16/12/13

Hỏi Tức Là Trả Lời ?


Hỏi Tức Là Trả Lời?


Những câu hỏi cho nền kinh tế Việt Nam
Alan Phan
20/6/2012

Trong nền kinh tế quốc gia, người dân là khách hàng, là nhà đầu tư và các quan chức là người bán hàng. Mục tiêu là sự thỏa mãn của “Thượng Đế”. Ngoài việc làm cho túi tiền của dân càng ngày càng phồng to, bộ máy lãnh đạo phải tạo thương hiệu, hay “niềm tin” của khách hàng vào chất lượng dịch vụ của mình. Ít nhất là họ phải tin rằng người bán sẽ giao đúng món hàng, đúng giờ và đúng giá…như lời hứa.
Khi nói chuyện kinh tế, nhiều chuyên gia thường lên giọng nghiêm túc và dùng những danh từ khó hiểu nhất pha lẫn những khẩu hiệu chánh trị rồi kèm theo những con số thường là do các nhóm lợi ích cung cấp để không ai thấy rõ những mục tiêu riêng của mình và phe nhóm. Thực ra, sự điều hành kinh tế của một quốc gia không khác gì việc điều hành một doanh nghiệp. Một nền kinh tế cũng cần doanh thu (thuế, hàng xuất khẩu, kiều hối…), vốn đầu tư (FDI, FII, dự trữ ngoại tệ, vốn vay..), chi phí (nhân sự, giá vốn hàng hóa hay dịch vụ, hậu cần…), lời hay lỗ (dòng tiền âm hay dương…), tài sản và nợ, thương hiệu (niềm tin và sự thỏa mãn của người dân), mức tăng trưởng v.v

Do đó, chúng ta có thể đánh giá khả năng thành công hay thất bại của một nền kinh tế dựa trên những chỉ tiêu áp dụng cho doanh nghiệp. Khi họp để bàn về một dự án hay một doanh nghiệp, hội đồng thẩm định của quỹ đầu tư thường lưu ý đến 4 yếu tố then chốt trong vấn đề khả thi: sản phẩm hay dịch vụ; ban quản trị; kế hoạch tiếp thị và hiệu quả tài chánh.

Một quản lý quỹ thông minh thường biết bỏ qua những “gương và khói” (smoke and mirror), những hình thức đánh bóng hoành tráng để che đậy yếu kém và những chi tiết thực sự vô nghĩa với sự thành công của dự án. Các công dân có kiến thức và tầm nhìn cũng phải đánh giá một nền kinh tế thật chính xác, khoa học và cân bằng về hiệu quả của đồng tiền bỏ ra, qua thuế hay nợ công hay tiền in thêm (một hình thức thuế).

Einstein có nhắc chúng ta là “không ngừng đặt câu hỏi”. Sau đây là những câu hỏi của tôi, có thể thiếu sót, nhưng chắc chắn sẽ giúp tôi đánh giá tốt hơn cơ hội và rủi ro trong tương lai nền kinh tế xứ này.

  1. 1.            Sản phẩm hay dịch vụ trong mô hình kinh doanh

Như một doanh nghiệp, mỗi một quốc gia đều có thế mạnh cạnh tranh và đặc thù dân tộc trong những chủ đạo của nền kinh tế. Với yếu tố địa lý và dân số, Singapore đã thành công khi sử dụng dịch vụ tài chánh quốc tế cho xứ sở. Mỹ có mũi nhọn công nghệ cấp cao và thị trường tiêu thụ khủng; trong khi Trung Quốc dựa vào mô hình sản xuất công nghiệp thông dụng cho toàn cầu. Nhật có lợi thế của một văn hóa rất tổ chức để thâu tóm thị trường tiêu dùng chất lượng; trong khi Ấn Độ biết lợi dụng lượng dân số có học, biết Anh ngữ để dành phần thắng trong công nghệ phần mềm.

Việt Nam đang đổ tiền đầu tư nhiều nhất vào lãnh vực gì? Lãnh vực đó có sản phẩm hay dịch vụ gì đặc thù hay có lợi thế cạnh tranh gì trên thương trường quốc tế? Chúng ta đang đầu tư dàn trải và xu thời hay chuyên sâu và bền vững? Sự lựa chọn sản phẩm và dịch vụ có thông minh và sáng tạo hay ngu xuẩn và sao chép?

  1. 2.            Ban quản trị

Hai nhân tố quan trọng của nhà lãnh đạo là kiến thức và kinh nghiệm. Kiến thức đây không phải là bằng cấp, kiếm được từ trường lớp hay đi mua từ chợ, mà là một dòng suy tưởng và phân tích được bổ sung hàng ngày qua đám mây của nhân loại. Kinh nghiệm là những thành quả từ chiến trường thực sự, thua hay thắng, bằng công sức của chính mình và đội ngũ bao quanh.

Hai nhân tố trên sẽ giúp cho nhà lãnh đạo có một tầm nhìn xa, chính xác; cũng như một phán đoán sắc bén hơn khi trực diện những đòi hỏi của tình thế. Dĩ nhiên, lãnh đạo không thể đi xa hơn các nhân tài trong nhóm quản trị; giá trị thực của toàn đội ngũ cộng hưởng sẽ là vũ khí then chốt khi lâm trận.

Cho Việt Nam, ban quản trị kinh tế của chúng ta có hội tụ được những người giỏi nhất về kiến thức và kinh nghiệm để diều hành? Lãnh đạo có đủ tự tin để chiêu mộ những người tài giỏi hơn họ? Nhân sự lãnh đạo được tuyển chọn như thế nào, qua phe nhóm bè phái hay qua các kỹ năng và kinh nghiệm thực sự? Nhìn qua lý lịch và thành tích của 30 người quan trọng nhất đang diều khiển bộ máy kinh tế xứ này, người dân nhận định ra sao? Và vấn đề đạo đức? Chúng ta có nên bắt chước vài quốc gia đòi hỏi một liệt kê tài sản của các lãnh đạo và gia đình họ, trước và sau khi nắm quyền? Chúng ta có dám để những chuyên gia hay định chế độc lập phân tích và phán xét nhân sự và bộ máy điều hành?

  1. 3.            Kế hoạch tiếp thị

Một nhà hiền triết Trung Quốc dạy,” Muốn thống trị thiến hạ thì hãy phục vụ mọi người”. Phục vụ và đáp ứng được nhu cầu để khách hàng thỏa mãn là một kế hoạch tiếp thị thành công.Đây thực sự là một hành động liên tục, chứ không phải một vài khẩu hiệu khôn ngoan hay một cô người mẫu đẹp mắt trong một phút quảng cáo trên TV.

Trong nền kinh tế quốc gia, người dân là khách hàng, là nhà đầu tư và các quan chức là người bán hàng. Mục tiêu là sự thỏa mãn của “Thượng Đế”. Ngoài việc làm cho túi tiền của dân càng ngày càng phồng to, bộ máy lãnh đạo phải tạo thương hiệu, hay “niềm tin” của khách hàng vào chất lượng dịch vụ của mình. Ít nhất là họ phải tin rằng người bán sẽ giao đúng món hàng, đúng giờ và đúng giá…như lời hứa.

Trong các dịch vụ của chánh phủ, quan trọng là công ăn việc làm, an ninh, y tế, giáo dục, môi trường, văn hóa và bảo hiểm xã hội cho những người kém may mắn. Ngoài ra, một nhiệm vụ “mềm” nhưng cần thiết là tạo niềm tin vào tương lai cho khách hàng với sự minh bạch, trung thực và sáng tạo.

Các lãnh đạo kinh tế ở Việt Nam đã đáp ứng được nhu cầu này chưa? Những người dân đang sinh hoạt hàng ngày có “tin” vào những giải pháp đề nghị, những dự án dài hạn, những thực thi luật lệ, những tiêu xài đa dạng của chánh phủ? Cụ thể hơn, họ có tin là chánh phủ đang làm tất cả để bảo đảm giá trị của đồng tiền VN, để khả năng thu nhập và mua sắm gia tăng đều đặn, để môi trường sống phù hợp với sức khỏe công cộng, để xã hội bớt bức xức về tệ nạn văn hoá?

  1. 4.            Hiệu quả tài chánh

Sau cùng, mọi nhà đầu tư đều muốn đồng tiền của mình được sử dụng hiệu quả và sinh lợi thương trực. Ngoài các con số về lợi nhuận và doanh thu, họ quan tâm nhất đến chỉ số hoàn trái (ROI: return on investment). Dù kế hoạch, ban quản trị, kỹ năng tiếp thị…có hay giỏi đến đâu, nhà đầu tư sẽ cho là vớ vẩn (Bull S.) nếu công ty liên tục thua lỗ.

Câu hỏi người dân thường đặt ra cho mọi chánh phủ là “trong nhiệm kỳ của ông hay bà, đời sống chúng tôi có khả quan hơn không?”. Về vật chất, về sức khỏe, về tinh thần, về tương lai con cái…tôi có nhiều hy vọng và lạc quan hơn không? Các ông bà đã đem tiền thuế, tiền nợ công, tiền các ông bà tự in ra…đầu tư vào những thứ gì và hiệu quả tài chánh của chúng là thế nào? Các ông bà tiêu xài trong tiết kiệm và cẩn trọng số tiền của chúng tôi hay thích đi xây những văn phòng hoành tráng, mua những siêu xe, mở những tiệc tùng liên tục.. để hưởng thụ?

Trong 10 dự án đầu tư thì luôn có một vài lỗ lã, nhưng nếu cả 10 đầu tư đều lỗ nặng thì không ai muốn bỏ 1 xu vào quỹ của các ông bà. Trong khi đó, nếu chúng tôi thu lợi được 30-50% mỗi năm, thì chuyện các ông bà ăn bớt 5-10% cũng ổn thôi. Còn nếu chúng tôi đã lỗ 20-30% rồi mà lại còn chi cho các ông bà quản lý thêm 20-30% nữa; không sớm thì muộn, chúng tôi sẽ lăn quay ra chết…vì ngu và điên. Đặt các ông bà xây 1 khúc đường mà giá cao hơn thị trường gấp đôi lại hư hỏng khi chưa sử dụng…thì xử trí sao đây? Ngoài đời, khi bỏ 16 triệu mà mua nhầm một Iphone dỏm từ Trung Quốc thì phải quay lại cửa hàng …đấm vỡ mặt thằng bịp.

Dĩ nhiên, còn rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến kết quả của bất cứ dự án đầu tư nào. Thời thế, may mắn, quan hệ, biến động xã hội, thiên tai…đều có thể trở thành những tác động chủ yếu. Nhưng chúng ta phải tùy thuộc vào những phân tích định lượng nêu trên để đánh giá cơ hội thành công của dự án; cũng như những rủi ro khiến chúng ta “tiền mất tật mang”.

Do đó, qua lăng kính của 4 góc nhìn chính, người dân có thể đoán được là các nhà lãnh đạo kinh tế Việt Nam có đủ khả năng đưa con thuyền này vượt sóng cao, ra biển lớn, ganh đua ngang hàng với mọi đối thủ và đối tác trong ngôi làng toàn cầu? Hay là chúng ta phải cầu nguyện mỗi ngày?

Alan Phan

Source : GOC NHIN ALAN 

Hạ Đình Nguyên - Các Mác & Việt Nam hôm nay


17/12/2013

Hạ Đình Nguyên
Người ta đều biết Các Mác là một nhà tư tưởng lớn có tầm thời đại, với ảnh hưởng kéo dài đã ngót 200 năm. Tư tưởng của ông có tính chất cách mạng và nhân bản, hướng đến giải phóng loài người với mục tiêu tự do và bình đẳng. Nhưng trải qua tác động của tư tưởng đó, bằng sự so sánh lợi và hại, người ta nói, giá như đừng có ông thì hơn!
Thật đáng thán phục vừa là kinh ngạc, khi đọc kỹ một đoạn văn sau đây của ông, giống như ông vừa mới nói hôm qua ở một vài xứ sở:
Các chế độ chính trị lỗi thời đã trải qua một lịch sử đầy thảm trạng bởi vì cơ chế quyền lực của nó đã biến ước vọng tự do của con người thành ảo vọng.
Sở dĩ chế độ này mang bản chất bi thảm là vì nó tự buộc cho mình một nội dung hãnh tiến vô vọng.
Hễ cái chế độ này vẫn ngoan cố chống lại nguyên tắc và lý lẽ mới của thời đại, thì chính tự bản chất của nó là một lỗi lầm lịch sử…
Chế độ này là vở hài kịch to lớn của thế giới mà tất cả những anh hùng của nó đều đã bị khai tử. Lịch sử tiến bước và sẽ không bỏ sót một ai.
Nó sẽ đi qua những sân khấu mà chung cuộc sẽ vất bỏ những chế độ lạc hậu vào nghĩa trang. Sân khấu cuối cùng mà lịch sử vừa mới bước qua là cả một vở bi hài kịch khủng khiếp.
(Góp phần phê phán triết học pháp quyền Heghen)
Cái nhìn của của ông có tầm bao quát lịch sử xã hội, nhìn rõ một cách sắc sảo đúng như bản chất của thời đại mà ông đang sống, đồng thời lý tưởng mà ông hướng tới, diễn ra sau ông một trăm năm, lại y hệt điều mà ông lên án nó.
Mỉa mai thay, hiện thực đó lại nhân danh chính lý tưởng của ông. Nhân danh ông, người ta thực hiện chính điều mà ông phê phán:
Các chế độ chính trị lỗi thời đã trải qua một lịch sử đầy thảm trạng bởi vì cơ chế quyền lực của nó đã biến ước vọng tự do của con người thành ảo vọng”.
Bằng vào hiện thực hôm nay, tại các nước XHCN nhân danh ông, đã tạo nêncơ chế quyền lực biến ước vọng tự do của con người thành ảo vọng, và các chế độ đó đã trải qua một lịch sử đầy thảm trạng ra sao, tại các quốc gia nói trên, còn lại ít nhất là ở Việt Nam, Trung Quốc, Bắc Triều Tiên! Và nó đang diễn ra từng ngày từng giờ, trước mắt toàn nhân loại. Cái lý tưởng nhân quyền đã khai sinh ra từ thời đại ông cho đến nay gần 200 năm, vẫn chưa thấm đến được ở những phần đất nói trên. Việt Nam, Trung Quốc, Bắc Triều Tiên không phải là một hang động bí hiểm nào ở xứ Nam Cực hay Bắc Cực, mà nó ở một vùng giữa châu Á đông dân cư và sôi động nhất thế giới, mà người cầm trên tay tờ giấy “Tuyên ngôn nhân quyền” có thể bị bỏ tù, bởi chính những người nhân danh lý tưởng của ông. Ông nói về một chế độ trước mắt mà ông muốn đánh đổ ở ngay thời đại của ông, nó lại tái hiện nguyên hình đằng sau tư tưởng của ông ở vào thế kỷ sau!
Nhưng bằng cách nào nó vẫn tiếp tục tồn tại trong khi bản thân nó là sự bi thảm?
Chính ông đã nói: “Sở dĩ chế độ này mang bản chất bi thảm là vì nó tự buộc cho mình một nỗi hãnh tiến vô vọng”.
Nó tồn tại, bởi sự hãnh tiến cao đến mức che lấp sự vô vọng, và không nhìn ra nỗi bi thảm, một sự hảnh tiến vô cùng nông nổi, một sự tự tin không hề có bằng chứng, và không nhận thấy đất sụt dưới chân mình. Bằng sự dối trá, họ tin vào lý tưởng mà ông nêu ra. Họ hiểu và biến khái niệm giai cấp của ông thành ra một sức mạnh cơ bắp, họ tin vào bạo lực mà ông đã truyền dạy. Cái bi thảm mà ông nói, trước hết nó đến với đám đông bị cai trị, sau đó, nửa đời hay trọn một đời, mới đến phiên họ, và kéo theo nhiều thế hệ trong cùng một dạng bi thảm ấy. Cái năng lượng đấu tranh giai cấp của ông tự biến tướng làm hai luồng. Một, hy sinh để đánh đổ giai cấp thống trị. Hai, cái còn lại thay thế vai trò thống trị tàn khốc hơn. Ông đã tạo nên đồng thời một loại “thánh” bất đắc dĩ, và một loại quỷ dữ. Mà ý của ông chỉ muốn phục hồicon người, một loại người mà ông muốn biến đổi gien, gọi là Vô sản, lại không phải là một thứ người có thật ở cõi người ta (tèrre des hommes). Nhưng rốt cuộc, người nhân danh “vô sản” lại hữu sản hơn cái giai cấp hữu sản mà họ đánh đổ. Cái hữu sản của giai cấp tư bản mà ông nói, là tạo nên bởi sự bóc lột sức lao động của người bị trị, nay cũng thế và ở một trình độ khốc liệt hơn, bao gồm hàng loạt triệu sinh mạng tập thể. Sự thật đã diễn ra như thế gần một thế kỷ ở một nửa trái đất, chứ không phải là lý luận hay suy diễn từ đâu cả. Cái nhìn giai cấp của ông có lợi chỉ một, cái hại gấp trăm ngàn lần, cộng lại thành số âm to tướng. Ông làm cho cõi ta bà này nhiễu nhương thêm lên.
Ông truyền cái duy vật lịch sử (lịch sử loài người là lịch sử đấu tranh giai cấp) vào những não bộ của những con người chưa trưởng thành, kích thích bản năng và biến họ thành một thứ chiến binh hung hăng, chỉ biết “tiến mà không lui”, bằng cách tự đặt ra cho mình những thách đố vô nghĩa “ai thắng ai”, và cuối cùng dù thắng hay không, cũng không để làm gì cả, ngoài việc tạo nên vô vàn những nghĩa trang cho loại “thánh bất đắc dĩ”, trong khi những con ngưởi này, chỉ một lòng muốn sống như một con người bình thường và bình đẳng.
Ông lên án các loại tôn giáo, chỉ vì khía cạnh tiêu cực của nó, rồi đánh đổ nó toàn diện, để tạo nên một thứ dị giáo quái đản mới, cũng gọi là “đức tin” đấy! (1). Ông tiêm chủng chủ nghĩa duy vật, là nâng cao, là tuyệt đối hóa khía cạnh sinh vật và vật lý, vào con người để tước bỏ tính người của họ, làm cho họ không còn mộng mơ tơ tưởng gì ráo vào đời sống tinh thần, chỉ biết găm miệng mình và ghìm miệng tha nhân vào vật chất, ăn ngay vào xác sống con người, không giống như bầy kênh kênh chỉ ăn vào xác chết mà thôi. Đệ tử của ông đã cai trị thế gian theo cách đó. Và dĩ nhiên, đệ tử của ông cũng phải sống với trạng huống bi thảm tận cùng nội tạng, với thủ đoạn và thái độ chùng lén nhưng rất hãnh tiến mà ông từng mô tả: “Chúng ca len lén bài ca nửa thú vật, nửa thiên thần.
Tiếng ca ấy đang rên rỉ khắp nơi bằng bài ca “Đúng quy trình!”.
Ông nêu tiếp trong đoạn văn nói trên:
Hễ cái chế độ này vẫn ngoan cố chống lại nguyên tắc và lý lẽ mới của thời đại, thì tự bản chất của nó là một lỗi lầm của lịch sử…
Ý kiến của ông là không sai. Đúng như thế, mà nó vẫn ngoan cố đấy, và nó vẫn nhân danh điều ông nói, và nó cứ để cho cái lỗi lầm ấy cứ diễn ra trong lịch sử. Họ chống nạnh lên và nói: Thì sao nào? Lịch sử bỗng dưng phải lao ra chịu trách nhiệm! Chẳng có ý nghĩa gì cả! Lịch sử là cái nó diễn ra, chứ chẳng có thứ gì là chủ thể của cái từ lịch sử để quy là lỗi lầm của nó! Thà nói rằng đó là sự dắt dẫn bởi vô minh (bản năng u tối – Phật), cũng như nói đó là sự trừng phạt của Thượng Đế (Chúa) thì vẫn còn có thể hữu ích hơn, hoặc dễ chịu hơn là cách nói của một thứ dị giáo quái đản kia.
Vâng, nó vẫn đang tiếp tục ngoan cố chống lại nguyên tắc và lý lẽ mới của thời đại, và vẫn kiên trì nhân danh ông đấy thôi!
Ông đã khẳng định:
Chế độ này là vở hài kịch to lớn của thế giới mà tất cả những anh hùng của nó đều đã bị khai tử. Lịch sử tiến bước và sẽ không bỏ sót một ai…
Điều này quả thật là tôi tin tưởng, nhưng ông nói về đối tượng thời đại của ông, tôi tin tưởng vào thực thể của thời đại tôi. Cái vở hài kịch của thế giới mà ông đề cập quả đã chấm dứt, nhưng ông lại không dự đoán được rằng, chính ông mở ra một vở hài kịch mới, là cái vở hài kịch mà con người đang chứng kiến nó cố giằng co chưa chịu chấm dứt. Những anh hùng của nó đều bị khai tử, khai tử trên thực thể xã hội và trong tâm trí mọi người, những hình tượng của nó đã bị chôn vùi hoặc đang bị đập vỡ ra từng mảnh; nhưng lại có những kẻ đang cố nhón gót để làm anh hùng…, rồi cũng sẽ bị khai tử không sót một ai, cho dù ở vùng đất trũng này bước tiến của lịch sử quá chậm chạp.
Nó sẽ đi qua những sân khấu mà chung cuộc sẽ vất bỏ những chế độ lạc hậu vào nghĩa trang. Sân khấu cuối cùng mà lịch sử vừa mới bước qua là cả một vở bi hài kịch khủng khiếp.
Tôi lại tán thành một lần nữa về câu nói trên. Chung cuộc, là cái cuộc dâu bể cuối cùng chứ không phải ai hết, sẽ vứt bỏ những chế độ lạc hậu vào nghĩa trang. Và đó đúng là vở bi hài kịch khủng khiếp. Cái khủng khiếp sau thì hơn cái khủng khiếp trước mà ông đã nhìn thấy, lại dính dáng đến ông một cách khá nghiêm trọng. Nhưng để có cái cuối cùng thì cần chôn luôn một lần vào nghĩa trang chính cái chủ thuyết của ông, mà sau này người ta ăn có/ăn hôi, và gọi bằng nhiều thứ tên, theo cách ghép thêm đuôi vào.
Các học giả vừa bênh vực ông, lại vừa chống đối ông, đã tốn rất nhiều bút mực, giấy in và chỗ để, cả công sức để nghiên cứu tư tưởng ông. Cái tích cực trong tư tưởng ông là phát ra những tư duy mới mẻ góp phần tiến bộ cho nhân loại, nhưng phần tiêu cực lại quá lớn, đó là sự thúc đẩy về bạo lực.
Đoạn văn trên của ông thật kích động và thôi thúc một sự tiến lên và phá hủy, đầy rẫy sự căm hận bản năng mênh mông: bi thảm, thảm trạng, ngoan cố, bi hài kịch, nghĩa trang, khai tử không sót một ai…nhưng kết cuộc thì là gì? Cái não trạng bạo lực ấy càng dâng cao. Cái đối tượng mà ông chỉ ra là hãnh tiến, nay nó vượt lên thành kiêu ngạo, sự kiêu ngạo cộng sản. Họ nêu cao khẩu hiệu “thế lực thù địch” để nhân danh sứ mạng “chống” thế lực thù địch, nhằm củng cố vai trò bạo lực của mình. Những khó khăn bất cứ loại nào xuất hiện, họ đều gọi là sự “thách thức”, nhưng chẳng ai thách gì cả. Họ tạo nên căm thù, lấy đó làm động lực, và muốn “đấu tố’ luôn cả lịch sử của dân tộc họ.
Cái sân khấu cuối cùng mà lịch sử vừa bước qua quả là một vở bi hài khủng khiếp”. Nhưng vở kịch bi hài khủng khiếp ấy chưa phải là cuối cùng như ông mong muốn, vì lịch sử đã vừa bước lại, và nó tái hiện khủng khiếp hơn, mà lần này người ta nhân danh ông là đạo diễn. Cái bi hài đó càng bi hài hơn.
Suốt quá trình hình thành, phát triển và tàn lụi, nó chưa từng đóng góp được một phát kiến tí teo nào về khoa học cho đời sống văn minh vật chất, cũng chưa từng có một đóng góp nào có giá trị cho đời sống tinh thần con người, nếu không nói là kéo lùi lại tình trạng thô thiển hơn trong tư duy, đơn cử như cái định nghĩa hết sức thối nát: “Con người là tổng hòa mối quan hệ xã hội”, đã biến con người thành một hỗn hợp không có bản thể, một sản phẩm không thể có tên gọi, trở thành vô danh trong đống xà bần mà xã hội đã biến thành, dưới sự cai trị của những người nhân danh học thuyết của ông. Nếu có một chút giá trị gì chăng, đó là quá trình thực nghiệm theo phương pháp loại suy, nó nằm trong trường hợp mà nhân loại phải loại trừ, không lặp lại phương án thực nghiệm khốn cùng ấy nữa.
Nhiều người rất thương mến ông, vì những phát kiến tiến bộ, nhưng họ nghĩ không có ông thì vẫn hơn, hơn rất nhiều, vì cái ảo vọng về vai trò cực kỳ tào lao của cái gọi là “giai cấp” đã quá nhiều tàn hại. Người ta mong đừng có một người nào giống kiểu như ông xuất hiện lần nữa. Đã có Chúa và Phật, và các thứ, là quá đủ cho cái hành tinh khá nhốn nháo này, cho con người còn có cớ để mơ mộng, tròng trành giữa Địa ngục với Thiên đàng hay Niết bàn, thay vì cái dị giáo toàn bạo lực mà tín đồ của ông đang hoành hành, với não trạng ấu trĩ hơn cả sự hãnh tiến.
Ông đã đẩy lịch sử tiến lên một bước, nhưng rất đáng tiếc, nó quá đà. Giá như ông có thể sống dậy, để mà xem!
Và tín đồ của ông cần nghiền ngẫm câu nói của Mandela:
Khi tôi bước đến với tự do, tôi biết rằng nếu không bỏ lại nỗi đau và sự căm thù lại phía sau, tôi sẽ vẫn ở trong tù
Hay cố làm những con “mèo béo”? (2).
Ngày nhân quyền 10-12-2013
H. Đ. N.
(1) “Le marxisme n’est pas mort, il continuera à exister […] ce n’est pas une science mais une croyance” (Chủ nghĩa Mác không chết, học thuyết này tiếp tục tồn tại, đó không phải là một môn khoa học mà là đức tin.). Jeannine Verdès-Leroux, La foi des vaincus (Đức tin của những người thất bại). Paris: Éditions Fayard, 2005.
(2) Lời của Mandela, trong dịp tranh cử Tổng Thống 1994, “Chúng ta sẽ không sống như những con mèo béo”. Tôi hiểu ý là lẩn trốn trách nhiệm và chuyên ăn vụng.
Tác giả gửi trực tiếp cho BVN
Source : BVN 

TÌNH TRẠNG SỨC KHỎE LUẬT SƯ LÊ HIẾU ĐẰNG


17/12/2013

TÌNH TRẠNG SỨC KHỎE LUẬT SƯ LÊ HIẾU ĐẰNG (16/12/2013)

clip_image001
Định đến bệnh viện thăm Luật sư Lê Hiếu Đằng từ hôm thứ bảy 14/12/2013 nhưng vì có tin anh bị hôn mê cấp cứu không vào thăm được. Chiều chủ nhật hôm qua thì có tin khác lạc quan hơn: Anh Đằng đã tỉnh lại và đã được đưa về phòng riêng tại Khoa ung bướu và y học hạt nhân, Bệnh viện Nhân dân 115 (TP. HCM).
Sáng nay thứ hai 16/12/2013 tôi quyết định đi xe máy dầu từ quận 9 đến quận 10.
May quá, vừa vào phòng thì gặp ngay chị Hồng vợ anh đang túc trực và anh đang nằm nghỉ, mắt sáng, ra dấu và nói chuyện được. Tôi đề nghị chụp hình anh chị thì anh tỏ vẻ rất vui, ra dấu V. Sau đó còn ngồi dậy ra khỏi phòng đi dạo đến cửa vào có cây Noel vừa được dựng lên chào mừng lễ Giáng sinh sắp đến.
clip_image002
clip_image003
 clip_image004
clip_image005
clip_image006
clip_image007
Tôi cũng gặp được các bác sỹ điều trị, đặc biệt bác sỹ Trần Ngọc Sơn, Trưởng khoa ung thư và bác sỹ Đăng Công Sơn…
clip_image008
Tôi cũng tranh thủ bắt chuyện với các bác sỹ và họ cho hay là LS Lê Hiếu Đằng đã bị hôn mê bất tỉnh vì trong thời gia điều trị chứng ung thư có dẫn đến tình trạng  phức tạp về tim mạch. Nguyên anh Lê Hiếu Đằng cũng bị từ lâu nay bệnh tiểu đường… Các bác sỹ bảo rằng phải chờ cho tim mạch ổn định mới bắt đầu trở lại chữa trị chứng ung thư nhất là sử dụng thuốc mới ZYTIGA giá đắt hơn cả vàng!
Xin quí vị xem những hình ảnh kèm theo đây. Tự nó là những minh chứng thuyết phục nhất.
LS Lê Hiếu Đằng, người bạn quý của chúng ta chưa chịu thua đâu. Anh vẫn còn đang phấn đấu dành phần sống cho mình, một cuộc đời dấn thân không mệt mỏi cho đồng bào và tổ quốc.
Sài Gòn ngày 16/12/2013
N.Đ.H.
Nguồn: ndanghung.com , BVN


Báo chí Bắc Kinh : Tàu chiến Mỹ đe dọa an ninh Trung Quốc

RFI

16/12/2013

Báo chí Bắc Kinh : Tàu chiến Mỹ đe dọa an ninh Trung Quốc

Tàu sân bay Liêu Ninh  họat động trên vùng biển đảo Hải Nam hôm 29/11/2013.
Tàu sân bay Liêu Ninh họat động trên vùng biển đảo Hải Nam hôm 29/11/2013.
REUTERS/Tân Hoa Xã/Hu Kaibing

Thanh Hà
Sau sự cố trên Biển Đông hôm 5/12 , buộc tàu chiến của Mỹ phải chuyển hướng, tránh để xảy ra tai nạn với tàu của Trung Quốc, báo chí Bắc Kinh tố cáo Hoa Kỳ đe dọa an ninh của Trung Quốc và tàu Mỹ « theo dõi và sách nhiễu » tàu sân bay Liêu Ninh của Trung Quốc.

Hoa Kỳ trong thông cáo đề ngày 13/12/2013 xác định tàu Mỹ hiện diện tại Biển Đông đang ở trong khu vực biển quốc tế khi xảy ra sự cố hôm 05/12/2013. Chiếc tàu tuần dương USS Cowpens của Hoa Kỳ có trang bị tên lửa dẫn đường, đã buộc phải chuyển hướng khẩn cấp, khi bị tàu của Trung Quốc chặn đường.
Nhưng trong ấn bản đề ngày hôm nay (16/12/2013), tờ Hoàn cầu Thời báo của Trung Quốc cho rằng USS Cowpens ngày 05/12/2013 đã tiến vào đến sát lãnh hải của Trung Quốc và đã thực sự là « một mối đe dọa đối với an ninh quân sự » của nước này.
Tờ báo của Trung Quốc còn đi xa hơn với những lời lẽ hăm dọa : « Nếu tàu hoặc phi cơ Mỹ xâm nhập vào hải hay không phận của Trung Quốc thì sẽ khó tránh khỏi một sự ‘đối đầu’ (…) Sức mạnh của Trung Quốc ngày càng lớn, Mỹ phải biết cách giao tiếp và phải tôn trọng Trung Quốc nếu không muốn để xảy ra đụng độ trên biển hay trên không ».
Cũng tờ báo này trích lời một chuyên gia quân sự của Trung Quốc xin được giấu tên, theo đó trong sự cố tại Biển Đông hôm đầu tháng, chiếc USS Cowpens đã « theo dõi và sách nhiễu »tàu sân bay mới của Trung Quốc là chiếc Liêu Ninh đang hiện diện trong khu vực. Vẫn theo chuyên gia này, tàu của Hoa Kỳ, chỉ còn cách vùng « phòng thủ của Trung Quốc » chưa đầy 45 km.
Cũng Hoàn cầu Thời báo cho rằng phía Mỹ đã « giả vờ ngây thơ » khi tiến vào vùng biển của Trung Quốc. Bắc Kinh khẳng định chủ quyền trên một diện tích 80 % tại Biển Đông.
Còn nhật báo China Daily trích lời một chuyên gia về Châu Á Thái Bình Dương của Trung Quốc, bênh vực cho hành động vừa qua của hải quân Trung Quốc. Chuyên gia này giải thích là « Trung Quốc đã chỉ có thái độ sau khi phía Hoa Kỳ đã phớt lờ trước cảnh báo » của tàu Trung Quốc.

Source : RFI


VOA - Ngoại trưởng Mỹ thúc đẩy nhân quyền, an ninh hàng hải nhân chuyến thăm VN


Ngoại trưởng Mỹ thúc đẩy nhân quyền, an ninh hàng hải nhân chuyến thăm VN

Ngoại trưởng Mỹ John Kerry gặp Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng tại Hà Nội, ngày 16/12/2013.
Ngoại trưởng Mỹ John Kerry gặp Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng tại Hà Nội, ngày 16/12/2013Trà Mi-VOA
Ngoại trưởng Hoa Kỳ John Kerry thúc đẩy Hà Nội cải thiện nhân quyền và cung cấp tài trợ giúp bảo vệ biên giới lãnh hải nhân chuyến công du Việt Nam 4 ngày kết thúc vào ngày mai 17/12.

Có mặt tại thủ đô Hà Nội hôm nay 16/12, ông Kerry kêu gọi chính phủ Việt Nam phóng thích tù nhân lương tâm và nới lỏng quyền tự do truy cập internet cho người dân.

Tin AP dẫn lời Ngoại trưởng Mỹ cho hay trong buổi làm việc với Ngoại trưởng Việt Nam Phạm Bình Minh, ông đã nêu lên các mối quan ngại của Hoa Kỳ về thành tích nhân quyền đang bị chỉ trích của Hà Nội.

Ông Kerry nói đôi bên đã trao đổi thẳng thắn và cởi mở về vấn đề nhân quyền.

Ngoại trưởng Hoa Kỳ Mỹ nhấn mạnh Việt Nam cần tiếp tục chứng minh có tiến bộ về nhân quyền và các quyền tự do của công dân bao gồm quyền tự do tôn giáo, tự do bày tỏ quan điểm, và quyền tự do lập hội. Bởi lẽ, nếu không, vẫn theo lời ông, các thành viên trong Quốc hội Mỹ có phần chắc sẽ phản đối việc mở rộng giao thương với Việt Nam kể cả việc Hà Nội tham gia vào Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương TPP và việc thực thi thỏa thuận hạt nhân dân sự mới đạt được giữa hai nước.

Ông Kerry cho hay nhân quyền vẫn là đề tài được tiếp tục thảo luận giữa đôi bên Việt-Mỹ.

Không tiết lộ chi tiết, nhưng Ngoại trưởng Mỹ cho biết đã đề cập đến các trường hợp cụ thể bị vi phạm nhân quyền tại Việt Nam.

Trong buổi làm việc với Ngoại trưởng Việt Nam Phạm Bình Minh, ông Kerry đã nêu lên các mối quan ngại của Hoa Kỳ về thành tích nhân quyền đang bị chỉ trích của Hà Nội.Trong buổi làm việc với Ngoại trưởng Việt Nam Phạm Bình Minh, ông Kerry đã nêu lên các mối quan ngại của Hoa Kỳ về thành tích nhân quyền đang bị chỉ trích của Hà Nội.
Về phần mình, Ngoại trưởng Phạm Bình Minh mô tả cuộc gặp với ông Kerry mang tính ‘xây dựng’. Ông Minh lặp lại quan điểm lâu nay của Hà Nội rằng hai bên Việt-Mỹ vẫn còn các bất đồng trong lĩnh vực nhân quyền.

Trước khi Ngoại trưởng Mỹ sang Việt Nam, 47 nhà lập pháp Hoa Kỳ đã gửi thư thúc giục ông kết nối vấn đề nhân quyền khi bàn về các vấn đề giao thương với Hà Nội.

Trong kiến nghị thư gửi ông Kerry trước chuyến đi Việt Nam, tổ chức Theo dõi Nhân quyền Human Rights Watch yêu cầu ông đề nghị Việt Nam có những bước lập tức tỏ thiện chí, bao gồm phóng thích tù nhân chính trị, bỏ các điều khoản hình sự hóa tội chỉ trích nhà nước như 88, 79, hay 258 trong Bộ Luật Hình sự, cho phép công nhân và công đoàn tự do tổ chức nghiệp đoàn độc lập, và thông qua các luật thực thi Công ước Liên hiệp quốc chống Tra tấn.

Nhiều người mong đợi sẽ có vài tù nhân lương tâm được phóng thích với chuyến thăm của nhà ngoại giao hàng đầu Hoa Kỳ, quốc gia tiên phong cổ xúy dân chủ-nhân quyền trên thế giới và đặt nặng vấn đề nhân quyền trong các mối quan hệ với Việt Nam.

Luật sư Nguyễn Văn Đài, một cựu tù nhân lương tâm nổi tiếng của Việt Nam, là người liên hệ chặt chẽ với các nhà đấu tranh dân chủ và gia đình các tù nhân lương tâm trong nước.

Luật sư Đài cho biết trước khi Ngoại trưởng Mỹ đặt chân tới Việt Nam, ít nhất 3 tù nhân lương tâm đang bị giam cầm ở phía Nam đã được giới hữu trách tiến hành các thủ tục thông lệ yêu cầu ký đơn ‘nhận tội’ ‘xin khoan hồng’, một dấu hiệu cho thấy có thể họ sắp được phóng thích.

Luật sư Nguyễn Văn Ðài.Luật sư Nguyễn Văn Ðài.
Ông Đài không tiết lộ cụ thể tên của những tù nhân đó gồm những ai. Tuy nhiên, ông cho biết có một trường hợp đặc biệt của nhà giáo bất đồng chính kiến Đinh Đăng Định, người đang bị ung thư dạ dày trong trại giam.

Luật sư Đài:

“Gia đình anh Định được thông báo yêu cầu gửi hồ sơ lên để tòa án tối cao xem xét lại thủ tục Giám đốc thẩm cho anh ấy. Đây là một trường hợp rất hiếm. Bên quản lý trại giam và Bộ Công an cũng đã liên lạc với một số tù chính trị. Họ đã đến gặp gỡ các tù nhân này. Chuyện thả hay không chưa rõ ràng, nhưng chuyện họ đến tiếp xúc như vậy cũng là hơi bất thường.”

Tuy nhiên, luật sư Đài dự đoán các vụ phóng thích nếu có sẽ không diễn ra ngay sau chuyến thăm của ông Kerry, mà rất có thể là trong đợt ân xá trước Tết, vì Hà Nội không muốn mọi người cho rằng việc này được thực hiện vì áp lực hay để lấy lòng Hoa Kỳ.

Luật sư Đài tiếp lời:

“Thông thường như thế họ sẽ có nhiều cách, hoặc là giảm án, hoặc là dùng thủ tục Giám đốc thẩm để sửa bản án giảm án xuống bằng mức đã giam giữ trước đây, chứ còn khả năng đặc xá thì ít. Nếu đặc xá thì họ đã làm từ đầu tháng 12 rồi. Bây giờ còn hơn 1 tháng nữa đến Tết thì họ làm không kịp.”

Ngoài nhân quyền, một trong những vấn đề nằm cao trong nghị trình làm việc của ông Kerry nhân chuyến thăm Việt Nam là vấn đề an ninh hàng hải.

Hôm nay (16/12), Ngoại trưởng Mỹ loan báo khoản hỗ trợ trị giá 32,5 triệu đô la giúp các nước Đông Nam Á tăng cường an ninh hàng hải. Phân nửa số tiền này dành cho Việt Nam giữa bối cảnh tranh chấp Biển Đông căng thẳng.

18 triệu đô la trong ngân khoản Ngoại trưởng Kerry vừa loan báo sẽ giúp Việt Nam tăng cường khả năng tuần tra duyên hải và có thể phản ứng nhanh hơn trong các nhiệm vụ tìm kiếm-cứu hộ hay thảm họa thiên tai.

Ông Kerry cho biết thêm số tiền cũng sẽ được dùng để mua 5 tàu tuần tra cao tốc cho lực lượng tuần duyên Việt Nam vào năm tới.

Bộ Ngoại giao Mỹ cho hay với ngân khoản này, hỗ trợ về an ninh hàng hải Hoa Kỳ dành cho khu vực sẽ vượt trên 156 triệu đô la trong 2 năm tới.
Ngoại trưởng Mỹ thúc đẩy nhân quyền nhân chuyến thăm VN
Dù nói rằng sự hỗ trợ cho Đông Nam Á lần này không nhằm mục đích nhắm tới Trung Quốc, nhưng Ngoại trưởng Kerry nhấn mạnh khoản viện trợ được thiết lập để giúp các nước bảo vệ lãnh hải trước các hành động xâm lấn.

Ông nói hòa bình và ổn định tại Biển Đông là ưu tiên hàng đầu đối với Washington cũng như các nước trong khu vực và Hoa Kỳ phản đối các chiến thuật uy hiếp, gây hấn trong các tuyên bố chủ quyền.

Ông Kerry kêu gọi tăng cường các cuộc thảo luận và sáng kiến ngoại giao giữa Trung Quốc với các nước trong việc xử lý tranh chấp lãnh hải.

Ngoại trưởng Mỹ khẳng định bất kỳ tranh chấp nào cũng phải được giải quyết thông qua các định chế quốc tế.

Hình ảnh Ngoại trưởng Mỹ thăm sông nước Cà Mau

  • Người dân hiếu kỳ xem đoàn xe của Ngoại trưởng Kerry đi ngang qua.



15/12/13

VOA - Trò chuyện với 'Phụ nữ Nhân quyền Việt Nam'

Trò chuyện với 'Phụ nữ Nhân quyền Việt Nam'


Nguyễn Ngọc Như Quỳnh (Mạng Lưới Blogger)
Nguyễn Ngọc Như Quỳnh (Mạng Lưới Blogger)
Một trong những nhiệm vụ của Phụ nữ Nhân quyền Việt Nam là trả lại đúng ý nghĩa và giá trị đẹp của hai chữ ‘nhân quyền’ vốn là những quyền căn bản rất bình thường ai sinh ra cũng phải được hưởng, không có gì là ‘nhạy cảm’ cả. Cho nên, hoạt động của chúng tôi không thách thức bất cứ đối tượng nào.
Các nhà hoạt động nữ trong nước vừa thành lập Hội Phụ Nữ Nhân quyền Việt Nam hôm 25/11 để tranh đấu-bảo vệ cho nhân quyền và nữ quyền giữa lúc thành tích nhân quyền của Việt Nam tiếp tục bị quốc tế lên án dù Hà Nội vừa trúng cử vào Hội đồng Nhân quyền Liên hiệp quốc.

Thông cáo của tổ chức nói Phụ nữ Nhân quyền Việt Nam đại diện một cách độc lập, công bằng và vô vị lợi cho toàn thể những người phụ nữ bị tổn thương về nhân quyền.

Giữa lúc những đòi hỏi nhân quyền còn bị cho là nhạy cảm tại Việt Nam, việc Phụ nữ Nhân quyền Việt Nam công khai thành lập một tổ chức như vậy là một thách thức đối với nhà cầm quyền hay họ tự biến mình thành mục tiêu chịu thách thức?

Không được nhà nước công nhận chắc chắn khó tránh được những khó khăn, những người phụ nữ cổ xúy dân chủ-nhân quyền này tự chuẩn bị cho mình thế nào để có thể phát huy hoạt động? Làm thế nào để mọi việc không chỉ dừng lại ở tính khởi phát mà mang tính chất bền vững?

Đó cũng là nội dung cuộc trao đổi trên Tạp chí Thanh Niên VOA hôm nay với ba thành viên sáng lập tổ chức là Nguyễn Ngọc Như Quỳnh ở Nha Trang, Nguyễn Hoàng Vi tại Sài Gòn, và Trần Thị Nga từ Hà Nam.

Như Quỳnh: Mục đích của tổ chức nhằm bảo vệ, phát huy nhân quyền; lên tiếng cho các phụ nữ bị đàn áp, sách nhiễu, bạo hành trong xã hội; lập hồ sơ báo cáo hằng năm về việc phụ nữ bị đàn áp ở Việt Nam để gửi các tổ chức NGO quốc tế, các cơ quan ngoại giao nước ngoài; phổ biến các tài liệu về quyền con người.
Rủi ro nếu có chúng tôi sẵn sàng đón nhận một cách an vui vì không có tự do nào được cho không.

Trà Mi: Vì sao cần có tổ chức Phụ nữ Nhân quyền Việt Nam trong khi tại Việt Nam không thiếu các hội nhóm phụ nữ từ địa phương đến trung ương?

Trần Thị Nga: Các hội phụ nữ trong nước là những cánh tay nối dài của nhà cầm quyền cộng sản, họ không có bảo vệ người dân. 
Trần thị Nga (Thúy Nga)Trần thị Nga (Thúy Nga)

Như Quỳnh: Phụ nữ Nhân quyền Việt Nam không chỉ bảo vệ những phụ nữ đấu tranh mà cả những phụ nữ bình thường. Một trong những hình thức hoạt động gần gũi nhất là phát Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền và các Công ước quốc tế Việt Nam đã ký liên quan đến quyền con người.
Chúng tôi cũng sẽ đi thăm các phụ nữ tranh đấu cho nhân quyền hay là người thân của những người tranh đấu cho sự tiến bộ của xã hội mà bị đàn áp.


Trà Mi: Các bạn chuẩn bị các phương án thế nào để có thể thực hiện kế hoạch suông sẻ giữa các biện pháp tăng cường đối phó của chính quyền đối với các hoạt động mà bị nhà nước gọi là ‘tuyên truyền’ ‘chống đối’?
Đoàn kết chính là sức mạnh để mình đi trên con đường vững chắc hơn.

Hoàng Vi: Không phải Phụ nữ Nhân quyền Việt Nam ra đời tụi em mới đấu tranh. Trước giờ tụi em vẫn đấu tranh và luôn gặp những rủi ro đó. Tụi em chỉ có khả năng bảo đảm những việc làm của mình ở mức ôn hòa, không bạo động. Còn nhà cầm quyền đối phó thế nào, thái độ của họ em không lựa chọn được, em chấp nhận những rủi ro họ mang đến.

Như Quỳnh: Tôi từng đi phát Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền và đã gặp phải những trở ngại. Việc Việt Nam vào Hội đồng Nhân quyền Liên hiệp quốc là một thuận lợi cho Phụ nữ Nhân quyền tiếp tục công việc của mình. Rủi ro nếu có chúng tôi sẵn sàng đón nhận một cách an vui vì không có tự do nào được cho không.

Trà Mi: Chị hy vọng sau khi Việt Nam vào Hội đồng Nhân quyền Liên hiệp quốc, mọi chuyện sẽ ‘dễ thở’ hơn?

Như Quỳnh: Mình không hy vọng như vậy. Mình hy vọng các nước dân chủ đã bỏ phiếu cho Việt Nam vào Hội đồng Nhân quyền phải có trách nhiệm giám sát. Trong 3 năm Việt Nam làm thành viên Hội đồng, chúng tôi có cơ hội thúc đẩy, nâng cao nhận thức của mọi người về nhân quyền.

Trà Mi: Giữa lúc những đòi hỏi nhân quyền còn bị cho là nhạy cảm tại Việt Nam, việc Phụ nữ Nhân quyền Việt Nam công khai thành lập một tổ chức như vậy là một thách thức đối với nhà cầm quyền hay họ tự biến mình thành mục tiêu chịu thách thức?
Nguyễn Hoàng ViNguyễn Hoàng Vi

Hoàng Vi: Một trong những nhiệm vụ của Phụ nữ Nhân quyền Việt Nam là trả lại đúng ý nghĩa và giá trị đẹp của hai chữ ‘nhân quyền’ vốn là những quyền căn bản rất bình thường ai sinh ra cũng phải được hưởng, không có gì là ‘nhạy cảm’ cả. Cho nên, hoạt động của chúng tôi không thách thức bất cứ đối tượng nào.  

Trà Mi: Một tổ chức tại Việt Nam không đăng ký sinh hoạt, không được nhà nước công nhận thì khó tránh khỏi khó khăn. Làm thế nào để một tổ chức không được nhà nước công nhận có thể tự bảo vệ mình trước khi nói tới chuyện bảo vệ người khác? Các thành viên trong hội nghĩ sao?

Như Quỳnh: Hiến pháp quy định dân có quyền lập hội. Các thông tư, nghị định, văn bản dưới Hiến pháp chế tài quyền của dân là đã sai về căn bản. Đó là cơ sở lý luận đầu tiên của chúng tôi. Nhân quyền là quyền của mỗi người, không phải là ân huệ xin-cho. Hy vọng với sự đi trước của chúng tôi, những người khác sẽ thấy nếu chúng tôi làm được thì họ cũng làm được.

Trà Mi: Theo các bạn, vì sao phụ nữ Việt Nam, dù ngày càng được tôn trọng và có vị trí hơn, nhưng sự tham gia vào đời sống chính trị-xã hội loại thuộc vào nhóm các nước trung bình kém?

Nguyễn Thị Nga: Có những người khi tham gia vào các công việc chính trị-xã hội bị nhà cầm quyền đàn áp, đe dọa, khủng bố. Vì vậy, nhiều người đã phải rút lui. Trong xã hội Việt Nam, phụ nữ vẫn còn bị kỳ thị, chưa được bình đẳng đích thực. Phụ nữ Nhân quyền Việt Nam ra đời để kêu gọi phụ nữ Việt cần biết đến quyền của mình.

Trà Mi: Đã dấn thân thì ắt chịu thiệt thòi. Những thiệt thòi đó của phụ nữ Việt Nam so với các nước khác, khác nhau thế nào theo ghi nhận của các bạn?

Như Quỳnh: Khó khăn lớn nhất của phụ nữ Việt Nam đó là cân bằng trách nhiệm xã hội với cuộc sống gia đình vì tập tính đàn ông Việt Nam chưa có thói quen chia sẻ, giúp đỡ gánh nặng gia đình với phụ nữ. Trường hợp của tôi là một ví dụ. Khi an ninh đến sách nhiễu công ăn việc làm của chồng vì các hoạt động của tôi đã tạo ra mối bất hòa trong gia đình rất lớn, tạo ra áp lực rất nặng nề. Một tôi phải chấp nhận từ bỏ chuyện xã hội. Hai là chọn chuyện gia đình. Nhưng khi chọn chuyện gia đình mình có cảm thấy thật sự là mình hay không, mình có thể thoải mái với sự lựa chọn đó hay không, lại là một vấn đề khác.

Trà Mi: Các bạn nhận xét thế nào về ý thức nhân quyền của người dân Việt Nam?

Hoàng Vi: Người ta không có nhận thức nhân quyền là gì. Phần đông do thiếu hiểu biết nên mới sợ hãi. Để người dân bớt sợ hãi, phải cho họ hiểu được đúng nghĩa từ nhân quyền. Số đông hiểu biết sẽ dẫn đến sự thay đổi.

Trà Mi: Cùng với sự phát triển của truyền thông xã hội, hoạt động xã hội dân sự cũng có chiều hướng gia tăng. Tại Việt Nam đã xuất hiện nhiều hội nhóm dân sự như Mạng lưới blogger Việt Nam, Diễn Đàn Xã Hội Dân Sự, Phụ nữ nhân quyền VN. Làm thế nào để những dấu hiệu khởi phát này có tính chất bền vững hơn là mang tính phong trào?

Hoàng Vi: Nó dựa vào sự kiên trì của chúng ta. Chớ thấy sóng cả mà ngã tay chèo. Mặc cho sự đàn áp, mình vẫn đi theo con đường mình chọn thì sự thay đổi từ từ sẽ đến.

Nguyễn Thị Nga: Đoàn kết chính là sức mạnh để mình đi trên con đường vững chắc hơn.

Trà Mi: Cảm ơn những người Phụ nữ Nhân quyền Việt Nam đã dành thời gian cho chương trình hôm nay. Chúc các bạn thành công.
Bấm vào nghe toàn bộ cuộc thảo luận




VOA