ.
Nếu nghĩ tới Nerval, thì màu lưu linh của Hoài Khanh chính là màu của huyễn mộng Les Chi-mères, màu của el desdichado (kẻ lang thang trần trụi, không chỗ dung thân khắp bến bờ đất trích).
Je suis le ténébreuxe le veuf l’inconsolé
Le prince d’Aquitaine à la tourablie
Ma seul etoile est morte – et mon luth constellé
Porte le Soleil noir de la Mélancolie…
(Ta là kẻ âm u, kẻ góa vợ, kẻ khôn nguôi Hoàng tử của một cung thành vùi lấp).
Đã tử diệt là Ngôi Sao duy nhất
Mặt trời đen là cung bậc ta ca
Vừng Hắc Ô bám chặt cây đàn ngà
Ảo mộng của mối Sầu U suốt kiếp)
Màu lưu linh của Hoài Khanh ngân lên cung bậc dị thường kia của ông Chúa Siêu Thực Tây Phương, mà ngân lên trong tiết điệu dịu dàng đôn hậu của lục bát. Cái mới thật là kỳ.
Chim bay tàn bóng xa mù
Thôi sương ở lại đền bù tuổi tôi
Hai câu đơn giản như thế cũng đủ sức xô ùa những Nerval Hölderlin vào cuộc hội đàm vô thanh vô tức với Nguyễn Du. Cuộc hội đàm của bọn người cô độc. Và tuổi tôi chỉ riêng sương lạnh ở lại đền bù.
Người ta có thể hỏi: giọt sương hao mòn như thế, hột sương ở lại đền bù, thì đền bù được bao lăm?
Nhưng thy sỹ vẫn hồn nhiên tha thiết bảo:
Thôi sương ở lại đền bù tuổi tôi
Sương của mùa thu dằng dặc? Vì mùa xuân đã chết? Mùa xuân đã tàn phai theo cánh chim bay tàn bóng xa mù. Tôi còn biết làm sao buộc cánh nó lại? Mà buộc lại để làm gì? Tôi xin chấp thuận cuộc chuyển dịch kia và đem lời thơ trao nhau làm tặng vật.
Dâng đời tất cả riêng mình héo hon
Đó là ý nghĩa của câu thơ Dâng Rừng.
Nằm đây lạnh suốt mặt trời
Hoài thương quá khứ đã ngùi phiêu linh
Phố xưa hồn đẫm lệ mình
Sông xưa triều đã lênh đênh mấy mùa.
Phố xưa sông xưa, là sông phố ở một tỉnh lị nhỏ miền Trung? Gió biển thổi vào từng trận, những chiều hè tha thướt hoang liêu, những buổi sáng mùa đông thảm đạm. Một giai nhân dị thường như những Sylvie, có lẽ đã cư lưu tại phố đó. Và một mối tình tuyệt vọng có lẽ đã đem lệ về làm đẫm ướt phố xưa. Sylvie, Adrienne, Diotima, Alissa… vân vân… Những con người như thế vốn từng đã khiến những thiên tài Hà Tịnh viết nên những lời:
Ví chăng duyên nợ ba sinh
Làm chi đem thói khuynh thành trêu ngươi
Hoặc:
Hồn lưu lạc chưa hề thờ một chúa
Yêu một người, ta dâng cả tình thương
Nhưng tình thương đó đã vô vọng và vì thế nó đã biến thành một thứ gì không tuổi không tên, nhân gian không có lời gì để gọi nó ra được nữa. Gọi nó là màu lưu linh. Màu lưu linh đã giết con người ta chết từ sơ ngộ, người ta sẽ bỏ phố xưa sông cũ ra đi để suốt đời nghe tiếng chim thuở ban sơ về hót…
Nghe tàn cõi mộng hoang thưa
Con chim lại hót trên mùa lang thang
Mắt em hồ vỡ cung đàn…
Trên bước lang thang người thơ gieo những cung bậc vào cung đàn mà mỗi phen mỗi thấy hiện ra trước mắt mình hai con mắt thiên tiên của công chúa, và hai con mắt u huyền đó đã làm vỡ cung đàn bất tuyệt của tài hoa. Và mỗi phen lại nghe cung đàn mình chết lịm trong cung đàn sơ khai kỳ ảo.
Il est un air pour qui je donnerais
Tout Rossini, tout Mozart et tout Weber
Un air très vieu languissant et funèbre
Qui pour moi seul a des charmes secrets
Hoài Khanh chẳng bao giờ đọc Nerval, và có lẽ ngày xưa anh cũng chẳng đọc gì Nguyễn Du, Huy Cận.
Nhưng tâm hồn anh mang chứa tinh thể thi nhạc những tâm hồn kia. Những Mozart, những Chopin, những, những…
Tôi vốn là kẻ rủi ro thuở mười lăm mười sáu đã gặp Huy Cận Nguyễn Du Nerval. Tôi đã giã từ hết sách vở meo mốc nhà trường về quê sống với chuồn chuồn châu chấu. Thì cái ngày lạc lối vào Sàigòn, bỗng nhiên tao ngộ tiếng thơ Dâng Rừng, tôi tưởng mình được phép nói vài lời tuyệt đối, mặc dù ngày đó tôi chưa quen biết Hoài Khanh. Tôi nói với ông Tạ Ký dịp nào gặp Hoài Khanh thì dẫn anh tới nhà chơi một cuộc. Từ bấy tới nay ngót mười năm.
Hoài Khanh là hồn thơ thuần nhiên điền dã.
Vậy thì cái bản “hòa âm điền dã” của anh tất nhiên ngân lên một âm thanh gì khó lọt vào thính quan người văn nghệ phồn hoa. Mỗi người hãy xin mang trọn cái nghiệp mình trong cái vũ trụ riêng mình. Rồi mai sau, sẽ có dịp bất ngờ cái vũ trụ riêng mình sẽ chan hoà vào cái càn khôn chung thiên hạ. Chẳng nên sớm vội vã cưỡng cầu.
Chỉ thử tưởng tượng xem. Những kẻ hồn lạc loài ngay từ thuở sơ sinh bỗng một hôm gặp Nàng Thơ đẹp nguy nga như hoàng hậu trong bầu không khí ba cha bảy mẹ thế kỷ này … Thì từ đó?
Il est un air pour qui je donnerais
Tout Rossini tout Mozart et tout Weber…
Nguồn: Ca Dao xuất bản lần thứ nhất tại Sài Gòn năm 1969. An Tiêm tái bản lần thứ nhất tại Paris năm 1998.
Đi vào cõi thơ
Saint John Perse
Trong Sương Bình Nguyên có dịch một đoạn thơ của ông ấy. Ông này thuộc loại thiên tài ngoại hạng, loài génie indéfinissable.
Ngày xưa có một lần tôi đã đả kích Saint John Perse. Chung quy chỉ tại bài phê bình của Rousselot. Cái bài nó viết về Saint John Perse trong tạp chí France-Asie, đã phỉnh gạt tôi khủng khiếp quá. Ngày đó rủi ro, tôi chẳng có tiền mua tác phẩm Saint John Perse nên bị đánh lừa một cách não nùng nhất trong bình sinh.
Lý Bạch
Cái sầu của Tản Đà dễ hiểu. Cái lối cợt nhả của Trang Tử, cũng chẳng có gì lạ. Nhưng mỗi phen nghĩ tới Lý Bạch, lại như chạm phải một cái gì đồ sộ quá xa xuôi. Chúng ta cũng nhiều phen thử uống rượu lu bù, xem có gần gũi được ông Lý chăng. Nhưng lời thơ nhẹ như tơ trời của ông vẫn xa vắng quá.
Yên thảo như bích thy sỹ
Tần tàn đê lục chi
Đương quân hoài quy nhật
Thị tiếp đoạn trường thì…
Hoặc:
Sàng tiền minh nguyệt quang
Nghi thị địa thượng sương…
Rượu chúng ta uống ngày nay không phải là thứ rượu Lý Bạch ngày xưa đã uống. Phong cảnh Trung Hoa ngày xưa cũng chẳng giống phong cảnh thế giới ngày nay. Mà Lý Bạch lại là kẻ thi sỹ quá riêng biệt. Chúng ta có thể làm thơ chữ Hán vượt hẳn Đỗ Phủ, Thôi Hiệu, Lý Thường Ẩn. Nhưng chẳng thể nào viết được những lời đơn sơ bát ngát như mấy câu thơ của Lý Bạch.
Trí Hải
Trí Hải Ni Cô làm thơ cho trẻ con tập đọc. Đọc mấy bài của Ni Cô, chúng ta có cảm tưởng mình biến thành trẻ bé bỏng, được phép gọi Ni Cô là Mẫu Thân bát ngát.
dê mẹ ở hè
nó kêu be he
bé cho nó cỏ
và ba lá tre
*
se sẻ qua đò
cú xo té ngã
quạ ta kẻ cả
chê cú hồ đồ
*
chú quạ bị què
lê ra bờ đê
mổ mè no nê
trở vô ngủ lẹ
*
cú ho sù sụ
quạ qua vỗ về
ru cú ngủ mê
ở kề cổ thụ
*
mơ mơ hồ thu
gió khẽ vi vu
tứ bề ngủ cả
như là mẹ ru
*
gió đi lơ ngơ
gò đá bơ vơ
chả có lá gì
cho gió ru mơ
*
khe ca tỉ tê
mà ru đã ngủ
lá kè ủ rũ
mơ xa gió về
*
gió thở vi vu
nghe xa lá đổ
bò dê đi ở
cỏ mơ sa mù
AC
thu về man mác
xơ xác chim vạc
ngơ ngác nai tơ
bơ vơ chú hạc
AP
mưa sa gió táp
tiêu điều bò cạp
chó Pháp ngáp dài
nhớ nai Hy-lạp
AT
mưa sa hạt mát
giải khát lạc đà
cát vàng bát ngát
bãi xa mờ nhạt
ANG
gió đi lang thang
lá vàng mang mang
mình nghe lành lạnh
mùa thu đã sang
AY
gió nhẹ nhàng lay
lảo đảo vàng bay
ngày thu biền biệt
đất trời như say
ĂNG
băng ngàn tìm trăng
mây mù bủa giăng
như màn the rũ
che mặt ả Hằng
ĂM
gió rét căm căm
người đi xa xăm
tháng năm biền biệt
quê nhà đăm đăm
ĂP
trắng mây về khắp
núi đồi tăm tắp
gió xa sắp về
mây làm cánh chắp.
Nguyễn Thị Hoàng
Thơ Nguyễn Thị Hoàng trang nhã như thơ Bà huyện Thanh Quan, mà lại cũng cay đắng như thơ Hồ Xuân Hương, nhiều lúc nghe thống thiết như thơ bà Đoàn Thị Điểm. Đọc thơ Nguyễn Thị Hoàng, người ta có cảm tưởng như nữ sỹ mang hết trong mình những khổ đau của người phụ nữ Việt Nam.
Giờ xin vĩnh biệt Nhà Chung
Chúa ơi con đã vô cùng đớn đau
Đêm đêm lắng tiếng kinh cầu
Xót thương trăm nỗi tủi sầu một thân
Mưa sa gió táp bao lần
Nhục nhằn tội lỗi nên thân xác này
Con đem số kiếp đoạ đày
Đi tìm kiếm một vài giây huy hoàng
Vài giây huy hoàng, tìm kiếm một cách tuyệt vọng như thế, thật có như là một khúc Tân Đoạn Trường.
Niềm tin vỡ nát bao giờ
Cuộc đời sớm nắng chiều mưa trở về
Tuyệt vọng mà vẫn nhẫn nại đề huề chấp nhận chuyện đời, tự tạo cho mình niềm can đảm vui sống đó là mạch âm thầm trong dòng thơ nữ sỹ:
Chiều hôm nay thứ bảy
Trời giăng mưa trong lá me bay
Em sẽ vì anh bắt đầu từ hiện tại
Câu thơ viết như thế cũng đủ xóa tan đi bớt những u ám quá khứ:
Truyện tình đã chót đa mang…
Trái tim lở lói trăm ngàn vết thương.
Trần Thy Nhã Ca
Tôi bây giờ đứng thu thân
Sống cam phận nhỏ chia phần an vui
Thơ nghe như giọng tiên nữ xuống khép nép xin vào hội hè trần gian. Tiên nữ nhu mỳ khiêm thuận. Đó là điều hiếm có.
Tiên nữ bỏ nhà ra đi lúc còn bé:
Tôi bỏ nhà ra đi năm mười chín tuổi
Đêm trước ngày đi nằm đợi tiếng chuông
Đợi nghe tiếng chuông gõ xong rồi mới ra đi. Đó cũng là phong thái tiên nữ lúc còn nhỏ tuổi. Thong dong gay cấn.
Tuổi nhỏ bị bỏ quên không bao giờ ngó lại
Tôi cũng khuây dần những tình yêu đi qua
Càng gay cấn hơn nữa:
Người cũng vậy, lòng muôn nghìn dối trá
Vờ thương yêu, vờ đắm đuối ân tình
Tôi cũng dại, tin lời, trao tất cả
Đâu biết người mang nửa dạ yêu tinh
Trần Thy Nhã Ca kể ra cũng còn rộng lượng. Cô không viết: “đâu biết người mang toàn dạ yêu tinh”. Cô giấu bớt cho người một phân nửa. Nên chỉ còn lại “nửa dạ yêu tinh” mà thôi.
Thế thì bài thơ của nữ sỹ hình như luôn luôn muốn rằng đừng thốt ra lời gì vượt quá cái mực điều độ. Nghĩa là phải thành tựu cho được tinh thể của “nhã ca”? Nhưng “nhã ca” vốn là cái gì dễ chìm tắt nhất trong bụi hồng. Vì thế phải kêu gọi nó tỉnh dậy.
“Tôi làm con gái gọi trăm lần nhã ca”.
Cái gì đã khiến nữ sỹ tha thiết nói chân tình như thế? Ấy có lẽ cũng chính là dư vang tiếng chuông ở chùa nào ngày nhỏ đã nghe? Nghe ở “cuối cơn điên” và “đầu giấc ngủ”:
Cuối cơn điên đầu giấc ngủ đau buồn
Tiếng chuông đến dịu dàng lay tôi dậy
Chỉ mình tôi nhìn thấy tiếng chuông tan
Tiếng chuông tan đều như hơi thở anh em
Tiếng chuông tan rơi như lệ mẹ hiền…
Tiếng chuông lạ thường kia, nữ sỹ đã nghe? Không. Nhã Ca viết: tôi nhìn thấy… Chỉ mình tôi nhìn thấy tiếng chuông tan…
Nhìn thấy tiếng chuông tan như thế, cũng là nhìn thấy những đổ vỡ sắp xảy đến cho mình. Sắp xảy đến hay là đã xảy ra, thì cũng vậy. Lời thơ sắp đi vào chỗ thống thiết với một “cao cách điệu” hy hữu:
Từ độ xa chuông, khôn lớn giữa đời
Đổi họ thay tên viết văn làm báo
Cơm áo dạy mồm ăn lơ nói láo
Cửa từ bi xưa mất dấu đứa con hư
Tháp cổ chuông xưa sông nhỏ bây giờ
Giòng nước cũ trong mắt nhìn ẩm đục
Con đường cũ trong hồn nghe cỏ mọc…
Tuổi thơ ngây bị vùi lấp hết. Mà lời thơ thật huy hoàng như báo hiệu cuộc hồi sinh. Và quả thật như thế. Cuộc hồi sinh đã đến:
Nhưng sao chiều nay bỗng bàng hoàng nhớ
Tiếng chuông xưa bừng sống lại trong tôi
Tiếng chuông xưa. Kìa. Tuổi dại ta ơi
Chuông òa vỡ trong tôi nghìn tiếng nói
Những mảnh đồng đen như da đêm tối
Những mảnh đồng đen như tiếng cựa mình
Những mảnh đồng đen như màu phục sinh…
Lời thơ xô ùa tới trùng trùng điệp điệp như ngọn triều đại hải:
Tôi thức dậy đây, tôi thức dậy rồi
Thức dậy thật sự rồi
Thức dậy cùng giông bão, thức dậy cùng tan vỡ
Thức dậy cùng trí nhớ
Mẹ hiền ơi, thành phố cũ, chiều nay
Có tiếng chuông nào rơi như lệ trên tay
Trên mặt nước, trên mặt người, mặt lộ
Cho con trở về đứng mê sảng ngó
(“Tiếng Chuông Thiên Mụ”)
Hoài Khanh
Từ Dâng Rừng tới Thân Phận, Hoài Khanh đi một bước riêng biệt choáng váng trong dòng lục bát của ông. Ông không bị một ảnh hưởng nào gò bó. Ông chỉ chịu ảnh hưởng của trời, của sương, của giòng sông, bến quạnh quê hương.
Thỉnh thoảng cố nhiên, ông bị vướng lụy trong bầu khí hậu văn nghệ của hiện tình đất nước chia năm xẻ bảy, ông ngượng gạo viết vài bài khổ nhọc không có cách điệu bồng bềnh bất tuyệt trầm hùng của ông. Nhưng đó là trường hợp hy hữu thôi.
Riêng biệt những bài “xuất thần” bi ca của ông, thì quả thật vô song bát ngát.
Ngày sương thành phố dâng mùa
Bóng thu chìm tịnh cành thưa khởi vàng
Tôi hoài trên bước lang thang
Yêu em vô lượng mà mạn dại buồn
Tóc huyền đó lạnh như sương
Mắt huyền đó mộng bình thường không em
Mỗi đêm nhớ gió trăng tìm
Bãi sông triều giậy đi niềm chia phôi
Khí thơ đi trầm trầm tịch nhiên mà thống thiết như một khúc tân đoạn trường kết tụ dưới thanh hiên.
Mắt em hồ vỡ cung đàn
Thôi xuân nào cũng mộng tàn đêm thâu
Ngùi thương bóng nhỏ giọng sầu
Cõi kia cũng quạnh quẽ màu lưu linh
Thường mỗi phen đọc bài thơ hay, tôi quen thói hình dung tâm hồn ông Nguyễn Du. Tôi tự bảo: nếu ông Nguyễn Du đọc nhữn bài thơ ấy, ông sẽ nghĩ sao về bọn hậu bối.
Suốt bài thơ, dường chẳng thấy sự tình gì xảy ra hết cả. Chỉ nghe một giòng sông đi. Một triều sóng động.
Người ta chấp nhận bài thơ như chấp nhận một trận mưa rào xuống ruộng tình biển ái.
Người ta đi vào bài thơ như đi vào cõi như lai tịch mịch ngậm ngùi. Như đi vào một cung đàn diễm ảo nhớ nhung khép mở, gây một trận tịch hạp chon von, cho nảy ra một niềm đốn ngộ. Người ta không biết đâu bờ bến để phân tích. Không còn chủ nghĩa. Không còn lập trường. Chỉ còn một niềm phiêu dật hồn nhiên tự phóng nhiệm hòa vào cây cỏ, nước mây, là môi trường riêng tây của thi sĩ:
Biển mù mịt đó mưa đan
Tôi ngàn năm nhớ nào tàn mộng xưa
Vi vu màu gió đi mùa
Núi non đồng vọng cũng thừa xót thương
Đà nghe đất giậy môi trường
Cõi miên viễn bỗng vô thường thanh âm
Bơ vơ chiều dựng chuông trầm
Sông dài trôi quạnh hồi âm nẻo nào
Ta nhớ lại cung bậc ban đầu của Dâng Rừng:
Lối xưa mây xám nghẹn màu
Thuyền xuôi qua mấy nhịp cầu chênh vênh
Tóc huyền chìm mấy mông mênh
Thiên thai đâu nhỉ mà quên lối về
Cố nhân chưa vẹn câu thề
Sắt son là mảnh hồn quê ngậm ngùi
Vào thu mây trắng tim rồi
Đêm sâu bỗng lạnh tiếng cười tri âm
Nhưng tại sao lại phải ghi ra nhiều nữa? Hoài Khanh đã hồn nhiên đưa nguồn thơ mình vào lục bát, hồn nhiên dẫn lục bát về cõi uyên nguyên, bỗng nhiên lại khơi mạch gì khiến uyên nguyên trào trở giậy trong vẻ tân kỳ bình đạm thiết tha:
Người ơi năm tháng là gì?
Phải chăng mấy khóm tường vi héo mòn
Đố ai che mảnh trăng tròn
Đố ai đo được lòng son của đời
Thật không thể tưởng tượng. Ông bạn thuở ấy còn nhỏ tuổi, giọng thuần phác như nhiên, đùng một cái, đứng song song lên ngang những thi bá đời Đường mà uyển chuyển như câu hát Kinh Thi, lại pha màu cay đắng của thời đại lao lung nhược tiểu:
Biết bao giờ! đến bao giờ
Cố nhân thì chỉ hững hờ mà thôi
Khách qua tàu đã xa rồi
Là thôi còn một góc trời chênh vênh
Nắng mưa còn thắm ân tình
Dâng đời tất cả riêng mình héo hon
Con tàu nhược tiểu đi đâu như thế? Nó trao được chút gì cho tứ hải hay không? Nó lận đận điêu linh, nó nhẫn nại trong đêm dài bối rối, nó chắp nhặt ân tình, nó mang trở đi đâu, nó mang về không dứt khoát, nó làm hết nhiệm vụ mình và có thể cứ như hờ hững trước mọi tiếng tương giao:
Tàu qua tàu lại vẫn còn
Ngói trơ sương nắng dáng mòn cỏ rêu
Sáo ai buông xuống lưng chiều
Nhà ai lên khói mà nhiều đắng cay
Tàu qua tàu lại đêm ngày
Khăn xanh nào vẫy bàn tay nào mềm
Lệ ai nhỏ ướt sân thềm
Tàu qua thì cả ân tình theo qua
Theo qua là qua mất? Hay theo qua là qua về? Qua lại? Qua đi? Qua bờ bỉ ngạn? Kết tụ tử sinh ? Không biết. Không biết? không biết.
Chỉ biết rằng thy sỹ đã đặt bàn tay thân ái vào giữa cõi lang thang. Và toàn thể quê chung đã quy về cảm thương trong cô độc.
Nát từng nếp áo hoàng hoa
Tâm tư lạnh cả bài ca độc hành
Nhịp đời lẻ khúc thơ xanh
Thế nhân chẳng khóc nhưng tình đơn côi
Lòng ga còn trọn cuộc đời
Chỉ đưa chỉ đón là thôi chứ gì?
Đón đưa gì nhỉ? Tại sao vừa như Tố Như Tử, vừa như Tử Tố Như? Vừa không phải Tố Như Như Tố gì cả?
Chút riêng chọn đá thử vàng
Biết đâu mà gửi can tràng vào đâu
Còn như vào trước ra sau
Ai cho kén chọn vàng thau tự mình?
Mặc người mưa sở mây Tần
Những mình nào biết có xuân là gì?
Thế ra Hoài Khanh đã chạm vào chỗ cốt yếu mà Nguyễn Du đã dành riêng cho tâm sự Thúy Kiều? Anh định làm cái gì thế?
Mùa thu chừ đã đi qua
Lá khô bớt rụng sương sa lại nhiều
Lơ đễnh một chút, ắt ta không ngờ rằng những dư vang thâm hậu Nguyễn Du đã được âm thầm khơi dẫn trở lại một cách kín đáo u nhã u nùng?
Lần lần tháng trọn ngày qua
Nỗi gần nào biết đường xa thế này
Song sa vò võ phương trời
Nay hoàng hôn đã lại mai hôn hoàng
Lần lần thỏ bạc ác vàng
Xót người trong hội đoạn tràng đòi cơn.
Thì chính đó là mạch sầu riêng biệt đã đi về ám lấy núi non. Hoài Khanh ngày xưa không đọc gì nhiều Nguyễn Du, nhưng anh đã hồn nhiên nằm ngay vào giữa mạch sầu thiên cổ của thiên tài Hồng Lĩnh.
Gió lên cuồn cuộn lưng đèo
Chao ôi tâm sự biết chiều hay đêm
Ấy bởi vì quê hương Phan Thiết của anh, với sông, núi, đèo, truông hiu quạnh, những “chiều gió nồm” quả chứa chan màu sắc núi sông Hà Tịnh. Tâm hồn con người cũng được hun đúc trong bầu khí hậu long lanh ngang trái phảng phất những oan nghiệt biển dâu, thôi thúc con người đi suốt xứ tìm trong viễn vọng chiêm bao những ân tình chung thủy:
Em ơi tháng sẽ về năm
Tình ơi chung thủy về thăm mộng lành
Ngàn ngày núi biếc hương xanh
Cho nhau một tấm lòng thành mà thôi
Chúng tôi tưởng, nếu người đọc thơ không có một ý niệm gì hết về phong cảnh núi đồi Hà Tịnh, Phan Thiết, Phan Rang, Tipasa… những phong cảnh bao la ngậm ngùi, đất nước quá đẹp và quá đau thương, nếu không nhìn bằng hai con mắt những sự tình đó suốt bình sinh, ắt sẽ không rõ từ đâu mà những bản bi ca lại xuất hiện trong Dâng Rừng giữa xuân xanh như thế.
Ngàn sâu lắng xuống mịt mùng
Lãng du đêm quạnh lại chùng bước chân
Từ đó chúng ta miên man đọc lại những chiều “xa quê hương nghe gió nồm”, chúng ta trở lại với Dâng Rừng, cùng thi sỹ gọi lại những âm thanh không lời, những lời không có tiếng:
Cố nhân ơi đã đành xa
Thâm u vọng tưởng bài ca sang mùa
Khói hương còn quyện mái chùa
Sắt se chi nữa mà mua tị hiềm
Rừng thiêng mòn mỏi cánh chim
Cũng không giết chết buồng tim đợi chờ
Rồi mai lá rụng cành trơ
Cuốn bao nhiêu gió chép thơ tặng đời
(Dâng Rừng)
Ngậm ngùi một nửa quê hương
Lạnh lùng một dáng chiều buông rủ sầu
Hồn về sáng lại đêm thâu
Lửa hương cầu nguyện cho nhau thâm tình
Không gian chiều xuống thay hình
Thời gian giữ mãi tâm tình trong ta
(Sầu Chiều)
Tập Dâng Rừng cố nhiên có vài chút tạm gọi là “khuyết điểm” theo quan điểm văn nghệ thời nay. Nhưng những khuyết điểm hoặc nhược điểm kia, chính là những đặc ân, ưu điểm của tuổi trẻ. Ngày mai lớn lên, ta khắc phục được những nhược điểm kia, thì cũng chính ngày đó chúng ta đành mất cõi thanh xuân, linh hồn bắt đầu tàn tạ, khép kín. (Kín là kín bưng, kín bít, chứ không phải kín đáo u huyền).
Nhưng làm sao có thể khép kín mãi được? Hãy thư thả nghe lại cung bậc lục bát dị thường trong Thân Phận:
Chim bay tàn bóng xa mù
Thôi sương ở lại đền bù tuổi tôi
Nằm đây lạnh suốt mặt trời
Hoài thương quá khứ đã ngùi phiêu linh
Phố xưa hồn đẫm lệ mình
Sông xưa chiều đã lênh đênh mấy mùa
Nghe tàn cõi mộng hoang thưa
Con chim lại hót trên mùa lang thang
Mắt em hồ vỡ cung đàn
Thôi xuân nào cũng mộng tàn đêm thâu
Ngùi thương bóng nhỏ giọng sầu
Cõi kia cũng quạnh quẽ màu lưu linh…
Màu lưu linh
Chim bay tàn bóng xa mù
Thôi sương ở lại đền bù tuổi tôi
Màu lưu linh là màu lưu ly, linh đinh, hay lung linh sương bóng. Màu lưu linh là một tiếng lãng đãng chia phôi.
Nếu nghĩ tới Kiều, thì đó là màu sắc nhuộm suốt một đời lưu lạc của nàng. Và trong đó không chỉ có đoạn trường thôi? Ly biệt, chia phôi? Nhưng còn ý nghĩa riêng của tu hành trong cuộc Lữ.
Nếu nghĩ tới Nerval, thì màu lưu linh của Hoài Khanh chính là màu của huyễn mộng Les Chi-mères, màu của el desdichado (kẻ lang thang trần trụi, không chỗ dung thân khắp bến bờ đất trích).
Je suis le ténébreuxe le veuf l’inconsolé
Le prince d’Aquitaine à la tourablie
Ma seul etoile est morte – et mon luth constellé
Porte le Soleil noir de la Mélancolie…
(Ta là kẻ âm u, kẻ góa vợ, kẻ khôn nguôi Hoàng tử của một cung thành vùi lấp).
Đã tử diệt là Ngôi Sao duy nhất
Mặt trời đen là cung bậc ta ca
Vừng Hắc Ô bám chặt cây đàn ngà
Ảo mộng của mối Sầu U suốt kiếp)
Màu lưu linh của Hoài Khanh ngân lên cung bậc dị thường kia của ông Chúa Siêu Thực Tây Phương, mà ngân lên trong tiết điệu dịu dàng đôn hậu của lục bát. Cái mới thật là kỳ.
Chim bay tàn bóng xa mù
Thôi sương ở lại đền bù tuổi tôi
Hai câu đơn giản như thế cũng đủ sức xô ùa những Nerval Hölderlin vào cuộc hội đàm vô thanh vô tức với Nguyễn Du. Cuộc hội đàm của bọn người cô độc. Và tuổi tôi chỉ riêng sương lạnh ở lại đền bù.
Người ta có thể hỏi: giọt sương hao mòn như thế, hột sương ở lại đền bù, thì đền bù được bao lăm?
Nhưng thy sỹ vẫn hồn nhiên tha thiết bảo:
Thôi sương ở lại đền bù tuổi tôi
Sương của mùa thu dằng dặc? Vì mùa xuân đã chết? Mùa xuân đã tàn phai theo cánh chim bay tàn bóng xa mù. Tôi còn biết làm sao buộc cánh nó lại? Mà buộc lại để làm gì? Tôi xin chấp thuận cuộc chuyển dịch kia và đem lời thơ trao nhau làm tặng vật.
Dâng đời tất cả riêng mình héo hon
Đó là ý nghĩa của câu thơ Dâng Rừng.
Nằm đây lạnh suốt mặt trời
Hoài thương quá khứ đã ngùi phiêu linh
Phố xưa hồn đẫm lệ mình
Sông xưa triều đã lênh đênh mấy mùa.
Phố xưa sông xưa, là sông phố ở một tỉnh lị nhỏ miền Trung? Gió biển thổi vào từng trận, những chiều hè tha thướt hoang liêu, những buổi sáng mùa đông thảm đạm. Một giai nhân dị thường như những Sylvie, có lẽ đã cư lưu tại phố đó. Và một mối tình tuyệt vọng có lẽ đã đem lệ về làm đẫm ướt phố xưa. Sylvie, Adrienne, Diotima, Alissa… vân vân… Những con người như thế vốn từng đã khiến những thiên tài Hà Tịnh viết nên những lời:
Ví chăng duyên nợ ba sinh
Làm chi đem thói khuynh thành trêu ngươi
Hoặc:
Hồn lưu lạc chưa hề thờ một chúa
Yêu một người, ta dâng cả tình thương
Nhưng tình thương đó đã vô vọng và vì thế nó đã biến thành một thứ gì không tuổi không tên, nhân gian không có lời gì để gọi nó ra được nữa. Gọi nó là màu lưu linh. Màu lưu linh đã giết con người ta chết từ sơ ngộ, người ta sẽ bỏ phố xưa sông cũ ra đi để suốt đời nghe tiếng chim thuở ban sơ về hót…
Nghe tàn cõi mộng hoang thưa
Con chim lại hót trên mùa lang thang
Mắt em hồ vỡ cung đàn…
Trên bước lang thang người thơ gieo những cung bậc vào cung đàn mà mỗi phen mỗi thấy hiện ra trước mắt mình hai con mắt thiên tiên của công chúa, và hai con mắt u huyền đó đã làm vỡ cung đàn bất tuyệt của tài hoa. Và mỗi phen lại nghe cung đàn mình chết lịm trong cung đàn sơ khai kỳ ảo.
Il est un air pour qui je donnerais
Tout Rossini, tout Mozart et tout Weber
Un air très vieu languissant et funèbre
Qui pour moi seul a des charmes secrets
Hoài Khanh chẳng bao giờ đọc Nerval, và có lẽ ngày xưa anh cũng chẳng đọc gì Nguyễn Du, Huy Cận.
Nhưng tâm hồn anh mang chứa tinh thể thi nhạc những tâm hồn kia. Những Mozart, những Chopin, những, những…
Tôi vốn là kẻ rủi ro thuở mười lăm mười sáu đã gặp Huy Cận Nguyễn Du Nerval. Tôi đã giã từ hết sách vở meo mốc nhà trường về quê sống với chuồn chuồn châu chấu. Thì cái ngày lạc lối vào Sàigòn, bỗng nhiên tao ngộ tiếng thơ Dâng Rừng, tôi tưởng mình được phép nói vài lời tuyệt đối, mặc dù ngày đó tôi chưa quen biết Hoài Khanh. Tôi nói với ông Tạ Ký dịp nào gặp Hoài Khanh thì dẫn anh tới nhà chơi một cuộc. Từ bấy tới nay ngót mười năm.
Hoài Khanh là hồn thơ thuần nhiên điền dã.
Vậy thì cái bản “hòa âm điền dã” của anh tất nhiên ngân lên một âm thanh gì khó lọt vào thính quan người văn nghệ phồn hoa. Mỗi người hãy xin mang trọn cái nghiệp mình trong cái vũ trụ riêng mình. Rồi mai sau, sẽ có dịp bất ngờ cái vũ trụ riêng mình sẽ chan hoà vào cái càn khôn chung thiên hạ. Chẳng nên sớm vội vã cưỡng cầu.
Chỉ thử tưởng tượng xem. Những kẻ hồn lạc loài ngay từ thuở sơ sinh bỗng một hôm gặp Nàng Thơ đẹp nguy nga như hoàng hậu trong bầu không khí ba cha bảy mẹ thế kỷ này … Thì từ đó?
Il est un air pour qui je donnerais
Tout Rossini tout Mozart et tout Weber…
Nguồn: Ca Dao xuất bản lần thứ nhất tại Sài Gòn năm 1969. An Tiêm tái bản lần thứ nhất tại Paris năm 1998.
Bùi Giáng -Đi vào cõi thơ (4 )
Bùi Giáng
Đi vào cõi thơ
(Apollinaire, Quang Dũng, Huy Tưởng, Bùi Giáng, Kiên Giang, Nguyễn Du và Hegel, Tản Đà, Walt Whitman, Emily Dickinson, Dylan Thomas, Tạ Ký, Thùy Dương Tử)
Apollinaire
Ta đã hái nhành lá cây thạch thảo
Em nhớ cho mùa thu đã chết rồi
L’Adieu
J’ai cueilli ce brin de bruyère
L’automme est morte souviens-t’en
Nous ne nous verrons plus sur terre
Odeur du temps brin de bruyère
Et souviens-toi que je t’attends.
Và nhớ nhé! Ta đợi chờ em đó,
Bài thơ chỉ vẽn vẹn chỉ có năm câu. Năm câu phiêu hốt mang thiên nhiên nằm giữa nền thi ca Tây Phương Hiện Đại – năm câu cũng đồ sộ như toàn khối Đường Thi Trung Hoa hay mấy vần tứ tuyệt của một Thôi Hộ.
Ta đã hái nhành lá cây thạch thảo
Em nhớ cho, mùa thu đã chết rồi
Chúng ta sẽ không tao phùng được nữa
Mộng trùng lai không có ở trên đời
Hương thời gian mùi thạch thảo bốc hơi
Và nhớ nhé ta đợi chờ em đó…
Dịch ra làm sáu câu, tôi có phần áy náy. Nhưng không biết phải làm sao. Cái chất đạm nhiên bát ngát trong bài thơ Apollinaire đang trừ khử hết mọi lối dịch diễn dịch di, dịch tinh, dịch thể.
Cứ thử liều một trận xem sao.
Ta đã hái nhành lá cây thạch thảo
Em nhớ cho, mùa thu đã chết rồi
Chúng ta sẽ chẳng nhìn nhau trên đất nữa
Hương thời gian nhành thạch thảo tí hon
Và nhớ nhé ta đợi chờ em nhé…
Cũng tạm gọi là được.
Nếu ta đem bài thơ bát ngát kia đặt vào giữa nguồn thơ mênh mông của Apollinaire ắt ta dám dịch nó ra làm lục bát Huy Cận, lục bát Nguyễn Du hoặc làm thất ngôn Du Nguyễn.
Đã hái nhành kia một buổi nào
Ngậm ngùi thạch thảo chết từ bao
Thu còn sống sót đâu chăng nữa
Người sẽ xa nhau suốt điệu chào
Em nhớ anh quên và em cũng
Quên rồi khoảnh khắc rộng xuân xanh
Thời gian đất nhạt mờ năm tháng
Tuế nguyệt ta đà nhị hoán tam.
Dịch như thế là diễn giải một mùi hương ẩn tàng trong nếp gấp. Nhưng đâu có cần gì.
Nếu như cần, thì tớ cứ buông bừa bút mực viết bừa thơ.
Mùa thu chết liễu nhớ chăng em?
Đã chết xuân xanh suốt bóng thềm
Đất lạnh quy hồi thôi hết dịp
Chờ nhau trong Vĩnh Viễn Nguôi Quên
Thấp thoáng thiều quang mỏng mảnh dường
Nhành hoang thạch thảo ngậm ngùi vương
Chờ nhau chín kiếp tam sinh tại
Thạch thượng khê đầu nguyệt điểu mang
Xa nhau trùng điệp quan san
Một lần ly biệt nhuộm vàng cỏ cây
Mùi hương tuế nguyệt bên ngày
Phù du như mộng liễu dài như mơ
Nét my sầu tỏa hai bờ
Ai về cố quận ai ngờ ai đi
Tôi hồi tưởng lại thanh kỳ
Tuổi thơ giọt nước lương thì ngủ yên.
Dịch ra như vậy thì tiếp giáp với bài thơ “Je me souvienns”:
Je me souviens de mon enfance
Eau qui dormait dans un verre
Avant les tempêtes l’espérance
Je me souviens de mon enfance
Tôi hồi tưởng tuổi thơ ngày trước
Đáy ly nào giọt nước ngủ yên
Trước khi giông bão muộn phiền
Giậy cơn hy vọng cuối miền thơ ngây.
Je songe aux métamorphoses Qui s’épanouissent dans un verre Comme l’espoir et la tristesse Je songe aux métamorphoses C’est ma destinée que je lis Dans les reflets incertains Les jeux sont faits rien ne va plus C’est ma destinée que je lis
Tôi nghĩ tới tháng ngày chuyển dịch
Những thay hình đổi dạng mở phơi
Trong ly nước mộng tuyệt vời
Với sầu dao động nỗi đời giao thoa
Linh hồn định mệnh âm ba
Bóng vang khép mở đầu hoa mơ hồ
Hỡi ôi dâu biển xô bồ
Hồn trong định mện bây giờ đọc ra.
(Sương Bình Nguyên)
Quang Dũng
Mai chị về em gửi gì không
Mai chị về nhớ má em hồng
Chỉ hai câu đầu đã khiến người tê lạnh. Không có gì cả, không lời nào tha thiết, nhưng đúng như ông Huy Trân nói: “Thơ Quang Dũng ý đã nhiệt thành, cao đẹp, mà lời thơ lại êm ái gợi cảm vô cùng. Nói về thơ nhẹ nhàng, êm dịu, mà đọc tới đâu lâng lâng chết cả lòng đến đấy, thì thi ca hiện đại chỉ có Quang Dũng.”
Thi ca hiện đại hay thi ca ngàn đời, thi ca Việt Nam hay thi ca thế giới – vâng – cũng chỉ riêng một Quang Dũng thôi.
Mai chị về em gửi gì không
Mai chị về nhớ má em hồng
Đường đi không gió lòng sao lạnh
Bụi vướng ngang đầu mong nhớ mong
Đó là chỗ sơn cùng thủy tận của ngôn ngữ. Ngôn ngữ thần tiên hiển hiện tinh thể một cách không thấy hình hài máu me đâu cả. Người ta đã bao đời đi tìm cõi huyền nhiệm của ngôn ngữ thơ. Mỗi phen trở về, mỗi phen như bó tay lắc đầu, tuyệt nhiên không biết ăn nói ra sao cả. Đành chỉ nói quanh co.
Và biết bao thy sỹ hoằng viễn đã nghĩ rằng, nguyệt rằng, mình sẽ suốt đời không làm một vần thơ nào cả - một phen để hội cái chỗ dị thường trống trải vắng vẻ trong lời man mác thiên tiên kia.
Lại có những nhà tư tưởng như Heidegger, viết bao pho sách lịch kịch nêu bao câu chất vấn u ẩn, đáo cùng vẫn chỉ nhằm mục đích nhiếp dẫn tư tưởng tới chỗ mép bờ bất khả tư nghị của thi ca.
Nerval sau những lần thành tựu cõi miền ngôn ngữ đó, ông bèn lao mình vào cõi ẩn mật vô ngần của một nguồn siêu thực không tiếng không lời Les Chimères.
Apollineire, sau phút dị thường bước lên tột đỉnh đạm nhiên kia, lập thời nhảy lùi làm thơ theo thể thái bông lông tầm phào, bất sá lam hồng tố bạch.
Mai chị về em gửi gì không?
Câu hỏi cũng lửng lờ như lời đáp cũng lửng lơ. Hỏi mà cũng không hỏi, không nói, không ngó, không nhìn nhau…
Và chỉ sau khi lên ngựa, chia bào, con người mới để lòng mình bay tỏa khắp đường đi.
Đường đi không gió lòng sao lạnh
Bụi vướng ngang đầu mong nhớ mong
Tâm sự của người đi, nhưng nhan đề là kẻ ở. Kẻ ở hay người đi cũng một tâm tình ly biệt. Đi giữa không gian, thì cũng như đứng ở trên dâu biển. Lòng sao lạnh? Vì lòng mang chứa tất cả khoảng vắng lạnh? Vì lòng mang chứa tất cả khoảng vắng lạnh không gian… Và tiếng “mong nhớ mong” kia cũng chỉ vọng vào được trong không gian xa hút mà thôi.
Nghĩa là vọng trở lại vào lòng mình. Từ lòng mình toả vào lòng vũ trụ. Lại từ lòng vũ trụ dội lại lòng mình. Đó là cái vòng kỳ ảo của mong nhớ mong. Và mong nhớ mong mênh mông như thế, thì mong nhớ mong là cõi của từ bi tế độ vậy.
Bởi vì nó mang hải lượng bao hàm. Nó bao dong rừng biển, sớm chiều, canh gà, sương hoa, cành hoang ngựa lạc. Nó đem thương mến phủ khắp hình hài vạn vật từ gần gũi tới xa tít dặm xa.
Quê chị về xa tít dặm xa
Vì đó là một quê hương nào riêng biệt nằm tại một bến bờ bỉ ngạn nào vô tức vô thanh, vô biên vô tế.
Quê chị về xa tít dặm xa
Rừng thu chiều xao xác canh gà
Hoa rơi khắp lối sương muôn ngả
Ngựa lạc cành hoang qua lướt qua
Ngựa lạc? Dẫu ngựa không lạc đường vẫn cứ là lạc nẻo. Nghĩa là: ở trong cõi hư không bao la như thế, thì đâu cũng là lênh đênh, nhưng lênh đênh theo nghĩa vô ngần: trụ vô sở trụ.
Người ngồi trên ngựa cũng lạc ngựa luôn. Hươu trong rừng cùng một cảnh ngộ lạc loài như nhau, lại tam trùng lạc lõng nhau, vì bất ngờ sợ hãi nhau, quay đầu bỏ chạy. Lời thơ lại thêm một chút niêm hoa vi tiếu “theo ngó theo”.
Ngựa chị dừng bên thác trong veo
Nếu thác đục lầy cho một chút, ắt có phần gần gũi bụi hồng hơn. Nhưng tại sao thác lại trong veo cắc cớ ra như thế? Thì trần gian còn biết đem tâm sự hồng trần ký thác vào đâu? Đó là chỗ đạm nhiên huyền bí lô hỏa thuần thanh vậy. Nó đốt cháy linh hồn bằng một tiếng trong veo. Nhưng đốt cháy mà đâu có bỏng da bỏng thịt. Nó cháy để thăng hoa cho linh hồn về ba la mật, sau một phút linh hồn tạm dừng trong một phen tư lự. Vì dù sao trận giũ áo cũng còn vướng víu với nhân nghĩa nhân tình.
Ngựa chị dừng bên thác trong veo
Lòng chị buồn khi nắng qua đèo
Nơi đây lá giạt vương chân ngựa
Hưu chạy quay đầu theo ngó theo
Rồi xẽ xin khóc một cơn vô ngần cho trùng sinh trong vĩnh biệt:
Rừng đêm nhòa bóng nhớ hoang mang
Ngựa chị dừng bên thác sao vàng
Sao rơi đáy nước vương chưn ngựa
Buồn dâng đôi mi hàng lại hàng
Ta lại gián tiếp với một sự tình kỳ dị. Nói ra là buồn dưng đôi mi hàng lại hàng, nhưng có bao giờ mối sâu mênh mông và hầu như vô đối tượng lại tràn ra thành hàng lệ. Nhưng đây là hàng lệ riêng biệt của hư không đi về vui chơi êm đềm với không hư thái thiên nhiên tĩnh tịch. Người ta có thể khóc, nhưng không phải khóc vì một mối đoạn trường riêng tây trong một cảnh ngộ nhất định.
Hoặc đâu có phải bạ đâu khóc đó như bọn thy sỹ trung niên. Người ta khóc từ chín kiếp khóc về; như trận mưa vốn từ thiên thu rớt hột. Vì thế nên gọi là hàng lại hàng. Vì thế nên có chuyện sao rơi đáy nước. Vì thế nên có chuyện sao vương chưn ngựa. Chưn ngựa ở đây cũng mang đủ trùng quan thời gian vũ trụ nên mới có thể chạm vào bóng sao rơi từ thời gian tinh thể rớt về. Người và ngựa và sao và nước bỗng nhiên như nhiên đã đi vào cõi chung vạn vật nhất thể. Thì từ đó trở lại với đoạn đầu, từ câu hỏi mông lung tới lời đáp nhẹ nhõm, niềm mong nhớ mong là một tặng vật không lời, không nhất định là riêng biệt của riêng ai trao gửi lại cho ai. Người chị và người em kia cũng không có tên tuổi nào được hạn định nơi đâu. Đó là hai đứa con của trời và đất đẻ ra trong một mùa xuân hôn phối. Thì mai chị về em gửi gì không, là gửi cho chị hay cho ai? làm sao ta dám quyết định? Chỉ biết rằng: chị hãy nhớ má em hồng. Nghĩa là: mùa xuân xanh còn tồn lưu mãi mãi trong mùa thu ly biệt. Đó là tặng vật của em trời trao chị đất – nhớ má em hồng là ký ức kỳ ảo Mnémesyne.
Chẳng hiểu sao đọc thơ Quang Dũng, Nguyễn Du, Hồ Dzếnh, Huy Cận, tôi thường nghĩ tới người Chiêm Thành. Tội lỗi ông cha chúng ta đối với dân tộc ấy kể cũng được chuộc phần nào, cũng như ngày xưa Homère đã giải oan cho người Troyens bị đắm chìm bởi người Hy Lạp.
Mấy bài thơ của Quang Dũng như giữ lại cho mọi người một niềm tương ứng mênh mông trong thời đại ngỗn ngang oan nghiệt, thế giới cùng xô ùa nhau vào hủy diệt, tàn phá, trong những trận tẩu hỏa nhập ma. Chiến tranh trong thời Quang Dũng dù sao cũng còn để lại cho người một dư địa để hoài niệm nhớ thương nhau. Nhưng dần dà, chút tình thương còn sót cũng mất đi giữa hỗn độn. Lúc bấy giờ e chỉ còn cửa quỷ đối thoại với nhà ma. Quang Dũng cũng linh cảm sự đó, nên bài “Đôi Mắt Người Sơn Tây” khép lại với mấy tiếng “bao giờ, bao giờ” ngậm ngùi khôn tả:
Bao giờ trở lại đồng Bương Cấn?
Về núi Sài Sơn ngóng lúa vàng
Sông Đáy chậm nguồn quanh Phủ Quốc
Sáo diều khuya khoắt thổi đêm trăng
Bao giờ ta gặp em lần nữa
Ngày ấy thanh bình chắc nở hoa
Đã hết sắc màu chinh chiến cũ
Còn có bao giờ em nhớ ta
Khoảng trống lại trở về ngập khắp mép bờ ngôn ngữ. Như muốn đánh chìm hết mọi lời thân thiết đã thốt ra. Chúng ta không còn biết phải giải thích thơ Quang Dũng ra sao được nữa cả.
Ngày ấy thanh bình chắc nở hoa
Nhưng có lẽ ông không tin ở ngày ấy, ông không nghĩ rằng ngày nở hoa ấy sẽ về. Còn có bao giờ em nhớ ta? Nghĩa là không còn có bao giờ nữa cả? Chúng ta sẽ tiếp tục chết hết. Người ta sẽ tiếp tục giết nhau cho tới buổi chung cục thời gian. Cuộc chiến tranh ngày nay không còn chút gì giống như chiến tranh những thời đại trước. Có những cuộc chiến tranh huy hoàng như một trận mưa rào rực rỡ, làm hồi sinh con người trong tâm thức từ bi. Nhưng có những cuộc chiến tranh vốn từ trong tinh thể là làm tan rã tiêu diệt mất bản tính con người. Ngay cả con ngợm, con đười ươi cũng không còn sống sót một mống nào hết cả. Thì như thế? Còn có bao giờ em nhớ ta?
Người ta nhầm lẫn một cách kỳ quặc cái ý nghĩa sơ thủy của chiến tranh. Cuộc chiến tranh bao dong của những ông Nguyễn Huệ, chiến tranh bác ái của những ông Napoléon, chiến tranh đó không còn tự nhận diện ra mình nữa trong cuộc chiến tranh tàn phá ngày nay. Tolstoi ngày xưa chẳng hiểu gì về Napoléon hết cả, cũng như chúng ta ngày nay chẳng hiều gì cả về cuộc chiến tranh của chúng ta. Thật là cắc cớ. Còn có một chân lý dị thường ẩn tàng trong Dịch Kinh của Khổng Tử đang khiến mọi người tư tưởng ngậm ngùi không còn biết phải thốt bất cứ một lời gi trong hiện trạng năm châu. Bài thơ Quang Dũng hiện ra tại chỗ chênh vênh bát ngát và thê thảm nhất trong sử lịch con người. Nó chỉ đạm nhiên và thống thiết khơi rộng những khoảng trống vắng ra để cho mọi vấn đề được nhận định và tự tìm lời giải đáp.
Bàn luẩn quẩn mãi là vô lối. Chỉ nên thong dong đọc thơ như uống nước mía, như dõi theo cánh chuồn chuồ, như nằm ngủ gọi em Thúy Kiều em Thúy Vân em Đạm Tiên, em Hoạn Thư em Bạc Hạnh, em Sở Khanh, em Mã Giám Sinh, mọi mọi em em của em Tố Như Tử em Liệp Hộ em Thanh Hiên, em Hiền em Thánh, em Cành em Nhánh, em Trái Ớt, em Muối Tiêu, em Soài Riêng sa rụng, em Bương Cấn em Sài Sơn…
Bao giờ trở lại đồng Bương Cấn
Về núi Sài Sơn ngóng lúa vàng
Sông Đáy chậm nguồn quanh Phủ Quốc
Sáo diều khuya khoắc thổi đêm trăng.
Tuy nhiên riêng đối với học sinh đang tập đi thi để cuối năm cưới vợ thì chớ nên lẩn thẩn chiêm bao đọc thơ nhiều quá.
Huy Tưởng
Lại một tâm hồn thi sĩ thượng đẳng. Ông còn trẻ lắm chắc? Tập thơ ông còn vài vần vướng vướng cái gì. Nhưng nhiều bài thâm thiết khôn tả. Tôi kính yêu ông này như một hóa thân Thôi Hộ về hội diện ni cô hiện đại Việt Nam.
Tôi chưa dám bàn nhiều về ông. E sỗ sàng chăng? Chỉ xin ghi ra đây một bài thơ xuất thần nhập thánh đáo thiên tiên:
Nghe kinh
Ướt hai tà áo nâu rồi
Bên chùa mục giọng kinh hồi lệch sang
Giọng chuông rơi thấm cỏ vàng
Nghe kìa sư nữ vừa choàng áo tu
Tôi nằm ấp lá đêm thu
Mai sau nở trái sa mù pháp không.
Bùi Giáng
Những bài thơ “chuồn chuồn châu chấu” của ông quả thật là có ý nghĩa. Nó bay nhẹ vi vu quả có đúng như là phận mỏng cánh chuồn. Vào những buổi sáng mùa đông lạnh lạnh ở Trung Việt, vào những buổi chiều mùa thu ở Bắc Hà, hình bóng những con chuồn chuồn bay lượn cuối ngõ, đầu xuân, quả thật là tha thướt. Đôi phen mất cái tiết điệu riêng biệt ấy cũng còn tái hiện trong đôi vần phồn hoa, mặc dù ở chồn phồn hoa không bao giờ có chuồn chuồn bay vòng múa lượn.
Bài thơ “Giữa phố” sau đây là một thí dụ :
Thiên tiên đẹp cũng như người
Ngẫu nhiên kỳ ngộ miệng cười nửa môi
Miền xanh đứng bóng mặt trời
Cõi xanh cung nguyệt cạn lời cảo thơm
Đi qua làn gió xanh rờn
Đi về ở lại còn hơn xanh rì
Phút giây đè nặng như chì
Thoảng qua như mộng không kỳ hạn qua
Chiêm bao nàng ghé lại nhà
Môi cười nửa miệng như là ngẫu nhiên
Nửa môi còn ngậm phi tuyền
Tuyết pha in mặt thần tiên như người.
Tuy nhiên vì Bùi Giáng là chỗ quen biết với tôi nên không tiện bàn luận chi nhiều. Chê thì mất lòng nhau. Mà khen thì mang tiếng “mẹ hát, con vỗ tay”.
Dù sao, bài sau đây cũng nên trích thêm vào tập:
Bóng dương buồn ngủ qua chiều
Qua sông tại hạ toan liều dấn thân
Đường sông bóng đổ cơ trần
Gẫm chông gai ấy ai từng đạp qua
Ghì môi cơn mộng la đà
Tiêu dao suốt cõi mù sa bên rừng
Nửa vời trăng rộng mông lung
Đường hoa nghi hoặc tháp tùng ni cô
Kiên Giang
“Lành mạnh, thanh cao, vị tha và ái quốc”. Ông Thiếu Sơn nói không sai một tấc một ly nào cả, khi giới thiệu thơ Kiên Giang.
Ông Kiên Giang tuyệt nhiên “không cầu kỳ, không giả tạo” mà đạt tới chỗ sâu thẳm nhất trong linh hồn mọi người, một cách thuần nhiên.
Bàn giải thơ ông là làm công việc thừa, vô ích. Chỉ xin chậm rãi chép ra đây nhan đề những bài thơ trong quyển Quê Hương Thơ Ấu của ông:
Hơi Mẹ
Thuở Lên Ba
Củ Co, Nét Đồ
Rau Với Chữ
Đánh Vần Câm
Chơi Nhà Chòi
Chim Bay Cò Bay
Thả Diều
Ngựa Trúc
Manh Lụa Mo Cau
Đồng Xu Giấy Chặm
Tà Áo Tím
Đồng Tiền Duyên
Con Chờ Đèn Chợ
Niềm Khuya
Giấc Ngủ Thiên Thần
Hương Tuổi Ngọc
Gối Khuya
Năm Lần Dứt Sữa
Tình Trắng
Tóc Thề Xứ Huế
Tiếng Võng Chìm
Bong Bóng Màu
Cô Hàng Bông Cỏ
Gánh Hát Cúng Đình
Kẻ Bụi Đời
Tuổi Thơ Heo Hắt
Đếm Sao Vô Hình
Tuổi Trăng Tròn
Sa Mạc Trắng
Học Sinh Và Tổ Quốc
Những Trang Sách Cũ
Gió Bấc Hiu Hiu
Niềm Riêng
Quê Hương Thơ Ấu của Kiên Giang sẽ nằm trong nước Việt như Kinh Thi nằm trong nước Tàu. Một quê hương bình dị thiết tha, và hình như chúng ta đang đánh mất. Chỉ kêu gọi về trong những trận chiêm bao.
Nguyễn Du và Hegel
Hegel - Ngài làm thơ rất khá, tuy nhiên ta cũng lấy làm tiếc cho ngài.
Nguyễn Du - Tiếc gì thế Hegel?
Hegel - Tiếc rằng ngài vay mượn truyện Tàu, và ngôn ngữ Tàu. Té ra ngài chả có tinh thần sáng tạo.
Nguyễn Du – Các hạ còn điều gì chỉ giáo thêm cho chăng?
Hegel – Có chứ. Ta khuyên ngài nên gắng thử dựng nên một triết thuyết mới mẻ cho dân tộc Việt Nam.
Nguyễn Du – Còn gì nữa chăng?
Hegel – Còn chứ. Ta khuyên ngài hãy gắng tìm hiểu triết thuyết của ta, thì mới mong mai sau tiến bộ nhanh chóng.
Tản Đà
Nếu tiên sinh còn sống, ắt tại hạ xin được phép cùng tiên sinh nhậu nhẹt một trận lu bù. Thơ của tiên sinh làm, chẳng có chi xuất sắc. Nhưng bản dịch “Trường Hận Ca” của tiên sinh quả thật là vô tiền khoáng hậu.
Walt Whitman
Ngài là một bậc thánh chịu chơi. Thơ của Ngài tuôn trào cuồn cuộn như ngôn ngữ Hoa Nghiêm Kinh. Ngài nghĩ sao về nền văn minh ngày nay trong xứ sở của Ngài? Chắc Ngài chẳng lấy làm chi hài lòng cho lắm?
Emily Dickinson
Cô nương là một tiên nữ lạc lối ghé về trần gian. Cô nương làm thơ vừa như cho anh hoa phát tiết, lại vừa như ghìm ẩn mật tinh thể mình, không chịu để cho thiên hương bốc hơi ra ngoài…
Chỗ kín đáo đó của cô nương càng khiến cho kẻ phàm tục choáng váng tê mê mất ăn mất ngủ.
Dylan Thomas
Nhà thơ phiêu bồng ríu rít nhất của Tây Phương. Thơ dại nhất và u sầu nhất. Đọc thơ ngài, kẻ phiêu bồng đành phải bó tay, không còn tìm đâu ra một cõi phiêu bồng khác để bước.
Tạ Ký
Bây giờ tôi muốn nói đến một người bạn. Thì tôi có cảm tưởng rằng những điều tôi nói quanh quẩn mấy năm nay về thơ, đều có thể đem trao cho người bạn ấy. Thơ Tạ Ký đủ mọi màu sắc. Cay đắng, não nùng, thơ ngây, thắm thiết. Lời thơ lúc thật cũ, lúc thật mới, lúc như làn kiếm vụt ngang, lúc mơ hồ lãng đãng. Anh sống ở mọi giai tầng xã hội, xuống lên, lên xuống, ngõ quạnh, đường cong, phồn hoa, thôn ổ, nơi nào cũng thấy phảng phất hình bóng anh. Vậy tôi còn biết nói sao.
Chỉ xin chép ra đây một ít tuyệt phẩm vậy. Kẻ tình nhân sẽ đọc, cũng như người nhớ quê sẽ nhìn. Con nhớ mẹ, anh nhớ em, học sinh du học viết thư về ngỏ ý với gia đình… ruộng đồng ngỏ ý với đô thị… sa mạc trao ân tình về cho biển, cho non… Thượng Đế ở trời xanh cũng ngậm ngùi đưa mắt xuống, đăm chiêu nhìn những đường ngang, lối dọc, ngõ hẻm trần gian, những mùi hương, những meo mốc.
(Rủi sao, tập thơ của anh, tôi bỏ lạc đâu mất, tìm không ra để chép vào đây).
Viết thêm:
Sau nhiều đêm biến động, đọc lại thơ Tạ Ký, càng nhận rõ những âm thanh nồng hậu của riêng anh. Những nỗi vui nhẹ nhất, cũng như những nỗi buồn sâu xa nhất trong tâm tình con người thời đại này, đã được anh nói lên một cách chân thành thâm thiết.
Giữa một thành phố ngổn ngang, khí hậu tàn nhẫn nấu nung bức vách, thỉnh thoảng gặp nhau vài giờ, trao đổi vài mẩu chuyện vu vơ, rồi mỗi người quay đi mỗi ngả, nghe cuộc sống của mình dần dà xế bóng…
Nhưng lớp người sau chúng ta sẽ về, họ sẽ còn đau khổ hơn chúng ta – làm sao nghi ngờ điều đó - họ sẽ đọc thơ anh Tạ Ký như thế nào?
Thùy Dương Tử
Ông Thùy Dương Tử là một nhân vật tài tử riêng biệt ngậm ngùi. Ông vốn người Quảng Nam nhưng lại chẳng hề có cái chất bướng bỉnh của người Quảng Nam. Ông chỉ thừa thu riêng cái chất thuần phác của xứ Quảng yêu dấu mà thôi.
Thùy Dương Tử hiền hòa, bình đạm, thơ ngây, tha thiết âm thầm. Chẳng bao giờ lên tiếng nói thị phi gì hết cả.
Xin chép ra vài bài:
Về đây giấc ngủ thiên thu
Quên đi bóng dáng sương mù tuyết cao
Âm thanh chẻ tuổi hôm nào
Giờ gay gắt gọi chiêm bao chưa về
Giật mình nóng lạnh giường se
Bàn tay nhiều chỉ mình nghe tự mình
Tôi thiết tưởng một thanh niên hai mươi lăm tuổi viết một vần thơ thăm thẳm đến như thế ắt phải khiến phụ nữ kinh hoàng không dám bén mảng tới thăm.
Và ắt có kẻ vừa quá yêu thương vừa quá kinh hãi, không biết làm sao, đành mượn liều độc dược quyên sinh và để lại trên bàn ở cạnh đầu giường một vần thơ tuyệt bút:
Nợ tình chưa trả cho ai
Khối tình mang xuống tuyền đài chưa tan
Hoặc:
Tái sinh chưa dứt hương thề
Làm thân trâu ngựa đền nghì trúc mai.
Hoặc cũng có thể là:
Dạ đài cách mặt khuất lời
Rảy xin chén nước cho người thác oan
Hoặc hơn nữa:
Bây giờ trâm gãy gương tan
Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân
Sau đây là một bài nữa của Thùy Dương Tử:
Tôi nay nằm ngửa nghe mưa
Âm than vút ngược lại vừa buồn thiu
Làm thơ trong bóng mù khơi
Khắt khe càng lắm yêu đời càng thâm
Cô đơn ấp ủ bên lòng
Mưa rơi buồn chết gọi âm thanh về
Yêu đời nên mãi điên mê
Se đau từng phút kéo về trăm năm
Buồn hiu hắt nên nỗi buồn thiu
Giải sao hết được những điều thực hư.
Chúng ta tự hỏi: làm sao một thanh niên trẻ dại có thể viết nên những câu thơ tồn lập tại Khoảng Vắng Lặng mà suốt Đoạn Trường Tân Thanh, Nguyễn Du đã mở ra và bỏ lửng tại đó?
Tuổi xanh già trước tháng ngày
Mắt xanh già trước niềm đau hiện về
Anh viết câu thơ như thế cho ai nghe? Mọi nhân vật thượng đặng của Nguyễn Du sẽ nghĩ sao? Giác Duyên nghĩ sao? Tam Hợp Đạo Cô nghĩ sao? Từ Hải nghĩ sao? Kim Trọng nghĩ sao? Thúy Vân nghĩ sao? Không ai dám nghĩ sao hết cả. Mọi người nhắm mắt lắc đầu. Rồi tiếp tục nâng chén rượu bùi ngùi uống cạn một hơi, khẽ mời ông Lý Bạch đọc tiếp:
Đi về thăm viếng thị thành
Bàn tay năm cũ mọc nhành xương khô
Đi về còn vọng sông hồ
Bài ca tình ái phương mô tìm nàng
Đi về vườn cũ tan hoang
Thương trăng thiếu phụ úa tàn đời xuân
Anh âm thầm cảm thương quê hương vườn cũ, anh âm thầm thương cảm một vong hồn đau đớn thiết tha Quách Thoại. Mọi người chết giữa xuân xanh hãy ngậm cười chín suối. Tôi chép bài thơ Thùy Dương Tử ra đây để cho những oan hồn kia đọc:
Kinh kỳ bụi hút xe đi
Thành đô nóng nực da chì nám da
Chốn này về có mình ta
Trẻ thơ òa khóc người già gậy khua
Âm thanh phá vỡ tuổi mùa
Ngày đi xuân lụn âm thừa vọng lâu
Bờ khuya đổ bến giang đầu
Người con gái khóc vó câu biệt mù
Trăng về ngự đỉnh non thu
Nửa dòng sông bạc sa mù tiết đông.
Những vần thơ như thế, ai dám đặt bút phê bình giảng giải? Những bài viết ra đâu có phải là làm văn nghệ chuyên môn? Phải là táng tận lương tâm mới có thể cầm cây bút học giả chen vào phân tích.
Lên cao nhìn tuổi núi sông
Lại về đồng cỏ tắm giòng hạ lưu
Tìm em mưa bão tháng mười
Cuối đông bồng biển sang thu lên đồi
Từ em hồng phận hoa khôi
Rớt rơi kỷ niệm mà tôi biệt từ
Không một lời dư. Không một tiếng thiếu. Tưởng chừng đó là mấy lời tuyệt bút của Hồng Sơn Liệp Hộ, một đêm nào nằm ngửa mặt ngó trời trăng tịch mịch và nguyện cầu dâu biển hãy buông tha…
Chiêm bao ngựa trắng phi về
Mây che thân thể em về hư không
Nửa đêm thức giấc phiêu bồng
Tóc bay mùa cũ chẻ lòng nhớ thương
Dâu biển ôi! Phong tình cổ lục ôi! Sự tình như thế nào như thế. Còn đâu nữa một vần tái tạo, một khúc tái tân thanh. Chỉ còn tịch mịch hư không.
…Đêm
Con dế kêu
Buồn đêm vắng
Buồn đêm mưa…
Nhưng làm sao dừng lại. Dư vang con dế gọi vẫn kéo dài suốt kiếp chúng ta. Kéo dài suốt giang san nước Việt.
Mịt mờ xe đỗ đèo cao
Nẻo xa xứ Quảng lối vào Quy Nhơn
Phố khuya mưa lệch sông hờn
Ểch ương kêu với đồng trơn quê nghèo
Một mình thui thủi lần theo
Rạ tranh nhà vắng buồn teo lúc về
Lạnh lùng Đà nẵng mưa gieo
Về thăm quê nội chừ nghèo xác xơ
Bước chân lữ thứ khôn hàn bỏ lại cho mai sau những âm thanh gì như thế:
Dép mo cau áo vải còn thương
Mùa cau trổ với mía đường tản cư
Thu Bồn Bến Cát thừa dư
Chín năm kháng chiến mình như già rồi
Anh hỏi mình quê ở đâu
Mình quê ở dưới bầu trời bao la
Tháng năm với tuổi không nhà
Chợt nghe dĩ vãng lòng ta cũng buồn
Vườn xưa hoa lá ngập đầy
Vết tay chín móng đã dày rêu in
Ta về gió lạc cung tin
Cho năm tháng lớn đi tìm đau thương
Viết chưa xong bài, đã phải bồi hồi dừng lại: cho năm tháng lớn đi tìm đau thương… Không tìm, đau thương vẫn cứ đến. Nó đến tràn lan, thy sỹ lại còn đòi đi tìm thêm nữa.
Thời gian chẻ tuổi nhớ mong
Tóc bay chẻ gió giục lòng đảo điên
Em về giấc ngủ linh thiêng
Vành môi khép mở xa miền nhân gian
Bỗng lời thơ đổi giọng. Vẫn là lục bát. Nhưng mang mang quá khứ Đường Thi:
Ngủ yên giấc ngủ bình yên
Cho ta hôn nhé lên triền môi em
Rạc rời tàu hú trong đêm
Lưng đèo khói bụi chào em ga này
Riêng bốn câu với tiếng chào không thanh âm vọng lại, ắt phải làm thiên tài Lửa Thiêng chết lặng linh hồn.
Lên non vứt bỏ sự đời
Hút âm thanh lại ngồi chơi một mình
Lấy mây làm sợi tơ hồng
Mây bay trăm nẻo như lòng đứt tim
Bây giờ không chỉ riêng một thiên tài nào linh hồn chết lặng. Mọi mọi người người kẻ kẻ theo gót mọi thiên tài, đều cùng mọi thiên tài hiền thánh cùng nhau đứt tim rã máu. Ta lại nhớ tới lời Mộng Liên Đường Chủ Nhân:
“Tố Như Tử có tấm lòng nghĩ suốt cả nghìn đời…”
Những người công kích thơ một cách bừa bãi lung tung, chẳng qua chỉ là lâm phải tình trạng “có đăng đường, nhưng chưa nhập thất”.
Trái lại, bọn thy sỹ chân chính là những kẻ bẩm sinh là “nhập thất” và có lẽ chả bao giờ bận tâm với chuyện “đăng đường”.
Nguồn: Ca Dao xuất bản lần thứ nhất tại Sài Gòn năm 1969. An Tiêm tái bản lần thứ nhất tại Paris năm 1998.
Đi vào cõi thơ
(Apollinaire, Quang Dũng, Huy Tưởng, Bùi Giáng, Kiên Giang, Nguyễn Du và Hegel, Tản Đà, Walt Whitman, Emily Dickinson, Dylan Thomas, Tạ Ký, Thùy Dương Tử)
Apollinaire
Ta đã hái nhành lá cây thạch thảo
Em nhớ cho mùa thu đã chết rồi
L’Adieu
J’ai cueilli ce brin de bruyère
L’automme est morte souviens-t’en
Nous ne nous verrons plus sur terre
Odeur du temps brin de bruyère
Et souviens-toi que je t’attends.
Và nhớ nhé! Ta đợi chờ em đó,
Bài thơ chỉ vẽn vẹn chỉ có năm câu. Năm câu phiêu hốt mang thiên nhiên nằm giữa nền thi ca Tây Phương Hiện Đại – năm câu cũng đồ sộ như toàn khối Đường Thi Trung Hoa hay mấy vần tứ tuyệt của một Thôi Hộ.
Ta đã hái nhành lá cây thạch thảo
Em nhớ cho, mùa thu đã chết rồi
Chúng ta sẽ không tao phùng được nữa
Mộng trùng lai không có ở trên đời
Hương thời gian mùi thạch thảo bốc hơi
Và nhớ nhé ta đợi chờ em đó…
Dịch ra làm sáu câu, tôi có phần áy náy. Nhưng không biết phải làm sao. Cái chất đạm nhiên bát ngát trong bài thơ Apollinaire đang trừ khử hết mọi lối dịch diễn dịch di, dịch tinh, dịch thể.
Cứ thử liều một trận xem sao.
Ta đã hái nhành lá cây thạch thảo
Em nhớ cho, mùa thu đã chết rồi
Chúng ta sẽ chẳng nhìn nhau trên đất nữa
Hương thời gian nhành thạch thảo tí hon
Và nhớ nhé ta đợi chờ em nhé…
Cũng tạm gọi là được.
Nếu ta đem bài thơ bát ngát kia đặt vào giữa nguồn thơ mênh mông của Apollinaire ắt ta dám dịch nó ra làm lục bát Huy Cận, lục bát Nguyễn Du hoặc làm thất ngôn Du Nguyễn.
Đã hái nhành kia một buổi nào
Ngậm ngùi thạch thảo chết từ bao
Thu còn sống sót đâu chăng nữa
Người sẽ xa nhau suốt điệu chào
Em nhớ anh quên và em cũng
Quên rồi khoảnh khắc rộng xuân xanh
Thời gian đất nhạt mờ năm tháng
Tuế nguyệt ta đà nhị hoán tam.
Dịch như thế là diễn giải một mùi hương ẩn tàng trong nếp gấp. Nhưng đâu có cần gì.
Nếu như cần, thì tớ cứ buông bừa bút mực viết bừa thơ.
Mùa thu chết liễu nhớ chăng em?
Đã chết xuân xanh suốt bóng thềm
Đất lạnh quy hồi thôi hết dịp
Chờ nhau trong Vĩnh Viễn Nguôi Quên
Thấp thoáng thiều quang mỏng mảnh dường
Nhành hoang thạch thảo ngậm ngùi vương
Chờ nhau chín kiếp tam sinh tại
Thạch thượng khê đầu nguyệt điểu mang
Xa nhau trùng điệp quan san
Một lần ly biệt nhuộm vàng cỏ cây
Mùi hương tuế nguyệt bên ngày
Phù du như mộng liễu dài như mơ
Nét my sầu tỏa hai bờ
Ai về cố quận ai ngờ ai đi
Tôi hồi tưởng lại thanh kỳ
Tuổi thơ giọt nước lương thì ngủ yên.
Dịch ra như vậy thì tiếp giáp với bài thơ “Je me souvienns”:
Je me souviens de mon enfance
Eau qui dormait dans un verre
Avant les tempêtes l’espérance
Je me souviens de mon enfance
Tôi hồi tưởng tuổi thơ ngày trước
Đáy ly nào giọt nước ngủ yên
Trước khi giông bão muộn phiền
Giậy cơn hy vọng cuối miền thơ ngây.
Je songe aux métamorphoses Qui s’épanouissent dans un verre Comme l’espoir et la tristesse Je songe aux métamorphoses C’est ma destinée que je lis Dans les reflets incertains Les jeux sont faits rien ne va plus C’est ma destinée que je lis
Tôi nghĩ tới tháng ngày chuyển dịch
Những thay hình đổi dạng mở phơi
Trong ly nước mộng tuyệt vời
Với sầu dao động nỗi đời giao thoa
Linh hồn định mệnh âm ba
Bóng vang khép mở đầu hoa mơ hồ
Hỡi ôi dâu biển xô bồ
Hồn trong định mện bây giờ đọc ra.
(Sương Bình Nguyên)
Quang Dũng
Mai chị về em gửi gì không
Mai chị về nhớ má em hồng
Chỉ hai câu đầu đã khiến người tê lạnh. Không có gì cả, không lời nào tha thiết, nhưng đúng như ông Huy Trân nói: “Thơ Quang Dũng ý đã nhiệt thành, cao đẹp, mà lời thơ lại êm ái gợi cảm vô cùng. Nói về thơ nhẹ nhàng, êm dịu, mà đọc tới đâu lâng lâng chết cả lòng đến đấy, thì thi ca hiện đại chỉ có Quang Dũng.”
Thi ca hiện đại hay thi ca ngàn đời, thi ca Việt Nam hay thi ca thế giới – vâng – cũng chỉ riêng một Quang Dũng thôi.
Mai chị về em gửi gì không
Mai chị về nhớ má em hồng
Đường đi không gió lòng sao lạnh
Bụi vướng ngang đầu mong nhớ mong
Đó là chỗ sơn cùng thủy tận của ngôn ngữ. Ngôn ngữ thần tiên hiển hiện tinh thể một cách không thấy hình hài máu me đâu cả. Người ta đã bao đời đi tìm cõi huyền nhiệm của ngôn ngữ thơ. Mỗi phen trở về, mỗi phen như bó tay lắc đầu, tuyệt nhiên không biết ăn nói ra sao cả. Đành chỉ nói quanh co.
Và biết bao thy sỹ hoằng viễn đã nghĩ rằng, nguyệt rằng, mình sẽ suốt đời không làm một vần thơ nào cả - một phen để hội cái chỗ dị thường trống trải vắng vẻ trong lời man mác thiên tiên kia.
Lại có những nhà tư tưởng như Heidegger, viết bao pho sách lịch kịch nêu bao câu chất vấn u ẩn, đáo cùng vẫn chỉ nhằm mục đích nhiếp dẫn tư tưởng tới chỗ mép bờ bất khả tư nghị của thi ca.
Nerval sau những lần thành tựu cõi miền ngôn ngữ đó, ông bèn lao mình vào cõi ẩn mật vô ngần của một nguồn siêu thực không tiếng không lời Les Chimères.
Apollineire, sau phút dị thường bước lên tột đỉnh đạm nhiên kia, lập thời nhảy lùi làm thơ theo thể thái bông lông tầm phào, bất sá lam hồng tố bạch.
Mai chị về em gửi gì không?
Câu hỏi cũng lửng lờ như lời đáp cũng lửng lơ. Hỏi mà cũng không hỏi, không nói, không ngó, không nhìn nhau…
Và chỉ sau khi lên ngựa, chia bào, con người mới để lòng mình bay tỏa khắp đường đi.
Đường đi không gió lòng sao lạnh
Bụi vướng ngang đầu mong nhớ mong
Tâm sự của người đi, nhưng nhan đề là kẻ ở. Kẻ ở hay người đi cũng một tâm tình ly biệt. Đi giữa không gian, thì cũng như đứng ở trên dâu biển. Lòng sao lạnh? Vì lòng mang chứa tất cả khoảng vắng lạnh? Vì lòng mang chứa tất cả khoảng vắng lạnh không gian… Và tiếng “mong nhớ mong” kia cũng chỉ vọng vào được trong không gian xa hút mà thôi.
Nghĩa là vọng trở lại vào lòng mình. Từ lòng mình toả vào lòng vũ trụ. Lại từ lòng vũ trụ dội lại lòng mình. Đó là cái vòng kỳ ảo của mong nhớ mong. Và mong nhớ mong mênh mông như thế, thì mong nhớ mong là cõi của từ bi tế độ vậy.
Bởi vì nó mang hải lượng bao hàm. Nó bao dong rừng biển, sớm chiều, canh gà, sương hoa, cành hoang ngựa lạc. Nó đem thương mến phủ khắp hình hài vạn vật từ gần gũi tới xa tít dặm xa.
Quê chị về xa tít dặm xa
Vì đó là một quê hương nào riêng biệt nằm tại một bến bờ bỉ ngạn nào vô tức vô thanh, vô biên vô tế.
Quê chị về xa tít dặm xa
Rừng thu chiều xao xác canh gà
Hoa rơi khắp lối sương muôn ngả
Ngựa lạc cành hoang qua lướt qua
Ngựa lạc? Dẫu ngựa không lạc đường vẫn cứ là lạc nẻo. Nghĩa là: ở trong cõi hư không bao la như thế, thì đâu cũng là lênh đênh, nhưng lênh đênh theo nghĩa vô ngần: trụ vô sở trụ.
Người ngồi trên ngựa cũng lạc ngựa luôn. Hươu trong rừng cùng một cảnh ngộ lạc loài như nhau, lại tam trùng lạc lõng nhau, vì bất ngờ sợ hãi nhau, quay đầu bỏ chạy. Lời thơ lại thêm một chút niêm hoa vi tiếu “theo ngó theo”.
Ngựa chị dừng bên thác trong veo
Nếu thác đục lầy cho một chút, ắt có phần gần gũi bụi hồng hơn. Nhưng tại sao thác lại trong veo cắc cớ ra như thế? Thì trần gian còn biết đem tâm sự hồng trần ký thác vào đâu? Đó là chỗ đạm nhiên huyền bí lô hỏa thuần thanh vậy. Nó đốt cháy linh hồn bằng một tiếng trong veo. Nhưng đốt cháy mà đâu có bỏng da bỏng thịt. Nó cháy để thăng hoa cho linh hồn về ba la mật, sau một phút linh hồn tạm dừng trong một phen tư lự. Vì dù sao trận giũ áo cũng còn vướng víu với nhân nghĩa nhân tình.
Ngựa chị dừng bên thác trong veo
Lòng chị buồn khi nắng qua đèo
Nơi đây lá giạt vương chân ngựa
Hưu chạy quay đầu theo ngó theo
Rồi xẽ xin khóc một cơn vô ngần cho trùng sinh trong vĩnh biệt:
Rừng đêm nhòa bóng nhớ hoang mang
Ngựa chị dừng bên thác sao vàng
Sao rơi đáy nước vương chưn ngựa
Buồn dâng đôi mi hàng lại hàng
Ta lại gián tiếp với một sự tình kỳ dị. Nói ra là buồn dưng đôi mi hàng lại hàng, nhưng có bao giờ mối sâu mênh mông và hầu như vô đối tượng lại tràn ra thành hàng lệ. Nhưng đây là hàng lệ riêng biệt của hư không đi về vui chơi êm đềm với không hư thái thiên nhiên tĩnh tịch. Người ta có thể khóc, nhưng không phải khóc vì một mối đoạn trường riêng tây trong một cảnh ngộ nhất định.
Hoặc đâu có phải bạ đâu khóc đó như bọn thy sỹ trung niên. Người ta khóc từ chín kiếp khóc về; như trận mưa vốn từ thiên thu rớt hột. Vì thế nên gọi là hàng lại hàng. Vì thế nên có chuyện sao rơi đáy nước. Vì thế nên có chuyện sao vương chưn ngựa. Chưn ngựa ở đây cũng mang đủ trùng quan thời gian vũ trụ nên mới có thể chạm vào bóng sao rơi từ thời gian tinh thể rớt về. Người và ngựa và sao và nước bỗng nhiên như nhiên đã đi vào cõi chung vạn vật nhất thể. Thì từ đó trở lại với đoạn đầu, từ câu hỏi mông lung tới lời đáp nhẹ nhõm, niềm mong nhớ mong là một tặng vật không lời, không nhất định là riêng biệt của riêng ai trao gửi lại cho ai. Người chị và người em kia cũng không có tên tuổi nào được hạn định nơi đâu. Đó là hai đứa con của trời và đất đẻ ra trong một mùa xuân hôn phối. Thì mai chị về em gửi gì không, là gửi cho chị hay cho ai? làm sao ta dám quyết định? Chỉ biết rằng: chị hãy nhớ má em hồng. Nghĩa là: mùa xuân xanh còn tồn lưu mãi mãi trong mùa thu ly biệt. Đó là tặng vật của em trời trao chị đất – nhớ má em hồng là ký ức kỳ ảo Mnémesyne.
Chẳng hiểu sao đọc thơ Quang Dũng, Nguyễn Du, Hồ Dzếnh, Huy Cận, tôi thường nghĩ tới người Chiêm Thành. Tội lỗi ông cha chúng ta đối với dân tộc ấy kể cũng được chuộc phần nào, cũng như ngày xưa Homère đã giải oan cho người Troyens bị đắm chìm bởi người Hy Lạp.
Mấy bài thơ của Quang Dũng như giữ lại cho mọi người một niềm tương ứng mênh mông trong thời đại ngỗn ngang oan nghiệt, thế giới cùng xô ùa nhau vào hủy diệt, tàn phá, trong những trận tẩu hỏa nhập ma. Chiến tranh trong thời Quang Dũng dù sao cũng còn để lại cho người một dư địa để hoài niệm nhớ thương nhau. Nhưng dần dà, chút tình thương còn sót cũng mất đi giữa hỗn độn. Lúc bấy giờ e chỉ còn cửa quỷ đối thoại với nhà ma. Quang Dũng cũng linh cảm sự đó, nên bài “Đôi Mắt Người Sơn Tây” khép lại với mấy tiếng “bao giờ, bao giờ” ngậm ngùi khôn tả:
Bao giờ trở lại đồng Bương Cấn?
Về núi Sài Sơn ngóng lúa vàng
Sông Đáy chậm nguồn quanh Phủ Quốc
Sáo diều khuya khoắt thổi đêm trăng
Bao giờ ta gặp em lần nữa
Ngày ấy thanh bình chắc nở hoa
Đã hết sắc màu chinh chiến cũ
Còn có bao giờ em nhớ ta
Khoảng trống lại trở về ngập khắp mép bờ ngôn ngữ. Như muốn đánh chìm hết mọi lời thân thiết đã thốt ra. Chúng ta không còn biết phải giải thích thơ Quang Dũng ra sao được nữa cả.
Ngày ấy thanh bình chắc nở hoa
Nhưng có lẽ ông không tin ở ngày ấy, ông không nghĩ rằng ngày nở hoa ấy sẽ về. Còn có bao giờ em nhớ ta? Nghĩa là không còn có bao giờ nữa cả? Chúng ta sẽ tiếp tục chết hết. Người ta sẽ tiếp tục giết nhau cho tới buổi chung cục thời gian. Cuộc chiến tranh ngày nay không còn chút gì giống như chiến tranh những thời đại trước. Có những cuộc chiến tranh huy hoàng như một trận mưa rào rực rỡ, làm hồi sinh con người trong tâm thức từ bi. Nhưng có những cuộc chiến tranh vốn từ trong tinh thể là làm tan rã tiêu diệt mất bản tính con người. Ngay cả con ngợm, con đười ươi cũng không còn sống sót một mống nào hết cả. Thì như thế? Còn có bao giờ em nhớ ta?
Người ta nhầm lẫn một cách kỳ quặc cái ý nghĩa sơ thủy của chiến tranh. Cuộc chiến tranh bao dong của những ông Nguyễn Huệ, chiến tranh bác ái của những ông Napoléon, chiến tranh đó không còn tự nhận diện ra mình nữa trong cuộc chiến tranh tàn phá ngày nay. Tolstoi ngày xưa chẳng hiểu gì về Napoléon hết cả, cũng như chúng ta ngày nay chẳng hiều gì cả về cuộc chiến tranh của chúng ta. Thật là cắc cớ. Còn có một chân lý dị thường ẩn tàng trong Dịch Kinh của Khổng Tử đang khiến mọi người tư tưởng ngậm ngùi không còn biết phải thốt bất cứ một lời gi trong hiện trạng năm châu. Bài thơ Quang Dũng hiện ra tại chỗ chênh vênh bát ngát và thê thảm nhất trong sử lịch con người. Nó chỉ đạm nhiên và thống thiết khơi rộng những khoảng trống vắng ra để cho mọi vấn đề được nhận định và tự tìm lời giải đáp.
Bàn luẩn quẩn mãi là vô lối. Chỉ nên thong dong đọc thơ như uống nước mía, như dõi theo cánh chuồn chuồ, như nằm ngủ gọi em Thúy Kiều em Thúy Vân em Đạm Tiên, em Hoạn Thư em Bạc Hạnh, em Sở Khanh, em Mã Giám Sinh, mọi mọi em em của em Tố Như Tử em Liệp Hộ em Thanh Hiên, em Hiền em Thánh, em Cành em Nhánh, em Trái Ớt, em Muối Tiêu, em Soài Riêng sa rụng, em Bương Cấn em Sài Sơn…
Bao giờ trở lại đồng Bương Cấn
Về núi Sài Sơn ngóng lúa vàng
Sông Đáy chậm nguồn quanh Phủ Quốc
Sáo diều khuya khoắc thổi đêm trăng.
Tuy nhiên riêng đối với học sinh đang tập đi thi để cuối năm cưới vợ thì chớ nên lẩn thẩn chiêm bao đọc thơ nhiều quá.
Huy Tưởng
Lại một tâm hồn thi sĩ thượng đẳng. Ông còn trẻ lắm chắc? Tập thơ ông còn vài vần vướng vướng cái gì. Nhưng nhiều bài thâm thiết khôn tả. Tôi kính yêu ông này như một hóa thân Thôi Hộ về hội diện ni cô hiện đại Việt Nam.
Tôi chưa dám bàn nhiều về ông. E sỗ sàng chăng? Chỉ xin ghi ra đây một bài thơ xuất thần nhập thánh đáo thiên tiên:
Nghe kinh
Ướt hai tà áo nâu rồi
Bên chùa mục giọng kinh hồi lệch sang
Giọng chuông rơi thấm cỏ vàng
Nghe kìa sư nữ vừa choàng áo tu
Tôi nằm ấp lá đêm thu
Mai sau nở trái sa mù pháp không.
Bùi Giáng
Những bài thơ “chuồn chuồn châu chấu” của ông quả thật là có ý nghĩa. Nó bay nhẹ vi vu quả có đúng như là phận mỏng cánh chuồn. Vào những buổi sáng mùa đông lạnh lạnh ở Trung Việt, vào những buổi chiều mùa thu ở Bắc Hà, hình bóng những con chuồn chuồn bay lượn cuối ngõ, đầu xuân, quả thật là tha thướt. Đôi phen mất cái tiết điệu riêng biệt ấy cũng còn tái hiện trong đôi vần phồn hoa, mặc dù ở chồn phồn hoa không bao giờ có chuồn chuồn bay vòng múa lượn.
Bài thơ “Giữa phố” sau đây là một thí dụ :
Thiên tiên đẹp cũng như người
Ngẫu nhiên kỳ ngộ miệng cười nửa môi
Miền xanh đứng bóng mặt trời
Cõi xanh cung nguyệt cạn lời cảo thơm
Đi qua làn gió xanh rờn
Đi về ở lại còn hơn xanh rì
Phút giây đè nặng như chì
Thoảng qua như mộng không kỳ hạn qua
Chiêm bao nàng ghé lại nhà
Môi cười nửa miệng như là ngẫu nhiên
Nửa môi còn ngậm phi tuyền
Tuyết pha in mặt thần tiên như người.
Tuy nhiên vì Bùi Giáng là chỗ quen biết với tôi nên không tiện bàn luận chi nhiều. Chê thì mất lòng nhau. Mà khen thì mang tiếng “mẹ hát, con vỗ tay”.
Dù sao, bài sau đây cũng nên trích thêm vào tập:
Bóng dương buồn ngủ qua chiều
Qua sông tại hạ toan liều dấn thân
Đường sông bóng đổ cơ trần
Gẫm chông gai ấy ai từng đạp qua
Ghì môi cơn mộng la đà
Tiêu dao suốt cõi mù sa bên rừng
Nửa vời trăng rộng mông lung
Đường hoa nghi hoặc tháp tùng ni cô
Kiên Giang
“Lành mạnh, thanh cao, vị tha và ái quốc”. Ông Thiếu Sơn nói không sai một tấc một ly nào cả, khi giới thiệu thơ Kiên Giang.
Ông Kiên Giang tuyệt nhiên “không cầu kỳ, không giả tạo” mà đạt tới chỗ sâu thẳm nhất trong linh hồn mọi người, một cách thuần nhiên.
Bàn giải thơ ông là làm công việc thừa, vô ích. Chỉ xin chậm rãi chép ra đây nhan đề những bài thơ trong quyển Quê Hương Thơ Ấu của ông:
Hơi Mẹ
Thuở Lên Ba
Củ Co, Nét Đồ
Rau Với Chữ
Đánh Vần Câm
Chơi Nhà Chòi
Chim Bay Cò Bay
Thả Diều
Ngựa Trúc
Manh Lụa Mo Cau
Đồng Xu Giấy Chặm
Tà Áo Tím
Đồng Tiền Duyên
Con Chờ Đèn Chợ
Niềm Khuya
Giấc Ngủ Thiên Thần
Hương Tuổi Ngọc
Gối Khuya
Năm Lần Dứt Sữa
Tình Trắng
Tóc Thề Xứ Huế
Tiếng Võng Chìm
Bong Bóng Màu
Cô Hàng Bông Cỏ
Gánh Hát Cúng Đình
Kẻ Bụi Đời
Tuổi Thơ Heo Hắt
Đếm Sao Vô Hình
Tuổi Trăng Tròn
Sa Mạc Trắng
Học Sinh Và Tổ Quốc
Những Trang Sách Cũ
Gió Bấc Hiu Hiu
Niềm Riêng
Quê Hương Thơ Ấu của Kiên Giang sẽ nằm trong nước Việt như Kinh Thi nằm trong nước Tàu. Một quê hương bình dị thiết tha, và hình như chúng ta đang đánh mất. Chỉ kêu gọi về trong những trận chiêm bao.
Nguyễn Du và Hegel
Hegel - Ngài làm thơ rất khá, tuy nhiên ta cũng lấy làm tiếc cho ngài.
Nguyễn Du - Tiếc gì thế Hegel?
Hegel - Tiếc rằng ngài vay mượn truyện Tàu, và ngôn ngữ Tàu. Té ra ngài chả có tinh thần sáng tạo.
Nguyễn Du – Các hạ còn điều gì chỉ giáo thêm cho chăng?
Hegel – Có chứ. Ta khuyên ngài nên gắng thử dựng nên một triết thuyết mới mẻ cho dân tộc Việt Nam.
Nguyễn Du – Còn gì nữa chăng?
Hegel – Còn chứ. Ta khuyên ngài hãy gắng tìm hiểu triết thuyết của ta, thì mới mong mai sau tiến bộ nhanh chóng.
Tản Đà
Nếu tiên sinh còn sống, ắt tại hạ xin được phép cùng tiên sinh nhậu nhẹt một trận lu bù. Thơ của tiên sinh làm, chẳng có chi xuất sắc. Nhưng bản dịch “Trường Hận Ca” của tiên sinh quả thật là vô tiền khoáng hậu.
Walt Whitman
Ngài là một bậc thánh chịu chơi. Thơ của Ngài tuôn trào cuồn cuộn như ngôn ngữ Hoa Nghiêm Kinh. Ngài nghĩ sao về nền văn minh ngày nay trong xứ sở của Ngài? Chắc Ngài chẳng lấy làm chi hài lòng cho lắm?
Emily Dickinson
Cô nương là một tiên nữ lạc lối ghé về trần gian. Cô nương làm thơ vừa như cho anh hoa phát tiết, lại vừa như ghìm ẩn mật tinh thể mình, không chịu để cho thiên hương bốc hơi ra ngoài…
Chỗ kín đáo đó của cô nương càng khiến cho kẻ phàm tục choáng váng tê mê mất ăn mất ngủ.
Dylan Thomas
Nhà thơ phiêu bồng ríu rít nhất của Tây Phương. Thơ dại nhất và u sầu nhất. Đọc thơ ngài, kẻ phiêu bồng đành phải bó tay, không còn tìm đâu ra một cõi phiêu bồng khác để bước.
Tạ Ký
Bây giờ tôi muốn nói đến một người bạn. Thì tôi có cảm tưởng rằng những điều tôi nói quanh quẩn mấy năm nay về thơ, đều có thể đem trao cho người bạn ấy. Thơ Tạ Ký đủ mọi màu sắc. Cay đắng, não nùng, thơ ngây, thắm thiết. Lời thơ lúc thật cũ, lúc thật mới, lúc như làn kiếm vụt ngang, lúc mơ hồ lãng đãng. Anh sống ở mọi giai tầng xã hội, xuống lên, lên xuống, ngõ quạnh, đường cong, phồn hoa, thôn ổ, nơi nào cũng thấy phảng phất hình bóng anh. Vậy tôi còn biết nói sao.
Chỉ xin chép ra đây một ít tuyệt phẩm vậy. Kẻ tình nhân sẽ đọc, cũng như người nhớ quê sẽ nhìn. Con nhớ mẹ, anh nhớ em, học sinh du học viết thư về ngỏ ý với gia đình… ruộng đồng ngỏ ý với đô thị… sa mạc trao ân tình về cho biển, cho non… Thượng Đế ở trời xanh cũng ngậm ngùi đưa mắt xuống, đăm chiêu nhìn những đường ngang, lối dọc, ngõ hẻm trần gian, những mùi hương, những meo mốc.
(Rủi sao, tập thơ của anh, tôi bỏ lạc đâu mất, tìm không ra để chép vào đây).
Viết thêm:
Sau nhiều đêm biến động, đọc lại thơ Tạ Ký, càng nhận rõ những âm thanh nồng hậu của riêng anh. Những nỗi vui nhẹ nhất, cũng như những nỗi buồn sâu xa nhất trong tâm tình con người thời đại này, đã được anh nói lên một cách chân thành thâm thiết.
Giữa một thành phố ngổn ngang, khí hậu tàn nhẫn nấu nung bức vách, thỉnh thoảng gặp nhau vài giờ, trao đổi vài mẩu chuyện vu vơ, rồi mỗi người quay đi mỗi ngả, nghe cuộc sống của mình dần dà xế bóng…
Nhưng lớp người sau chúng ta sẽ về, họ sẽ còn đau khổ hơn chúng ta – làm sao nghi ngờ điều đó - họ sẽ đọc thơ anh Tạ Ký như thế nào?
Thùy Dương Tử
Ông Thùy Dương Tử là một nhân vật tài tử riêng biệt ngậm ngùi. Ông vốn người Quảng Nam nhưng lại chẳng hề có cái chất bướng bỉnh của người Quảng Nam. Ông chỉ thừa thu riêng cái chất thuần phác của xứ Quảng yêu dấu mà thôi.
Thùy Dương Tử hiền hòa, bình đạm, thơ ngây, tha thiết âm thầm. Chẳng bao giờ lên tiếng nói thị phi gì hết cả.
Xin chép ra vài bài:
Về đây giấc ngủ thiên thu
Quên đi bóng dáng sương mù tuyết cao
Âm thanh chẻ tuổi hôm nào
Giờ gay gắt gọi chiêm bao chưa về
Giật mình nóng lạnh giường se
Bàn tay nhiều chỉ mình nghe tự mình
Tôi thiết tưởng một thanh niên hai mươi lăm tuổi viết một vần thơ thăm thẳm đến như thế ắt phải khiến phụ nữ kinh hoàng không dám bén mảng tới thăm.
Và ắt có kẻ vừa quá yêu thương vừa quá kinh hãi, không biết làm sao, đành mượn liều độc dược quyên sinh và để lại trên bàn ở cạnh đầu giường một vần thơ tuyệt bút:
Nợ tình chưa trả cho ai
Khối tình mang xuống tuyền đài chưa tan
Hoặc:
Tái sinh chưa dứt hương thề
Làm thân trâu ngựa đền nghì trúc mai.
Hoặc cũng có thể là:
Dạ đài cách mặt khuất lời
Rảy xin chén nước cho người thác oan
Hoặc hơn nữa:
Bây giờ trâm gãy gương tan
Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân
Sau đây là một bài nữa của Thùy Dương Tử:
Tôi nay nằm ngửa nghe mưa
Âm than vút ngược lại vừa buồn thiu
Làm thơ trong bóng mù khơi
Khắt khe càng lắm yêu đời càng thâm
Cô đơn ấp ủ bên lòng
Mưa rơi buồn chết gọi âm thanh về
Yêu đời nên mãi điên mê
Se đau từng phút kéo về trăm năm
Buồn hiu hắt nên nỗi buồn thiu
Giải sao hết được những điều thực hư.
Chúng ta tự hỏi: làm sao một thanh niên trẻ dại có thể viết nên những câu thơ tồn lập tại Khoảng Vắng Lặng mà suốt Đoạn Trường Tân Thanh, Nguyễn Du đã mở ra và bỏ lửng tại đó?
Tuổi xanh già trước tháng ngày
Mắt xanh già trước niềm đau hiện về
Anh viết câu thơ như thế cho ai nghe? Mọi nhân vật thượng đặng của Nguyễn Du sẽ nghĩ sao? Giác Duyên nghĩ sao? Tam Hợp Đạo Cô nghĩ sao? Từ Hải nghĩ sao? Kim Trọng nghĩ sao? Thúy Vân nghĩ sao? Không ai dám nghĩ sao hết cả. Mọi người nhắm mắt lắc đầu. Rồi tiếp tục nâng chén rượu bùi ngùi uống cạn một hơi, khẽ mời ông Lý Bạch đọc tiếp:
Đi về thăm viếng thị thành
Bàn tay năm cũ mọc nhành xương khô
Đi về còn vọng sông hồ
Bài ca tình ái phương mô tìm nàng
Đi về vườn cũ tan hoang
Thương trăng thiếu phụ úa tàn đời xuân
Anh âm thầm cảm thương quê hương vườn cũ, anh âm thầm thương cảm một vong hồn đau đớn thiết tha Quách Thoại. Mọi người chết giữa xuân xanh hãy ngậm cười chín suối. Tôi chép bài thơ Thùy Dương Tử ra đây để cho những oan hồn kia đọc:
Kinh kỳ bụi hút xe đi
Thành đô nóng nực da chì nám da
Chốn này về có mình ta
Trẻ thơ òa khóc người già gậy khua
Âm thanh phá vỡ tuổi mùa
Ngày đi xuân lụn âm thừa vọng lâu
Bờ khuya đổ bến giang đầu
Người con gái khóc vó câu biệt mù
Trăng về ngự đỉnh non thu
Nửa dòng sông bạc sa mù tiết đông.
Những vần thơ như thế, ai dám đặt bút phê bình giảng giải? Những bài viết ra đâu có phải là làm văn nghệ chuyên môn? Phải là táng tận lương tâm mới có thể cầm cây bút học giả chen vào phân tích.
Lên cao nhìn tuổi núi sông
Lại về đồng cỏ tắm giòng hạ lưu
Tìm em mưa bão tháng mười
Cuối đông bồng biển sang thu lên đồi
Từ em hồng phận hoa khôi
Rớt rơi kỷ niệm mà tôi biệt từ
Không một lời dư. Không một tiếng thiếu. Tưởng chừng đó là mấy lời tuyệt bút của Hồng Sơn Liệp Hộ, một đêm nào nằm ngửa mặt ngó trời trăng tịch mịch và nguyện cầu dâu biển hãy buông tha…
Chiêm bao ngựa trắng phi về
Mây che thân thể em về hư không
Nửa đêm thức giấc phiêu bồng
Tóc bay mùa cũ chẻ lòng nhớ thương
Dâu biển ôi! Phong tình cổ lục ôi! Sự tình như thế nào như thế. Còn đâu nữa một vần tái tạo, một khúc tái tân thanh. Chỉ còn tịch mịch hư không.
…Đêm
Con dế kêu
Buồn đêm vắng
Buồn đêm mưa…
Nhưng làm sao dừng lại. Dư vang con dế gọi vẫn kéo dài suốt kiếp chúng ta. Kéo dài suốt giang san nước Việt.
Mịt mờ xe đỗ đèo cao
Nẻo xa xứ Quảng lối vào Quy Nhơn
Phố khuya mưa lệch sông hờn
Ểch ương kêu với đồng trơn quê nghèo
Một mình thui thủi lần theo
Rạ tranh nhà vắng buồn teo lúc về
Lạnh lùng Đà nẵng mưa gieo
Về thăm quê nội chừ nghèo xác xơ
Bước chân lữ thứ khôn hàn bỏ lại cho mai sau những âm thanh gì như thế:
Dép mo cau áo vải còn thương
Mùa cau trổ với mía đường tản cư
Thu Bồn Bến Cát thừa dư
Chín năm kháng chiến mình như già rồi
Anh hỏi mình quê ở đâu
Mình quê ở dưới bầu trời bao la
Tháng năm với tuổi không nhà
Chợt nghe dĩ vãng lòng ta cũng buồn
Vườn xưa hoa lá ngập đầy
Vết tay chín móng đã dày rêu in
Ta về gió lạc cung tin
Cho năm tháng lớn đi tìm đau thương
Viết chưa xong bài, đã phải bồi hồi dừng lại: cho năm tháng lớn đi tìm đau thương… Không tìm, đau thương vẫn cứ đến. Nó đến tràn lan, thy sỹ lại còn đòi đi tìm thêm nữa.
Thời gian chẻ tuổi nhớ mong
Tóc bay chẻ gió giục lòng đảo điên
Em về giấc ngủ linh thiêng
Vành môi khép mở xa miền nhân gian
Bỗng lời thơ đổi giọng. Vẫn là lục bát. Nhưng mang mang quá khứ Đường Thi:
Ngủ yên giấc ngủ bình yên
Cho ta hôn nhé lên triền môi em
Rạc rời tàu hú trong đêm
Lưng đèo khói bụi chào em ga này
Riêng bốn câu với tiếng chào không thanh âm vọng lại, ắt phải làm thiên tài Lửa Thiêng chết lặng linh hồn.
Lên non vứt bỏ sự đời
Hút âm thanh lại ngồi chơi một mình
Lấy mây làm sợi tơ hồng
Mây bay trăm nẻo như lòng đứt tim
Bây giờ không chỉ riêng một thiên tài nào linh hồn chết lặng. Mọi mọi người người kẻ kẻ theo gót mọi thiên tài, đều cùng mọi thiên tài hiền thánh cùng nhau đứt tim rã máu. Ta lại nhớ tới lời Mộng Liên Đường Chủ Nhân:
“Tố Như Tử có tấm lòng nghĩ suốt cả nghìn đời…”
Những người công kích thơ một cách bừa bãi lung tung, chẳng qua chỉ là lâm phải tình trạng “có đăng đường, nhưng chưa nhập thất”.
Trái lại, bọn thy sỹ chân chính là những kẻ bẩm sinh là “nhập thất” và có lẽ chả bao giờ bận tâm với chuyện “đăng đường”.
Nguồn: Ca Dao xuất bản lần thứ nhất tại Sài Gòn năm 1969. An Tiêm tái bản lần thứ nhất tại Paris năm 1998.
Bùi Giáng -Đi vào cõi thơ (3)
Bùi Giáng
Đi vào cõi thơ
(Chế Lan Viên, Nguyễn Trãi, Nguyên Sa, Đỗ Long Vân, Nhất Hạnh, Trần Trọng Kim, Chu Mạnh Trinh, Thanh Tâm Tuyền, Thế Phong, J. Leiba, Bùi Như Sơn, Phạm Quang Bình, Nhượng Tống, Dương Minh Loan)
Chế Lan Viên
Một tinh thần quân bình sáng suốt, lại cứ nói mãi chuyện điên. Yêu đời vô lượng lại nói toàn là chuyện yêu ma.
Làm sao không than khóc yêu ma một phen đã yêu đời quá nặng, và cõi đời đang bị phá vỡ tràn lan?
Người Chàm đã diệt vong, cũng như người Troyens đã diệt vong, người da đỏ đã diệt vong.
Người người kẻ kẻ mọi mọi da da đã diệt vong, và tiếp tục xô ùa nhau vào diệt vong. Thì kẻ yêu đời chỉ còn biết gọi: - Thần chết ạ, lại gần đây đối mặt! Trao bàn tay cho ta nắm bên miền…
Nguyễn Trãi
Nghĩ tới Nguyễn Trãi, không còn can đảm đâu viết nên một lời gì cả. Nguyễn Du đã vì Nguyễn Trãi mà dựng một tòa tân thanh lặng lẽ. Thy sỹ đời sau cũng vì Nguyễn Trãi mà tiếp tục làm thơ không lời. Thảm kịch nhà Nguyễn Trãi dựng lên nước mắt mọi người toàn khối bất công oan nghiệt con người phải nai lưng ra gánh vác.
Còn đâu chỗ để nêu ra vấn đề Chiến Tranh hay Hòa Bình?
Chiến tranh cũng thế!
Hòa bình cũng thôi…
Chắc chi dâu biển nỗi đời
Mà đem non nước làm lời non sông…
Nguyên Sa
Có lẽ ông Nguyên Sa nhãn giới rộng rãi, nhìn xuôi ngược quá tỏ rõ ngọn ngành dâu biển, nên lời thơ của ông trở thành nửa thực, nửa rỡn, nửa thâm thiết, nửa hững hờ. Và có một sức quyến rũ khác hẳn mọi lối thơ xưa nay.
Cả thơ, cả văn của ông, đều có như là một loại thần dược của thiên nhiên trao gửi cho trần gian bối rối. Kẻ chán đời quá độ, nên đọc thơ ông. Ấy là để nhận chân một mối thong dong tự tại của kẻ thượng đạt, mặc dù kẻ thượng đạt kia trong cuộc sống vẫn có thể lầm lỗi nhiều ít.
Đỗ Long Vân
Đỗ Long Vân không làm thơ, nhưng lại là kẻ có tâm hồn thơ sâu đậm thâm thiết rộng rãi hơn bất cứ kẻ thi sĩ nào.
Trường hợp ông cũng như trường hợp Trần Trọng Kim, Đào Duy Anh… mang tâm hồn thi sĩ dấn mình vào cuộc biên khảo ngậm ngùi.
Nhất Hạnh
Nhất Hạnh có nguồn thơ chứa chan. Chúng ta không hiểu vì lẽ gì nguồn thơ đó lại không đủ sức ngăn cản ông, khiến ông hì hục hiện đại hóa Phật Giáo Uyên Nguyên.
Trường hợp Nhất Hạnh là trường hợp một thi sỹ thiên tài bị vướng phải cạm bẫy của triết học Tây Phương.
Nhưng riêng gì Thượng Tọa Nhất Hạnh lâm vào trường hợp bi thiết đó? Còn nhiều kẻ khác. Và ngay cả một thiên tài Nhượng Tống cũng không thoát khỏi ma lực của tinh thần khoa học đời nay.
Trần Trọng Kim
Trần Trọng Kim cũng là một thiên tài thi sỹ. Ông dịch thơ Đường không đạt tới cái độ tài hoa của Tản Đà, nhưng trong mạch ngầm lại thâm hậu hơn Tản Đà.
Tản Đà bị tẩu hỏa nhập ma. Trần Trọng Kim lại là người duy nhất trong thế kỷ này, giữ vững được tâm hồn trong niềm tịch nhiên bất động giữa mọi phong ba.
Tản Đà chú giải Truyện Kiều một cách thô thiển lệch lạc quá. Trái lại Trần Trọng Kim có những ghi chú hoằng đại âm thầm.
Chu Mạnh Trinh
Bài “Tựa” Truyện Kiều của Chu Mạnh Trinh viết bằng Hán ngữ, quả thật đầy đủ thâm hậu và thừa dư tài hoa để xô Hán ngữ uyên nguyên đi thêm một bước đặc biệt.
Lời cổ kính mà tân kỳ. Bằng một cánh phấp phới, ông bay vút một cơn. Lý Bạch phải sững sờ. Trái lại, “Chinh Phụ Ngâm Khúc” bằng Hán ngữ của Đặng Trần Côn, ắt chẳng khiến một thiên tài Trung Hoa nào chịu sửng sốt.
Thanh Tâm Tuyền
Thanh Tâm Tuyền như một vị tướng lãnh gan lì, sử dụng một loại võ công chỉ riêng một mình ông đạt tới quai nhai cảnh giới.
Mọi kẻ về sau học tập võ công ấy đều thất bại.
Công lực thâm hậu, Thanh Tâm Tuyền lại còn trẻ quá, do đó, ông bước đi trên trận địa một cách quá ngang nhiên, chả bao giờ ông bận tâm tới những môn võ công khác của những đối thủ, bất kể chúng là thiên tài hay là chẳng.
Thế Phong
Thế Phong hùng hậu ngang tàng, bướng bỉnh, khó tính. Bài thơ đi ào ào, lúc chan hoà tâm sự, lúc cộc lốc phiêu nhiên.
Thơ cảm động vô cùng, mà cũng lắm phen khiến người ta cười bật ra tiếng.
Thơ ông Thế Phong là chỗ kết tụ của một tâm hồn tế nhị khôn hàn và một nỗi gàn bướng không tả. Ông làm giàu cho thi ca hiện đại không phải ít.
J. Leiba
Trong J. Leiba có một Từ Hải thời xưa yêu Thúy Kiều, lại có một Đạo sỹ giũ áo tơ tình, đi theo cánh hạc, mà vẫn ngoảnh đầu nhìn mãi phồn hoa thơ mộng ở phía sau.
Đúng là một loại Thanh Tùng Tử chịu chơi:
Phù thế đã nhiều duyên nghiệp quá
Lệ lòng mong cạn chốn am Không
Cửa thiền một đóng, duyên trần dứt
Quên hết người quen chốn bụi hồng
Nói thì có vẻ như dứt khoát lắm. Đắc đạo lắm. Nhưng thử hỏi: - Một loại Từ Hải mà đi tu, thì tu sao trót? Làm sao gột rửa cho xong trong máu me mình, cái hình ảnh em Thúy một phen kia.
Con dẫu trần tâm đã sạch rồi
Lòng từ vương một chút thương ai
Một câu thơ như thế quả là thừa sức xô ùa hết thảy mọi thi ca kim cổ đông tây đi mất hết.
Con dẫu trần tâm đã sạch rồi
Lòng từ vương một chút thương ai
Thương ai? Thương bằng lòng từ? Vương một chút?
Một chút kia mang toàn khối tình và tự và đạo và tôi và giáo và lý và phù sinh hư ảo trên trang hải phiêu bồng.
J. Leiba ắt đã có diễm phúc gặp một người yêu dịu dàng. Người yêu có lẽ mệnh bạc? Nhưng vì thuở nàng còn tồn tại bình sinh, chàng vì cớ gì đã đi xa nàng như thế? - Quyết lòng dứt áo ra đi? Thanh gươm yên ngựa lên đường ruổi rong?
Chúng ta chẳng rõ gì hết về J. Leiba. Ông chỉ gửi lại trong thơ mấy lời chân thành bi thiết nhất của một can tràng hy hữu như một niềm bí mật ngàn xưa…
Đã thế thì tôi đi cứ đi
Ta cùng hồng kiếp có vương gì
Một cười trả lại người thiên hạ
Cả tấm thân này lẫn mộng kia
… Đâu đấy mồ thu tiếng dế than
Lòng ta xao xuyến ngựa lên đàng
Hồ ly mấy bóng lan bờ cỏ
Đêm tối tìm về ngủ mả hoang.
Bùi Như Sơn
Ông không làm thơ nhiều, vì tính ông ham chơi chẳng thiết chi chuyện thơ thẩn.
Thỉnh thoảng ông gieo vài vần ghẹo ông Nguyễn Du. Đọc phải bật cười ra tiếng.
Gọi là gặp gỡ giữa đường
Họa là người dưới suối vàng quên nhau
Trở về chân lệch gót sau
Trâm đầu lọt giữa tư trào hoang mang
Gia đình ông xưa kia bị thảm họa vì kháng chiến. Mấy mươi người chỉ còn sống sót dăm ba. Thuở bấy giờ ông chỉ là một thằng bé mười một tuổi đầu. Từ đó, đối với ông đoạn trường nhân gian là chuyện cố kỳ nhiên. Chả phải nhọc lòng nghĩ tới nữa.
Một trái bom rơi trúng miệng hầm
Đã đành sự thể lạnh căm căm
Một mình ra đứng đầu khe núi
Quên mất thân mình một với trăm
Bài thơ nào của ông cũng chỉ có bốn câu. Cưới vợ, ông cũng chỉ tặng vợ có bốn câu. Hỏng thi, ông cũng chỉ có bốn câu vịnh cuộc:
Lăn lóc trường thi một trận rồi
Rụng rơi từ một tới hai nơi
Ra người thiên hạ cười chi thế
Tớ chẳng vui lòng cuộc chịu chơi
Nhớ lại thuở nhỏ đi câu cá ở bờ khe, ông viết:
Cá đi nguồn suối xa rồi
Buông câu tuổi dại mộng ngồi phồn hoa
Tình đi như gió giang hà
Nằm nghe giấc ngủ chan hòa tử sinh
Ông trao tôi một xấp giấy gồm hai chục bài. Mỗi bài bốn câu. Ông bảo:
“Các hạ chậm chậm mà đọc. Tháng sau ta sẽ trao thêm cho nhà ngươi một bài bốn câu nữa cho đủ bộ.”
Phạm Quang Bình
Phạm Quang Bình mười sáu tuổi. Nhưng vẻ mặt trông như đứa bé mới lên năm. Phạm Quang Bình là em ruột Phạm Đình Liên, một nhân vật phong nhã tài hoa đủ điệu, nhưng lại chẳng hề làm thơ, chỉ vùi đầu đọc truyện vũ hiệp quanh năm.
Phạm Quang Bình trái lại. Có năng khiếu đặc biệt phi thường toán học mà lại thích làm thơ.
Mẹ cha vất vả quanh năm
Con làm thơ mộng như tằm ăn dâu
Mai sau con sẽ bạc đầu
Mẹ cha đừng có đau sầu vì con
Đúng là một hồn thơ thanh bạch phỉ phong.
Học hành chữ nghĩa bao dong
Thương thầy nhớ bạn còn mong yêu người
Người đi lặng bóng chân trời
Quê hương phố hội còn nơi tâm tình
Đêm nay bài vở rập rình
Mùi hương phảng phất tiền trình cuối năm
Tôi chắc học sinh nào cũng phải vừa lòng với tâm sự đó của bạn thiếu niên. Nghĩ cũng lạ. Thơ vốn hồn nhiên như thế mà sao người ta cứ chạy tìm thơ ở đâu đâu.
Phố chiều tà áo thướt tha
Chân đi đếm nhịp tuổi già hơn tên
Mẹ cha chờ đợi xui nên
Cơn chiều chuộng bỗng về bên mơ màng.
Tuổi trẻ vốn làm thơ tươi sáng như thế nếu không bị những gò bó chương trình cản lối.
Tựu trường mở lớp học ra
Chị em ghé hội hè hoa thanh bình
Tháng năm đoản lộ trường đình
Dĩ nhiên mộng tưởng còn trình diện kia
Chợ chiều vang bóng về khuya
Sầu dâng lãng đãng về chia tâm hồn
Lan hương hai chị hao mòn
Nửa lo học tập nửa còn lo thi
Chúng tôi mong ngày sau sẽ còn được đọc những bài thơ như thế của đầu xanh.
Nhượng Tống
Bản dịch “Tây Sương Ký” của Nhượng Tống thật là phi phàm.
Xin trích ra đây vài đoạn hiu hắt:
Non xanh chẳng nể nang nhau
Rừng xanh thôi cũng ra mầu khẩy trêu
Mịt mùng sương bạc khói chiều
Người đi ta biết trông theo lối nào
Lên xe mà dạ xôn xao
Về sao chậm chạp đi sao vội vàng
Tà tà bóng ác xuyên ngang
Nào nghe người nói trên đường cái quan
Mông mênh đồng lúa xanh rờn
Còn nghe ngựa thét trên làn gió thu
Phong cảnh cùng tâm hồn người Trung Hoa ngày xưa hiện ra như thế. Chẳng rõ có còn làm nao nao những cô gái Ba Tàu Chợ Lớn ngày nay chăng?
Trông nhau nào thấy nhau đâu
Non xanh bốn mặt đẫm màu tà dương
Ngủ đâu đêm vắng dặm trường
Chiêm bao hồ dễ biết đường tìm nhau
Nào khi gắn bó hôm xưa
Đêm qua cách mặt bây giờ chia tay
Mùi tương tư nếm đã bao ngày
Ai hay ly biệt lại cay gấp mười
Cuốn Mái Tây còn tràn lan những hàng châu ngọc không thể nào đếm xiết… Nhưng cố nhiên không thể nào tham lam bóc lột đem kê khai ra đây. Hãy để yên cho các cô gái Chợ Lớn tự tìm lấy mà mà đeo vào khắp mình mẫy hình hài của các cô.
Bản dịch “Nam Hoa Kinh” của Nhượng Tống cũng tuyệt diệu. Vài nhầm lẫn nho nhỏ, không đáng kể bao nhiêu.
Dương Minh Loan
Và mùa thu lại trở về rồi đó
(“Hồng Cúc”)
Bài thơ này tôi tình cờ đọc được trên báo. Tưởng như một kỳ ngộ. Tôi đã quá quen với những vẻ đẹp tiền chiến, hậu chiến, siêu thực, tự do. Tôi muốn gặp một vẻ đẹp khác, thật sự phiêu nhiên tự do phóng nhiệm mơ hồ. Thì bài thơ này của ông Dương Minh Loan quả là đáp ứng.
Và mùa thu đã trở về rồi đó
Trên núi cao có từng đám sa mù
Đùng một cái, Dương Minh Loan đẩy chúng ta đối diện với một sự trạng quen thuộc mà bất ngờ của mùa thu. Xa hẳn thu Huy Cận, thu Xuân Diệu, Lưu Trọng Lư, Nguyễn Bính. Xa hẳn mọi kỹ thuật nề nếp phỉ phong.
Trên núi cao có từng đám sa mù
Tôi hờ hững tưởng tên mình chưa có
Đúng là tuyệt diệu thật.
Tôi hờ hững tưởng tên mình chưa có
Làm sao có được? Một phen trên núi có từng đám sa mù hồn nhiên như thế? Tôi hờ hững trước cái “có” hờ hững tuyệt diệu kia.
Tôi hờ hững tưởng tên mình chưa có
Chưa có? Nghĩa là rồi sẽ có cho sau. Có lúc nào? Lúc được cái gì xác định? Ấy là cái một lần mộng du.
Tôi hờ hững tưởng tên mình chưa có
Cánh hoa nào đang đợi lần mộng du
Chờ tới lúc lần mộng du được thành tựu viên dung cho một cành hoa nào kia viên mãn, thì khi đó, sẽ có cũng không muộn gì.
Và mùa thu lại trở về rồi đó
Trên núi cao có từng đám sa mù
Tôi hờ hững tưởng tên mình chưa có
Cánh hoa nào đang đợi lần mộng du
Nếu như tôi không hờ hững, nếu như tôi có o bế o bồng một hoài vọng gì được xác định rõ trong một cuộc tạm biệt, nếu tôi có mang tên Thúc Sinh, Thúy Kiều chẳng hạn, thì ắt màu quan san sẽ làm lệch mất cái tố chất nguyên thủy sơ khai của thu đi, và làm cho cuộc mộng du sẽ loay hoay thắc mắc như một vầng trăng ai xẻ làm đôi, làm ba, làm bốn, vân vân.
Tại đây, trái lại, mọi sự còn trinh nguyên – mà trinh nguyên theo nghĩa của hồi sinh tái tạo. Tái tạo theo nghĩa tự tái tạo bản thân thể mình, cho kịp với cái đà thơ ngây tuần hoàn biến hóa của vạn vật tư lự mùa thu. Tư lự một cách rất mực thi ca sáng lập, chứ không tư lự theo lối cằn cỗi suy tư gớm guốc quỷ nhà ma. Đó là điều bốn câu tiếp muốn nói một cách đơn giản ra:
Từng dấu chân in hình lên rêu đá
Từng suy tư làm đen nghĩa tương lai
Có lại đây xem nỗi buồn man trá
Hình ảnh này máu đỏ vẫn chưa phai
Có những nỗi buồn man trá, cũng có những lối suy tư kềnh càng lố bịch, vì bao giờ cũng thấy mình trang nghiêm và do đó mà dày xéo mọi thứ hồn nhiên máu đỏ.
Nhưng lời thơ nói lên sự đó một cách thong dong bát ngát hơn nhiều.
Kỷ niệm ấy trôi theo cơn nước lũ
Tôi bâng khuâng nhìn ngày tháng khô dần
Khóc thương mình hồn đau như có nụ
Rồi trở về cô độc giữa thanh xuân
Hồn đau như có nụ? Nụ ấy sẽ nở ra hoa gì? Sẽ phủ hết một vườn thanh xuân? Khóc thương mình hồn đau như có nụ? Chắc là nụ đoạn trường chẳng lẽ? Ông Nguyễn Du bảo đích thị nụ hoa đoạn trường. Ông Dương Minh Loan lại mỉm cười lắc đầu, không chịu xác định. Ông nói nửa vời, mà ráo riết. Ông lửng lơ mà đi tới cùng. Ông nói sự cô độc mà nghe như thong dong đi du xuân ngó bướm.
Khóc thương mình hồn đau như có nụ
Rồi trở về cô độc giữa thanh xuân
Cái giọng nói riêng biệt đó là cốt cách của những kẻ có trăm năm đạo hạnh đầy đủ để đốn ngộ thượng thừa. Mối buồn biến chất, tình yêu biến dạng thăng hoa:
Với vòng tay người lần theo ngày tháng
Người xóa nhòa dòng lệ ướt trên mi
Tôi nằm xuống nhìn tình tôi biến dạng
Đem loài chim buồn vỗ cánh bay đi
Loài chim buồn bay đi một cách cũng thong dong thơ mộng. Lúc tôi nằm xuống nhìn tôi biến dạng. Nằm xuống? Nghĩa là không lao xao nữa. Tôi nằm xuống là vào cõi tịch nhiên bất động. Là đáo bỉ ngạn như lai.
-------------------------------------------------------------------------------
Nguồn: Ca Dao xuất bản lần thứ nhất tại Sài Gòn năm 1969. An Tiêm tái bản lần thứ nhất tại Paris năm 1998.
Đi vào cõi thơ
(Chế Lan Viên, Nguyễn Trãi, Nguyên Sa, Đỗ Long Vân, Nhất Hạnh, Trần Trọng Kim, Chu Mạnh Trinh, Thanh Tâm Tuyền, Thế Phong, J. Leiba, Bùi Như Sơn, Phạm Quang Bình, Nhượng Tống, Dương Minh Loan)
Chế Lan Viên
Một tinh thần quân bình sáng suốt, lại cứ nói mãi chuyện điên. Yêu đời vô lượng lại nói toàn là chuyện yêu ma.
Làm sao không than khóc yêu ma một phen đã yêu đời quá nặng, và cõi đời đang bị phá vỡ tràn lan?
Người Chàm đã diệt vong, cũng như người Troyens đã diệt vong, người da đỏ đã diệt vong.
Người người kẻ kẻ mọi mọi da da đã diệt vong, và tiếp tục xô ùa nhau vào diệt vong. Thì kẻ yêu đời chỉ còn biết gọi: - Thần chết ạ, lại gần đây đối mặt! Trao bàn tay cho ta nắm bên miền…
Nguyễn Trãi
Nghĩ tới Nguyễn Trãi, không còn can đảm đâu viết nên một lời gì cả. Nguyễn Du đã vì Nguyễn Trãi mà dựng một tòa tân thanh lặng lẽ. Thy sỹ đời sau cũng vì Nguyễn Trãi mà tiếp tục làm thơ không lời. Thảm kịch nhà Nguyễn Trãi dựng lên nước mắt mọi người toàn khối bất công oan nghiệt con người phải nai lưng ra gánh vác.
Còn đâu chỗ để nêu ra vấn đề Chiến Tranh hay Hòa Bình?
Chiến tranh cũng thế!
Hòa bình cũng thôi…
Chắc chi dâu biển nỗi đời
Mà đem non nước làm lời non sông…
Nguyên Sa
Có lẽ ông Nguyên Sa nhãn giới rộng rãi, nhìn xuôi ngược quá tỏ rõ ngọn ngành dâu biển, nên lời thơ của ông trở thành nửa thực, nửa rỡn, nửa thâm thiết, nửa hững hờ. Và có một sức quyến rũ khác hẳn mọi lối thơ xưa nay.
Cả thơ, cả văn của ông, đều có như là một loại thần dược của thiên nhiên trao gửi cho trần gian bối rối. Kẻ chán đời quá độ, nên đọc thơ ông. Ấy là để nhận chân một mối thong dong tự tại của kẻ thượng đạt, mặc dù kẻ thượng đạt kia trong cuộc sống vẫn có thể lầm lỗi nhiều ít.
Đỗ Long Vân
Đỗ Long Vân không làm thơ, nhưng lại là kẻ có tâm hồn thơ sâu đậm thâm thiết rộng rãi hơn bất cứ kẻ thi sĩ nào.
Trường hợp ông cũng như trường hợp Trần Trọng Kim, Đào Duy Anh… mang tâm hồn thi sĩ dấn mình vào cuộc biên khảo ngậm ngùi.
Nhất Hạnh
Nhất Hạnh có nguồn thơ chứa chan. Chúng ta không hiểu vì lẽ gì nguồn thơ đó lại không đủ sức ngăn cản ông, khiến ông hì hục hiện đại hóa Phật Giáo Uyên Nguyên.
Trường hợp Nhất Hạnh là trường hợp một thi sỹ thiên tài bị vướng phải cạm bẫy của triết học Tây Phương.
Nhưng riêng gì Thượng Tọa Nhất Hạnh lâm vào trường hợp bi thiết đó? Còn nhiều kẻ khác. Và ngay cả một thiên tài Nhượng Tống cũng không thoát khỏi ma lực của tinh thần khoa học đời nay.
Trần Trọng Kim
Trần Trọng Kim cũng là một thiên tài thi sỹ. Ông dịch thơ Đường không đạt tới cái độ tài hoa của Tản Đà, nhưng trong mạch ngầm lại thâm hậu hơn Tản Đà.
Tản Đà bị tẩu hỏa nhập ma. Trần Trọng Kim lại là người duy nhất trong thế kỷ này, giữ vững được tâm hồn trong niềm tịch nhiên bất động giữa mọi phong ba.
Tản Đà chú giải Truyện Kiều một cách thô thiển lệch lạc quá. Trái lại Trần Trọng Kim có những ghi chú hoằng đại âm thầm.
Chu Mạnh Trinh
Bài “Tựa” Truyện Kiều của Chu Mạnh Trinh viết bằng Hán ngữ, quả thật đầy đủ thâm hậu và thừa dư tài hoa để xô Hán ngữ uyên nguyên đi thêm một bước đặc biệt.
Lời cổ kính mà tân kỳ. Bằng một cánh phấp phới, ông bay vút một cơn. Lý Bạch phải sững sờ. Trái lại, “Chinh Phụ Ngâm Khúc” bằng Hán ngữ của Đặng Trần Côn, ắt chẳng khiến một thiên tài Trung Hoa nào chịu sửng sốt.
Thanh Tâm Tuyền
Thanh Tâm Tuyền như một vị tướng lãnh gan lì, sử dụng một loại võ công chỉ riêng một mình ông đạt tới quai nhai cảnh giới.
Mọi kẻ về sau học tập võ công ấy đều thất bại.
Công lực thâm hậu, Thanh Tâm Tuyền lại còn trẻ quá, do đó, ông bước đi trên trận địa một cách quá ngang nhiên, chả bao giờ ông bận tâm tới những môn võ công khác của những đối thủ, bất kể chúng là thiên tài hay là chẳng.
Thế Phong
Thế Phong hùng hậu ngang tàng, bướng bỉnh, khó tính. Bài thơ đi ào ào, lúc chan hoà tâm sự, lúc cộc lốc phiêu nhiên.
Thơ cảm động vô cùng, mà cũng lắm phen khiến người ta cười bật ra tiếng.
Thơ ông Thế Phong là chỗ kết tụ của một tâm hồn tế nhị khôn hàn và một nỗi gàn bướng không tả. Ông làm giàu cho thi ca hiện đại không phải ít.
J. Leiba
Trong J. Leiba có một Từ Hải thời xưa yêu Thúy Kiều, lại có một Đạo sỹ giũ áo tơ tình, đi theo cánh hạc, mà vẫn ngoảnh đầu nhìn mãi phồn hoa thơ mộng ở phía sau.
Đúng là một loại Thanh Tùng Tử chịu chơi:
Phù thế đã nhiều duyên nghiệp quá
Lệ lòng mong cạn chốn am Không
Cửa thiền một đóng, duyên trần dứt
Quên hết người quen chốn bụi hồng
Nói thì có vẻ như dứt khoát lắm. Đắc đạo lắm. Nhưng thử hỏi: - Một loại Từ Hải mà đi tu, thì tu sao trót? Làm sao gột rửa cho xong trong máu me mình, cái hình ảnh em Thúy một phen kia.
Con dẫu trần tâm đã sạch rồi
Lòng từ vương một chút thương ai
Một câu thơ như thế quả là thừa sức xô ùa hết thảy mọi thi ca kim cổ đông tây đi mất hết.
Con dẫu trần tâm đã sạch rồi
Lòng từ vương một chút thương ai
Thương ai? Thương bằng lòng từ? Vương một chút?
Một chút kia mang toàn khối tình và tự và đạo và tôi và giáo và lý và phù sinh hư ảo trên trang hải phiêu bồng.
J. Leiba ắt đã có diễm phúc gặp một người yêu dịu dàng. Người yêu có lẽ mệnh bạc? Nhưng vì thuở nàng còn tồn tại bình sinh, chàng vì cớ gì đã đi xa nàng như thế? - Quyết lòng dứt áo ra đi? Thanh gươm yên ngựa lên đường ruổi rong?
Chúng ta chẳng rõ gì hết về J. Leiba. Ông chỉ gửi lại trong thơ mấy lời chân thành bi thiết nhất của một can tràng hy hữu như một niềm bí mật ngàn xưa…
Đã thế thì tôi đi cứ đi
Ta cùng hồng kiếp có vương gì
Một cười trả lại người thiên hạ
Cả tấm thân này lẫn mộng kia
… Đâu đấy mồ thu tiếng dế than
Lòng ta xao xuyến ngựa lên đàng
Hồ ly mấy bóng lan bờ cỏ
Đêm tối tìm về ngủ mả hoang.
Bùi Như Sơn
Ông không làm thơ nhiều, vì tính ông ham chơi chẳng thiết chi chuyện thơ thẩn.
Thỉnh thoảng ông gieo vài vần ghẹo ông Nguyễn Du. Đọc phải bật cười ra tiếng.
Gọi là gặp gỡ giữa đường
Họa là người dưới suối vàng quên nhau
Trở về chân lệch gót sau
Trâm đầu lọt giữa tư trào hoang mang
Gia đình ông xưa kia bị thảm họa vì kháng chiến. Mấy mươi người chỉ còn sống sót dăm ba. Thuở bấy giờ ông chỉ là một thằng bé mười một tuổi đầu. Từ đó, đối với ông đoạn trường nhân gian là chuyện cố kỳ nhiên. Chả phải nhọc lòng nghĩ tới nữa.
Một trái bom rơi trúng miệng hầm
Đã đành sự thể lạnh căm căm
Một mình ra đứng đầu khe núi
Quên mất thân mình một với trăm
Bài thơ nào của ông cũng chỉ có bốn câu. Cưới vợ, ông cũng chỉ tặng vợ có bốn câu. Hỏng thi, ông cũng chỉ có bốn câu vịnh cuộc:
Lăn lóc trường thi một trận rồi
Rụng rơi từ một tới hai nơi
Ra người thiên hạ cười chi thế
Tớ chẳng vui lòng cuộc chịu chơi
Nhớ lại thuở nhỏ đi câu cá ở bờ khe, ông viết:
Cá đi nguồn suối xa rồi
Buông câu tuổi dại mộng ngồi phồn hoa
Tình đi như gió giang hà
Nằm nghe giấc ngủ chan hòa tử sinh
Ông trao tôi một xấp giấy gồm hai chục bài. Mỗi bài bốn câu. Ông bảo:
“Các hạ chậm chậm mà đọc. Tháng sau ta sẽ trao thêm cho nhà ngươi một bài bốn câu nữa cho đủ bộ.”
Phạm Quang Bình
Phạm Quang Bình mười sáu tuổi. Nhưng vẻ mặt trông như đứa bé mới lên năm. Phạm Quang Bình là em ruột Phạm Đình Liên, một nhân vật phong nhã tài hoa đủ điệu, nhưng lại chẳng hề làm thơ, chỉ vùi đầu đọc truyện vũ hiệp quanh năm.
Phạm Quang Bình trái lại. Có năng khiếu đặc biệt phi thường toán học mà lại thích làm thơ.
Mẹ cha vất vả quanh năm
Con làm thơ mộng như tằm ăn dâu
Mai sau con sẽ bạc đầu
Mẹ cha đừng có đau sầu vì con
Đúng là một hồn thơ thanh bạch phỉ phong.
Học hành chữ nghĩa bao dong
Thương thầy nhớ bạn còn mong yêu người
Người đi lặng bóng chân trời
Quê hương phố hội còn nơi tâm tình
Đêm nay bài vở rập rình
Mùi hương phảng phất tiền trình cuối năm
Tôi chắc học sinh nào cũng phải vừa lòng với tâm sự đó của bạn thiếu niên. Nghĩ cũng lạ. Thơ vốn hồn nhiên như thế mà sao người ta cứ chạy tìm thơ ở đâu đâu.
Phố chiều tà áo thướt tha
Chân đi đếm nhịp tuổi già hơn tên
Mẹ cha chờ đợi xui nên
Cơn chiều chuộng bỗng về bên mơ màng.
Tuổi trẻ vốn làm thơ tươi sáng như thế nếu không bị những gò bó chương trình cản lối.
Tựu trường mở lớp học ra
Chị em ghé hội hè hoa thanh bình
Tháng năm đoản lộ trường đình
Dĩ nhiên mộng tưởng còn trình diện kia
Chợ chiều vang bóng về khuya
Sầu dâng lãng đãng về chia tâm hồn
Lan hương hai chị hao mòn
Nửa lo học tập nửa còn lo thi
Chúng tôi mong ngày sau sẽ còn được đọc những bài thơ như thế của đầu xanh.
Nhượng Tống
Bản dịch “Tây Sương Ký” của Nhượng Tống thật là phi phàm.
Xin trích ra đây vài đoạn hiu hắt:
Non xanh chẳng nể nang nhau
Rừng xanh thôi cũng ra mầu khẩy trêu
Mịt mùng sương bạc khói chiều
Người đi ta biết trông theo lối nào
Lên xe mà dạ xôn xao
Về sao chậm chạp đi sao vội vàng
Tà tà bóng ác xuyên ngang
Nào nghe người nói trên đường cái quan
Mông mênh đồng lúa xanh rờn
Còn nghe ngựa thét trên làn gió thu
Phong cảnh cùng tâm hồn người Trung Hoa ngày xưa hiện ra như thế. Chẳng rõ có còn làm nao nao những cô gái Ba Tàu Chợ Lớn ngày nay chăng?
Trông nhau nào thấy nhau đâu
Non xanh bốn mặt đẫm màu tà dương
Ngủ đâu đêm vắng dặm trường
Chiêm bao hồ dễ biết đường tìm nhau
Nào khi gắn bó hôm xưa
Đêm qua cách mặt bây giờ chia tay
Mùi tương tư nếm đã bao ngày
Ai hay ly biệt lại cay gấp mười
Cuốn Mái Tây còn tràn lan những hàng châu ngọc không thể nào đếm xiết… Nhưng cố nhiên không thể nào tham lam bóc lột đem kê khai ra đây. Hãy để yên cho các cô gái Chợ Lớn tự tìm lấy mà mà đeo vào khắp mình mẫy hình hài của các cô.
Bản dịch “Nam Hoa Kinh” của Nhượng Tống cũng tuyệt diệu. Vài nhầm lẫn nho nhỏ, không đáng kể bao nhiêu.
Dương Minh Loan
Và mùa thu lại trở về rồi đó
(“Hồng Cúc”)
Bài thơ này tôi tình cờ đọc được trên báo. Tưởng như một kỳ ngộ. Tôi đã quá quen với những vẻ đẹp tiền chiến, hậu chiến, siêu thực, tự do. Tôi muốn gặp một vẻ đẹp khác, thật sự phiêu nhiên tự do phóng nhiệm mơ hồ. Thì bài thơ này của ông Dương Minh Loan quả là đáp ứng.
Và mùa thu đã trở về rồi đó
Trên núi cao có từng đám sa mù
Đùng một cái, Dương Minh Loan đẩy chúng ta đối diện với một sự trạng quen thuộc mà bất ngờ của mùa thu. Xa hẳn thu Huy Cận, thu Xuân Diệu, Lưu Trọng Lư, Nguyễn Bính. Xa hẳn mọi kỹ thuật nề nếp phỉ phong.
Trên núi cao có từng đám sa mù
Tôi hờ hững tưởng tên mình chưa có
Đúng là tuyệt diệu thật.
Tôi hờ hững tưởng tên mình chưa có
Làm sao có được? Một phen trên núi có từng đám sa mù hồn nhiên như thế? Tôi hờ hững trước cái “có” hờ hững tuyệt diệu kia.
Tôi hờ hững tưởng tên mình chưa có
Chưa có? Nghĩa là rồi sẽ có cho sau. Có lúc nào? Lúc được cái gì xác định? Ấy là cái một lần mộng du.
Tôi hờ hững tưởng tên mình chưa có
Cánh hoa nào đang đợi lần mộng du
Chờ tới lúc lần mộng du được thành tựu viên dung cho một cành hoa nào kia viên mãn, thì khi đó, sẽ có cũng không muộn gì.
Và mùa thu lại trở về rồi đó
Trên núi cao có từng đám sa mù
Tôi hờ hững tưởng tên mình chưa có
Cánh hoa nào đang đợi lần mộng du
Nếu như tôi không hờ hững, nếu như tôi có o bế o bồng một hoài vọng gì được xác định rõ trong một cuộc tạm biệt, nếu tôi có mang tên Thúc Sinh, Thúy Kiều chẳng hạn, thì ắt màu quan san sẽ làm lệch mất cái tố chất nguyên thủy sơ khai của thu đi, và làm cho cuộc mộng du sẽ loay hoay thắc mắc như một vầng trăng ai xẻ làm đôi, làm ba, làm bốn, vân vân.
Tại đây, trái lại, mọi sự còn trinh nguyên – mà trinh nguyên theo nghĩa của hồi sinh tái tạo. Tái tạo theo nghĩa tự tái tạo bản thân thể mình, cho kịp với cái đà thơ ngây tuần hoàn biến hóa của vạn vật tư lự mùa thu. Tư lự một cách rất mực thi ca sáng lập, chứ không tư lự theo lối cằn cỗi suy tư gớm guốc quỷ nhà ma. Đó là điều bốn câu tiếp muốn nói một cách đơn giản ra:
Từng dấu chân in hình lên rêu đá
Từng suy tư làm đen nghĩa tương lai
Có lại đây xem nỗi buồn man trá
Hình ảnh này máu đỏ vẫn chưa phai
Có những nỗi buồn man trá, cũng có những lối suy tư kềnh càng lố bịch, vì bao giờ cũng thấy mình trang nghiêm và do đó mà dày xéo mọi thứ hồn nhiên máu đỏ.
Nhưng lời thơ nói lên sự đó một cách thong dong bát ngát hơn nhiều.
Kỷ niệm ấy trôi theo cơn nước lũ
Tôi bâng khuâng nhìn ngày tháng khô dần
Khóc thương mình hồn đau như có nụ
Rồi trở về cô độc giữa thanh xuân
Hồn đau như có nụ? Nụ ấy sẽ nở ra hoa gì? Sẽ phủ hết một vườn thanh xuân? Khóc thương mình hồn đau như có nụ? Chắc là nụ đoạn trường chẳng lẽ? Ông Nguyễn Du bảo đích thị nụ hoa đoạn trường. Ông Dương Minh Loan lại mỉm cười lắc đầu, không chịu xác định. Ông nói nửa vời, mà ráo riết. Ông lửng lơ mà đi tới cùng. Ông nói sự cô độc mà nghe như thong dong đi du xuân ngó bướm.
Khóc thương mình hồn đau như có nụ
Rồi trở về cô độc giữa thanh xuân
Cái giọng nói riêng biệt đó là cốt cách của những kẻ có trăm năm đạo hạnh đầy đủ để đốn ngộ thượng thừa. Mối buồn biến chất, tình yêu biến dạng thăng hoa:
Với vòng tay người lần theo ngày tháng
Người xóa nhòa dòng lệ ướt trên mi
Tôi nằm xuống nhìn tình tôi biến dạng
Đem loài chim buồn vỗ cánh bay đi
Loài chim buồn bay đi một cách cũng thong dong thơ mộng. Lúc tôi nằm xuống nhìn tôi biến dạng. Nằm xuống? Nghĩa là không lao xao nữa. Tôi nằm xuống là vào cõi tịch nhiên bất động. Là đáo bỉ ngạn như lai.
-------------------------------------------------------------------------------
Nguồn: Ca Dao xuất bản lần thứ nhất tại Sài Gòn năm 1969. An Tiêm tái bản lần thứ nhất tại Paris năm 1998.
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)