18/4/13

BÀN THÊM VỀ CHUYỆN “HÒN ĐÁ LẠ” Ở ĐỀN HÙNG


Nguyễn Kiên Giang

Sau bài viết “Vài nhận định về hòn đá mang đạo bùa tại Đền Hùng” đăng trên trang TỄU – BLOG tôi cùng một số bạn trẻ (Nguiễn Lyn – Tây Ninh, Triển Đình – TP.HCM) tiếp tục nghiên cứu về vấn đề này. Hy vọng sẽ có kiến giải rõ ràng hơn nữa. 

1. Mới đây, các báo mạng đã đăng loạt bài nói về “hòn đá lạ” đó. Đọc thấy có những thông tin hệ trọng của vấn đề được hé mở. Đã trả lời được những câu hỏi cốt lõi sau: Lúc nào, vì đâu, để làm gì? Và, làm như thế nào? Cụ thể như sau:




a. Trong lần tu bổ khu di tích lịch sử Đền Hùng vào năm 2009, do phát hiện ra một viên gạch lạ ở Đền Thượng có ghi Hán tự có nghĩa: “Đánh đổ đức sáng vua Hùng” – và viên gạch này hiện vẫn còn để tại Bảo tàng Hùng Vương (?). Ông Nguyễn Minh Thông (một pháp sư, hiện là Giám đốc Trung tâm ứng dụng văn hóa phương Đông) có ý kiến với ông Nguyễn Tiến Khôi (Giám đốc Ban quản lý khu di tích Đền Hùng lúc đó) và lãnh đạo tỉnh Phú Thọ: “Viên gạch này tựa như bùa yểm xấu (còn gọi yểm đảo, không rõ ai đặt dưới nền cát, có từ bao giờ...) nên sau khi hoàn thành tu sửa Đền Thượng thì rất nên có đá đặt ở Đền để trấn yểm “phản” lại viên gạch yểm xấu kia”. Sau đó, “một số nhà khoa học, chuyên gia ngoại cảm đã vào cuộc hội thảo nhiều lần, khẳng định viên gạch này có từ cuối thời Trần, do đạo sỹ của quân Nguyên Mông mang đến đặt. Thời đó phía Nguyên Mông bị thua trận vì bị nhà Trần ta đánh tan ba lần, đã cử đạo sỹ được cải trang sang nước Nam ta, dùng thủ đoạn yểm bùa gạch này tại Đền Thượng”. Được sự đồng ý của ông Khôi và “một số lãnh đạo tỉnh Phú Thọ”, ông Thông nhận việc trấn yểm lại viên gạch lạ đó. Ông Thông đã “may mắn” được “ông Nguyễn Đình Khảm (Giám đốc một Cty đá quý trong Hội liên hiệp đá quý Việt Nam ở Hà Nội) công đức viên đá ngọc xanh này”. Viên đá đã đáp ứng mong muốn của ông Thông được ông này là “tác giả” của “hòn đá lạ” đó! Ngoài công dụng khắc chế lại tác hại của viên gạch lạ, ông Thông còn cho rằng nó còn “có khả năng hóa giải các hung khí và tiếp nhận năng lượng tốt của tinh tú trời đất cho Đền Hùng”. 

b. “Mặt trước đá chạm: “Trận đồ bát quái thiên tinh Phật Tổ Như Lai” dựa trên trận đồ bát quái trong Binh thư yếu lược của nhà Trần và theo mô phỏng của Từ điển thuật ngữ quân sự, gọi là Thiên tinh vì ghép tượng hình chòm sao Bắc Đẩu và trận đồ của Đức Thánh Trần ứng dụng khi đánh quân Nguyên Mông. Trên mặt của Trận đồ còn có câu mật chú thiền phái Mật Tông làm tăng hào quang của Phật và độ linh, độ uy của Phật để giải hóa bách nạn, bách khổ, bách bệnh cho nhân dân. Ông Thông khẳng định phải có linh khí của Phật thì mới cùng với linh khí của Đức Thánh Trần kết hợp thì mới hóa giải được bùa phép nguy hiểm đã bị yểm đảo của giặc phương Bắc. 

Văn bản trả lời của ông Thông cho biết tiếp, mặt sau của viên đá ngọc, phía trên là Ấn của Vua Hùng (mà hiện BQL Khu di tích lịch sử Đền Hùng đang dùng để in vào các tờ phiếu ghi công đức), dưới có chạm lá bùa giải bách họa cho nhân dân mà các nhà sư đi tu ai cũng biết.

Từ ngày được hóa giải đến nay, ông Thông cho rằng tỉnh Phú Thọ và Khu di tích Đền Hùng được đánh giá là phát triển rất tốt đẹp. Theo năm tháng, viên đá ngọc sẽ ngày càng tích năng lượng thu phát, các địa phương khác cùng với Phú Thọ cùng được hưởng phúc. Ông cũng cam đoan viên đá đang rất linh ứng và hiệu nghiệm”.

Theo “Tiền Phong Online”

2. Trong bài viết “Vài nhận định về hòn đá mang đạo bùa tại Đền Hùng” (nhận định căn cứ vào 02 hình ảnh có được dó TS Nguyễn Xuân Diện cung cấp), sau khi đã xem xét hòn đá ở các góc độ (mặt trước, mặt sau và chân đế), tôi nhận định sơ lược rằng: Nó là đạo bùa “Cát”, tức là bùa lành! Nhận định đó là nhận định về thông điệp mà hòn đá chuyển tải (xét công năng của bản thân nó theo những gì nó thể hiện). Chính ông Nguyễn Minh Thông - tác giả hòn đá cũng nói rằng nó “có khả năng hóa giải các hung khí và tiếp nhận năng lượng tốt của tinh tú trời đất cho Đền Hùng” đó thôi!

Theo những gì được biết từ bài báo đã dẫn, tôi xin phép đưa ra quan điểm cá nhân như sau:

a. Ông Nguyễn Tiến Khôi đã không thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ của mình (ở vị trí Giám đốc BQL Khu di tích lịch sử Đền Hùng) khi xử lý vấn đề này một cách vô nguyên tắc như vậy. 

Hãy nghe người kế nhiệm của ông Khôi là ông Nguyễn Xuân Các (hiện là Giám đốc BQL Khu di tích lịch sử Đền Hùng) nói: “Mọi vật phẩm có mặt tại đền Thượng nói riêng và khu di tích lịch sử Đền Hùng nói chung đều phải được phép của Ban quản lý và phải có hồ sơ, chứ không thể tùy tiện muốn đặt đâu cũng được. Hòn đá này hoàn toàn không có hồ sơ trong hồ sơ tu bổ đền Thượng”. Ông Các nói, việc bỏ lọt hồ sơ vật phẩm cung tiến này đã vi phạm nghiêm trọng Luật Di sản văn hóa và cần làm rõ, truy trách nhiệm cụ thể”.

Theo “Dân trí”

Ông Khôi biện hộ rằng “Đã làm tâm linh thì không thể bày vẽ hết các việc được. báo chí mình cứ nói lung tung thế thì còn gì là tâm linh nữa. Anh em cứ giở khoa học ra thì còn gì là tâm linh nữa”. Tôi nhận thấy sự bức bối trong những lời này của ông. Đúng thật, đặt mình vào vị trí của ông, trước một vấn đề như vậy (nếu đúng như vậy!), bất kỳ ai cũng lúng túng vì: không hành động thì không không đành, mà hành động thì lâm vào cảnh “nhân dân bảo có, nhà nước bảo không, các nhà khoa học thì đang nghiên cứu!”… biết sao cho vừa. Nên, việc ông trả lời một cách quẫn lý như vậy cũng đáng để chúng ta chia sẻ.

Tôi chỉ bàn đến cách xử lý của ông Khôi, vì “một số lãnh đạo tỉnh Phú Thọ” kia thì rất mơ hồ. Vấn đề là ai cố vấn cho ông? Sự cố vấn đó thế nào?

b. Người đó là ông Nguyễn Minh Thông (là một pháp sư, hiện là Giám đốc Trung tâm ứng dụng văn hóa phương Đông). 

Theo những gì ông Thông chia sẻ với báo giới, tôi nghĩ rằng ông đã cho chúng ta biết quá sơ sài, quá ít ỏi về lĩnh vực mà chúng ta vốn đã rất mơ hồ này. Tôi không khỏi băn khoăn tự hỏi: Hay, chính ông ta cũng mơ hồ nhỉ?! 

Những vấn đề cần ông Thông và những người liên quan làm rõ thêm để xua tan sự mơ hồ đó là:

- Viên gạch lạ được phát hiện ở Đền Thượng đó đang ở đâu (“nói có sách, mách có chứng” nhé)? Văn bản từ những hội thảo gồm “các nhà khoa học và một số nhà ngoại cảm” để kết luận viên gạch “do quân Nguyên trấn yểm” đâu rồi? Khi phát hiện viên đá, ông Thông có ý kiến rằng nó “tựa như bùa yểm xấu”, vậy tức là ông không dám khẳng định chắc chắn? Cứ cho là ý kiến của ông đúng, thì nó thuộc loại bùa gì, tạo nên từ cơ sở nào, dựa vào pháp lực nào, pháp lực đó tới đâu…? Nếu không trả lời được những câu hỏi này mà ông đã vội tìm cái viên đá kia làm bùa trấn yểm lại thì đúng là “nhắm mắt lao đầu vào kẻ địch giữa sương mù”, chí nguy! Hơn nữa, theo như ông, thì viên gạch đã được đưa ra khỏi Đền Thượng, tức là cái “cần bị trấn yểm” đã không còn nữa, thì cái “dùng để trấn yểm” có tác dụng gì, trấn yểm gì nữa đây! 

Trao đổi với TS Nguyễn Xuân Diện, được biết căn cứ vào các dấu tích kiến trúc thì Đền Hùng được xây cất khá muộn, và vào thời nhà Trần thế kỷ 13 thì việc “tên giặc Nguyên” nào đó lén đến Đền Hùng trấn yểm là kết luận khó thuyết phục.

- Về dòng chữ Hán (hay chữ Mông Cổ ?) trên viên gạch, theo ông Khôi và ông Thông cho biết nghĩa là: “Đánh đổ đức sáng vua Hùng”, thì thật sự quái lạ! Chúng ta hãy xét cái văn phong, văn khí này của “tên giặc Nguyên” khi dùng các từ “đức sáng”, “vua Hùng”, tôi không đủ cơ sở để kết luận, nhưng mọi người chắc sẽ có nhìn nhận của mình. Và điều này, trong phép trấn yểm, chẳng có pháp nào là trấn yểm cái “đức sáng” cả (Có thì chỉ ra cho tôi mở mắt với)!

- Về hòn đá được ông Nguyễn Đình Khảm công đức mà ông Thông dùng làm bùa trấn lại viên gạch lạ, theo tôi biết, nó chẳng phải là “đá ngọc xanh” gì, và cũng chẳng thấy được “chạm ngọc rubi và nhiều loại ngọc quý khác” như ông nói. Loại đá đó là đá Caxedon, một trong những loại đá thông dụng trong phong thủy, có ở các tỉnh Tây Nguyên của ta. Loại đá này được tạo tác bằng cách đánh bóng như vậy chỉ có hơn 10 năm trở lại đây. Đá phong thủy Caxedon cũng là thạch anh, nhung dạng tinh thể rất nhỏ (không lớn như thạch anh) gọi là ẩn tinh. Như vậy, thực chất đá phong thủy Caxedon không khác thạch anh về tinh chất hóa lý, mà chỉ khác về kích thước tinh thể. Đá Caxedon có tác dụng làm an bình tâm lý tình cảm của con người. Khuyên đeo đồ trang sức bằng đá canxedon đối với những người dễ bị kích động ngoài ra nó còn giúp điều trị bệnh loạn thần kinh và chức năng trầm uất. Đá phong thủy Caxedon cũng được coi là viên đá của tình yêu, nó thu hút trái tim của đàn ông về phía phụ nữ. Đồ trang sức hay đá bằng canxedon màu xanh da trời có khả năng loại trừ nỗi sợ hãi, đem đến cho người chủ niềm tin vào sức mạnh của chính mình. 

(Tham khảo http://haihoang.com/home/index.php?route=product/category&path=35&page=3, mẫu C.333)

- Về các phép tạo công năng của hòn đá mà ông Thông vận dụng, chúng ta thấy hỗn hợp các phép: Thần chú (Chân ngôn) của Phật giáo Mật Tông (Tây Tạng), Phù thuật của Đạo gia, Trận đồ của Binh pháp gia, Quẻ của Dịch học.

+ Về Thần chú (Chân ngôn) của Phật giáo Mật tông (Mật tông và Thiền tông là hai tông của Phật giáo, khác nhau ở pháp tu tập. Không có chuyện “thiền phái Mật tông” như bài báo nói), ta thấy ở mặt có dấu ấn (ấn vuông có bốn chữ “Tổ Vương Tứ Phúc”), một dòng chữ Phạn chạy dọc bên trái, đó là câu thần chú nổi tiếng nhất trong Phật Mẫu Chuẩn Đề Thần Chú: “Án Chiết Lệ Chủ Lệ Chuẩn Đề Ta Bà ha”. Chú Chuẩn Đề thường được các pháp sư dùng để cầu an gia trạch, trừ quỷ mị. Nhưng có vẻ, dòng chữ trên hòn đá này đã viết sai vì thiếu một chữ; Ở mặt có đồ hình Bát trận đồ (mà ông Thông goi là “Trận đồ bát quái thiên tinh Phật Tổ Như Lai”), có một dòng chữ Phạn nhỏ chạy dọc bên phải, sáu chữ cuối nhìn rõ đó là Lục Tự Đại Minh Chân Ngôn – Chân ngôn quan trọng nhất của Phật giáo Mật tông Tây Tạng: “Án Ma Ni Bát Mị Hồng”. Câu thần chú được coi là vi diệu nhất đối với sự trì tụng của người Tu mật.

+ Về Phù thuật của Đạo gia, ở mặt có dấu ấn, họa tiết lớn nằm giữa là họa tiết của đạo bùa có tên “Bách giải tiêu tai phù” (cũng là hàng Hán tự chạy dọc bên phải), là bùa được các pháp sư dùng nhằm giải tai ách như ông Thông đã nói.

+ Về đồ hình trận đồ mà ông Thông gọi là “Trận đồ bát quái thiên tinh Phật Tổ Như Lai” dựa trên Binh thư yếu lược của nhà Trần và theo mô phỏng của từ điển Thuật ngữ quân sự. Những chữ tôi in đậm cho phép tôi suy luận rằng: ông Thông đã tự tạo ra cái đồ hình này từ những cơ sở trên, theo cái logic của ông. Tôi thắc mắc là ông Thông có để ý điều này không: chòm sao Bắc Đẩu (Tiểu Hùng tinh) mà ông thể hiện trên hòn đá (chắc là để định hướng cho đồ hình) bị cắt mất hai ngôi sao ở phần đuôi là thế nào?! Bát trận đồ của Gia Cát Lượng bên Tàu hay Bát trận đồ trong Binh thư yếu lược, mà nói chung là Trận đồ (đồ hình trận pháp) của Binh gia giống như những sơ đồ công thức của toán học, để người học võ bị dễ nắm bắt các phép tắc căn bản của việc giàn trận địa trên chiến trường. Bản thân việc lập trận đồ có một khuyết điểm là bị động chờ địch tiến vào. Như vậy, trận đồ có tác dụng phòng thủ trước sự tấn công của yếu tố từ bên ngoài và/ hoặc giam hãm yếu tố bên trong. Thế thì ở đây, ông Thông thể hiện cái trận đồ đó để chống yếu tố bên ngoài và/ hoặc giam hãm yếu tố bên trong nào?! Mà tôi cũng chẳng thấy cái trận đồ đó giống với cái nào ở Binh thư yếu lược cả!

+ Vể áp dụng quẻ trong Dịch học, như tôi đã trình bày ở bài trước, chân đế của hòn đá có hình Bát quái, mỗi mặt có ba vạch liền nhau - biểu hiện của quẻ Càn (Trời, đơn quái). Có nghĩa là: Càn (Trời/ Thiên) trong Bát quái; Hòn đá nằm trên có thể hiểu là ngụ ý chỉ núi (Sơn, Cấn trong Bát quái). Như vậy, điều này ứng với quẻ thứ 26 trong Dịch lý: “Sơn Thiên Đại Súc” hay còn gọi là “Đại súc”. Quẻ được kết hợp bởi nội quái là Càn (Trời) và ngoại quái là Cấn (Núi). Ý nghĩa của quẻ này là: Tích tụ, lắng đọng một chỗ, súc tích, để giành, đồng loại tụ họp vui vẻ, cục bộ. Chính ông Thông cũng nhận định rằng: “Theo năm tháng, viên đá ngọc sẽ ngày càng tích năng lượng thu phát, các địa phương khác cùng với Phú Thọ cùng được hưởng phúc”.

Theo những gì đã xem xét ở trên, tôi thấy rằng, ông Thông đã sử dụng hỗn hợp các phép của nhiều “Nhà” khác nhau và kết hợp lại theo logic của ông, giống như logic của nhiều vị pháp sư không mấy tinh thông đạo thuật. Để chứng minh thêm cho cái nhận định có vẻ “thiếu phép tắc giao tế” và “khó chịu” vừa rồi của mình, tôi xin phát biểu mấy ý:

* Thế giới tâm linh cũng tuân theo những quy luật, những nguyên tắc của nó, sự vận hành của nó dựa trên những nền tảng căn bản riêng. Đến từ đâu thì quay về đó, sinh từ đâu thì diệt ở đó… Những người nghiên cứu vấn đề này là những nhà Huyền học. Huyền học cũng đáng là một địa hạt khoa học. Chứ không phải như ông Khôi nói: “Anh em cứ giở khoa học ra thì còn gì là tâm linh nữa”.

* Ông Thông khẳng định: “phải có linh khí của Phật thì mới cùng với linh khí của Đức Thánh Trần kết hợp thì mới hóa giải được bùa phép nguy hiểm đã bị yểm đảo của giặc phương Bắc”, và ông cho viết Thần chú bằng Phạn ngữ cũng như chữ Vãng (chữ Vạn ngược) lên hòn đá, chắc là do ông chưa biết những điều này: Thứ nhất, trong kinh Ban Châu tam muội, Đức Thế Tôn Thích Ca răn dạy đệ tử mình như sau: “Không được bói hỏi xin bề trên, phù chú yểm yêu quái, tế tự giải tấu, cũng không được chọn ngày tốt giờ tốt”. Thứ hai, Thần chú hay Chân ngôn của Mật tông là để những người Tu mật niệm trì, gọi là khẩu mật, đồng thời kết hợp với thân mật và ý mật quán pháp môn ba mật tương ứng giúp cho người tu trì không khởi vọng niệm. Nhưng tu trì theo Mật tông, phải qua chính miệng vị A-Xà-Lê (Quỹ phạm sư) truyền thụ mới có hiệu lực, nếu không thì tất cả sẽ rặt nói suông (Cư sĩ Vu Lăng Ba). Vậy, thần chú bằng chữ Phạn và những hoa văn khác của Phật giáo được thể hiện trên hòn đá còn có ý nghĩa gì nữa không!

3. Để kết thúc bài viết, tôi xin chia sẻ mấy suy nghĩ sau:

a. Chúng ta lúng túng và bát nháo lên như vậy là vì chưa có một nền tảng học thuật nghiêm túc với đội ngũ nhân lực đủ kiến văn trong lĩnh vực tâm linh, trên địa hạt Huyền học. Chúng ta nên nhìn nhận lại vấn đề này và có sự chuẩn bị chu đáo hơn.

b. Nên di dời hòn đá ra khỏi vị trí hiện nay bằng phương cách và trình tự chuẩn mực để tránh sai sót không đáng có. Đơn giản vì: Đó không phải và không nên là chỗ của nó!

c. Chúng ta nên sắp xếp gọn gàng vấn đề này để tránh những hao phí vô ích về thời gian, nhân lực, tài lực. Chỉ cần một nhân sĩ có uy tín đứng ra trao đổi nghiêm túc với những người liên quan và những người có sở học, chọn một giải pháp di dời hiệu quả nhất, rồi trình đề xuất lên cấp có thẩm quyền để thực hiện là ổn.

Tôi là hậu sinh, tuổi đời còn trẻ, kiến văn còn hạn hẹp, cúi mong các bậc trưởng bối đại xá!

N.K.G

Lâm Khang chủ nhân chân thành cảm tạ tác giả Nguyễn Kiên Giang đã chia sẻ các bài viết xung quanh Đạo bùa Đền Hùng đang gây xôn xao dư luận; đồng thời bày tỏ sự ngưỡng mộ đối với sở học quảng bác và tấm lòng ái ưu đối với vận mệnh dân tộc của Anh!



Source : Blog TS Nguyen Xuan Dien  ( Tễu-blog )

17/4/13

Đền Hùng từng bị đặt bùa yểm?


Cập nhật: 14:01 GMT - thứ tư, 17 tháng 4, 2013
Đền Thượng
Đền Hùng là thánh tích của dân tộc Việt Nam từ bao đời nay
Đền Hùng thờ Quốc Tổ, nơi linh thiêng bậc nhất của người dân Việt Nam, từng bị người phương Bắc đặt một ‘đạo bùa yểm’ chôn dưới nền đất, một quan chức coi giữ khu đền này khẳng định với báo chí trong nước.
Thông tin này chỉ được tiết lộ sau khi có áp lực từ dư luận đòi giải thích về một phiến đá bí ẩn đặt một cách có chủ đích ngay tại điện thờ của đền Thượng, đền chính trong quần thể Đền Hùng tại huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ.
Ông Nguyễn Tiến Khôi, người trước đây là quản lý cao nhất ở đền Hùng và là người nắm rõ nhất về phiến đá bí ẩn này, giải thích rằng đó thật ra là một đạo bùa để trấn lại bùa yểm của người phương Bắc.

Bị yểm 600 năm

Phương Bắc tìm cách yểm bùa nước Nam?
Giáo sư sử học Lê Văn Lan giải thích có hay không việc người phương Bắc yểm bùa trên nước Việt.

Bạn cần mở JavaScript lên và cài phần mềm Flash Player mới nhất để nghe/xem.
Từ đó ông Khôi đã nêu rõ các chi tiết về ‘đạo bùa yểm’ này mà lần đầu tiên được tiết lộ với công chúng.
Nói trên trang mạng của tờ Tiền Phong và báo mạng Đất Việt, ông Khôi cho biết trong đợt tu sửa đền hồi năm 2009, các công nhân đã phát hiện ‘một viên gạch lạ có in chữ Hán’ lúc tháo dỡ toàn bộ bệ thờ trên đền Thượng.
Viên gạch lạ này đã được ông Khôi gửi sang cho ông Nguyễn Minh Thông, vốn là đại tá quân đội và hiện là giám đốc Trung tâm nghiên cứu ứng dụng phương Đông, để nhờ nghiên cứu.
Trong báo cáo giải trình của ông Thông cho lãnh đạo tỉnh Phú Thọ được báo Tiền Phong dẫn lại thì trung tâm của ông ‘đã hội thảo nhiều lần’ với ‘một số nhà khoa học, chuyên gia ngoại cảm’ và đi đến kết luận rằng viên gạch là ‘do đạo sỹ của quân Nguyên Mông đem đến đặt từ cuối thời Trần’, tức là tính cho đến nay là hơn 600 năm.
"Tôi xin chịu trách nhiệm trước pháp luật, Nhà nước và nhân dân. Việc này (đặt đá trấn yểm) đã được các lãnh đạo trung ương, tỉnh đều chứng kiến và biết."
Nguyễn Tiến Khôi, cựu giám đốc Ban quản lý đền Hùng
Theo báo cáo này thì ‘Thời đó phía Nguyên Mông bị thua trận vì bị nhà Trần ta đánh tan ba lần, đã cử đạo sỹ được cải trang sang nước Nam ta, dùng thủ đoạn yểm bùa gạch này tại Đền Thượng’.
Trên viên gạch có ghi dòng chữ Hán ‘Đánh đổ đức sáng Vua Hùng’ và hiện tại vẫn còn được lưu giữ tại Bảo tàng đền Hùng, Đất Việt dẫn lời ông Khôi cho biết.
Do đó, để hóa giải, ông Thông đã đề xuất lên Ủy ban tỉnh Phú Thọ và Bộ Văn hóa tìm một đạo bùa khác để trấn yểm. Đề xuất này, theo ông Khôi, đã được những vị có chức trách đồng ý và ông Thông đã lên kế hoạch thực hiện.
Đạo bùa trấn yểm đó chính là phiến đá đặt trên bệ bát quái trong đền Thượng vốn đã gây xôn xao dư luận trong nhiều ngày qua. Công chúng không hề biết nguyên do cũng như ý nghĩa của phiến đá này nên dẫn đến tâm lý e ngại.

Ý nghĩa gì?

Mặt trước
Mặt trước của phiến đá bùa là trận đồ bát quái cùng với thần chú Mật tông
Trong báo cáo của mình, ông Thông đã giải thích về nội dung bùa trấn này như sau:
Phiến đá được chọn là do giám đốc một công ty đá quý ở Hà Nội có tên là Nguyễn Đình Khảm cung tiến. Đây là viên đá xanh ‘có nhiều năng lượng tốt lành, có khả năng hóa giải hung khí và tiếp nhận năng lượng của tinh tú trời đất’.
Mặt trước vẽ trận đồ bát quái của danh tướng Trần Hưng Đạo dựa trên tác phẩm ‘Binh thư yếu lược’của ông và chòm sao Bắc Đẩu. Trên mặt trận đồ là câu thần chú Phật giáo Mật tông.
Mặt sau của đạo bùa này là ấn vuông của Vua Hùng đóng ở trên và lá bùa giải bách họa vẽ ở phía dưới.
Ông Thông giải thích rằng linh khí của Đức Phật kết hợp với linh khí của Đức Thánh Trần sẽ ‘hóa giải được’ đạo bùa yểm của người phương Bắc và sẽ giúp cho vận nước được hưng thịnh.
Ông Nguyễn Tiến Khôi được Đất Việt dẫn lời nói ông cam đoan ‘viên đá đang rất linh ứng và hiệu nghiệm’.
“Tôi xin chịu trách nhiệm trước pháp luật, Nhà nước và nhân dân,” ông nói và cho biết việc này đã được ‘các lãnh đạo trung ương, tỉnh đều chứng kiến và biết’.

Ký ức dân gian

"Đã có nhiều dấn ấn trong tâm lý dân gian qua các đời rằng người Tàu hay sang đây làm các thứ tệ hại như yểm bùa, triệt long mạch và đập phá những thứ có giá trị tâm linh của người Việt."
Nhà sử học Lê Văn Lan
Trao đổi với BBC từ Hà Nội, nhà sử học Lê Văn Lan cho biết chuyện người phương Bắc tìm cách yểm bùa nước Nam là ‘có thực’ mà ‘ý thức dân gian còn ghi lại’.
Chính sử không hề đề cập đến việc này nhưng trong ngoại sử và sách địa lý thì có chép, ông Lan nói.
“Đã có nhiều dấn ấn trong tâm lý dân gian qua các đời rằng người Tàu hay sang đây làm các thứ tệ hại như yểm bùa, triệt long mạch và đập phá những thứ có giá trị tâm linh của người Việt,” ông giải thích.
“Tôi đã đi điền dã và sưu tầm nhặt nhạnh được nhiều lời kể dân gian không chỉ tập trung vào Cao Biền (quan đô hộ đời Đường) mà còn cả các đời khác rằng các thầy địa lý người Tàu đi vào đây (nước Nam) bán thuốc đeo quang gánh, đội nón lá rộng vành,” ông nói.
“Họ đi đến đâu thường hay xem đất, tìm đất... sau đó chôn bùa hoặc đào đất để phá long mạch.”
Mặt sau
Đạo bùa này được cho là trấn bùa xấu và giúp vận nước hưng thịnh
Tuy nhiên đối với khu vực đền Hùng mà ông Lan nói ông đã ‘điền dã rất kỹ từ nửa thế kỷ nay’ thì ông chưa sưu tầm được truyền thuyết, lời kể hoặc hiện vật nào ‘chứng tỏ người Tàu đã sang đây để yểm bùa hay triệt phá gì’.
Cho nên ông Lan cho rằng phiến đá trấn yểm đặt trong đền Thượng ‘nên được di dời ra khỏi đền’ vì ‘đấy là thứ mới tạo chứ không phải có từ trước’.
Tiến sỹ Ngô Đức Thịnh, ủy viên Hội đồng Di sản quốc gia, cũng có cùng ý kiến với ông Lan về cách xử lý đối với phiến đá.
“Đó là một hiện vật không nguyên gốc,” ông nói với BBC, “Cầu may thì cũng được thôi nhưng không thể đưa vào một cách tùy tiện.”
“Quan điểm của tôi là nếu như chưa biết rõ hòn đá này là gì và không gắn với đền thờ Vua Hùng thì tốt nhất là nên đưa ra ngoài,” ông nói.
Hiện Ban quản lý đền Hùng đang tính đến sau ngày Quốc giỗ mùng 10/3 Âm lịch sẽ tổ chức hội thảo khoa học để các chuyên gia và các nhà khoa học bàn luận rõ ràng về vấn đề này.
Tuy nhiên, TS Thịnh cho rằng ‘lĩnh vực tâm linh rất mơ hồ khó mà đem ra một hội thảo khoa học’.
 
Source : BBC

KHẤU ĐẦU EM LẠY ANH: HÒN ĐÁ !

Thứ tư, ngày 17 tháng tư năm 2013





BÁI THẠCH VI HUYNH (vần ĐÁ)
Tác giả ẩn danh


Linh khí đất trời, lạy anh là đá
Đích thị chủ mưu ấy Bộ văn hóa
Tôi mua anh về, mài mài cạ cạ
Mực tàu pha sơn, bôi bôi xóa xóa
Hán Phạn tùm lum, chú phù đủ cả
Chích chích chi chi, trào triết ẩu á

Tôi khiêng anh lên
Yểm vào đền cả.
Úm ba la hồng, om ma ni phạ.
Anh nay yểm ở ngôi cao, trấn tận cội nguồn đấy nhá.
Quốc sự dân sinh trăm miền đủ cả.
Mà xem
Trấn rồi yểm xong muôn nơi tá hỏa.
Nghìn năm Thăng Long hào khí ngất trời, đùng một cái dàn pháo hoa tóe lả, người chết người bị thương đủ cả, cứu hỏa cứu thương nháo nhác chạy lung tung.
Muôn thủa Hồng Lam lụt lội mênh mông, sấy bốn bánh xe đường dài ngập chìm,ai mất ai trôi sông tang thương, thơ lặn thợ bơi bì bõm tìm vất vả.
Nóc Đông Dương bô xít Tân rai, bán cho ai mà họp xuống họp lên, khởi khởi công công, lở loét môi sinh đào đào phá phá.
Nguồn Trà Mi thủy tai Đất Quảng, ngăn một dòng mà động trên động dưới, lở lở rung rung.
Vi na sin chìm nghỉm bể tham quan
Vi na lai tan tành cầu cướp phá.
Chứng khoán sàn thê thảm rớt không phanh
Bất động sản cỏ trùm như đắp mả.
Lập huyện Tam Sa lũ Tàu chiếm biển đông
Cướp đất Cống Rộc quan nha dùng đạn nhả.
Dân như con sâu cái kiến, luôn năm đi rồng rắn biểu tình
Quan như ông hổ ông hùm, mút mùa họp chó dê cắn nhá.
Doanh nghiệp bể như là bong bóng, công nhân ra đê gạt tép vơ bèo.
Xã hội tan quá thể bầy đàn, cướp giật xuống đường đâm quen hiếp lạ.
Cháu ngoan Bác Hồ thành thanh nữ, gả nước ngoài như chon chó chọn trâu.
Nghệ sĩ ưu tú về già tom, ăn lạc rang tựa ở tù ở vả.
Bùa hỡi là bùa!
Đá ơi là đá.
Xoen xoét nó vừa vừa, tiền đầy túi còn nhe nanh cải mả.
Ngẫm thay buôn thánh bán thần, Đảng Mác Lê khoa học khoa hành mà chúng nó làm ăn như thế hả!!!
Khấu đầu em lạy anh: hòn đá.

K.D.

                                     
 

16/4/13

Những quái thai của Marx


15.04.2013
 
bởi Nguyễn Hưng Quốc

Có rất nhiều điểm tôi không đồng ý với Karl Marx, nhưng thành thực mà nói, tôi rất phục ông, và có lúc, rất thích ông. Với tôi, ông là triết gia tiêu biểu nhất của chủ nghĩa hiện đại với tham vọng, bằng thuyết biện chứng và duy vật lịch sử, xây dựng một đại tự sự (grand narrative) hoàn chỉnh về lịch sử và thế giới, qua đó, giải thích hầu như toàn bộ mọi khía cạnh lớn liên quan đến đời sống xã hội và sự phát triển của loài người. Tham vọng ấy được bổ sung bằng một tham vọng khác lớn không kém: muốn thay đổi thế giới. Đằng sau hai tham vọng ấy là một khao khát mang đầy tính đạo lý về sự công bằng và công chính cho tất cả mọi người.

Về hai tham vọng của Karl Marx, các nhà hậu hiện đại (postmodernist) đã chứng minh đó chỉ là một ảo tưởng khi cho thời đại của các đại tự sự đã qua; lịch sử các nước xã hội chủ nghĩa từ Đông Âu đến châu Á chứng minh thêm: đó là một ảo tưởng đầy tai họa dẫn đến những cái chết thảm khốc của cả hàng trăm triệu người và sự đau khổ của cả tỉ người khác. Xuất phát từ sự khao khát công bằng và công chính cho mọi người, lý thuyết của Marx lại đẻ ra những chế độ độc tài và tàn bạo không thua bất cứ một chế độ độc tài và tàn bạo nào trong lịch sử.

Tuy nhiên, ở đây lại có hai vấn đề cần chú ý. Thứ nhất, về phương diện lý thuyết, bất chấp vô số những khiếm khuyết, Marx vẫn là một trong những triết gia có ảnh hưởng lớn nhất trong nửa sau thế kỷ 19 và gần trọn thế kỷ 20; hơn nữa, nhiều quan điểm triết học và chính trị của Marx, cho đến nay, vẫn có những giá trị nhất định. Jacques Derrida có lần, trong cuốn Spectres de Marx, từng viết: “Sẽ là một sai lầm nếu [chúng ta] không đọc, đọc lại và thảo luận về Marx” (Dẫn theo Marcello Musto, “The rediscovery of Karl Marx”, IRSH số 52, 2007, tr. 496). Thứ hai, nói như Terry Eagleton, không nên bắt Marx phải chịu trách nhiệm về những vụ tàn sát tập thể, các trại cải tạo, các phong trào đại nhảy vọt và các cuộc thanh trừng đẫm máu dưới các chế độ Cộng sản, cũng giống như việc không thể bắt Chúa Jesus phải chịu trách nhiệm về các Tòa án xử những người bị xem là dị giáo (Inquisition) thời Trung cổ.

Thật ra, nghĩ cho cùng, không thể phủ nhận toàn bộ trách nhiệm của Karl Marx được. Rõ ràng, quan điểm về đấu tranh giai cấp và chuyên chính vô sản của ông đã là nền tảng lý thuyết làm nảy sinh sự độc tài và tàn bạo của Lenin, Stalin và Mao Trạch Đông cũng như vô số các nhà lãnh đạo Cộng sản khác. Bởi vậy, dù có ý thức hay không, Marx cũng đã để lại nhiều đứa con tinh thần, trong đó, có nhiều kẻ có thể xem là những quái thai. Stalin, Mao Trạch Đông, Pol Pot, Nicolae Ceauşescu (ở Rumania) là những quái thai như thế. Và dĩ nhiên, không thể không kể đến dòng họ Kim ở Bắc Triều Tiên, từ Kim Nhật Thành (Kim Il-sung, 1912-1994) đến Kim Chính Nhật (Kim Jong-il, 1942-2011) và gần đây, Kim Chính Ân (Kim Jong-un).

So với các lãnh tụ Cộng sản khác, dòng họ Kim hoàn toàn không thua kém về mức độ độc tài và tàn bạo, về “thành tích” giết người và đày đọa dân chúng. Họ còn hơn hẳn những người khác trong việc duy trì một chế độ cha truyền con nối kéo dài, đến nay là ba đời, trên 60 năm (ở Cuba, Fidel Castro “truyền ngôi” lại cho em ruột, Raul Castro; tổng cộng thời gian trị vì của cả hai, đến nay, mới hơn 50 năm). Họ cũng nổi bật hơn hẳn những người khác về “tài” gây chú ý trên thế giới. Cứ vài ba năm một lần, họ lại làm cho cả thế giới thót tim hồi hộp theo dõi nhất cử nhất động của họ. Mới nhất, trong tháng Tư này, họ lớn tiếng đe dọa tấn công Nam Triều Tiên và cả Mỹ bằng vũ khí hạt nhân. Giới bình luận chính trị và có lẽ cả giới lãnh đạo Tây phương đều cho đó là những lời nói khoác lác. Tuy nhiên, không phải vì thế mà người ta không căng mắt ra theo dõi từng động thái ở Bình Nhưỡng. Trong tuần lễ đầu tiên của tháng Tư, tên “North Korea” đứng hàng thứ ba trong số các từ được sử dụng phổ biến nhất trên Twitter, chỉ sau “Easter” và “Good Friday”. Các cuộc điều tra dư luận cho thấy khoảng 36% người Mỹ theo dõi rất sát các diễn biến liên quan đến Bắc Triều Tiên và 56% dân chúng cho sự đe dọa của Bắc Triều Tiên là nghiêm trọng.

Các lãnh tụ của Nam Triều Tiên, Mỹ và Nhật đều cố gắng tỏ ra bình tĩnh nhưng cũng không giấu được sự căng thẳng.

Một số nhà bình luận chính trị quốc tế gọi cha con Kim Chính Nhật và giới lãnh đạo Bắc Triều Tiên nói chung là những bậc thầy trong nghệ thuật khiêu chiến (master of brinkmanship) và là những bậc thầy trong những cú đánh lừa (master of rope-a-dope). Kim Chính Ân có vẻ muốn nối gót cha mình, nhưng chưa ai dám chắc lần này ông có thành công hay không.

“Bậc thầy”, nghe rất sang trọng. Mà cũng phải. Những “bậc thầy” ấy đã thắng nhiều trận. Năm 1993, sau một lần đe dọa tấn công Nam Triều Tiên, họ được Mỹ hứa hẹn viện trợ lương thực để cứu đói dân chúng. Năm 2003, khi rút tên ra khỏi Hiệp ước phi hạt nhân (Non-proliferation Treaty, NPT), họ lại được dỗ dành. Năm 2005, khi từ chối tham gia vào cuộc Hội nghị sáu bên (Six Party Talks) về vấn đề giải trừ vũ khí hạt nhân, họ cũng lại được dỗ dành. Năm 2006, khi tiến hành thử vũ khí hạt nhân lần thứ nhất, họ cũng được dỗ dành. Năm 2008, khi trục xuất phái đoàn điều tra vũ khí hạt nhân của Liên Hiệp Quốc ra khỏi Bắc Triều Tiên, họ cũng được dỗ dành. Năm 2009, khi thử hạt nhân lần thứ hai, họ cũng được dỗ dành. Năm 2010, họ đánh chìm tàu thủy của Nam Triều Tiên, giết chết 46 thủy thủ, Nam Triều Tiên và Mỹ cũng đều nhường nhịn, không có một phản ứng nào cả. Cứ mỗi lần như thế, bộ máy tuyên truyền của Bắc Triều Tiên lại huênh hoang cho là họ đã thắng cả Nam Triều Tiên lẫn Mỹ.

Nhưng tất cả đều là những phép thắng lợi tinh thần theo kiểu AQ của Lỗ Tấn. Nghèo kiết xác, lúc nào cũng bị người trong làng khinh bỉ, nhưng AQ vẫn tự hào là con cháu mình sau này sẽ giàu có hơn hẳn người khác. Bị người ta đánh, không dám đánh trả, AQ vẫn cứ tự hào “Nó đánh mình thì khác gì nó đánh bố nó. Thật thời buổi này hết chỗ nói!” Thế là hắn lại hớn hở ra vẻ đắc thắng.

Bộ máy tuyên truyền Bắc Triều Tiên không ngừng tô vẽ các gã AQ chễm chệ trên đỉnh cao quyền lực ở nước họ như những thần linh. Ngày Kim Chính Nhật chào đời có hai chiếc cầu vồng lấp lánh xuất hiện trên bầu trời. Ra đời được ba tuần, ông đã biết đi; tám tuần đã biết nói. Khi học đại học, trong vòng ba năm, ông viết được trên 1.500 cuốn sách và sáu bản opera. Các bản nhạc này được giới phê bình Bắc Triều Tiên khen là “hay hơn bất cứ một bản opera nào từng được viết trong lịch sử âm nhạc thế giới”. Các trạng thái tâm lý của Kim Chính Nhật có thể ảnh hưởng đến thời tiết: ông buồn, thời tiết xấu đi, ông vui, trời sẽ đẹp và ấm hơn. Người ta lại nói: cả đời ông không hề đi tiêu hay đi tiểu. Lần đầu tiên chơi golf, ông đã lập được kỷ lục thế giới và vì đã lập được kỷ lục nên ông không thèm chơi nữa. Bằng cách nhét miếng thịt vào giữa hai lát bánh mì để cầm ăn cho dễ, ông được lịch sử Bắc Triều Tiên ghi công là đã phát minh ra hamburger, sau đó, Tây phương bắt chước. Ngày ông chết, cả trời đất cũng tiếc thương: các mảnh băng tự động tan ra; chim chóc cất lên tiếng khóc.

Những chuyện như vậy, ở Tây phương, người ta xem như những chuyện buồn cười, lố bịch (ridiculous), thậm chí, điên khùng (crazy), nhưng ở Bắc Triều Tiên, do chính sách ngu dân và nhồi sọ triền miên, cả triệu người vẫn xem các quái thai ấy như những bậc thần thánh.

Kết quả là gì? Trước đây, trong bài “Nam và Bắc Hàn”, tôi có so sánh các thành tựu giữa hai miền Bắc và Nam của Triều Tiên từ sau năm 1953. Trên báo chí Tây phương thời gian vừa qua, nhân vụ đe dọa mới nhất của Kim Chính Ân, nhiều người cũng lại làm điều ấy. Cùng trải qua ba năm nội chiến (1950-1953) với những đau thương mất mát như nhau, mấy chục năm sau, trong khi Nam Triều Tiên, với thu nhập bình quân đầu người 32.000 Mỹ kim/năm, là một trong những quốc gia phát triển và giàu có nhất thế giới, Bắc Triều Tiên, với thu nhập đầu người 1.800 Mỹ kim/năm, vẫn là một trong những nước cực kỳ lạc hậu và nghèo nàn. Tuổi thọ trung bình ở miền Nam là 79.3; ở miền Bắc là 69.2; tỉ lệ tử vong trên 1.000 bé sơ sinh, ở miền Nam là 4.08, ở miền Bắc là 26.21; tỉ lệ sử dụng internet, ở miền Nam là 81.5%, ở miền Bắc là dưới 0.1%; số tiền đến từ xuất cảng mỗi năm ở miền Nam là 552.6 tỉ, ở miền Bắc là 4.71 tỉ. Kinh tế Bắc Triều Tiên yếu đến độ chỉ riêng thu nhập của công ty Samsung ở Nam Triều Tiên (247 tỉ năm 2011) đã nhiều gấp sáu lần tổng sản lượng nội địa của Bắc Triều Tiên!

Trong khi chính quyền Bắc Triều Tiên đổ tiền ra chế tạo vũ khí hạt nhân và không ngừng khiêu khích thế giới, dân chúng lúc nào cũng chìm đắm trong đói khổ. Năm nào cũng có người chết đói. Riêng năm 2010, có vùng số người chết đói đến ba phần trăm (hay 30 người trên mỗi 1.000 dân). Liên Hiệp Quốc ước lượng, trong năm 2011, khoảng một phần ba trẻ em bị suy dinh dưỡng.

Với tư cách người Việt Nam, chúng ta chú ý đến sự nghèo đói, độc tài, tàn bạo và nguy hiểm của Bắc Triều Tiên cũng như những sự cách biệt một trời một vực giữa hai miền Bắc và Nam của Triều Tiên không phải chỉ là một tò mò bình thường. Mà còn là một nhu cầu nhận thức: Những sự khác biệt ấy, tự bản chất, là những khác biệt thuộc về chế độ.

Mà chế độ là một lựa chọn.Dĩ nhiên, không phải lúc nào chúng ta cũng được phép, trên thực tế, lựa chọn chế độ. Nhưng chúng ta có thể bắt đầu sự lựa chọn ấy, trước hết, bằng nhận thức.

Ít nhất đủ để nhận diện được các quái thai chung quanh ta. Có khi rất gần với chúng ta.

Source : VOA /Blog NHQ .

15/4/13

Công nhận VNCH vì biển đảo ngày nay?

 
Cập nhật: 09:14 GMT - thứ hai, 15 tháng 4, 2013
  •  

Tưởng niệm các quân nhân Việt Nam từ cả hai phía hy sinh ở Hoàng Sa - Trường Sa
Những định nghĩa pháp lý cho các chính thể Việt trong cuộc chiến chấm dứt ngày 30/4/1975 có vai trò quan trọng cho lập luận của Việt Nam về chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Sự quan trọng này không chỉ vì công hàm 1958 của Thủ tướng Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (VNDCCH) Phạm Văn Đồng, mà còn vì Hà Nội đã không khẳng định chủ quyền đối với Hoàng Sa, Trường Sa từ năm 1954 đến 1975-1976.

Quốc gia duy trì chủ quyền

Trong phán quyết năm 2008 về tranh chấp cụm đảo Pedra Branca giữa Malaysia và Singapore, Tòa án Công lý Quốc tế cho rằng ban đầu Malaysia có chủ quyền đối với đảo Pedra Branca.
Tòa nói công hàm 1953 của Johor, nay là một tiểu bang của Malaysia, trả lời Singapore rằng Johor không đòi chủ quyền trên đảo này, không có hệ quả pháp lý mang tính quyết định và không có tính chất ràng buộc cho Johor.
Nhưng Tòa lại dựa vào việc trước và sau đó Johor và Malaysia không khẳng định chủ quyền và dùng công hàm 1953 của Johor như một trong những chứng cớ quan trọng cho việc Malaysia không đòi chủ quyền, để kết luận rằng tới năm 1980 chủ quyền đã rơi vào tay Singapore.
Bài học cho Việt Nam là: bất kể ban đầu Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam, và dù cho chúng ta có biện luận thành công rằng công hàm của Thủ tướng VNDCCH Phạm Văn Đồng không có tính ràng buộc về hai quần đảo này đi nữa, việc VNDCCH không khẳng định chủ quyền trong hơn 20 năm, trong khi các quốc gia khác làm điều đó, có khả năng sẽ làm cho VNDCCH không còn cơ sở để đòi chủ quyền nữa.
Vì vậy, trong lập luận pháp lý của Việt Nam phải có sự khẳng định chủ quyền đối với hai quần đảo này từ một chính phủ khác, lúc đó là đại diện hợp pháp cho một quốc gia Việt nào đó.
Trên lý thuyết, nếu chứng minh được từ năm 1954 đến 1975 chỉ có một quốc gia, và chính phủ Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) là đại diện hợp pháp duy nhất của quốc gia đó, thì điều đó cũng đủ là cơ sở cho lập luận pháp lý của Việt Nam về Hoàng Sa, Trường Sa.
Trên thực tế, thứ nhất, chưa chắc chúng ta sẽ chứng minh được điều đó; thứ nhì, chính phủ Việt Nam ngày nay sẽ khó chấp nhận một chiến lược pháp lý dựa trên giả thuyết này.
Vì vậy, chiến lược khả thi hơn cho lập luận pháp lý của Việt Nam cần dựa trên điểm then chốt là từ năm 1958 đến 1976 có hai quốc gia khác nhau trên đất nước Việt Nam.
Phân tích này sử dụng ba khái niệm sau.
Đất nước, là một khái niệm địa lý, bao gồm một vùng lãnh thổ với dân cư. Chính phủ, là cơ quan hành pháp và đại diện. Quốc gia (trong bài này từ “quốc gia” được dùng với nghĩa State/État), là một chủ thể chính trị và pháp lý.
Trong Công ước Montevideo 1933, một quốc gia phải có lãnh thổ, dân cư, chính phủ, và khả năng có quan hệ ngoại giao với các quốc gia khác.
Thực chất, trong công pháp quốc tế chỉ có định nghĩa quốc gia như một chủ thể có năng lực pháp lý và năng lực hành vi (tức là có các quyền và nghĩa vụ phát sinh trực tiếp từ luật quốc tế) và chính phủ là thành phần của chủ thể đó, chứ không có khái niệm đất nước.

Một lãnh thổ - hai quốc gia

Hiệp định Genève 1954 chia đôi Việt Nam thành hai vùng tập kết quân sự. Mặc dù không chia Việt Nam thành hai quốc gia, Hiệp định đã tạo ra một ranh giới tại vĩ tuyến 17 giữa hai chính phủ đang tranh giành quyền lực, và ranh giới đó đã tạo điều kiện cho sự hiện hữu của hai quốc gia.
Việc VNCH không chấp nhận thực hiện tổng tuyển cử vào năm 1956 đã làm cho ranh giới đó trở thành vô hạn định.

Một cơ sở của Trung Quốc ở quần đảo Trường Sa mà họ gọi là Nam Sa
Sự hiện hữu của hai chính phủ hai bên một ranh giới vô hạn định ngày càng củng cố sự hình thành và hiện hữu trên thực tế của hai quốc gia trên lãnh thổ đó.
Điều có thể gây nghi vấn về sự hiện hữu của hai quốc gia là hiến pháp của VNDCCH và VNCH có vẻ như mâu thuẫn với sự hiện hữu đó.
Tới năm 1956, Hiến Pháp VNDCCH viết “Đất nước Việt Nam là một khối thống nhất Trung Nam Bắc không thể phân chia”, và Hiến Pháp VNCH viết “Ý thức rằng Hiến pháp phải thực hiện nguyện vọng của nhân dân, từ Mũi Cà Mâu đến Ải Nam Quan” và “Việt Nam là một nước Cộng hòa, Độc lập, Thống nhất, lãnh thổ bất khả phân.”
Nhưng sự mâu thuẫn đó không có nghĩa không thể có hai quốc gia.
Hiến pháp của Bắc Triều Tiên viết Cộng Hòa Dân Chủ Nhân Dân Triều Tiên là đại diện cho dân tộc Cao Ly, hiến pháp của Nam Hàn viết lãnh thổ của Đại Hàn Dân Quốc là bán đảo Cao Ly và các hải đảo, nhưng Bắc Triều Tiên và Nam Hàn vẫn là hai quốc gia.
Như vậy, có thể cho rằng từ năm 1956 hay sớm hơn đã có hai quốc gia, trên lãnh thổ Việt Nam, với vĩ tuyến 17 là biên giới trên thực tế giữa hai quốc gia đó.
Việc có hai quốc gia là cơ sở để cho rằng VNCH có thẩm quyền để khẳng định chủ quyền đối với Hoàng Sa, Trường Sa; VNDCCH không có thẩm quyền lãnh thổ gì đối với hai quần đảo đó.
Khi Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam (CPCMLT) ra đời ngày 8/6/1969, có thể cho rằng trong quốc gia với tên VNCH, về mặt pháp lý, có hai chính phủ cạnh tranh quyền lực với nhau: chính phủ VNCH và CPCMLT.
Khi VNDCCH công nhận CPCMLT là đại diện hợp pháp cho phía nam vĩ tuyến 17 thì có nghĩa VNDCCH công nhận trên diện pháp lý rằng phía nam vĩ tuyến 17 là một quốc gia khác.
Nhưng tới năm 1969 CPCMLT mới ra đời, và cho tới năm 1974 mới có một tuyên bố chung chung về các nước liên quan cần xem xét vấn đề biên giới lãnh thổ trên tinh thần bình đẳng, vv, và phải giải quyết bằng thương lượng.
Vì vậy, nếu chỉ công nhận CPCMLT thì cũng không đủ cho việc khẳng định chủ quyền đối với Hoàng Sa, Trường Sa từ thập niên 1950.

Quá trình thống nhất

Ngày 30/4/75, VNCH sụp đổ, còn lại duy nhất CPCMLT trong quốc gia phía nam vĩ tuyến 17. CPCMLT đổi tên quốc gia đó thành Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam (CHMNVN), nhưng đó chỉ là sự thay đổi chính phủ và đổi tên, không phải là sự ra đời của một quốc gia mới.

Việt Nam Cộng Hòa từng là một quốc gia có chủ quyền với Hoàng Sa và Trường Sa
Năm 1976, trên diện pháp lý, hai quốc gia trên thống nhất lại thành một, và từ đó Việt Nam lại là một quốc gia với một chính phủ trên một đất nước (lãnh thổ).
Sự thống nhất này đã không bị Liên Hiệp Quốc hay quốc gia nào lên tiếng phản đối.
Năm 1977, Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam được chấp nhận tham gia Liên Hiệp Quốc.
CHXHCNVN kế thừa vai trò của hai quốc gia VNDCCH và VNCH/CHMNVN trong các hiệp định và các tổ chức quốc tế, kế thừa lãnh thổ và thềm lục địa của VNCH/CHMNVN trong các tranh chấp với Campuchia, Thái Lan, Malaysia và Indonesia, và mặc nhiên có quyền kế thừa Hoàng Sa, Trường Sa từ VNCH/CHMNVN.
Lịch sử pháp lý trên nghe có vẻ sách vở, nhưng thực tế của nó là bom đạn, xương máu, và nhiều cảnh huynh đệ tương tàn.
Mặc dù lịch sử pháp lý đó đã kết thúc bằng một quốc gia trên đất nước (lãnh thổ) Việt Nam thống nhất, nó là một cuộc bể dâu làm đổ nhiều xương máu.
Nhưng quá khứ thì không ai thay đổi được, và tương lai thì không ai nên muốn đất nước Việt Nam lại bị chia đôi thành hai quốc gia lần nữa.
Cuộc bể dâu đó cũng đã góp phần làm cho Hoàng Sa bị Trung Quốc chiếm đóng, và để lại cho Trung Quốc một lập luận lợi hại, rằng trước 1975 Việt Nam không tuyên bố chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa, và đã công nhận chủ quyền Trung Quốc trên hai quần đảo này.
Nhưng việc đã từng có hai quốc gia trên một đất nước (lãnh thổ) Việt Nam trong giai đoạn 1956 đến 1976, và việc, vào năm 1976, hai quốc gia đó thống nhất thành một một cách hợp pháp, là một yếu tố quan trọng trong lập luận về Hoàng Sa, Trường Sa.
Ngày nay, chính phủ Việt Nam một mặt viện dẫn các tuyên bố và hành động chủ quyền của Việt Nam Cộng Hòa về Hoàng Sa, Trường Sa, nhưng mặt kia vẫn e ngại việc công nhận cụ thể và rộng rãi rằng Việt Nam Cộng Hòa từng là một quốc gia, mặc dù trong quá khứ Hà Nội đã công nhận rằng Cộng hòa miền Nam Việt Nam là một quốc gia.
Việc không công nhận cụ thể và rộng rãi rằng VNCH đã từng là một quốc gia làm giảm đi tính thuyết phục của việc viện dẫn các tuyên bố và hành động chủ quyền của VNCH về Hoàng Sa, Trường Sa, vì các tuyên bố và hành động chủ quyền phải là của một quốc gia thì mới có giá trị pháp lý.
Vì vậy, chính phủ Việt Nam cần phải bỏ sự e ngại này.
Mặt khác, Việt Nam cũng cần phải hạn chế tối đa những gì Trung Quốc có thể lợi dụng để tuyên truyền rằng CHXHCNVN ngày nay chỉ là VNDCCH, chẳng hạn như không nên đổi tên nước thành VNDCCH.

Bài viết thể hiện quan điểm riêng của Dương Danh Huy, Phạm Thanh Vân và Nguyễn Thái Linh từ Quỹ Nghiên cứu Biển Đông. Các tác giả cảm ơn GS Phạm Quang Tuấn đã góp ý cho bài.
 
Source : BBC

13/4/13

Về nguồn

Về nguồn


Trích thư

Phạm Công Thiện



Nha Trang, ngày 18 tháng 01 năm 1963
... Nhìn anh và nhìn mấy cháu và đọc những gì anh viết, tôi cảm thấy an ủi nhiều, tôi cảm thấy tâm hồn thác loạn của tôi được vuốt ve nhiều, tôi cảm thấy rằng tôi hết sức vô tâm, tàn nhẫn, với lòng kiêu ngoa của tôi, tôi cho rằng họ chỉ là những kẻ tầm thường không đáng để cho tôi để ý. Nhưng đọc anh, tôi mới sực nhớ rằng mỗi người đều mang nặng một bi kịch đau thương của đời và trong những gì tầm thường nhất cũng đều chứa đựng một cái gì cao quí thiêng liêng nhất, một cái gì mà thiếu nó thì cuộc đời này không đáng sống nữa.
Bỏ đi hết những cái bề ngoài, bỏ đi hết những truông, rừng rú, suối vẫn ngàn năm chảy từ nguồn, bỏ đi hết những bộ áo công thức khệ nệ của anh và bỏ đi hết những bộ áo phũ phàng nổi loạn điên cuồng của tôi, lúc bấy giờ chúng ta sẽ gặp nhau tại Nguồn. Ðọc anh và gặp anh, tôi sực nhớ rằng chỉ có một Nguồn Ðời, chỉ có một mà thôi và suối có, dù trong hay đục, dù chảy bình thản im lặng hay dù chảy ào ào thịnh nộ : suối vẫn đổi khác nhưng cũng chỉ là một con suối mà thôi. Nghĩa là tôi là anh và anh cũng là tôi, chúng ta cũng chỉ là một hình ảnh bi thương chua xót của cuộc đời.
Niềm tin chưa mất. Niềm Tin Chưa Mất, bởi vì dù sớm dù muộn, dù ở đây hay ở kia,đáo cùng nhất định chúng ta đều gặp nhau tại Nguồn -revenir à l'eau claire des sources. Ðó cũng là ý nghĩ về Nietzsche mắng chửi đả phá Thiên-chúa giáo, chưa có ai anti-Christ hung hăng như vậy, nhưng cũng loáng thoáng đâu đây tôi cũng thấy được giòng sông của Nietzsche cũng chỉ chảy từ một Nguồn thôi và Chúa Jésus và Nietzsche đều gặp nhau tại Nguồn ấy.
Và Con Người Thực Sự Của Trần Gian Này Là Con Người nào ? Qui dressera l'image de l'homme ? Nietzsche băn khoăn hỏi thế. Ai ? Qui ? Người đứng nơi Nguồn chứ ai ? Hình ảnh thực sự của con người là người đứng từ Nguồn. Người đó là Benjy của Faulkner, là Nick Adams của Hemingway, là Lennie và Creooks của Steinbeck, là Siddhartha củ Hermann Hesse, là Zarathoustra của Nietzsche , là Tộc của Võ Hồng.
Người đó là "lành như một cây xanh, cây ổi cây bàng nào đó đang sức lớn. Ðâm chồi, ta lá, nứt hoa... Cây cứ bình tĩnh làm nhiệm vụ của mình, không cần nhìn xem những phản ứng của những cây đứng xung quanh nó. Không thấy xấu hổ vì những lá héo, giấu giếm những cành gãy mà cũng không thấy nó hãnh diện vì chồi xanh non mướt hay hoa nở đầy cành"... "Trong một xã hội nhiễm độc mà dối trá đã thành diễm lệ, mà thù hằn đã thành khí giới phổ thông, quả tình nhân cách của Tộc vươn lên như một chồi cây mạnh giúp tôi tin cậy ở cuộc đời" (1)
Ðó là Tộc của Võ Hồng, là Dilsey của Faulkner, là lão già đánh cá của Hemingway. Ðó là hình ảnh thực sự của con người ở trần gian này. Con người ấy không phải là vua, là chúa, là kẻ thông minh xuất chúng. Người ấy chỉ là một con người rất tầm thường, rất conformiste, có thể rất là idiot. Chính những con người tầm thường ngu si như vậy sẽ cứu lấy trần gian này ra khỏi hố sâu, chính những con người tầm thường như Tộc, như Dilsey, như Crooks... chính những con người tầm thường này sẽ gầy dựng lại một thế giới mới giữa trần gian đổ vỡ này.
Anh V.H ạ, anh có cần gì phải thuyết giảng philo ? Tất cả những trang văn anh, những trang văn rất từ tốn khiêm nhượng kia đều tiềm tàng những tư tưởng triết học rất sống. Nó cao hơn philo nữa, bởi nó là sagesse của quả tim.
Và một Triệu trang giấy Triết Học Cũng Không Ðáng Giá Bằng Một tiếng Ðập Của Con Tim. Anh có nghe rõ chưa ? Tôi muốn hét to lên như vậy.
Anh có nghe tim con người đập trong những trang Xuất hành năm mới, trong Trận đòn hòa giải? Xuất hành năm mới còn cảm động muôn vạn lần hơn những chuyện mà người ta cho rằng buồn nhất. Những đứa nhỏ Hằng, Hào và Thủy trong Xuất hành năm mới Trận đòn hòa giải là những hình ảnh đau thương nhất trên đời, là những hình ảnh tượng trưng cho tất cả những đứa trẻ ở trần gian này.
Hơn thế nữa, ba đứa nhỏ ấy cũng là Tượng Trưng Cho Những Con Người Ở Ðời. Trận đòn hòa giải chẳng những là trận đòn hòa giải trong gia đình của Võ Hồng mà còn tượng trưng cho Trận Ðòn Ở Thế Giới. Tất cả mọi người ở trần gian này đều là anh em nhau, đều cùng chịu chung một nỗi khổ lớn vô cùng là nỗi khổ mất mẹ.
Chúng ta sinh ra đời đã bơ vơ cô độc và rồi đây cũng sẽ chết bơ vơ cô độc. Tất cả con người đều thế, tất cả mọi người đều mang một hình hài thân phận như vậy.
Người Mẹ trong Trận đòn hòa giải tượng trưng cho người Mẹ thiêng liêng của Nhân loại, nghĩa làThiên Nhiên, nghĩa là Nature. Thiên nhiên đã tạo con người ra đời rồi lại bỏ mặc con người bơ vơ lạc lõng, con người cảm thấy như bị đày, mất Mẹ, là những kẻ mồ côi, cô đơn vô hạn, không biết đâu là phương hướng.
Hằng, Hào, Thủy chẳng những là những đứa con của Võ Hồng mà chúng nó còn là hình ảnh tượng trưng cho tất cả mọi người sống ở trần gian này. Nhân loại đều chịu chung một nỗi đau khổ lớn lao là đều mang chung một Thân Phận Con Người, thân phận ấy là mất Mẹ, nghĩa là hoàn toàn cô đơn giữa nỗi đời trầm thống, nhưng "Trí nhớ của chúng ta vốn rất bạc bẽo. Các con lớn lên, nên vai vế, mỗi người có bạn bè riêng tư, có nỗi lo lắng và vui vẻ riêng tư... nên các con dần dần quên nghĩ đến nhau. Mối đau khổ chung của ngày mất mẹ xóa dần đi, Lòng Ích Kỷ Lớn Lên"... "Cả ba đều khổ. Hãy thương yêu nhau" (2).
Thế mà Nhân loại vẫn không thương yêu nhau và cứ lục đục nhau, con người vẫn cứ mãi lục đục gây hấn với nhau, Thượng Ðế chỉ còn phương pháp hữu hiệu nhất là cho một Trận Ðòn Hòa Giải và thế là Chiến tranh đã nổ tung ra ở trần gian này. Chiến tranh thứ Nhất rồi Chiến tranh thứ Hai... Sáu triệu người Do Thái đã chết và thực ra Hitler chỉ là dụng cụ của Thượng Ðế, nghĩa là một "cái cành chùm ruột trông sù sì đễ sợ". Nhưng nhân loại vốn hay quên và bây giờ Trận Ðòn thứ Ba sắp nổ tung nữa.
Vâng, bây giờ tôi mới hiểu rằng Nietzsche là một nhà tâm lý kỳ diệu, tôi đã hiểu tại sao Nietzsche chủ trương và ca tụng Chiến tranh. Nói mãi Ðạo đức, nói mãi tình thương như chúa Jésus, nhân loại không muốn nghe đâu. Vậy thì thôi, đừng nói hòa bình như vậy nữa, mà phải nói chiến tranh, phải đập Một Trận Ðòn cho nhân loại nhừ ra, thừ ra.
Hãy để Máu lửa đốt quét Nhân loại. Hãy để máu lửa purifier Nhân loại. Lúc bấy giờ trên đống gạch điêu tàn, Nhân loại mới hối hận và biết thương yêu nhau và cùng nhỏ giọt lệ cho nhau như Hào và Hằng nhỏ lệ khi thấy Thủy bị đòn.
Ðó là bài học mà Võ Hồng đã dạy cho tôi, rằng tất cả mọi sự ở đời này đều tốt, ngay đến sự xấu cũng tốt, rằng Niềm tin chưa mất, rằng Chiến tranh là một sự thử thách tất nhiên, chiến tranh là một trong những phương tiện đưa nhân loại về Nguồn, cũng như trận đòn hòa giải đưa ba đứa nhỏ trở về Nguồn thương yêu chan chứa và triền miên.
Ừ, sự đau khổ của tôi hiện nay cũng thế. Sự đau khổ ấy là một trận đòn hòa giải cần thiết, phải không anh ?
Ðó, anh thấy rằng một tác phẩm cao lớn đều thế, nghĩa là muốn hiểu làm sao cũng đươọc mà hiểu mãi cũng không hết. Ngoài ý nghĩa siêu hình, Trận đòn hòa giải còn chứa đựng một ý nghĩa sâu sắc về giáo dục. Tôi thiết tha muốn rằng tất cả cha mẹ ở trần gian này đều phải đọc truyện Trận đòn hòa giải. Tôi muốn rằng tất cả trường học đều phải in truyện ấy ra để phân phát cho mọi gia đình. Tác dụng của nó sẽ lớn hơn một ngàn quyển sách dày cộm của những nhà giáo dục sặc mùi lý thuyết. Tất cả những kẻ phạm tội, ăn cướp, giết người hiện nay phần lớn là tại sự ngu dốt của cha mẹ họ, tôi muốn nói sự ngu dốt về tình thương.
Anh thử tưởng tượng tác dụng của truyện anh viết thực lớn lao biết bao.

(1) Truyện Niềm tin chưa mất trong tập Lá vẫn xanh của Võ Hồng, Thời Mới xuất bản năm 1963. LTS
 
(2)Trích Trận đòn hòa giải (chú thích của tòa soạn)