26/9/13

Lý Quang Diệu : VIỆT NAM – Bị nhốt trong ý thức hệ xã hội chủ nghĩa


2Đôi lời: Dưới đây là trích đoạn viết về Việt Nam, trong cuốn sách “One Man’s View of the World“ của ông Lý Quang Diệu, Nhà xuất bản SPH Singapore, 2013, được độc giả NTS có nhã ý dịch và gửi tới, với lời bình:
“… Vừa rồi Vietnam và Singapore mới kỷ niệm 40 năm quan hệ ngoại giao bằng việc khánh thành VSIP thứ 5 với sự có mặt của thủ tướng và quan chức 2 nước và những lời lẽ ngoại giao chúc tụng.  Hãy thử đọc đoạn đánh giá về VN của Lý Quang Diệu xem người Singapore thực sự nghĩ gì về chúng ta (cụ thể là giới lãnh đạo, bằng thái độ khinh thường+ mỉa mai)”.
Thế nhưng, khi thử tìm trên mạng về cuốn sách này, thì có một số bài báo giới thiệu một cuốn “tương tự” đã được dịch và xuất bản tại Việt Nam. Tuy hình bìa có khác, nhưng lướt qua nội dung có vẻ như đúng là cuốn sách được đề cập dưới đây. Có điều, trong các bài báo viết khá kỹ về cuốn sách thì không có chút thông tin nào cho thấy nội dung có nói về VN. Phải chăng nhà xuất bản đã “tự kiểm duyệt”, cắt bỏ đi phần rất “nhạy cảm” này? Mời tham khảo một bài tóm lược công phu của tờ Doanh nhân Sài GònLý Quang Diệu bàn về Trung Quốc, Hoa Kỳ và thế giới.
 Nhưng tìm thêm trên mạng thì có lẽ có 2 cuốn khác nhau. Cuốn mà NXB Thế giới dịch là đâyLee Kuan Yew by Graham Allison Robert D. Blackwill Henry A. Kissinger Ali Wyne.
Lý Quang Diệu
Nhiều người đặt nhiều kỳ vọng vào Việt Nam khi nước này quyết định cải cách theo hướng thị trường tự do vào những năm 1980s, tức là chỉ vài năm sau khi Trung Quốc thực hiện bước đi tương tự. Đổi Mới, hay “thay đổi để chuyển sang cái mới” theo cách nói của người Việt Nam, lúc đầu có triển vọng.  Một trong những hành động đầu tiên là nước này giao đất sở hữu tập thể theo thuyết xã hội chủ nghĩa đến cá nhân người nông dân.  Việc này dẫn đến sản lượng nông nghiệp tăng vượt trội chỉ trong vài năm. Nhiều người cả trong nước lẫn ngoài nước đã nghĩ rằng nước này đang đi đúng hướng.  Sự thực là những người biết đến sự đổi mới của Trung Quốc mang đến những thành công về kinh tế đáng kinh ngạc , mà nghĩ rằng Việt Nam cũng phát triển theo con đường tương tự, là những người không theo dõi Việt Nam một cách sát sao.
Khi thận trọng đánh giá thì ta thấy có gì không ổn.  Quan điểm cá nhân của tôi về đổi mới ở Việt Nam đã thay đổi nhiều, không còn lạc quan như những lần đầu tôi mới thăm nước này những năm 90s.  Giờ đây tôi tin rằng những nhà lãnh đạo cộng sản Việt nam kỳ cựu không thể khai phá nổi tư duy xã hội chủ nghĩa cố hữu. Ban đầu họ đồng ý thuận theo con đường cải cách bởi vì họ nhận thấy nước này chẳng còn lối đi nào khác.  Nhưng kể từ đó đến nay họ không có tiển triển gì thêm khi kiên định cải cách hệ thống như ở Trung Quốc.   Những vị “lão thành cách mạng” này làm cho Việt Nam trì trệ .  Chỉ khi những vị này không còn thì Việt Nam mới có thể có đột phá theo hướng hiện đại hóa. 
Một trong những kinh nghiệm mới đây khi tôi đi thăm nước này có thể minh họa những vật cản mà Việt Nam đang gặp phải. Tôi gặp gỡ một số quan chức dân sự và quân sự và tôi nhắc họ những vấn đề mà công ty Singapore vướng phải khi triển khai dự án khách sạn ở Hồ Tây Hà Nội.  Khi công ty này bắt đầu việc đóng cọc, hàng ngàn dân làng đến yêu cầu bồi thường ô nhiễm tiếng ồn. Để tránh phí tổn gia tăng, công ty này đã phải chuyển sang phương pháp làm móng  bằng bắt vít vì phương pháp này gây ít tiếng ồn hơn.  Lần này vị quan chức, người đã duyệt dự án, đến và nói “chúng tôi không cho phép phương án này” . Rõ ràng là có sự thông đồng giữa quan chức này với những người dân bốc đồng kia. Tôi nói rõ với lãnh đạo Việt Nam rằng, hành động như vậy là phản tác dụng. Tôi khuyên họ là nếu các anh muốn khai phóng thì hãy nghiêm túc thực hiện.  Họ trả lời một cách ba phải, điều đó cho thấy họ nửa vời khi thực hiện cải cách. Họ không hiều rằng một nhà đầu tư hài lòng sẽ mang đến nhiều nhà đầu tư khác. Ý định của họ là khi đã phục kích được một nhà đầu tư , sẽ là cơ hội để họ vắt kiệt anh ta nhiều nhất có thể.  Các nguyên lão lên lon trong hệ thống đảng là nhờ cuộc chiến và hiện giờ chiếm giữ các vị trí trong chính quyền.  Thật không may là họ thăng quan tiến chức không phải vị họ giỏi giang trong quản lý kinh tế hay có tài năng quản trị.  Họ thăng tiến vì đào hầm từ bắc vào nam trong hơn 30 năm.
Việt Nam có điểm chung với Trung Quốc trong quá trình khai phóng cải cách là các quan chức tham nhũng.  Các cán bộ đảng , người coi mình sẽ được hệ thống chăm sóc, đột nhiên chứng kiến những người ngoài đảng giàu có lên nhanh chóng.  Họ vỡ mộng và trở nên tham lam , ví như cán bộ hải quan nhập lậu xe hơi để họ có thể được chia phần.  Cái mà họ khác với Trung Quốc là không có lãnh tụ dạng Đặng Tiểu Bình, người có địa vị tuyệt đối trong hệ thống Đảng và có niềm tin kiên định rằng chỉ có cải cách mới là cứu cánh.    Nguyên nhân lại chính là do cuộc chiến Việt Nam. Trong khi những đồng chí Trung Cộng xoay sở hàng thập kỷ để thử nghiệm các kinh nghiệm quản trị trong thời bình, rút ra luận điểm xem cách nào thì tốt cách nào không tốt và điều chỉnh niềm tin và ý thức hệ khi thực hành, Việt Cộng lại bị tắc trong cuộc chiến tranh du kích đẫm máu với Hoa Kỳ, nên họ chẳng biết gì về trị quốc.  Ngoài ra, hầu hết các thương gia thành đạt ở Nam Việt Nam, những người rất thông thạo vận hành chủ nghĩa tư bản, đều rời bỏ Việt Nam những năm 70s.
Người Việt là giống người năng động và tài giỏi ở Đông Nam Á. Học sinh đến Singapore theo dạng học bổng Asean rất nghiêm tục học hành và đậu thứ hạng cao nhất.  Với giống người thông minh như vậy, quả thật là đáng tiếc là họ lại thiếu tiềm năng.  Hy vọng rằng sau khi hết lớp người trải qua cuộc chiến, giới trẻ sẽ kế nhiệm, họ sẽ thấy Thái Lan đã thành công ra sao và họ sẽ bị thuyết phục bởi mức độ quan trọng của thị trường tự do.

Hỏi: Việt Nam có vấn đề lớn với Trung Quốc về tranh chấp lãnh thổ trên biển Đông. Và ở cuộc họp bộ trưởng Asean năm 2012, khi các nước không thể ra thông cáo chung lần đầu tiên sau 45 năm, Việt Nam là nước tranh cãi chính với Trung Quốc
 Đáp: Họ không thể có được sự hỗ trợ từ Asean để bảo vệ lập trường của mình bởi vì người Trung Quốc đã đàm phán riêng rẽ với Malaysia và Brunei với những tranh chấp nhỏ hơn.  Nhưng tranh chấp chủ yếu, cái tranh chấp này mới là vấn đề, lại từ phía Việt Nam
 Hỏi: Điều đó cho thấy Trung Quốc có thể chia rẽ Asean về vấn đề này
Đáp: Nó cho thấy người Trung Quốc giỏi thế nào.  Họ đã giải quyết với các ngoại bang, với các bộ lạc man di từ hàng ngàn năm nay và họ biết rằng phải xử từng đối tượng một, tránh để chúng kết liên minh và họ không phải đối đầu với một nhóm.  Họ chơi nhóm kia từng người một.
 Hỏi: Việt Nam đang xúc tiến quan hệ với Hoa Kỳ, điều đó có làm cân bằng hơn với Trung Quốc?
Đáp: Đúng vậy, bộ trưởng quốc phòng Hoa Kỳ Leon Panetta đã đến Cam Ranh năm 2012.  Có thể có lợi nếu có người Mỹ tham gia vào tranh cãi về quần đảo Hoàng Sa nhưng tôi không nghĩ người Mỹ và người Hoa sẽ đối đầu trực diện.  Điều tốt nhất Việt Nam có thể hy vọng là nộp hồ sơ lên Ủy Ban Công Ước Luật Biển Liên Hợp Quốc(UNCLOS) về nhưng tranh chấp.
 Hỏi: Cũng có tin là Việt Nam sẽ mua vũ khí của Mỹ
Đáp: Tôi không ngạc nhiên, Người Mỹ đang gần hơn người Trung Quốc. Và người Mỹ có vũ khí hiện đại hơn người của Trung Quốc
Hỏi: ông có nghĩ rằng Asean có thể sẽ bỏ nghị trình về tranh chấp lãnh hải Biển Đông trong các cuộc họp thượng đỉnh săp tới
Đáp: họ đã làm như vậy. Đáng lẽ ra phải có bộ quy tắc ứng xử (COC) nhưng nó đang bị phá.




4
5

Hạ Đình Nguyên - Sự nói dối cưỡng bức?

27/09/2013
 Hạ Đình Nguyên 


Bản chất của sự nói dối là biết sự thật nhưng cố ý nói khác đi một cách có ý thức, với mục đích che giấu hay tránh né sự thật. Nói khác sự thật, do tình thế cưỡng bức không thể nói sự thật, phải gượng lòng nói dối, tạm gọi là nói dối cưỡng bức.
Sự nói dối cưỡng bức được lặp lại nhiều lần, rồi quen đi, nó trở thành tính, thành nết, thành tật xấu, cuối cùng là hình thành sự ngụy tín cho chính mình. Sự nói dối bấy giờ trở nên trơn tru, hồn nhiên, giống y như nói thật, mà người nghe thì thấy nó trần trụi, nó gợi lên một cảm nhận trơ trẽn.
Trẻ em nói dối thì bị quở mắng, có khi bị trừng phạt. Người lớn – với tư cách là người dân bình thường – nói dối thì hàng xóm, bạn bè tránh xa không muốn chơi, người thân thì không thể tin cậy. Người có cương vị xã hội mà nói dối thì bị nhiều người coi khinh; cương vị xã hội càng lớn, thì sự coi khinh càng nhiều, càng báo hiệu sự nguy hiểm.

Sự nói dối về dân chủ, nhân quyền ở nước ta ngày càng trở thành đề tài thời sự nóng hổi trên các diễn đàn, cả ở diễn đàn quốc tế.
Cứ mỗi lần một nhân vật cao cấp nói về dân chủ, nhân quyền là họ đã thảy một mồi lửa vào đống rơm khô, tức thì gây nên bất bình rộng khắp và không cưỡng được.
Người ta không tin rằng những con người ấy có tính nói dối bẩm sinh, cũng không thể tin rằng họ không biết sự thật, một sự thật mà người dân thường cũng hiểu được, với nhan nhản sự kiện đầy ắp trên trang báo, trang mạng mỗi ngày, mỗi tuần, mỗi năm và năm này qua năm khác. Chỉ có thể lý giải rằng đây là sự nói dối cưỡng bức, tức là bị bắt buộc phải nói dối.
Thử đặt vài câu hỏi:
- Nhưng ai có thể cưỡng bức họ, khi họ có quyền lực cao?
- Điều gì khiến họ chịu sự cưỡng bức dài hơi, lâu ngày đến thế?
- Và nó đã trở thành sự nói dối hồn nhiên?
1- Cách đây không lâu, bà Phó Chủ tịch nước nói: Dân chủ của Việt Nam là “cao hơn gấp vạn lần so với dân chủ tư sản”. Câu nói ấy đã gây nhiều phản ứng, nhưng không phải là nói dối nếu so với giáo trình Mác-Lênin [Thực ra, so với Lenin, bà Phó Chủ tịch nước đã rất khiêm tốn, vì Lenin quả quyết: “Chế độ dân chủ vô sản so với bất cứ chế độ dân chủ tư sản nào, cũng dân chủ hơn gấp triệu lần; chính quyền xô-viết so với nước cộng hoà tư sản dân chủ nhất thì cũng dân chủ hơn gấp triệu lần.” (V. I. Lenin, Cách mạng vô sản và tên phản bội Cau-xky, Nxb Tiến bộ, Matxcơva, 1974, tr. 39). Hay đơn giản là vì bà không thuộc sách vở kinh điển Lenin? Khó tin, vì bà là Giáo sư Tiến sĩ, có trình độ cao cấp về lí luận chính trị, trong khi câu nói “nổi tiếng” trên đây của Lenin đã được đưa ra giảng dạy trong nhà trường Việt Nam xã hội chủ nghĩa mấy chục năm nay, đến mức thầy giáo rất hay lấy làm đề thi cho học trò, chẳng xem ở đây hay ở đâyBVN]. Còn so với thực tế, nó rất vô nghĩa, một so sánh định lượng “quá mức tình cảm”, hoặc do quán tính thuần túy… Nhưng câu nói ấy không gây nên sự phẫn nộ từ dân chúng, mà chỉ gây nên một nỗi buồn đến kinh hoàng về sự tụt hậu của trình độ “suy thoái tư tưởng” mang tính biểu trưng của tầng lớp lãnh đạo. Nếu hiểu về mặt đạo đức của sự “trung thành” hay “kiên định” với ý thức hệ, thì cái đạo đức ấy cũng gây kinh hoàng không kém. Chỉ vì cái đức tin đặt nhầm vào chỗ không phải của tôn giáo. Nó làm buồn nhân dân suốt cả năm, cũng chỉ vừa mới nguôi ngoai.
2- Nay lại đến phiên ông Chủ tịch nước!
Người ta hỏi rằng bây giờ ông có đang đói bụng không, ông trả lời một cách biện chứng rằng, vì hôm qua ông có ăn nên hôm nay không thể đói được!
Vì rằng nước ông (Việt Nam) đã từng chống ngoại xâm giành độc lập dân tộc cả trăm năm qua, nên đương nhiên có ý chí – thậm chí rất mãnh liệt – về khát vọng dân chủ và nhân quyền. Và vì “có” khát vọng đó, nên đương nhiên dân chủ, nhân quyền phải “có” thôi! Cái lý nó thế.
Phải mượn tạm lịch sử chứ biết nói sao! Cũng như mượn tạm cái bức thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh cách đây 2/3 thế kỷ, khi sang Mỹ tháng trước, để gởi cho ngài Obama.
Đây cũng không phải là lời nói dối thuần túy, mà chỉ là nói tránh/trớ/né thôi. Tính của ông Chủ tịch như đã từng thể hiện, ít khi nói thẳng, có lẽ không phải vì thiếu dũng khí, mà vì tính “nói khéo” có phần nổi trội. Thí dụ, đồng chí X.
Nhưng cái dẫn chứng mà ông đưa ra, mới gây nên chuyện, vì là nói dối đủ 100% . Nhiều báo trích nguyên văn, xin lặp lại:
Chúng tôi có 86 triệu dân, trong đó trên 30 triệu người sử dụng internet hằng ngày, tỷ lệ đó biến đổi hàng giờ, không có bất cứ sự ngăn cấm nào cả… Ngoài ra Việt Nam có khoảng trên bốn triệu blogger, rất tự do. Do vậy, ở ngoài thì đồn đại rất nhiều nhưng để hiểu Việt Nam nhiều hơn, hiểu về đời sống chính trị của Việt Nam thì xin mời các bạn hãy đến Việt Nam. Mặc dù chúng tôi còn nghèo nhưng cũng có trên dưới 200 kênh truyền hình, 700 tờ báo và không dưới 17.000 phóng viên...” (Phát biểu của Chủ tịch nước với báo chí tại Đan Mạch, đăng trên Thanh Niên, nhưng bị rút xuống. Xin xem ở đâyBVN)
Biến đổi hàng giờ vì phải liên tiếp thay hình đổi dạng, tự chết đi để tìm cách sống dậy. Mà dù có sự phát triển, thì không phải là sự vui mừng, mà là nỗi lo ngay ngáy của phía nhà nước. Rất tự do lại như một cơn gió độc quất vào mặt các blogger dù họ đang ở trong nhà tù kín gió. Cái đội ngũ hùng hậu về người và phương tiện: 17.000 phóng viên, 700 tờ báo, 200 kênh truyền hình..., đúng là đất nước còn nghèo (ông Chủ tịch khẳng định), nhưng rất thích chơi sang! Chừng ấy là chưa tính tới bao nhiêu cái loa phường, mỗi phường một loa thôi, trên khắp đất nước, cũng quá đủ để trấn áp hệ thần kinh người dân. Lực lượng hùng hậu mà Chủ tịch dẫn chứng, có số người đông như bộ máy an ninh cảnh sát, có phương tiện truyền thông dồi dào vô địch, được hiểu một cách hùng hồn chỉ là một bộ máy đàn áp. 17.000 phóng viên ư? Trong đó biết bao nhiêu tiếng thở dài? Bao nhiêu tiếng hò reo cùng với kèn trống? Với một nhà báo Nguyễn Đắc Kiên, chỉ một bài báo, trong chỉ một ngày là bị đuổi việc. Nhanh và nhạy vô cùng. Nhưng còn bao nhiêu sự kiện, sự cố diễn ra hằng ngày, cụ thể, ngoài sự phản ảnh của truyền thông và báo chí?
Nói không đúng sự thật như trên, kể ra ông Chủ tịch cũng đã có dũng cảm. Nhưng dũng cảm nhất, và khách khí nữa, là “Mời các bạn đến Việt Nam” thì… biết liền! Có lẽ, không cần đến Việt Nam, họ cũng có khả năng biết liền. Ông Chủ tịch còn hồn nhiên phản kích: “Ở ngoài [nước ngoài] thì đồn đại rất nhiều, nhưng…”, có nghĩa là báo chí nước ngoài nói dối (đồn đại = thổi phồng, nói càn, ít xít ra nhiều).
Ông Chủ tịch và các ông lãnh đạo khác không thể không biết chính những điều mà các ông đã và đang làm, về dân chủ và nhân quyền bao nhiêu năm qua, ở cái xứ sở khốn khổ này. Một đất nước tràn trề tham nhũng mà lại có dân chủ và nhân quyền được sao, lạ thật!
Thế nhưng không thể nói thật.
Là “nói dối cưỡng bức” hay đã trở thành ngụy tín?
Hầu hết trong bộ máy nhà nước, từ cao đến thấp, đều như thế!
Nghĩa là cùng trong tình thế cưỡng bức.
Và sự ngụy tín đã trở nên toàn diện, bao trùm.
Nhưng ai có thể cưỡng bức họ?
Câu trả lời là cơ chế của bộ máy này đã cưỡng bức họ, buộc họ không thể nói thật. Vì cơ chế đó được đặt trên một tiền đề không có thật nốt: “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Dân làm chủ”. Quả là bi hài! Bị kẹp chặt và bẹp dí như con mắm, mà còn làm chủ được sao? Thế là sự nói dối “dân làm chủ” cứ chễm chệ trên ngai, như lời hô vạn tuế trên môi các quan chức suốt gần 4 thập niên qua, cho cái ông vua “làm chủ” khốn khổ ấy, kể từ khi đất nước thống nhất. Từ đó, mọi sự nói dối và suy đồi các loại phát triển, lan rộng và nhanh như cỏ mọc, thành “tập thể nói dối cưỡng bức”, hùng hậu ở mọi lãnh vực: dân chủ, nhân quyền, kinh tế, văn hóa xã hội, cả sự nói dối về đạo đức, tư tưởng. Sự nói dối còn di căn sang một bộ phận thanh niên có quan hệ gần gũi với bộ máy cầm quyền, trở thành dạng nói dối ngu muội hồn nhiên.
Một bộ máy có thể kẹp chặt người dân như thế, thì cán bộ dù cao đến đâu, cũng không thoát khỏi thân phận chung của người dân, dù là lãnh đạo của bộ máy. Vì cái thân phận lâu dài của anh ta vẫn là người dân, trước khi làm quan và sau khi làm quan. Những người về hưu có thể rất cay đắng với một quãng đời nói dối hồn nhiên hoặc nói dối cưỡng bức của mình, khi thoát được khỏi tình trạng ngụy tín!
Nhưng vì sao họ có thể chịu đựng lâu dài, bền bỉ đến thế?
Câu trả lời thì dễ, nhưng vấn đề lại hết sức gay go.
Đó là quá trình hy sinh và gắn bó với nhiều ràng buộc của quyền và lợi. Sự hy sinh của những ai đó có thể chưa nhiều lắm, mà sự gắn bó thì nhiều hơn, nhất là những cái chức đã mua bằng tiền, hoặc bằng sự thân quen nâng đỡ. Cách vận hành của lối sống này lại được sự bồi dưỡng tích cực của triết học Mác-Lênin: “Vật chất quyết định ý thức”. Theo đà giục giã của vật chất cứ thế tiến lên, tiến lên nữa… Riêng những người đã chết, và những Bà mẹ Việt Nam anh hùng thì nằm lại thôi. Còn người dân, họ đang “làm chủ” theo thân phận “con mắm”.
Đang làm quan mà nói thật, thì mất hết, thân có thể vào nhà lao, tinh thần có thể bị giày xéo, nhục mạ, đã và đang có bao nhiêu là điển hình!
Vì thế mà không thể nói thật.
Nói dối cưỡng bức, lâu ngày thành nói dối hồn nhiên, bạo dạn, trơn tru…
Dân chủ, nhân quyền tuy là những danh từ chung, nhưng không phải là trừu tượng. Nó có nội dung được thể hiện bằng những thiết chế cụ thể, có hệ thống, được thừa nhận trong một Hiến pháp đúng nghĩa, trong hệ thống luật pháp minh bạch. Vì thế không thể muốn nói gì thì nói. Các cách nói dối cần được thẩm định, phê phán bằng truyền thông tự do để nhanh chóng chấm dứt nó.
3- Lại không công bằng nếu không đề cập đến một dạng “nói dối đạo đức” (là nói dối về phương diện đạo đức) đang ồn ào diễn ra ở vị lãnh đạo cấp cao.
Các đồng chí cần thường xuyên học hỏi, rút những bài học tốt từ những thế hệ trước để tiếp tục đi xa. Bài học đó là: Khát vọng lớn lao, lý tưởng cao cả, hòa nhịp đập trái tim mình với nhịp đập trái tim toàn dân tộc, lăn lộn với thực tiễn vĩ đại của cuộc sống nhân dân, chứ không phải chỉ đi vào tâm trạng cá nhân, gặm nhấm tâm tư, yếm thế, lấy tiểu xảo thay cho tài năng, nhìn đời bằng góc nhìn chật hẹp, thậm chí coi văn nghệ như là thú vui, giải trí hoặc một cuộc chơi, một đam mê tầm thường. (Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng: Văn nghệ không chỉ là nơi cuộc sống hiện hình)
Thật hiếm có một vị chính khách nào trên thế giới, như Tổng thống, Thủ tướng, hay nguyên thủ quốc gia, dám cao giọng dạy cho ai đó với kiểu cách của một thầy giáo, hay của bậc cha mẹ. Nếu vị ấy có học hàm học vị, được tín nhiệm mời vào dạy ở một trường học, thì cũng chỉ được phép dạy chuyên môn của mình có và dạy cho sinh viên của mình. Chính khách khi tham gia các hội thảo khoa học cũng chỉ phát biểu quan điểm của cá nhân. Ai dạy ai trong thời đại này trở nên vô cùng khó. Sự khiêm tốn đích thực đã là một trong những phẩm giá quan trọng cho mỗi nhân cách.
Chỉ riêng trong hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa, thì Tổng Bí thư Đảng Cộng sản luôn khả năng dạy tất cả mọi người, mọi lãnh vực, nếu muốn. Lênin đã làm như thế, và mọi ông Tổng Bí thư đều có thể làm như thế. Ông Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng vừa mới lên lớp về đạo đức trong sáng tạo văn học nghệ thuật cho những người làm văn học nghệ thuật trong nước, cấp trung ương. Hãy lắng nghe:
“Các đồng chí cần thường xuyên học hỏi, rút những bài học tốt từ những thế hệ trước để tiếp tục đi xa. Bài học đó là: Khát vọng lớn lao, lý tưởng cao cả, hòa nhịp đập trái tim mình với nhịp đập trái tim toàn dân tộc, lăn lộn với thực tiễn vĩ đại của nhân dân.”
Đoạn văn này khá văn hoa bay bổng. Cái “khát vọng lớn lao và lý tưởng cao cả” khó ai dạy cho ai được. Ông Tổng Bí thư muốn áp đặt cái khát vọng nào là lớn lao, lý tưởng nào là cao cả cho mọi người? Ông bổ sung làm rõ thêm cho mệnh đề rất ư lửng lơ trên, là: “hòa nhịp đập trái tim mình với nhịp đập trái tim toàn dân tộc”. Sự hòa nhịp đập trái tim của hai nam nữ yêu nhau cũng đã khó, huống là! Nhà lý luận “nổi tiếng” về chủ nghĩa duy vật biện chứng của học thuyết Mác-Lênin, bỗng trở thành duy tâm đến độ cao.
Muốn nói đến sự thống nhất ý chí của toàn dân hướng đến cùng một mục tiêu chung, mà không nói đến cơ chế dân chủ, công bằng được sao?!
Và ông yêu cầu “lăn lộn với thực tiễn vĩ đại của cuộc sống nhân dân”. Nghe thế nào ấy! Vừa sáo rỗng, vừa có vẻ lấy lòng nhân dân, lại vừa như châm biếm mỉa mai chứ không phải là ngợi ca. Đau khổ, chết chóc của những “con mắm” chẳng bao giờ là vĩ đại cả. Thực tiễn vĩ đại của cuộc sống nhân dân cần học hỏi, phải chăng là rút ra từ tiếng súng hoa cải của Đoàn Văn Vươn, hay những phát súng đòi công lý của Đặng Ngọc Viết?
Nhưng không thể trách, vì ông đã sinh ra từ điều 4 Hiến pháp thiêng liêng có tính mặc khải, đã men theo con đường Đảng mà “thành đạt”! Vị trí đó cho ông mọi quyền, kể cả quyền mắng mỏ bất cứ ai ông muốn. Ông đã từng mắng những người tham gia góp ý kiến về dự thảo sửa đổi Hiến pháp là “suy thoái” và toan tính xử lý. Nay ông mắng các nhà làm văn học nghệ thuật (của ông): “không chỉ đi vào tâm trạng cá nhân, gặm nhấm tâm tư, yếm thế, lấy tiểu xảo thay cho tài năng, nhìn đời bằng góc nhìn chật hẹp, thậm chí coi văn nghệ như là thú vui, giải trí hoặc một cuộc chơi, một đam mê tầm thường”.
Sao ông Tổng Bí thư có thể nói vậy được? Sao nói đội ngũ ấy “gặm nhấm”? Vì sự gặm nhấm là chỉ của loài gặm nhấm. Cái đội ngũ cấp Trung ương ấy đã “lấy tiểu xảo thay cho tài năng”. Thật thế sao? Lại “nhìn đời bằng góc nhìn chật hẹp”. Trong bối cảnh nào mà cái xấu phát sinh như thế? Thật ra, con người ai chẳng đi ra từ chỗ “chật hẹp”, và nhìn đời qua chỗ “chật hẹp” ấy? Và từ đó trở nên bao la, có vợ chồng, có con cái, có anh em, có đồng bào, có cái toilet, có mái nhà, có miếng ruộng vườn để cày xới… Thế mà tất cả trở thành khó khăn, trở thành bấp bênh, vì có thể bị cưỡng đoạt bởi những người nhân danh sự “lớn lao”, sự “cao cả”!
Ông băm vằm tiếp: “[…] thậm chí coi văn nghệ như là thú vui, giải trí hoặc một cuộc chơi, một đam mê tầm thường”.
Thế là, văn nghệ không phải là thú vui, không phải là để giải trí, cũng không phải là cuộc chơi. Thật thế sao? Tất cả chỉ là “đam mê tầm thường”? Phải chăng, trong cái khát vọng lớn lao, trong cái lý tưởng cao cả, trong cái lý luận mà Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã muốn giáo dục, “không có bóng dáng con người” như lời của GS Trần Đức Thảo đã nói cách đây khá lâu?
Đảng đoàn Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam, và đại diện lãnh đạo các Hội Văn học nghệ thuật chuyên ngành của Trung ương đã ra nông nổi nào và xứng đáng chăng để nhận những lời giáo huấn như băm như vằm nói trên? “Xứng đáng cao”, “xứng đáng”, và “xứng đáng thấp”, như ba cái bậc thang tín nhiệm mà Quốc hội đã sáng tạo? Nó đang xoáy vào tim gan của những người có lòng tự trọng, dù người có làm văn học nghệ thuật hay không.
Kẻ ngoại đạo này nghĩ rằng, trong số thành phần kể trên, hẳn là có một số thuộc loài gặm nhấm (như sự ám chỉ của Tổng Bí thư), thì xin hãy tiếp tục kiên trì “gặm nhấm” những lời giáo huấn của thầy Tổng Bí thư, và cố thoát ra khỏi cái góc nhìn “chật hẹp” mà thầy đã công phu chỉ ra.
Riêng bài nói chuyện của Tổng Bí thư, đã là “sự sáng tạo văn học nghệ thuật với tài năng, tâm hồn, nhân cách và bản lãnh” của ngài. Tôi trộm nghĩ thế!
25-9-2013
H. Đ. N.

Source : BVN (Bauxite Viet Nam )

Đôi điều về dịch thuật

26.09.2013

Đôi điều về dịch thuật


Trịnh Y Thư

Trước khi nói đến dịch thuật, bạn hãy cho phép tôi đưa ra một nhận định hết sức cơ bản và sơ đẳng như sau: Giữa bất kì hai ngôn ngữ dân tộc nào không hề hiện hữu sự đồng dạng cùng chia sẻ một hệ thống phối ngữ biến những kí hiệu ngôn từ hữu cơ thành những biểu hiệu có ý nghĩa. Nếu bạn chấp nhận đó là định đề hay nguyên lí đã được chứng minh thì tôi có thể rút ra một hệ luận dùng làm nguyên tắc chỉ đạo cơ bản cho công việc dịch thuật, đó là, nội dung một dịch phẩm ít nhiều có thể bị thêm, bớt, hoặc sai lệch với nguyên tác. Hầu hết các thể loại dịch thuật đều bị chi phối bởi nguyên tắc này, ít hơn ở sách giáo khoa, khoa học thường thức và nhiều hơn ở bình diện văn học. Nếu bạn đồng ý như thế, tôi có thể bảo dịch thuật văn học là sự tái tạo, hoặc sáng tác lại, một tác phẩm văn học để cho nó một đời sống mới.

Rất có khả năng nó sẽ tái hiện ở một “đời sống mới”. Bốn thành tố quyết định đời sống của tác phẩm là thời đại, nhà văn, tác phẩm và người đọc; một dịch phẩm hiển nhiên phải có riêng nó một đời sống mới bởi nếu dịch phẩm thành công thì chí ít năm mươi phần trăm những thành tố trên là mới. Đời sống mới này đôi khi còn rực rỡ, trường tồn hơn đời sống “cũ” của nguyên tác như trường hợp bản dịch Chinh Phụ Ngâm của nữ sĩ Đoàn Thị Điểm; và, nhìn ở góc độ nào đó, Truyện Kiều của cụ Nguyễn Du cũng là tác phẩm dịch.

Trên các diễn đàn văn học đã có khá nhiều những nhận định sâu sắc và giá trị về dịch thuật văn học. Tựu trung, có hai xu hướng: hoặc trung thành với văn bản của nguyên tác; hoặc đặt trọng tâm vào yêu cầu tiếp nhận của ngôn ngữ dịch. Theo tôi, ở thời đại của chúng ta, quan niệm đúng đắn phải là sự kết hợp chặt chẽ giữa hai xu hướng. Mặc dù những tôn chỉ chung chung như tín-đạt-nhã kềm chế người dịch, không cho hắn sa đà, nhưng người dịch không còn là kẻ “tra từ điển chuyên nghiệp” nữa. Có khoảng đất trống chừa cho hắn để hắn phô diễn nét tài hoa trong sáng tạo của mình. Câu hỏi được đặt ra là khoảng đất trống đó rộng rãi thong dong lắm không và có giới hạn nào không? Nếu bạn là Bùi Giáng thì không giới hạn nào có thể ngăn trở bạn được. Bạn có thể “tương” vào cả chục câu lục bát rất ư là Bùi Giáng ngay giữa mạch truyện của nguyên tác. Sự can thiệp tới hạn của người dịch như thế hiển nhiên có thể làm nhiều vị học giả nghiêm túc cau mày khó chịu. Riêng tôi, tôi thấy thú vị bởi tôi đang thưởng thức một tác phẩm nghệ thuật chứ không phải một cuốn sách y học. Nhưng tôi không thể làm như Bùi Giáng, lẽ dễ hiểu bởi tôi không có văn tài độc đáo như ông. Nói như thế, dịch phẩm sẽ mang diện mạo của người dịch và điều đó góp phần không ít vào việc tiếp nhận của người đọc. Tôi không phủ nhận giá trị những dịch phẩm nghiêm chỉnh tuân thủ từng câu, từng chữ, từng dấu chấm dấu phết trong nguyên bản, nhưng tính Dionysian trong nghệ thuật bao giờ cũng hấp dẫn hơn, quyến rũ hơn và tôi sẵn sàng hi sinh cái chân lí tuyệt đối (đôi khi rất vô tích sự) để đổi lấy dăm ba nét linh diệu phù ảo của cái bất toàn.

Song bạn có thể hỏi ngược lại tôi: “Đọc Mùi Hương Xuân Sắc, tôi đâu muốn đọc Bùi Giáng, tôi muốn đọc Sylvie của Gérard de Nerval cơ mà. Chỗ nào cũng thấy Bùi Giáng ‘lai rai phiêu hốt’ còn tác giả ra sao, văn phong như thế nào thì chẳng thấy đâu.”

Văn phong hay phong cách trong văn học là đề tài lớn, chúng ta từng nghe nhiều nhà phê bình nói đến. Tôi vốn dị ứng với lí thuyết văn học nên không dám nói gì ở đây ngoại trừ định nghĩa cơ bản của cụm từ “phong cách văn học.” Theo tôi, phong cách trong văn học giản dị là phương thức biểu đạt nghệ thuật, nó tiêu biểu cho bản sắc sáng tạo của nhà văn.  Nó chính là nghệ thuật của sáng tạo. Nhìn rộng hơn, các nghệ sĩ lớn qua mọi thời đại đều có riêng cho mình cái phong cách đặc trưng này và nó có yếu tính như một dấu ấn khắc họa chân dung nhà nghệ sĩ. Claude Debussy và Maurice Ravel sinh cùng thời, đều là người Pháp, cùng sáng tác dưới luồng sáng của nhạc phái Ấn tượng, nhưng nhạc của hai ông khác nhau lắm, người nghe không thể nào lẫn lộn được. Đó là nhờ mỗi ông đều thành công trong việc tự tạo cho mình cái dấu ấn đặc trưng. Đôi lúc tôi nghĩ nghệ thuật phải chăng chỉ có thế, kẻ thành công lưu danh muôn thuở chẳng qua chỉ là kẻ có cái tài năng vượt trội biết sáng tạo nên cái khác thường, độc đáo, mà sau khi công bố người đời nhìn vào đều phải bật ngửa, ngẩn ngơ thốt lên, “Ủa, có dzậy thôi mà hồi nào đến giờ mình hổng thấy cà?”

Phong cách trong văn học định đoạt tiềm năng nghệ thuật của tác phẩm. Gustave Flaubert bỏ ra năm năm trời để viết cuốn Madame Bovary. Tác phẩm ra đời đánh dấu khúc quành quan trọng trong văn học Pháp tiền bán thế kỉ XIX. Ngoài sự kiện nó là cuốn tiểu thuyết “tâm lí” đầu tiên, chính phong cách nghệ thuật của nó, nội dung cũng như hình thức, đã khiến nó được công chúng nồng nhiệt đón nhận. Baudelaire bảo sau Balzac chính Flaubert là người bứt phá, đập tan cái trì trệ của văn học Pháp lúc đó.

Nghệ thuật nằm ở cái “thần” của tác phẩm. Nắm bắt cái “thần” đó trong nghệ thuật rồi tái tạo nó ở một tính thể khác, theo tôi, không phải là chuyện bất khả nhưng nó đòi hỏi tài năng và sức làm việc khủng khiếp lắm. Tôi đang nghĩ đến tác phẩm tiểu thuyết Lolita của văn hào Vladimir Nabokov. Trong tác phẩm tiểu thuyết này Nabokov thuật một câu chuyện vô luân bằng thứ ngôn từ phải nói là linh diệu. Cú pháp và thủ pháp sử dụng Anh ngữ của ông kể như vào hàng cao thủ thượng thừa, chí ít cũng mười hai thành công lực. Tiếng Việt của tôi cũng phải linh diệu như tiếng Anh của Nabokov để dịch tác phẩm này, nếu không, tôi sẽ giết Nabokov mất vì tôi biến tác phẩm nghệ thuật của ông thành chuyện dâm ô! Nhưng cái vi tế trong mỗi từ tiếng Anh, liệu tôi có thể tìm thấy nét tương đương trong tiếng Việt không? Căn cứ vào định đề đặt ra ở phần vào nhập của bài viết, câu trả lời là không và có lẽ tôi sẽ không công bằng với Nabokov chút nào. Văn phong của Nabokov chính là cái linh diệu của ngôn từ ông sử dụng trong ứng tác nghệ thuật. Thế nhưng nếu chỉ với bút pháp dịch thuật linh diệu thôi thì đã đủ để lột tả phong cách văn học (nghệ thuật) của Nabokov chưa? Tôi không biết bạn ạ, bởi nó thuộc về cái bất khả tư nghì mất rồi, tôi phải dùng trực giác để định đoạt thôi và chưa chắc tôi đã thành công. Chữ nghĩa nằm nơi tầng thứ nhất của tác phẩm, tầng thấp nhất, dễ tiếp cận nhất và cũng dễ chuyển dịch nhất; sang tầng thứ hai, tầng chứa đựng cảm xúc, nếu khéo léo và với nỗ lực tối đa, có thể tôi nắm bắt được; nhưng đến tầng thứ ba, tầng cao nhất, nơi cái “thần” của tác phẩm ẩn nấp, của cái bất khả tư nghì thì tôi chỉ có cách dùng trực giác mình để “tùy cơ ứng biến” mà thôi.

Traduttore, traditore—dịch là phản. Dĩ nhiên, giữa hai nền văn hoá bao giờ cũng hiện hữu những giá trị tương phản gần như nghịch lí, nhưng càng ngày, do sự toàn cầu hoá cộng thêm sự bùng nổ của Internet, tính tương phản ấy càng thu nhỏ. Hơn nữa, từ lâu tôi đã không xem ý nghĩa của nó là chân lí. Ngược lại là đằng khác, bởi nó có tính thời thượng. Với tôi, nó chỉ có tác dụng cảnh báo người dịch phải cẩn trọng tối đa bởi muôn vàn cạm bẫy cùng hầm hố lúc nào cũng túc trực chờ đón người dịch để chôn vùi hắn nếu hắn cẩu thả, không chịu khó tìm hiểu thấu đáo văn bản nguyên tác trước khi hạ bút. Tín-đạt-nhã. Ba tôn chỉ người Trung quốc đặt ra cho công việc dịch thuật, tưởng đơn giản nhưng quả thật không dễ dàng và con đường người dịch chọn lựa cho mình đi không rộng rãi bằng phẳng chút nào.

Cách đây ít lâu tôi bạo gan dịch và xuất bản cuốn tiểu thuyết The Unbearable Lightness of Being của nhà văn Tiệp Khắc Milan Kundera. Thoạt nhìn vào nhan đề cuốn sách, hiển nhiên vấn đề quan trọng và gay go nhất cho người dịch là làm thế nào để dịch từ “being” cho chuẩn và hay. Tôi đã mất khá nhiều thời gian suy nghĩ tìm kiếm một từ tiếng Việt thích hợp cho nhan đề của bản dịch. Khi tác phẩm khởi đăng nhiều kì trên tạp chí Hợp Lưu, tôi chọn nhan đề “Nhẹ Kiếp Nhân Sinh” vì tôi thấy cụm từ “kiếp nhân sinh” có vẻ “ăn khách vì hợp thời trang triết học hiện sinh” lắm. Trong đám bạn bè có người thích nhan đề này. Tuy vậy tôi vẫn thấy có cái gì không ổn và tôi nhíu mày bảo anh, “Nhưng nhan đề thiếu chữ Unbearable vốn quan trọng không kém và Kundera sẽ không vui nếu ông ta biết tớ bỏ một chữ của ông ấy, làm sao bây giờ? Hay là cậu cho tớ thêm chữ Khôn Kham vào thành Khôn Kham Nhẹ Kiếp Nhân Sinh nhá. Nghe như câu lục của bài thơ lục bát ấy. Được không?” “Xì, tựa sách gì mà dài như chợ Đệu, chẳng ma nào thèm mua đọc đâu.” Anh bạn tôi trề môi lắc đầu. Thế là sách có nhan đề mới “Đời Nhẹ Khôn Kham” như bạn thấy. Từ “nhân sinh” biến thành “đời” và Kundera, nếu biết, chắc chắn sẽ không vui bởi “being” với ông không phải là “đời sống”! Ngay cả “nhân sinh” hoặc “hiện tính”, “hiện hữu”, “hữu thể”, “thể tính”, “con người”, “thể chất”, “bản chất” và cả chục từ khác tôi tìm thấy trong các từ điển Anh-Việt cũng không thể nào phù hợp một cách xác thực với ý nghĩa Kundera muốn nói đến trong từ ngữ. Ông nói như sau về ý nghĩa của từ “being” dưới nhãn quan siêu hình của ông: “… Nếu sau khi chết chúng ta vẫn tiếp tục mơ, sau cái chết vẫn còn có cái gì đó thì cái chết không thể nào giải thoát chúng ta ra khỏi nỗi kinh khiếp của cái being.” Đúng ra, ông mượn câu độc thoại của Hamlet “To be or not to be” trong bi kịch Hamlet của Shakespeare.  “… Hamlet đưa ra vấn nạn về cái being chứ không phải đời sống. Sự kinh khiếp của being là: Cái chết có hai mặt. Một mặt là cái non-being, mặt kia là sự hiện hữu vật thể ghê sợ của cái thây ma.”

Phải chi tôi được quyền dịch là “Khôn Kham Nhẹ Cái Bi-ing”! thì đỡ khổ cho tôi biết mấy. Thôi, tôi đành phụ lòng Kundera vậy. Nếu người dịch là kẻ bắc cầu giữa hai nền văn hóa thì cây cầu của tôi là cây cầu khỉ lắc la lắc lẻo băng qua đại dương đầy sóng dữ.

Bạn hỏi tôi tại sao chọn con đường dịch thuật. Không, tôi đâu có chọn nó. Nó chọn tôi đấy chứ. Dịch mệt lắm. Dịch còn có nghĩa là sai khiến. Với tôi, nó đồng nghĩa với “dịch vật”. Từ điển Hán-Việt của cụ Đào Duy Anh định nghĩa “dịch vật” là “Sai khiến mọi vật, như dùng trâu cày dùng ngựa cỡi.” Đôi khi người dịch chẳng qua chỉ là con trâu kéo cày, bảo gì làm nấy, đổ mồ hôi, sôi nước mắt.

Và “dịch vật” nhất là dịch thơ.

Dịch một bài thơ có lẽ nhanh chóng hơn dịch một cuốn tiểu thuyết nhưng chưa chắc đã dễ dàng hơn. Tôi không tin tưởng vào việc dịch thơ lắm mặc dù trước đây tôi có lai rai dịch một số thơ của Yevgeny Yevtushenko, Boris Pasternak, Czeslaw Milosz, Robert Frost . . . sang Việt ngữ, phần lớn là những bài tương đối dễ dịch, dễ hiểu, không đòi hỏi chữ nghĩa ẩn mật hoặc tư duy siêu hình. Có nhiều lập luận chống đối việc dịch thơ, phần lớn là của các nhà thơ. Họ bảo bản dịch không bao giờ lột tả được trọn vẹn cái phong phú và ẩn mật của chữ nghĩa trong nguyên tác. Quả tình tôi không rõ lắm, hoang mang là đằng khác, và mỗi lần dịch thơ, tôi đều cảm thấy có cái gì bất ổn.

Nghệ thuật thơ là phương thức phối từ trong câu thơ khiến cho ý thơ trở nên phong phú, tạo phong cách nghệ thuật, gây thú vị nơi người đọc. Mỗi từ đứng riêng một cõi xem tầm thường vô vị nhưng khi kết hợp nhau nhờ cây đũa thần của nhà thơ bỗng như mang sức mạnh truyền tải cảm xúc mạnh mẽ. Giở ra một bài thơ nổi tiếng của một thi hào lớn nào đó, tôi thấy các từ ngữ ăn nằm với nhau như các gam màu trên bức tranh tuyệt hảo và hồ như chúng chỉ có tác dụng ở ngôn ngữ của nguyên tác thôi, khi chuyển sang ngôn ngữ khác, hiệu ứng đó mất sạch. Tôi không rõ lắm, chỉ mơ hồ nhận biết như vậy. Nhưng bạn cứ để tôi tiếp tục dịch bài thơ. Rồi nhạc tính trong thơ. Tôi phải cải biên tính nhạc của bài thơ như thế nào để khúc giao hưởng hoành tráng tuyệt vời đừng biến thành giai điệu tưng từng tứng tưng từng vô vị, gượng ép. Rồi cảm xúc của bài thơ—nếu bạn theo tôi trèo lên tầng thứ hai của thi phẩm—sẽ ra sao nếu chúng ta cho nó cái đời sống mới mà chúng ta o ép gán lên nó? Ngoại trừ những thể thơ cố tình chối từ cảm xúc (mà từ lâu tôi ngưng theo dõi vì quá ngán ngẩm), phần lớn thi ca của nhân loại đều mang nặng tính trữ tình. Ở đó, trĩu nặng đằng sau mỗi từ ngữ, mỗi con chữ, là cả một khung trời, một mảnh đất, một dòng sông, một con phố, một dung nhan, một tình yêu, một cành cây, một phiến đá, một ngôi nhà, một thành quách, một đền đài, một kỉ niệm, một quãng đời, một lịch sử, một thời đại đặc trưng mà khi chuyển ngữ chúng như bị lưu đày sang mảnh đất hoàn toàn khác lạ. Những con chữ thốt nhiên hoảng loạn; chúng li tán, ngơ ngác, loạn xạ; lai lịch chúng biến đâu mất, bản lai diện mục chúng không còn mà còn lại chỉ là những xác chữ vô hồn. Bài thơ trở nên vô cảm. Tôi nhìn những từ ngữ đường bệ hạnh phúc nằm bên nhau trong bài thơ nguyên tác bỗng thấy tội nghiệp cho chữ nghĩa của tôi nhếch nhác buồn thảm như những khuôn mặt đám lưu dân vô tổ quốc bên bài thơ dịch và tôi vò nát trang giấy rồi ném nó vào sọt rác.

Có lẽ tôi sẽ vẫn dịch thơ nhưng quả thật đó chỉ là công việc của người học trò tập tành làm thơ.

Các nền văn học dân tộc trên thế giới hầu hết đều có truyền thống dịch thuật lâu dài. Nhiếu chứng tích thư tịch cổ cho thấy loài người đã dịch từ khi có ngôn ngữ viết. Sự trưởng thành của nền văn học dân tộc nào cũng kèm theo sự trưởng thành của các cao trào dịch thuật. Riêng ở Mĩ, xứ sở tôi đang sinh sống, gần như không có tác phẩm nghệ thuật quan trọng nào không được dịch sang Anh ngữ, từ Homer đến Đường thi, Hài cú. Thậm chí Tôn Tử Binh Pháp của Tôn Tử viết từ thời Chiến Quốc bên Trung Hoa cũng có chí ít hai ba bản dịch khác nhau. Tác phẩm của những nhà văn quan trọng ngoài dòng văn học những quốc gia nói tiếng Anh đều có bản dịch bày bán cho công chúng. Đó là thành tựu to tát xây đắp bởi nhiều thế hệ. Tri thức của nhân loại mấy ngàn năm bạn có thể đọc hết chỉ cần bạn thông thạo Anh ngữ (và có thời gian).

Đó là những điều tôi chứng kiến, bởi thế tôi rất ngạc nhiên khi bạn bảo tôi “… nước Mĩ, vì ít bị áp bức trong vấn đề tự do ngôn luận, nên đã không có một truyền thống mạnh về dịch thuật.” Tôi không đồng ý chút nào về lập luận này. Đúng hơn, dịch giả Mĩ là những người thầm lặng bị lãng quên. Tên tuổi họ không ai biết đến. Họ là chuyên gia, mà chuyên gia thì xoàng quá, ai cũng có thể làm được, chỉ cần chịu khó học hành và lao động. Đa phần người ta nghĩ như thế. Lại tủ sách lấy xuống cuốn One Hundred Years of Solitude của Gabriel García Márquez, tìm mãi tôi mới thấy tên dịch giả Gregory Rabassa nhỏ xíu nằm khiêm nhường ở trang trong. Họ cũng ít ồn ào. Chẳng bao giờ bạn nghe tin một dịch giả bị công an chính quyền độc tài bỏ tù vì những gì ông ta dịch. Bạn cũng chẳng bao giờ thấy dịch giả đi diễn thuyết trước công chúng nói về những điều trong dịch phẩm của ông. Ê, nếu tôi muốn biết tường tận về tác phẩm X thì tôi tìm đến nghe tác giả nó nói chuyện chứ việc gì tôi phải nghe một người second-hand như ông! Hơn nữa, văn học Mĩ quá phong phú và đa dạng, độc giả Mĩ không có nhiều nhu cầu tìm đọc các tác phẩm nước ngoài. Dịch phẩm đa phần được chiếu cố bởi giới trí thức, kinh viện ngoại trừ những tác phẩm nổi tiếng được công chúng biết đến qua báo chí, truyền thông vì nó dính líu đến khía cạnh chính trị.

Phần lớn dịch giả cũng là học giả, giáo sư Đại học, chuyên gia văn học so sánh, nghiên cứu sinh về ngôn ngữ và văn hóa thế giới. Họ làm việc với tinh thần nghiên cứu và dịch thuật luôn luôn là một chuyên đề cho họ bàn thảo. Dịch giả Mĩ hồ như là chuyên gia nhiều hơn là nhà văn, có lẽ tệ hơn thế, một người cạo giấy, một anh thợ thủ công nghệ.

Dịch. Lao động thì như “dịch vật” lại còn bị người đời xem như anh thợ thủ công nghệ. Có thể tôi đang tô son trát phấn, trang điểm lộng lẫy cho cô Chung Vô Diệm chăng? Nghề văn vốn dĩ đã bạc bẽo, nghề dịch có lẽ còn bi thảm hơn.

Một hôm chiều thứ Sáu vợ tôi gọi dây nói trong lúc tôi đang làm việc ở cơ quan, “Anh ơi, tối nay về sớm anh pha bột cho em làm bánh nhé. Recipe em để sẵn trong bếp.” “Được rồi, chuyện nhỏ, em yên trí.” Tôi trả lời. Tôi về nhà đọc recipe của vợ và sắn tay áo pha bột làm bánh sinh nhật cho thằng con. Trong recipe có câu “Then pour in 5 cups of water.” Ồ, dễ quá, 5 “tách” nước đổ vào tô bột rồi cho máy đánh vào quậy. Quậy bột nên hồ. Tôi vừa làm vừa ư ử trong cổ một điệu nhạc quen thuộc. Phen này vợ tôi phải phục tài nội trợ của tôi sát đất mất thôi. Tôi làm xong bỏ đi tắm, chờ cô về nướng cái bánh tuyệt hảo.

“Giời ơi! Anh làm gì mà bột nhão như cháo loãng thế này!” Tiếng vợ tôi kêu lên thảng thốt. Mặt tôi đang hí hửng bỗng xịu xuống như mèo mắc mưa. “Ơ … thì anh làm đúng theo recipe của em đấy thôi.” Tôi chống chế. “Đây này, đổ vào 5 cup nước.” Vừa nói tôi vừa đưa cô xem cái tách cà phê tôi vẫn dùng uống cà phê mỗi sáng trước khi đi làm.

“Giời ơi là giời! Cup là cái này đây, ông ơi là ông!” Cô mở tủ bếp lấy ra một cái “cup” thủy tinh trên có những đường chỉ màu xanh vạch ngang, trên mỗi đường chỉ lại có thêm hàng chữ 1 cup, 2 cups, 3 cups chỉ định dung lượng của chất lỏng bên trong. Hiển nhiên một “tách” cà phê của tôi tương đương với 2 cups của cô! Thật là tai hại! Và sự nghiệp làm đầu bếp của tôi chấm dứt từ hôm đó.

Lost in translation. I rest my case.


Source : VOA

25/9/13

Vũ Thư Hiên - 'Tác phẩm giả tưởng' về Hồ Chí Minh


Vũ Thư Hiên
Cập nhật: 13:59 GMT - thứ tư, 25 tháng 9, 2013 

Chủ tịch Hồ Chí Minh trong một lần gặp lãnh tụ cộng sản Trung Quốc Mao Trạch Đông
Mới đây, nhà bất đồng chính kiến Phạm Quế Dương có nêu câu hỏi trên net: “Đề nghị làm sáng tỏ vụ việc: Hồ Chí Minh là người Việt Nam hay Đài Loan?”
Câu hỏi của ông thế này: “Gần đây, dư luận sôi động về việc Đài Loan xuất bản cuốn sách Tìm hiểu về cuộc đời Hồ Chí Minh ( Hồ Chí Minh sinh bình khảo), do nhà xuất bản Bạch Tượng Văn Hóa ấn hành ngày 01-11-2008. Tác giả là Hồ Tuấn Hùng, giáo sư đã từng dạy học hơn 30 năm, tốt nghiệp trường Đại Học Quốc Lập Đài Loan, khoa lịch sử.”
Đã có khói ắt có lửa đâu đó. Lửa đây là cuốn sách của giáo sư Hồ Tuấn Hùng nói trên (ít người được đọc nguyên bản) và bài “Một nghi án lịch sử Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh: một hay hai người?” của bình luận gia Trần Bình Nam hết lời ca ngợi cuốn sách nọ (“Cuốn sách của ông Hồ Tuấn Hùng viết một cách có phương pháp, trưng dẫn tài liệu xác thực và kết luận một cách có tính khoa học”).
Bài của bình luận gia Trần Bình Nam được cả chục web và blog đăng lại, hẳn có nhiều người đọc. Thú thật, tôi ngán các chuyện tầm phào nọ. Cái đề tài này rõ là tầm phào bên cạnh những chuyện tày trời đang làm nóng dư luận như các vụ xử án vô lối các blogger, vụ Yên Mỹ, vụ nổ súng vì cưỡng chế đất ở Thái Bình, vụ chống cưỡng chế đất liên tục ở… khắp nơi.
Sở dĩ tôi thấy cần phải viết mấy dòng về nó là vì có nhiều bạn gửi nhời hỏi tôi: này, chuyện ấy thực hư ra sao hở ông?
Là người chẳng phải giáo sư hay bình luận gia như hai ngài nói trên, thế tất ý kiến của tôi không thể có trọng lượng với tư cách người khảo cứu. Nó là ý kiến của dân thường, người nghe thấy có lý thì gật cho một cái khích lệ, thấy không ra gì thì phẩy tay cho qua.
Tôi không biết nhiều về ông Hồ Chí Minh, tuy nhiên cũng đủ để thấy chuyện ông Hồ là người Tàu là chuyện tào lao. Mà chẳng phải chỉ mình tôi nghĩ thế. Nếu ông Hồ là người Tàu thật thì tất tần tật những ai từng gặp ông, từng làm việc với ông (có cả nghìn, cả vạn người đấy), tạm kể từ thời Quốc dân Đại hội Tân Trào 1945 cho tới khi ông qua đời năm 1969, hoá ra đều mù dở - khốn nạn, ông là Hồ Tập Chương đấy, là người Tàu đấy, người Khách gia đấy, thế mà không một ai phát hiện.
Trước hết, ta hãy xem những tài liệu cũ còn được lưu xem Quốc tế Cộng sản (QTCS) đánh giá Hồ Chí Minh như thế nào vào thời điểm có tin về cái chết của ông? Những tài liệu này cho thấy vào thời điểm đó ông bị QTCS đánh giá thấp lắm. Thấp đến nỗi ban lãnh đạo QTCS phải cử Trần Phú, Ngô Đức Trì về Đông Dương để sửa chữa những sai lầm của Nguyễn Ái Quốc liên quan tới Hội nghị hợp nhất các đảng cộng sản (1930) do ông chủ trương. Tại Hội nghị TƯ tháng 10-1930, Trần Phú kịch liệt phê phán quan điểm chính trị và tổ chức của ông là “chỉ lo đến việc phản đế mà quên mất lợi ích giai cấp đấu tranh, ấy là một sự rất nguy hiểm…”
Sau đó, Trần Phú được cử làm Tổng bí thư, còn Nguyễn Ái Quốc chỉ còn được giữ chân liên lạc giữa VN và vài chi bộ Đông Nam Á với quốc tế. Thậm chí khi được tin Nguyễn Ái Quốc qua đời ở Hồng Kông, Hà Huy Tập còn viết: “Công lao mà ông đã đóng góp cho Đảng chúng ta thật là lớn. Song các đồng chí chúng ta trong lúc này không được quên những tàn dư dân tộc chủ nghĩa của Nguyễn Ái Quốc, các chỉ thị sai lầm của ông về những vấn đề cơ bản của phong trào CM…Ông đã không đưa ra bàn luận trước về những sách lược mà QTCS đòi hỏi phải áp dụng để loại bỏ những phần tử cơ hội trong Đảng.
Ngoài ra, ông Hồ Chí Minh còn khuyến dụ một sách lược cải lương và hợp tác sai lầm: trung lập hóa tư sản và phú nông, liên minh với trung và tiểu địa chủ”. Một người bị QTCS đánh giá như thế, thử hỏi QTCS tạo ra một người giả ông ta để làm gì?
Lập luận của bình luận gia Trần Bình Nam: “Nhưng sau đó Quốc tế Cộng sản thầy cần người có uy tín như Nguyễn Ái Quốc để phát triển phong trào Cộng sản tại Đông Dương nên dấu nhẹm và tìm cách xóa dấu vết việc Nguyễn Ái Quốc chết và lên kế hoạch dùng phái viên của Quốc tế Cộng sản Hồ Tập Chương có khuôn mặt hao hao giống Nguyễn Ái Quốc và từng làm việc với nhau để làm sống lại nhân vật Nguyễn Ái Quốc”, rõ ràng không thuyết phục. Một câu hỏi khác cũng có người đặt ra: Ờ thì QTCS không làm việc ấy, nhưng nếu Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) làm thì sao? Để phục vụ cho mục đích bành trướng trong tương lai ở Đông Dương chẳng hạn?
Các chứng cứ lịch sử cho thấy ĐCS TQ vào thời kỳ đó rất yếu, thậm chí một địa bàn đủ an toàn cho Đại hội VI của nó (1928) trên lãnh thổ quốc gia cũng không có, phải mượn đất Nga để tổ chức tại Moskva. Cuộc chiến Quốc-Cộng khởi đầu năm 1927 đã buộc những người cộng sản Trung Quốc phải lui về nông thôn và hoạt động bí mật, thắng lợi to lớn nhất mà họ có được là chiếm thành phố Quảng Châu trong vẻn vẹn có 3 ngày để thành lập một Công xã Quảng Châu hữu danh vô thực.
Trong hoàn cảnh ấy, một Khổng Minh tái thế cũng không nghĩ tới việc cho ai đó đóng giả Hồ Chí Minh cho một tương lai trời không biết, đất không hay.
Như thế, QTCS không cần một Hồ Chí Minh giả, ĐCSTQ cũng không nghĩ tới việc ấy. Vậy ai cần, ngoài hai học giả nói trên?Chuyện những nhà cầm quyền độc tài thường sử dụng những người giống hệt mình để đóng thế trong những trường hợp phòng xa bị hành thích là có thật. Có Hitler giả, Stalin giả, Mao giả… nhưng người ta chỉ dùng người đóng thế cùng nòi giống, có diện mạo và hình thể giống người thật khi di chuyển, khi xuất hiện ngắn trước quần chúng, chứ người không cùng nòi giống như Hồ Tập Chương giả Hồ Chí Minh, lại đóng giả dài hạn nhiều năm, như thật, trong đời sống hàng ngày, thì chưa có tài liệu nào nói tới.
Trước hết, cái dễ phân biệt nhất giữa người thật với người giả là ở ngôn ngữ. Những người đã trưởng thành mới học ngoại ngữ dù cho thông thạo đến mấy cũng không thể nào sử dụng nó hoàn hảo như người bản địa được. Ta tính thử: Nguyễn Ái Quốc, năm 1932 đã qua đời vì bệnh lao (ông sinh năm 1890, tức lúc đó 42 tuổi), Hồ Tập Chương (sinh năm 1901, tức lúc đó 32 tuổi) được lập tức thay thế (cứ cho là đã có một viễn kiến không bình thường và ông này đã được dự trữ sẵn để thay thế), thì thời gian học tiếng Việt của Hồ Tập Chương cho tới khi mở lớp huấn luyện cho hội Thanh niên Cách mạng Đồng chí năm 1941 là 9 năm (giả định là chỉ có học tiếng mà thôi). Mở lớp huấn luyện cho nhiều người Việt thì không thể bằng một thứ tiếng Việt không thông thạo được.
Nhưng không một ai trong những người tiếp xúc với Hồ Chí Minh trong thời kỳ ấy tỏ ra nghi ngờ ông không phải người Việt. Không một ai trong những người Việt thuần, ở sát bên ông Hồ Chí Minh trong công việc hàng ngày trong cuộc kháng chiến chống Pháp (9 năm) như Phan Mỹ, Vũ Đình Huỳnh, Nguyễn Văn Lưu, Lê Văn Rạng, Lê Giản, Trần Duy Hưng, Trần Hữu Dực…, và rất nhiều người khác nữa, có một chút nghi ngờ ông Hồ Chí Minh không phải là người Việt.
Tôi từng gặp nhiều người có năng khiếu xuất chúng về sử dụng ngoại ngữ, trong đó có hai người Trung Quốc nói tiếng Việt rất thông thạo là Văn Trang và Lương Phong. Văn Trang đại diện cho phân bộ Hoa Nam ĐCSTQ liên lạc với ĐCSVN, Lương Phong là cán bộ ngoại giao, sau này xếp hàng thứ sáu tính từ Giang Thanh là số 1 trong cuộc Đại cách mạng Văn hoá Vô sản (thập niên 60 thế kỷ trước). Hai người này nói thạo tiếng Việt tới mức làm tôi ngạc nhiên. Nhưng đấy chỉ là cảm giác ban đầu, một lúc sau, khi câu chuyện mở rộng sang nhiều lĩnh vực khác, tinh tế hơn, tức thì họ ngắc ngứ, phát âm sai, hiểu sai.
Ngay trong những người Hoa thuộc những thế hệ ra đời ở VN, lớn lên trên đất Việt, sống chung với người Việt từ tấm bé, ta vẫn nhận ra những nét khác biệt nào đó để ta biết họ không có nguồn gốc Việt. Trong khi đó thì chưa một ai bắt gặp ông Hồ nói sai hoặc hiểu sai tiếng Việt. Còn hơn thế, ông còn có thể bắt bẻ những cán bộ dưới quyền khi họ dùng từ ngữ sai. Những ví dụ về chuyện này nhiều, xin miễn kể.
Nhân vật Hồ Tập Chương của tác giả Hồ Tuấn Hùng là người Hakka (người Hẹ, hoặc Khách gia), là cán bộ hoạt động quần chúng của ĐCSTQ, chắc chắn phải nói được tiếng quan thoại (tiếng Bắc Kinh). Hồ Chí Minh (thật) thì lại không thông thạo tiếng ấy, và ông không giấu giếm điều này. Trong những cuộc gặp gỡ không trù liệu trước với các tướng Tàu như Lư Hán, Tiêu Văn, Long Vân… vào năm 1946, ông đều phải dùng bút đàm. Chuyện này nhiều người biết, và có được ghi lại đâu đó trong những hồi ký. Khi phải dùng quan thoại trong tiếp xúc ông thường phải dùng ông Nguyễn Văn Thuỵ (biệt hiệu Thuỵ Tàu) và Phạm Văn Khoa (biệt hiệu Khoa Tếu) làm phiên dịch.
Còn nhiều, rất nhiều, chứng cứ khác bác bỏ luận chứng của ông học giả Hồ Tuấn Hùng về một Hồ Chí Minh giả.
Tôi có mặt trong buổi mừng thọ 60 tuổi ông Hồ Chí Minh tại thác Dẫng thuộc khu An toàn ở Việt Bắc, tôi lúc ấy 17 tuổi, mắt tinh, đầu tỉnh táo, xác nhận rằng hôm đó tôi đã gặp một người 60 tuổi thật, chứ không phải một người 49 tuổi là Hồ Tập Chương.
Tôi cũng xác nhận rằng trong thói quen ẩm thực ông Hồ Chí Minh là người thích ăn các món ăn Việt Nam như canh riêu, cá kho khô, cà Nghệ muối xổi… và chưa bao giờ đòi hỏi người nấu ăn cho ông phải làm bánh bao, màn thầu, tỉm xắm… hay là thứ gì khác gợi nhớ tới ẩm thực Trung Hoa.
Chắc chắn sẽ còn nhiều người viết về Hồ Chí Minh - chính khách liên quan tới nhiều lĩnh vực: những giai đoạn hoạt động chưa được làm sáng rõ, lý do gắn liền với những bí danh vô số kế của ông, những người đàn bà trong đời ông, công và tội của ông trong thời gian làm chủ tịch nước VNDCCH… Nhưng đó là những chuyện khác, những đề tài khác.
Theo tôi nghĩ, chuyện Hồ Chí Minh là người Tàu tên Hồ Tập Chương của học giả Hồ Tuấn Hùng là một tác phẩm giả tưởng tồi, không đáng để đọc, so với những chuyện giả tưởng của văn học Trung Quốc hiện đại như Ma Thổi Đèn, Mật Mã Tây Tạng.
Bài viết nêu quan điểm riêng của nhà văn Vũ Thư Hiên, hiện đang sống ở Pháp.

Source : BBC

24/9/13

Phạm Thị Hoài - Goodbye, Philipp Rösler!

( Source : pro&contra )

Phạm Thị Hoài


Bầu cử ở Đức chưa bao giờ là một sự kiện hoành tráng, trống dong cờ mở ầm ĩ, truyền thông rầm rộ, sân khấu chói lòa, hồi hộp thót tim đến phút chót. Tôi đã tưởng năm nay nó còn đạt đến đỉnh cao về sự nhạt.
Không nhạt sao được. Mọi kết quả đều đã được báo trước. Uy tín của bà Merkel trong dân chúng mạnh tới mức có tờ báo đã gọi bà là “người khổng lồ”, vây quanh bởi một loạt các “chú lùn”. Bà đã cầm quyền hai nhiệm kì và trong tám năm thế giới xung quanh chìm trong khủng hoảng, nước Đức dường như chưa một ngày chỉ nhúng một ngón chân vào đó. Trái lại. Chưa bao giờ đất nước này thịnh vượng và bình yên hơn; số người thất nghiệp, đặc biệt trong thanh niên, ít hơn. Chưa bao giờ các trường đại học đông sinh viên hơn, hệ thống chăm sóc y tế dư dả vốn giắt lưng hơn, bữa ăn hàng ngày của người bình thường phong phú hơn. Chưa bao giờ trọng lượng quốc tế của Đức nặng hơn, du khách nước ngoài đến Đức nhiều hơn. Nếu bạn muốn tôi có thể kể thêm: chưa bao giờ bóng đá Đức đáng yêu hơn và các tiệm ăn Đức được nhiều sao Michelin hơn. Đó là chưa kể cũng trong thời gian này Đức đã bỏ hẳn nghĩa vụ quân sự và rút từng bước mạnh mẽ khỏi việc sử dụng điện hạt nhân.
Dễ hiểu là người Đức hài lòng và không muốn thay đổi. Nói chung, người Đức thích những điều vững chãi, an toàn, dài lâu. Bí quyết thành công của họ là ở đó và gót chân Achilles của họ cũng ở đó. Họ được thán phục về điều đó và bị chế nhạo cũng vì điều đó. Thay đổi một điều gì trong xã hội Đức chắc phải cần thời gian gấp bốn lần ở Mỹ, gấp ba lần ở Anh và gấp hai lần ở Pháp. Người Đức ngưỡng mộ khiếu hài hước của người Anh, sự năng động của người Mỹ, nghệ thuật sống của người Pháp, sự thảnh thơi vô lo của người Ý; và tự coi mình là dân tộc có khá nhiều phẩm chất ưu tú, nhưng tẻ nhạt nhất hoàn cầu. Bà Merkel là kết tinh hoàn hảo của những điều rất Đức đó. Người phụ nữ được coi là quyền lực nhất thế giới này áp dụng một phong cách chính trị gây được nhiều thiện cảm trong dân chúng: Chính trị của understatement. Tiết chế, tiết kiệm, giản dị, tuyệt đối không phô trương, cần mẫn, nhẫn nại và không hề vướng bất kì một vụ tai tiếng nào, bà là được coi là lương thiện nhất trong hàng ngũ chính khách Đức, nếu nghề này còn cho phép sự lương thiện. Dễ hiểu là với bà, Liên minh Bảo thủ CDU-CSU chắc thắng trong cuộc bầu cử hôm Chủ nhật vừa rồi. Và mọi chuyện diễn ra đúng như vậy. Với gần 42 % số phiếu bầu, đó là thắng lợi vang dội nhất của Liên minh này từ 20 năm qua. Thậm chí ở Berlin và Brandenburg, hai tiểu bang có truyền thống thiên tả và đang do Đảng Dân chủ Xã hội (SPD) nắm quyền, Liên minh Bảo thủ của bà Merkel cũng dễ dàng vượt qua đối thủ chính trị. Không có gì chán hơn một cuộc bầu cử mà chưa bầu đã biết trước kết quả.
Cho nên trong mấy tháng vận động tranh cử trước đó và những tuần nước rút sát đó, nội dung chương trình tranh cử của tổng cộng 30 chính đảng và 81 ứng viên độc lập [i] xem ra không khuấy động dư luận bằng chiếc vòng ba mầu đỏ-vàng-đen ở cổ bà Thủ tướng trong cuộc “đấu khẩu” khá buồn ngủ trên truyền hình với ứng viên Thủ tướng của Đảng SPD, ông Peer Steinbrück; hay “ngón tay thối” của ông này trên bìa một tạp chí; hay “sự nhạy cảm châu Á” của Philipp Rösler, chính khách gốc Việt đầu tiên lên đến chức Phó Thủ tướng ở một quốc gia phương Tây.
Trước bầu cử không lâu, Philipp Rösler nhận lời phỏng vấn trực tiếp của tờ taz, một tờ báo thiên tả độc lập ở Berlin. Khi văn bản ghi cuộc phỏng vấn hoàn thành và được chuyển lại để ông và Văn phòng Đảng Dân chủ Tự do (FDP) đọc xác nhận, một thông lệ rất đáng hủy bỏ ở Đức, ông đã từ chối không cho phép đăng. Tờ taz bèn đăng bài phỏng vấn với tiêu đề “Philipp Rösler: Những câu hỏi và không có câu trả lời“, trong đó phần câu hỏi của tòa báo được đăng nguyên văn, phần trả lời bỏ trống bằng những “dòng kẻ chấm”. Nhưng dư luận, thay vì phê phán hành vi có vẻ như kiểm duyệt báo chí của Philipp Rösler, như tờ taz mong đợi, lại tương thẳng một cơn bão cứt lên tờ báo này. Đơn giản vì những câu hỏi của tờ báo thuần túy tập trung vào xuất thân châu Á của Philipp Rösler và những nỗi khổ mà ông phải chịu đựng từ đó. (Chẳng hạn: “Ông đã trải nghiệm việc người khác có vấn đề với ngoại hình châu Á của ông như thế nào?“, “Ông thường nhận được email chửi rủa. Vì ông là Chủ tịch Đảng FDP? Hay vì nhìn ông là thấy gốc gác không phải người Đức?“, “33 tuổi ông mới trở về thăm Việt Nam lần đầu tiên, do vợ ông đề nghị. Vì sao bản thân ông không quan tâm đến đất nước của cha mẹ ông?“…). Nếu là tôi, tôi đã đứng dậy bỏ đi, sau năm phút và chậm nhất là câu hỏi thứ hai. Nhưng Rösler ngồi hết, trả lời hết, và cuối cùng lại từ chối cho đăng.
Có ai ngờ trong bầu cử Quốc hội Đức năm nay, Việt Nam lại đóng một vai trò lạ lùng như thế. Tôi thấy rất ái ngại cho Philipp Rösler. Bản năng làm mẹ của tôi được đánh thức, khi nhìn chàng trai cao ráo, khôi ngô, lễ phép và dễ thương ấy ngơ ngác, bất lực, không dám buông mà cũng không thể vực dậy con tầu FDP mỗi ngày một chìm sâu. Ở chính khu vực bầu cử của mình tại Hannover, Philipp Rösler chỉ thu được 2,6 % số phiếu. Trong toàn liên bang, Đảng FDP của ông không vượt qua mốc 5 % để lọt vào Quốc hội. Một đảng từng cung cấp những chính khách giỏi giang và đóng dấu ấn Tự do của mình lên nền chính trị quốc gia trong suốt lịch sử CHLB Đức từ ngày lập quốc, nay bị cử tri quét phăng khỏi Quốc hội như không. Cái chết của FDP là bất ngờ đúng lúc hạ màn của cuộc bầu cử nhạt nhẽo này.
Philipp Rösler từng ví mình như cây tre uốn mình trong gió mà không gãy, để rồi bị một lãnh đạo cao cấp trong đảng của mình kháy lại rằng “muốn gây dựng niềm tin thì không thể đung đưa như cọng tre mà phải đứng sừng sững như cây sồi. Chính vì thế mà nước Đức là quê hương của sồi chứ không phải của tre“. Cả sồi lẫn tre, sau một ngày Chủ nhật toàn dân đầu phiếu, đều phải dọn sạch chỗ của mình tại Quốc hội và Nội các. Sai lầm của FDP có lẽ là dùng quá nhiều ẩn dụ [ii]. Goodbye, Philipp Rösler!
Tuần này bà Merkel bắt đầu từ từ đi chợ, để tìm một liên danh cầm quyền. Trong trường hợp xấu nhất – điều chưa bao giờ xảy ra với nước Đức – khi không một “chú lùn” nào trong số 4 đảng vừa được bầu vào Quốc hội chịu liên danh với Liên minh trung hữu CDU-CSU quá áp đảo của bà thì “người khổng lồ” sẽ ngự trên vinh quang với tất cả cô đơn và bất lực. Và nước Đức sẽ phải đi bầu một lần nữa. Dân chủ đương nhiên là nhiêu khê và tốn kém.
© 2013 pro&contra


[i] Trong đó có một chính đảng mang tên “Đảng của những người chống bầu cử” (Partei der Nichtwähler)
[ii] Những đảng cũng thua cuộc khác lại phạm những sai lầm khác. Đảng Xanh yêu cầu mỗi tuần một ngày ăn chay cố định trong các căng-tin trên toàn nước Đức. Dễ hiểu là một dân tộc đã hai lần trải qua chế độ độc tài thì không thích thú gì một nền độc tài mới: “độc tài đậu tương”.

----

LA RETRAITÉ ( Quan về vườn)

PHAN KHÔI: TÁC PHẨM ĐĂNG BÁO 1928



Quan về vườn

(dịch thơ Pháp)



Khuyên ai khá liệu bài qui khứ,

Cuộc trăm năm già nửa đi rồi.

Vô tình ngày tháng đưa thoi,

Dắt nhau đến cái chết coi cũng gần.

Đã lắm lúc biển trần phiêu đãng,

Một lá lau bao quản sóng dồi,

Bây giờ bờ đã đến rồi,

Là ngày hưởng lấy phước trời ban cho.

Cái phú quý là đồ hay nát,

Cất nhà trên đồi cát mà chi!

Xưa nay những kẻ cao vì,

Càng vinh hiển lắm càng nguy hiểm nhiều.

Cây cả phải đứng liều bão đánh,

Nhà cao thường mắc trận gió day.

Sau khi tường đổ ngói bay,

Lều tranh mấy nóc mà đây vẫn còn.

Sướng thay kẻ bụi hồng rũ sạch,

Lòng chẳng còn ham thích lợi danh.

Sá chi những vật ngoài mình,

Làm cho bận đến tấm tình thong dong.

Đem mình để ngoài vòng cho khỏe,

Thú điền viên nhẹ nhẻ thân già.

Đo lòng toan rộng lo xa,

Theo vành duyên phận, chẳng là vui thay!

Ruộng mấy khoảnh giỏi cày người trước,

Một đôi trâu tha thướt chiều thu,

Rảnh mình là khách giang hồ,

Đã trong lăng miếu mưu mô mặc người,

Vậy có lúc cơn trời giông tố,

Nhìn biển khơi sóng gió tha hồ,

Chút con mắt thấy lòng lo,

Mùa màng là kẻ nông phu thường tình.

Lại có lúc buồn mình tuổi tác,

Chốn thảo đường gởi xác từ đây.

Mà xưa cách mấy năm nay,

Vốn là thằng bé chốn nầy mà ra.

Lấy mùa gặt suy qua Giáp Tý,

Cõi trần gian biết mấy xuân thu,

Lần lần bóng xế nhành dâu,

Một sân tùng hóa, nửa đầu sương sa.

C.D.



Nguyên văn tiếng Pháp



LA RETRAITÉ

Tircis, il faut penser à la retraite:

La course de nos ans est plus qu'à demi faite,

L'âge insensiblement nous conduit à la mort.

Nous avons assez vu, sur la mer de ce monde,

Errer au gré des flots notre nef vagabonde;

Il est temps de jouer des délices du port.

Le bien de la fortune est le bien périssable;

Quand on bâtit sur elle on bâtit sur le sable.

Plus on est élevé, plus on court de dangers:

Les grands pins sont en butte au coup de la tempête,

Et la rage des vents brise plutôt le faite,

Des maisons de nos rois que les toits des bergers.

O bien heureux celui qui peut de sa mémoire

Effacer pour jamais ce vain espoir de gloire,

Dont l'inutile soin traverse nos plaisirs,

Et qui, loin retiré de la foule importune,

Vivant dans sa maison, content de sa fortune,

A, selon son pouvoir, mesuré ses désirs!

Il laboure le champ que labourait son père,

Il ne s'informe point de ce qu'on délibère

Dans ces graves conseils d'affaires sccablés;

Il voit sans intérêt la mor grosse d'orages,

Et n'observe des vents les sinistres préseges,

Que pour le soin qu'il a du salut de ses blés.

Il soupire en repos l'ennui de sa vieillesse

Dans ce même foyer où sa tendre jeunesse

A vu dans le berceau ses bras emmaillotés;

Il tient par les moissons registre des années,

Et voit de temps en temps leurs courses enchainées

Vieillir avec lui les bois qu'il a plantés.

RACAN *

-------

* H. de Racan (1589-1670): nhà thơ Pháp

Đông Pháp thời báo, Sài Gòn, s.716 (5.5.1928)