24/6/13

Mark A. Ashwill - Vũ khí giáo dục Mỹ ở Việt Nam



 

Cập nhật: 15:34 GMT - thứ hai, 24 tháng 6, 2013
Hoa Kỳ hy vọng thế hệ trẻ Việt Nam sẽ gần Mỹ hơn
Trong những năm gần đây, Hoa Kỳ đã dành nhân lực tiền tài đáng kể để cố gắng nhào nặn kẻ thù cũ theo hình ảnh nước Mỹ.
Với một đất nước khao khát học tập, dân số trẻ, theo Khổng giáo, còn gì tốt hơn là giáo dục? Mục tiêu chung cuộc không chỉ là gây ảnh hưởng mà còn quyến rũ và chuyển hóa.
Đại kế hoạch
Nền tảng cho các hoạt động liên quan giáo dục của Mỹ ở Việt Nam là một điện tín thời trước Wikileaks, U.S-Vietnam Education Memo, từ Sứ quán Mỹ ở Hà Nội mùa xuân 2008. Văn bản tám trang, 4,330 chữ, đầy những nhắc nhở lạc quan về việc phải nắm bắt cơ hội và tận dụng sự ngưỡng mộ của người Việt dành cho hệ thống giáo dục đại học Mỹ. Hoa Kỳ được mô tả như một hiệp sĩ trong áo giáp sáng ngời, với thái độ nói được làm được và tinh thần hào sảng, sắp đến giúp hàng triệu bậc cha mẹ và học sinh tuyệt vọng người Việt.
Điều ghê tởm về bức điện này không chỉ là ngôn ngữ bạo động, giọng văn coi thường hay thong tin thiếu chân thực. Các dữ kiện, con số, phân tích và kết luận rằng hệ thống đại học Việt Nam đang khủng hoảng đều chính xác và giống như các bài gần như hàng ngày trên truyền thong nhà nước Việt Nam. Sự ghê tởm là Hoa Kỳ trắng trợn muốn lợi dụng một yếu kém trong xã hội Việt Nam để có lợi ích địa chính trị. Thử nghĩ về nó như con ngựa thành Trojan nhằm thay đổi xã hội, mà còn được gọi là diễn biến hòa bình.
Bức điện kết luận: “Chỉ với một phần nhỏ trong chi tiêu dành cho các chương trình và hoạt động khác trong vùng, chúng ta có thể tái định hình quốc gia này theo các cách đảm bảo có tác động tích cực, sâu sắc trong nhiều thập niên tới. Nếu chúng ta muốn Việt Nam 2020 trông giống Hàn Quốc hơn Trung Quốc, nay là thời điểm hành động.”
Theo cách lý luận này, chính phủ Mỹ, trong giấc mơ, muốn có tất: quan hệ nồng ấm với Việt Nam, Việt Nam biến hình thành Hàn Quốc và trở nên lực lượng đối trọng trong vùng với ‘anh cả’ phương Bắc và kẻ thù chung, Trung Quốc.
Trung tâm Hoa Kỳ
Nhân viên Sứ quán viết tài liệu này có vẻ hoan hỉ đến chóng mặt trước viễn cảnh Hoa Kỳ có thể tác động đường đi chính trị tại Việt Nam thông qua trao đổi giáo dục và các hoạt động ủng hộ giáo dục ở Việt Nam.

Đại sứ Mỹ Michalak quan tâm giáo dục tại Việt Nam
‘Các trung tâm Hoa Kỳ’ gần đây thành lập đã đóng vai trò quan trọng trong chiến dịch quyến rũ nhằm chinh phục giới trẻ. Kể từ nhiệm kỳ Đại sứ Michael Michalak, người tự nhận là ‘Đại sứ Giáo dục’ (tháng Tám 2007 đến tháng Hai 2011), đã có nỗ lực tập thể hướng tới thanh niên, giáo viên và giảng viên đại học. Nỗ lực này dính líu nhân viên sứ quán, các cơ quan liên hệ như USAID và đủ loại diễn giả khách mời. Có các loạt bài nói chuyện, chiếu phim, hòa nhạc, câu lạc bộ sách, hoạt động giáo dục, câu lạc bộ tiếng Anh, Diễn đàn Hoa Kỳ học và cả trang ‘tự học MBA’ trên trang web lãnh sự Mỹ, đăng thông tin kinh tế và kinh doanh “được các chuyên gia Mỹ của chúng tôi mang tới Việt Nam”.
Các ví dụ về cách nghĩ và mục tiêu của nhiều hoạt động này có thể tìm thấy qua các điện tín của phái bộ Mỹ tại Việt Nam trong 10 năm qua, bị Wikileaks tiết lộ. Một tài liệu như thế, có tựa Nhiều thanh niên Việt Nam tin tưởng Anh Hai theo dõi Internet, nhắc về một cuộc thảo luận hồi tháng Giêng 2010 tại Trung tâm Hoa Kỳ ở Hà Nội sau khi chiếu một diễn văn của Hillary Clinton về tự do Internet. Giả định đằng sau kiểu trao đổi thế này giữa viên chức Sứ quán và thanh niên Việt Nam là Phương thức Mỹ là Cách tốt nhất.
Một trong những giả định đáng ngờ là người Việt học ở Mỹ sẽ trở về, không chỉ là bạn của Hoa Kỳ và người dân Mỹ mà còn là bạn của chính phủ Mỹ. Người ta nghĩ người Việt được đào tạo ở Mỹ sẽ tích cực hướng đến những tư tưởng Mỹ, bao gồm mục tiêu chính sách của Mỹ và nền hòa bình kiểu Mỹ (Pax Americana). Các viên chức hy vọng rằng nhiều người sẽ có được vị trí để thi hành các thay đổi thuận cho Mỹ trong những thập niên kế tiếp và sẽ dễ bảo để làm vậy.
"Một trong những giả định đáng ngờ là người Việt học ở Mỹ sẽ trở về, không chỉ là bạn của Hoa Kỳ và người dân Mỹ mà còn là bạn của chính phủ Mỹ. Người ta nghĩ người Việt được đào tạo ở Mỹ sẽ tích cực hướng đến những tư tưởng Mỹ, bao gồm mục tiêu chính sách của Mỹ và nền hòa bình kiểu Mỹ."
Giáo dục được xem là công cụ sức mạnh mềm tối hậu, phương tiện gây ảnh hưởng rất hiệu quả và là tác nhân gây đổi thay sâu rộng trong chiến lược dài hơi để đạt được trong hòa bình những gì Mỹ đã không có nhờ quân sự trong Chiến tranh Đông Dương lần Hai.
Ảo tưởng
Những điều này không hẳn là suy nghĩ của Thượng nghị sĩ J. William Fulbright khi ông đề nghị tạo ra chương trình học bổng hàng đầu của chính phủ Mỹ. Fulbright từng nói về mục tiêu của trao đổi giáo dục: “Mục đích là giúp người Mỹ làm quen với thế giới thực sự, và để các sinh viên, học giả từ nhiều nơi làm quen với nước Mỹ thực sự.”
Như bất kỳ nước nào, Hoa Kỳ có các điểm mạnh và thành tựu – các mô hình, cách tiếp cận, cách nghĩ – có thể được áp dụng và bắt chước ở Việt Nam. Mỹ cũng có những khiếm khuyết và các câu chuyện cảnh cáo. Quan niệm rằng trao đổi giáo dục quốc tế nên đóng góp cho việc chuyển hóa các xã hội khác theo mô hình Mỹ không chỉ sai lầm mà còn không khả thi và ảo tưởng.
Với những người dành đời mình cho giáo dục quốc tế và tự xem mình như công dân toàn cầu, mong ước của chúng tôi là đóng góp nhỏ nhoi cho một thế giới yên bình, công bằng và bình đẳng hơn. Thay vì trung thành với một đất nước-nhà nước, không gian tri thức, la bàn đạo đức và cảm thức kết nối của chúng tôi mở ra với toàn nhân loại.
Nếu muốn thực sự trung thành với giáo lý nghề nghiệp của mình, chúng tôi phải bác bỏ “các lợi ích quốc gia” khi chúng xung đột hay gây hại cho quyền lợi và khát vọng của đồng loại mình. Vì mục tiêu đó, chúng tôi phải chống lại nỗ lực của một chính phủ có chính sách ngoại giao bắt rễ trong chủ nghĩa dân tộc và trâng tráo dùng giáo dục làm vũ khí của sức mạnh mềm.
Chúng ta đừng quên rằng người Việt nên có tự do để quyết định vận mệnh của mình mà không có can thiệp từ bên ngoài, đặc biệt lại từ một quốc gia đã là nguồn gốc của nhiều khổ đau.
Bài viết thể hiện quan điểm riêng của tác giả, giám đốc điều hành của Capstone Vietnam, một công ty nhân lực có văn phòng ở Hà Nội và TP. HCM. Từ 2005 đến 2009, ông là giám đốc tại Việt Nam cho Viện Giáo dục Quốc tế (Institute of International Education).
 
BBC

Mỹ sẽ dùng mọi kênh hợp pháp để bắt giữ Snowden

VOA  News :

24.06.2013


Mỹ sẽ dùng mọi kênh hợp pháp để bắt giữ Snowden





Tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama tuyên bố Hoa Kỳ đang tận dụng “mọi kênh hợp pháp thích hợp” để tìm cách bắt giữ nhân viên tình báo hợp đồng đã tội tiết lộ các chương trình theo dõi bí mật của Mỹ.

Hôm thứ hai, Tòa Bạch Ốc nói họ tin rằng ông Edward Snowden đang ở Nga và đang làm áp lực đòi Nga trục xuất ông ta để bị truy tố về tội làm gián điệp ở Hoa Kỳ.

Trong cuộc trốn chạy đuổi bắt để xin tỵ nạn, ông Edward Snowden đã được đặt chỗ trên chuyến bay buổi chiều từ Moscow đến La Habana, với điểm đến cuối cùng là Ecuador, nơi ông tính xin tỵ nạn. Nhưng chuyến bay rời thủ đô Cuba đã cất cánh mà không thấy tăm dạng ông trên máy bay.

Julian Assange, người sáng lập tổ chức tiết lộ bí mật Wikileaks đang hỗ trợ cho ông Snowden, nói rằng ông Snowden đang an toàn, nhưng từ chối không tiết lộ ông ta đang ở đâu.

Phát ngôn viên Tòa Bạch Ốc Jay Carney nói Hoa Kỳ vẫn thường xuyên giao trả các nghi can tội phạm cho Nga và nói Hoa Kỳ trông đợi Nga sẽ giao trả ông Snowden, 30 tuổi, cho nhà chức trách Mỹ.

Ông Carney chỉ trích Trung Quốc về điều ông nói là “sự chọn lựa có chủ tâm” của Bắc Kinh cho phép ông Snowden đáp máy bay từ Hong Kong đi Moscow hôm Chủ nhật. Ông Carney nói quyết định của Trung Quốc gây phương hại “rõ ràng” cho bang giao giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc.

Ông Carney nói: “Xét rằng Hoa Kỳ vẫn hợp tác chặt chẽ với Nga sau vụ đánh bom cuộc đua Marathon ở Boston, và lịch sử hợp tác với Nga về các vấn đề thi hành công lực, kể cả việc giao trả cho Nga hàng nhiều tội phạm cấp cao theo lời yêu cầu của chính phủ Nga, chúng tôi trông đợi chính phủ Nga hãy xét tới tất cả các phương án sẵn có đối với họ để trục xuất ông  Snowden trở lại Hoa Kỳ.”


Ông ta khiến công tác chống khủng bố gặp nguy...Và rất có thể nhiều sinh mạng sẽ bị tổn thất ở Hoa Kỳ vì những kẻ khủng bố giờ đã biết được điều chúng cần tránh...

Ngoại trưởng Mỹ, John Kerry
​​
Ngoại trưởng Hoa Kỳ John Kerry, hiện đang đi công du Ấn Ðộ, tuyên bố giới hữu trách Hoa Kỳ “không biết, cụ thể, ông ta có thể đi đâu, hay nơi đến dự định là gì.”

Ngoại trưởng Ecuador ông Ricardo Patino tuyên bố tại một cuộc họp báo ở Việt Nam rằng ông “không thể cung cấp thông tin về tung tích của ông Snowden, “ nhưng nói rằng chính phủ của ông đã liên lạc với Moscow.

Ông Kerry nói sẽ ‘rất đáng ngại” cho cả Hong Kong và Nga khi cho phép ông Snowden ra đi để tiếp tục cuộc hành trình quốc trốn tránh bị truy tố ở Hoa Kỳ.

Ông Kerry nói: “Người này chỉ đưa thông tin thật và phổ biến ra ngoài bởi vì ông chợt nhận thấy rằng có điều gì không được các sự kiện minh chứng. Tôi nghĩ ông ta khiến công tác chống khủng bố gặp nguy. Ông ta khiến các cá nhân gặp nguy. Và rất có thể nhiều sinh mạng có thể bị tổn thất ở Hoa Kỳ bởi vì các phần tử khủng bố giờ đã biết được điều chúng cần tránh mà trước khi ông ta làm như vậy chúng không biết được.”

Nữ phát ngôn viên của Hội đồng An ninh Quốc gia Caitlin Hayden nói Tòa Bạch Ốc thất vọng trước việc ông Snowden được phép rời Hong Kong, bất chấp một lời yều cầu “có giá trị pháp lý” đề nghị bắt giữ ông ta. Thông cáo hồi sớm thứ Hai nói rằng Hoa Kỳ đã đưa ra những lời “phản đối mãnh mẽ” với nhà chức trách ở Hong Kong và chính phủ Trung Quốc.

Ecuador cho biết đã nhận và đang phân tích yêu cầu xin tỵ nạn của ông Snowden. Ông Patino nói Ecuador sẽ cứu xét yêu cầu xin tỵ nạn dựa trên “các nguyên tắc của bản hiến pháp nước này.”
​​
Chính phủ Ecuador vẫn thường chỉ trích chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ, và ông Patino nêu ra rằng Hoa Kỳ trước đây đã từ chối dẫn độ các chuyên viên ngân hàng bị truy nã đã gây phương hại cho quyền lợi của nhiều người Ecuador.

Các giới chức Hoa Kỳ cho biết hộ chiếu của ông Snowden đã không còn hiệu lực trước khi ông rời Hong Kong để đi Moscow. Chính phủ đã khuyến cáo các nước mà ông Snowden có thể quá cảnh hoặc là nơi đến cuối cùng rằng ông ta bị truy nã về các trọng tội và không được phép đi lại ở các nước ngoài.

Ecuador đã che chở cho người sáng lập Wikileaks là ông Julian Assange tại sứ quán của họ ở London trong năm vừa qua để ngăn việc ông có thể bị dẫn độ qua Thụy Điển, nơi ông đang bị điều tra về tội tấn công tình dục. Các luật sư của ông nói ông Assange lo ngại ông ta sẽ bị gửi qua Hoa Kỳ vì có liên hệ với việc tổ chức của ông ta phổ biến các công điện ngoại giao bí mật của Hoa Kỳ vào năm 2010.

Ông Snowden đã tiết lộ các văn kiện cho thấy các cơ quan tình báo Hoa Kỳ thu thập dữ liệu từ nhiều năm về những dạng thức sử dụng điện thoại và Internet. Ông nói ông tin rằng các chương trình này vi phạm quyền riêng tư của công dân.

Một giới chức cấp cao của chính phủ gay gắt chỉ trích các động cơ của ông Snowden và nói rằng việc ông ta tập trung vào sự minh bạch và quyền cá nhân “bị phủ nhận bởi những nước che chở mà ông có thể đã chọn.” Giới chức này liệt kê Trung Quốc, Nga, Cuba, Venezuela và Ecuador, và nói rằng việc ông Snowden không chỉ trích các chính phủ đó cho thấy “động cơ thực sự” của ông ta là gây thiệt hại cho an ninh quốc gia Hoa Kỳ.

Các giới chức cấp cao Hoa Kỳ từng nói rằng các chương trình theo dõi không ghi nhận nội dung các cú điện đàm, mà chỉ đi tìm các khuôn thức trong dữ liệu thống kê, kể cả thông tin về ngày giờ và các số điện thoại đã gọi.

Giới hữu trách Hoa Kỳ cũng nói các chương trình này đã ngăn chặn được ít nhất 50 vụ tấn công khủng bố trên toàn thế giới kể từ sau các vụ tấn công ngày 11 tháng 9 năm 2001 ở Hoa Kỳ. Họ cáo buộc ông Snowden là làm suy yếu khả năng của họ nhằm phá vỡ các âm mưu tấn công trong tương lai.
--------------------------------------------------------------------------------

http://www.voatiengviet.com/content/my-se-dung-moi-kenh-hop-phap-de-bat-giu-snowden/1688266.html

21/6/13

Trần Kỳ Phương - Giải mã nghệ thuật cổ Champa



 18 June 2013
James Blake Wiener thực hiện

Hà Duy dịch từ bài phỏng vấn tiếng Anh


Người Chàm ở Trung bộ Việt Nam đã có những truyền thống nghệ thuật, kiến trúc đầy ấn tượng cách đây hơn 1700 năm. Vương quốc Champa được thành lập vào cuối thế kỷ thứ 2 CN và đã tạo lập một chuỗi các tiểu quốc dọc theo vùng duyên hải, từ năm 192 đến 1832. Champa—nằm trên ngã tư giữa các nước Ấn Độ, Java và Trung Hoa—là một trung tâm giao thương sầm uất ở vùng Đông Nam Á và là đối thủ chính của đế chế Khmer hùng mạnh. Người Chàm chủ yếu được biết đến trong lịch sử là những thương nhân, thủy thủ và chiến binh, đồng thời họ cũng là những thợ thủ công thiện nghệ và kiến trúc sư tài năng. Trong cuộc phỏng vấn độc quyền này, James Blake Wiener của trang mạng Từ điển Bách khoa Cổ sử (Ancient History Encyclopedia) trao đổi với Trần Kỳ Phương–một chuyên gia lịch sử văn hóa Champa–về những đặc điểm độc đáo của nghệ thuật và kiến trúc Chàm. (Bản gốc tựa đề: “Deciphering Ancient Cham Art”, đăng trên trang mạng: <www.ancient.eu.com>, ngày 3/4/2013; và <www.kunstpedia.com>. [Hà Duy dịch])

kyphuong-232x300
Nhà nghiên cứu Trần Kỳ Phương

JW: Chào ông Trần Kỳ Phương, tôi xin gởi đến ông lời chào thân ái của Từ điển Bách khoa Cổ sử! Cám ơn ông giới thiệu cho chúng tôi về thế giới nghệ thuật và kiến trúc cổ Champa.
Mặc dầu người Chàm đã hấp thụ ảnh hưởng nghệ thuật từ Java, Cambodia, và Ấn Độ, tôi muốn hỏi ông, những khía cạnh đặc sắc nào của nghệ thuật và kiến trúc Chàm có thể được nêu lên khi so sánh nó với các nền nghệ thuật láng giềng? Hơn nữa, làm thế nào chúng ta có thể định nghĩa và tiếp cận với mỹ học Chàm: nên chăng qua những lăng kính của nghệ thuật Hindu (Ấn giáo) cổ và qua những vệ tinh văn hóa của “Đại Ấn”?

TKP: Nghiên cứu những đặc điểm địa lý của vương quốc Champa và của các nước láng giềng cho phép chúng ta hiểu được những khía cạnh độc đáo của nghệ thuật Chàm. Vương quốc Champa tọa lạc trên đại lộ hải thương gọi là “Con đường Tơ lụa trên biển,” và Champa cũng nằm giữa hai nền văn minh chính của Châu Á: Ấn Độ và Trung Hoa. Vương quốc này đã tích cực tham gia vào hệ thống hải thương quốc tế từ thế kỷ thứ 2 CN trở đi. Champa đã tạo được những mối quan hệ mật thiết với các vương quốc ở Đông Nam Á lục địa và với các đế chế hải đảo thuộc Indonesia hiện nay; kết quả là, nghệ thuật Chàm đã dung hóa/tiếp biến những xu hướng nghệ thuật đa dạng từ Đông Nam Á, Ấn Độ và kể cả Trung Hoa.

chaua
Bản đồ Châu Á vào năm 800 CN bao gồm vương quốc Champa và các nước trong khu vực.

Quan tâm về nền kiến trúc tôn giáo Hindu của Champa, nơi không có truyền thống xử dụng rộng rãi vật liệu đá trong xây dựng, trái hẳn với truyền thống kiến trúc của các nước láng giềng. Công nghệ xây dựng Champa nổi bật với việc xử dụng gạch, trong khi Khmer và Java thì nghiên hẳn về công nghệ xử dụng đá được minh chứng bởi các ngôi đền Angkor Wat hoặc Angkor Thom (ở Cambodia), và Borobodur hoặc Prambanam (ở Indonesia). Sự khác biệt về vật liệu xây dựng hàm ý những khác biệt về công nghệ cấu trúc cũng như những khác biệt về xử dụng nguồn nhân lực cống hiến vào các dự án xây dựng. Sự biến đổi giữa hai xu hướng tiếp cận này–sự xử dụng gạch hoặc đá–trong cấu trúc xây dựng có thể được giải thích bằng những hệ thống kinh tế đặc thù đã được tiếp biến bởi sự tương thích của các nền văn minh cổ ở Đông Nam Á.
Công nghệ của Khmer và Java là những nền công nghệ của những xã hội nông nghiệp, tọa lạc tại những đồng bằng rộng lớn (như của Cambodia) hoặc tại những bình nguyên giàu đất khoáng, đất nham thạch (như của đảo Java). Trong những xã hội nông nghiệp này, các vị vua, chúa, thủ lĩnh có khả năng điều động dễ dàng một lực lượng nhân công phong phú để lao tác trong một thời hạn dài. Tùy thuộc vào ước nguyện của giới cai trị, nguồn nhân lực này được xử dụng để xây dựng đền đài bằng sa thạch hoặc các loại đá khác. Ngược lại, người Chàm nghiêng hẳn về nền kinh tế hải thương.
Trong những xã hội thương mãi, khả năng điều động nguồn nhân lực cho những nhu cầu xây dựng các công trình tôn giáo trọng yếu đều bị hạn chế.
Xây dựng một ngôi đền bằng đá đòi hỏi một sự tập trung các nguồn nhân lực để đục cắt và vận chuyển đá và cho tất cả các công đoạn khác của chính một cấu trúc đá. Trong khi, một ngôi đền gạch đã không yêu cầu một nguồn nhân lực hùng hậu như thế: với một số lượng nhân công khiêm tốn hơn, được tận dụng trong một thời hạn nhất thiết, có khả năng kiến tạo những ngôi đền có kích cỡ bề thế như nhóm tháp Dương Long (ở Bình Định), là một trong những ngôi đền Hindu bằng gạch cao nhất ở Đông Nam Á, 42 mét.

duonglong
Hình 1: Nhóm đền-tháp Dương Long, thế kỷ 12-13, Bình Định. [Ảnh: TKP]

Bên cạnh những dị biệt này về vật liệu và công nghệ cấu trúc, các truyền thống nghệ thuật cổ ở Đông Nam Á cũng sở hữu những cá tính lỗi lạc trong sự đa dạng của những phương thức thể hiện. Điều này liên quan đến những thiết kế mặt bằng (bình đồ) và ý tưởng không gian của mô hình được ứng dụng cho từng nhóm đền-tháp. Mặt bằng trong kiến trúc Chàm thường bao gồm đơn thuần một hình vuông giản dị, trong khi những cấu trúc đá của Khmer và Java thường cầu kỳ và phức tạp hơn rất nhiều. Mô hình không gian kiến trúc Chàm, dựa trên nhiều khối vuông riêng rẽ, kết hợp đơn điệu, trong khi mô hình Khmer và Java đã phát triển toàn diện và kết hợp được phức thể của những dạng thức khác nhau. Tính đa dạng trong những thiết kế không gian và mô hình kiến trúc phản ảnh những dị biệt của tâm thức nghệ thuật: chúng là sản phẩm của “tri thức cộng đồng” đặc thù của từng nhóm sắc tộc và của xã hội cổ đại ở Đông Nam Á.
Mặc dầu nghệ thuật Chàm và nghệ thuật Đông Nam Á tất cả đều được tiếp biến từ những nền nghệ thuật ở tiểu lục địa Ấn Độ, mỗi nền văn minh Đông Nam Á đều sở hữu ngữ pháp và tự vựng riêng để diễn đạt cá tính nghệ thuật và tư chất thẩm mỹ của chúng. Thiên về cấu trúc địa lý và tộc người, chúng ta có thể dễ nhận ra đâu là những khác biệt nổi trội giữa những vương quốc này: vương quốc Champa gần gũi với biển, trong khi vương quốc Khmer thuộc về nội địa.
Cư dân bản địa sống trong vùng này thuộc về nhiều nhóm ngôn ngữ khác nhau cùng cộng cư trong mỗi vương quốc; ví dụ, cư dân Chàm cấu thành bởi hai ngữ hệ Austronesian/Nam Đảo (nhánh Mã Lai-Đa Đảo) và Austro-Asiatic/Nam Á (nhánh Môn-Khmer), trong khi cư dân Khmer đa phần thuộc ngữ hệ Nam Á. Thẩm mỹ tộc người của cư dân bản địa đã tinh lọc những nền nghệ thuật Hindu và Phật giáo đến từ Ấn Độ, đúc kết nên bộ từ vựng nghệ thuật riêng biệt và những cảm thụ nghệ thuật riêng tư cho mỗi nền nghệ thuật của Đông Nam Á.

siva
Hình 2: Thần Siva múa, đầu thế kỷ 10, sa thạch. Bảo tàng Điêu khắc Chăm-Đà Nẵng. [Ảnh TKP]


JW: Lịch sử đã không thân thiện với các di tích và tác phẩm nghệ thuật Champa: những thế kỷ chiến tranh và sự quên lãng vô tình đã gây nên những tác hại rõ rệt tại các di tích như Mỹ Sơn và Pô Nagar Nha Trang, trong khi những tác phẩm trang trí thì đã bị mất đi vĩnh viễn. Ngày nay, hầu như các nghệ phẩm Champa tồn tại là những tác phẩm điêu khắc bằng sa thạch hoặc bằng đồng thau, với một ít hiện vật được đúc bằng các loại hợp kim khác.
Chúng ta biết gì về các loại hình nghệ thuật khác của Champa cổ như: hội họa, trang sức, đan, dệt, đồ gốm, hoặc ngay cả thư pháp?
Có khả năng nào từ các nguồn ở hải ngoại hoặc từ các bi ký hiện tồn cho phép chúng ta phục dựng các loại hình nghệ thuật khác đã được chế tác trong thời vang son của vương quốc Champa (khoảng năm 600-900 CN)?

TKP: Vâng, thời gian và chiến tranh–đặc biệt các cuộc chiến trong thế kỷ vừa qua–là nguyên nhân chính đã hủy hoại các nghệ phẩm Chàm. Ngoại trừ kiến trúc tôn giáo, chúng ta chỉ có thể nhận biết nghệ thuật trang sức, dệt vải, v.v., đã được chạm khắc chi tiết trên các tác phẩm điêu khắc hiện tồn. Để tìm hiểu về đồ trang sức và y phục của hoàng gia Champa qua các thời kỳ lịch sử, thì, một sự quan sát cặn kẽ là điều thiết yếu; thí dụ, vào triều đại Indrapura (hưng thịnh vào khoảng năm 875 CN), nghệ thuật kim hoàn đã đạt đến đỉnh cao khi người ta có thể tìm thấy các kiểu thức đa dạng của đồ trang sức bằng vàng đeo trên thân thể giới quý tộc, được chạm khắc trên các đài thờ. Vào năm 1903, các nhà khảo cổ học đã phát hiện được một bộ trang sức bằng vàng–bao gồm mũ, miễn, hoa tai, vòng đeo cổ, vòng đeo tay, đeo chân, v.v.–để trang điểm cho ngẫu tượng của một vi thần Hindu, thần Siva, tại Mỹ Sơn.
Hiện nay, có khoảng hơn 200 bi ký Chàm đã được phát hiện. Những bi ký này có niên đại từ thế kỷ thứ 5 đến thứ 15 CN, và chúng cung cấp những chi tiết thú vị bằng cả tiếng Chăm lẫn tiếng Phạn (Sanskrit); may mắn là, mặc dầu phong cách của minh văn đã thay đổi và phát triển qua thời gian, chúng ta vẫn có thể tìm hiểu được rất nhiều thông tin về chúng. Các nhà khảo cổ học cũng đã phát lộ được nhiều lò gốm Chàm tại tiểu quốc Vijaya xưa kia (nay thuộc tỉnh Bình Định). Những lò gốm này được xác định niên đại từ thế kỷ 13 đến 15 CN. Rất ít người biết rằng gốm Chàm đã từng xuất khẩu đến hầu hết các quốc gia ở Đông và Đông Nam Á, chúng còn được tìm thấy ngay cả ở Trung Cận Đông. Chúng có vẻ đẹp tuyệt vời: Gốm Chàm đơn sắc màu xanh nhạt và màu vàng nâu.
Ngày nay, cộng cồng sắc tộc Chăm–sinh sống ở Nam Trung Bộ–vẫn sản xuất vải dệt cổ truyền với nhiều kiểu thức hoa văn độc đáo và các loại gốm thô làm theo kiểu không có bàn xoay. Họ cũng bảo tồn được các thể loại nghệ thuật truyền thống liên quan đến các nghi thức tôn giáo và lễ hội. Rất nhiều văn bản bằng tiếng Chăm viết trên lá cọ có niên đại từ thế kỷ 17 đến 19, vẫn còn được bảo quản.


JW: Chúng ta biết được gì về những công nghệ đã giúp người Chàm xây nên những tổ hợp đền-tháp to lớn này? Đền thờ Champa không chỉ nổi tiếng vì những ngọn tháp gạch của chúng mà cũng vì những mảng điêu khắc trang trí được chạm thẳng vào gạch. Mong ông chỉ ra cặn kẽ?

TKP: Công nghệ xây dựng của các tổ hợp đền –tháp Chàm rất diệu kỳ. Gạch được nung ở nhiệt độ khoảng 850 độ C, nên dễ hoàn tất. Để kết những viên gạch lại với nhau, người Chàm dùng một loại nhựa cây gọi là dầu rái, nó được lấy từ thân cây, tên khoa học là Dipterocarpus Alatus Roxb. (loại cây này được trồng thành rừng phổ biến ở Trung Việt Nam và ở bán đảo Đông Dương.) Đền–tháp Chàm được xây chừa khoảng trống giữa hai vách tường dày; sau đó, chúng được xây dần lên cao, rồi hình thành một hàng gạch cuối nơi đỉnh tháp. Tường tháp rất dày–khoảng 1.5 -2.0 mét–tạo nên phần chịu lực tuyệt hảo để nâng đỡ mái tháp và làm vững nền móng kiến trúc.
Người Chàm cũng rất kinh nghiệm trong việc kết hợp giữa gạch và sa thạch trên cùng một công trình; ở một vài tổ hợp đền-tháp, hai thứ vật liệu này vẫn còn kết chặt qua hàng ngàn năm! Sau khi đã hoàn tất việc xây dựng cho ngôi đền, những nhà điêu khắc Chàm chạm trổ các kiểu thức hoa văn trực tiếp vào tường ngoài của tháp gạch. Những kiểu thức hoa văn trang trí sáng tạo qua các thời kỳ đã hình thành các phong cách nghệ thuật khác nhau từ thế kỷ thứ 7 cho đến thế kỷ 16.

thapcham
Hình 3: Thánh địa Mỹ Sơn dưới chân ngọn núi thiêng Mahaparvata. [Ảnh TKP]


JW: Thưa ông, tôi nhận thấy rằng nghệ thuật và kiến trúc của Mỹ Sơn đã được chú trọng nhiều trong nghiên cứu của ông. Tại sao di tích này được chọn để xây và tại sao những triều vua kế tục lại ưa chuộng Mỹ Sơn, bảo trợ cho những ngôi đền tuyệt đẹp của di tích này?

TKP: Mỹ Sơn là thánh địa hoàng gia nơi vị thần-vua (devaraja)–một hóa thần của thần Siva, đấng bảo hộ các vương triều Chàm và vương quốc Champa–được thờ phượng. Thánh địa này được khởi dựng dưới triều vua Bhadravarman I hay Phạm Hồ Đạt (380-413) vào khoảng cuối thế kỷ thứ 4. Nó được dựng trong một thung lũng kín đáo với không gian thâm mật, dưới chân ngọn núi thiêng Mahaparvata, được đề cập trong văn bia của đức vua. Đỉnh của ngọn núi thiêng có hình dáng lạ tựa như mỏ của chim thần Garuda–vị thần của sự bình an trong đạo Hindu. Ngày xưa, thương thuyền đi lại dọc theo bờ biển trông thấy ngọn núi này như một chỉ dấu để biết rằng họ đã đến gần cảng-thị quan trọng là Hội An–trung tâm thương mại chính của tiểu quốc Amaravati Champa.
Người Chàm đã lập nên nhiều tiểu quốc hoặc “tiểu quốc cảng-thị” dựa trên cửa sông của những dòng sông chính ở miền Trung Việt Nam được xem như những vùng đất thánh. Mối tiểu quốc hay “tiểu quốc cảng-thị” của người Chàm được tổ chức dựa vào ba khuôn mẫu sau:
  1. Một trung tâm thương mãi tọa lạc ở cửa sông;
  2. Một trung tâm quyền lực hoàng gia–kinh thành–tọa lạc bên bờ sông về phái tây cửa sông;
  3. Một thánh địa hoàng gia tọa lạc dưới chân ngọn núi thiêng bên cạnh kinh thành.
Thí dụ, tiểu quốc Champa Amaravati, ở vùng Quảng Nam ngày nay, được tạo lập bởi ba thành tố sau:
  1. Hội An–một khu phố cổ còn gọi là “Đại Chiêm hải khẩu”–là một trung tâm hải thương;
  2. Kinh thành Sinhapura Trà Kiệu–còn gọi là “Kinh thành Sư tử”–là một trung tâm quyền lực hoàng gia;
  3. Mỹ Sơn–xưa kia được biết phổ biến là “Srisana-Bhadresvara”–là một thánh địa hoàng gia
Mỹ Sơn là di tích kiến trúc tôn giáo lớn nhất và quan trọng nhất của Champa, bao gồm khoảng 70 ngôi đền-tháp được xây dựng liên tục từ cuối thế kỷ thứ 4 đến thế kỷ 13. Di tích này lưu giữ những kiến thức quan trọng về văn hóa nghệ thuật Chàm, phản ảnh lịch sử kinh tế và xã hội của vương quốc Champa. Di tích này đã hấp dẫn nhiều thế hệ học giả kể từ khi nó được tái phát hiện bởi các học giả người Pháp vào cuối thế kỷ 19. Mỹ Sơn đã được công nhận là Di sản Văn hóa Thế giới của UNESCO từ năm 1999. Tuy nhiên, những hiểu biết của chúng tôi về di tích này vẫn còn hạn chế vì thiếu những cuộc khai quật khảo cổ học hiện hành. Chúng tôi trông đợi vào những cuộc khai quật đầy hứa hẹn trong tương lai, tôi hy vọng sẽ phát quật được nhiều tác phẩm thú vị và thúc đẩy những nổ lực để bảo tồn di tích này.


JW: Có phải những di tích như Mỹ Sơn và Pô Nagar Nha Trang cũng là những nơi hành hương không? Hơn nữa, tôi cũng băng khăng rằng liệu ông có thể giải thích kỹ hơn làm thế nào các cộng đồng nông nghiệp và thị tứ đã giúp phát triển của các di tích này? Chúng ta có đề cập qua ở trên và tôi tha thiết muốn biết thêm.

TKP: Đúng vậy. Mỹ Sơn và Pô Nagar Nha Trang là hai thánh địa Hindu của hoàng gia–một ở phía bắc vương quốc và một ở phía nam–nơi giới quý tộc và thương nhân Chàm đã đến hành hương. Hai thánh địa hoàng gia này phản ảnh tín ngưỡng vũ trụ lưỡng nghi của các vương quyền Champa: những người hành hương tại Mỹ Sơn thờ phượng đấng thần-vua, Siva (Srisana-Bhadresvara), tượng trưng cho nguyên tố nam; trong khi tại Pô Nagar Nha Trang, những người hành hương thờ phượng nữ thần, Bhagavati (vợ thần Siva, hay còn gọi là “Yang Inư Pô Nagar là Thần Mẹ Xứ Sở”), tượng trưng cho nguyên tố nữ.

thapcham
Hình 4: Thánh địa Pô Nagar Nha Trang, nơi thờ Nữ thần Mẹ Xứ Sở–Yang Inư Pô Nagar. [Ảnh TKP]

Vương quốc Champa nằm trên con đường hải thương quốc tế: người Chàm sở hữu bờ biển dài hơn một ngàn cây số, và nền kinh tế của vương quốc dựa vào nghề đi biển và thương mại đường dài. Cư dân Champa thường bận bịu quanh năm với các thương vụ và trao đổi hàng hóa. Hơn nữa, nền nông nghiệp của vương quốc tương đối kém phát triển vì đất canh tác chỉ bao gồm những cánh đồng nhỏ dọc theo các bờ sông ngắn. Tại thung lũng các dòng sông dài hơn–như sông Thu Bồn (Quảng Nam) hoặc sông Côn (Bình Định)–nơi đó đất đai trù phú hơn và gắn kết với những thương cảng lớn như Hội An (Cửa Đại) và Cửa Thị Nại (Quy Nhơn). Người Chàm trồng lúa nước và các loại nông sản như đường mía và khai thác trầm hương.
Một số lớn đền-tháp bằng gạch đã được xây dựng tại các khu vực này đó là kết quả của sự tập trung dân cư do các nguồn kinh tế cung cấp. Điều này giả định rằng ngay khi nguồn nhân lực được đầy đủ để tạo dựng các công trình tôn giáo, các vua Champa lập tức trưng dụng nguồn nhân lực này để xây dựng các đền-tháp hoành tráng và kỳ vĩ hơn. Nhìn chung, một xã hội nông nghiệp có khả năng cung cấp một nguồn nhân lực dồi dào và ổn định hơn một xã hội thương nghiệp, hay cá biệt, dựa vào sự nông nhàn giữa hai mùa lúa. (Xưa kia, người Chàm chỉ có một vụ mùa hằng năm.)


JW: Thưa ông Trần Kỳ Phương, thật hân hạnh được trao đổi với ông. Từ điển Bách khoa Cổ sử kính chúc ông nhiều hạnh phúc trong công cuộc nghiên cứu. Chân thành cám ơn ông đã chia sẽ những hiểu biết của ông về một nền văn hóa thật thú vị.

TKP: Vâng, thật là một vinh hạnh. Tôi rất vui mừng được chia sẽ kiến thức của tôi về nghệ thuật Chàm với Từ điển Bách khoa Cổ sử. Chúc Từ điển Bách khoa Cổ sử gặt hái được nhiều thành quả trong tương lai.

Hà Duy dịch

Source  : Tạp chí Da Màu

http://damau.org

Phạm Thị Hoài - BAO GIỜ EM SẼ DẪN CON VỀ THĂM NHÀ?


Tháng 6 21, 2013

Phạm Thị Hoài
Em đến nước Đức như một dãy số không dàn hàng ngang. Không gia đình. Không nghề nghiệp. Không bằng cấp. Không học vấn. Không ngoại ngữ. Không một xu dính túi. Tất nhiên là không hộ chiếu, không thị thực nhập cảnh. Không cả nhan sắc. Đến chơi nhà, tôi còn thấy em không giỏi việc nội trợ; bồn tắm thì vương mấy cọng rau, tủ lạnh vướng vài sợi tóc. Khi đã tàn nhẫn thì tạo hóa tàn nhẫn triệt để. Tất cả 50 hạt trên 10 gióng của chiếc bàn tính gẩy là số phận em đều đứng im.
Cho nên gặp lại em bốn năm sau trong một cửa hàng bán đồ 99 xu mà em là bà chủ, tôi sững sờ. Ở đó em là nô lệ của chính mình, từ tám giờ đến tám giờ; nhưng những người Việt tay không đi bắt giấc mơ Đức cặm cụi mỗi ngày mười mấy tiếng đồng hồ là bình thường. Em đã nói được chút tiếng Đức, vừa có bằng lái và sở hữu một chiếc xe đã chạy hơn một trăm ngàn cây số, nhưng là Mercedes. Thân hình gầy guộc năm nào đã đẫy đà, tóc nhộm hoe vàng, lông mày xăm nâu, da dẻ bớt mầu nắng gió Quảng Bình. Tôi đoán em cũng đã trả hết tiền vé hai trăm triệu cho chuyến vượt biên bất hợp pháp vào Đức. Tất cả như một câu chuyện thành đạt ngoài sức tưởng tượng. Em có quyền tự hào. Có lẽ em cũng may mắn.
Chẳng hạn may mắn hơn một chị Nghệ An đứng tuổi, có lẽ đã gần sáu mươi, cả ngày chực ở bãi đậu xe của một siêu thị giấm dúi bán thuốc lá lậu. Có lần chị khoe với tôi là con trai ở nhà vừa vào đại học. Trong vài phút, người phụ nữ ấy quên rằng mình đang chui lủi kiếm những đồng tiền phạm pháp, nhớn nhác chạy cảnh sát, đã bị bắt dăm bảy lần, sắp bị tòa phạt và sớm muộn cũng bị trục xuất. Chị chỉ còn là một người mẹ đầy tự hào. Thời trẻ tôi thấy những bà mẹ suốt ngày khoe con là lố bịch. Sau này tôi mới thấy điều đáng kiêu hãnh nhất của cuộc đời mình là đứa con. Riêng em không thế.
Công nghệ chạy giấy tờ để trở thành “người của nước Đức, có gì nước Đức lo cho hết”, như người Việt sang đây bất hợp pháp ao ước, hiện nay không quá khó. Chìa khóa để đổi đời là những đứa con. Đứa thứ nhất trên danh nghĩa có quốc tịch Đức để người mẹ “ăn theo”. Danh nghĩa ấy theo thời giá hiện nay lên tới ba chục ngàn Euro. Đứa thứ hai “ăn theo” mẹ và người bố lại “ăn theo” nó. Đứa thứ ba để cấp danh nghĩa cho một người bố khác, lấy lại vốn. Giấy khai sinh của trẻ em gốc Việt thế hệ tị nạn kinh tế ở Đức bây giờ là một mê hồn trận với những ông bố thật và những ông bố giả chồng lên nhau. Nhưng nhiều năm trước, em không có cơ hội đó. Chiếc chìa khóa của em mầu đen. Em sinh con với một chàng Mozambique, công nhân hợp tác lao động ở CHDC Đức cũ, đã nhập tịch, mà em gọi là “thằng mọi”. Khi “thằng mọi” bỏ đi với một “con Mông Cổ mắt híp”, còn lại hai mẹ con. Em bảo giấy tờ mình xong rồi, tiếc gì thằng Tây hôi. Về thăm gia đình em đi một mình. Em bảo đem thằng “Oẳn tà roằn” về Quảng Bình, cha mạ ra đường không dám nhìn ai nữa.
Tôi đã nghĩ đến em và thằng bé da đen buồn lủi thủi, khi Barack Obama trở thành người đàn ông quyền lực nhất thế giới, không lâu sau chuyến thăm Berlin lần thứ nhất mùa hè năm 2008 và thủ đô nước Đức nóng rực trong cơn sốt Yes We Can. Hôm qua tôi ghé cửa hàng của em, khi Obama đến Berlin lần thứ hai. Tôi mất hai tiếng rưỡi đồng hồ để bò trên đoạn đường bình thường chạy xe 20 phút. Toàn bộ thành phố bị lùa khỏi trung tâm, để ngài Tổng thống cùng gia đình và đoàn tùy tùng hộ vệ được an toàn chuyển động trên những đường phố Berlin đầy cảnh sát và không một bóng dân sự. Obama diễn thuyết trước 6.000 người tại Cổng Brandenburg thay vì trước 200.000 người tại Cột Khải hoàn như 5 năm trước. Cơn sốt lần này nóng rực các mạng xã hội và mang tên Yes We Scan. Người gửi cho tôi đường link vào trang Obama Is Checking Your Email tái bút ngay bên dưới: “Xóa ngay email này, trước khi tình báo Mỹ tìm ra bạn”. Facebook và Twitter tràn đầy những hình ảnh giễu cợt ngài Tổng thống. Ảnh một bên là J.F. Kennedy với phát ngôn bằng tiếng Đức: “Ich bin ein Berliner” (Tôi là một người Berlin) tròn 50 năm trước tại Berlin, một bên là câu của Obama: “Ich bin ein Trojaner” (Tôi là một phần mềm do thám Trojan). Một bên là hình Bức tường Berlin với câu “Mr. Gorbachev, tear down this gate!” của Tổng thống Reagan, một bên là hình bức tường rào dây kẽm gai của nhà tù Guantanamo với câu “Mr. Obama, tear down this gate!”. Một bên là M.L. King với câu “I have a dream”, một bên là câu của Obama: “I have a drone”. Hình Obama lột mặt nạ rồi hiện ra thành Bush nhan nhản. Tại Checkpoint Charlie, cửa khẩu nổi tiếng nhất từng ngăn Đông và Tây Berlin, những người biểu tình giương biểu ngữ: “Your privacy ends hier” (Không gian riêng tư của quý vị chấm dứt tại đây) ngay dưới tấm bảng lịch sử “You are entering the American Sector (Quý vị đang bước vào địa phận do Hoa Kỳ kiểm soát). Song được truyền bá nhiều nhất là hình Obama đeo tai nghe, như diễn viên Ulrich Mühe trên áp phích của bộ phim Đức nổi tiếng được giải OscarCuộc đời của người khác (Das Leben der anderen) về cơ quan mật vụ Đông Đức Stasi. Bên dưới đề: “Stasi 2.0”. Bên cạnh đề: “All your data is belong to us.” Mươi ngày trước trên tờ Guardian, ông Daniel Ellsberg, người đã tiết lộ Hồ sơ Pentagon về Chiến tranh Việt Nam bốn mươi năm trước đã đưa ra cụm từ mới: United Stasi of America.
Obama đến. Obama đi. Em không lây những cơn sốt vừa kể. Em sắp nhượng lại cửa hàng 99 xu, mở tiệm bán hoa. Tôi hỏi thăm, đã dẫn con về thăm nhà chưa. Em lắc.

Source : pro&contra

19/6/13

Những Ngày Mưa … Chó Mèo




Những ngày mưa…chó mèo


Người Mỹ có câu thành ngữ thông dụng…raining cats and dogs…mưa quá to, giông bão tơi bời vì quá nhiều sự việc dồn dập. Ở Việt Nam, mưa thực sự đem theo rất nhiều chó và mèo.
Trước hết, một bài báo có nhiều người đọc từ BBC nói về một nhân vật từ Úc, bà Michele Brown, thuộc hội bảo vệ súc vật. Khi làm một phóng sự về tệ nạn ăn thịt chó của người Việt, bà và người tài xế bị rượt đánh suýt chết. Bà này có làm một cuốn phim tài liệu trình chiếu tại hội phim Cannes về nạn ăn thịt chó mèo của người Trung Quốc và người Việt. Phim tạo một truyền cảm ghê rợn cho khán giả và gây ra một tai hại rất lớn cho những “cảm tình” mà các trí thức Âu Mỹ dành cho người Tàu và người Việt.
Chúng ta phải hiểu về phong tục và văn hóa của các dân tộc da trắng Âu Mỹ (Caucasian). Trong bậc xếp hạng về vị trí vai vế trong xã hội, thú vật nuôi trong nhà (pets) đứng sau trẻ em và đàn bà nhưng trước đàn ông. Mỗi năm, tiền chi tiêu mua sắm cho các pets tại Mỹ nhiều hơn ngân sách của toàn thể chánh phủ Phi Châu. Có thể vì sợi giây gia đình không bền chặt nên người Âu Mỹ thân thiết với các pets hơn các mối liên hệ xã hội khác. Dù thế nào, giết pets ở Mỹ là tội hình sự; và người ăn thịt chó mèo được xem như là man rợ, rừng rú và đáng khinh bỉ.
Điều quan trọng ở đây là chuyện của bà Brown không phải là tít lớn duy nhất trên các mạng truyền thông Âu Mỹ. Gần đây, nhiều phóng sự bài vở với góc nhìn rất tệ hại về Việt Nam lan tràn khắp nơi. Chuyện ăn thịt chó mèo, chuyện tội phạm Việt trồng ma túy cần sa khắp Canada, Anh và Mỹ, chuyện đại gia Việt phá rừng ở Lào và Kampuchia, chuyện buôn người ở Đông Âu, chuyện rửa tiền và tham nhũng, chuyện bắt giữ các bloggers, chuyện khách du lịch bị chặt chém và lừa bịp, chuyện ngăn chận Facebook…Nói tóm lại, các mạng truyền thông thế giới đã trở thành “thế lực thù địch” lớn nhất của chế độ hiện nay.
Tôi còn nhớ trước 1975, khi Mỹ muốn thay đổi chính sách ở Việt Nam sau khi đi đêm với Trung Quốc (qua cuộc viếng thăm lịch sử của Nixon ở Tàu vào 1972), các giới truyền thông Âu Mỹ tấn công mạnh mẽ vào chánh quyền Thiệu và quân đội VNCH. Bọn họ moi móc và ngụy tạo không biết bao nhiêu là bài vở rất tệ hại cho hình ảnh miền Nam VN. Với sự góp tay của các trí thức khuynh tả, đây thực sự là một chiến dịch PR điều khiển từ White House để chuẩn bị dư luận. Vì lá phiều của cử tri vô cùng thiết yếu cho sự sinh tồn của các chính trị gia Âu Mỹ, “chuẩn bị dư luận” luôn luôn là một báo hiệu cho những bước đi kế tiếp.
Xin nói rõ tôi không biết một điều gì khác ngoài việc “đọc và suy ngẫm” những thông tin đã xuất bản. Nhưng từ các sự kiện trên, tôi tự hỏi “các trận mưa…chó mèo này đang muốn nhắc nhở tôi về một điều gì?”
Alan Phan

SOURCE : BLOG TS ALAN PHAN 




Nhớ Thế Uyên (1935-2013)


17.06.2013

bởi Nguyễn Hưng Quốc




Nhà văn Thế Uyên (1935-2013)


Sáng Thứ Tư, 12/6/2013 (giờ Úc), tôi nhận được email của nhà văn Phạm Phú Minh từ California cho biết nhà văn Thế Uyên vừa mới từ trần cách đó mấy tiếng tại tiểu bang Washington, Mỹ. Đọc email xong, tôi cứ ngồi thừ bần thần suốt cả buổi sáng không làm được gì cả.

Thật ra, tôi chưa gặp Thế Uyên ngoài đời bao giờ. Tôi chỉ “gặp” ông, thoạt đầu, qua các cuốn sách và các bài báo của ông; sau đó, qua một số bức thư ông gửi cho tôi.

Trước năm 1975, lúc ông đang dạy học, viết lách và loăng quăng hoạt động trong nhóm Thái Độ với giấc mộng thúc đẩy một cuộc cách-mạng-xã-hội-không-quốc-gia-không-cộng-sản ở Sài Gòn thì tôi vẫn ngơ ngơ ngác ngác trong các trường tiểu học rồi trung học ở Quảng Nam - Đà Nẵng; sau 1975, khi tôi vào Sài Gòn thì ông nằm trong các trại cải tạo; sau đó, vượt biên, tôi sang Pháp rồi qua Úc, còn ông thì từ Việt Nam được bảo lãnh sang Mỹ. Năm 1998, viết thư cho tôi, ông xin mấy tấm hình của tôi với lý do “để sau này dễ nhận ra nhau khi gặp gỡ”. Thú thực, lâu quá, tôi không nhớ là có gửi hình cho ông không. Có điều, sau đó, tôi có dịp đi Mỹ khá nhiều lần nhưng chưa bao giờ ghé đến tiểu bang Washington, nơi ông ở, còn ông, sau lần bị stroke vào tháng 3 năm 1999, thì, nói theo lời ông trong bức thiệp chúc tết gửi tôi vào đầu năm 2001, “vẫn chống gậy lịch kịch đi gần gần và viết bằng tay trái”, chắc không thể đi đâu xa được. Vậy là cho đến lúc ông qua đời, tôi vẫn chưa được gặp ông lần nào cả.

Cũng không có gì đáng tiếc. Với nhà văn, có khi gặp trên trang sách là đã đủ. Kinh nghiệm cho tôi thấy việc gặp gỡ ngoài đời ít khi thực sự có ích cho việc đọc văn của nhau. Những nhà văn ngoài đời lớn và đẹp hơn tác phẩm của chính họ thường, phần lớn, là các nhà văn loại xoàng. Những nhà văn lớn, thực sự lớn, thì thường lớn trong tác phẩm hơn là trong cuộc sống, do đó, những cái chúng ta thấy ngoài đời thường nhàn nhạt, có khi, thậm chí, nhạt thếch, so với những gì chúng ta đọc trên trang giấy. Dĩ nhiên, tôi không hoàn toàn phủ nhận tác dụng của các cuộc tiếp xúc. Chúng có thể làm nảy nở tình bạn hoặc gợi ra một số khía cạnh nào đó khi đọc. Nhưng chúng cũng đầy bất trắc.

Bởi vậy, nghĩ đến Thế Uyên, tôi không tiếc lắm về việc không gặp được ông mà mừng vì đã đọc ông từ rất sớm, có lẽ từ những năm đầu tiên của trung học. Và đọc khá nhiều, từ truyện ngắn đến truyện dài, tùy bút, biên khảo, dịch thuật, và cả các cuốn sách giáo khoa văn học do ông biên soạn. Thích. Dù phải nói thật là không thích lắm. Có lẽ vì phần lớn các tác phẩm của ông, đặc biệt tùy bút và nghị luận, thường xoáy vào các vấn đề thời sự, những thao thức về thời cuộc, tất cả, với một đứa trẻ mới lớn như tôi lúc ấy, thật xa vời, hơn nữa, xa lạ. Điều tôi thích ở ông lúc ấy, và cả sau này nữa, không phải ở tư tưởng, mà là ở thái độ, một thái độ thành thực và thẳng thắn, hay nói toạc ra những gì mình nghĩ, dù về chuyện tình dục hay chuyện chính trị, bất kể phản ứng của người đọc hay người đối thoại. Đằng sau thái độ ấy, có lẽ đúng như Võ Phiến nhận định, là một “cá tính mạnh”. Tôi thích những người có cá tính mạnh. Nhất là trong viết lách.

Nhờ cá tính mạnh như thế, Thế Uyên, trong các tác phẩm xuất bản ở Sài Gòn trước 1975, đã có một số những đóng góp khá có ý nghĩa: Thứ nhất, ông bình thường hóa yếu tố tình dục trong các quan hệ nam nữ; thứ hai, ông cũng bình thường hóa những cách nói vốn dễ bị xem là thô lỗ và sỗ sàng liên quan đến thể xác; thứ ba, ông cung cấp nhiều chi tiết và đánh giá thú vị về Tự Lực văn đoàn từ cái nhìn của một người vừa ở trong vừa ở ngoài gia đình, với rất nhiều kính trọng nhưng lại không sa vào sùng bái và xu hướng huyền thoại hóa; và thứ tư, ông tự biến thành một hình ảnh tiêu biểu ít nhất của một số khá đông trí thức văn nghệ sĩ ở miền Nam trước năm 1975: vừa có tham vọng lại vừa ngây thơ, vừa dấn thân lại vừa lãng đãng mơ mộng, vừa sáng suốt lại vừa mù quáng…

Ở hai đóng góp đầu, tôi dùng chữ “bình thường hóa”. Ở cả hai, Thế Uyên không phải là người có công phát hiện. Ông chỉ có “công” đề cập đến chuyện tình dục và sử dụng loại ngôn ngữ liên quan đến thể xác với một tần số thật cao và, đặc biệt, với một giọng điệu thật hồn nhiên và tự nhiên khiến dần dần, người đọc thấy mọi thứ đều bình thường, bình thường đến độ, sau đó, gặp lại những chuyện ấy cũng như những cách nói ấy, không ai còn thấy sốc nữa. Thế Uyên bị phê phán, nhưng nhờ ông, những người cầm bút về sau, khi viết như ông hoặc táo bạo hơn ông, cũng thấy nhẹ nhàng hơn hẳn.

Tuy nhiên, điều tôi nghĩ ngợi nhiều nhất về Thế Uyên trong mấy ngày này không phải là chuyện viết lách của ông. Chuyện ấy, Võ Phiến đã có một bài viết thật sâu sắc và công bình trong cuốn Văn học miền Nam (truyện, tập 3, nxb Văn Nghệ, California, 1999, tr. 1461-1489). Tôi nghĩ nhiều hơn đến tính cách của Thế Uyên. Không phải tính cách như nó được phản ánh qua trang viết như điều Võ Phiến đã phân tích. Cũng không phải qua thư từ riêng tư ông gửi tôi. Mà qua những lần tranh cãi giữa ông với tôi và Hoàng Ngọc-Tuấn trên báo, chủ yếu là trên tờ Văn Học của Nguyễn Mộng Giác ở California.

Có hai lần tranh cãi.

Lần đầu, trong cuộc tranh luận chung quanh bài “Đọc… chơi vài bài ca dao” của tôi vốn đăng trên tạp chí Việt số 1 ra vào đầu năm 1998, sau đó, in lại trên Văn Học của Nguyễn Mộng Giác ở California (số 141&142, 1998). Trong bài viết, tôi đề cập đến nhiều bài ca dao, từ bài “Mình nói dối ta mình hãy còn son” đến bài “Trèo lên cây bưởi hái hoa” hay “Em như cục c.. trôi sông”, nhưng chi tiết bị nhiều người phản đối nhất là cách tôi diễn dịch câu “Vân Tiên ngồi dưới gốc môn / Chờ cho trăng lặn bóp l. Nguyệt Nga” như một “cách đọc truyện Lục Vân Tiên” và cũng là một cách phê phán Nguyễn Đình Chiểu của quần chúng. Cuộc tranh luận kéo dài trên nhiều số Văn Học. Trong số những người phản đối tôi có Thế Uyên với bài “Bàn thêm về Lục Vân Tiên và ca dao với Nguyễn Hưng Quốc” (Văn Học số 143, tháng 3, 1998, tr. 23-31). Lần ấy, tôi không trả lời ai cả.

Lần thứ hai, do chính Thế Uyên khởi xướng, trong bài “Đàm luận với Nam bán cầu” đăng trên tờ Văn Học (số 155, tháng 3/1999), ở đó, Thế Uyên trích một số câu trong bài “Sống và viết như những người lưu vong” đăng trên Việt số 2 của tôi để phản bác. Hơn nữa, ông cũng trích một số câu trong thư tôi gửi riêng ông để gọi là “đàm luận”. Tôi chỉ viết bài “Vài lời minh oan”, đăng trên cùng số báo, để…minh oan vì tôi cho là Thế Uyên hiểu sai ý của tôi. Trên Văn Học số kế tiếp, 156 (tháng 4/1999), Hoàng Ngọc-Tuấn cho đăng bài “Thử bàn về một số vấn đề ‘kinh điển’ trong lý luận văn học nhân đọc bài viết của nhà văn Thế Uyên”, trong đó, với một lượng kiến thức đồ sộ từ sách vở Đông Tây kim cổ và với khả năng phân tích sắc bén, anh vạch trần từng điểm, từng điểm sai lầm trong cả kiến thức lẫn nhận thức của Thế Uyên. Sự uyên bác của Hoàng Ngọc-Tuấn rõ ràng đè bẹp cái cảm tính của Thế Uyên. Điều đó khiến Nguyễn Mộng Giác đâm ra băn khoăn ngập ngừng lưỡng lự trước khi quyết định cho đăng. Nói chuyện với tôi, anh cho biết: anh thấy tội nghiệp cho Thế Uyên.

Tôi tham gia sinh hoạt văn học đủ lâu để biết tâm lý của phần lớn giới cầm bút Việt Nam: Không khen nhau đã mệt, huống gì lại chê nhau; chê nhau bằng miệng đã chuốc oán huống gì là chê nhau trên mặt báo. Sau những lần đụng độ công khai, quan hệ bao giờ cũng bị đổ vỡ, hoặc ít nhất, rạn nứt. Có người thù suốt cả đời. Nhưng Thế Uyên thì không. Sau đó, ông vẫn viết thư cho tôi. Vẫn thân mật. Vẫn khen tạp chí Việt và một số bài viết của tôi. Tháng 9 năm 2002, không biết là Việt đã đình bản, ông hỏi: “Tôi hiện vẫn một tay và một chân rưỡi. Nhưng đã hồi phục đủ để thấy thích viết văn trở lại. Do đó, chủ đề số tới là gì vậy, xem tôi có thể đóng góp được không (nếu Việt chịu được lối viết của tôi, giản dị và ít dẫn chứng ông Ov bà Ef, lại đôi khi để cái ‘tạng’ nó chi phối!).” Khi biết Việt bị đình bản, ông vẫn gửi bài đăng trên Tiền Vệ, tờ báo mạng do Hoàng Ngọc-Tuấn và tôi chủ trương. Hồi ký “Tự thuật văn học” kéo dài 19 kỳ của ông, ông gửi đăng trên Tiền Vệ chứ không phải ở bất cứ đâu khác.

Thái độ của Thế Uyên, rất người lớn và cũng rất chuyên nghiệp, tôi nghĩ, rất hiếm có trong giới cầm bút. Nó khiến tôi kính phục ông.

Nghe tin ông mất, nghĩ về ông, điều ám ảnh tôi nhất chính là cái thái độ ấy. Và chợt thoáng lên chút tiếc nuối: Phải chi được gặp ông để cụng với ông một ly rượu. Coi những chuyện cãi cọ cũ như “chiếc lá bay”, như “hạt bụi”, hoặc cùng lắm, như “hơi rượu say”.

Source :  VOA /Blog NHQ.