20/3/13

Nói Với Tuổi Hai Mươi - Lý tưởng

 



Nói Với Tuổi Hai Mươi  (3) 
 
          Thiền sư Nhất Hạnh 





Lý tưởng 


Lý tưởng không phải chỉ là sản phẩm của lý trí như Phạm Công Thiện nói. Lý tưởng là sản phẩm của những ước vọng từ cạn nhất đến sâu nhất của con người và là động lực giúp con người tự thực hiện. Bởi vậy ta không thể nói như người trai trẻ họ Phạm rằng: «Con người hồn nhiên không có lý tưởng. Chỉ khi nào người ta mất mát rồi thì người ta mới tạo ra lý tưởng để tự đánh lừa mình bằng sự phiêu lưu vô định trong thế giới tư tưởng. Lý tưởng là những sản phẩm của lý trí: lý trí là ký ức, ký ức là quá khứ, là kinh nghiệm; kinh nghiệm đánh mất hồn nhiên » .


Chúng ta không nên nghĩ rằng lý tưởng là một giả tạo của tư tưởng để con người tự đánh lừa mình. Cũng không nên nghĩ rằng lý tưởng thì bao giờ cũng là đẹp đẽ. Lý tưởng biểu hiện ước muốn của con người và ước muốn ấy có khi không chính đáng. Không chính đáng ở đây không có nghĩa là trái chống với một nền đạo đức hay luân lý nào. Không chính đáng ở đây chỉ có nghĩa là không có tính cách xây dựng, lành mạnh, và còn đe dọa phá hủy những gì đẹp đẽ và mầu nhiệm của hiện hữu.


Tôi muốn định nghĩa lý tưởng là ước vọng, và là nhu cầu đạt tới sự thực hiện những ước vọng của một người hoặc một nhóm người. Vậy thì lý tưởng là một cái gì phải có đối với con người, bởi vì ít nhất và cạn nhất  con người cũng muốn có cơm ăn khi đói, áo mặc khi rét. Xa hơn, con người  còn muốn được thương yêu khi cô độc, được khám phá khi óc tò mò bị kích thích. Về sinh lý, chúng ta đều được cấu tạo như nhau, hoặc nói cho đúng, tương tự như nhau. Mà về tâm lý cũng vậy bởi vì tâm lý dựa trên cơ sở sinh lý. Cái hợp thể ngũ uẩn của chúng ta (ngũ uẩn: sinh lý, cảm giác, suy tưởng, ý chí và nhận thức) trong lúc hiện sinh cũng cần có những điều kiện để được nuôi dưỡng và phát triển như bất cứ một hiện tượng nào khác, và có lẽ hơn bất cứ một hiện tượng nào khác. Cái hợp thể ngũ uẩn đó, như vậy, có những nhu cầu không bao giờ cạn của nó, và tôi gọi hình ảnh và động lực đạt tới sự thỏa mãn những nhu cầu ấy là lý tưởng.


Người chuyên môn đi tìm lạc thú cũng có lý tưởng của mình. Nếu hằng ngày, tôi có thể nghe những câu tương tự như «đó là một nơi cắm trại lý tưởng» hay «đó là một cái bar lý tưởng» hoặc «đó là một thứ rượu lý tưởng » thì tại sao ta không thể định nghĩa lý tưởng như là những mong ước thỏa mãn những nhu cầu của chúng ta. Có một điều cần nhớ là những nhu cầu của ta không bao giờ có thể được thỏa mãn trọn vẹn và khi nói đến lý tưởng là ta nghĩ đến những gì chưa được thỏa mãn ấy. Tôi thấy bi kịch của một kiếp người là ở chỗ con người không sống được trọn vẹn cuộc đời của mình, chỉ thấy được một số nhu cầu rất cạn hẹp của ngũ uẩn mà không thấy được những nhu cầu thâm sâu nhất của ngũ uẩn. Do đó chúng ta thấy có sự lệch lạc đáng tiếc; có khi ta đòi hỏi ước mong những gì thực sự bản thể ta không cần đến và ta không biết đòi hỏi ước mong những gì mà bản thể ta, trong phần sâu thẳm và vĩ đại của nó, đang cất tiếng kêu gọi. Nếu ta biết hướng sự sống ta về những lý tưởng (tôi nhắc: những nhu cầu) này thì ta có thể phát triển con người của ta đến mức tốt đẹp và vĩ đại nhất mà nó có thể đạt được.


Có những nhu cầu do ta tự tạo, những nhu cầu này có vẻ giả tạo và không thực sự cần thiết. Ví dụ thói nghiện rượu hay thuốc phiện. Ta tập cho ngũ uẩn ta một thứ nhu cầu đề ngũ uẩn ta quen với nó, đòi hỏi nó, thiếu thốn nó. Và một khi sự đòi hỏi và thiếu thốn ấy trở nên độc tài rồi thì ta sẽ mắc kẹt vào nó, không thể gỡ ra được nữa. Rượu và thuốc phiện là những gì không thực sự cần thiết cho sự tồn tại phát triển của hợp thể ngũ uẩn, trái lại, chúng phá phách và tàn hại hợp thể ngũ uẩn. Ta gọi là nhu cầu không chính đáng những thứ nhu cầu không thực sự cần thiết, những thứ nhu cầu tàn hại sự sống, ngăn cản đà phát triển của một hợp thể ngũ uẩn lành mạnh. Và như thế những nhu cầu này không thực sự là những nhu cầu. Thực sự là nhu cầu thì chỉ có những gì giúp ta đạt tới sự mạnh khoẻ, bình tĩnh và an lạc của hợp thể ngũ uẩn.


Ta biết rằng có những người nương vào nghệ thuật (nhạc, thi, họa, v.v.. ) để tự đưa mình đến một mức sinh hoạt thực sự văn minh, thực sự cao đẹp. Có những người không bao giờ có thể thưởng thức được một bản nhạc tâm linh để cho tâm hồn mình vươn lên cao vút và trong sáng như sao trời mà chỉ có thể thấy được sự rung cảm rạo rực nơi những bản nhạc sầu đau hay cuồng loạn. Bằng bất cứ một bộ môn nghệ thuật nào, người ta cũng có thể đạt tới sự phát triển đến tận cùng bản ngã của mình. Yêu thương cũng là một nghệ thuật. Khám phá cũng là mộ nghệ thuật. Bằng con đường yêu thương hoặc bằng con đường  khám phá, ta cũng đạt tới sự phát triển toàn diện bản ngã của chúng ta.


Ta thấy có những người không thể nào ngồi yên khi nghe nói đến một tai nạn vừa xảy ra cho một người bạn. Dù trời mưa rét, dù đêm khuya, những người này cũng tự nhiên rời bỏ gian phòng ấm cúng của mình để lặn lội đi trong mưa lạnh tìm tới nhà bạn. Tôi không muốn cho đó là mệnh lệnh của bổn phận, của đạo lý. Tôi muốn cho đó là tiếng gọi của một nhu cầu. Nhu cầu của thương yêu, của sự bình yên tâm hồn. Nếu không bỏ gian phòng ấm cúng mà ra đi trong mưa lạnh, người kia sẽ cảm thấy thiếu thốn. Thiếu thốn vì không đáp lại được nhu cầu thương yêu, vì không đáp lại được nhu cầu của sự bình yên tâm hồn. Những người như thế đã tìm thấy những loại nhu cầu có thể giúp họ phát triển con người của họ về hướng Chân Thiện Mỹ.


Có những người đi làm việc xã hội là để giết bớt những thì giờ trống trải, và có những người khác vì nhu cầu của thương yêu, vì nhu cầu của ý thức trách nhiệm. Thỏa mãn được những nhu cầu này, người ta cũng cảm thấy an lạc và hạnh phúc, và như thế, phần thưởng cũng sẽ rất ngọt ngào. Thường tình ai cũng thấy ngồi trong  căn phòng ấm cúng là dễ chịu hơn đi trong mưa lạnh, nhưng một khi nhu cầu yêu thương và trách nhiệm đã trở nên rõ rệt, thì nhu cầu nhỏ bé của sự làm biếng sẽ bị mờ đi và trở nên không quan trọng nữa.


Ở mỗi con người đều có nhu cầu của sự phát triển toàn diện và tuyệt đỉnh của con người ấy. Trong đạo Phật nhu cầu kia được gọi là Phật tính (bởi vì Phật là gì, nếu không phải là sự phát triển toàn diện của con người đến mức cao nhất?) Nhu cầu kia thật là một tiếng gọi tha thiết nằm ngay trong bản chất của hợp thể ngũ uẩn. Nghe được tiếng gọi ấy là ta có thể bỏ dần được những nhu cầu giả tạo, những nhu cầu không thực sự là những nhu cầu, để đi tới. Đi tới đây nghĩa là phải ăn, phải ngủ, phải chơi, phải học, phải lo lắng, phải thương yêu, phải hành động. Ăn, ngủ, chơi, học, lo lắng, thương yêu và hành động thế nào để thân thể khỏe mạnh, để hào quang của một hợp thể ngũ uẩn có thể tỏa chiếu đèn những sinh hoạt của các hợp thể ngũ uẩn khác. Em đừng nhìn tôi vớ icặp mắt e ngại như thế. Tôi không có ý muốn bảo em hãy ăn chay, hãy tụng kinh, hãy từ bỏ hết những sinh hoạt vui và trẻ của em đâu. Trái lại tôi muốn em được tự do, tự do phát triển để được thực sự sung sướng. Người ta không có thể thành Phật bằng cách sống một cuộc đời cực khổ, trái lại người ta chi có thể thành Phật bằng cách sống một cuộc đời thực sự sung sướng. Mà để được thực sự sung sướng, ta phải biết những gì là nhu cầu đích thực của ta và những gì là nhu cầu không đích thực của ta.


Tôi lấy ví dụ vấn đề ăn. Cố nhiên là em có thể ăn bất cứ thứ gì các em muốn, bởi vì em có tự do. Cũng như Gide nghĩ đã là những enfants de la terre thì ta có quyền và có thể ăn bất cứ một thứ nourristures terrestres nào. Lẽ cố nhiên. Nhưng vấn đề không giản dị như thế. Ta còn xem coi lục phủ ngũ tạng của ta có thể chấp nhận được nhưng món ăn nào. Để đừng làm hại tới sự an lành và phát triển của ngũ uẩn, em không thể ăn những món ăn có tác dụng tàn hại và gây rối loạn cho ngũ uẩn em. Thế thôi. Và em phải tự lựa chọn lấy món ăn. Nếu cần, em nhờ sự giúp đỡ của một bác sĩ mà em tin cậy.


Em có quyền ăn, nhưng mà nếu vì ăn phải một món ăn không thích hợp với tì vị em có thể đau bụng, và em phải ráng chịu. Đó là ý nghĩ của tự do, vì tự do không thể không đi đôi với tinh thần trách nhiệm. Tự do mà không có trách nhiệm thì không còn là tự do mà là tự hoại, mà là phá hoại.


Hãy ăn những gì ngon lành, thực sự ngon lành, bây giờ và cả ngày mai nữa, cho khẩu vị của em, cho ngũ uẩn của em. Có những thức ăn bổ dưỡng, giữ gìn cho em một sức khỏe, một sự  an lành, một sự tráng kiện thân thể cũng như tâm hồn. Có những món ăn không ngon và không bổ dưỡng, nhưng ảo giác của em có thể cho là ngon và bổ dưỡng. Những món ăn ấy chỉ có tác dụng phá hoại. Có những món ăn thực sự ngon lành và bổ dưỡng mà chỉ vì không quen hay chưa quen, em  cho chúng là dở và không cần thiết.


Đánh răng chẳng hạn, không phải là một nhu yếu tốt đẹp và chính đáng sao. Thế mà một số những người dân quê chưa quen, cho đó là một kỷ luật khó chịu, một cực hình. Đối với em, người đã được dạy đánh răng sau bữa ăn từ thuở nhỏ, thì đánh răng là một nhu cầu cần thiết. Em thấy khó chịu thiếu thốn mỗi khi ăn xong mà không có bàn chải đánh răng. Đó, em đã tìm thấy thêm một nhu cầu chính đáng nữa rồi, bởi vì đánh răng giúp cho em giữ gìn thêm được sự tráng kiện của thân thể, ngăn cản được sự sinh sôi nảy nở của một số không nhỏ những vi trùng trong miệng.


Tìm thấy được lý tưởng của mình tức là tìm thấy được con đường do đó mà mình có thể đạt tới sự phát triển toàn diện con người của mình. Và tìm thấy được lý tưởng tức là tìm thấy được hạnh phúc. Sở dĩ ta thấy những lạc thú cuồng loạn bao giờ cũng chứa đựng trong chúng tính chất bi thương và chết chóc là vì chúng không đích thực là những nhu cầu cần thiết của con người Những nhu cầu cần  thiết của con người, từ những nhu cầu  của thân thể cho đến những nhu cầu của tình cảm và trí tuệ, đều mang tính cách trong sáng, lành mạnh, xây dựng. Cho nên bí quyết thành công của một đời người là ở chỗ biết được những  gì mình quả thực thiếu thốn và những  gì mình quả thực không cần đến. Mà những gì mình quả thực thiếu thốn ấy không phải là ít ỏi, nhỏ bé. Đó là những chất liệu cần thiết để bảo vệ, nuôi dưỡng và phát triển của một con người. Thiếu thốn một số thực phẩm nào đó thì hợp thể ngũ uẩn kia không thể trở nên một con người xứng đáng theo nghĩa của nó. Được nuôi dưỡng bằng một số thực phẩm độc hại nào đó hợp thể ngũ uẩn kia trở nên khô héo tàn tạ và không thể là một sức sống mạnh khỏe vươn lên.


Thân thể, cảm giác, suy tưởng ý chí và nhận thức, mỗi thành tố ấy của con người đều có những nhu cầu của nó. Ta không khinh thị thành tố nào trong hợp thể ngũ uẩn và cũng không khinh thị bất cứ một nhu cầu nào của bất cứ một thành tố nào. Ta chỉ cần biết rõ ta là ai, ta là gì; chỉ cần biết đặc tính và thực trạng của thân thể, cảm giác, suy tưởng, ý chí và nhận thức ta để có thể tìm ra những gì hợp thể ngũ uẩn ta quả đang cần đến để được bảo vệ, nuôi dưỡng và phát triển. Không một hợp thể ngũ uẩn nào giống một hợp thể ngũ uẩn nào, vì vậy nhu yếu của mọi người không thể hoàn toàn giống nhau được Do đó mỗi người phải tự tìm cho mình một lý tưởng thích hợp. Khi ta nói rằng hai người kia cùng có một lý tưởng, ta không nghĩ rằng tất cả những ước vọng, suy tư, sinh hoạt của hai người hoàn toàn giống nhau. Ta chỉ có thể nói rằng trong ước vọng, suy tư và sinh hoạt của họ có những điểm giống nhau và điều đó đã đưa họ tới gần nhau, nâng đỡ và bổ túc cho nhau. Cá tính của con người chính là do ở những điểm khác nhau kia tạo ra. Tuy vậy không ai có thể khác ai một cách tuyệt đối, bởi vì chính những cấu tạo sinh lý và xã hội của con người đã không thể khác nhau một cách tuyệt đối rồi.


Bởi vậy khi ta có cảm giác cho rằng không ai giống ta, ta hoàn toàn khác biệt với kẻ khác, ta làm bằng một thứ bột ( pâte ) khác hẳn với thứ bột làm nên những kẻ khác, cảm giác ấy chỉ là ảo giác. Sự thực là tuy ta không giống ai, ta cũng là con người, là một hợp thể ngũ uẩn - và do đó ta có những điểm giống với kẻ khác. Và chính căn bản đó đảm bảo cho sự cảm thông chắc chắn là có thể có giữa người và người. Niềm tin này đánh tan được mặc cảm và ảo giác cô đơn nhất là thứ cô đơn bị nhận thức chủ quan của ta đây tới tuyệt đối nghĩa là tới mức bi thảm. Ta chắc chắn có thể có những ước vọng và nhận thức chung với một người khác hay một nhóm người khác, điều này ta phải công nhận. Chia xẻ với họ những ước vọng và nhận thức của ta, ta sẽ không còn cô đơn nữa Cuộc đời đáng sống  trước hết là vì ta có bạn, ta có những con người sống chung quanh ta. Sở dĩ người là nguồn đau khổ cho người là tại vì người đã vô minh, nghĩa là đã không sáng suốt để trông thấy nhân tính nơi người. Cũng chính là vì người đã tự nhốt mình trong chiếc vỏ cứng của tỵ hiềm của oán thù. Và cuối cùng chính là vì người đã không biết rõ được mình, không biết rõ được những gì mình đích thực đang thiếu thốn.


Có người nói rằng đời chỉ đáng sống khi có lý tưởng , nếu không có lý tưởng thì ta phải tạo ra một lý tưởng, cho dù một ảo tưởng cũng được. Tôi thấy như thế thì bi thảm quá. Tại sao ảo tưởng lại có thể là lý tưởng được? Có những lý tưởng khó thực hiện và vì những điều kiện khó khăn hay trái ngược người ta có thể hoặc chưa hoặc không thực hiện được; không phải vì vậy mà lý tưởng đó được gọi là ảo tưởng. Nói rằng phải tạo ra một ảo tưởng để sống tức là cho rằng thực tại vốn không hàm chứa một cái gì đích thực là chân, là thiện, là mỹ. Vì con người chỉ có thể sống trong niềm tin rằng cuộc đời còn có một cái gì thực, lành và đẹp cho nên nếu quả thực cuộc đời không có một cái gì thực, lành và đẹp thì ta phải tạo ra những ảo tưởng về thực, lành và đẹp cho cuộc đời để mà sống trong cuộc đời. Tôi không chịu cái nhìn bi thảm đó bởi vì tôi, và tôi biết còn có rất nhiều người khác nữa trong đó có lẽ có em - tôi biết chắc rằng cuộc đời quả thực có những cái thực, lành và đẹp. Những cái ấy có nhiều hay ít là do con mắt của chúng ta, do trái tim của chúng ta. Có những con đường thật đẹp với hai hàng cây thẳng cao vút mang ánh nắng tươi xanh trên tàn lá của chúng: tôi biết em có lần đã thấy chúng đẹp, nhưng có thể trong liên tiếp năm sáu tháng trời em không nhìn thấy chúng chỉ bởi vì em đã đi dọc theo những con đường ấy với bao nhiêu khổ sở lo âu.


Tôi thấy chính hợp thể ngũ uẩn của em cũng đã là một cái gì mầu nhiệm, quý giá và linh thiêng. Tôi biết có khi em chán ghét thân thể em, chán ghét cảm giác, suy tưởng, ý chí và nhận thức của em. Có khi em coi hợp thể ngũ uẩn em như một vũng bùn


lầy lội nhầy nhụa, và em muốn chấm dứt sự liên tục của dòng ngũ uẩn ấy. Thực ra, chỉ vì nhận thức của em mà thôi. Hợp thể ngũ uẩn kia có thể là một vườn hoa, một ngôi đền thờ, và cũng có thể là một địa ngục, một tử thi hôi hám, điều đó là tùy ở em, ở nhận thức của em. Tất cả chỉ là một vấn đề nhận thức. Em không cần chán ghét hủy bỏ em, chán ghét hợp thể ngũ quan em. Trong bản chất, nó không phải là một cái ổ tội lỗi. Tại vì em mà nó có vẻ như thế. Tôi rất ghét những ai coi thường hợp thể ngũ uẩn mình và lại càng ghét những ai khinh thị thân xác của mình. Khổ hạnh, ép xác, cho rằng xác thân là tội lỗi, điều đó thật là sai lầm; tôi cho làm như thế là ngu dốt, là khờ dại. Ngày xưa Phật có nói; người nào giác ngộ thì tự nhiên trở thành Như Lai, ăn cơm Như Lai, mặc áo Như Lai, ngồi ghế Như Lai, ở nhà Như Lai. Hành hạ xác thân là một lỗi lớn, chính Phật đã mắc phải và đã chừa bỏ. Nhận biết thân thể em, nhận biết cảm giác, suy tưởng ý chí và nhận thức em, em sẽ thấy chúng quả thực cần gì, quả thực thiếu gì, quả thực muốn vươn tới đâu. Thấy được như thế rồi thì hợp thể ngũ uẩn của em tự khắc hướng về sự sống, hướng về phát triển, hướng về Chân, Thiện, Mỹ. Em xem lại tổ chức tinh vi của mắt em. Rồi em sẽ thấy rằng được nhìn trời xanh, được xem hoa nở, được thấy nụ cười cha mẹ, được ngắm đôi má hồng của em thơ... tức là một diễm phúc tuyệt vời. Nếu thân thể em không phải là một thực thể mầu nhiệm và quý giá thì không bao giờ em thấy được thể hiện nơi em diễm phúc tuyệt vời đó. Hãy bảo trọng lấy thân thể em, tâm hồn em, bởi vì đó là nguồn của chân lý của Thượng Đế, của Chân Như, của Như Lai.


Có người chê trách em không có lý tưởng, nói nhỏ to với nhau rằng em không có lý tưởng. Tôi không tin có chuyện đó. Với sức sống trào dâng của tuổi hai mươi, em không có lý tưởng thì xác chết nào mới có lý tưởng? Một con đường không thể không đưa đến đâu. Một sức sống như em, như hợp thể ngũ uẩn của em, không thể không có lý tưởng. Em quả tình đang vươn tới. Nhưng vì em thiếu bình tĩnh thiếu nhận thức nên sự vươn tới ấy chưa được chỉnh đốn Sinh lực của em tràn đầy và, chưa được nhận thức em hướng dẫn đúng mức, đã khiến cho em khi lệch sang bên này một chút khi lạc sang bên kia một chút. Em chỉ cần nhìn lại, em chỉ cần kiểm soát kịp thời là sức sống kia sẽ vươn lên phía mặt trời. Muốn được như thế em phải sử dụng chính trí tuệ và kinh nghiệm em, đồng thời phải thiết lập cảm thông và đối thoại với những người khác, những người cùng tuổi và những người khác tuổi.


Em không cần tạo ra lý tưởng. Lý tưởng vốn sẵn có trong em, cũng như nơi đến có sẵn trong con đường. Phải kịp thời kiểm soát hướng đi của mình, điều khiển con thuyền của mình. Phải kịp thời sử dụng năng lực dồi dào của sự sống em một cách hợp lý. Năng lực sung túc của em cần phải được sử dụng, không thể để cho chúng trở nên thừa thải. Nếu không, trong hôn mê, trong ngờ vực chán nản, em sẽ sử dụng  chúng, tiêu xài chúng trong những trường hợp và ở những địa vức bệnh hoạn. Thay vì để bảo vệ nuôi dưỡng và phát triển em, năng lực ấy sẽ làm suy nhược em, phá phách em, tiêu diệt em. Ngoài những nhu cầu tồn tại, hợp thể ngũ uẩn em còn có những nhu cầu phát triển và trở thành. Mà chỉ khi nào có phát triển có trở thành em mới tìm thấy an lạc hạnh phúc, em mới thấy được như con cá trong nước, con chim trên trời: trong những nhu cầu phát triển và trưởng thành ấy tôi thấy hai nhu cầu khám phá và thương yêu là những nhu cầu mãnh liệt nhất, bền bỉ nhất rất cần cho sự phát triển của hợp thể ngũ uẩn em để em có thể trở thành vĩ đại và siêu tuyệt.


Sự khát khao hiểu biết nơi em, cũng như nơi tôi và nơi mọi người, là một sự thực, một bản tính của hợp thể ngũ uẩn. Nếu sự tò mò, nếu nhu cầu hiểu biết và khám phá không biểu hiện nơi em là tại vì em bị che lắp bởi những chướng ngại vật của cuộc đời,


bị trĩu nặng bởi những hành lý ốm đau không ích lợi cho bản thân em. Trong trường hợp này sự phát triển và trở thành của em - ta gọi là sự sống, quả thực bị ngăn chận lại rất nhiều. Em phải khơi mở, phải giải phóng cho sự khát khao hiểu biết và khám phá vốn nằm tiềm tàng trong con người em. Vũ trụ và con người cần được tìm hiểu, được khám phá. Phải tìm tới sự thực, dù sao em cũng phải tìm tới sự thực; nhu yếu này nơi nhà bác học, nơi nhà thám hiểm cũng như nơi người học giả được hiển lộ một cách rất hiện thực. Nơi nhà đạo học, sự khát khao này gọi là sự khát khao đạt đạo hay chứng đạo. càng khám phá, càng tìm tòi, càng hiểu biết, ta càng thấy ta lớn hơn lên, gần gũi hơn lên với vũ trụ với con người, ta càng thấy rõ sự liên hệ mật thiết giữa ta với vũ trụ, với con người, ta càng thấy rõ được hòa điệu đại đồng của sự sống Ta sẽ không còn bị giam hãm trong một cái ta, một cái vỏ chủ quan bé nhỏ và lầm lạc. Em sẽ tìm thấy sự sống và sẽ sung sướng tìm thấy mình trong thực hữu mầu nhiệm.


Sự khao khát yêu thương nơi em cũng là một sự thực, một bản tính của hợp thể ngũ uẩn em. Em không thể sống nếu không yêu thương. Nếu em có cảm giác rằng em không thương ai, em ghét tất cả mọi con người và cả chính bản thân em, thì đó là tại vì em chưa biết em là gì. Cảm giác đó chỉ là ảo giác. Sự thực, em rất cần thương yêu và được thương yêu, cũng như cây lá cần đèn ánh sáng mặt trời. Bản thể em lên tiếng gọi em thương yêu bảo trọng lấy em và thương yêu bảo trọng tất cả những gì hiện hữu, những gì đang vươn lên như sự sống mầu nhiệm.


Hợp thể ngũ uẩn em cần được hiện sinh, cần được phát triển, em không thể không yêu thương bảo trọng nó. Em không thể xử tệ với nó, không thể khinh xuất, không thể để nó phải ốm yếu, suy nhược, hư hỏng. Và những sức sống quanh em cũng vậy. 


Người sinh thành ra em, người cùng một huyết thống với em, một tông tộc với em, một nòi giống với em cũng cần đến sự bảo vệ, tôn trọng và yêu thương của em. Em có trách nhiệm về sự đau khổ của họ. Nhìn thấy họ, sau khi nhìn thấy em, em sẽ thấy nhu yếu thương yêu họ là một nhu yếu thiết thực không kém gì nhu yếu thương yêu lấy chính em. Em sẽ thấy rằng hạnh phúc không phải là sự mê mệt đi tìm những khoái cảm chốc lát (những khoái cảm ác liệt, tay sai của sự chết) thường có tác dụng tiêu phá hoại hủy con người toàn diện của em, mà là thương yêu. Không thương yêu tức là không sống. Càng biết thương yêu, ta càng thấy ta lớn hơn lên, gần gũi thêm lên với vũ trụ với con người, ta càng thấy sự liên hệ mật thiết giữa ta với vũ trụ, với con người, ta càng thấy rõ được hòa điệu đại đồng của sự sống. Ta sẽ không còn bị giam hãm trong một cái ta, một cái bản ngã bé nhỏ và ích kỷ. Em sẽ sung sướng tìm thấy mình trong thực hữu mầu nhiệm.


Sức sống rào rạt của em, nếu được hướng về khám phá và yêu thương sẽ giúp em thực hiện một nhân cách càng ngày càng vĩ đại càng đẹp đẽ. Dọc đường em đi, hoa trí tuệ và tình thương sẽ nở, có thể là trên chông gai, nhưng là những bông hoa đẹp nhất của hiện hữu, những cống hiến quý giá nhất của một cuộc đời.


Em là một kiến trúc kỳ diệu cũng như vũ trụ là một kiến trúc kỳ diệu; ngày nào trí tuệ và trái tim em nhận thức được điều đó một cách xác thực và thực nghiệm, ngày ấy em thực hiện được thiên đường, hái được bông hoa tươi đẹp của chân như.

16/3/13

Ngu hơn lợn



T/S Alan Phan

17 Mar 2013

“Đừng bao giờ đánh giá thấp khả năng và quyền lực của sự ngu xuẩn” (Robert Heinlein)
Một giáo sư văn học cho tôi biết là 80 năm trước, khi nhìn xã hội, cụ Tản Đà đã phải thốt ra, “cũng bởi thằng dân ngu quá lợn”. (câu sau không được phép chép). Vấn đề này thì tôi đồng ý hoàn toàn. Con người chắc chắn không thể nào sánh bằng …lợn.

Giữa người và lợn…

Thứ nhất, lợn không biết giết đồng loại, đôi khi chỉ vì ghen tức hay giận dữ (dù có thể ngụy trang dưới danh từ lý tưởng hay chủ nghĩa hay lợi ích của toàn dân). Dù mang tiếng tham ăn, nhưng lợn không mất ngủ hằng đêm để suy nghĩ về những âm mưu thủ đoạn để cướp thêm của cải, để giàu hơn, để chia lại cho đám con ông cháu cha đang sống đời ăn bám. Lợn không có hoang tưởng phải làm lãnh tụ, thu tóm quyền lực, để phô trương những thành tích, huân chương, bằng cấp giả…cho sách sử ghi chép. Và tôi chắc chắn là dù bọn lợn phải vào lò sát sinh khi con người nuôi đủ cân, chúng cũng không…ngu xuẩn làm kiến nghị xin cho sống thêm vài ngày để trì hoãn đau đớn hay để đợi chờ một phép lạ nào.

Ngoài ra, chắc ít người biết, trong một khám phá khoa học, lợn có khả năng “làm tình và đạt đỉnh” hơn 100 lần mỗi ngày, không cần Viagra. Tôi chắc ông Hiệu Trưởng gì đó ở Bắc Giang hay ngài tỷ phú 80 tuổi ngoài Vũng Tàu cũng phải chào thua…các chú lợn.

Tóm lại, nhìn lại đời mình sau 68 năm, tôi phải chấp nhận là không những mình ngu hơn lợn, mà còn không biết …hưởng thụ là gì?

Lợn trí thức…

Tuần rồi, đi ăn tối với một Việt Kiều, nghe anh tâm sự về chuyện khôn ngu của con dân xứ Đại Cồ Việt.

Anh này trước 1975, thuộc thành phần tranh đấu chống VNCH và Mỹ, một trong những lãnh tụ sinh viên nổi tiếng. Sau 1975, anh hờ hởi đón mừng đoàn quân “giải phóng” vào Saigon và hợp tác chặt chẽ với chính quyền “cách mạng” mới. Họ trả công cho anh bằng một chức “ngồi chơi xơi nước” tại một ủy ban kinh tế của Thành Ủy. Quen lối phê bình mạnh miệng trong sự tranh cãi tự do thời Mỹ Ngụy, anh bị “cách mạng” nhốt 2 năm ở Chí Hòa. Sau khi cải tạo tư tưởng để nhất quán với Mác Lê Mao, họ thả anh ra và anh vượt biên qua Mỹ làm tên tư bản “giẫy chết”. Anh đi học lại và thành công tốt trong sự nghiệp sau đó.

Lần rồi, về Việt Nam, anh ghé thăm một bạn cũ, đã sát cánh cùng anh xuống đường tranh đấu chống Mỹ Ngụy và đem lại một trang sử mới cho Việt Nam. Bạn anh, cũng khá nổi danh, bị để ý, thẩm cung và theo dõi vì những tham dự trong các cuộc biểu tình gần đây và các bản kiến nghị liên tiếp về…chuyện người ta và người lạ.

“Anh nói với thằng bạn:’ mày là một sỉ nhục của trí thức. Phạm đến 3 lần “đại ngu” trong đời. Lần thứ nhất, nghe lời tuyên truyền, vác ngà voi đi giúp Đệ Tam Quốc Tế thực hiện ý đồ cùa Stalin, Mao, gây cảnh bể dâu cho cả triệu người vô tội. Lần thứ hai, không ở trong phe nhóm, không phải là bà con thân thuộc, không có gốc rễ mà lại mong chúng ban cho quyền hành chức vị. Thất vọng rồi chửi rủa phản kháng, ngu thêm một lần nữa. Lần thứ ba, gần đất xa trời, tóc bạc răng long, xương khớp đi không nổi, lại bầy đặt xuống đường phản kháng, viết kiến nghị năn nỉ xin con sói tự biến thành …con cừu’.

Một thằng có nhiều bằng cấp giả, mà ngu đến 3 lần trong một đời người thì coi như bó tay.”

Tư tưởng Mao Trạch Đông

Dù ngu hơn lợn, tôi cũng nhận chân ra rất sớm nhiều điều tàn nhẫn về thực trạng con người và xã hội. Tôi tránh xa chính trị vì Mao Trạch Đông đã nói rất đúng là quyền lực chánh trị khởi nguồn từ họng súng. Hiện nay, tôi chỉ có một khẩu súng… đã hết hạn xử dụng, chỉ để hù con nít. Cho nên, khi nói đến các vấn nạn xã hội và kinh tế mà có dây vấy đến chánh trị, thì cũng là vô tình, vì những liên quan hữu cơ giữa các hiện tượng. Khi các bạn trách móc là không dám “mó dái ngựa” thì tôi cũng cười trừ. Tôi có ngu hơn lợn…nhưng chắc chắn là tôi không điên.

Tôi đã nói là xứ Mỹ may mắn có những lãnh tụ ngày xưa biết kiến tạo một hiến pháp phân quyền để các hoạt động của chánh phủ kiểm soát lẫn nhau và người dân có thể an tâm theo đuổi hạnh phúc của cá nhân và gia đình mà không bị những can thiệp thô bạo của chánh phủ cản trở hay hủy diệt. Tuy nhiên, cái khôn ngoan đó cũng cần sự che chở của những họng súng.

Mềm cũng cần cứng…

Nếu không có lực lượng vũ trang hùng hậu của một đế chế siêu cường, thì cái lý tưởng dân chủ, hay nền kinh tế thị trường sáng tạo…đã bị những “thế lực thù địch” chôn vùi.  Tiền bạc hay tài sản mềm chỉ có thể ổn định dưới một sức mạnh quân sự. Tôi vẫn cười khi nghe các ngài khoa bảng tiến bộ của Âu Châu khoe khoang về văn minh dân sự của xã hội mình so với những áp lực ganh đua trắng trợn của đời sống Mỹ. Họ không hiểu rằng nếu không có ô dù che chở về quân sự của đế chế Mỹ, thì nhân dân họ đã làm bồi cho KGB của Nga và Đông Âu 50 năm về trước; hay các nhóm Hồi Giáo cực đoan chắc đang đốt phá mọi nhà thờ của Thiên Chúa Giáo trong lúc này.

Ngay cả Đông Nam Á, nếu không có cân bằng quyền lực giữa Mỹ và Trung Quốc, tôi tin là đường “luỡi bò” sẽ thành đường “đuôi rồng”. Và các trường dậy “tiếng lạ” sẽ phổ thông hơn các quán cà phê…của Trung Nguyên hay Starbuck.

Không biết thi sĩ nào đã viết…” Kiếp sau xin chớ làm người…Làm con lợn béo..giữa chuồng mà tru…ú ù u…omg (oh my God)…”

Alan Phan

T/S Alan Phan là tác giả của 9 cuốn sách về thị trường mới nổi, giảng viên thỉnh giảng tại các đại học Mỹ và Trung Quốc, và doanh nhân có 44 năm làm ăn tại Mỹ và Trung Quốc. Web site cá nhân của ông là www.gocnhinalan.com.

15/3/13

Ừ nhỉ, đi Mỹ làm (quái) gì cơ chứ?


 
Thứ sáu, ngày 15 tháng ba năm 2013

Cuối tuần, gửi đến các bạn bài viết thú vị về nước Mỹ qua giọng văn châm biếm của một người Trung Quốc. Bản tiếng Việt do anh Nguyễn Đại Hoàng chuyển ngữ kèm lời giới thiệu. Chúc các bạn có những phút giây thư giãn.

Khuyến mãi: Các bạn thử đọc tờ Tea Leaf Nation ở đây: http://www.tealeafnation.com/
---------

CÒN ĐI MỸ LÀM GÌ NỮA !

Dẫn : Xuất hiện lần đầu tiên trên mạng xã hội Sina Weibo, bài viết này đã nhận được hàng chục ngàn chia sẻ và bình luận. Nội dung tưởng như châm chích cười cợt mỉa mai nước Mỹ như một quốc gia ngu ngốc, sơ khai và ngây ngô, nhưng thực ra lại là lời phê phán sắc sảo sâu cay thú vị về chính Trung Quốc ! Tờ Tea Leaf Nation đã trích dịch , biên tập lại những phần đinh nhất của bài viết nói trên. Chúng tôi xin giới thiệu sau đây bản chuyển ngữ của Nguyễn Đại Hoàng. ( Phần Tiếng Anh đính kèm bên dưới ).

Tôi có thời gian qua Mỹ khá lâu. Và nói thật đến giờ này tôi vẫn còn thấy hối hận vì sự lựa chọn đó! Truyền thông phương Tây đã khiến chúng ta mê muội rằng Hoa Kỳ là một xứ sở hiện đại ! Tôi đã từng ôm giấc mộng được học tập ở đó, đã tìm mọi cách tới được cái xứ sở siêu cường đó.

Nhưng than ôi những gì tôi chứng kiến là rất đáng thất vọng !

1. Công nghiệp

Nước Mỹ thật ra chỉ là một làng quê khổng lồ chậm phát triển !
Hồi trung học, chúng ta đã được dạy rằng, công nghiệp càng phát triển bao nhiêu thì môi trường càng bị xâm hại bấy nhiêu.


Chúng ta biết rằng một thành phố công nghiệp tất phải có nhiều ống khói,nhiều nhà máy và khói bụi khắp nơi. Đó là biểu tượng của sự công nghiệp hóa ! Thế mà ở tại xứ Cờ Hoa này, tịnh không có một cái ống khói nào ! Họa hoằn lắm mới thấy một vài cái nhỏ tí ti để trang trí nhà cửa thôi !

Và ở Mỹ bạn cũng chỉ thấy toàn sông hồ trong sạch thôi. Chả tìm đâu ra những nhà máy giấy, nhà máy luyện thép bên bờ sông ! Không khí trong lành thanh khiết này là dấu hiệu của một xã hội sơ khai chứ gì nữa ! Chả có dấu vết gì của công nghiệp hóa cả !

2. Kinh tế
Người Mỹ hầu như không biết làm kinh tế ! Bạn biết đấy, nước họ có cơ man nào là xa lộ tỏa đi mọi hướng, vươn đến mọi làng mạc xa xôi, thế mà tịnh không thấy một trạm thu phí nào ! Thế là mất toi cả núi vàng!
Ước gì tôi có thể xây dựng vài cái trạm thu phí nhỉ ! Chắc chắn non tháng đã gom đủ tiền mua được cả tòa lâu đài trông ra Đại Tây Dương ấy chứ !
Hai bên xa lộ còn những cụm hồ hoang sơ tĩnh lặng. Thế mà chính quyền cứ để mặc cho lũ chim trời cá nước thỏa sức vẫy vùng, không nghĩ đến việc xây dựng vườn cảnh để thu lợi. Người Mỹ rõ ràng là không có đầu óc kinh tế tí tẹo nào !

3. Xây dựng

Trình độ xây dựng của người Mỹ còn sơ khai lắm.Ngoài một số ít tòa nhà chọc trời tại các thành phố lớn, tôi dám chắc bạn rất ít gặp những công trình bê tông ở nước Mỹ. Nhà của người Mỹ thường làm bằng gỗ và vài thứ vật liệu khác.

Thử nghĩ mà xem, đến giờ này mà gỗ vẫn còn được dùng để xây dựng nhà cửa, thì có thể nói là trình độ kiến trúc của ngoại bang này còn thua xa trình độ của triều đại nhà Thanh xưa kia ấy chứ !


4. Văn hóa
Người Mỹ có cách suy nghĩ thật là lạc hậu và khờ khạo.
Hồi mới tới Mỹ, tôi thuê một xe chở hành lý giá 3 đô la. Nhưng tôi lại không có tiền lẻ. Một người Mỹ liền trả dùm tôi 3 đô la đó, và thấy tôi lỉnh kỉnh đồ đạc nên còn giúp mang lên xe nữa ! Người Mỹ cũng luôn sẵn sàng mở cửa giúp tôi và hỏi tôi có cần giúp đỡ gì không ? Thế đấy !

Ở nước ta, mấy chuyện này chỉ có vào thời Lôi Phong tức là vào những năm 50, 60 của thế kỷ trước thôi - còn bây giờ lối cư xử đó quá ư lạc hậu. ( Lôi Phong là một thanh niên mà thời Mao thường nhắc tới như một tấm gương về đạo đức).

Hồi đó người ta chuộng lối sống “ đạo đức giả ”nhưng bây giờ chúng ta không như vậy nữa. Bây giờ chúng ta nên sống thực dụng trần trụi, đó mới là hiện đại chứ ! Tư duy của người Mỹ lạc hậu hơn chúng ta hàng mấy thập kỷ, và không có dấu hiệu nào cho thấy họ có thể bắt kịp chúng ta cả !


5. Ẩm thực

Người Mỹ làm như không biết thưởng thức thịt thú rừng.

Một đêm nọ, tôi cùng các bạn cùng lớp lái xe đi đến một thành phố khác, thình lình có mấy con nai nhảy xổ ra. Anh bạn tôi lập tức thắng lại và bẻ sang hướng khác để tránh. Ai cũng biết tai nạn loại này có thể làm hỏng cả chiếc xe. Thế mà chính quyền đành bó tay không biết phải xử lý tụi thú hoang này như thế nào cơ đấy !

Người Mỹ làm như cũng không biết ăn thịt thú rừng, thậm chí không có nhà hàng nào bán thịt thú rừng, họ chả thiết đến loại thịt thú rừng thơm ngon bổ như hươu nai, và cũng chả thiết lấy sừng bọn thú này để kiếm bộn tiền ! Người Mỹ vẫn sống cùng những con thú hoang dã đó, thậm chí còn đưa ra những biện pháp để bảo vệ chúng. Quả thật đó là một xã hội còn quá sơ khai !

6. Phong cách

Người Mỹ làm như không biết tự trọng !

Các giáo sư Mỹ không quan tâm nhiều đến bề ngoài , họ không hề có cái gọi là phong thái bác học. Giáo sư D chẳng hạn, là một giáo sư tâm lý học cực kỳ nổi tiếng thế mà giờ nghỉ ông ấy cũng thường ăn bánh bích quy với sinh viên trong văn phòng của mình, và bàn tán xôm tụ với họ về bộ phim 21, hay về minh tinh Trung Quốc Chương Tử Di ! Ông cũng không có phong cách uy nghi của một nhà bác học, và điều đó làm tôi thất vọng ghê gớm !

Các nghiên cứu sinh sau tiến sĩ cũng không bao giờ ghi hai chữ PhD. lên danh thiếp của mình. Họ thậm chí cũng không biết cách thể hiện vị thế của mình. Thành ra những người học những ông thầy như vậy nếu trở thành những quan chức thì làm sao biết cách đi đứng nói năng cho đúng bộ lệ đây !

Còn ở Trung Quốc, giờ đây các công chức dường như rất biết cách để thu hút sự kính trọng của dân chúng, thậm chí đến cả vị giám đốc của một cơ quan tầm tầm ở Trung Quốc có khi còn uy thế hơn cả Tổng Thống Mỹ cơ đấy ! Một công dân hạng ba của Trung Quốc có khi còn xa một công dân hạng nhất của Mỹ là vậy !


7. Học đường

Học sinh tiểu học Mỹ chả có lý tưởng cao xa gì sất.

Chúng không hề có ý định đi học để trở thành ông này bà nọ trong chính quyền! Không hề có học đường nào dành cho chủ tịch, bí thư, ủy viên tương lai, như tôi đã từng thấy hồi còn nhỏ ở quê nhà. Các em không có bài tập về nhà. Bài tập về nhà kiểu như các học sinh như các học sinh Trung Quốc là khá xa lạ ở Mỹ.

Trường học ở Mỹ chú trọng đến đạo đức, trước hết để giúp cho các đứa trẻ trở nên những công dân có đủ tư cách , sau đó mới tính đến chuyện lý tưởng lâu dài. Trở thành công dân có đủ tư cách ư ? Một quan niệm nghe mới cổ hủ làm sao !


8. Y tế

Người Mỹ làm lớn chuyện một cách kỳ cục khi có bệnh.

Đầu tiên họ đi bác sĩ khám bệnh, rồi bác sĩ kê toa. Rồi cầm toa đó đi mua thuốc, mua xong còn phải nghe dược sĩ hướng dẫn sử dụng …ôi chao mọi việc chẳng thể nhanh gọn như ở Trung Quốc …Tôi chả hiểu tại sao ở Mỹ lại phân biệt việc khám bệnh với việc bán thuốc … mà lẽ ra nên tách rời lợi nhuận với trách nhiệm !
Rõ ràng là các bệnh viện ở Hoa Kỳ không biết kiếm tiền mà ! Sao lại phải nói tên thuốc cho bệnh nhân biết chứ ? … chỉ có như vậy họ mới độc quyền bán thuốc với giá cao gấp cả chục lần cơ mà ! Có quá nhiều cơ hội làm ăn béo bở thế mà họ không biết khai thác , rõ ràng kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa ở Mỹ chết rồi !

9.Báo chí

Ý kiến của công chúng Mỹ thật chả ra làm sao !

Đôi khi tôi hoàn toàn mất kiên nhẫn với sự ngu dốt và khờ khạo của người Mỹ . Chẳng hạn khi họ biết Trung Quốc có đài truyền hình và báo chí, họ đã hỏi tôi một câu ngu dốt như thế này : Hóa ra Trung Quốc cũng có báo chí à ? Nghe mà bực !

Chúng ta có những tờ báo tiếng Trung được Bộ Truyền Thông cho phép ấn hành sau khi đã rà soát một cách cẩn mật đấy chứ . Báo của chúng ta toàn là những bài ca tụng lên mây cả, có đâu như báo Mỹ, công chúng đóng góp phê bình loạn cả lên, thậm chí còn dám “ chưởi ” cả tổng thống nữa cơ đấy!
Báo chí chúng ta đâu có chuyện công khai mấy vụ bê bối của quan chức, bởi nếu cứ tung hê lên thì sau này ai mà muốn làm lãnh đạo nữa chứ !

10. Tâm linh
Người Mỹ có đời sống tinh thần hết sức vô vị nhạt nhẽo.

Tôi chả hiểu tại sao trước mỗi bữa ăn họ lại lẩm bẩm mấy câu thánh nghe hết sức khờ khạo : Cầu Chúa phù hộ nước Mỹ.

Thật là buồn cười quá đi : Nếu Chúa phù hộ nước Mỹ thì làm sao lại để nước Mỹ lạc hậu, sơ khai, đơn giản đến thế này ? Cầu Chúa có ich lợi gì chứ ? Thực tế nhất là bạn nên dành thời gian đó để đi lễ thủ trưởng !

Đó mới đúng là hiện đại chứ lỵ !

11. Lối sống

Người Mỹ chả có khái niệm về thời gian .

Bất luận chuyện lớn chuyện nhỏ, người Mỹ đều ngoan ngoản đứng vào hàng chờ đợi … Còn người Trung Quốc chúng ta – như bạn biết đấy - khôn hơn nhiều !

Bất kể đám đông như thế nào, chúng ta vẫn có kỹ năng chen lấn, điều này giúp tiết kiệm thời gian, và tránh được sự mệt mõi khi đứng chờ ! Nếu ai đó biết đi cổng sau thì kết quả tiết kiệm thời gian còn tuyệt hơn nữa.

Thế mà những người Mỹ lẩm cẩm lại không biết đến những điều hay ho đó cơ chứ !

12. Mua bán

Những cửa hàng ở Mỹ có một phong cách buôn bán hết sức vô lý : bạn có thể trả lại hàng vài tuần sau khi mua về mà thậm chí cũng không cần nêu lý do. Ở ta thì làm gì có chuyện cho đổi hàng mà không hò hét quát tháo nhau ra trò chứ !

13. An toàn

Nước Mỹ không an toàn ! Tôi nói điều này bởi có tới 95 % nhà dân không cần tới lưới chống trộm, và điều kỳ lạ này nữa là : chả biết mấy tên trộm đi đâu hết rồi nhỉ ?

14. Giao thông
Người Mỹ sao mà nhút nhát và yếu đuối quá vậy không biết !

Tôi nói điều này cũng bởi có tới 95 % tài xế không dám vượt đèn đỏ !'

Và mặc dầu 99 % dân Mỹ có xe hơi, vậy mà cách lái xe của họ thật lạ : bao nhiêu là xe cộ lưu thông nhưng không mấy khi nghe tiếng còi xe, phố xá vì thế vắng lặng đến nỗi cứ ngỡ không phải là phố xá nữa, làm sao mà bì được phố xá ồn ào náo nhiệt ở Trung Quốc cơ chứ !

15. Tình cảm

Người Mỹ rất là thiếu cảm xúc .

Có tới 95 % nhân viên không nghĩ tới việc phải làm gì cho tiệc cưới của sếp, họ chẳng bao giờ phải vắt óc tìm ra lý do để chăm sóc sếp của mình. Ở Trung Quốc liệu có ai điên đến mức bỏ qua cơ hội chăm sóc sếp của mình không? Nói cách khác, có ai dám làm điều đó không ? Hãy xem, người Trung Quốc chúng ta có biết bao nhiêu là tình thương mến thương với lãnh đạo !

16. Nhạy bén

Người Mỹ không nhạy bén chút nào !

99% người Mỹ đi học, đi làm , thăng quan tiến chức, mà không hề biết sự cần thiết của “ phong bì ” để có thể mở ra một cánh cửa ..sau !



Nguyễn Đại Hoàng chuyển ngữ

3/2013
------------

NGUYÊN TÁC


[ 'Foolish and Backward Nation': A Self-Effacing Chinese Satire of America


On the eve of U.S. Secretary of State Hillary Clinton's diplomatic visit to the Middle Kingdom, a tongue-in-cheek critique of Americans has gone viral on Sina Weibo, China's Twitter, with over 44,000 retweets and 5,400 comments. This piece, of uncertain author and origin, laughingly criticizes Americans as foolish, primitive, and naive. Lest American readers be offended, it soon becomes apparent that the essay is in fact a sharp, backhanded critique of China.Tea Leaf Nation has translated the juiciest parts (which happen to constitute most of the essay). Please enjoy. ]

Don't Go to the U.S., A Foolish and Backward Nation

I've already been in the U.S. for a long time. I regret that choice. We've been [fooled] by Western media the whole time, making us think that the U.S. is a modernized country. Harboring hopes of studying American modern science in order to serve my motherland, I moved heaven and earth in order to make it over to this "superpower." But the result has been very disappointing!


(1) The U.S. is actually a giant, undeveloped farming village. In middle school, teachers teach students that the more developed industry gets, the greater harm the natural environment suffers. For example, in an industrial city you should find chimneys everywhere, large factories everywhere, dust everywhere. That's the symbol of industrialization! But the U.S.? You hardly ever see chimneys, occasionally you'll see a few small ones but they're just decorations for houses. Instead there are clear rivers and lakes everywhere, and there aren't even paper factories or steel smelters by the riverbanks. The clean and fresh air is a symbol of primitive society. There's not even a trace of industrialization!

(2) Americans don't understand economics. Highways extend in all directions, seemingly reaching every village, but there are hardly any toll stations! What a tremendous waste of a gigantic business opportunity! I can barely keep myself from grabbing some cement and building a few toll stations; within one month I'll definitely make enough money to buy a house with a view of the Atlantic Ocean. Also, by the side of the highway you can see quiet and undeveloped lakes. The government allows waterbirds to freely settle and poop wherever they want, neglecting even to open a scenic garden with a lake view in order to make some serious money. It's clear Americans have no head for economics.


(3) American construction is too primitive. Besides [what you find in] a small number of large cities, there are no big cement and concrete skyscrapers. ... I can scarcely believe that the U.S. seemingly has no concrete buildings. They're all mostly made of wood and some other strange materials. Using primitive wood to build houses-it's like these foreigners' architecture hasn't moved beyond pre-Qing Dynasty times. That's feudal times!



(4) Americans' thinking is naive and backwards. As soon as I got to the U.S., I found [renting] a luggage cart cost three U.S. dollars. I didn't have change, an American saw that I had a lot of luggage, so they paid the three bucks for me and brought me a cart. [Americans] also always open doors for me and ask me if I need help. In my country, we already had the Lei Feng period in the '50s and '60s, now we think that stuff is so backwards! [Lei Feng was a young man that the Mao-era Communist government widely touted as an example of selfless virtue.] Back then, people were very hypocritical, but now we're not that way. We do things nakedly; now that's modernization! So Americans' thinking is behind ours by several decades, and there are no signs they will be able to catch up.


(5) Americans don't understand [how to eat] game. One night, I was driving with my classmates to another city and several Sika deers suddenly bounded out. My classmate immediately braked and swerved in order to avoid an accident. Apparently this sort of thing happens often, as a collision with one deer is enough to total a car. The U.S. government doesn't know how to manage this. ... Americans really don't understand how to eat game, they don't even have game restaurants, much less a taste for delicious wild animals-killing a deer and selling the antlers can make a lot of money! Americans live with those wild animals every day, even taking measures to protect wild animals. That's a really primitive society.


(6) Americans don't understand self respect. Professors at American universities have no presence (架子); they don't have the air of distinguished scholars at all. It's said that Professor D___ is a famous professor of psychology, but during class breaks he eats cookies in his office with his students, talks about the movie "21″ and [Chinese actress] Ziyi Zhang. He doesn't have any of the majesty of scholarship, I was really disappointed. Also, post doctoral students never put "Ph.D" on their name cards. They don't even understand how to show off their status. People taught by professors like this won't even understand how to posture if they become government officials. ... It seems Chinese public servants really know how to get peoples' respect; even the boss in a minor office in my motherland is more imposing than the American President. No wonder they say a first-class citizen in China becomes a third-class citizen in the U.S.

(7) American elementary school students don't have lofty ideals. From the start, elementary school students don't have any intention of becoming officials. ... There are none of the class presidents, class secretaries, or the committees I had when I was young. After class, it's as if they have no homework. There's no way you can even mention it in the same breath with Chinese primary school students's homework. Schools place too much emphasis on a moral upbringing, making little kids focus on becoming qualified citizens first, getting to the long-term ideals later. Becoming a qualified citizen? What a corny concept.


.(8) Americans cause a big ruckus every time they see a little illness. First, they make an appointment with the doctor, and afterwards the doctor gives a prescription. Some people have to consult a qualified pharmacist. When they buy medicine, they have to go to the supermarket to get it themselves. It's not as fast as it is with us ... I don't understand why Americans separate seeing the doctor and buying medicine ... instead separating benefit from responsibility. It's clear American hospitals have no concept of how to make money! Why tell the patients the name of the medicine? ... They could monopolize the sales of medicine and raise prices 8 or 10 times. There are so many good business [opportunities] they're not [pursuing], obviously the capitalist market economy is dead!


(9) American public opinion is nuts. Sometimes I completely lose patience with their ignorance and foolishness. For example, when they learned that China has television stations and newspapers, they actually ignorantly ask me, "China has a newspaper?!" That's really outrageous; we not only have Chinese-language newspapers, they are meticulously produced by our Ministry of Propaganda; looking at our newspapers is like listening to a hymn, it's nothing like American newspapers with their messy public opinions, even daring to insult the U.S. President by name...[in China] we don't publicize the leaders' scandals; after that, who would want to be a leader? ...


(10) Americans are spiritually empty. What I can't stand is: The majority of Americans say grace before each meal, and naively say "God bless America." Ridiculous; if God blessed America, how did America get this backwards, this primitive, how did Americans get so simple and primitive? What's the use of praising God? It would be more practical to spend that time praising your boss! That's the modern way! ...


(11) Americans do not have a concept of time. No matter what, they always wait in line. ... We Chinese are smarter, you see. No matter how crowded it gets, we still have the skill to stuff ourselves in somewhere, this saves a lot of time and you can avoid getting tired from standing! If someone you know opens a backdoor, that saves even more time. The old Americans just don't get this.


(12) American stores make no sense: You can return something weeks after buying it without even giving a reason. How is it that you let me return the goods without even arguing with me for a little while? ...


(13) The U.S. isn't safe. 95% of homes have forgotten to install anti-theft nets/doors/windows; another strange thing is, where'd all the pickpockets go?


(14) Americans are wimps. 95% of drivers don't even dare to run red lights...although 99% of American adults have a car, their driving method is very strange: There are many cars on the road, but you can't hear any horns, the streets are so quiet it's as if they're not streets, there's none of the energy of a major province-level [Chinese] city.


(15) Americans lack emotion. 95% of employees don't think their superiors' weddings have anything to do with them, so they never find an excuse to care about their leaders; in China, do the masses ever miss a chance to care about their leaders? Put another way, who in China doesn't dare to? Look how much feeling we've got.


(16) Americans aren't sensible. 99% of Americans go through school, get jobs, get promoted, and get an operation without understanding the need to give "hong bao" [red envelopes full of cash] to open a back door. ...

 
Source : Blog Anh Vu

Đọc lại “Trại súc vật”


Tháng 3 14, 2013
Christopher Hitchens

Phạm Vũ Lửa Hạ dịch

Vẫn bị nhiều chế độ trên thế giới cấm đoán, Trại súc vật (Animal Farm) luôn là khối thuốc nổ chính trị – đến nỗi suýt chút nữa tác phẩm này đã không bao giờ được xuất bản. Christopher Hitchens bàn về “truyện cổ tích”vượt thời gian, siêu việt của George Orwell.


Trại súc vật, theo lời của chính tác giả, “là cuốn sách đầu tiên mà trong đó tôi đã cố hòa quyện mục đích chính trị và mục đích nghệ thuật thành một, và tôi hoàn toàn ý thức rõ mình đang làm gì”. Và quả thực những trang sách của tác phẩm này tổng hợp nhiều chủ đề trong số những chủ đề mà xưa nay chúng ta đã đúc kết là “mang tính Orwell”.[i] Trong số những chủ đề này có nỗi căm ghét bạo chúa, tình yêu thương loài vật và miền đồng quê nước Anh, và sự ngưỡng mộ sâu sắc đối với những truyện ngụ ngôn trào phúng của Jonathan Swift. Ta có thể lồng thêm vào danh sách này ước nguyện thiết tha của Orwell muốn nhìn đời từ góc độ của tuổi thơ ấu trong trắng: ông vẫn hằng mong được làm cha và, do sợ mình bị vô sinh, ông đã nhận một cậu bé làm con nuôi trước khi người vợ đầu của ông qua đời rất lâu. Cái tiểu đề có phần châm biếm của cuốn tiểu thuyết này là “Truyện cổ tích”, và Orwell rất vui khi nghe những người bạn như Malcolm Muggeridge và Sir Herbert Read kể con họ rất thích đọc cuốn sách này.

Giống như phần lớn những tác phẩm về sau của ông – đáng chú ý nhất là cuốn Một chín tám tư (Nineteen Eighty-Four) cay nghiệt hơn – Trại súc vật là sản phẩm của việc Orwell tham gia cuộc Nội chiến Tây Ban Nha. Trong cuộc xung đột đó, ông chiến đấu trong hàng ngũ phe chống phát xít và bị thương rồi bị phe ủng hộ Stalin rượt đuổi khỏi Tây Ban Nha. Những kinh nghiệm từ cuộc chiến đó đã khiến ông tin rằng đa số quan điểm “phái tả” là sai lầm, và Liên Xô là một dạng địa ngục mới, chứ không phải một thiên đường utopia sắp mở ra. Ông mô tả căn nguyên của ý tưởng này trong một trong hai lời giới thiệu cuốn sách này:

… trong mười năm qua, tôi đã tin rằng rất cần phá bỏ huyền thoại Xô viết nếu chúng ta muốn hồi sinh phong trào xã hội chủ nghĩa. Lúc hồi hương từ Tây Ban Nha, tôi đã nghĩ đến việc vạch trần huyền thoại Xô viết bằng một câu chuyện mà gần như bất cứ ai cũng dễ dàng hiểu được… Tuy nhiên, những tình tiết thật sự của câu chuyện này mãi về sau mới nảy ra trong đầu tôi. Một hôm (lúc đó tôi đang sống ở một làng nhỏ), tôi thấy một cậu bé, chừng mười tuổi, đánh chiếc xe ngựa lớn trên con đường chật hẹp, thẳng tay quật roi mỗi khi con ngựa cố rẽ ngang. Tôi chợt nghĩ rằng chẳng may mà những con vật đó biết rõ sức mạnh của chúng, chúng ta đừng hòng chế ngự được chúng, và nhận ra rằng con người bóc lột loài vật hệt như kiểu người giàu bóc lột giai cấp vô sản.

Tôi bắt tay vào phân tích học thuyết của Marx từ góc độ của loài vật.

Tính đơn giản của khái niệm này dễ bị hiểu lầm theo nhiều cách. Khi dấn thân vào một việc như vậy, Orwell chọn con đường can dự vào một cuộc tranh luận phức tạp và quyết liệt về cuộc cách mạng Bolshevik ở Nga: thời đó là một vấn đề gây tranh cãi nhiều hơn hiện nay. Trại súc vật có thể được hiểu rõ hơn nếu được tiếp cận theo ba đề mục khác nhau: bối cảnh lịch sử của tác phẩm; cuộc đấu tranh xung quanh việc xuất bản tác phẩm và chuyện về sau tác phẩm được dùng như một vũ khí văn hóa trong Chiến tranh Lạnh; và việc đến tận ngày nay tác phẩm vẫn hợp thời.

Cuốn sách được viết ở thời kỳ cao điểm của Chiến tranh Thế giới thứ hai, và ở thời điểm hiệp ước giữa Stalin và Hitler đã bị thay thế đột ngột bằng một liên minh giữa Stalin và đế chế Anh. London đang bị Đức Quốc xã ném bom, và bản thảo cuốn tiểu thuyết này phải được cứu ra khỏi đống hoang tàn sau khi căn nhà của Orwell ở phía bắc London bị san bằng.

Lối hành xử tráo trở khi Stalin chuyển từ phe này sang phe kia chẳng có gì đáng ngạc nhiên đối với Orwell; lúc đó ông đã quen với sự bất lương và tính tàn bạo của chế độ Xô viết. Điều đó khiến ông nằm trong một nhóm nhỏ thiểu số, cả ở nước Anh chính thống lẫn trong phái tả ở Anh.

Với một vài thay đổi nhỏ về trình tự của các sự kiện, diễn biến câu chuyện gần giống với số phận của thế hệ 1917 ở Nga. Như vậy kế hoạch cách mạng vĩ đại của con lợn kỳ cựu Thủ Lĩnh [Old Major][ii] (Karl Marx) thoạt đầu được gần như tất cả các loài vật nhiệt tình áp dụng, dẫn đến việc lật đổ Nông Dân Jones (Nga hoàng), việc đánh bại những người nông dân khác đến chi viện cho ông Jones (những cuộc xâm lấn Nga của phương Tây trong hai năm 1918–1919 mà hiện nay người ta đã quên) và việc thành lập một nhà nước kiểu mẫu mới. Trong một thời gian ngắn, những con vật mới thông minh hơn và tàn ác hơn – đương nhiên chính là lũ lợn – đặt những con vật khác dưới sự cai trị độc tài của chúng và sống thụ hưởng như quý tộc.

Lũ lợn tất yếu sẽ đến lúc có bất đồng nội bộ. Có thể dễ dàng nhận ra những lực lượng xã hội được đại diện bằng những con vật khác nhau – con tuấn mã Chiến Sĩ [Boxer] là hiện thân của giai cấp lao động, con quạ Moses là Giáo hội Chính thống Nga– cũng như những nhân vật dễ nhận diện do những con lợn khác nhau đóng vai. Sự kình địch giữa Napoleon (Stalin) và Tuyết Tròn [Snowball] (Trotsky) kết thúc bằng việc lưu đày của Tuyết Tròn, và sau đó là nỗ lực xóa sổ Tuyết Tròn khỏi ký ức của trại súc vật. Stalin đã cho người sát hại Trotsky đang lưu vong ở  Mexico chưa đầy ba năm trước khi Orwell bắt tay vào viết cuốn sách này.

Một số chi tiết nhỏ hơn chính xác đến tỉ mỉ. Do tình thế cấp bách của chiến tranh, Stalin đã có nhiều nhượng bộ mang tính cơ hội. Ông đã thu phục   Giáo hội Chính thống Nga về phe với mình, để càng dễ khoác lên mình cái áo yêu nước, và ông sẽ từ bỏ “Quốc tế ca” vì bài hát chính thức từ xưa của phong trào xã hội chủ nghĩa có vẻ quá khiêu khích đối với những đồng minh tư bản chủ nghĩa mới của ông ở London và Washington. Trong Trại súc vật, con quạ Moses được phép lên tiếng trở lại khi khủng hoảng càng trở nên trầm trọng, và đám dê cùng lũ ngựa cùng đàn gà nghèo khổ bị bóc lột được bảo là bài ca chúng hằng yêu quý “Súc sinh Anh quốc” [Beasts of England] sẽ không còn được phép hát nữa.

Tuy nhiên có một sự bỏ sót rất đáng chú ý. Có lợn Stalin và lợn Trotsky, nhưng không có lợn Lenin. Tương tự, trong Một chín tám tư, ta chỉ bắt gặp Anh Cả Stalin và một Emmanuel Goldstein Trotsky. Dường như lúc đó chẳng ai chỉ ra điều này (và có thể nói, kể từ đó đến nay, chẳng có ai ngoài tôi chỉ ra điều đó; tôi mất nhiều năm mới nhận ra điều rành rành trước mắt như thế).

Việc cuốn tiểu thuyết này suýt bị xếp xó không được xuất bản thật đáng suy gẫm. Sau khi thoát được trận oanh tạc của Hitler, bản thảo tơi tả được gởi đến văn phòng của TS Eliot, lúc đó là một biên tập viên quan trọng của nhà xuất bản Faber & Faber. Eliot, một người quen khá thân thiện của Orwell, là người bảo thủ về chính trị và văn hóa, nếu không muốn nói là phản động. Song, có lẽ chịu ảnh hưởng của liên minh giữa nước Anh và Moskva, ông đã từ chối cho in sách với lý do là sách quá nặng “tính Trotsky”. Ông cũng bảo Orwell rằng việc Orwell chọn lũ lợn làm kẻ cầm quyền là lựa chọn đáng tiếc, và độc giả có thể kết luận rằng cần phải có “thêm những con lợn có tinh thần phục vụ công chúng”. Nhận xét này có lẽ không ngu xuẩn bằng lời từ chối mà Orwell nhận được từ nhà Dial Press ở in New York; họ trịnh trọng thông báo với ông là truyện về súc vật không có thị trường ở Mỹ. Mà đó lại là nhận xét từ xứ sở của Disney…

Tình đoàn kết thời chiến giữa Đảng Bảo thủ Anh và Đảng Cộng sản Liên Xô cũng nhận được sự bảo vệ tích cực của Peter Smollett, một quan chức cao cấp trong Bộ Thông tin, và người sau này bị vạch trần là gián điệp cho Liên Xô. Smollett tự thân khuyến cáo một số nhà xuất bản từ chối bản thảo, vì thế Trại súc vật không được chấp nhận ở những hãng xuất bản danh tiếng của Victor Gollancz và Jonathan Cape. Có lúc Orwell đã nghĩ đến việc tự in sách với sự giúp đỡ của người bạn Paul Potts, nhà thơ cấp tiến người Canada; nếu vậy, đó có lẽ là một trường hợp tiên phong của trào lưu tự xuất bản hay samizdat (in và phát hành lén lút) chống Liên Xô. Ông thậm chí còn viết một tiểu luận đầy phẫn nộ với tựa đề “Tự do Báo chí” (The Freedom of the Press), dự kiến đưa vào làm lời giới thiệu: tiểu luận này mãi đến năm 1972 mới được phát hiện và in. Rốt cuộc, danh dự của ngành xuất bản được cứu vãn bởi công ty xuất bản nhỏ Secker & Warburg: năm 1945, công ty này ấn hành một số lượng rất hạn chế và trả cho Orwell 45 bảng Anh.

Rất có thể câu chuyện này đã có kết cuộc đáng thất vọng như vậy, nhưng hai diễn biến về sau đã giúp cho tiểu thuyết này có vị trí trong lịch sử. Một nhóm những nhà xã hội chủ nghĩa Ukraina và Ba Lan, lúc đó đang sống trong các trại tị nạn ở Châu Âu hậu chiến, tìm thấy một bản tiếng Anh và thấy cuốn sách là một truyện ngụ ngôn thể hiện gần như hoàn hảo kinh nghiệm của chính họ không lâu trước đó. Ihor Sevcenko, thủ lĩnh biết tiếng Anh nhờ tự học và dịch giả của nhóm này, tìm được địa chỉ của Orwell và viết thư xin phép ông cho dịch Trại súc vật sang tiếng Ukraina. Ông nói với Orwell rằng nhiều nạn nhân của Stalin vẫn tự xem mình là người của phe xã hội chủ nghĩa, và không tin tưởng một trí thức của phái hữu nói lên cảm xúc của họ. “Họ vô cùng xúc động trước những cảnh như cảnh những con vật hát vang bài ‘Súc sinh Anh Quốc’ trên đồi… Họ rất cảm kích trước những giá trị ‘tuyệt đối’ của cuốn sách”. Orwell đồng ý cấp bản quyền xuất bản miễn phí (ông cũng làm vậy đối với những ấn bản về sau bằng nhiều ngôn ngữ Đông Âu). Thật cảm động khi hình dung những cựu quân nhân và cựu tù nhân đã chai lì qua trận mạc, sau khi vượt qua được bao thiếu thốn của mặt trận phía đông, nay lại mủi lòng trước hình ảnh những con vật ở nông trại nước Anh cất tiếng ca bài hát được xem là phiên bản của bài “Quốc tế ca” đã bị bãi bỏ, nhưng đây chỉ mới là một ví dụ ban đầu của tầm ảnh hưởng mà cuốn sách sẽ có đối với độc giả. Giới chức quân sự Mỹ ở Châu Âu thì không dễ mủi lòng đến thế: tìm được bản in nào của cuốn Trại súc vật là họ gom hết rồi giao cho Hồng quân để đốt. Liên minh giữa những người nông dân và lũ lợn, được mô tả đậm nét đến mức ám ảnh ở những trang cuối sách, vẫn còn hiệu lực.

Nhưng ở cảnh kết thúc có phần chua cay, thường được người ta nhớ nhất về chuyện không thể phân biệt được đâu là người đâu là lợn, Orwell đã tiên đoán, cũng nhưng trong những dịp khác, rằng tình bạn giả tạo bề ngoài giữa Đông và Tây sẽ không tồn tại được lâu sau khi chủ nghĩa phát xít bị đánh bại. Chiến tranh Lạnh, cụm từ mà chính Orwell là người đầu tiên dùng trong sách in, nhanh chóng tạo ra một bầu không khí ý thức hệ khác hẳn. Điều này lại quyết định cách tiếp nhận Trại súc vật ở Mỹ. Ban đầu bị Angus Cameron, người có cảm tình với cộng sản ở nhà xuất bản Random House, từ chối, tác phẩm tưởng đã chìm vào quên lãng được Frank Morley của nhà Harcourt, Brace, cứu vớt. Khi thăm nước Anh, Frank Morley tình cờ bắt gặp cuốn tiểu thuyết này trong một hiệu sách ở Cambridge, và ông rất mê. Việc xuất bản [ở Mỹ] lại gặp hai cái phúc: Edmund Wilson viết một bài điểm sách đầy thiện cảm cho tạp chí The New Yorker, so sánh tài năng trào phúng của Orwell với tác phẩm của Swift và Voltaire, và Câu lạc bộ Sách tiêu biểu trong tháng đã chọn Trại súc vật là đầu sách chính, nhờ đó sách được in tới gần nửa triệu bản. Bất chấp sự ngu xuẩn của nhà xuất bản Dial Press, công ty Walt Disney đề xuất chuyển thể sách thành phim. Phim này đã không được dựng, dù về sau CIA có sản xuất và phát hành một bộ phim hoạt hình Trại súc vật dùng để tuyên truyền. Đến lúc Orwell mất vào tháng Giêng năm 1950, sau khi vừa mới viết xong Một chín tám tư, ông rốt cuộc đã có danh tiếng quốc tế và nhiều lần phải viết lời phủ nhận trách nhiệm về việc phái hữu ở Mỹ sử dụng tác phẩm của ông.

Có lẽ câu nổi tiếng nhất từ tiểu thuyết này là việc lũ lợn phủ nhận khẩu hiệu ban đầu “Mọi con vật sinh ra đều bình đẳng” bằng cách thêm ý mới “Nhưng có một số con bình đẳng hơn những con khác”. Khi chủ nghĩa cộng sản ở Nga và Đông Âu càng ngày càng lộ rõ bộ mặt của một hệ thống “giai cấp mới”, với những đặc quyền phi lý đến lố bịch dành cho giới chóp bu cầm quyền trong khi đa số thường dân cắn răng sống lê sống lết cho hết một kiếp tầm thường, ảnh hưởng đạo đức của tác phẩm Orwell – đơn giản đến mức rất dễ hiểu và dễ dịch, đúng y như ông đã hy vọng – trở thành một trong nhiều động lực không thể định lượng được làm xói mòn chủ nghĩa cộng sản cả về mặt hệ thống lẫn về mặt ý thức hệ. Ảnh hưởng này dần dần lan sang Châu Á. Tôi nhớ một người bạn cộng sản của tôi gọi điện cho tôi từ Trung Quốc khi Đặng Tiểu Bình công bố “những cải cách” mà sau này đã khơi mào cái mà bây giờ chúng ta gọi là chủ nghĩa tư bản Trung Quốc. “Nông dân phải giàu lên”, vị lãnh tụ Đảng tuyên bố, “và một số người sẽ giàu hơn những người khác”. Đồng chí của tôi gọi điện nói rằng có lẽ Orwell suy cho cùng cũng có lý. Đến nay, Trại súc vật vẫn chưa được xuất bản hợp pháp ở Trung Quốc, Miến Điện hay vùng hoang tàn về đạo đức Bắc Triều Tiên, nhưng rồi sẽ đến ngày tác phẩm này xuất hiện ở cả ba xã hội này, nơi mà nó chắc chắn sẽ được chào đón với cảm giác sửng sốt khi người ta nhận thấy nó vẫn còn có khả năng tạo cảm hứng.

Ở Zimbabwe, khi ách cai trị của bè lũ tham nhũng thối nát của Robert Mugabe ngày càng trở nên quá sức chịu đựng, một tờ báo đối lập nắm lấy cơ hội in lại Trại súc vật dưới dạng truyện nhiều kỳ. Tờ báo đăng truyện mà không bình phẩm gì, ngoại trừ trường hợp một trong những hình minh họa kèm theo vẽ tên độc tài Napoleon mang cặp kính có gọng sừng đen đặc trưng của chính nhà lãnh đạo Zimbabwe. Tòa soạn tờ báo này ít lâu sau đó bị đánh bom, nhưng chẳng bao lâu nữa trẻ em Zimbabwe cũng sẽ có thể thưởng thức cuốn sách này đúng như bản chất của nó.

Ở thế giới Hồi giáo, nhiều nước tiếp tục cấm Trại súc vật, với lý do bề ngoài là sách nhấn mạnh đến lợn. Rõ ràng đây không thể là toàn bộ lý do – nếu chỉ vì bè lũ lợn được khắc họa với một sắc màu rất thiếu thiện cảm – và dưới chế độ chuyên chế thần quyền của Iran, sách bị cấm vì những lý do liên quan đến thông điệp “cách mạng bị phản bội” trong sách.

Câu chuyện nhỏ này có một tính chất vượt thời gian, thậm chí siêu việt. Tính chất này được thể hiện khi Thủ Lĩnh [Old Major] kể cho đám thính giả trầm lặng và buồn bã gồm những súc vật đã làm việc quá sức về một thời xa xưa, khi loài vật biết đến khả năng có một thế giới không có các ông chủ, và khi trong một giấc mơ nó nhớ lại lời và điệu nhạc của một bài hát tự do gần như đã bị lãng quên. Orwell có cảm tình với truyền thống cách mạng Tin Lành ở Anh, và lời biện minh ưa thích của ông được trích từ John Milton, người đã bày tỏ quan điểm “Theo những quy luật đã biết của quyền tự do cổ xưa”.[iii] Trong tâm trí tất cả mọi người – có lẽ đặc biệt là trong tâm trí trẻ em – có một cảm nhận là cuộc sống không nhất thiết phải luôn luôn như thế, và những người Ukraina thiếu ăn sống sót qua chiến tranh, khi phản ứng trước tính xác thực của những vần thơ đó và trước điều gì đó ‘tuyệt đối” về tính chính trực của cuốn sách này, đang nghe câu thơ hùng hồn của Milton bất luận họ có hiểu trọn vẹn câu thơ đó hay không.

______

Ảnh: Lừa và lũ lợn trong bộ phim Trại súc vật năm 1954. Ảnh: Halas & Batchelor

Nguồn: “Christopher Hitchens re-reads Animal Farm”, The Guardian, 17/4/2010

Bản tiếng Việt © 2013 Phạm Vũ Lửa Hạ & pro&contra
 -----------------------

[i] Cũng như nhiều tính từ phát sinh từ tên riêng của tác giả/học giả/nhân vật lịch sử, ví dụ như  “Machiavellian” và “Freudian”, từ “Orwellian” mang nhiều nội hàm ngữ nghĩa và không thể dịch bằng một từ duy nhất trong tiếng Việt. Do ảnh hưởng lớn từ các tác phẩm của George Orwell, đặc biệt là Một chín tám tư và Trại súc vật, từ “Orwellian” thường dùng để mô tả một chế độ/nhà nước toàn trị và những nỗi kinh hoàng, và những tính chất hủy hoại cuộc sống an lành của một xã hội mở và tự do. (N.D.)

[ii] Tên các nhân vật lấy theo bản dịch Trại súc vật của Phạm Minh Ngọc (ở đây). Để tiện theo dõi, tên tiếng Anh được để trong dấu [].(N.D.)

[iii] Câu thơ này (By the known rules of ancient liberty) là câu thứ hai trong bài Sonnet XII của nhà thơ Anh John Milton (1608-1674). George Orwell trích lại câu này trong tiểu luận “Tự do Báo chí”. (N.D.)

14/3/13

Hữu Loan: Về bài thơ màu tím hoa sim

 

 
alt
“Tôi sinh ra trong một gia đình nghèo, hồi nhỏ không có cơ may cắp sách đến trường như bọn trẻ cùng trang lứa, chỉ được cha dạy cho dăm chữ bữa có bữa không ở nhà. Cha tôi tuy là tá điền nhưng tư chất lại thông minh hơn người. Lên trung học, theo ban thành chung, tôi cũng học tại Thanh Hoá, không có tiền ra Huế hoặc Hà Nội học. Đến năm 1938, lúc đó cũng đã 22 tuổi, tôi ra Hà Nội thi tú tài, để chứng tỏ rằng con nhà nghèo cũng thi đỗ đạt như ai. Tuyệt nhiên tôi không có ý định dấn thân vào chốn quan trường. Ai cũng biết thi tú tài thời Pháp rất khó khăn. Số người đậu trong kỳ thi đó rất hiếm, hiếm đến nỗi 5-6 chục năm sau những người cùng thời còn nhớ tên những người đậu khoá ấy, trong đó có Nguyễn Đình Thi, Hồ Trọng Gin, Trịnh văn Xuấn, Đỗ Thiện và … Tôi – Nguyễn Hữu Loan.
 
alt
 
Với mảnh tú tài Tây trong tay, tôi rời quê nhà lên Thanh Hoá để dạy học. Nhãn mác con nhà nghèo học giỏi của tôi được bà tham Kỳ chú ý, mời về nhà dạy cho hai cậu con trai. Tên thật của bà tham Kỳ là Đái thị Ngọc Chất, bà là vợ của của ông Lê Đỗ Kỳ, tổng thanh tra canh nông Đông Dương, sau này đắc cử dân biểu quốc hội khoá đầu tiên. Ở Thanh Hoá, Bà tham Kỳ có một cửa hàng bán vải và sách báo, tôi thường ghé lại xem và mua sách, nhờ vậy mới được bà để mắt tới.
Bà tham Kỳ là một người hiền lành, tốt bụng, đối xử với tôi rất tốt, coi tôi chẳng khác như người nhà. Nhớ ngày đầu tiên tôi khoác áo gia sư, bà gọi mãi đứa con gái – lúc đó mới 8 tuổi- mới chịu lỏn lẻn bước ra khoanh tay, miệng lí nhí : ‘ Em chào thầy ạ’. Chào xong, cô bé bất ngờ mở to đôi mắt nhìn thẳng vào tôi. Đôi mắt to, đen láy, tròn xoe như có ánh chớp ấy đã hằng sâu vào tâm trí tôi, theo tôi suốt cả cuộc đời. Thế là tôi dạy em đọc, dạy viết. Tên em là Lê Đỗ Thị Ninh, cha làm thanh tra nông lâm ở Sài Gòn nên sinh em trong ấy, quen gọi mẹ bằng má. Em thật thông minh, dạy đâu hiểu ấy nhưng ít nói và mỗi khi mở miệng thì cứ y như một ‘bà cụ non’. Đặc biệt em chăm sóc tôi hằng ngày một cách kín đáo : em đặt vào góc mâm cơm chỗ tôi ngồi ăn cơm lúc thì vài quả ớt đỏ au, lúc thì quả chanh mọng nước em vừa hái ở vườn ; những buổi trưa hè, nhằm lúc tôi ngủ trưa, em lén lấy áo sơ mi trắng tôi treo ở góc nhà mang ra giếng giặt …
Có lần tôi kể chuyện « bà cụ non » ít nói cho 2 người anh của em Ninh nghe, không ngờ chuyện đến tai em, thế là em giận ! Suốt một tuần liền em nằm lì trong buồn trong, không chịu học hành … Một hôm, bà tham Kỳ dẫn tôi vào phòng nơi em đang nằm thiếp đi. Hôm ấy tôi đã nói gì, tôi không nhớ nữa, chỉ nhớ là tôi đã nói rất nhiều, đã kể chuyện em nghe, rồi tôi đọc thơ … Trưa hôm ấy, em ngồi dậy ăn một bát to cháo gà và bước ra khỏi căn buồng. Chiều hôm sau, em nằng nặc đòi tôi đưa lên khu rừng thông. Cả nhà không ai đồng ý : « mới ốm dậy còn yếu lắm, không đi được đâu » Em không chịu nhất định đòi đi cho bằng được. Sợ em lại dỗi nên tôi đánh bạo xin phép ông bà tham Kỳ đưa em lên núi chơi …
Xe kéo chừng một giờ mới tới được chân đồi. Em leo đồi nhanh như một con sóc, tôi đuổi theo muốn đứt hơi. Lên đến đỉnh đồi, em ngồi xuống và bảo tôi ngồi xuống bên em.Chúng tôi ngồi thế một hồi lâu, chẳng nói gì. Bất chợt em nhìn tôi, rồi ngước mắt nhìn ra tận chân trời, không biết lúc đó em nghĩ gì. bất chợt em hỏi tôi :
- Thầy có thích ăn sim không ?
Tôi nhìn xuống sườn đồi : tím ngắt một màu sim. Em đứng lên đi xuốn sườn đồi, còn tôi vì mệt quá nên nằm thiếp đi trên thảm cỏ … Khi tôi tỉnh dậy, em đã ngồi bên tôi với chiếc nón đầy ắp sim. Những quả sim đen láy chín mọng.
- Thầy ăn đi.
Tôi cầm quả sim từ tay em đưa lên miệng trầm trồ : « Ngọt quá ».
Như đã nói, tôi sinh ra trong một gia đình nông dân, quả sim đối với chẳng lạ lẫm gì, nhưng thú thật tôi chưa bao giờ ăn những quả sim ngọt đến thế !
Cứ thế, chúng tôi ăn hết quả này đến quả khác.Tôi nhìn em, em cười. hai hàm răng em đỏ tím, đôi môi em cũng đỏ tím, hai bên má thì … tím đỏ một màu sim. Tôi cười phá lên, em cũng cười theo !
alt
Cuối mùa đông năm ấy, bất chấp những lời can ngăn, hứa hẹn can thiệp của ông bà tham Kỳ, tôi lên đường theo kháng chiến. Hôm tiễn tôi, em theo mãi ra tận đầu làng và lặng lẽ đứng nhìn theo. Tôi đi lên tới bờ đê, nhìn xuống đầu làng,em vẫn đứng đó nhỏ bé và mong manh. Em giơ bàn tay nhỏ xíu như chiếc lá sim ra vẫy tôi. Tôi vẫy trả và lầm lũi đi … Tôi quay đầu nhìn lại … em vẫn đứng yên đó … Tôi lại đi và nhìn lại đến khi không còn nhìn thấy em nữa …
Những năm tháng ở chiến khu, thỉnh thoảng tôi vẫn được tin tức từ quê lên, cho biết em vẫn khỏe và đã khôn lớn. Sau này, nghe bạn bè kể lại, khi em mới 15 tuổi đã có nhiều chàng trai đên ngỏ lời cầu hôn nhưng em cứ trốn trong buồng, không chịu ra tiếp ai bao giờ …
Chín năm sau, tôi trở lại nhà, về Nông Cống tìm em. Hôm gặp em ở đầu làng, tôi hỏi em, hỏi rất nhiều, nhưng em không nói gì, chỉ bẽn lẽn lắc hoặc gật đầu. Em giờ đây không còn là cô học trò Ninh bướng bỉnh nữa rồi. Em đã gần 17 tuổi, đã là một cô gái xinh đẹp …
Yêu nhau lắm nhưng tôi vẫn lo sơ,ï vì hai gia đình không môn đăng hộ đối một chút nào. Mãi sau này mới biết việc hợp hôn của chúng tôi thành công là do bố mẹ em ngấm ngầm « soạn kịch bản ».
Một tuần sau đó, chúng tôi kết hôn. Tôi bàn việc may áo cưới thì em gạt đi, không đòi may áo cưới trong ngày hợp hôn, bảo rằng là :’yêu nhau, thương nhau cốt là cái tâm và cái tình bền chặt là hơn cả’. Tôi cao ráo, học giỏi, Làm thơ hay … lại đẹp trai nên em thường gọi đùa là anh chồng độc đáo. Đám cưới được tổ chức ở ấp Thị Long,huyện Nông Công, tỉnh Thanh Hoá của gia đình em, nơi ông Lê Đỗ Kỳ có hàng trăm mẫu ruộng. Đám cưới rất đơn sơ, nhưng khỏi nói, hai chúng tôi hạnh phúc hơn bao giờ hết !
Hai tuần phép của tôi trôi qua thật nhanh, tôi phải tức tốc lên đường hành quân, theo sư đoàn 304, làm chủ bút tờ Chiến Sĩ. Hôm tiễn tôi lên đường, Em vẫn đứng ở đầu làng, nơi chín năm trước em đã đứng. Chỉ giờ em không còn cô bé Ninh nữa, mà là người bạn đời yêu quý của tôi. Tôi bước đi, rồi quay đầu nhìn lại … Nếu như 9 năm về trước, nhìn lại chỉ thấy một nỗi buồn man mát thì lần này, tôi thật sự đau buồn. Đôi chân tôi như muốn khuỵu xuống.
Ba tháng sau, tôi nhận được tin dữ : vợ tôi qua đời ! Em chết thật thảm thương : Hôm đó là ngày 25/05 âm lịch năm 1948, em đưa quần áo ra giặt ngoài sông Chuồn (thuộc ấp Thị Long, Nông Cống), vì muốn chụp lại tấm áo bị nước cuốn trôi đi nên trượt chân chết đuối ! Con nước lớn đã cuốn em vào lòng nó, cướp đi của tôi người bạn lòng tri kỷ, để lại tôi nỗi đau không gì bù đắp nổi. Nỗi đau ấy, gần 60 năm qua, vẫn nằm sau thẳm trong trái tim tôi …
Tôi phải giấu kính nỗi đau trong lòng, không được cho đồng đội biết để tránh ảnh hưởng đến tinh thần chiến đấu của họ. Tôi như một cái xác không hồn … Dường như càng kèm nén thì nỗi đau càng dữ dội hơn. May sao, sau đó có đợt chỉnh huấn, cấp trên bảo ai có tâm sự gì cứ nói ra, nói cho hết. Chỉ chờ có thế, cơn đau trong lòng tôi được bung ra. Khi ấy chúng tôi đang đóng quân ở Nghệ An, Tôi ngồi lặng đi ở đầu làng, hai mắt tôi đẫm nước, tôi lấy bút ra ghi chép. Chẳng cần phải suy nghĩ gì, những câu những chữ mộc mạc cứ trào ra :
 
 

Nhà nàng có ba người anh đi bộ đội
Những em nàng có em chưa biết nói
Khi tóc nàng đang xanh …
… Tôi về không gặp nàng …
Về viếng mộ nàng, tôi dùng chiếc bình hoa ngày cưới làm bình hương, viết lại bài thơ vào chiếc quạt giấy để lại cho người bạn ở Thanh Hoá … Anh bạn này đã chép lại và truyền tay nhau trong suốt những năm chiến tranh. Đó là bài thơ Màu Tím Hoa Sim.
Đến đây, chắc bạn biết tôi là Hữu Loan, Nguyễn Hữu Loan, sinh ngày 02/04/1916 hiện tại đang « ở nhà trông vườn » ở làng Nguyên Hoàn – nơi tôi gọi là chỗ « quê đẻ của tôi đấy » thuộc xã Mai Lĩnh, huyện Nga Sơn tỉnh Thanh Hoá.
Em Ninh rất ưa mặc áo màu tím hoa sim. Lạ thay, nơi em bị nước cuốn trôi dưới chân núi Nưa cũng thường nở đầy những bông hoa sim tím. Cho nên tôi viết mới nổi những câu :
Chiều hành quân, qua những đồi sim
Những đồi sim, những đồi hoa sim
Những đồi hoa sim dài trong chiều không hết
Màu tím hoa sim, tím cả chiều hoang biền biệt
Và chiều hoang tím có chiều hoang biếc
Chiều hoang tim tím thêm màu da diết.
alt

Mất nàng, mất tất cả, tôi chán đời, chán kháng chiến, bỏ đồng đội, từ giã văn đàn về quê làm ruộng, một phần cũng vì tính tôi’ hay cãi, thích chống đối, không thể làm gì trái với suy nghĩ của tôi’. Bọn họ chê tôi ủy mị, hoạch hoẹ đủ điều, không chấp nhận đơn từ bỏ kháng chiến của tôi. Mặc kệ ! Tôi thương tôi, tôi nhớ hoa sim của tôi quá ! với lại tôi cũng chán ngấy bọn họ quá rồi !
Đó là thời năm 1955-1956, khi phong trào văn nghệ sĩ bùng lên với sự xuất hiện của nhóm Nhân Văn Giai Phẩm chống chính sách độc tài, đồng thời chống những kẻ bồi bút cam tâm lừa thầy phản bạn, dốc tâm ca ngợi cái này cái nọ để kiếm chút cơm thừa canh cặn. Làm thơ phải có cái tâm thật thiêng liêng thì thơ mới hay. Thơ hay thì sống mãi. Làm thơ mà không có tình, có tâm thì chả ra gì ! Làm thơ lúc bấy giờ là phải ca tụng, trong khi đó tôi lại đề cao tình yêu, tôi khóc người vợ tử tế của mình, người bạn đời hiếm có của mình. Lúc đó tôi khóc như vậy họ cho là khóc cái tình cảm riêng … Y như trong thơ nói ấy, tôi lấy vợ rồi ra mặt trận, mới lấy nhau chưa được hơn 1 tháng, ở nhà vợ tôi đi giặt rồi chết đuối ở sông … Tôi thấy đau xót, tôi làm bài thơ ấy tôi khóc, vậy mà họ cho tôi là phản động.. Tôi phản động ở chỗ nào ? Cái đau khổ của con người, tại sao lại không được khóc ?
Bọn họ xúc phạm đến tình cảm thiêng liêng của tôi đối với người vợ mà tôi hằng yêu quý, cho nên vào năm 1956, tôi bỏ đảng, bỏ cơ quan, về nhà để đi cày. Họ không cho bỏ, bắt tôi phải làm đơn xin. Tôi không xin, tôi muốn bỏ là bỏ, không ai bắt được ! Tôi bỏ tôi về, tôi phải đi cày đi bừa, đi đốn củi, đi xe đá để bán. Bọn họ bắt giữ xe tôi, đến nỗi tôi phải đi xe cút kít, loại xe đóng bằng gỗ, có một bánh xe cũng bằng gỗ ở phía trước, có 2 cái càng ở phía sau để đủn hay kéo. Xe cút kít họ cũng không cho, tôi phải gánh bộ. Gánh bằng vai tôi, tôi cũng cứ gánh, không bao giờ tôi bị khuất phục. Họ theo dõi, ngăn cản, đi đến đâu cũng có công an theo dõi, cho người hại tôi … Nhưng lúc nào cũng có người cứu tôi ! Có một cái lạ là thơ của tôi đã có lần cứu sống tôi ! Lần đó tên công an mật nói thật với tôi là nó được giao lệnh giết tôi, nhưng nó sinh ở Yên Mô, thường đem bài Yên Mô của tôi nói về tỉnh Yên Bình quê nó ra đọc cho đỡ nhớ, vì vậy nó không nỡ giết tôi.
Ngoài Yên Mô, tôi cũng có một vài bài thơ khác được mết chuộng. sau năm 1956, khi tôi về rồi thấy cán bộ khổ quá, tôi đã làm bài Chiếc Chiếu, kể chuyện cán bộ khổ đến độ không có chiếc chiếu để nằm !
Định mệnh đưa đẩy, dắt tôi đến với một phụ nữ khác, sống cùng tôi cho đến tận bây giờ. Cô tên Phạm Thị Nhu, cũng là phụ nữ có tâm hồn sâu sắc. Cô vốn là một nạn nhân của chiến dịch cải cách ruộng đất, đấu tố địa chủ năm 1954-1955.
Lúc đó còn là chính trị viên của tiểu đoàn, tôi thấy tận mắt những chuyện đấu tố. Là người có học, lại có tâm hồn nghệ sĩ nên tôi cảm thấy chán nản quá, không còn hăng hái nữa. Thú thật, lúc đó tôi thất vọng vô cùng. Trong một xã thuộc huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hoá, cách xa nơi tôi ở 15 cây số, có một gia đình địa chủ rất giàu, nắm trong gần 500 mẫu tư điền.
Trước đây, ông địa chủ đó giàu lòng nhân đạo và rất yêu nước. Ông thấy bộ đội sư đoàn 304 của tôi thiếu ăn, nên ông thường cho tá điền gánh gạo đến chỗ đóng quân để ủng hộ. Tôi là trưởng phòng tuyên huấn và chính trị viên của tiểu đoàn nên phải thay mặt anh em ra cám ơn tấm lòng tốt của ông, đồng thời đề nghị lên sư đoàn trưởng trao tặng bằng khen ngợi để vinh danh ông. Thế rồi, một hôm, Tôi nghe tin gia đình ông đã bị đấu tố . Hai vợ chồng ông bị đội Phóng tay phát động quần chúng đem ra cho dân xỉ vả, rồi chôn xuống đất, chỉ để hở hai cái đầu lên. Xong họ cho trâu kéo bừa đi qua đi lại 2 cái đầu đó, cho đến chết. Gia đình ông bà địa chủ bị xử tử hết, chỉ có một cô con gái 17 tuổi được tha chết nhưng bị đội Phóng tay phát động đuổi ra khỏi nhà với vài bộ quần áo cũ rách. Tàn nhẫn hơn nữa, chúng còn ra lệnh cấm không cho ai được liên hệ, nuôi nấng hoặc thuê cô ta làm công. Thời đó, cán bộ cấm đoán dân chúng cả việc lấy con cái địa chủ làm vợ làm chồng.
Biết chuyện thảm thương của gia đình ông bà địa chủ tôi hằng nhớ ơn, tôi trở về xã đó xem cô con gái họ sinh sống ra sao vì trước kia tôi cũng biết mặt cô ta. Tôi vẫn chưa thể nào quên được hình ảnh của một cô bé cứ buổi chiều lại lén lút đứng núp bên ngoài cửa sổ, nghe tôi giảng Kiều ở trường Mai Anh Tuấn.
Lúc gần tới xã, tôi gặp cô ta áo quần rách rưới, mặt mày lem luốc. Cô đang lom khom nhặt những củ khoai mà dân bỏ sót, nhét vào túi áo, chùi vội một củ rồi đưa lên miệng gặm, ăn khoai sống cho đỡ đói. Quá xúc động, nước mắt muốn ứa ra, tôi đến gần và hỏi thăm và được cô kể lại rành rọt hôm bị đấu tố cha mẹ cô bị chết ra sao. Cô khóc rưng rức và nói rằng gặp ai cũng bị xua đuổi ; hằng ngày cô đi mót khoai ăn đỡ đói lòng, tối về ngủ trong chiếc miếu hoang, cô rất lo lắng, sợ bị làm bậy và không biết ngày mai còn sống hay bị chết đói.
Tôi suy nghĩ rất nhiều, bèn quyết định đem cô về làng tôi, và bất chấp lệnh cấm, lấy cô làm vợ.
Sự quyết định của tôi không lầm. Quê tôi nghèo, lúc đó tôi còn ở trong bộ đội nên không có tiền, nhưng cô chịu thương chịu khó, bữa đói bữa no … Cho đến bây giờ cô đã cho tôi 10 người con – 6 trai, 4 gái – và cháu nội ngoại hơn 30 đứa !

alt

Trong mấy chục năm dài, tôi về quê an phận thủ thường, chẳng màng đến thế sự, ngày ngày đào đá núi đem đi bán, túi dắt theo vài cuốn sách cũ tiếng Pháp, tiếng Việt đọc cho giải sầu, lâu lâu nổi hứng thì làm thơ. Thế mà chúng vẫn trù dập, không chịu để tôi yên. Tới hồi mới mở cửa, tôi được ve vãn, mời gia nhập Hội Nhà Văn, tôi chẳng thèm ra nhập làm gì.
Năm 1988, tôi « tái xuất giang hồ » sau 30 năm tự chôn và bị chôn mình ở chốn quê nghèo đèo heo hút gío. Tôi lang bạt gần 1 năm trời theo chuyến đi xuyên Việt do hội văn nghệ Lâm Đồng và tạp chí Langbian tổ chức để đòi tự do sáng tác, tự do báo chí – xuất bản và đổi mới thực sự.
Vào tuổi gần đất xa trời, cuối năm 2004, công ty Viek VTB đột nhiên đề nghị mua bản quyền bài Màu Tím Hoa Sim của tôi với gía 100 triệu đồng. Họ bảo, đó là một hình thức bảo tồn tài sản Văn hoá. Thì cũng được đi. Khoản tiền 100 triệu trừ thuế đi còn 90 triệu, chia « lộc » cho 10 đứa con hết 60 triệu đồng, tôi giữ lại 30 triệu đồng, phòng đau ốm lúc tuổi gìa, sau khi trích một ít để in tập thơ khoảng 40 bài mang tên Thơ Hữu Loan.
Sau vụ này cũng có một số công ty khác xin ký hợp đồng mua mấy bài thơ khác nhưng tôi từ chối, thơ tôi làm ra không phải để bán…”.
 
Nhà Thơ  HỮU LOAN
 
 
Màu tím hoa sim
                   HỮU LOAN
Nàng có ba người anh đi bộ đội
Những em nàng
Có em chưa biết nói
Khi tóc nàng xanh xanh
Tôi người Vệ quốc quân
xa gia đình
Yêu nàng như tình yêu em gái
Ngày hợp hôn
nàng không đòi may áo mới
Tôi mặc đồ quân nhân
đôi giày đinh
bết bùn đất hành quân
Nàng cười xinh xinh
bên anh chồng độc đáo
Tôi ở đơn vị về
Cưới nhau xong là đi
Từ chiến khu xa
Nhớ về ái ngại
Lấy chồng thời chiến binh
Mấy người đi trở lại
Nhỡ khi mình không về
thì thương
người vợ chờ
bé bỏng chiều quê…
Nhưng không chết
người trai khói lửa
Mà chết
người gái nhỏ hậu phương
Tôi về
không gặp nàng
Má tôi ngồi bên mộ con đầy bóng tối
Chiếc bình hoa ngày cưới
thành bình hương
tàn lạnh vây quanh
Tóc nàng xanh xanh
ngắn chưa đầy búi
Em ơi giây phút cuối
không được nghe nhau nói
không được trông nhau một lần
Ngày xưa nàng yêu hoa sim tím
áo nàng màu tím hoa sim
Ngày xưa
một mình đèn khuya
bóng nhỏ
Nàng vá cho chồng tấm áo
ngày xưa…
Một chiều rừng mưa
Ba người anh trên chiến trường đông bắc
Được tin em gái mất
trước tin em lấy chồng
Gió sớm thu về rờn rợn nước sông
Đứa em nhỏ lớn lên
Ngỡ ngàng nhìn ảnh chị
Khi gió sớm thu về
cỏ vàng chân mộ chí
Chiều hành quân
Qua những đồi hoa sim
Những đồi hoa sim
những đồi hoa sim dài trong chiều không hết
Màu tím hoa sim
tím chiều hoang biền biệt
Có ai ví như từ chiều ca dao nào xưa xa
Áo anh sứt chỉ đường tà
Vợ anh chưa có mẹ già chưa khâu
Ai hỏi vô tình hay ác ý với nhau
Chiều hoang tím có chiều hoang biết
Chiều hoang tím tím thêm màu da diết
Nhìn áo rách vai
Tôi hát trong màu hoa
Áo anh sứt chỉ đường tà
Vợ anh mất sớm, mẹ già chưa khâu… Màu tím hoa sim, tím tình trang lệ rớm
Tím tình ơi lệ ứa Ráng vàng ma và sừng rúc điệu quân hành
Vang vọng chập chờn theo bóng những binh đoàn
Biền biệt hành binh vào thăm thẳm chiều hoang màu tím
Tôi ví vọng về đâu
Tôi với vọng về đâu
Áo anh nát chỉ dù lâu…

---------
Qua giong ngam cua To Kieu Ngan tren YOUTUBE :

http://www.youtube.com/embed/BCEGXk744aU

Khóc



 14.03.2013

 

Song Thao

Năm ngoái, tôi đã nói chuyện tại Montreal về hiện trạng sách vở tại hải ngoại. Khi đề cập đến cái chết đang tới dần của sách in, tôi đã nghẹn ngào phải dừng lại một lúc mới nói tiếp được. Không hiểu lúc đó sao tự dưng tôi lại cảm động đến vậy. Chắc vì những người viết chúng tôi quá bị ràng buộc vào những cuốn sách, của mình cũng như của bạn bè, đến nỗi coi sách như máu mủ của chính mình. Nay trước sự xâm lấn của internet với sách điện tử e-book khiến sự mai một của sách in đã gần kề, tôi đã phải mủi lòng cho máu mủ của mình chăng? Trên đường về, khi nhà tôi hỏi về… biến cố này, tôi đã gạt đi không muốn nhắc tới nữa.

Bạn tôi, nhạc sĩ Từ Công Phụng, trong một chương trình trên Paris by Night, khi hát bài Mãi Mãi Bên Em, mắt cũng ngấn lệ. Ai coi cũng thấy. Sau đó, nhân điện thoại về một chuyện khác, tôi đã vui miệng hỏi về những giọt nước mắt này, bạn tôi ngần ngừ bảo đó là vì ánh đèn chiếu vào chói quá nên chảy nước mắt.

Từ Công Phụng và tôi, rõ ràng chúng tôi đã rơi lệ vì cảm động, vậy mà khi được hỏi lại muốn chối. Bởi vì chúng tôi là đàn ông! Đàn ông phải cho ra đàn ông, chúng tôi được huấn luyện tử nhỏ như vậy. Nhớ ngày nhỏ, xệch miệng ra nhè lên một tiếng là bị mắng: “Con trai chi mà động một tí là chảy nước… đái!”. Chuyện khóc hình như chỉ dành cho con gái. Con gái tha hồ khóc, lại còn được dỗ dành ve vuốt. Vậy nên ngay từ nhỏ con trai đã phải cứng rắn, đó là chuyện bình thường. Khóc đối với đàn ông con trai là thứ không có chi vinh quang. Tiến sĩ tâm lý học Janice Kelly của Đại học Purdue giải thích: khi người đàn ông hoặc đàn bà biểu hiện cảm xúc không phù hợp với các khuôn mẫu giới tính đã quen với quan niệm của chúng ta từ lâu, ta có khuynh hướng nghĩ rằng đó mới là những cảm xúc nghiêm trọng cần được hỗ trợ. Còn nếu nó diễn ra theo khuôn mẫu có sẵn là chuyện bình thường.

Tôi với ông Từ Công Phụng như vậy là đã có những giọt nước mắt không bình thường. Nghe ra rất mất mặt bầu cua. Không biết ông nhạc sĩ… từ từ (thỉnh thoảng tôi lại bị nói lắp) cảm thấy sao chứ tôi thấy hơi nhột. Nhột nên tôi chơi trò biển lận: coi xem các ông khác có nước mắt không. Có cả đấy. Tôi lục tung thơ của hai ông bạn Hoàng Lộc và Luân Hoán. Đích thị là các vị này có sụt sùi. Ông Hoàng Lộc sụt sùi vì tình, dĩ nhiên. Ông này vẫn được chúng tôi coi là nòi tình.

hạt lệ ta hạt lệ người
kể như đã thấm vào nơi tuyệt tình?
hạt lệ em hạt lệ mình
có khi rớt ở biển xanh mất rồi?

em từng khóc giữa ngày vui
giữa đêm trăng khuyết giữa lời thơ xưa?
ta từng khóc với thờ ơ
với em – bất tận cõi bờ thời gian…

Ông Luân Hoán nhỏ lệ oai hơn tuy ông cũng tình chẳng kém chi ông Hoàng Lộc. Hạt lệ của ông dành cho non sông. Nơi xứ người, ngồi nghĩ lại những ngày chinh chiến xưa, thiếu bàn chân trái đã để lại nơi chiến trường Quảng Ngãi, ông kiếm lại những giọt nước mắt cũ.

chẳng dám trách ai gây chiến cuộc
quê nghèo nhược tiểu, không buông xuôi
lặng xếp bản đồ cho vào túi
thắp sáng tự do đứng thẳng người
từng khóc hồn nhiên như con nít
sau khi chiếm trọn được mục tiêu
hôn lên lá nát cành cây gãy
nghe thấu non sông buồn hắt hiu
.

Đồng… khóc như vậy cũng vui. Ít nhất mỗi người cũng được an ủi là mình không… bất thường. Nếu muốn được an ủi hơn nữa thì cứ mở mấy băng Paris by Night có ông Anh Khoa hát. Thấy chàng ca sĩ này giọt ngắn giọt dài mà lòng thấy nhẹ nhàng vì những giọt nước mắt của mình chẳng ăn thua chi với những suối lệ mà ông Anh Khoa mang từ bên Hung qua. Nhưng ông Anh Khoa lại vừa có một an ủi lớn. Đó là ngay cả ông Obama cũng khóc! Phải nói ngay là ông này không phải là bạn tôi nhưng tôi cứ quàng ông ấy vào đây. Chuyện xảy ra trong cuộc bầu cử tháng 11 vừa qua. Chàng Obama đã… nhè tới hai lần. Một lần trước ngày bỏ phiếu và một lần sau khi đắc cử. Trong buổi vận động cuối cùng vào ngày 5 tháng 11, một ngày trước khi dân chúng đi bỏ phiếu, tại Des Moines, tiểu bang Iowa, chàng Obama đã khóc vì hồi tưởng lại quá khứ. Chính tại Iowa, bốn năm trước, chàng đã thắng cuộc bầu cử sơ bộ đầu tiên mở đường vào Tòa Bạch Ốc của người da màu đầu tiên trong lịch sử Hoa Kỳ. Lần thứ hai tonton Obama không cầm được nước mắt khi ông tới trụ sở ban vận động bầu cử của ông tại Michigan một ngày sau khi được tái cử. Tại đây ông đã phát biểu rất ngắn, chỉ có 5 phút, trước những tình nguyện viên mà đa số là những người trẻ. Ông nhắc lại thời gian đầu ông tới Chicago vào năm 1980. Phút ban đầu tới nơi này khi công danh chưa ra làm sao cả đã làm nước mắt nhòe nhoẹt trên mặt vị tonton vừa được tín nhiệm lại thêm một nhiệm kỳ nữa. Mới đây, cảm động hơn, là những giọt nước mắt của ông Obama khi ngỏ lời với dân Mỹ về vụ thảm sát tại trường tiểu học Sandy Hook ở Newtown, tiểu bang Connecticut, ngày 14 tháng 12 vừa qua, khiến 26 người chết trong đó có 20 em nhỏ từ 4 tới 10 tuổi.

Đứng đầu cường quốc số một trên thế giới, quyền uy nghiêng trời lệch đất, vậy mà khi đụng tới con tim, nước mắt cũng nhỏ dài trên mặt. Nước mắt đàn ông thời buổi này không còn là của hiếm. Đó là phút bộc lộ tình cảm trung thực của con người. Dù đàn ông hay đàn bà, chuyện xúc động đến rơi nước mắt là chứng tỏ đó là một con người có tình có nghĩa. Vậy thì việc chi phải giấu!

Ngầu như ông Vladimir Putin mà cũng… lệ! Tháng 3 vừa qua, ông tổng thống rồi thủ tướng, thủ tướng rồi tổng thống của Nga đã khóc ngon lành khi tái đắc cử chức tổng thống sau khi nhờ ông nguyên Thủ tướng Dmitri Medvedev, đệ tử của ông, giữ dùm một nhiệm kỳ theo đúng hiến pháp. Ông này coi chính quyền Nga như thứ bỏ trong túi quần, làm tổng thống hai nhiệm kỳ, không được tái ứng cử thêm, ông đã nhờ đệ tử Medvedev mà ông bố trí cho làm thủ tướng ra làm tổng thống, còn ông lui về làm thủ tướng chờ tới nhiệm kỳ sau lại ra ứng cử làm tổng thống lại. Ông nội này nguyên là dân tình báo KGB nổi tiếng về những hành động táo bạo, lì lợm trong chính trường. Khi tranh cử ông bị dân chúng chống đối qua các cuộc biểu tình rầm rộ. Cuối cùng ông vẫn thắng cử. Thắng trong gian nan nên ông vui mừng quá độ, khóc! Mấy ông cựu Cộng sản lại thuộc tình báo như ông Putin mấy khi để lộ tình cảm ra ngoài. Vậy mà trong một lúc xúc động cũng đã nhè. Giới đối lập với ông tha hồ chỉ trích sự mau nước mắt này nhưng dư luận vẫn không cho ông là yếu đuối. Thời nay khác rồi. Người ta trọng những chân tình chứ không mặn mà với những người lên gân. Nam nhi khóc, thì đã sao?

Đâu có như bốn chục năm trước, năm 1972. Năm đó ông Thượng nghị sĩ Edmund Muskie ra tranh cử trong đảng Dân chủ để được đề cử làm ứng viên tranh cử chức tổng thống Mỹ. Đối thủ của ông là Thượng nghị sĩ George McGovern. Trong một lần tranh cử, khi lên tiếng bênh vực cho bà vợ bị một tờ báo lớn ở New Hampshire đả kích, ông Muskie đã chảy nước mắt. Sau đó, khi bị báo chí chất vấn, ông nói không phải ông khóc mà ông chỉ gạt tuyết rơi trên mặt! Ông này coi bộ giống ông nhạc sĩ họ Từ. Lời chống chế của ông không có ép-phê. Ông vẫn bị coi là yếu đuối và bất ổn tinh thần nên thất bại. Ông McGovern đại diện cho đảng Dân chủ tranh chức tổng thống với ứng cử viên đảng Cộng hòa là Richard Nixon. Đảng Cộng hòa thắng và dân Việt Nam chúng ta lãnh hậu quả của những giọt nước mắt này. Chính Tổng thống Nixon và Ngoại trưởng Kissinger sau đó đã bán đứng Việt Nam!

Một chính khách nổi tiếng cứng rắn khác là bà Thủ tướng Anh Margaret Thatcher, người được gán cho hỗn danh là Người Đàn Bà Sắt (Iron Lady). Sắt cũng chảy nuớc mắt như thường. Bà đã rơi lệ khi rời dinh thủ tướng vào ngày 28 tháng 10 năm 1990 sau 11 năm mần thủ tướng. Đang nói chuyện đàn ông khóc, lại quẹo qua bà Thatcher, hình như tôi đã vượt hàng rào giới tính. Không đâu. Tôi cứ khơi khơi coi bà… sắt thép Thatcher như bọn đực rựa chúng ta. Chắc chẳng có chi sai!

Đàn bà mà như bà Thatcher, đàn ông như mấy chàng thanh niên trong nước, fan của các ngôi sao ca nhạc và phim bộ Hàn Quốc, ai đàn ông hơn ai! Thanh niên nước Việt òa khóc như cha chết mẹ chết khi thấy thần tượng xuất hiện. Vui hơn nữa là có chàng dí mũi vào ngửi chiếc ghế nơi sao Hàn đặt bàn tọa trước đó. Nhà thơ Đỗ Trung Quân ngứa mắt mắng mấy anh chàng bạc nhược hay nhè này. Nhà thơ mà mắng thì dĩ nhiên mắng bằng thơ.

Nói thật
Bọn tôi đàn ông cũng có khi rơi nước mắt
Khi nhìn xác đồng bào, ôm trong tay đồng đội.
Sắt đá vẫn nghẹn ngào.
Nhưng các em ạ
Chúng tôi không bao giờ rơi lệ
Những chuyện tào lao
Chúng tôi không mất thời giờ nửa đêm run rẩy, gào thét trước cổng sân bay để đón đứa lạ huơ lạ hoắc
Đến bố mẹ ở nhà cũng chả biết đi đâu
Tôi nghĩ đơn giản thế này
Bố tôi chết tôi mới khóc
Mẹ tôi chết tôi mới khóc
Bạn tôi chết tôi mới khóc
Đồng bào tôi mất tích ngoài biển Đông tôi mới khóc
Nước mắt ngày càng quý lắm các em ạ
Hãy cố mà để dành
Mà nhỏ xuống cho điêu linh đất nước
Mà rưng rưng cho nỗi nhục bị cỡi cổ đè đầu
Làm nô lệ
Tôi bảo các em lần này thôi nhé
Đừng làm xấu hổ thêm xứ sở mình
Nhục
Biển Đông
Quá
Đủ.

Mắng đến thế tôi nghĩ cũng là quá đủ. Thôi, ta nói chuyện khác! Vấn vương chi chuyện tào lao của những trang thanh niên đốn mạt của thế hệ này. Chúng ta đi tìm gặp một câu chuyện khóc… vui hơn nhiều. Nhà văn Nguyễn Quang Lập có một cái blog khá phổ biến mang tên Quê Choa. Nghe cái tên Quê Choa thấy đã lạ. Đó là phương ngữ của quê hương ông, Quảng Bình, nghĩa là quê ta, quê cha hoặc quê mình chi đấy. Tôi hay vào coi blog này và ít khi tìm được lối ra nếu chưa đọc hết các bài mới được post mỗi ngày. Bài viết khá ngắn, nhiều bài cũn cỡn, được viết bằng một lối văn giản dị nhưng nội dung hay hết biết. Vừa thâm thúy vừa cay đắng. Phần lớn bài viết đề cập tới các vấn đề chính trị hay xã hội nhưng thỉnh thoảng cũng có những bài tự sự rất cảm động. Tôi mới đọc được một bài loại này mang tên “Một Mối Tình”. Cái tên nghe có vẻ cải lương và thường tình nhưng đọc xong bỗng dưng muốn… khóc.

Nhân vật chính là Công. “Anh Công học Bách Khoa trước mình hai khóa, khoa Động Lực hay Chế Tạo Máy chi đó. Mình hay ra sân vận động nhà trường đá bóng, quen anh ở đó. Anh cao lớn trắng trẻo đẹp trai hệt tài tử điện ảnh, nhiều người bầu anh đẹp trai số một Hà Thành… Anh đá bóng cũng khá, đánh bóng chuyền cực hay… Mình là fan của anh Công, cả bóng chuyền lẫn văn nghệ, anh kéo đàn accordeon nổi tiếng, chơi guitar rất hay”.

Văn võ toàn tài lại đẹp trai nhất Hà Thành, đường bồ bịch của Công nhất định phải khá. Muốn cô nào được cô nấy, chẳng mất công nhọc sức chi. “Một lần mình uống cà phê với anh ở Quán Gió công viên Thống Nhất (mình thích cái tên này hơn, nó không hay nhưng nghe được. Chả biết ai đặt cho nó cái tên Công Viên Lê Ninh, nghe chối bỏ mẹ), hai anh em ngồi gần bàn hai cô gái, một cô cực xinh, vẻ như sinh viên trường múa hay trường sân khấu điện ảnh, hai trường này tuyển toàn gái đẹp. Anh Công nháy mình chỉ cô xinh, nói duyệt được không. Mình gật đầu cái rụp. Nói duyệt. Tưởng nói chơi vậy thôi, té ra tuần sau đã thấy anh cặp kè cô này rồi. Chừng vài tháng sau thấy anh cặp kè với cô khác. Mình nói cô bé xinh thế sao anh bỏ đi, phí của giời. Anh cười, nói không bỏ sao yêu được cô khác, tao chung thủy ngút trời kiên quyết không yêu chùm. Chung thủy của anh các cô gái gọi là chung thủy Đông Gioăng. Cô nào cũng biết anh có biệt danh ấy nhưng hễ anh buông câu là cắn câu liền không hề do dự, hi hi thế mới kỳ”.

Rồi Công bị bắt quả tang đang hủ hóa với gái. Với ai? Với cái cô xinh xinh đó. Có chơi có chịu, anh bị đuổi học hai năm nhưng anh coi như pha. “Tao thì không sao, đuổi học hai năm là cái đinh, nhưng nàng thì gay, gay lắm. Mình hỏi sao. Anh nói nhà trường bên đó làm căng lắm, đuổi thì đuổi cha xong, bày trò kiểm điểm bêu riếu con người ta. Nhà nàng cũng bị nhà trường điều lên mắng nhiếc nàng, ép nàng bỏ tao cho bằng được. Anh thở dài khẽ lắc đầu, nói tao sợ nàng phát điên mày ạ. Thật đấy, người ta con gái nhà lành biêu riếu cỡ đó chịu sao thấu”.

Ngày hôm sau người con gái nhảy lầu tự tử, gãy cột sống, liệt toàn thân, coi như xong đời! “Anh bật khóc. Khóc rất nhanh, vừa trào nước mắt liền lau khô ngay, anh đứng bật dậy hất mặt lên, nói thôi, tao về đây”.

Công về quê sau khi bị đuổi học, một thời gian lâu sau đó, Nguyễn Quang Lập, có hỗn danh là “Bọ Lập”, mới gặp lại anh chàng Đông Gioăng. “Hôm sau anh đến đón mình đi uống bia hơi, uống no bia anh đưa về thăm nhà anh ở sát chung cư Quỳnh Lôi, nói tao hay kể mày cho vợ tao nghe, vợ tao đọc blog Quê Choa của mày suốt ngày. Thú thật mình cũng không quan tâm lắm vợ anh là ai, cũng không nhớ chuyện đau lòng của anh ngày xưa nữa. Khi anh dắt mình vào buồng, nói em ơi đây là thằng duyệt cho anh yêu em, mình mới ngớ ra. Người đàn bà héo hon nằm trên giường nhìn mình mỉm cười, gương mặt méo mó. Nụ cười cũng méo mó. Không ngờ vợ anh Công là cô gái nhảy lầu tự vẫn năm nào!”.

Công nói anh đã phải thuyết phục nhiều lần cô gái tự vẫn mới chịu lấy anh. Cô đã thêm một lần nữa uống thuốc ngủ tự tử để người yêu yên tâm lấy vợ nhưng may người nhà phát giác kịp. Anh vội tổ chức đám cưới liền để ngăn cô đi tìm cái chết. “Đám cưới cách đây 25 năm, cô dâu mặt mày méo mó ôm bó hoa ngồi trên xe lăn, chú rể đẹp trai số một Hà Thành đẩy xe lăn đi vào hôn trường, mọi người vỗ tay rần rần, bạn bè anh tới dự ai cũng ứa nước mắt”.

Bạn bè của Công, tôi đồ chừng chắc phần lớn là bạn trai. Họ ứa nước mắt tiếp nối cho tiếng khóc của Công 25 năm trước. Nước mắt đàn ông, cực quá hè![ST]


VOA/Blog NXH .