7/4/14

BÍ ẨN TÂM HỒN NGA (BÀI 2) – SỰ TIẾN HÓA CỦA CON NGƯỜI XÔ-VIẾT

BÍ ẨN TÂM HỒN NGA (BÀI 2) – SỰ TIẾN HÓA CỦA CON NGƯỜI XÔ-VIẾT

Tháng 4 6, 2014
Theo pro&contra

Phạm Nguyên Trường dịch

Những sự kiện của thế kỉ XX có ảnh hưởng rất lớn tới tâm hồn Nga.
Con người Xô-viết được coi là một giống người đặc biệt – cần cù lao động và không quan tâm tới sự giàu có về mặt vật chất – nhưng mặc dù Liên Xô đã sụp đổ, giống người đặc biệt này vẫn còn sống.
Ý niệm về tâm hồn bí ẩn của Nga đã lưu truyền ít nhất là từ giữa thế kỷ XIX. Cả các nhà văn nước ngoài lẫn các nhà văn Nga, các nhà triết học và các nhà tư tưởng, từ Marquis de Custine và Fyodor Dostoevsky đến Nikolai Berdyaev và Alexander Solzhenitsyn đều bày tỏ quan điểm  riêng của họ về đặc điểm dân tộc của người Nga. Nói chung, người ta coi đặc điểm Nga là một cái gì đó trái ngược hoàn toàn với bản sắc duy lý, có tính chất tư bản chủ nghĩa của phương Tây, tâm hồn Nga là hiện thân của những đặc điểm như lòng vị tha, cởi mở, tâm linh, hào phóng, tận tâm, sẵn sàng hy sinh cá nhân cho cộng đồng, quyết tâm tìm kiếm chân lý phổ quát và thờ ơ trước sự giàu sang.
Thế kỷ XX đã buộc tâm hồn Nga phải chịu nhiều thay đổi. Bộ máy tư tưởng của Liên Xô bỏ nhiều nỗ lực vào cuộc thí nghiệm khổng lồ trong ngành nhân học xã hội, được gọi là “con người mới Xô-viết” hay “Homo Sovieticus”, với tâm hồn và bản chất được cho là sẽ trở nên thậm chí còn tốt đẹp hơn nữa. Vào giữa những năm 1970, cuốn Người Nga, một tác phẩm nổi tiếng của nhà báo Mỹ Hedrick Smith, đã mô tả sinh động những người dân Nga đang sống ở Liên Xô – họ được trình bày như những người hào phóng, bí ẩn, tình cảm, và về cơ bản là không duy lý và bốc đồng, bất chấp những áp lực liên tục về ý thức hệ “người xây dựng xã hội cộng sản” mà họ phải mang trên vai.
Bên cạnh những giá trị truyền thống được gán cho tâm hồn Nga, giống người đặc biệt này còn được cho là cần cù lao động, có tinh thần tập thể, và yêu nước. Nó có thể sống với những đồ đạc đơn giản nhất và từ bỏ các tiện nghi; tiện nghi bị coi là một trong những biểu hiện tiêu cực của xã hội tư sản. Khái niệm “Con người Xô-viết mới” đã biến mất cùng với thời đại của nó, nhưng một số quan niệm về nó vẫn bám chặt trong tâm trí người Nga hiện thời. “Năm 2004, một phần tư dân số tự gọi mình là người Liên Xô. Bây giờ con số này không vượt quá 12%-13%. Nhưng ngay cả khi người ta không còn tự dán nhãn ‘Liên Xô’ nữa thì cũng không có nghĩa là não trạng Xô-viết đã không còn tồn tại”, Boris Dubin, một nhà xã hội học hàng đầu và là chủ nhiệm công trình nghiên cứu xã hội và chính trị ở Trung tâm Phân tích độc lập Levada Center cho biết. Hiện tượng tâm hồn Nga sống dai hơn đế chế đã lụi tàn vào năm 1991 và bắt đầu một đời sống mới trong thời đại mới.
Một công trình nghiên cứu tâm lý học nhan đề “Khảo sát tính cách và cá tính người Nga” là một dự án nghiên cứu quốc tế do trường Đại học Tartu ở Estonia khởi xướng, phối hợp với khoảng 40 trường đại học Nga. Các kết quả của cuộc thăm dò được tiến hành trong 34 khu vực ở Nga cho thấy 76% những người được hỏi hoàn toàn tin rằng người Nga có một tính cách dân tộc độc nhất, không thể so sánh với bất kỳ dân tộc nào khác. Hình ảnh nước Nga và cư dân của nó là độc nhất vô nhị vẫn được tích cực truyền bá sang phương Tây, nhất là vào những giai đoạn không có cách giải thích nào khác cho những nghịch lý và sắc thái của đời sống và nền chính trị của Nga.
Tuy nhiên, điều quan trọng cần nhấn mạnh là các công trình nghiên cứu thường được tiến hành ở những bình diện khác nhau. Xã hội học chủ yếu xử lí các giá trị và thực tiễn văn hóa, tức là những thứ thay đổi nhanh hơn nhiều, trong khi nhà tâm lý học tập trung vào các “siêu giá trị” và đặc điểm cá nhân, tức là những thứ thay đổi rất chậm. Trong trường hợp sau (nghiên cứu tâm lí – ND), sự khác biệt chủ yếu được nhận ra khi so sánh các thế hệ. “Khi nói về các đặc điểm cá tính của dân tộc Nga từ quan điểm tâm lý học, chúng ta cần phân chia giữa các thế hệ khác nhau. Không thể khái quát chung, vì những đặc điểm này thay đổi rất nhiều”, Olga Makhovskaya, nhà tâm lý học và nghiên cứu viên cao cấp tại Viện Tâm lý học trực thuộc Viện Khoa học Nga cho biết.
Tất cả các chuyên gia đều đồng ý rằng 20 năm qua đã ảnh hưởng đến môi trường văn hóa và lối sống của người Nga chẳng kém gì 70 năm của chủ nghĩa xã hội trước đó. Những biến đổi của thời đại hậu cộng sản đã tác động sâu sắc đến tâm hồn Nga, vì vậy khi nghiên cứu thế hệ người Nga hiện nay, các nhà khoa học tìm thấy những giá trị và đặc điểm trái ngược với những điều mà họ chờ đợi.
Cá nhân trong tập thể
Trong bất kì xã hội nào, chủ nghĩa cá nhân và chủ nghĩa tập thể cũng đều là hai cực đối nghịch của cùng một bảng phân bố, có ý nghĩa đặc biệt vì vai trò quan trọng của nó trong diễn ngôn xã hội và chính trị. Chủ nghĩa tập thể có nguồn gốc từ các sinh hoạt cộng đồng của người Nga cổ và trong các giá trị đạo đức Chính thống giáo (thí dụ như “tinh thần cộng đồng”), trái ngược với chủ nghĩa cá nhân của người theo đạo Tin lành. Trong thời Xô-viết, chủ nghĩa tập thể có các hình thức được thể chế hóa, ví dụ như nông trang tập thể hay căn hộ tập thể.
Một công trình nghiên cứu dài hơi mang tên “Con người Xô-viết” do Trung tâm Levada tiến hành từ năm 1989 đến 2009, chia làm năm “đợt” khảo sát khác nhau và những công trình nghiên cứu gọi là “theo chiều dọc” dư luận, đã xem xét những xu hướng chính trong sự phát triển xã hội của xã hội Nga và thế hệ người Nga hiện nay. “Chủ nghĩa tập thể của người Nga thường được dán nhãn là tính cách rất đặc biệt của người Nga và chiều kích của xã hội Nga. Nhưng các công trình nghiên cứu của chúng tôi lại phát hiện ra rằng nước Nga hiện đại là một xã hội cực kì phân tán, mức độ mất niềm tin là rất cao: ba phần tư người Nga không tin nhau và nói rằng họ chỉ có thể dựa vào gia đình hoặc người thân. Chỉ có quan hệ cá nhân hoặc gia đình là quan trọng mà thôi”, ông Dubin cho biết. “Xã hội của chúng ta bị chia thành các nhóm rất nhỏ, liên kết bằng những mối quan hệ cá nhân hoặc gia đình rất có tính truyền thống. Xã hội của chúng ta không có những hình thức liên kết hiện đại được thể chế hóa nhằm kết hợp mọi người như trong các xã hội khác. Người Nga chỉ gắn bó với nhau trong sự tự thể hiện tập thể được diễn tả bằng một từ trừu tượng là chúng ta.”
Những công trình nghiên cứu so sánh về nước Nga hiện đại và các nước châu Âu khác do Alexander Demidov (thành viên của GfK RUS, một tổ chức nghiên cứu thị trường toàn cầu) thực hiện cũng chứng tỏ một thực tế là nước Nga đương đại là một trong những xã hội phân tán nhất ở châu Âu, rõ ràng là thiếu vắng một “siêu ý tưởng” hoặc “siêu giá trị” có khả năng đoàn kết hoặc động viên xã hội.
Đơn giản đến mức huyền bí
Khi nói về mình, người Nga thường tuyên bố rằng họ là người cởi mở, thân thiện và đơn giản, khác với người Đức lạnh lùng, tính toán, người Uzbek khôn lỏi, người Anh kín đáo hay người Do Thái thông minh. Nhưng trong phạm trù “cởi mở” này thì các nhà nghiên cứu thấy sự khác biệt giữa huyền thoại này và thực tế là rõ ràng nhất. Một người Nga trung bình thường được mọi người tin là cởi mở hơn công dân nhiều nước khác. Nhưng trong quá trình nghiên cứu do Đại học Tartu tiến hành, hơn 3.700 người ở các vùng khác nhau của Nga đã được yêu cầu điền vào một bảng câu hỏi và tiến hành xếp hạng cá tính của người Nga theo bảng khảo sát tính cách dân tộc gồm 30 mục (30-item National Character Survey), được thiết kế đặc biệt cho công trình nghiên cứu này. Cuối cùng, mức độ “cởi mở” trung bình của người Nga được đánh giá dưới mức trung bình xuyên-văn hóa trong số 49 quốc gia.
Một đặc điểm nữa, thường được coi là điển hình Nga là đầu óc đơn giản, trái ngược với các tính cách cá nhân phức tạp của các quốc gia khác. “Khó mà nói người Nga là đơn giản”, Makhovskaya nói. “Đầu óc đơn giản được các nhà tâm lý học giải thích khác nhau, đấy là cơ chế che giấu thái độ hung hăng. Lúc nào cũng có thể nói rằng ‘chúng tôi là những người đơn giản và đã bị lừa.’ Người Nga là những người khó lường và bất hợp lý chứ không phải là có đầu óc đơn giản, và họ có thể lừa được nhiều người. Sự đơn giản này là một phần của huyền thoại quốc gia.” Phần lớn các câu trả lời mà các nhà xã hội học thu được trong quá trình thăm dò ý kiến ​​nhấn mạnh sự đơn giản và cởi mở trong tính cách Nga. “Đó khó có thể là những đặc điểm tâm lý của người Nga hay là tư duy của họ, nhưng là một hình thức (modus) quan hệ với nhà nước và quyền lực cực kì đặc trưng của Nga. Nó rất thuận tiện cho các nhà chức trách trong quá trình làm việc với các thành viên xã hội khi tuân theo lối mòn này. Về khía cạnh đó, hiện nay cũng không khác gì thế kỷ XIX hay thời Xô-viết. Đấy là vấn đề của bộ máy tuyên truyền quốc gia nhằm diễn dịch những đặc điểm mà người ta cho là mình có và phụ thuộc vào thành niềm tự hào dân tộc. Trong giai đoạn hiện nay, chúng tôi đang chứng kiến cách thức mà điều này phát triển thành huyền thoại về ‘con đường đặc biệt của Nga”, Dubin cho biết.
Hầu bao rộng
Sự hào phóng của tính cách Nga thường xuất hiện như một bất ngờ đối với người ngoại quốc. Cụm từ “tâm hồn phóng khoáng” đã trở thành cửa miệng, nhưng xác định ý nghĩa của nó không phải việc dễ. Ở mức độ bình thường nhất, hào phóng, trái ngược với tham lam, vẫn còn là một phần bản chất của người Nga. Người Nga vẫn thích có những cử chỉ đẹp và làm bạn bè ngạc nhiên với những món quà hào phóng. Chia tiền thanh toán tại cuộc họp mặt giữa bạn bè hoặc kiểm tra hóa đơn tại nhà hàng bị coi là nhỏ nhen. Cái gọi là “những người Nga mới”, tức những người đổ xô đến các khu nghỉ dưỡng ở châu Âu trong thập kỷ qua, đã trở nên nổi tiếng vì họ để lại những khoản tiền tip khá lớn.
Nhưng tính cách Nga được tạo thành từ cả hai: lạnh lùng và ấm áp. Khái niệm về tình đoàn kết chỉ được áp dụng với những người gần gũi và thân yêu, nhưng khó có thể nói đấy là hiện tượng xã hội. Sự thờ ơ xã hội, đặc trưng cho nước Nga hiện đại, không phải là vấn đề hào phóng, mà là hậu quả của sự bất tín đối với toàn bộ các thiết chế chính phủ và thậm chí với các thiết chế phi chính phủ. Ngay cả khi muốn giúp đỡ một ai đó, một người Nga trung bình thường quyên góp cho giáo xứ ở gần nhất hoặc cho ngay người họ hàng tương đối nghèo khó. Thái độ của người Nga đối với tổ chức từ thiện không tương thích với thái độ ở các nước giàu có nhất – các thảm họa động đất gần đây ở Haiti và phản ứng của người Nga để thể hiện rõ ràng tình trạng này.
Một làn sóng từ bi dâng lên khắp thế giới và người dân thuộc các dân tộc khác nhau quyên góp cho những tổ chức từ thiện khác nhau. Trong một chương trình từ thiện do đài truyền hình ZDF và báo Bild tổ chức, người Đức đã quyên được 20 triệu € (24,6 triệu USD). Người Thụy Điển chuyển 5 triệu € (6,1 triệu USD) viện trợ ngay trong những ngày đầu tiên sau khi xảy ra thảm họa. Không cần phải nói rằng Hoa Kỳ, nơi mà 90% dân số tham gia các tổ chức từ thiện, đứng đầu danh sách các nhà tài trợ. Ở cấp độ nhà nước, Nga cũng cấp khoảng 13 triệu € (16 triệu USD) thông qua Liên Hợp Quốc và đã gửi một bệnh viện di động và một nhóm các bác sĩ, nhưng khó có thể nói đây là kết quả của “tình thương vĩnh cửu của người Nga”, như Dostoevsky từng nói. Hầu hết người dân Nga tỏ ra thờ ơ trước các sáng kiến ​​của Hội Chữ thập đỏ Nga. Cuối tháng Một có tin nói rằng người Nga không có bất kì đóng góp cá nhân nào cho Haiti.
Tài sản tinh thần mới
Có lẽ tâm hồn Nga vẫn đang tìm kiếm chân lý và những giá trị vĩnh hằng, nhưng ngày nay điều đó đang chuyển thành chiến thắng của một nền văn hóa tiêu thụ ở những mức độ khác nhau – từ siêu giàu đến tầng lớp trung lưu cấp dưới. Câu nói nổi tiếng của Rene Descartes “Tôi tư duy, vậy là tôi tồn tại”, ngày hôm nay ở Nga có dễ dàng nhại thành “Tôi tiêu thụ, vậy là tôi tồn tại”, để thể hiện cái gọi là “tiêu thụ phô trương”.
Trở lại năm 2004, theo tổ chức Nghiên cứu Thị trường R-TGI thì hơn 57% người Nga nói rằng họ có đủ tiền không chỉ để chăm lo cho các nhu cầu thường nhật mà còn mua sắm cho vui. Người tiêu dùng khao khát đổ xô đến các trung tâm mua sắm và chuỗi cửa hàng với tốc độ tương đương với tốc độ mà những người xây dựng có thể xây dựng chúng. Từ năm 2000 đến năm 2007, nhu cầu tiêu dùng ở Nga đã tăng 20 đến 30% một năm. Mặc cho khủng hoảng kinh tế, trong hai năm vừa qua (2007-2008 – ND) 28% các gia đình đã vay để tiêu dùng, theo kết quả một cuộc thăm dò do Trung tâm Levada tiến hành năm 2009.
Nhưng các nhà tâm lý học nhìn hiện tượng sáng chói này từ một góc độ bất bình thường và chỉ ra mùi vị Nga của lễ hội tiêu dùng này: “Thậm chí các nhà phân tâm học phương Tây cũng khẳng định rằng đau khổ là một trong những qui tắc tâm lý của lối sống của người Nga, từ thời Dostoevsky và cả trước đó nữa. Nó nằm rất sâu, tận đáy tâm hồn họ. Do đó, ngay cả nền văn hóa tiêu dùng, tức là nền văn hóa đang tìm cách đưa vào thiên hướng sống và niềm vui, đôi khi trông vẫn như một chú hề buồn”, Makhovskaya nhận định. Trung tâm Levada còn thực hiện một cuộc khảo sát đặc biệt trong những người Nga giàu có ở đô thị, đại diện cho giai cấp trung lưu lớp trên. “Có tới 60 đến 70% số người được hỏi tin rằng ở Nga, họ có thể mất tất cả mọi thứ vì những lý do khác nhau, và không coi địa vị của họ là ổn định. Họ không chắc chắn rằng con cái họ sẽ có thể kế thừa tài sản của họ. Đây là lý do chính để người ta tiêu tất cả mọi thứ ngay hôm nay và nhận bất cứ thứ gì mà số tiền hiện có có thể mua”, Dubin cho biết.
Rèn đúc giới trẻ
Đối với những người quyết liệt ủng hộ chủ nghĩa tư bản, công việc và sự nghiệp vẫn là điểm tham chiếu chính trong cuộc đời. Đối với đa số người Nga ở độ tuổi 18 đến 25, mục tiêu chính là thực hiện khát vọng có một cuộc sống thịnh vượng và noi theo các khuôn mẫu thành công xã hội đã được mọi người công nhận. Điều này thường được gọi là “cuộc khủng hoảng bản sắc” chứ không phải là trở lại truyền thống dân tộc hay các khuôn mẫu cổ xưa. “Giới trẻ là những người thực dụng (pragmatic) nhưng đồng thời lại tỏ ra khá lo lắng và dễ ngả theo người khác (conformism). Họ sống bằng những nhu cầu hàng ngày chứ không phải bằng những ý tưởng hay niềm tin lớn. Họ đánh giá giáo dục chủ yếu là theo số tiền lãi mà nó có thể mang về. Họ là những người rất cá nhân chủ nghĩa và điều này xác định lối sống của họ. Đó là một loại ý thức ngắn hạn và tính cách khá nông cạn. Trước đây cái này được gọi là người tầm thường”, Mahovskaya nhận định.
Đa số thanh niên, thành phần năng động nhất của xã hội, hiểu quyền tự do mới giành được không phải như cơ hội để xây dựng một xã hội dân sự, mà chủ yếu như cơ hội có cuộc sống an toàn và tiêu thụ nhiều nhất có thể. “Cho đến thời gian gần đây, đa số thanh niên Nga là những người rất dễ ngả theo người khác (conformist), họ không có văn hóa phản kháng (counterculture), tức là văn hóa có thể chống cự lại chủ nghĩa tiêu thụ. Tất cả mọi người, trong đó có thanh niên, đang tranh đấu để có thể tiếp cận thị trường hàng hóa tiêu dùng. Nhưng thời gian thật gần đây, chúng ta đã thấy có sự thay đổi dần dần,” Karin Kleman, một nhà xã hội học người Pháp, từng nghiên cứu nền văn hóa của giới trẻ Nga cho biết.
Cho đến nay ở Nga chẳng có mấy không gian cho phong trào chống toàn cầu hóa, cho các nhóm tiêu dùng đề cao đạo đức hay các nhóm thanh niên thân thiện với môi trường – những hiện tượng phổ biến trong giới trẻ ở phương Tây. Các nhà xã hội học cũng lưu ý một đặc điểm khác của thế hệ trẻ Nga, những người chưa từng sống ở Liên Xô. Khác với những bộ phận dân cư khác, thanh niên Nga cởi mở với việc liên kết xã hội, họ là những người có tư tưởng quốc tế hơn – nhưng chỉ trong trường hợp tình hình ổn định. Nếu có chuyện bất thường, cơ chế bù đắp (compensatory mechanism), tức cái cơ chế biện minh cho “con đường đặc thù của Nga” sẽ vận hành ngay cả đối với thanh niên. “Tuy hấp thu chủ yếu văn hóa và sản phẩm phương Tây, nhưng khi cần lựa chọn, thanh niên sẽ áp dụng tiêu chuẩn và khuôn mẫu ​​của đa số. Trong một tình huống rất đơn giản, khi một đội bóng Nga thắng hay thua trong một cuộc thi đấu thể thao, thanh niên lập tức trở thành những người bất dung hoặc thậm chí bài ngoại như tất cả những người khác. Đa số chia sẻ quan điểm về tính cách đặc biệt của nước Nga và người Nga, và đa số có thái độ thù địch đối với thế giới bên ngoài”, Dubin cho biết.
Nhưng thay đổi đang diễn ra, dù có chậm. Trong 3-4 năm qua, cuối cùng, các nhà xã hội học cũng đã bắt đầu nói về một văn hóa độc lập của giới trẻ ở Nga. “Điều đó phát triển chủ yếu, nhưng không phải là tuyệt đối, trên Internet mà năm 2008 có đến một phần ba dân số sử dụng, đó là nơi mà nền văn hóa đang vươn lên này có những hình thức phong phú”, Alexei Levinson, người đứng đầu Phòng Nghiên cứu Xã hội tại Trung tâm Levada nhận định.
NguồnElena Rubinova, “Evolution of the Homo Sovieticus“, Russia Profile 07/08/2010

Bản tiếng Việt © 2014 Phạm Nguyên Trường & pro&contra

BÍ ẨN TÂM HỒN NGA (BÀI 1)

BÍ ẨN TÂM HỒN NGA (BÀI 1)

Theo pro&contra

Tháng 3 28, 2014
Phạm Nguyên Trường dịch

Trên tờ báo mạng viết bằng tiếng Anh Russia Profile cách đây 4 năm xuất hiện một bản báo cáo đặc biệt về quan niệm hiện đại về “Tâm hồn Nga”. Trong 15 bài báo, các tác giả là người Nga và người nước ngoài đã phân tích, từ nhận thức đương đại, quan điểm đã tồn tại gần 150 năm của những người cầm bút viết về nước Nga. Những phân tích này có thể giúp chúng ta hiểu sâu hơn các diễn biến đang diễn ra trong sự kiện được gọi là “Khủng hoảng Krym” và tình thế đầy nguy cơ leo thang trong quan hệ giữa Nga và các nước phương Tây, đặc biệt là Mỹ, với Ukraine là sân khấu chính trị. Người dịch sẽ lần lượt giới thiệu bản báo cáo này.
Người dịch
_________
Các chuyên gia phá hoại
Các cuộc cách mạng đã bộc lộ tính cách châu Á trong tâm hồn Nga.
Các nhà cách mạng Nga là những người tài năng, những người được thúc đẩy bởi tình cảm bài phương Tây suốt nhiều thế kỉ và không có khả năng thành công trong xã hội ổn định.
Tính chất của cách mạng Nga được ghi nhận và nổi tiếng khắp thế giới vì một số người trong những nhân vật nổi tiếng nhất của lịch sử nước Nga, ít nhất là ở một số giai đoạn của cuộc đời họ, là những nhà cách mạng. Vladimir Lenin[1] và Joseph Stalin[2] là những nhà cách mạng chuyên nghiệp, đã chọn sự nghiệp của người làm loạn chuyên nghiệp ngay từ những năm đầu đời. Alexander Herzen[3], Pyotr Kropotkin[4] và Mikhail Bakunin[5], khác với Lenin và Stalin, chưa bao giờ nắm được quyền lực chính trị, nhưng tính cách cá nhân đầy ấn tượng của họ, cũng như phạm vi và sự dũng cảm của tư duy chính trị và triết học của họ, đã làm cho các nhà tư tưởng phương Tây phải ngạc nhiên. Từ Albert Camus[6] đến Tom Stoppard[7], những kịch tác gia Tây Âu đã biến các nhà cách mạng Nga thành các nhân vật trung tâm trong các vở kịch của họ, đều tập trung vào hai đặc điểm chính của các nhà cách mạng Nga – theo đuổi các kế hoạch phần lớn là không tưởng và sử dụng một cách bừa bãi những phương tiện có tính đạo đức và (thường xuyên hơn) là các phương tiện phi đạo đức để thực hiện những kế hoạch không tưởng mà họ ấp ủ. Cách hành xử như thế của các nhà cách mạng, hình thành ở Nga vào giữa thế kỷ XIX, hóa ra là khá vững chắc và có tính phổ quát. Hiện nay cách hành xử như thế vẫn còn tiếp tục không chỉ ở Nga mà còn ở các nơi khác trên thế giới, từ Trung Quốc tới Venezuela.
Hủy diệt là mục đích tự thân
Hai nhân vật khác, không nổi tiếng bằng Lenin hay Stalin, và nhiều người – do những tai tiếng mà họ tự chuốc vào cho mình – sẽ muốn coi họ là những tên tội phạm bình thường chứ không phải là những người hoạt động chính trị. Nhưng, nhà cách mạng triệt để Sergei Nechayev[8]sống vào thế kỉ XIX và Shamil Basayev[9], một người li khai Chechnya vừa mới qua đời lại tự coi mình là những nhà cách mạng, cách mạng hơn cả Lenin và Stalin. Họ đã rất kiên định trong việc theo đuổi sự hủy diệt đến mức mà đối với họ, ngay cả những người tiến hành cuộc Cách mạng Nga năm 1917 cũng chỉ là những kẻ “lệch lạc” yếu đuối mà thôi.
Nechayev và Basayev tạo điều kiện cho chúng ta nghiên cứu hiện tượng cách mạng Nga vì cả hai đều là những nhà cách mạng “tinh khiết”, họ dành cả cuộc đời cho niềm đam mê này và không bao giờ thỏa mãn với số mức độ hủy diệt mà họ đã đạt được. Nechayev là thủ phạm của một trong những vụ ám sát chính trị tàn bạo nhất thế kỉ XIX ở Nga, và chỉ vì tình cờ mà ông ta không thực hiện được thêm những tội ác tương tự. Có lẽ chúng ta sẽ chẳng bao giờ biết được số nạn nhân của những cuộc tấn công khủng bố của Basayev, vì ông ta nhận trách nhiệm về những vụ bắt cóc con tin đẫm máu nhất trong lịch sử – chiếm bệnh viện ở Budyonnovsk năm 1995, chiếm nhà hát trên phố Dubrovka ở Moskva năm 2002, và chiếm trường học ở Beslan năm 2004.
Bài Âu
Việc Basayev là người dân tộc Chechnya và tuyên bố là người Hồi giáo dù sao cũng không làm suy yếu vị thế của ông ta như là một nhà cách mạng Nga, đấy không chỉ vì Basayev đã rời Chechnya khi mới tuổi 17 và sống nhiều năm ở Moskva và các thành phố khác của Nga. Và không chỉ vì ông ta tự coi mình là một nhà cách mạng kể từ hành động khủng bố đầu tiên vào năm 1991 – cướp một chiếc máy bay để phản đối những nỗ lực của chính phủ Nga nhằm chấm dứt tình trạng bất ổn tại Chechnya. Ông ta cũng giải thích tội ác khủng khiếp nhất của mình – cuộc tấn công khủng bố vào Dagestan năm 1999 – là muốn “phát động” cuộc cách mạng Hồi giáo ở Nga. Việc những người thiểu số tôn giáo và các sắc tộc thiểu số thường là đội tiên phong của cách mạng Nga, ít nhất là từ giữa thế kỉ XVII, đã đẩy Basayev vào hàng ngũ những người cách mạng Nga.
Yemelyan Pugachev[10], lãnh đạo của cuộc khởi nghĩa lớn nhất của nông dân Nga chống lại Nữ hoàng Catherina II – cho đến khi bị hành hình năm 1775 – đã dựa vào người Hồi giáo và người Công giáo chống cải cách[11]. Điều thú vị cần ghi nhận là những người không có cảm tình với Nữ hoàng Catherina II ở Tây Âu đã đặt hy vọng lớn vào thành công của Pugachev, mặc dù kẻ mạo danh này, tức là kẻ tuyên bố là “chồng” Catherina đã lập kế hoạch sau khi chiếm được chính quyền ở St Petersburg thì sẽ quay sang chống lại những kẻ “đồi bại” theo Tin lành và Công giáo ở phương Tây.
Sự trớ trêu của câu chuyện này sẽ còn lặp lại nhiều lần trong tương lai. Các nhà cách mạng Nga, từ những người lưu vong bất đồng chính kiến như Nechayev và Lenin đến “người báo thù cho dân tộc, đầy lãng mạn” như Basayev, thường được phương Tây thông cảm, thậm chí là hỗ trợ trực tiếp nữa, nhưng khi giành được chính quyền chắc chắn là họ sẽ có những quan điểm bài phương Tây. Ngay sau khi trở thành “Thủ tướng” của nước Chechnya độc lập vào năm 1996, Basayev đã bắt đầu có những phát biểu bài phương Tây cay độc và làm ngơ trước những vụ bắt cóc các nhà báo phương Tây. Đấy cũng thường là những nhà báo mà ông nuông chiều và bảo vệ khi còn là phát ngôn viên của Chechnya trong cuộc chiến tranh từ năm 1994 đến năm 1996 và khuyến khích họ viết những câu chuyện gây hoang mang về hành vi của quân đội Nga.
Và đây chỉ là một trong nhiều ví dụ như thế. Sau khi lên nắm chính quyền ở Nga vào năm 1917, Lenin đã bắt đầu cung cấp tài chính và vũ khí cho các tổ chức lật đổ ở chính nước Đức, đất nước đã giúp ông trở về Petrograd vào tháng Tư năm 1917 và đã coi ông như một công cụ hữu ích trong việc lật đổ chế độ Sa hoàng. Stalin, từng là đại biểu tại Hội nghị London của phái Bolshevist vào năm 1905, và đã được hưởng chế độ miễn thị thực đang có hiệu lực trên toàn châu Âu lúc đó, trong đó có cả Nga, sau khi nắm quyền liền tách Nga ra khỏi phương Tây bằng một bức màn sắt mà ngay cả một người ủng hộ chủ nghĩa biệt lập thời Trung cổ là Ivan Khủng khiếp[12] cũng không thể tưởng tượng nổi.
Tính chất bài phương Tây của các chế độ được lập nên sau cách mạng đã chứng tỏ rằng bản chất bài phương Tây của các cuộc cách mạng Nga là một hiện tượng xã hội. Mặc cho những diễn ngôn hoa mĩ ban đầu có vẻ “tiến bộ” của họ (những diễn ngôn hoa mĩ này thường dùng để chống lại các chế độ chuyên chế ở Nga, nhưng lại giành được cảm tình của phương Tây), các cuộc cách mạng ở Nga có xu hướng trở thành phản động vì chúng đẩy đất nước thụt lùi và tách nó với phần còn lại của châu Âu. Nhiều nhà sử học tin – mà có cơ sở – rằng các cuộc cách mạng cho thấy thành tố châu Á trong tâm hồn Nga.
Cách mạng tháng Hai năm 1917 và sự sụp đổ của chế độ Xô-viết năm 1991 không phải là một cuộc cách mạng theo nghĩa cổ điển của Nga, vì đấy là những “cuộc cách mạng từ bên trên” – đấy là những âm mưu giành được thắng lợi ngay trong các nhóm cầm quyền, họ đã lợi dụng sự phản đối của đám dân chúng bị bần cùng hóa nhằm gỡ bỏ sự kiểm soát của chế độ cũ đang đè lên vai những người đại diện trẻ hơn của giới tinh hoa của chính chế độ. Trong những cuộc cách mạng “thực sự” (“cách mạng từ bên dưới”, nơi mà quần chúng có vai trò tích cực) mô hình đầy bất hạnh như thế liên tục xuất hiện. Ngay sau khi các chế độ chuyên chế đáng ghét buông lỏng quyền lực, các thành phần cấp tiến nhất và thường có thái độ bài phương Tây liền tìm cách thoát khỏi những người có tư tưởng tự do “mềm yếu” trong nội bộ phong trào, rồi thiết lập chế độ khủng bố, đầu tiên là trong đảng của họ và – nếu thành công – thì trong cả nước.
Những tham vọng không có tương lai
Sergei Nechayev (sinh năm 1847, mất năm 1882) là một ví dụ điển hình về cách hành xử của các nhà cách mạng Nga vừa được nói tới bên trên, và đây là một phần của lý do vì sao nhà văn nổi tiếng người Nga Fyodor Dostoevsky, vốn cũng là một nhà cách mạng, đã dùng Nechayev làm nguyên mẫu cho một trong những nhân vật trong cuốn tiểu thuyết Lũ người quỷ ám  có tính chất phản cách mạng của ông. Sinh ra trong một gia đình có thu nhập khiêm tốn, mẹ là một người nông dân chất phác, Nechayev là một thanh niên tài năng và đầy tham vọng, nhưng trật tự chính trị hiện hành chỉ dành cho tham vọng của ông một ít cơ hội mà thôi. Ở tuổi 21-22, sau khi chuyển sang những tư tưởng mang tính cách mạng triệt để nhất, ông ta đã cho thấy một tài năng tổ chức và lãnh đạo tuyệt vời. Việc ở tuổi 31, ông ta đã có thể truyền những quan điểm cách mạng của mình cho cả những cai ngục của nhà tù tối mật ở St Petersburg, nơi ông ta bị buộc phải sống mười năm trong cuộc đời ngắn ngủi của mình vì tội giết người, chứng tỏ khả năng thuyết phục phi thường của ông ta. Kế hoạch vượt ngục của Nechayev với sự giúp đỡ của những cai ngục đã được ông “cải hóa” thất bại chỉ vì một trong những kẻ đã “cải hóa” báo cáo với cấp trên.
Các nhà sử học cũng đồng ý rằng Lenin cũng có khả năng thuyết phục phi thường. Tương tự như Nechayev – trong những cuộc trò chuyện riêng tư sau này, Lenin thường có những nhận xét tích cực về Nechayev – Lenin đã quyết định sống cuộc đời của một nhà cách mạng chuyên nghiệp ngay từ khi mới 20 tuổi. Vì sao ở Nga những người tài năng như vậy thường trở thành các nhà cách mạng?
Câu trả lời thật đơn giản: không có cơ hội phát triển sự nghiệp và không thể có một đời sống thịnh vượng trong cấu trúc xã hội đã ổn định. “Những người như Nechayev, một giáo viên trong trường Công giáo với một nền học vấn không đầy đủ, một trợ lí luật sư tỉnh lẻ như Vladimir Ulyanov (tên thật của Lenin) hoặc một người viết văn tầm thường như Viktor Chernov (nhà lãnh đạo tương lai của Đảng Cách mạng Xã hội Chủ nghĩa Nga) – ở nước Nga Sa hoàng, những người này có thể hi vọng có một sự nghiệp nghiêm túc hay không?”- Felix Lourie, người viết tiểu sử Nechayev và cũng là một nhà sử học chuyên về lịch sử cách mạng Nga sống ở St Petersburg, đặt câu hỏi như thế ngay trên trang đầu tác phẩm của mình. Lourie đưa ra câu trả lời tiêu cực. “Họ nhồi nhét vào đầu óc mình rằng phải làm một cuộc cách mạng của riêng mình thì họ mới có thể bước lên những đỉnh cao của quyền lực, và họ không chấp nhận bất cứ thứ gì kém hơn. Tư tưởng đơn giản này nuôi dưỡng khát vọng một cuộc cách mạng nhanh chóng, làm bùng lên trong họ sự nôn nóng và thái độ bất dung.”
Cho đến năm 20 tuổi, Nechayev chỉ là một kẻ mới nổi trung bình (Nechayev sinh ở Ivanovo,  một tỉnh nằm ở trung tâm nước Nga). Ở tuổi thanh niên, ông ta đã đến Moskva và St Petersburg để thi vào đại học. Thi trượt, ông phải làm giáo viên thần học tại một trường Công giáo và kiếm thêm bằng những buổi dạy ở nhà. Bài giảng tại các trường đại học mà ông ta tham gia trên cơ sở tự nguyện không làm ông ta thỏa mãn, vì nền giáo dục đại học chỉ cho phép người ta vượt qua hai nấc đầu tiên trong 14 nấc thuộc hệ thống thang bậc hành chính cấp cao mà Peter Đại đế thiết lập và mãi cho đến cách mạng năm 1917 vẫn không hề thay đổi. Vì vậy, thay vì trở thành một nhà khoa học, Nechayev nuôi lòng thù hận mạnh mẽ đối với lũ trí thức “vô dụng”, lòng thù hận mà Lenin, trẻ hơn Nechayev 23 tuổi, sẽ thừa kế một phần. Trong một lá thư, Lenin tuyên bố rằng giới trí thức Nga “là cặn bã của dân tộc”, và điều đó cho thấy chiều sâu thực sự của sự khinh bỉ kiến thức của ông ta, tức là khinh bỉ cái kiến thức không thể được sử dụng vào thực tế cách mạng hay tệ hơn, có thể dùng để chống lại cách mạng.
Giết là sự ràng buộc
Năm 1868 Nechayev tham gia vào một cuộc bạo loạn của sinh viên và làm quen với Pyotr Tkachyov[13], một trong những nhà lãnh đạo của phong trào cách mạng gọi là “Narodniki” (“Người Chiến sĩ của Nhân dân”), tức là phong trào ủng hộ cuộc cách mạng do nông dân lãnh đạo và không ghê tay khi thực hiện những hành động khủng bố chống lại các quan chức của chế độ Sa hoàng. Năm 1869, Nechayev đã sống vài tháng ở London và Geneva, tại đây ông đã gặp những nhân vật huyền thoại thuộc giới lưu vong chính trị Nga – đấy là Mikhail Bakunin, một người “vô chính phủ” và Alexander Herzen, một nhà “dân chủ tự do”. Trong nhiều năm, nếu không nói là nhiều thế kỷ, địa chỉ của giới kiều dân cấp tiến Nga vẫn là Anh, Thụy Sĩ và Pháp.
Nhưng, Nechayev còn đi xa hơn những gì mà những người lưu vong cấp tiến nhất có thể hình dung. Trên thực tế, Nechayev đã đưa ý tưởng của họ đến kết luận hợp với logic của chúng, đấy là khi ông ta nói rằng cách mạng biện minh cho tất cả mọi thứ, trong đó có những vụ giết người, cả kẻ áp bức lẫn người bị áp bức. Ông ta tóm tắt quan điểm của mình trong cuốn Sách giáo lý của một nhà cách mạng, một bản tuyên bố cương lĩnh được xuất bản có vài cuốn tại Nhà xuất bản Geneva (Geneva Publishing House), do một người lưu vong Ba Lan tên là Ludwig Czernecki làm chủ, và bằng cách đó đã tạo ra một liên minh tội lỗi giữa những kẻ chống chính phủ cực đoan người Nga và người Ba Lan. Liên minh này tồn tại suốt mấy thập kỷ, và đã tự thể hiện mình, ví dụ như trong vụ ám sát một ông vua có tư tưởng tự do là Sa hoàng Alexander II, do hai kẻ khủng bố, một người Nga và một người Ba Lan, thực hiện.
“Nhà cách mạng là người chắc chắn sẽ bị diệt vong,” Nechayev tuyên bố như thế. “Anh ta cắt đứt mọi liên hệ với trật tự dân sự và với môi trường có giáo dục, với luật pháp, với sự tử tế, với những điều kiện và đạo đức được mọi người chấp nhận. Nhà cách mạng là kẻ thù tàn nhẫn của thế giới này, và nếu nhà cách mạng tiếp tục sống trong thế giới này thì chỉ vì muốn hủy diệt nó một cách chắc chắn hơn … Nhà cách mạng chỉ biết một khoa học – khoa học của sự hủy diệt… Nhà cách mạng khinh thường dư luận. Anh ta coi khinh và căm thù đạo đức của xã hội hiện thời. Đối với anh ta, chỉ có những thứ có ích cho chiến thắng cuối cùng của cuộc cách mạng mới là đạo đức mà thôi.”
Nechayev không sống để thực hiện trọn vẹn các nguyên tắc của “giáo lý” của mình. Năm 1869, sau khi trở về từ Thụy Sĩ, lần đầu tiên ông ta không thực hiện được “đạo đức cách mạng” của mình. Nhằm gắn kết các thành viên của nhóm sinh viên cách mạng của mình bằng  máu, ông ta đã tổ chức cho cả nhóm giết một trong các thành viên của nhóm là Ivan Ivanov. Tội lỗi của anh sinh viên này là không chịu dán truyền đơn chống chính phủ trong quán cà phê sinh viên. Mục đích là khiêu khích cảnh sát, để cảnh sát ra tay đối với sinh viên, mà theo kế hoạch của Nechayev thì sẽ làm cho số sinh viên bất mãn gia tăng và bằng cách đó sẽ làm cho chế độ Sa hoàng cáo chung sớm hơn. Ivanov đã từ chối, điều này dẫn Nechayev đến ý định loại bỏ anh ta bằng biện pháp bẩn thỉu nhất, đấy nói chung là đặc điểm của Nechayev và các nhà cách mạng khác của Nga trong tương lai. Đầu tiên, Nechayev vu khống Ivanov, ông ta nói với các thành viên của nhóm rằng Ivanov đã lập kế hoạch báo cáo cho cảnh sát biết. Sau đó ông thuyết phục mọi người rằng cách duy nhất để tránh bị bắt là cả nhóm cùng giết “tên phản bội”. Ivanov đã bị Nechayev và bốn sinh viên khác giết một cách tàn bạo vào tháng 11 năm 1869 trong khu vực vắng vẻ tại công viên của Viện Hàn lâm Nông nghiệp Moskva. Nechayev làm cho tất cả những những người có mặt trở thành đồng phạm của vụ giết người, nhưng chính ông ta đã bắn phát súng cuối cùng vào đầu Ivanov.
Những kẻ giết người đã giấu xác một cách cẩu thả và vụ giết người được được cảnh sát Moskva giải quyết một cách nhanh chóng. Các thành viên của nhóm bị bắt giữ, nhưng Nechayev đã tìm cách trốn được sang Thụy Sĩ, chính phủ Thụy Sĩ từ chối dẫn độ, vì cho rằng ở Nga ông ta sẽ không được xét xử một cách công bằng. Nhưng, năm 1872, cảnh sát mật của Nga tổ chức bắt giữ Nechayev ở Zürich. Kiều dân Nga và một số người khác – mà gọi theo lối bây giờ là những nhà hoạt động nhân quyền – tổ chức các vụ phản đối. Phải vượt qua những khó khăn rất lớn và sau khi đẩy lui được những nỗ lực nhằm giải thoát cho ông ta, các nhà tình báo Nga mới đưa được Nechayev về đến Moskva và sau đó là đưa ra tòa. Ông ta bị kết án 20 năm lao động khổ sai. Nhưng ông ta chỉ bị ngồi tù có mười năm. Sau vụ vượt ngục thất bại, dẫn đến việc bắt giữ 34 cai ngục và vụ ám sát Sa hoàng Alexander II do những “Narodniki” thực hiện vào năm 1881, Nechayev bị canh phòng còn chặt chẽ hơn trước đây. “Tất cả các khoản dự trữ trong cơ thể ông đã cạn kiệt”, Lourie viết như thế. Năm 1882 Nechayev chết vì bệnh hoại huyết.
Càng xấu thì càng tốt
Trong khi có sự khác nhau về hình thức, các nhà cách mạng Nga lại thống nhất với nhau bằng công thức “càng xấu thì càng tốt.” Không những không chiến đấu chống lại những hiện tượng bất công mà họ thường tìm cách níu giữ chúng, nhằm làm cho trật tự xã hội “phản động” nhanh chóng sụp đổ. Nechayev cố tình gửi những bức thư phản đối Nga hoàng cho một số người theo phái tự do, mặc dù ông ta biết rằng cảnh sát sẽ đọc những lá thư này và sẽ gây ra rắc rối cho người nhận và bằng cách đó làm cho số người ủng hộ cách mạng tăng lên. Basayev cũng tìm cách khiêu kích quân đội Nga để họ phản ứng lại hành động của ông ta, làm cho người dân Chechnya bị đau khổ nhiều hơn và trở thành kẻ thù không đội trời chung với nhà nước Nga – và trở thành những người ủng hộ trung thành hơn với mình.
Cuộc tấn công của Basayev vào Dagestan, tháng 8 năm 1999, dường như không có ý nghĩa gì, đấy là nếu nhìn từ quan điểm lợi ích dân tộc của Chechnya. Trước đó không lâu, tức là vào năm 1996, quân ly khai Chechnya mới chiến đấu nhằm giành độc lập trên thực tế từ tay nước Nga. Tại sao lại khiêu khích Nga để họ lao vào cuộc tấn công mới, còn tồi tệ hơn so với cuộc tấn công mà Chechnya đã phải đương đầu trong những năm 1994-1996? Ngoài ra, Dagestan là đất nước của những người đồng đạo Hồi giáo, họ sẽ là những người đầu tiên bị đau khổ vì cuộc tấn công của quân Chechnya. Từ quan điểm của một người có lí trí bình thường thì cuộc tấn công này hoàn toàn không có ý nghĩa gì. Nhưng từ một quan điểm cách mạng thì có. Vòng xoáy mới của bạo lực sẽ làm cho nhiều người Chechnya và Dagestan trở thành cực đoan, tạo điều kiện cho Basayev gia tăng số “binh sĩ” tham gia vào những vụ khủng bố tàn độc ở Dubrovka và Beslan. Thời gian hòa bình ở Chechnya cho thấy sự bất tài toàn diện của Basayev trên cương vị “Thủ tướng” của Chechnya, một cương vị mà ông ta chính thức nắm giữ dưới thời “Tổng thống” Aslan Maskhadov. Cả Basayev lẫn Maskhadov đều chứng tỏ rằng họ là những nhà cách mạng tốt nhưng quản lý kinh tế thì kém hơn hẳn – một mẫu người mà Lourie là người đầu tiên phát hiện: “Các nhà cách mạng Nga ghét những cuộc cải cách bộ máy nhà nước và nền kinh tế một cách chậm rãi và bình tĩnh, bởi vì quá trình này không dành cho họ chỗ đứng trong hệ thống hành chính của nhà nước Nga”, Lourie viết trong cuốn tiểu sử Nechayev xuất bản năm 2004 như thế. “Lo sợ trước bản hiến pháp đã được chuẩn bị, các nhà lãnh đạo của phong trào ‘Ý Dân’ vội vã ám sát một ông vua có tư tưởng tự do là Sa hoàng Alexander II. Bản hiến pháp do Sa hoàng ban hành chắc chắn sẽ hạ nhiệt các hoạt động cách mạng. Hệt như vậy, Lenin vội vã làm cuộc đảo chính ở Cung điện Mùa Đông năm 1917, trước khi Hội nghị của Quốc hội Lập hiến khai mạc có mấy tuần. Sự cải thiện điều kiện sống của nhân dân làm cho các nhà cách mạng sợ hãi vì nó có thể biến họ thành những người thất nghiệp.”
Khuôn mẫu ứng xử như thế lí giải hành động của nhiều nhà cách mạng thời hiện đại của Nga, từ Basayev đến nhà văn Eduard Limonov[14]. Khiêu khích nhà nước để nhà nước đáp trả bằng bạo lực và nếu cần thì khiêu khích nữa – đó là chiến thuật mà ít khi họ thất bại. Nó cũng luôn luôn mang đến cho họ những người ủng hộ mới trong số các nhà báo cao quý của phương Tây. Nhưng điều mà nhà cách mạng Nga không bao giờ đạt được – đấy là làm người dân hạnh phúc. Hạnh phúc là hiện tượng không tương thích với cách mạng Nga; đối với các nhà cách mạng Nga, hạnh phúc cũng là một thứ tình cảm tư sản.
___________
Dmitry Babich là nhà báo, đã làm việc cho các tờ Komsomolskaya PravdaMoscow News, cho truyền hình, Đài tiếng nói Nga và trangRussia Profile.
Nguồn: Dmitry Babich – “The Engineers of Destruction“, Russia Profile07/7/2010
Bản tiếng Việt © 2014 Phạm Nguyên Trường & pro&contra


[1] Vladimir Lenin (1870-1924), là người tổ chức Đảng Cộng sản Liên Xô và nhà nước Xô Viết, được coi là một trong mười nhà độc tài khét tiếng nhất thế kỉ XX. (Các chú thích trong bài đều của người dịch.)
[2] Joseph Stalin (1878-1953) là Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô từ năm 1953 đến khi chết, từ năm 1941 là Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô. Joseph Stalin được coi là một trong mười nhà độc tài khét tiếng nhất của thế kỉ XX.
[3] Alexander Herzen (1812-1870), nhà báo, nhà văn và nhà triết học nổi tiếng người Nga.
[4] Pyotr Kropotkin (1842-1921), nhà sử học, nhà địa chất học, nhà phê bình văn học và nhà cách mạng Nga, một lí thuyết gia nổi bật về chủ nghĩa vô chính phủ.
[5] Mikhail Bakunin (1814-1876), một nhà tư tưởng và cách mạng Nga, theo đường lối Đại Slav, một người vô chính phủ, một trong những tư tưởng gia của phong trào Narodniki, đối thủ tư tưởng của Karl Marx.
[6] Albert Camus (1913-1960), nhà văn, triết gia nổi tiếng người Pháp. Cùng với Jean-Paul Sartre, Albert Camus là đại diện tiêu biểu nhất của chủ nghĩa hiện sinh, được Giải Nobel Văn học năm 1957.
[7] Sir Tom Stoppard (1937 – ), kịch tác gia người Anh gốc Czech.
[8] Sergei Nechayev (1847-1982), nhà cách mạng Nga thế kỉ XIX, một trong những dại diện đầu tiên của chủ nghĩa khủng bố của cách mạng Nga.
[9] Shamil Basayev (1965-2006), thành viên tích cực của lực lượng khủng bố đòi tách Chechnya ra khỏi Liên bang Nga.
[10] Yemelyan Pugachev(1742 – 1775), một người kazak vùng sông Đông, lãnh đạo cuộc chiến tranh nông dân ở Nga từ năm 1773 đến 1775.
[11] Cuộc cải cách Công giáo trong giai đoạn 1650-1661
[12] Ivan Khủng khiếp (1530-1584), Sa hoàng toàn Nga đầu tiên, từ năm 1547 (còn được dịch là Ivan Bạo chúa)
[13] Pyotr Tkachyov (1844-1886), nhà phê bình văn học và nhà báo. Tư tưởng gia của phong trào Narodniki.

[14] Eduard Limonov (1943), một trong những nhà văn Nga hiện đại gây nhiều tranh cãi nhất, từng lưu vong ở phương Tây đồng thời kịch liệt bài Mỹ và chống chủ nghĩa tư bản; từng tham gia những hoạt động chính trị cánh tả cực đoan rồi chuyển sang cánh hữu cực đoan; sáng lập Đảng Bolshevist Quốc gia Nga và tuyên truyền tư tưởng Đại Nga; gần đây nhất bị phạt tù 15 ngày khi tham gia biểu tình chống Putin năm 2010. Tác phẩm nổi tiếng nhất: It’s Me, Eddie (1976).

5/4/14

Dầu Khí Âu-Mỹ và Ống Dẫn Khí Nối Ruột Nga-Hoa


  Saturday, April 5, 2014

Dầu Khí Âu-Mỹ và Ống Dẫn Khí Nối Ruột Nga-Hoa



Nguyễn-Xuân Nghĩa - Việt Báo Ngày 140404

Chuyện Dầu Khí - Thổi Từ Ukraine Qua Đông Hải


 * Ống dẫn Nga Hoa, dự án trên mạn Bắc * 


Việc Vladimir Putin thôn tính bán đảo Crimea của Ukraine xảy ra khi kinh tế Liên bang Nga tăng trưởng chậm hơn – bị suy trầm – và có thễ dẫn tới suy thoái, là không tăng trưởng dù chậm mà còn tụt xuống số âm. Nhìn trong một viễn cảnh dài, vụ khủng hoảng Ukraine còn đánh dấu một chuyện động lớn lao hơn vậy, đó là vai trò mới của năng lượng, khi cuộc cách mạng về dầu thô và khí đốt tại Hoa Kỳ sẽ làm thay đổi tương quan kinh tế giữc các khu vực của toàn cầu.

Chúng ta hãy cùng nhìn lại....

Bài học thường thức về địa dư chính trị và an ninh kinh tế cứ hay được tóm lược như sau, đôi khi để giải thích sự tranh chấp hay chinh chiến từ hơn nửa thế kỷ vừa qua:

Thế giới có hai nhu vực sản xuất nhiều năng lượng dầu khí nhất, đó là Trung Đông và nước Nga. Và có hai khu vực tiêu thụ mạnh nhất, ở quanh Ấn Độ dương và Đông Á. Nơi tiêu thụ bao trùm lên một xứ đông dân và mới ni63i là Ấn Độ, trải qua các nước đang phát triển tại Đông Nam Á, tới Trung Quốc vừa cải cách và lên vùng Đông Bắc Á của các nước đã công nghiệp hoá mà không có dầu khí: Nhật Bản, Nam Hàn và cũng nên kể thêm Đài Loan.

Vì dầu khí, xin gọi chung là năng lượng không tái tạo, là nhiên liệu cần thiết cho công nghiệp cho nên chuyện cung cầu đã trở thành định luật chi phối quan hệ giữa các khu vực và các nước, giữa nguồn sản xuất và nơi tiêu thụ. Các nước liên kết hoặc cạnh tranh với nhau không chỉ vì y thức hệ hay tư tưởng mà còn vì nguyên liệu tối cần thiết cho kinh tế.

Trong khung ảnh đó, thế giới có "Lục địa già" là Âu Châu và siêu cường mới nổi từ trăm năm thì nghe nói là đã bắt đầu lụn bại, là Hoa Kỳ. Cả Âu Châu lẫn Hoa Kỳ đều cần năng lượng và từ bốn chục năm trước, người ta đã báo động cái ngày cạn dầu khí, peak oil khiến các nước bán dầu có thể chi phối được thế giới.

Nói về "Thế giới già", the Old World, sau nhiều thế kỷ tung hoành tứ phương để tìm nguyên nhiên vật liệu rồi giết nhau bao lần, ngày nay Âu Châu đã an phận thủ thường. Các nước trong khu vực tìm cách dung hòa với Trung Đông cùng nước Nga, để có nhiên liệu sưởi ấm tuổi già.

Còn Hoa Kỳ thì vì sợ cạn dầu và mất an toàn về năng lượng nên đòi gây chiến khắp nơi để xài dầu của xứ khác. Gần đây nhất là vụ tấn công Iraq năm 2003 "chỉ để tìm dầu", như nhiều nơi kết án! Vì đi trước, Hoa Kỳ còn sợ ô nhiễm môi sinh nên muốn làm cuộc cách mạng năng lượng xanh. Hạn chế khí thải rồi bắt gió hay nhốt ánh sáng mặt trời để có năng lượng sạch và tái tạo là chủ trương của Chính quyền Barack Obama với sự cổ võ của đảng Dân Chủ và các nhóm áp lực.

Thế rồi giữa cơn nguy nàn ấy, một cuộc cách mạng năng lượng khác đã bất ngờ xảy ra!

Chuyện quang phong năng vẫn còn hão huyền. Vụ công ty Solyndra phá sản sau khi lãnh trợ cấp của Chính quyền Obama là cái ngoặc đơn được báo chí thiên tả khép lại cho kín. Cách mạng bất ngờ là người ta tìm ra kỹ thuật giải phóng dầu thô và khí đốt bị nhốt trong các phiến đá trầm tích. Đó là kỹ thuật fracking.

Khởi đi từ năm 2006 tại Hoa Kỳ, kỹ thuật gạn cát ra dầu khí, hoặc đánh bung những túi dầu bị nhốt - dầu chặt hay tight oil - đem lại triển vọng mới cho các nước có loại trầm tích này.

Trước tiên là triển vọng cho nước Mỹ, với nhiều "túi đá" rộng lớn tại các tiểu bang Texas, Louisiana, North Dakota, Pennsylvania, Ohio, New York và nơi khác. Trong vòng mươi năm tới, Hoa Kỳ có tiềm năng vượt qua Liên bang Nga và Saudi Arabia thành quốc gia có sản lượng dẫn đầu thế giới, lại còn dư để xuất cảng qua xứ khác. Tiềm năng đó sẽ làm thay đổi vị trí địa dư kinh tế của vùng Vịnh Mễ Tây Cơ qua tới khu vực Trung Mỹ, bao trùm lên vùng biển Caribbean và có thể xuống tới xứ Brazil.

Nhưng không chỉ có Hoa Kỳ. Canada và Mexico cũng tìm ra nhiều khu vực có thể khai thác và đưa cả lục địa Bắc Mỹ thành một trung tâm năng lượng của thế giới. Chúng ta sẽ chứng kiến việc thay bậc đổi ngôi, với Trung Đông và nước Nga mất dần vị trí trọng yếu. Sự chuyển dịch trọng tâm năng lượng còn bao gồm nhiều quốc gia Âu Châu, nay cũng đã tìm ra những khối trầm tích có khí đốt. Lục địa già có thể trỗi dậy và nhìn năng lượng Nga hay Trung Đông theo cách khác....

Khi vụ khủng hoảng Ukraine bùng nổ, cả thế giới nói đến cái thế rất mạnh của Putin nhờ năng lượng của Nga đang bắt bí các nước Âu Châu. Sự quờ quạng bất nhất của Chính quyền Obama có thể kéo dài cái thế của Putin được vài năm, nhưng Hoa Kỳ cũng sẽ chuyển hướng theo thực tế mới của năng lượng và địa dư kinh tế. Các nước Âu Châu cũng vậy, sẽ phải thay đổi để thoát vòng kiềm tỏa năng lượng của Liên bang Nga.

Manh nha từ vài năm nay, chiều hướng đa diện hóa nguồn cung cấp dầu khí cho Âu Châu đã là bài toán sinh tử cho Putin. Nhìn về dài thì vụ Ukraine là đỉnh cao, hay điểm lật, của ông ta.

Từ nhiều năm nay, Nga đã thấy ra hai chuyển động nặng, hai xu hướng khó cưỡng.

Trước hết, Âu Châu sẽ ít lệ thuộc hơn vào năng lượng của Nga và tìm nguồn cung cấp điền thế. Và càng sớm đạt kết quả đó nhờ sức đẩy của Mỹ qua xuất cảng dầu khí và nhờ đầu tư vào hệ thống tái chế khí lỏng thành khí đốt để phân phối cho các nước. Hoa Kỳ cũng sẽ phổ biến kỹ thuật khai thác khí đốt cho các nước có đá trầm tích nếu được đầu tư dễ dàng để cùng chia mối lợi về năng lượng.

Chuyển động thứ hai và ngược lại, Á Châu vẫn là nơi cần năng lượng hơn cả.

Trong vòng 20 năm tới, khu vực kéo dài từ Ấn Độ dương qua Thái Bình dương sẽ tiêu thụ đến 85% số năng lượng toàn cầu. Đứng đầu là Trung Quốc, sau đó tới Ấn Độ, và thường xuyên là Nhật Bản và Nam Hàn, ở mức độ thấp hơn hai xứ đông dân kể trên. Cho nên, trong khi Hoa Kỳ có thể nhìn vào Trung Đông với con mắt khác, Á Châu vẫn cần tới dầu khí Hồi giáo tại Trung Đông.

Nhìn từ nước Nga, với khu vực dầu khí xa xôi mãi ở Tây Bá Lợi Á Siberia, thì sức hút về khí đốt của Châu Á mới có triển vọng. Liên bang Nga của Putin thấy gần gũi hơn với Trung Quốc của Tập Cận Bình và đôi bên đang nối kết sự hợp tác qua mạng lưới các ống dẫn khí xuyên lục địa.

Xuyên lục địa cũng có nghĩa là qua nhiều nước Hồi giáo Trung Á như Kazakhstan, Kyrgyzstan, Tajikistan, Turkemenistan và Uzbekistan...

Ở bên này, xuyên qua Đại Tây dương, là hệ thống hàng hải có thể đưa khí lỏng từ Bắc Mỹ qua Tây Âu, dưới sự hộ tống và bảo vệ của các hạm đội Tây phương. Và vì trái đất hình tròn, dầu khí từ Bắc Mỹ cũng có thể vượt Thái Bình dương để tiếp vận cho Nhật Bản, Nam Hàn.

Cho nên, âm thầm mà mãnh liệt, cuộc cách mạng năng lượng đang dẫn tới những xoay chuyển có ảnh hưởng lâu dài.

Kết luận tạm ở đây là hai nước đồng chí, rồi cừu thù, rồi lại đồng minh, là Trung Quốc và Liên bang Nga, thấy gắn bó với nhau nhờ sợi dây nối ruột là khí đốt. Nhưng cả hai đều chỉ là cường quốc đại lục và có cảm giác như bị bao vây phong tỏa bởi các nước Tây phương, từ Bắc Mỹ qua Âu Châu tới Nhật Bản. Chưa nói gì đến Ấn Độ ở bên kia Hy Mã Lạp Sơn, bên cạnh Ấn Độ dương. Ngoài khía cạnh hợp tác và cạnh tranh Nga-Hoa, việc Trung Quốc quậy sóng Đông hải và khống chế vùng biển Đông Nam Á dĩ nhiên là có lý do an ninh và kinh tế.

Nhưng đã gây phản ứng ngược, chạy dài từ Nhật Bản qua Ấn Độ.

Nhiều người trong chúng ta đã thấy sự tương đồng giữa những gì xảy ra tại Ukraine dưới sức ép của Putin, và những gì xảy ra tại Việt Nam, dưới áp lực của Bắc Kinh. Ngoài sự phấn đấu đầy gian nan của lãnh đạo Ukraine tại Kyiv, chúng ta cũng nên để ý tới vai trò của năng lượng và những chuyển động lớn trong thập niên trước mặt....

Ngẫm lại thì 40 năm về trước, trong cơn hấp hối của Việt Nam Cộng Hoà, lãnh đạo Hà Nội chưa biết sợ khi quần đảo Hoàng Sa bị Trung Quốc cưỡng đoạt. Ngày nay, quần đảo Trường Sa và cả khu vực Đông Nam Á còn bị hải quân Trung Quốc uy hiếp. Một trong nhiều động lực của sự bành trướng cũng là dầu khí, hay an ninh về năng lượng cho một xứ đói ăn khát dầu.

Chuyện ý thức hệ - xã hội chủ nghĩa với màu sắc linh linh hay kinh tế thị trường theo định hướng lăng nhăng - nằm ở đâu trong bài toán chiến lược đó? Rõ là vớ vẩn!

Source : Việt Báo . Dainamax Tribune 


Câu chuyện nước Mỹ: Kinh tế, dầu khí, và họa sỹ…Bush

Câu chuyện nước Mỹ: Kinh tế, dầu khí, và họa sỹ…Bush

Theo Hieu Minh Blog 


Phố 18. Ảnh: HM
Phố 18. Ảnh: HM
Lâu rồi Cua Times không điểm tin nước Mỹ, đâm nhớ. Mùa hoa anh đào đang về, magnolia nở rực rỡ trước cửa World Bank, nước Mỹ tạm biệt mùa đông kéo dài, lạnh lẽo và ảm đạm, đang chào đón xuân về.
Nước Mỹ có nhiều tin vui tuần qua.
Theo IMF (Quỹ Tiền tệ Quốc tế), nền kinh tế toàn cầu đang cải thiện sau cuộc suy thoái trên thế giới năm 2008, nhưng còn quá yếu kém không thoải mái.
World Bank, IMF đang chuẩn bị cho cuộc họp giữa kỳ mùa Xuân (Spring Meeting) tại Washington DC, nên các thông báo về kinh tế, dự báo sắp tới thi nhau được tung ra.
Bà Christine Lagarde, Tổng giám đốc IMF, cảnh báo rằng, vụ đối đầu giữa Phương Tây và Nga liên quan tới việc Nga sáp nhập bán đảm Crimea của  Ukraine và các cuộc khủng hoảng chính trị khác có thể gây trở ngại cho tăng trưởng kinh tế.
Dẫu vậy kinh tế Mỹ vẫn có vẻ khả quan. Nhà Trắng vừa thông báo, hơn 7,1 triệu người đăng ký chương trình y tế Obamacare, một thành tựu lớn lao về xây dựng CNXH tại Hoa Kỳ, người nghèo có được bảo hiểm y tế ưu đãi, một chương trình mà phía Cộng hòa cáo buộc Obama theo cộng sản “cào bằng, làm theo năng lực hưởng theo nhu cầu”.
Trong tháng 3, có 176 ngàn việc làm mới được tạo ra, hồi tháng hai số đó là 175.000, tỷ lệ thất nghiệp giảm xuống khoảng 6%, so với 9-10% mấy năm trước đây. Đó là tín hiệu tốt lành. Một quốc gia 315 triệu người mà một tháng thêm 170 ngàn việc mới đã mừng. Lạ thật :)
Dân Mỹ khen nhau “Good Job” nghĩa là được đấy, là câu cửa miệng về tầm quan trọng của việc làm tại xứ cao bồi. Không có Job, nước mất, nhà tan, hết cả mọi giấc mơ Mỹ.
Theo bà Janiet Yellen, Chủ tịch Ngân hàng TƯ Mỹ – ngang với thống đốc bên ta, 29 trên tổng số 30 ngân hàng lớn nhất nước Mỹ có đủ sức tài chính để chống chọi với một cuộc suy thoái nếu tỷ lệ thất nghiệp tăng vọt, chỉ số chứng khoán giảm 50% và giá nhà đi xuống không phanh. Triển vọng kinh tế Mỹ khá dần lên. Fitch xếp hạng tín dụng Mỹ là AAA.
Bắt chước Ba Lan, Canada và Mỹ đang quảng cáo khai thác dầu khí
Đi tầu điện ngầm, du khách thấy những tờ quảng cáo về khai thác dầu khí, hợp tác giữa Canada và Hoa Kỳ. Hóa ra họ đã đánh hơi thấy tiền từ dưới đất. Vụ khủng hoảng Ukraine, Nga dọa tăng giá khí đốt hoặc cắt sang EU, đã giúp các nhà chính sách Mỹ đang nhìn lại kho dầu khí tự nhiên của mình.
Năm 2008 và 2009, Putin từng khóa van đường dẫn khí đốt sang EU, làm cho các quốc gia này hoảng loạn. Nhưng đó là trò nghịch dại của anh Ivan.
Quảng cáo khai thác dầu khí  Mỹ-Canada. Ảnh: HM
Quảng cáo khai thác dầu khí Mỹ-Canada. Ảnh: HM
Ba Lan thấy không thể phụ thuộc vào tay hàng xóm dở người, hay thay đổi, hơi tý là dọa, họ đã lập một đường ống dẫn khí riêng, nhập từ Đức, có trạm nhận ở Mallnow bên biên giới hai nước.
Hiện nay, vừa nhập khẩu, vừa khai thác nội địa, Ba Lan gần như không phụ thuộc vào nguồn khí của Nga. Nếu họ nhập, thì giá cả sẽ được điều đình cho hợp lý.
Đường dẫn khí một chiều Yamal từ Nga sang EU cung cấp 2,3 tỷ m3 khí một năm. Đường dẫn khí của Ba Lan tự xây dựng lấy có thể nhập 620.000m3/giờ hay 5,5 tỷ m3/năm, nhập từ Tiệp, Qatar.
Sau vụ Ukraine, EU và Mỹ sẽ nghĩ lại chiến lược dầu khí, tránh phụ thuộc vào Nga. Phía Mỹ, nếu chương trình khai thác khí tự nhiên được khởi động thì không có cách nào dừng bởi tư bản coi lợi nhuận là trên hết. Các công ty sẽ hoạt động hết công suất và giá khí đốt thế giới sẽ giảm.
Ngoài ra, chương trình xanh hóa trái đất sẽ tạo điều kiện cho các nhà khoa học hàng đầu của phương Tây tích cực tìm ra nhiên liệu thay thế khí đốt tự nhiên. Xe dùng ắc qui, tiết kiệm nhiên liệu, điện dùng năng lượng mặt trời… thuộc về công nghệ cao mà phương Tây đang nắm vững.
Israel hiện đang là quốc gia cũng có hai vũ khí: chất xám và khí đốt. Năm ngoái họ đã khai thác mỏ khí ở Tamar lần đầu tiên và trữ lượng đủ dùng cho 25 năm. Nhìn EU khủng hoảng, người Do Thái chắc chắn sẽ nghĩ đến xuất khẩu.
Về ngắn hạn, Nga có thể làm phiền EU nhưng về dài hạn, đó là hành động gấu tự chặt nanh vuốt của mình.
Một khi Mỹ và EU đã xắn tay áo về dầu khí, Putin sẽ tự đặt dấu chấm hết cho cuộc đời làm chính trị của mình.
Họa sỹ Bush vẽ võ sỹ Putin
Giả sử hôm nay Thủ tướng về hưu Phan Văn Khải, TBT Lê Khả Phiêu hay ông Đỗ Mười mở phòng tranh triển lãm tranh vẽ của mình tại Sài Gòn thì liệu có choáng cho báo chí nước nhà hay không?
Thế mà bên Mỹ mọi chuyện có thể xảy ra. Ông Bush sau khi tấn công Iraq, không tìm ra được vũ khí hủy diệt, khi về vườn đã cắp sách đi học vẽ. Không “vẽ” ra chiến thẳng ở Iraq, dân chủ Arap, hay vũ khí ở sa mạc thì cũng vẽ được cái gì đó, cuộc đời ông không thể không vẽ. Lần này ông chọn người mẫu, võ sỹ judo Putin.
Dân báo chí còn nhớ câu nổi tiếng của ông Bush khen Putin khi hai người lần đầu găp nhau năm 2001 “I looked the man in the eye. I found him to be very straightforward and trustworthy, I was able to get a sense of his soul: a man deeply committed to his country and the best interests of his country. – Tôi nhìn vào mắt anh ấy, tôi thấy đó là con người thẳng thắn, đáng tin cậy, tôi cảm nhận được nội tại bên trong của anh ấy, một con người hết lòng vì đất nước và vì quyền lợi quốc gia của anh ấy.”
Chân dung Putin do TT Bush vẽ. Ảnh: WP
Chân dung Putin do TT Bush vẽ. Ảnh: WP
Câu nói đó là của tâm hồn nghệ sỹ, không phải từ trái tim sắt đá của tổng thống siêu cường. TT Bush không thể quên ánh mắt ấy, nên ông bỏ thời gian dài học vẽ và cố lột tả thần thái Putin.
Ngày 4-4-2014, bang Texas, quê hương của TT Bush, chính thức mở cửa triển lãm tranh do cựu Tổng thống Bush vẽ sau khi ông về vườn. Và bức chân dung Putin với đôi mắt sâu KGB treo trang trọng trong phòng tranh, gây nhiều sự chú ý.
Tờ Washington Post có bài đăng vui về chuyện sau này Bush có thay đổi đôi chút về Putin. Đó chính là hai con chó của hai gia đình. Ông Bush có chú chó Barney bé tý, khi cho Putin xem, thì ông này than, thế này mà gọi là chó ư.
Trong lần thăm đáp lễ ở nhà riêng ngoại ô Moscow, Putin đã cho Bush xem con chó săn to lớn hơn nhiều so với Barney và bảo khách “To hơn, khỏe hơn và nhanh hơn Barney”. Nước Nga to lớn đã dọa nước Mỹ mà không ai biết, trong lúc ông Bush cú Putin tại sao dám coi thường chú chó Barney.
Qua câu chuyện này mới biết, phương Tây còn lâu mới hiểu nổi Putin. Cho dù Bush vẽ chân dung Putin thành công, thì cũng không thể nói, Hoa Kỳ hiểu được người KGB trong điện Kremlin. Tìm ánh mắt Putin để hiểu thực sự ông nghĩ gì cũng giống như tìm vũ khí hủy diệt ở Iraq.
Một độc giả comment trên tờ WP khi đọc bài này “Think of how many millions of lives could have been saved if Hitler and Bush had simply gone to art school instead of becoming the leaders of a country. – giá như Hitler và Bush cùng đi học vẽ thay vì làm lãnh đạo quốc gia, thì thế giới này hàng triệu người  được cứu rỗi.
Độc giả này quên, lẽ ra phải thêm Putin, và vài nhà lãnh đạo độc tài khác. Thay vì biểu tình, lật đổ, thay đổi chế độ, hãy khuyên họ đi học vẽ, thế giới sẽ bình yên hơn. Bởi thay vì “vẽ” ra một chế độ không có thật, thì nên vẽ gì đó rất đời. Không thành công thì ít nhất cũng như ông Bush, tả được ánh mắt KGB của Putin bằng cành cọ vàng xứ bạch dương.
HM. 4-4-2014 – toàn số 4.