30/6/07

Từ Nguyễn Tất Thành đến Hồ Chí Minh - Lữ Phương

Lữ Phương

Từ Nguyễn Tất Thành đến Hồ Chí Minh
(Sự hình thành một chọn lựa)

Chương 2

Đến với chủ nghĩa cộng sản


Điểm xuất phát: Cái nôi Phan Châu Trinh

Cuộc đời chính trị của Nguyễn Tất Thành chỉ thực sự bắt đầu khi từ Anh trở lại Pháp với cái tên mới là Nguyễn Ái Quốc ký dưới bản Những yêu sách của nhân dân Annam, đại diện cho “Nhóm những người Annam yêu nước”, gửi Hội nghị Versailles vào tháng 6 năm 1919. Về sự kiện này Trần Dân Tiên, tác giả cuốn Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch đã viết như sau:

“Ông Nguyễn tổ chức nhóm người Việt Nam yêu nước ở Paris và ở các tỉnh ở Pháp. Với danh nghĩa này, ông đã đưa những yêu cầu ra trước hội nghị Versailles (…) Cũng nên nhắc lại ý kiến đưa yêu cầu do ông Nguyễn đề ra nhưng lại do luật sư Phan Văn Trường viết, vì lúc bấy giờ, ông Nguyễn chưa viết được tiếng Pháp. Cũng nên nhắc lại là ông Phan Châu Trinh và ông Phan Văn Trường không tán thành hoạt động của nhóm Việt Nam yêu nước, vì các ông ấy cho nhóm thanh niên là trẻ con” [1] .

Chủ đích của đoạn văn trên là khá rõ rệt: cái nhóm “thanh niên” mà Nguyễn Ái Quốc đã nhân danh để gửi bản Yêu sách tám điểm cho Hội nghị Versailles vào tháng 6 năm 1919 là tổ chức do Nguyễn Ái Quốc “sáng lập” [2] , hoạt động riêng biệt, không được các ông Phan Châu Trinh và Phan Văn Trường ủng hộ. Tham khảo nhiều tài liệu khác, chúng ta thấy sự việc không hoàn toàn như vậy.

a. Bà Thu Trang trong cuốn Nguyễn Ái Quốc, những năm tại Paris (1917-1923) [3] , căn cứ vào lời một nhân vật trong cuốn sách của Trần Dân Tiên [4] , cho rằng Nguyễn Tất Thành đã từ Anh trở lại Pháp vào 1917 và như vậy thì có thể Nguyễn Tất Thành đã góp phần lập ra Hội những người Annam yêu nước. Vì theo bà, thì vào khoảng cuối năm 1916, Phan Châu Trinh và Phan Văn Trường đã lập ra hội này để kế tục Hội Đồng bào Thân ái lập ra 1912 đã ngưng hoạt động. Tuy vậy, do chưa tìm thêm được bằng cớ xác nhận Nguyễn Tất Thành đã đến Pháp năm 1917– đặc biệt không thấy có báo cáo nào của Mật thám Pháp về việc Nguyễn Tất Thành ở Paris vào thời gian đó – nên người ta vẫn chỉ coi đó là một giả thuyết.

Cũng có một giả thuyết khác nữa về năm đến Pháp của Nguyễn Tất Thành. Giả thuyết này cũng căn cứ vào Hồ Chí Minh nhưng không phải là Hồ Chí Minh-Trần Dân Tiên mà là Hồ Chí Minh-Nguyễn Ái Quốc: khi bị Sở Cảnh sát Paris gọi đến xét hỏi vào năm 1919 và 1920, Nguyễn Ái Quốc khai đã đến Pháp tháng 6-1919 [5] và cũng chính cái thời điểm 1919 sang Pháp đó mà 20 năm sau (1938), Nguyễn Ái Quốc đã khai với Quốc tế Cộng sản, còn những năm về trước (1917-1918) thì đang làm việc cho một nhà giàu ở Brooklyn (Mỹ) [6] . Cũng chẳng có gì ngăn cản người ta tin hay không tin vào giả thuyết này (những lời khai của Hồ Chí Minh với “ta” hay với “địch” thường bất nhất [7] ), nhưng dù thế nào đi nữa thì việc Nguyễn Ái Quốc tự cho mình đứng ra lập “Hội những người Annam yêu nước” và hoạt động không cần sự hợp tác của Phan Châu Trinh và Phan Văn Trường là điều hoàn toàn tưởng tượng [8] .

b. Câu chuyện Nguyễn Ái Quốc bị chỉ trích “trẻ con” là chuyện có thật. Nhưng lại không thật hoàn toàn: chỉ có Phan Châu Trinh, do là bậc cha chú, mới hay chỉ trích Nguyễn thôi. Và cũng chỉ trích trong một hoàn cảnh khác, không dính dáng gì đến bản Yêu sách tám điểm năm 1919. Một mật thám mang tên “Edouard” đã thuật lại một cuộc tranh luận giữa Phan Châu Trinh và Nguyễn Ái Quốc tại căn nhà số 6 Villa des Gobelins (nơi Nguyễn Ái Quốc đã về ở chung với hai ông họ Phan) về đề tài người dân bản xứ có thể đòi hỏi gì ở toàn quyền Maurice Long vừa mới sang Việt Nam thay Albert Sarraut (về làm Bộ trưởng Bộ thuộc địa). Nguyễn Ái Quốc nói:

“Tại sao hai mươi triệu đồng bào ta không làm gì để buộc Chính phủ phải cho chúng ta quyền làm người? Chúng ta cũng là người và chúng ta phải được đối xử như vậy. Những ai từ chối coi chúng ta là những người bình đẳng là kẻ thù của chúng ta”.

Phan Châu Trinh đã trách Nguyễn Ái Quốc là quá bộp chộp:

“Anh muốn đồng bào tay không của chúng ta làm gì để chống lại những người châu Âu với những vũ khí của họ. Tại sao dân chúng phải chết vô ích mà không có kết quả nào” [9] .

Sự tường thuật trong báo cáo của mật thám “Edouard” đề ngày 20-12-1919, sau cả nửa năm ngày Nguyễn Ái Quốc công bố Yêu sách tám điểm. Có thể đây là những dấu hiệu khởi đầu để Nguyễn Ái Quốc vượt khỏi Phan Châu Trinh, nhưng ý nghĩa của sự “không tán thành” ấy của Phan Châu Trinh chẳng liên quan gì đến sự ra đời của “Hội những người Annam yêu nước” cả.

c. Việc Trần Dân Tiên kể về sự kiện bấy giờ Nguyễn Ái Quốc chưa viết được tiếng Pháp nên phải nhờ Phan Văn Trường viết hộ khá nhiều bài báo [10] là đúng [11] . Nhưng khi nhà viết tiểu sử đó cho rằng trường hợp Yêu sách tám điểm của Nhóm những người Annam yêu nước sáng kiến là do Nguyễn Ái Quốc, còn Phan Văn Trường chỉ viết ra nhưng lại cùng với Phan Châu Trinh “không tán thành hoạt động của nhóm” thì lại không phải là sự thật.

Sự thật là bản Yêu sách ấy là do Phan Văn Trường viết bằng tiếng Pháp, Phan Châu Trinh chuyển ra Hán văn, và Nguyễn Ái Quốc thì được giao cho dịch ra văn vần viết bằng chữ “quốc âm” [12] , Yêu sách này hình thành được là do sự thoả thuận của nhiều người nhưng xét về nội dung thì biểu hiện hoàn toàn lập trường của nhóm Phan Châu Trinh và Phan Văn Trường vào thời điểm ấy. Chỉ đọc một đoạn của bản Yêu sách do Nguyễn Ái Quốc dịch ra “quốc âm” trích dẫn sau đây, chúng ta có thể dễ dàng nhận ra điều đó:

“Pháp dân nức tiếng xưa nay,
Đồng bào, bác ái, sánh tày không ai!
Nỡ nào ngoảnh mặt ngơ tai,
Để cho mấy ức triệu người bơ vơ.
Dân Nam một dạ ước mơ,
Lâu nay từng núp bóng cờ tự do…”

d. Không phải chỉ nội dung mà ngay cái tên Nguyễn Ái Quốc ký dưới Yêu sách ấy, sau này được Nguyễn Tất Thành giữ luôn làm tên hoạt động, lúc ban đầu cũng chỉ là một bí danh tập thể, do hai ông Phan tạo ra, chứ không phải do Nguyễn Tất Thành tự đặt. Theo giáo sư Hoàng Xuân Hãn thì bí danh này

“có thể là tên tượng trưng của tất cả người Việt (Nguyễn là họ thông thường của nhiều người Việt, chứ không phải là họ của Tất Thành). Nguyễn yêu nước, ba chữ ấy ứng vào tiếng Pháp: Groupes des Patriotes Annamites thấy ký dưới truyền đơn: Bản yêu cầu tám điểm. Có lẽ một mặt vì họ Nguyễn mà mật thám coi đó là tên của Nguyễn Tất Thành. Rồi sau Nguyễn Tất Thành cũng mang tên ấy một thời gian mà thôi” [13] .

Điều “có thể” đó đã được bà Phan Thị Minh nói rõ hơn trong câu chuyện do mẹ bà kể lại hồi bà còn nhỏ về việc Phan Châu Trinh (từ Pháp về) gặp lại Nguyễn Sinh Huy tại Sài Gòn như sau:

“Sau gần 15 năm cách biệt, hai người bạn tâm giao mới lại gặp nhau: một người trên giường bệnh, gần kề cõi chết, người kia bao nhiêu năm lang bạt, cảnh giác tránh né mọi sự khủng bố của thực dân đối với cha đẻ của một lãnh tụ yêu nước lừng danh lúc này đã về đến Quảng Châu. Hai vị đã tâm sự nhiều ngày về người con trai yêu quý. Cụ Sinh Huy vui mừng khôn xiết với lời ngợi khen và niềm tin tưởng của cụ Châu Trinh dành cho con mình. Cụ Phan kể: Trước đó chúng tôi đã có vài bài ký danh Nguyễn Ái Quốc, nhưng ít ai chú ý. Chỉ sau khi có tờ truyền đơn của dân Nam gởi đến Hoà đàm Versailles và công bố rộng ra thì mới được chú ý. Bộ Thuộc địa và Cảnh sát Pháp đã đưa giấy đến cho tôi, đòi Nguyễn Ái Quốc ra trình diện. Chúng ngỡ tôi sẽ ra. Tôi đã bảo Tất Thành ra làm chúng rất ngạc nhiên. Đó là lần đầu tiên chúng xáp mặt Tất Thành với tên hoạt động là Nguyễn Ái Quốc” [14] .

Nếu chuyện trên đây của bà Phan Thị Minh là sự thật thì “cái điểm xuất phát” của Nguyễn Tất Thành về mặt chính trị khi bắt đầu hoạt động ở Pháp lại càng được khẳng định rõ rệt hơn: Nguyễn Tất Thành trở thành được Nguyễn Ái Quốc nổi danh với bản Yêu sách tám điểm là hoàn toàn do sự sắp xếp của Phan Châu Trinh và Phan Văn Trường [15] .


Môi trường yêu nước và khuynh tả

a. Cái “điểm xuất phát” ấy, tuy sau này bị những người sùng bái Hồ Chí Minh có ý xem thường khi nhìn lại, nhưng thật sự đã đóng vai trò rất quan trọng trong việc hun đúc nên rất nhiều nhà yêu nước thuộc thế hệ mới, trong đó có bản thân Hồ Chí Minh.

Đối với Việt Nam, từ 1911 trở đi, cùng với Quảng Châu, nơi hoạt động của Phan Bội Châu từ Nhật chạy giạt sang, Paris đã trở thành một trung tâm cách mạng ở hải ngoại (duy nhất ở châu Âu) từ khi có sự hiện diện của Phan Châu Trinh. Nhờ uy tín đã tạo ra trong nước, khi mới sang Pháp, Phan Châu Trinh đã tìm ngay được sự hợp tác của Phan Văn Trường [16] ; nhờ đó, ngoài việc tiếp tục cuộc đấu tranh từ trước, ông đã cùng với Phan Văn Trường lập ra được Hội Đồng bào Thân ái [17] , quy tụ những người Việt Nam lúc bấy giờ còn rất ít tại Pháp. Đây chính là cái cơ sở ban đầu để những tổ chức khác nối tiếp, ngay sau đó là Hội những người Annam yêu nước (1917). .

Có một điều đặc biệt khác khá quan trọng cần chú ý: cũng như ở Quảng Châu, những hoạt động của những người Việt Nam yêu nước ở Paris bấy giờ đã diễn ra một cách công khai, có gì khác thì chỉ là nếu ở Trung Quốc, Phan Bội Châu dựa được vào cuộc cách mạng cộng hoà vừa ra đời của Tôn Dân Tiên thì ở Pháp những hoạt động của Phan Châu Trinh và Phan Văn Trường lại diễn ra ngay cái đầu não của một đế quốc theo đuổi một chính sách thực dân khắc nghiệt. Trong tình thế ấy, những người không có những điều kiện như Phan Châu Trinh và Phan Văn Trường chắc chắn sẽ không thể nào hoạt động được theo cái cách mà các ông đã hoạt động. Đặc biệt nhất là với Phan Châu Trinh: vừa được chính quyền mẫu quốc tranh thủ, mua chuộc [18] đồng thời lại được khá đông những nhà hoạt động văn hoá, chính trị (Babut, Marius Moutet, Jules Roux…) trong Hội Nhân quyền và Đảng Xã hội, dựa vào những nguyên tắc của nền dân chủ và dân quyền của Cách mạng Pháp, ủng hộ, giúp đỡ.

b. Dù 1917 hay 1919 thì khi trở lại Paris, Nguyễn Tất Thành đã gặp tất cả những thuận lợi mà hai ông Phan đã tạo ra sẵn cho anh. Không bị những lo liệu vì sinh kế trói buộc (trong một thời gian anh đã sống nhờ vào sự giúp đỡ của Phan Châu Trinh và một người trong nhóm là Khánh Ký [19] ), anh còn được Phan Châu Trinh đẩy ra ngay phía trước, trực tiếp đảm nhận công việc của một người lãnh đạo mới. Có thể nói không có sự yểm trợ của nhóm các ông Phan Châu Trinh và Phan Văn Trường thì không thể có sự xuất hiện của Nguyễn Tất Thành với danh nghĩa Nguyễn Ái Quốc.

Cái môi trường chính trị khách quan ở “mẫu quốc” lúc bấy giờ cũng đã hỗ trợ Nguyễn Ái Quốc không ít. Không những anh có thể đọc được các thứ sách báo mà trong nước anh từng cho biết là bị cấm đọc (anh hay nói đến Rousseau, Montesquieu) mà còn có thể dựa vào những điều sở đắc được trong những thứ sách báo ấy để chống lại chủ nghĩa thực dân, không chỉ bằng viết lách, tuyên truyền mà còn có bằng những phương tiện khác như biểu tình, kiến nghị , tổ chức, lập hội… được luật pháp của chế độ cho phép nữa.

Cái môi trường hoạt động ấy, tuy bị nhiều người coi là “cải lương”, nhưng ở Pháp vào lúc bấy giờ đã mang tính chất khuynh tả rất rõ rệt. Ở đây ngay cả những chỉ trích, đòi hỏi ôn hoà với chính sách thống trị của chủ nghĩa thực dân cũng chỉ tìm được sự ủng hộ nơi những người hoạt động như Hội Nhân quyền và Đảng Xã hội như chúng ta đã biết. Vấn đề vận động cho chủ quyền dân tộc ở đây tất yếu đã gắn liền với lập trường khuynh tả về xã hội, cái đà xuất phát ấy là bước khởi đầu rất quan trọng đối với Nguyễn Tất Thành. Người ta không lấy làm lạ khi thấy Nguyễn Tất Thành sau khi trở thành Nguyễn Ái Quốc một thời gian ngắn, đã là đảng viên của Đảng Xã hội Pháp. Khi hỏi vì sao gia nhập đảng này, anh đã trả lời một câu mà về sau anh sẽ còn lặp lại trong nhiều trường hợp khác:


“Chỉ vì đây là tổ chức duy nhất ở Pháp bênh vực nước tôi, là tổ chức duy nhất theo đuổi lý tưởng cao quý của Đại cách mạng Pháp: tự do, bình đẳng, bác ái” [20] .

Tất cả những cái khác dường như anh không quan tâm lắm như về sau này anh cho biết:

“Tôi tham gia Đảng Xã hội Pháp chẳng là vì các ‘ông bà’ ấy – hồi đó tôi gọi các đồng chí của tôi như thế – đã tỏ đồng tình với tôi, với cuộc đấu tranh của các dân tộc bị áp bức. Còn như Đảng là gì, công đoàn là gì, chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản là gì, thì tôi chưa hiểu” [21] .

Có lẽ vì vậy mà hoạt động của anh vẫn chưa có gì thật sự mới mẻ: người ta thấy anh vẫn thường đi chung với Phan Châu Trinh trong những cuộc họp do Đảng Xã hội tổ chức, Yêu sách tám điểm vẫn được anh sử dụng trong vận động tuyên truyền. Nhưng cũng nhờ việc tham gia Đảng Xã hội mà những quan hệ chính trị của anh bắt đầu trở nên rộng rãi hơn và tích cực hơn. Những người anh tiếp xúc đã vượt ra ngoài các vị trong Hội Nhân quyền từng ủng hộ Phan Châu Trinh. Với danh tiếng một lĩnh tụ, không những anh đã quen những nhân vật nổi tiếng trong Đảng Xã hội như Marcel Cachin, Paul Vaillant Couturier, Léon Blum, Raymond Lefèvre, Jean Longuet, Gaston Monmousseau… mà còn cả những chính khách từ những nước Á, Phi tìm đến nước Pháp nhân Hội nghị Versailles sau Chiến tranh Thế giới lần Thứ nhất để vận động độc lập cho đất nước của họ.


“Con đường dẫn tôi đến chủ nghĩa Lênin”

a. Những hoạt động của Nguyễn Ái Quốc trở nên sôi nổi đặc biệt có lẽ từ khi anh bắt đầu tham gia các hoạt động của Uỷ ban Quốc tế Ba của Đảng Xã hội thành lập vào những tháng cuối năm 1919. Với sự bồng bột của tuổi trẻ [22] , có lẽ nhận thấy cuộc vận động kiểu Phan Châu Trinh từ trước đến nay quá chậm chạp, ôn hoà, anh đã bắt đầu nghiêng sang những giải pháp đấu tranh triệt để hơn, cách mạng hơn. Anh tham gia tích cực hoạt động của Uỷ ban Quốc tế Ba, đi quyên tiền cứu trợ nạn đói ở Nga, rải truyền đơn chống lại sự can thiệp vũ trang của chính phủ Pháp vào nước Nga. Ngoài việc thu thập tư liệu viết Những người bị áp bức chống chủ nghĩa thực dân, anh cũng đã bắt đầu quan tâm đến chủ nghĩa cộng sản và đã đăng đàn nói chuyện về đề tài này nhiều lần [23] .

Chúng ta không biết trong những buổi diễn thuyết đó anh nói gì, nhưng cho đến tháng 7-1920, khi lần đầu tiên anh tiếp xúc với tác phẩm của Lenin có tên là Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về các vấn đề dân tộc và thuộc địa, đăng trên L'humanité của Đảng Xã hội (ngày 16-6-1920) thì như anh thuật lại sau này, ngay cả chữ nghĩa trong văn bản nói trên anh cũng chỉ hiểu loáng thoáng thôi. Nhưng dù vậy nó đã có tác dụng quyết định toàn bộ sự chọn lựa chính trị của anh từ đó cho đến hết cuộc đời: trong Đại hội Tours cuối năm 1920 anh đã theo một bộ phận của Đảng Xã hội Pháp bỏ phiếu tán thành tham gia Quốc tế Ba để trở thành cộng sản. Và lý do của quyết định lần này cũng không khác lần anh vào Đảng Xã hội trước đây: “chỉ vì Đệ Tam Quốc tế rất chú ý đến vấn đề giải phóng thuộc địa” [24] . Và chỉ vì lý do ấy thôi, ngay từ hôm ấy, như anh cho biết về sau, anh đã trở thành người học trò tuyệt đối trung thành của Lenin:

“Luận cương của Lênin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo: ‘Hỡi đồng bào bị đoạ đầy đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta’” [25] .

b. Chúng ta cũng không biết sau đó Nguyễn Ái Quốc đã nghiên cứu thêm các vấn đề liên hệ đến chủ nghĩa Lenin như thế nào nhưng đến tháng 5-1921, người ta thấy xuất hiện trên La Revue Communiste số 15 [26] một bài tham luận của anh bàn về đề tài: “Chế độ cộng sản có áp dụng được ở châu Á nói chung và ở Đông Dương nói riêng không?”.

Câu trả lời của bài viết hiển nhiên là: được! Nhưng không phải chỉ như vậy: vì hoàn cảnh lịch sử, chủ nghĩa cộng sản còn có thể thâm nhập vào châu Á “dễ dàng hơn là châu Âu”! Lý do: a) Triều đại nhà Hạ (2205 trước CN) đặt ra chế độ lao động bắt buộc, b) Khổng tử (551 trước CN) khởi xướng thuyết đại đồng và truyền bá sự bình đẳng về tài sản, 3) Luật pháp Annam cấm mua bán toàn bộ đất đai! Với truyền thống đó châu Á có thể tiến thẳng lên chủ nghĩa cộng sản không cần phải đi qua chủ nghĩa tư bản.

D. Hémery khi đọc lại bài viết này đã cho rằng “ông Hồ Chí Minh tương lai dám gợi ý trái với quan điểm chính thống của Quốc tế, rằng mảnh đất tốt cho chủ nghĩa cộng sản phát triển là châu Á” [27] . Thật sự thì đây không phải chỉ là quan điểm của Nguyễn Ái Quốc. Mahendra Nath Roy, đến từ Ấn Độ, đã từng phát biểu trong Đại hội II Quốc tế Cộng sản (mùa hè 1920) về tầm quan trọng quyết định của cách mạng vô sản ở những nước phương Đông đối với cách mạng vô sản phương Tây [28] . Không biết Nguyễn Ái Quốc đã nghe nói đến ý kiến trên đây chưa, nhưng bài viết của anh tỏ ra đã có những điểm đồng tình với xu hướng ấy trong cuộc tranh luận về vần đề chủ nghĩa cộng sản và phong trào giải phóng dân tộc lúc bấy giờ [29] .

Điều mà chúng ta ghi nhận ở đây là khác hẳn những phân tích thực tế của Roy, Nguyễn Ái Quốc lại dựa vào truyền thống châu Á để biện luận. Nhưng về mặt này anh lại tỏ ra quá khiên cưỡng: đem chế độ lao động cưỡng bức, chế độ công hữu về ruộng đất và cả… Khổng tử ra thuyết minh cho sự tất yếu về con đường cộng sản mác-xít đối với châu Á! Rõ ràng sự hiểu biết của anh về cách mạng vẫn còn quá “cảm tính” như sau này anh nói [30] . Anh không thấy được cái vực thẳm giữa các thứ công xã tiền tư bản chủ nghĩa và cái “thế giới đại đồng” hậu tư bản chủ nghĩa của Marx là ghê gớm đến như thế nào.

Niềm tin của anh về cái mà anh gọi là “chủ nghĩa cộng sản” dường như quá dễ dãi: không biết dựa vào đâu anh hy vọng được vào cái khả năng Đảng Xã hội Nhật có thể “ngăn cản nước Nhật trượt dài đến vực thẳm của hiện tượng phương Tây hoá không thể cứu vãn” cùng với cái viễn cảnh vô cùng tươi sáng về một nước Trung Hoa “được tổ chức lại và vô sản hoá” theo con đường cách mạng của Tôn Dật Tiên!

Có lẽ Nguyễn Ái Quốc không có ý định hình thành lý luận cho một mô hình cộng sản châu Á. Với sự hiểu biết vào lúc bấy giờ, anh không thể làm điều đó được và dường như, xét về tính cách của anh, anh cũng không muốn làm điều đó. Mục đích của anh thiết thực hơn nhiều: anh chỉ muốn khẳng mạnh mẽ định lòng tin mới mà anh đang có được để kêu gọi sự giúp đỡ của những đồng chí châu Âu đối với Đông Dương. Giúp đỡ những gì? Anh viết:

“Cái mà chúng tôi thiếu để trở thành cộng sản là những điều kiện cơ bản nhất để hành động:

Tự do báo chí

Tự do du lịch

Tự do dạy và học

Tự do hội họp (tất cả những cái này đều bị những kẻ khai hoá thuộc địa ngăn cấm chúng tôi một cách dã man)” [31] .

Nhưng về mặt này chúng ta cũng thật khó mà hình dung ra một cái gì đó có thể đơn giản hơn: có tự do mới có thể thành cộng sản, còn không có tự do thì sao!

c. Thật sự thì tuy đã trở thành cộng sản rồi, Nguyễn Ái Quốc vẫn chưa vượt cái chân trời trong bản Yêu sách tám điểm! Vì cái đảng cộng sản mà anh mới góp phần sáng lập ra chưa phải là chính đảng nào khác hơn là Đảng Cộng sản Pháp ở châu Âu, hoạt động trong lòng một chế độ dân chủ. Anh vẫn cứ phải theo những phương thức hoạt động của một đảng khuynh tả từ khi còn hợp tác với Phan Châu Trinh: vận động và tuyên truyền là chính. Nhưng do quần chúng Việt Nam ở Pháp lúc bây giờ không nhiều [32] lại ngán ngại những gì quá gay gắt nên anh phải đến với quần chúng Pháp. Ngoài việc xin vào Hội Tam điểm, anh còn thường xuyên dự những buổi sinh hoạt của Câu lạc bộ Faubourg để thảo luận đủ thứ các loại đề tài, đại loại như “Thầy thuốc là một lũ lang băm hay là những ân nhân của loài người” hoặc “Phương pháp chữa bệnh bằng thôi miên”… Trong những cuộc họp ấy, khi có dịp anh thường lái câu chuyên sang vấn đề… tội ác của thực dân! Chẳng hạn trong lần thảo luận về thôi miên, anh đã phản đối kịch liệt vì anh cho rằng “thực dân Pháp đã thôi miên chúng tôi để đàn áp và bóc lột chúng tôi” [33] !

Tuy vậy vào thời kỳ này, anh cũng đã thực hiện được một số công việc đặc biệt khi tham gia Đảng Cộng sản Pháp như sau:

 Thúc đẩy Đảng Cộng sản Pháp quan tâm và giúp đỡ thiết thực phong trào đấu tranh chống thực dân ở Đông Dương. Trong các buổi họp chi bộ, hoặc hội nghị của Đảng, hễ có dịp là anh nêu ra vấn đề để nhắc nhở phê bình. Cuối năm 1922, tham gia Ban Nghiên cứu Thuộc địa của Đảng Cộng sản Pháp, được cử làm Trưởng ban Đông Dương.

 Liên hệ với đại biểu những xu hướng chống thực dân ở một số nước Á Phi để lập mặt trận quốc tế những nước bị trị mà biểu hiện cụ thể là thành lập “Hội Liên hiệp Thuộc địa” cuối năm 1921 với cơ quan ngôn luận là Le Paria. Tổ chức mới này đã trở thành cơ sở hoạt động mới của Nguyễn Ái Quốc, thay cho Hội những người Annam yêu nước cũ.





“Ngoạ ngoại chiêu hiền, đãi thời đột nội”?

a. Việc Nguyễn Tất Thành dần dần tách rời khỏi cái “điểm xuất phát” để mang cho danh xưng Nguyễn Ái Quốc nội dung “cộng sản” là điều rất hiển nhiên. Phan Châu Trinh, người nâng đỡ anh suốt một thời gian dài, tuy có bộc lộ thái độ “không tán thành” anh nhiều điểm, nhưng ông vẫn giữ thái độ cởi mở và quan hệ tốt với anh. Ông chỉ phê bình cái phương pháp hoạt động mà ông gọi là “ngoạ ngoại chiêu hiền, đãi thời đột nội” [34] mà anh đang theo đuổi thôi. Trong bức thư đề ngày 18-2-1922 từ Marseille [35] , ông đã viết cho anh những dòng mang tính chất tổng kết về cái nhóm yêu nước trong đó có anh như sau:

“Bấy lâu nay, tôi cùng anh và Phan (Phan Văn Trường) đàm đạo nhiều việc, mãi tới bây giờ, anh cũng không ưa cái phương pháp khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh của tôi. Còn tôi thời lại không thích cái phương pháp ngoạ ngoại chiêu hiền, đãi thời đột nội của anh, và cả cái lý thuyết thâu nhân tâm của Phan. Bởi phương pháp bất hoà mà anh đã nói với anh Phan là tôi là hạng hủ nho thủ cựu. Cái điều anh gán cho tôi, tôi chẳng giận tí nào cả, bởi vì suy ra thì tôi đã thấy rằng: tôi đọc chữ Pháp bập bẹ, nên đã thua anh xa lắm, đừng nói gì đọ với anh Phan” .

Phan Châu Trinh bày tỏ sự khâm phục của mình với Nguyễn Ái Quốc nhưng ông cho rằng cái phương pháp “ngoạ ngoại chiêu hiền, đãi thời đột nội” – mà ông diễn tả tóm tắt là “quanh quẩn bên này”, “viết bài đăng báo chương trên đất người để mà hô hào quốc dân đồng bào bên nhà đem tinh thần nghị lực ra làm việc nước”–, cái phương pháp mà anh đang theo đuổi ấy sẽ làm cho tài năng của anh “lần hồi mai một” “phí công mà thôi”. Trong thư, Phan Châu Trinh biết rõ Nguyễn Ái Quốc đang tôn thờ chủ nghĩa của hai ông “Mã, Lý”, nhưng không bày tỏ ý kiến gì về việc đó mà chỉ khuyên anh nên đem cái chủ nghĩa ấy về bên nhà “quảng cáo cho quốc dân đồng bào, ai nấy đều biết” rồi “hô hào quốc dân đồng bào, đồng tâm hiệp lực đánh đổ cường quyền áp chế” – như vậy sẽ “hay biết chừng nào”, “ắt là thành công”.

b. Những ý kiến của Phan Châu Trinh trong bức thư nói trên đã giúp chúng ta nhìn lại rõ hơn những hoạt động của Nguyễn Tất Thành-Nguyễn Ái Quốc trong thời gian anh trở lại Pháp. Bà Thu Trang đã chia khoảng thời gian ấy thành hai giai đoạn: 1) Thời gian đầu đến 1920: từ Anh sang Paris học hỏi, phần nào chịu ảnh hưởng của Phan Châu Trinh, 2) Từ 1920 đến 1923 (trước khi sang Nga): tìm đường đến với chủ nghĩa cộng sản, mở rộng môi trường hoạt động, tách rời khỏi ảnh hưởng của Phan Châu Trinh [36] .

Cái mốc biến chuyển tuy có rõ rệt nhưng trong thực tế phương thức hoạt động của Nguyễn Ái Quốc trong cả hai giai đoạn nói trên đều chưa có gì khác nhau lắm. Như chúng ta đã biết, tất cả đều diễn ra trong cái môi trường chính trị của “mẫu quốc”, được truyền thống của một định chế dân chủ cho phép, được một số người Pháp cấp tiến giúp đỡ, trong một cộng đồng “Việt kiều” ít ỏi, nên những hoạt động dù đã chuyển biến từ “xã hội” (tả) sang cộng sản (“cực tả”) đi nữa, tất cả đều chưa thoát khỏi giới hạn của những điều kiện đã quy định chúng: các cuộc vận động đều chỉ nhằm vào tác dụng đánh động, tố cáo, kêu gọi sự giúp đỡ từ bên ngoài từ nhiều nguồn, chứ chưa đụng chạm trực tiếp gì đến những vấn đề nội tại là vấn đề then chốt của mọi công cuộc giải phóng.

Việc Nguyễn Ái Quốc trở thành cộng sản và tham gia – kể cả sáng lập – Đảng Cộng sản Pháp cũng không đưa đến những bước đi vượt bậc được. Về mặt này, những hoạt động nói trên của Nguyễn Ái Quốc vẫn chỉ lặp lại những toan tính ban đầu của những bậc cha chú của anh là Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh: trước tình trạng bế tắc hoàn toàn về viễn cảnh của đất nước, nội lực bên trong chưa có gì, việc đi ra ngoài tìm một “quới nhơn” để dựa dẫm, giúp đỡ là điều không tránh khỏi. Phan Bội Châu muốn dựa vào Nhật, rồi sau là Trung Hoa. Phan Châu Trinh muốn dựa vào nước Pháp của Cách mạng 1789. Bây giờ Nguyễn Ái Quốc muốn dựa vào Đảng Cộng sản Pháp đã theo Đệ Tam Quốc tế. Sự khác nhau chỉ là những lực lượng cụ thể, không có gì bảo đảm về sự hiệu nghiệm tất yếu do các thực thể ấy mang lại.

Cả một thời gian dài, sau khi gia nhập, Nguyễn Ái Quốc luôn luôn nhân danh “Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa” của Lenin để phê bình và kêu gọi Đảng Cộng sản Pháp quan tâm thiết thực đến các thuộc địa. Nhưng những đề nghị của anh về việc giúp đỡ này vẫn không có gì khác hơn là tuyên truyền và tố cáo! Trong khi đó thì Đảng Cộng sản Pháp vừa mới hình thành, đường lối chưa rõ rệt, phương tiện hoạt động bị giới hạn, dù có cố gắng đến thế nào đi nữa cũng không thể làm cho tình thế các thuộc địa khá hơn ngoài việc đẩy mạnh việc… tuyên truyền và tố cáo! Lý do: Đảng chỉ là một đảng quần chúng, một đảng chưa có ngân sách và guồng máy của một đảng đã cầm quyền như đảng ở Nga. Hoạt động trong một môi trường chính trị như vậy, Nguyễn Ái Quốc không biết làm gì khác hơn là “ngoạ ngoại chiêu hiền, đãi thời đột nội” như Phan Châu Trinh đã miêu tả rất chính xác.

Sự chọn lựa Đệ Tam Quốc tế của Nguyễn Ái Quốc trong những năm ở Pháp do đó chỉ là một bước dò đường tiếp nối sau cuộc ra đi và sau những ngày được ấp ủ trong cái nôi của Phan Châu Trinh và Phan Văn Trường. Sự chọn lựa chưa thể mang đến một điều gì thật quan trọng cho Việt Nam như những người sùng bái Hồ Chí Minh đã cho là như vậy. Chúng ta hãy giả định điều sau đây: nếu Nguyễn Ái Quốc cứ ở luôn tại Pháp thì liệu anh có trở thành Hồ Chí Minh sau này không? Nếu anh ở luôn ở Pháp thì anh sẽ có gì khác với những người đồng thời với anh, cũng đã sang Pháp và trở thành “khuynh tả” như anh, những Phan Văn Trường, Nguyễn An Ninh [37] , Nguyễn Thế Truyền [38] …?

Nhưng cũng may lần này câu hỏi giả định của chúng ta vẫn không được đặt ra trong thực tế. Trong thực tế, sau thời gian thể nghiệm một mô thức hoạt động cộng sản kiểu châu Âu, vì một lý do chẳng có gì là tất định, Nguyễn Ái Quốc đã rẽ sang một bước ngoặt quyết liệt: có lẽ nghe lời khuyên ngày 18-2-1922 của Phan Châu Trinh, anh đi sang Nga dự một hội nghị trong một thời gian ngắn rồi sẽ tìm đường về nước hoạt động. Nhưng chính trong chuyến đi này anh đã tạo ra được những quan hệ mới với phong trào cộng sản quốc tế, từ đó lao hẳn vào một hướng đi có chất lượng khác hoàn toàn: anh không còn hoạt động trong môi trường văn hoá châu Âu nữa. Anh trở về với cái thế giới phương Đông xưa cũ của anh, có lẽ vì đó mà anh mới có được điều kiện để từ giã thật sự cái nôi Phan Châu Trinh đã ấp ủ anh từ ngày hướng về phương Tây, anh bỏ nước ra đi.

© 2007 talawas



[1]Trần Dân Tiên: Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Nxb Văn Học, Hà Nội, 1975, tr. 28-29.
[2]“Người đã sáng lập ra Hội những người Annam yêu nước, gửi đến Hội nghị Vécxây Yêu sách của nhân dân Annam t…” t. Hồ Chí Minh Toàn tập, Tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, Chú thích số 23, tr. 492.
[3]Thu Trang: Nguyễn Ái Quốc tại Paris (1917-1920), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr. 60.
[4]Trần Dân Tiên: Sđd, tr. 27.
[5]Xem Phan Thị Minh: Phan Châu Trinh qua những tài liệu mới, Đà Nẵng, 2001, Quyển 4, tr. 240.
[6]Xem Sophie Quinn-Judge: Sđd, tr. 27-28.
[7]Cũng trong bản khai với Quốc tế Cộng sản 1938, Nguyễn Ái Quốc đã cho biết ngày sinh của ông là 1903 (trong khi ngày công bố chính thức: 1900), mẹ ông mất 1910 (thật ra là 1901). Xem Sophie Quinn-Judge: Như trên, tr. 27.
[8]Nhóm những người Annam yêu nước năm 1920-1921 “tập hợp độ 15 người tích cực yêu nước, gồm Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường, những người xuất dương đầu tiên và những phần tử trẻ nhất, trong đó có Nguyễn Ái Quốc, Nguyễn An Ninh và Nguyễn Thế Truyền kể từ 1922” (D. Hémery: Từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa Mác, Nguyễn Trọng Cổn lược dịch, Nxb Lao động, Hà Nội, 2001, tr.26).
[9]Sophie Quinn-Judge: Sđd, tr. 24-25.
[10]“Ông Nguyễn không đủ tiếng Pháp để viết và phải khẩn khoản yêu cầu ông Phan Văn Trường viết thay. Ông Trường viết gỉỏi nhưng không muốn ký tên. Mà chính ông Nguyễn đã phải ký tên những bài báo.” (Trần Dân Tiên: Sđd, tr. 31)
[11]Thu Trang đã phân tích bài “Thư trả lời ông Outrey” (Le Populaire, 14-10-1919) và bài “Vấn đề người bản xứ Đông Dương” (L'humanité, 2-8-1919) và cho rằng tuy ký tên Nguyễn Ái Quốc nhưng văn phong và cách lập luận là của Phan Văn Trường (Xem Thu Trang: Sđd, tr. 92-96).
[12]Nguyễn Ái Quốc: “Việt Nam yêu cầu ca”, Hồ Chí Minh Toàn tập, Tập 1, Sđd, tr. 438-439.
[13]Xem Thu Trang: Những hoạt động của Phan Châu Trinh tại Pháp (1911-1925), Nxb Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh, 2000, Chú thích 11, Chương năm, tr. 150.
[14]Phan Thị Minh: “Thử xác định thêm năm nào Hồ Chí Minh đến Pháp và xuất xứ của danh hiệu Nguyễn Ái Quốc”, trong Thu Trang: Nguyễn Ái Quốc tại Paris (1917-1923), Sđd, tr. 422-423.
[15]Phan Châu Trinh và Phan Văn Trường được chính quyền Pháp trả tự do vào tháng 7-1915, (vì không đủ bằng chứng kết tội hai ông về việc nhận tiền của Đức để chống Pháp), luôn bị mật thám theo dõi, khó hoạt động, nên có người đã cho rằng có thể vì đó hai ông “đã chủ động kéo” Nguyễn Tất Thành sang Pháp để “chuẩn bị cho một cuộc chuyển giao thế hệ”, từ việc lập ra “Hội những người Annam yêu nước” (1917) đến việc công bố Yêu sách tám điểm (1919). Xem Phan Thị Minh: Phan Châu Trinh qua những tài liệu mới, Nxb Đà Năng, 2001, Quyển 4, tr. 247. Thiết tưởng đây vẫn chỉ là một giả thuyết.
[16]Kém Phan Châu Trinh 3 tuổi. Quê ở làng Vẽ (Hà Nội). Vào làm toà Khâm sứ Bắc Kỳ, cuối 1908 được tuyển sang Paris làm phụ giảng tiếng Việt ở Trường Ngôn ngữ phương Đông. Xin học luật và xin nhập Pháp tịch. Từ 1910, thuê một căn hộ nhà số 6 Villa des Gobelins, những năm sau thành nơi ở của nhóm Việt Nam yêu nước tại Pháp trong đó có Phan Châu Trinh và Nguyễn Ái Quốc. Phan Văn Trường có hai anh ruột (Phan Tấn Phong, Phan Trường Khiêm) có liên can đến vụ ném bom ở Hà Nội năm 1913. (Xem Thu Trang: Sđd, tr. 47 và 58). Cuối năm 1923, rời Pháp về nước và hoạt động ở Sài Gòn. Mất 1933, 58 tuổi.(Xem Phan Thị Minh: Phan Châu Trinh qua những tài liệu mới, Nxb Đà Nẵng, 2001, Quyển 3, Tập 1, tr. 114).
[17]Hội do Phan Văn Trường làm chủ tịch. Ra mắt ngày 18-1-1912 tại trường Parangon nơi có đông sinh viên Việt Nam học. Phát biểu tại buổi Hội ra mắt có Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường và Jules Roux. Không khai báo với sở cảnh sát. Thường họp ở tiệm cà phê hay tiệm ăn Tàu. (Xem Thu Trang: Sđd, tr. 48).
[18]Chính sách của chính quyền Pháp đối với Phan Châu Trinh vào những năm ông mới sang Pháp bao gồm có việc trợ cấp sinh sống, tìm cách sử dụng làm chuyên gia nghiên cứu một số vấn đề ở Đông Dương, nhưng đồng thời cho mật thám và cử người ở bên cạnh theo dõi thường xuyên . (Xem Phan Thị Minh: Phan Châu Trinh qua những tư liệu mới, Sđd, Quyển 3, tập1, tr. 53-56).
[19]Tên thật là Nguyễn Văn Xuân, làm nghề buôn máy ảnh, thường đi lại bên Đức lúc bấy giờ.
[20]Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993, tr. 60.
[21]Hồ Chí Minh: “Con đường dẫn tôi đến chủ nghĩa Lênin”, bài viết cho tạp chí Các vấn đề phương Đông (Liên xô) 1960, trong Hồ Chí Minh Toàn tập, Tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, 2000, tr. 126.
[22]Một mật báo tháng 1-1920 đã ghi lại những lời lẽ sau đây của Nguyễn Ái Quốc với một “Việt kiều”: “Bây giờ anh lại trách tôi là quá mạnh. Hỏi thử các anh đã làm gì từ năm năm nay? Chẳng một ai biết đến Annam cả. Nếu cần phải “ba gai” hay làm cả những gì vớ vẩn để thiên hạ biết đến, chúng ta cũng phải làm. Nếu ai hỏi tôi nhóm người cách mạng ở đâu, tôi sẽ trả lời họ là 20 triệu người bên ấy, họ đã phản đối hàng ngày mà bị dìm đi. Nói cho cùng ai làm gì tôi? Bỏ tù tôi ư? Lưu đày tôi ư? Hoặc cắt đầu tôi, điều ấy có xảy ra tôi cũng bất cần!”. (Xem Thu Trang: Những hoạt động của Phan Châu Trinh tại Pháp, Sđd, tr. 130-131).
[23]Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Sđd, tr. 78, 80.
[24]Trần Dân Tiên, Sđd, tr. 44.
[25]Hồ Chí Minh: “Con đường dẫn tôi đến chủ nghĩa Lênin”, Sđd, tr. 127.
[26]Hồ Chí Minh Toàn tập, Tập 1, Sđd, tr. 33-36.
[27]D. Hémery: Từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa Mác, Sđd, tr. 29.
[28]Hélène Carrère d’Encausse et Stuart Shram: Le Marxisme et l’Asie 1853-1964, Armand Colin, Paris, 1965, p. 199.
[29]Trong phiên họp thứ 8 Đại hội V Quốc tế Cộng sản, 23-6-1924, Nguyễn Ái Quốc đã phát biểu một luận điểm tương tự: “Tất cả các đồng chí đều biết rằng hiện nay nọc độc và sức sống của con rắn độc tư bản chủ nghĩa đang tập trung ở thuộc địa hơn là chính quốc. Các thuộc địa cung cấp nguyên liệu cho các nhà máy; các thuộc địa cung cấp binh lính cho quân đội của chủ nghĩa đế quốc. Các thuộc địa trở thành nền tảng của lực lượng phản cách mạng. Thế mà các đồng chí khi nói về cách mạng, các đồng chí lại khinh thường thuộc địa” (Hồ Chí Minh Toàn tập, Tập 1, Sđd, tr. 274).
[30]“Lúc bấy giờ tôi ủng hộ Cách mạng tháng Mười chỉ là theo cảm tính tự nhiên. Tôi chưa hiểu hết tầm lịch sử quan trọng của nó.” (Hồ Chí Minh: “Con đường dẫn tôi đến chủ nghĩa Lênin”, Sđd, tr. 126).
[31]Hồ Chí Minh Toàn tập, Tập 1, Sđd, tr. 36.
[32]Thống kê của chính phủ Pháp cho biết số lượng ngưới Việt Nam có mặt ở Pháp và Bắc Phi đến 30-3-1923 là 8.245 người. (Xem D. Hémery: Từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa Mác, Sđd, tr. 17).
[33]Hồ Chí Minh – Biên niên tiểu sử, Sđd, tr. 117.
[34]Ngồi ngoài gọi kẻ giỏi ra, đợi thời mà vào thình lình. Ý nói: gọi người ra ngoài giúp mình để đợi thời cơ mới về.
[35]Xem Thu Trang: Những hoạt động của Phan Châu Trinh tại Pháp 1911-1925, Sđd, tr. 176-181.
[36]Thu Trang: Nguyễn Ái Quốc tại Paris, Sđd, tr. 47-48.
[37]Nguyễn An Ninh sinh ngày 6-9-1900 tại Chợ Lớn. Gia đình tiểu địa chủ. Học tiểu học tại Taberd và trung học tại Chasseloup-Laubat (Sài gòn). Từ 1918 đến 1920, học luật tại Đại học Hà nội, sang Pháp học tiếp và tốt nghiệp tại Paris năm 1921. Trong thời gian ở Pháp có tham gia phong trào chống thực dân với Nguyễn Ái Quốc, Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường. Du lịch nhiều nơi ở châu Âu để mong tìm một ý thức hệ cho Việt Nam. 1923 về Sài Gòn lập ra báo La cloche fêlée. Khởi đầu chủ xướng đường lối hợp tác Pháp Việt, nhưng 1924 quay sang phổ biến tư tưởng của Tagore và Gandhi. 1925, La cloche fêlée thường trực giới thiệu những tác phẩm của những nhà lý luận cộng sản như Zinoviev, Bukharin, Karl Radek, Gabriel Péri và những bài đã in trong L'humanité của Đảng Cộng sản Pháp. 1926, in toàn bộ Tuyên ngôn cộng sản. Tháng 5-1926, Nguyễn An Ninh bị bắt, La cloche fêlée đình bản. (Xem Huỳnh Kim Khánh: Vietnamese communism 1925-1945, Cornell University Press, Ithaca and London, 1982, Chú thích 26, tr. 49-50).
[38]Nguyễn Thế Truyền sinh 17-12-1898 ở Hành Thiện (Bắc Kỳ). Uỷ viên Tiểu ban Thuộc địa của Đảng Cộng sản Pháp. Cộng tác với tờ Le Paria. Viết lời nói đầu cuốn Bản án chế độ thực dân Pháp của Nguyễn Ái Quốc. Theo cảnh sát Pháp, từ 1925 và 1927, anh là nhà hoạt động tích cực nhất trong phong trào cách mạng Việt Nam ở Pháp, là linh hồn của phong trào vùng Paris. Nhưng năm 1926 hoặc 1927, anh cắt đứt với Đảng Cộng sản, lập ra Đảng Việt Nam Độc lập và trở về Sài Gòn ngày 9-1-1928. Trở thành người theo chủ nghĩa dân tộc, sống ở Bắc Kỳ, rồi lại sang Pháp từ 1934 đến 1938. (Xem D. Hémery: Từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa Mác, Sđd, Chú thích 3, tr. 26).

Ai “đạo” ai? - Thường Nhân

Thường Nhân

Ai “đạo” ai?

(Bài thơ “Hỏi” của Hữu Thỉnh và bài thơ “Thượng đế sinh ra mặt trời” của Christa Reinig)

Nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo đã từng khen bài thơ “Hỏi” của Hữu Thỉnh: “Đọc Hữu Thỉnh, dễ nhận thấy anh thường chặt ở câu mà lỏng ở bài. Có người bảo anh là “nhà thơ nhiều câu ít bài”, kể cũng có lý của họ… (Nhưng trong tập Thư mùa đông - TN) hiệu quả lập tứ hiện rõ ở các bài “Người ấy”, “Chạm cốc với Xa-in”, và đặc biệt là bài “Hỏi” (…) Đấy là một nghệ thuật cô đúc, tinh vi chặt chẽ đến nỗi, ít mà không thiếu, nhiều mà chẳng thừa. Tác giả hoàn toàn làm chủ những con chữ của mình, mà người đọc vẫn cảm thấy như tự bài thơ nó vốn thế, nó là một khối vẹn toàn, lấp lánh tâm hồn và trí tuệ. Những bài thơ như thế làm mới Hữu Thỉnh…” (Văn chương cảm và luận, Nxb Văn hoá Thông tin 1999).

Nhận xét như thế là rất đúng với bài thơ “Hỏi”. Nhưng lúc đó, nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo không hề biết là trước Hữu Thỉnh, đã có bài thơ “Thượng đế sinh ra mặt trời” của nữ thi sĩ Đức Christa Reinig [1] (sinh năm 1926), trong một tập thơ của bà đoạt giải thưởng Văn chương Bremen 1964.

Nguyên bản tiếng Đức:

Gott schuf die sonne

Ich rufe den wind
wind antworte mir
ich bin sagt der wind
bin bei dir

ich rufe die sonne
sonne antworte mir
ich bin sagt die sonne
bin bei dir

ich rufe die sterne
antwortet mir
wir sind sagen die sterne
alle bei dir

ich rufe den menschen
antworte mir
ich rufe - es schweigt
nichts antwortet mir

(Christa Reinig, Gedichte, Nxb Fischer 1963, tr. 34)

Bản dịch ra tiếng Việt của miền Nam trước 1975, không rõ tên dịch giả, được lưu truyền như sau:

Thượng đế tạo ra mặt trời

Tôi hỏi gió
Gió với em thế nào?
- Gió luôn ở bên em.

Tôi hỏi mặt trời
Mặt trời với em thế nào?
- Mặt trời luôn ở bên em.

Tôi hỏi các vì sao
Các vì sao với em thế nào?
- Các vì sao luôn ở bên em.

Tôi hỏi con người
Con người với em thế nào?
- Con người im lặng không ai trả lời tôi.

Bài thơ này còn có một bản dịch khác, của Quang Chiến, in trên tạp chí Văn học nước ngoài của Hội Nhà văn Việt Nam số 6–2002:

Thượng đế đã làm ra mặt trời

Tôi gọi gió
Gió hãy trả lời tôi
Gió nói
Tôi ở bên em.

Tôi gọi mặt trời
Mặt trời hãy trả lời tôi.
Mặt trời nói
Tôi ở bên em.

Tôi gọi các vì sao,
Xin hãy trả lời tôi
Các vì sao nói
Chúng tôi ở bên em.

Tôi gọi con người,
Xin hãy trả lời tôi
Tôi gọi - im lặng
Không ai trả lời tôi.

Còn bài thơ “Hỏi” của Hữu Thỉnh đã in ở nhiều sách, nó còn là bài đọc thêm trong sách giáo khoa phổ thông (chắc các nhà biên soạn sách giáo khoa cũng chưa hề biết bài thơ trên của Christa Reinig). Nguyên văn như sau:

Hỏi

Tôi hỏi đất: Đất sống với đất như thế nào?
- Chúng tôi tôn cao nhau.

Tôi hỏi nước: Nước sống với nước như thế nào?
- Chúng tôi làm đầy nhau.

Tôi hỏi cỏ: Cỏ sống với cỏ như thế nào?
- Chúng tôi đan vào nhau làm nên những chân trời.

Tôi hỏi người:
- Người sống với người như thế nào?
Tôi hỏi người:
- Người sống với người như thế nào?
Tôi hỏi người:
- Người sống với người như thế nào?

Đặt hai bài thơ của hai tác giả một Đức một Việt cạnh nhau, sao chúng giống nhau đến thế. Giống nhau về lập tứ, giống nhau về tinh thần, giống nhau về tư tưởng, giống nhau về cả cách hỏi, cách lập ngôn. Nó như là thơ “phỏng dịch” của nhau vậy. Christa Reinig chọn 4 đối tượng để hỏi: Gió, mặt trời, sao, người. Hữu Thỉnh cũng chọn 4 đối tượng để hỏi: Đất, nước, cỏ, người. Ba đối tượng trên có thể thay đổi thế nào cũng được, ví dụ có thể hỏi bò, lợn, chó xem nó sống với nhau thế nào, chắc cũng sẽ có những câu trả lời hay. Ví dụ:

Tôi hỏi bò: Bò sống với bò thế nào?
- Chúng tôi nhường cỏ cho nhau.

Tôi hỏi lợn: Lợn sống với lợn thế nào?
- Chúng tôi ủn ỉn cùng nhau.

Tôi hỏi chó: Chó sống với chó thế nào?
- Chúng tôi sủa cùng nhau.

Nhưng muốn bài thơ có tứ hay, nhất thiết là phải giữ nguyên đối tượng thứ tư, đấy là con người, thì bài thơ mới trở nên hoàn chỉnh. Với bài thơ “Bò lợn chó” trên đây, chỉ cần ghép thêm vào đoạn kết của Christa Reinig hoặc của Hữu Thỉnh là không chê vào đâu được.

Vậy thì nhà thơ cần sáng tác ra bài thơ, hay chỉ cần đi sửa lại đôi chút thơ người khác? Tất nhiên đã là nhà thơ thì phải tự mình làm ra ý, ra tứ, ra lời, tức là làm ra “bài thơ của mình”. Việc cóp nhặt thơ, ăn cắp thơ, đạo thơ… những tưởng chỉ có những người mới tập làm thơ, hay những kẻ hám danh “trẻ người non dạ” mới phạm tội. Vậy mà câu chuyện đạo thơ ấy nó lại rơi đúng vào ông Chủ tịch Hội Nhà văn - người đã từng đoạt một bồ giải thưởng về thơ của Hội Nhà văn. Liệu người ta có tin được những giải thưởng ấy nữa hay không? Biêt nó là giải thật hay giải dỏm?

Nghe nói Hữu Thỉnh là nhà thơ chịu ảnh hưởng sâu sắc ca dao tục ngữ. Nhưng ông đâu chỉ ảnh hưởng ca dao tục ngữ - thơ ca khuyết danh, có cóp cũng chẳng sao. Tỷ như Hữu Thỉnh đã “sửa” hai câu thơ của Tự Đức (vì tưởng là của Khuyết Danh?): “Đập cổ kính ra tìm thấy bóng - Xếp tàn y lại để dành hơi” thành ra thơ của mình: “Mở trăng ra tìm – Trăng còn in bóng - Mở cỏ ra xem - Cỏ còn hơi ấm”. Nhưng cứ như bài thơ “Hỏi” thì ông còn “ảnh hưởng” cả thơ hữu danh của Đức. Nếu mà ông không biết chuyện này, sang làm việc với các nhà thơ Đức, lại đem bài thơ “Hỏi” ra đọc, và người ta dịch lại tiếng Đức bằng chính bài thơ của Christa Reinig, chắc sẽ được vỗ tay đến không về nước được.

Văn nghệ Việt Nam gần đây kể cũng hơi bị buồn. Chưa xong câu chuyện “tự nguyện” rút khỏi giải thưởng khi bị các nhạc sĩ tố giác “đạo nhạc” của nguyên Tổng thư ký Hội Nhạc, đã đến chuyện “đạo thơ” và tự trao giải thưởng cho mình của ông Chủ tịch Hội Văn. Âu cũng là câu chuyện có vay có trả vậy. Thôi thì người của công chúng cũng “nhân bất thập toàn” mà. Tôi đưa ra cái chuyện “Ai đạo ai” này chẳng qua cũng là muốn trị bệnh cứu người, và muốn những nhà soạn sách giáo khoa cũng nên xem kỹ lại bài thơ “Hỏi” mà thôi.




[1]Christa Reinig (1926): Trước 1964, Christa Reinig là nhà thơ Cộng hoà Dân chủ Đức (Đông Đức). Tuy nhiên, ngay từ năm 1951, bà đã bị cấm xuất bản tại Đông Đức. Năm 1964, nhân dịp đi Bremen (Tây Đức) nhận giải thưởng cho tập thơ xuất bản năm 1963 – trong đó có bài “Gott schuf die sonne” – bà đã ở lại Cộng hoà Liên bang Đức, không trở về Đông Đức nữa (chú thích của talawas).

THƠ BÙI GIÁNG : NỖI LÒNG TÔ VŨ

NỖI LÒNG TÔ VŨ

BÙI GIÁNG

(Kỷ niệm một đoạn đời 15 năm chăn dê ở núi đồi Trung Việt Nam Ngãi Bình Phú )


Đồi tăm tắp chạy về ôm chân núi
San sát đồi phủ phục quấn núi xanh
Chiều xuống rồi tơ lòng rộn ràng rốI
Trời núi đồi ngây ngất nhảy dê nhanh
*
Thôi từ nay tha hồ em mặc sức
Nhảy múa tung sườn núi vút giòng khe
Thôi từ nay tha hồ em mặc sức
Vang vang lên đồi núi giọng be be
*
Những bận nào Trà Linh qua Đá Dừng Hòn Dựng
Dùi Chiêng về Phường Rạnh ngược Khe Rinh
Bao lần anh cùng chúng em lận đận
Bôn ba qua rú rậm luống rùng mình
*
Những bận nào Quế Sơn Rù Rì con suối ngược
Nước trôi nguồn nước lũ xuống phăng phăng
Những bận nào mịt mùng mưa gió ướt
Đẫm thân mình co rúm lạnh như băng
*
Em nhớ hay không? hồn hoa dại cỏ
Những ngậm ngùi đầu núi canh khuya
Vàng cao gót nai đầu truông hãi sợ
Gió cây rung trút lá mộng tan lìa
*
Nhưng từ nay Giáp Nam anh đóng trạI
Cố định rồi - em khỏi ngại ngày đêm
Dưới nắng mưa tha phương du mục mãi
Cay đắng từng, bùi ngọt mặn mà thêm
*
Chiều hôm nay bên chó vàng chễm chện
Anh lặng nghe em bé hé bên sườn đồi
Khoanh mấy vòng tay anh thoăn thoắt bện
Vòng cho em từng chiếc sắp xong rồi
*
Chiều đã xuống em đà no nê chắc
Huýt tù và! em xúm xít lại anh đeo cho
Mỗi chúng em mỗi vòng mây mỗi sắc
Lại mau đây! to nhỏ cổ anh so
*
Này em Đen chiếc vòng vàng tươi lắm
Này em Vàng chiếc trắng há mờ đâu
Này em Trắng chiếc hồng càng lóng lánh
Này em Hoa Cà * hỡi! chiếc nâu
*
Ngẩng đầu lên! dê ơi anh thong thả
Đeo vòng vào em nghển cổ cong xinh
Ngẩng đầu lên! đây lòng anh vàng đá
Gửi gắm vào vòng mây nhuộm tơ duyên
*
Ngẩng đầu lên nhìn anh mờ mắt lệ
Từ lần đầu vòng ngọc tuổi hai mươi
Trao người em trăm năm lời ước thệ
Đây lần đầu cảm động nhất mà thôi **
*
Vòng em xong, vòng anh dành riêng chiếc
Dành riêng mình - dê hỡi hiểu vì sao
Vì lòng anh luống âm thầm tha thiết
Gán đời mình trọn kiếp với Dê Sao
*
Nhìn anh đây các em Vàng Đen Trắng
Tía Hoa Cà lổ đổ thấu lòng chưả
Từ từ đưa chiếc vòng lên thủng thẳng
Anh từ từ đưa xuống cổ đong đưa
*
Và giờ đây một lời thề đã thốt
Nghìn thu sau đồi núi chứng cho ta
Cao lời ca bê hê em cùng thốt
Hòa cùng lời anh nghẹn nỗi thiết tha
*
Và giờ đây hoàng hôn mờ chĩu nặng
Bốn bề tràn lan bóng mịt mùng sa
Xếp hàng ngay nhanh lên hàng ngũ thẳng
Rập ràng về bế hế rập ràng ca
* Dê Hoa Cà có lông lổ đổ tía hồng xem như hoa cà vậỵ Đẹp vô cùng. Nhất là những buổi chiều, sắc lông óng ả dưới nắng vàng - xa xa hình bóng dê rực rỡ nổi bật trên triền núi xanh lợ Dê Hoa Cà còn gọi là Dê Sao (vì lông lổ đổ sáng như sao).
** Ý nói cái lần đầu, thuở hai mươi tuổi, trao cái vòng ngọc cho vị hôn thê mà không cảm động bằng lần đầu đeo vòng cho dê vậỵ

VĂN : Quê hương là chốn thần tiên

Phạm Lưu Vũ
Quê hương là chốn thần tiên

Suốt bao nhiêu năm lăn lộn ngoài cuộc đời, lúc nào tôi cũng nhớ về vùng quê ấy. Nơi thuở nhỏ, tôi cùng lũ trẻ con trong làng thường lui tới một cái hồ nằm tít phía chân núi để câu cá. Cái hồ rộng lớn nước xanh ngắt quanh năm, thỉnh thoảng có chỗ hơi nước bốc lên, nom mờ ảo, mong manh như những làn khói mỏng. Ba phía ranh giới của mặt nước hồ uốn lượn theo núi non trùng điệp, phía còn lại là một con đập ngoằn ngoèo, xây bằng đá từ đời nảo đời nào. Con đập giữ nước trên núi chảy xuống làm thành cái hồ. Ngày nào bầu trời cũng đi qua đây, cũng thản nhiên soi xuống mặt hồ cái dung nhan lồng lộng của mình. Bóng mây làm cho mặt nước hồ như thể luôn luôn chuyển động, không lúc nào giống lúc nào. Tôi vẫn nhớ cái hồ ấy đến nôn nao, kể cả những khi phải chứng kiến những câu chuyện buồn. Ước gì sẽ có một lần, một giấc mơ nào đó sẽ đưa tôi trở lại với vùng quê thủa ấy...

Rốt cuộc tôi cũng được toại nguyện. Hình như có một giấc mơ như thế đã diễn ra. Tôi được tạm rời bỏ cái cuộc đời đầy bất trắc và hiểm ác ngoài đường để trở về chính cái vùng quê ấy một thời gian.

Và tôi cũng không ngờ rằng cho đến tận lúc đó, tôi mới nhận ra quê mình, thì ra là một chốn thần tiên.

Từ trong làng, tôi vác trên vai chiếc cần câu, đầu đội một chiếc mũ vải đã sờn tiến về phía chân núi. Vòng vèo qua những nương sắn, nương ngô, những vạt rừng thông, rừng trúc... Con đường mòn đưa tôi tới chân đập đá. Phía bên kia chính là mặt hồ. Tôi chọn một tảng đá nhô ra dưới chân đập, xung quanh có những cành cây gai khẳng khiu lả xuống mặt nước rồi ngồi trên đó thả câu. Tảng đá này tôi đã thuộc lòng từng góc cạnh của nó, thuộc từ những thuở lên mười. Lưng nó đã mòn nhẵn trong tâm khảm của tôi…

Ngày nào cũng vậy, tôi ngồi đó từ lúc rạng đông, khi ra đi trời mới sáng mờ mờ. Lác đác bắt đầu có bóng người đi lại trên đập. Trời sáng đến đâu thì người đi lại đông đến đấy. Tôi còn nhớ con đường mòn dẫn tới đập đá được chia làm hai ngả. Một ngả leo lên đập rồi đi về bên phải, vòng ra sau một quả núi phía xa xa, nơi đó có một cái chợ và một cái làng nhỏ. Những người đi chợ và những đám cưới, đám xin thường đi lại phía bên này. Ngả kia rẽ sang trái, đi hết con đập thì ngoặt xuống một thung lũng, nơi đó có một bãi tha ma. Đó là lối đi của những đám tang và những người đi thăm mộ, nhất là vào những dịp tết hoặc tiết thanh minh...

Tảng đá tôi ngồi câu nằm đúng chỗ rẽ của hai hướng đi sinh, tử ấy. Điều kì lạ là tôi đã từng đọc sách, đã từng chứng kiến khối việc xảy ra trong đời. Vậy mà có những câu chuyện phải chờ đến lúc về ngồi trên tảng đá này, tôi mới được nghe. Chẳng hạn câu chuyện sau đây của những người đi chợ:

“Ở đâu đó lại có cái gì vừa thay đổi bác ạ.”

“Làm sao bác biết?”

“Hôm qua, bọn người thu thuế đến nhà bảo tôi rằng cái học thuyết gì đấy của họ bây giờ là học thuyết khác rồi. Tôi cũng như tất cả những người đóng thuế cần phải hiểu điều ấy...”

“Thế bác trả lời họ ra sao?”

“Tôi trả lời giống hệt bố tôi ngày trước.”

“Bố bác trả lời ra sao?”

“Ngày trước, cũng có một bọn người thu thuế đến nhà mà bảo bố tôi rằng cái học thuyết gì đấy của họ bây giờ là học thuyết khác rồi. Bố tôi cũng như tất cả những người đóng thuế cần phải hiểu điều ấy... Bố tôi cũng trả lời giống hệt ông nội tôi ngày xưa.”

“Ông nội bác trả lời thế nào?”

“Ngày xưa, cũng có một bọn người thu thuế đến nhà mà bảo ông nội tôi rằng cái học thuyết gì đấy của họ bây giờ là học thuyết khác rồi. Ông nội tôi cũng như tất cả những người đóng thuế cần phải hiểu điều ấy... Ông nội tôi trả lời: Cứ theo như các cụ nhà tôi truyền lại, thì tôi không cần phải hiểu học thuyết ấy của các ông là cái gì. Học thuyết nào thì tôi cũng phải đóng thuế cả mà thôi. Vậy hãy cho tôi biết, ruộng nhà tôi phải đóng thuế bao nhiêu? Số thuế ấy các ông thu bằng thóc, bằng tiền hay bằng xương máu...?”

Nghe đến đây, trong lòng tôi bỗng cảm thấy có điều gì rất lạ. Thì ra, những học thuyết trên đời cứ luôn luôn thay đổi. Còn những người đóng thuế thì vẫn như xưa. Những người đóng thuế kia không cần bất cứ học thuyết gì. Chỉ có kẻ thu thuế mới cần đến mà thôi.

Giấc mơ của tôi vẫn chưa dừng lại ở đấy. Một hôm, từ chỗ ngồi câu, tôi chứng kiến một đám tang đi sang phía bên trái. Đám tang chậm rãi qua chỗ tôi, đoàn người kéo dài hết gần nửa con đập. Tiếng kèn, trống, tiếng khóc não nề, âm u dội vào từng vách núi. Tôi kính cẩn đứng dậy, bỏ mũ cầm trong tay, cúi đầu chờ cho chiếc quan tài đi qua chỗ mình. Bỗng từ trong đám những người đang khóc lóc phía sau chiếc quan tài ấy, phát ra những tiếng đấm đá, giằng co. Rồi một bóng người đội khăn trắng bị đẩy văng ra khỏi hàng, ngã lăn lông lốc xuống chân đập. Đám ma vẫn bình thản kéo đi. Tôi kinh ngạc nhìn kẻ kia, lúc này đã lăn xuống sát mép nước, xuýt nữa thì rơi tòm xuống hồ. Gã đang lồm cồm bò dậy. Tôi cám cảnh vẫy gã lại gần, ôn tồn hỏi han:

“Tôi hỏi khí không phải. Anh là con hay là cháu người chết, làm sao đang giữa lúc đau thương mà vẫn tranh cạnh với nhau để ra nông nỗi này?”

Nét mặt còn đang hết sức tức tối, gã kia kể lể ngay với tôi, nửa như muốn thanh minh, nửa như muốn trút cơn giận:

“Tôi chẳng phải là con, là cháu gì của người chết cả, chỉ là một kẻ khóc thuê đấy thôi.”

Tôi bất ngờ trước câu trả lời ấy, bèn hỏi tiếp:

“Thế tạo sao anh lại bị đẩy ra khỏi hàng như thế?”

Gã khóc thuê nhìn tôi ngượng nghịu:

“Thì tôi có biết khóc lóc gì đâu, chỉ là đội khăn, đứng lẫn vào đó rồi lẩm bẩm miệng, khóc câm đấy thôi. Ai ngờ bị bọn khóc thật phát hiện ra đẩy tôi ngã xuống đây. Ông thấy đấy, cùng thân phận khóc thuê cả với nhau mà chúng nó nỡ giật miếng cơm ra khỏi miệng tôi. Tôi biết trong đó còn khối kẻ cũng đang khóc giả vờ như tôi mà có bị phát hiện đâu.”

Té ra là như vậy. Tôi chưa biết nói thế nào với gã khóc thuê này thì bỗng từ giữa hồ nghe đánh ùm một tiếng, nước văng lên tung toé. Có vật gì ở đâu đó như vừa từ trên trời rơi xuống. Tôi và gã khóc thuê giật nảy mình nhìn ra. Lát sau có một cái đầu đội mũ trồi lên mặt nước, thì ra cũng là một con người. Kẻ kia hình như cũng biết bơi. Gã nhanh chóng xác định phương hướng rồi bơi về phía chân đập, nơi tôi và gã khóc thuê đang đứng. Tôi cúi xuống giúp gã leo lên tảng đá. Bất ngờ, vừa nhìn thấy gã khóc thuê, gã kia đã buột miệng reo lên:

“Tao trông mày quen quá, quen khủng khiếp. Hình như đã từng gặp ở đâu rồi thì phải. Chẳng hay mày có nhận ra tao không?”

Tôi kinh ngạc nhìn toàn thân gã ướt lướt thướt như chuột. Cái mũ, bộ quần áo gã đang mặc tỏ ra là trang phục của những kẻ sang trọng giữa đời, gã rõ ràng không phải người vùng này. Phần gã khóc thuê kia thì hình như cũng chịu không nhớ ra. Bèn bảo với gã kia:

“Tao trông mày cũng rất quen. Nhưng bảo đã từng gặp ở đâu rồi thì tao xin chịu. Chẳng hay mày từ đâu rớt xuống đây?”

Gã mới đến nhìn một lượt cả hai chúng tôi rồi giải thích, giọng đột nhiên trở nên từ tốn:

“Tôi vốn là người thuộc gánh hát Thượng Đình.”

Tôi giật mình khi nghe gã nhắc đến tên gánh hát Thượng Đình, bởi có ai lại không biết tới cái gánh hát lừng lẫy, sang trọng nhất cả nước ấy. Đó là một dàn đồng ca đông như một đội quân, có tới hàng nghìn người. Nhưng tại sao gã lại bị rơi xuống hồ như thế này. Tôi đang định hỏi thì gã đã vừa trỏ tay lên trời, vừa kể lể:

“Gánh hát Thượng Đình vừa đi qua đây. Tôi bị chúng nó đẩy ra khỏi hàng, nên mới bị rơi xuống đây đấy.”

Bấy giờ tôi mới bắt đầu lờ mờ hiểu ra, bèn hỏi gã:

“Chúng nó là ai? Tạo sao anh lại bị chúng đẩy xuống đây?”

Gã kia cũng tỏ ra ngượng ngùng, song giọng nói vẫn không giấu nổi vẻ tức tối:

“Chúng nó là bọn cũng hát thuê như tôi. Tôi tuy nằm trong gánh hát đó, nhưng nào có biết hát hò gì đâu. Song, như các ông biết đấy, chốn Thượng Đình xưa nay chỉ thích nghe hát đồng ca mà thôi. Vì thế tôi mới tìm cách chui vào, rồi cũng được phát áo mũ, cũng trang điểm theo đúng qui định của những loài xướng ca... Mỗi khi hát tôi cứ việc đứng lẫn trong gánh hát ấy mà lẩm bẩm miệng, hát câm đấy thôi. Không ngờ bị bọn hát thật phát hiện ra đẩy tôi xuống đây... Các ông thấy đấy, cùng thân phận hát thuê cả với nhau mà chúng nó nỡ giật miếng cơm ra khỏi miệng tôi. Tôi biết trong đó còn khối kẻ cũng đang hát giả vờ như tôi mà có bị phát hiện đâu.”

Thì ra là như vậy. Tôi còn chưa hết kinh ngạc vì sự trùng hợp, run rủi để cho một kẻ khóc thuê và một gã hát thuê cùng lúc đến kể lể với tôi thì vừa lúc ấy, có một đám cưới diễu qua. Đám cưới đi trên con đập, tới gần chỗ chúng tôi thì đương nhiên phải rẽ sang bên phải. Tôi nghe rõ tiếng họ đang nói chuyện với nhau:

“Đám này rước dâu có chọn giờ không đấy?”

“Tất nhiên. Rước dâu bao giờ cũng phải chọn giờ tốt, có thế sau này con cháu mới đầy đàn, mới hy vọng được làm ông nọ, bà kia...”

“Ôi dào! Giờ tốt với chả giờ tiếc. Hai làng cứ cưới qua, cưới lại mãi, đám nào cũng đi qua con đập này, đám nào cũng chọn giờ tốt. Thế mà vẫn truyền đời làm những kẻ đóng thuế, có bao giờ thay đổi được kiếp nào đâu.”

“Thế mới gọi là hy vọng chứ sao. Hy vọng là cái thứ vĩnh cửu, không bao giờ đạt được đối với mọi kẻ đóng thuế chúng ta, kể cả trong những lúc phải đóng thuế bằng xương máu. Thế thì trong đời tất phải có những người được độc quyền đẻ ra những kẻ thu thuế chứ nhỉ?”

“Tất nhiên. Đó là do cái học thuyết gì gì ấy nó quy định như vậy. Té ra giờ tốt là cái mà bọn thày bà bịa ra, cốt để bịp mọi người đấy hẳn?”

“Bọn thầy bà làm gì có học thuyết mà bảo rằng chúng bịa. Có giờ tốt thật đấy. Lũ đàn bà chúng tôi biết rõ lắm. Song giờ nào thì cũng chỉ có hai cái vòi, một vòi đẻ ra những kẻ khôn ngoan, có thể làm nên ông nọ, bà kia, đè đầu cưỡi cổ dân lành... một vòi chỉ đẻ ra toàn dân ngu, với lại khu đen. Trong khi cái vòi đẻ ra kẻ khôn ngoan thì cả làng, ai cũng bị thiến từ lúc mới lọt lòng mất rồi. Thành ra...”

Nghe đến đây, bỗng tôi lại giật mình. May quá, hình như vẫn chưa ra khỏi cơn mơ. Trong lòng cồn lên một nỗi xót xa cho dân làng tôi. Té ra, xưa nay họ vốn đã bị thiến sẵn cái khả năng đẻ ra những kiếp sung sướng từ lúc lọt lòng mất rồi, chỉ chừa lại mỗi cái hy vọng vĩnh cửu mà thôi. Tôi thở dài rồi quay về phía hai gã vừa kể lể lúc nãy. Rốt cuộc, hai gã vẫn chịu không thể nào nhận ra nhau mặc dù nhìn nhau thấy rất quen. Bỗng tôi lại giật mình lần nữa. Hai gã đã biến mất. Có lẽ bọn chúng đã kịp chui vào một đám ma hay một gánh hát nào rồi chăng? Chẳng biết chúng là người hay ma quỷ? Cả bao nhiêu kẻ đã và đang đi lại, than khóc, hát ca... trên con đập ngoằn ngoèo kia nữa? Trong số họ đích thị ai là người, ai là ma quỷ? Đột nhiên, một ý nghĩ chợt loé lên làm tôi lạnh người. Tôi nghi ngờ nhìn xuống cái bóng của chính mình in dưới đáy hồ. Cả tôi nữa? Tôi cũng đích thị là người hay ma quỷ? Thôi đúng rồi, nơi đây phải chăng là một chốn thần tiên...?

Viết văn để làm người ,đàm luận với Phan Huy Đường

Miêng thực hiện

Viết văn để làm người,
đàm luận với Phan Huy Đường
- Trước tiên, được biết anh tham gia chương trình Rockefeller fellowship, Vietnamese Diaspora (học bổng Rockefeller để nghiên cứu cộng đồng di dân Việt Nam) www.joinercenter.umb.edu/Program/, sau khi nghiên cứu, anh tìm thấy gì ở dòng văn học đang chảy ngoài nước này, đặc tính, bản sắc? và theo anh, có hay không những khác biệt với văn học quốc nội?
- Tôi không dám trả lời câu hỏi mênh mông như thế. Muốn đề cập tới nó, phải đọc hầu hết tác phẩm đáng đọc. Lúc đầu, tôi có ý đó, đinh ninh mình sẽ vùi đầu vào thư viện Harvard đọc sách. Nhưng, tại trận, tôi thấy vô lý, vô ích: không thể thực hiện. Ngược lại, không nhân dịp này đi gặp nhà văn Việt Nam tại Mỹ, trao đổi với họ thì uổng quá. Do đó, ngoài những người tôi gặp ở Boston, tôi đã tìm gặp người ở Washington, San Jose, Little Saigon, New York, Quebec City, Montreal, Toronto. Tôi tiếc không đi Texas được. Tới đâu tôi cũng thỉnh cầu: xin cho tôi quyển sách anh (chị) đắc ý nhất. Tôi được mãn nguyện. Tôi mua được khá nhiều sách ở Little Saigon. Cho tới nay, thú thực, tôi vẫn chưa đọc hết. Tôi có gia đình, họ hàng, bạn bè ở nhiều nơi trên đất Mỹ. Nhưng chuyến này, chủ yếu, tôi ở đậu, gặp người có nghiệm sinh, quan điểm, cách suy luận khác tôi.
Điều làm tôi ngạc nhiên nhất: gặp người Việt ở đây rất dễ. Không ai không biết lý lịch của tôi. Điều đó, tôi đã nêu rõ trong Hợp Lưu từ lâu và hơn một lần. Trần Vũ đã quảng cáo, theo lối nhìn của chàng, mới đây thôi trên HL67: chính ủy Việt Cộng. Tóm lại, trong thời chiến, tôi đứng bên kia chiến tuyến. Nói chuyện với nhau về lịch sử khó hơn, nhưng vẫn nói chuyện được. Tôi nhớ những buổi hàn huyên khuya với Hoàng Khởi Phong (tôi ở đậu nhà anh ấy suốt hai tuần). Cởi mở, thẳng thắn, chân tình. Tôi nhớ buổi uống rượu tại nhà Lâm Chương, buổi nhậu bia ở Cambridge với Lâm Chương, Nam Dao, Chân Phương và một bạn trẻ rất tử tế với tôi tuy mới quen nhau thôi. Trời ơi, nếu Lâm Chương viết văn khủng khiếp, duyên dáng như chàng kể chuyện thì... tuyệt vời.
Về sách tôi đã đọc (xin nhớ là rất ít), tôi có cảm giác thế này: có ba thời điểm, có ba giọng văn.
Thời điểm thứ nhất: nỗi đau mất nước, nhớ nhà, căm thù cộng sản, Việt-cộng. Giá trị ở nỗi đau, bằng tiếng Việt. Có những đoạn văn làm tôi thổn thức. Tuy trong hoàn cảnh, ý nghĩa khác, tôi cũng là người ‘mất nước’ ‘nhớ nhà’. Tôi đặc biệt thích quyển Truyện của một người di cư nhức đầu vừa phải của Nguyễn Bá Trạc.
Thời điểm thứ hai: thân phận của người, dù muốn dù không, cũng phải hoà nhập vào xã hội duy nhất lịch sử ban bố cho mình, ưng thuận hay phủ định nó. Tôi nhớ những câu chuyện của Trần Thị Kim Lan về những em Việt Nam di tản qua Mỹ, đã từng là học trò của chị. Tôi cảm nhận, học nhiều điều. Tôi có kinh nghiệm đó nhưng trong tư thế khác: tôi không có vấn đề để hội nhập vào xã hội Pháp.
Thời điểm thứ ba, rất lạ, có cả ở Việt Nam và ở hải ngoại: thổn thức về thân phận làm người hôm nay. Tôi phát hiện nó trong tập thơ đăng tác phẩm của 26 nhà thơ, bạn gửi tặng tôi trong lúc tôi ở Boston. Có những bài thơ khiến tôi thổn thức.
Tôi chỉ có thể nói thế thôi. Trong lĩnh vực văn chương, mỗi nhà văn đích thực có giọng văn riêng của mình, bất kể bàn tới đề tài chung nào của thời đại, bất kể thể loại. Do đó, ‘đặc tính’, ‘bản sắc’ của ‘dòng văn học hải ngoại’ hay ‘quốc nội’ là những khái niệm tôi không có khả năng hiểu. Shakespeare hay Lưu Quang Vũ thuộc dòng văn học nào, có đặc tính, bản sắc gì, chia sẻ những thứ đó với những ai? Tôi không biết. Tôi chỉ biết mê một số vở kịch của Shakespeare, Lưu Quang Vũ. Kịch của Nam Dao thuộc dòng văn học nào, có đặc tính, bản sắc gì, tôi chịu thua. Đọc những vở kịch ấy, qua nội dung, ngôn ngữ của chúng, nếu không quen Nam Dao, tôi dễ dàng nghĩ là của tác giả trong nước. Nhưng, rõ ràng, trong những tác giả viết kịch trong nước hay ở nước ngoài mà tôi có dịp đọc, chưa ai viết được như thế.
- Anh và Nina Mc Pherson đã giới thiệu cho độc giả thế giới nhiều tác phẩm của Dương Thu Hương, nhưng hình như ít độc giả VN cho văn DTH là hay, có lần báo Le Monde cũng ghi nhận như vậy. Anh nhận xét sao về hiện tượng này?
- Tôi đọc báo để tham khảo thông tin, không bao giờ dựa vào bài bình luận trong báo để đánh giá tác phẩm hay tác giả. Không có những thông tin ấy, tôi sẽ không biết tới vô số tác phẩm mà, cuối cùng, tôi thích. Nhưng, thú thực, sau này, những bài ấy khiến tôi không muốn đọc tác phẩm được giới thiệu, bình luận. Thật oan cho tác giả. Tôi chỉ có thể có ý kiến về tác phẩm hay tác giả sau khi đã đọc.
Về tiểu thuyết của Dương Thu Hương, tôi không biết ‘độc giả VN’ nghĩ gì. Tôi chỉ biết: tiểu thuyết của Dương Thu Hương đăng ở VN đều xuất bản lần đầu từ 20 000 tới 40 000 bản, tái bản nhiều lần. Ở Mỹ, Việt ngữ, có người nói với tôi, nhưng tôi không có khả năng kiểm tra, đó là những tiểu thuyết thuộc loại bán chạy nhất. Ở Pháp, trong bộ sách văn chương VN do tôi phụ trách tại nhà xuất bản Philippe Picquier, tiểu thuyết bán nhiều bản nhất là một tiểu thuyết của Dương Thu Hương. Các tiểu thuyết khác của chị đều bán khá. Hầu hết đã tái bản dưới dạng sách bỏ túi. Trên quốc tế, về số liệu, tôi không rõ lắm vì đó là chuyện làm ăn giữa những nhà xuất bản (nhà xuất bản các nước mua tác quyền của nhà xuất bản Des Femmes, Picquier) nhưng tôi biết có nhiều nước đã đăng hay sắp đăng tiểu thuyết của Dương Thu Hương: Mỹ, Anh, Úc, Nhật, Đức, Hà Lan, Tây Ban Nha, Ý, Na Uy, Indonesia, Pakistan, Israel. Tôi biết, trong khối xã hội chủ nghĩa xưa, ít nhất Liên Xô đã đăng. Bạn đọc có thể tham khảo trong trạm web của tôi: http://perso.wanadoo.fr/phanhuyduong/
Dĩ nhiên, tôi có đọc một số bài bình luận ở trong nước, ở hải ngoại về văn của Dương Thu Hương. Tôi không còn nhớ gì hết. Còn xì xào về vấn đề này trong làng chính trị hay làng văn, tôi nghe cho biết, thế thôi.
Riêng với tôi, tác phẩm đầu tiên của Dương Thu Hương tôi đọc là Bên kia bờ ảo vọng. Lúc ấy, Dương Thu Hương chưa là Dương Thu Hương ngày nay. Tôi đã đọc một mạch thấu đêm, nhòe cả mắt. Thời ấy, giấy xám xịt tới mức có lúc không phân biệt được với chữ, phải đoán mò. Ngay sau đó, tôi viết bài đọc sách: Bên kia bờ ảo vọng, thời gian và thế nhìn trong tiểu thuyết. Bài đó kết thúc vơiù câu: Cảm ơn tác giả. Vậy, tôi nghĩ gì về hiện tượng này ngay từ thời đó, độc giả có thể tham khảo trong quyển Vẫy gọi nhau làm người1 hay trên trạm web của tôi. Dương Thu Hương có tài kể chuyện, có đủ khí để viết truyện dài, có thừa tình để lôi cuốn độc giả suốt mấy trăm trang. Không phải ai cũng có cả ba điều ấy trong văn phong của mình.
- Còn ở hải ngoại thì trừ Trần Vũ với tập Mùa Mưa Gai Sắc, Khánh Trường với tập Có Yêu Em Không, anh không dịch ai khác? Có phải vì thiếu hấp dẫn có tính thị trường, hấp dẫn chính trị, thiếu ‘chất Việt Nam’?
- Thông tin của Miêng sai bét. Tôi đã dịch, cho đăng khoảng 40 tác giả, 60 tác phẩm, tôi không nhớ hết, trong đó có nhà văn VN ở khắp nơi. Đa số là nhà văn trong nước, nhiều thế hệ, rất khác nhau, từ Dương Thu Hương, Nguyễn Huy Thiệp, Bảo Ninh, Phạm Thị Hoài tới Phan Thị Vàng Anh, Phan Huyền Thư, v.v. Người thành danh ở miền Nam trước 1975 có: Cung Tích Biền, Nguyễn Thị Minh Ngọc. Ở Pháp có Trần Vũ, Ngọc Khôi. Ở Mỹ, có Khánh Trường, Lê Bi, Đỗ Kh. Ở Úc có Mai Nguyễn. Ngoài tác phẩm do tôi dịch, còn có tác phẩm do người khác dịch, tôi chủ trương đăng, trong đó có tác phẩm của Nhã Ca. Tôi đã đăng trong bộ sách do tôi đảm nhiệm tác phẩm của một tác giả Pháp viết bằng tiếng Pháp nhưng liên hệ tới VN, và có giá trị văn chương. Nhân tiện đây, một lần nữa, cho phép tôi mời độc giả HL vào trạm web trên nếu muốn biết danh sách tác giả, tác phẩm tôi đã dịch, đã đăng.
Khi định dịch một tác phẩm, không bao giờ tôi nghĩ tới ‘tính thị trường’ hay không vì lý do đơn giản: tôi không có khả năng tiên đoán điều ấy. Nhà xuất bản quyết định đăng hay không, gánh rủi ro của quyết định ấy. Tôi chỉ nói: tác phẩm này đáng đăng, tôi đề nghị đăng, tôi chịu trách nhiệm về lời nói đóù. Kết quả, nhiều bất ngờ mà ngay chuyên gia về kinh tế thị trường cũng không đoán được! Thí dụ: The Dragon Hunt của Trần Vũ được tờ New York Times hay New Yorker, tôi không nhớ nữa, liệt vào 1 trong 20 tác phẩm hư cấu hay nhất đăng năm 1999 tại Mỹ trong khi Sous une pluie d’épines, ở Pháp, do nhà xuất bản văn chương lớn, Flammarion, xuất bản, chẳng ai đề cập tới. Còn kết quả ‘thị trường’, tôi chỉ biết một năm sau khi đã đăng, lúc nhà xuất bản báo cáo kết quả bán sách. May thay, cũng khá nên tôi thực hiện được điều tôi ao ước: tạo một bộ sách văn chương Việt Nam tại Pháp.
Còn ‘hấp dẫn chính trị’ thì... hỡi ơi! Những năm 90-92 còn có thể hình dung được. Sau đó, độc giả tây âu bình thường, còn ai lưu tâm tới khía cạnh ấy? Nhiều người không biết Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp, Ngô Đình Diệm là ai! Tình hình chính trị VN, có mấy người quan tâm tới? Mỗi năm cả triệu du khách thăm VN mà. Nhưng thôi, hãy cho tôi biết, trong mấy chục tác phẩm tôi đã dịch và/hay đăng, tác phẩm nào có tính ‘hấp dẫn chính trị’ đối với độc giả Phú Lăng Xa từ những năm 90 tới nay? Quyển Bên kia bờ ảo vọng, mới xuất bản cách đây không lâu ở Pháp và Mỹ, đăng ở VN đã gần 20 năm, nói về một xã hội đã tiêu vong từ lâu. Vậy mà vẫn được đón nhận nồng nhiệt. Ở Pháp đã tái bản dưới dạng sách bỏ túi, năm ngoái vẫn bán chạy! Kích thước ‘hấp dẫn chính trị’ của nó ở chỗ nào? Ở tên tác giả? Nếu thế, tôi mừng, tác giả là người tôi quý mến. Tôi quý nhiều tác phẩm khác, dịch và đăng. Tại sao chúng không thành công như vậy? Quyển Terres des éphémères có truyện ngắn của 15 tác giả VN, ở trong nước, ở nước ngoài, bán chạy. Chỉ liếc qua cũng thấy các tác giả ấy rất khác nhau về mặt chính trị.
Tất cả sách tôi đã dịch hay đã đăng đều có ‘chất Việt Nam’. Những tác giả khác nhau, văn phong khác nhau. Có gì chung giữa Bảo Ninh, Khánh Trường, Trần Vũ, Nhã Ca? Có điều này: họ đều đã phải gánh thân phận làm người Việt trong thế kỷ 20. Thân phận của họ, cụ thể, khác thân phận của tôi. Tình cảm, kiến thức, phương pháp suy luận của họ khác tôi. Nhưng tôi chia sẻ. Tôi cũng mong người đời chia sẻ phần nào những gì tôi đã viết và đăng. Với kiểu đặt câu hỏi này, tôi e rằng sẽ chẳng ai chia sẻ bất cứ một điều gì .
- Những tác giả khác không đủ hay, hay không đáng để dịch?
- Nếu tôi phải dịch tất cả những quyển sách tôi thấy hay, từ tiếng Việt qua tiếng Pháp hay ngược lại, tôi phải quỳ gối lạy Thượng Đế cho tôi sống lâu như Mathusalem. Tôi không thích quỳ. Tôi dịch sách tôi thèm dịch, có khả năng dịch. Có sách tôi thích mà thấy mình không dịch nổi, thơ Hồ Xuân Hương chẳng hạn. Có sách tôi thấy hay mà không có nhu cầu dịch. Tôi có nhu cầu dịch văn khi, đọc một tác phẩm, tôi cảm thấy đã gặp một người, thèm chia sẻ thân phận làm người của người ấy. Tôi dịch văn để chia sẻ, trong ngôn ngữ khác, cuộc gặp gỡ ấy với người đời.
Về nghệ thuật dịch văn, tôi đã trình bầy quan điểm của tôi trong Vẫy gọi nhau làm người, xin miễn nhắc lại ở đây.
- Với tư cách người giới thiệu văn chương VN ít nhứt là cho độc giả tiếng Pháp, anh tư ïđánh giá là mình làm đúng hay không?
- Miêng là người giới thiệu văn chương quốc tế, ít nhất là cho độc giả tiếng Việt. Miêng tự đánh giá mình làm đúng hay không? Nhớ trả lời tôi ở đây khi đăng bài phỏng vấn này nhé.
Không ai trao tôi trách nhiệm khổng lồ ‘giới thiệu văn chương VN’. Có ai dám trao, tôi cũng từ chối: tôi không có khả năng làm chuyện ấy. Bản thân tôi chẳng bao giờ tự khoác cho mình trách nhiệm ấy. Tôi dịch tác phẩm tôi thích, có nhu cầu dịch để chia sẻ một cuộc gặp gỡ với người đời, thế thôi. Nếu độc giả thích, tôi mãn nguyện. Nếu tác giả cũng thích nốt thì... tuyệt! Không có gì đảm bảo điều ấy. Dịch văn là nỗi đam mê, phải trả giá như trả giá cho mọi đam mê trong đời người.
- Được biết gần đây, anh dành rất nhiều thì giờ để hoàn tất biên khảo về Derrida? Xin hỏi anh vì sao thế giới công kênh Derrida như một mỹ học mới, mà PHĐ lại thấy cũ, như anh thường nói giữa bạn bè, "Derrida bình cũ, rượu cũ và cách tiếp thị cũng cũ"?
- Không gần đây. Chuyện đã xưa rồi, khi ông Derrida xuất bản quyển Spectres de Marx (Những Bóng Ma của Marx), năm 1993. Tập san Triết của Nguyễn Hữu Liêm bên Mỹ yêu cầu tôi viết bài tường thuật hay giới thiệu vì quyển sách đó chưa dịch qua tiếng Anh. Tôi có gặp ông Derrida đôi ba lần trong những buổi nhà xuất bản Des Femmes tổ chức để bảo vệ Dương Thu Hương, Taslima Nasreen. Do đó, tôi có thiện cảm với ông. Nhưng tôi mù tịt về triết lý của ông. Lúc đó, tôi bận. Tôi bèn trả lời báo Triết: tôi mua, gửi cho các bạn quyển sách ấy, bên Mỹ đầy người Việt sành tiếng Pháp, các bạn đọc, viết lấy, lúc này tôi không có khả năng viết. Tôi nhớ, gần Trung tâm Georges Pompidou, trong một phố nhỏ, có tiệm sách nhỏ chỉ trưng sách triết. Tôi đến đó, hỏi mua. Nàng bán sách, trẻ, đẹp, nói "có", đi vào nhà trong, mang quyển sách ra. Tôi ra quầy trả tiền. Nàng nhìn tôi, hỏi:
- Ông thích Derrida hả ?
- Không. Tôi không biết gì về triết lý của ông ấy.
- Tôi đọc mà chẳng hiểu gì cả.
Tôi tò mò bắt chuyện, giựt mình: kiến thức triết của nàng hơn bứt tôi. Nàng nói mạch lạc về các triết gia mà tôi biết sơ sơ như Kant, Hegel, Husserl, Marx, Sartre, Althusser, Foucault. Té ra nàng có maitrise (4 năm sau tú tài Pháp) về triết, mở tiệm bán sách triết vì nàng mê triết. Tại sao nàng lại không hiểu nổi ông Derrida? Những phát biểu của ông Derrida tôi đã có dịp đọc hay nghe chẳng có gì khó hiểu. Tôi bèn nói:
- Cô bán cho tôi một bản nữa. Tôi cần gửi một bản qua Mỹ. Nói chuyện với côø, tôi muốn đọc quyển sách này.
Tôi đọc. Khó hiểu thật. Tôi ghét triết gia viết hàm hồ, ai muốn hiểu gì thì hiểu. Nhưng tôi biết, khi người ta có điều mới muốn nói với đời mà phải trình bày nó với một ngôn ngữ cũ rích, tự nó đã chuyên chở những ý niệm cũ rích, thì chỉ còn hai cách: làm thơ hay vặn vẹo ngôn ngữ, bắt nó làm toát điều mình muốn nói. Trường hợp của Hegel, Sartre, Marx, những tác giả đã khiến tôi ‘điên đầu’ nhưng vẫn quý trọng. Tôi thấy ông Derrida sử dụng tiếng Pháp điêu luyện. Tôi liền nghĩ: người sử dụng tiếng Pháp đến thế, chắc có điều mới lạ cần trình bầy. Tôi có chút hiểu biết về tư tưởng của Marx, vậy tôi có thể hiểu ông Derrida khi ông bàn luận về Marx. Tôi đã bỏ 2 năm phân tích quyển sách ấy. Càng đào sâu, càng thất vọng. Khi ông Derrida viết điều gì khả dĩ hiểu được, điều ấy cũ rích, thô sơ: nhại Kant trong tranh luận với Fukuyama, nhại Marx một cách máy móc khôn tả khi thao thao bất tuyệt về media, nhại Engels khi hùng hồn bàn về con người ‘hậu lịch sử’(sic) , văn phong cực bay bổng nhưng nội dung nghèo nàn, vớ vẩn, thua xa Engels! Tôi bực mình, tính dẹp, nhưng lại nghĩ: mình đã mất công đến thế, nên viết những phê phán đó thành lời, lúc đó mới là phê phán. Xưa nay, tôi vẫn nghĩ: những gì chưa biến thành lời chưa là tư duy. Tôi bèn viết quyển Les spectres de M. Derrida (Những bóng ma của ông Derrida). Viết xong, qua một người quen, tôi gửi cho Collège International de Philosophie, một cơ quan do chính ông Derrida thành lập để tập hợp, tổ chức sinh hoạt cho một số triết gia có máu mặt đương thời. Lúc đó, ông Derrida vẫn còn là ủy viên ban trị sự. Đối với tôi, đó là phép lịch sự của người Ziao Chỉ. Vài tháng sau, tôi nhận một lá thư của đương kim chủ tịch Ban trị sự của Collège International de philosophie thông báo, như một nhà xuất bản: họ đã tổ chức một buổi thảo luận ‘bổ ích’ (fructueuse) về quyển sách của tôi. Mặc dù nó có giá trị (malgré ses qualités), họ không thể xuất bản vì mỗi năm họ chỉ có thể xuất bản rất ít sách, v.v. Tôi bật ngửa. Tôi không hề biết Collège International de philosophie xuất bản sách! Chẳng mấy ai biết điều đó, người ta thường biết Collège International de philosophie qua sinh hoạt công cộng do nó tổ chức. Tôi ngạc nhiên rằng cơ quan ấy có thể tổ chức thảo luận về quyển sách của tôi mà không mời tác giả tham dự trong khi tác giả sống kề đó. Nếu là một quyển sách họ mua ở tiệm sách mang về thảo luận với nhau thì dễ hiểu. Nhưng quyển sách chưa xuất bản ở đâu cả, do một tác giả vô danh tiểu tốt gửi tới! Vì sao lại thảo luận? Mà chẳng thèm mời tác giả tham dự? Tôi vứt quyển sách vào ngăn kéo, làm chuyện khác. Quá trình viết nó đã khiến tôi trở lại với triết học, đọc lại những tác phẩm quan trọng đã ảnh hưởng tư duy của tôi, đọc thêm vài quyển sách khác, đương đầu với bế tắc tư tưởng tôi mang trong mình từ lâu. Tôi bắt đầu có nhu cầu giải quyết nó. Tôi dẹp mọi chuyện, trải tờ giấy trắng trước mặt, viết quyển Penser Librement. Lại 2 năm. Nhưng sảng khoái hơn nhiều: lần đầu tiên trong đời, tôi có khả năng phê phán cả Sartre lẫn Marx. Cảm ơn ông Derrida?
Ở Pháp, ông Derrida thuộc loại triết gia tả khuynh thường thường bực trung. Ông thành danh ở Mỹ, trong làng văn học ‘hậu hiện đại’ Mỹ. Có lẽ báo chí Pháp chú ý tới ông nhiều nhất nhân dịp Sokal-Bricmont tranh luận với tạp san ‘hậu hiện đại’ Social Text ở Mỹ. Câu chuyện thế này. Sokal (Mỹ, tả khuynh) và Bricmont (Bỉ) là hai nhà khoa học vật lý lý thuyết có nhiều kiến thức văn hoá. Họ theo rõi trào lưu văn học do Social Text chủ trương, thấy dùng nhiều từ ngữ khó hiểu của vật lý hiện đại, nhưng khi họ đọc họ không hiểu gì cả. Họ bèn viết một bài rất kêu, rất kẻng, vận dụng những ‘khái niệm’, văn phong quen thuộc của Social Text. Sau khi Social Text đăng bài đó, họ tuyên bố: không những bài đó
chẳng có ý nghĩa gì cả mà còn chứa vài luận điểm mà một sinh viên năm thứ nhất trong môn vật lý có thể thấy là sai bét. Sokal-Bricmont ghẹo Social Text, nhưng những nhà lý luận văn học Mỹ trong tậïp san đó hay trích dẫn ông Derrida và vài nhà tư tưởng Pháp khác. Do đó, anh Tây động lòng, ông Derrida, cùng một số người khác, qua nhật báo Le Monde, nhẩy vào cuộc tranh luận đó. Kết quả, vài bài trên báo Le Monde, hai quyển sách: Imposture intellectuelle (Sự gian trá tri thức) của Sokal-Bricmont và Imposture scientifique (Sự gian trá khoa học) của ông Derrida và một số tác giả Phú Lang Xa khác. Theo rõi cuộc tranh luận ấy, tôi thấy Sokal-Bricmont đúng khi nhận xét: ông Derrida không trả lời phê phán của họ, lách qua vấn đề khác.
Về ông Derrida, ở đây, tôi không thể nói hơn. Làm như thế, hơi mất dậy: ông Derrida không có khả năng đọc Hợp Lưu, trả lời phê phán của tôi. Tôi thường nghĩ, khi mình tranh luận với triết gia Tây Âu, nên nhẩy vào ‘sân chơi’ của họ, tranh luận với họ trong ngôn ngữ của chính họ như Trần Đức Thảo tranh luận với Sartre, Kojève, v.v. thủa nào. Thế mới đàng hoàng, tử tế. Còn các ông ấy có thèm trả lời hay không là chuyện khác. Tôi sẽ công bố quyển Les spectres de M. Derrida trên trạm web của tôi, tháng 11-2003, trừ chương cuối không dính dáng gì tới ông. Trong chương đó, nhân dịp ông Derrida tán dóc về học thuyết kinh tế của Marx, tôi phê phán vài điểm trong học thuyết ấy. Ông Derrida, độc giả tiếng Pháp, có thể tham khảo nguyên văn và, nếu muốn, tranh luận bình đẳng về mặt ngôn ngữ, internet với tác giả. Đảm bảo cười pể pụng a!
Tôi chỉ biết sơ sơ triết lý của ông Derrida. Còn mỹ học của ông, tôi xin miễn bàn. Tôi không biết. Từ khi đọc triết lý rất ‘văn chương’ của ông, tôi không có nhu cầu biết.
- Vậy thì anh nghĩ gì về mỹ học hậu hiện đại hay chủ nghĩa hậu hiện đại? Đây có phải là lối thoát, là con đường tất yếu của văn chương nói chung và văn chương VN nói riêng không?
- Tôi không hiểu câu hỏi của Miêng. Trong lịch sử, mọi thời điểm đều có hiện tại, quá khứ, tương lai, có một cái gì đó người ta gọi là đương đại hay hiện đại so với tiền hiện đại và... hậu hiện đại. Nếu, trong suy luận của người đương đại, hiện tại ấy quá tồi (thời mạt văn) thì tiền hiện đại hay hậu hiện đại kia cũng chẳng ra gì. André Gide, Camus quý trọng truyền thống cổ điển như mẫu mực của văn chương, nhưng văn phong của họ, trong thời họ, cực kỳ mới. Bản thân Sartre cũng vậy. Chàng lập tạp chí Les temps modernes (Thời hiện đại) trong ý: quan điểm văn học đương thời cổ hủ, không đáp ứng nhu cầu của con người. Đại bộ phận nhà phê bình văn chương thời ấy đều thấy rằng chàng viết văn cổ điển, có người còn nói: văn của thế kỷ 19. Có phần đúng, nhưng cơ bản ngu ngốc: không thấy chàng đã kéo cả văn học kia vào thế kỷ 20. Thí dụ điển hình: Flaubert, với 3 quyển L’Idiot de la famille (Thằng ngốc của gia đinh). Con người không có quá khứ của nhân loại chỉ là một con thú lanh lợi. Văn chàng vừa cũ, thế kỷ 19 thực, vừa mới, trong thế kỷ 20 ít ai bằng! Văn Trần Đức Thảo, cuối đời, tuy tản mạn hơn, cũng như vậy, thường nuốt không trôi, cũ kỹ hơn cả văn của Sartre do chàng bị nhốt quá lâu, nhưng có những đoạn trác tuyệt. Nhà văn lớn như vậy, có chiều sâu của lịch sử, của văn học, và có cá tính của chính mình. Như, trong lĩnh vực khác, Marx đã kéo cả Kant, Hegel vào thời đại của nền văn minh tư bản!
Những từ ngữ kêu, kẻng ấy, đối với tôi, chẳng có ý nghĩa gì hết. Kịch của Shakespeare thuộc loại cổ lỗ sĩ, hiện đại hay hậu hiện đại mà thiên hạ dựng tới dựng lui dưới những hình thái khác nhau, ngay cả hôm nay? Mới tháng bẩy vừa qua, tôi đi Grenoble xem một vở kịch của Shakespeare do con tôi dựng với một đám sinh viên lau nhau. Tôi cười rũ rượi, thích. Không dính dáng gì hết với những gì tôi đã từng xem, kể cả ở Avignon, nhưng đúng là kịch của Shakespeare! Kịch Hồn Trương Ba Da Hàng Thịt của Lưu Quang Vũ thuộc loại gì mà năm nay người ta đem trình diễn ở London? Truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp thuộc trường phái nào mà tháng chín này thiên hạ tìm hiểu tại Stockholm ở Thụy Điển và Cahors ở Pháp?
Tôi không thích sắp xếp nhà văn theo kiểu Linné sắp xếp các loài sinh vật, Darwin bàn về quá trình biến hoá của các loài sinh vật hay Engels bàn về quá trình phát triển của tư duy khoa học. Tôi biết, đôi khi cần nói ‘vắn tắt’ về văn chương của một thời đại, người ta cần tạo một ‘khái niệm’ vu vơ, gắn cho nó vài ‘thuộc tính’ hình thức để nêu danh. Đó là cách trao đổi thông tin như nhiều cách khác, khi cần, dùng cũng tiện. Nhưng không thể dùng những ‘khái niệm’ ấy để suy luận về văn chương. Suy luận kiểu này, ở Pháp, bắt đầu có từ cuộc tranh luận văn học giữa phái ‘cổ điển’ với phái ‘hiện đại’, la querelle des anciens (hoặc classiques) et des modernes. Tôi miễn lè nhè trở lại, mất thời giờ độc giả. Chỉ xin nêu ý này: trong cuộc tranh luận ấy, từ cổ điển chỉ một số đại văn hào Pháp của thế kỷ thứ 17: Corneille, Racine, Molière, Bossuet, La Fontaine, Boileau, Pascal, La Bruyère, v.v. Ai đã liếc qua tác phẩm của họ đều thấy: hết sức khác nhau, thậm chí không có gì chung cả, về tư tưởng, nhục cảm, văn phong. Nhưng vẫn có điều gì chung với người đời nay. Do đó, ngày nay, đọc lại, ta vẫn rung cảm. Chính vì thế, tên tuổi của họ còn tồn tại tới ngày nay. Giữa những nhà văn sáng tác trong những thể loại khác nhau, điều đó, hời hợt, có thể coi là tự nhiên. Nhưng giữa ba kịch tác gia lớn, Corneille, Racine, Molière, thì thế nào? Chẳng có gì chung cả, ngoài luật lệ về phép dựng kịch thời đó: unité de lieu, de temps, d’action (một chuyện, ở một nơi, trong một ngày). Biết bao nhiêu người viết kịch như thế trong thời đó? Ngày nay ai nhớ tới? Cứ như thơ đường luật ấy mà. Lùa tất cả nhà thơ Ziao Chỉ từ cổ tới kim vào một rọ, coi sao được? Hồ Xuân Hương sẽ đá phóc tất cả khỏi sân thơ của nàng. Trong văn chương Ziao Chỉ, thậm chí trong văn chương thế giới, không thể có một Hồ Xuân Hương thứ hai.
Racine không thể viết như Corneille [theo trí nhớ]:
Je suis maýtre de moi comme de l’univers
Je le suis, je veux l’être...
Ta là chủ của chính ta cũng như của cả vũ trụ
Ta là thế, ta muốn vậy...
Nhưng Corneille viết cạn đời cũng không thể sáng tác thơ tình quyết liệt, bi ai như Racine. Còn Molière, tôi không dám bàn. Xin hỏi ý của Lưu Quang Vũ, Nam Dao.
‘Văn chương’ là cái quái gì mà cần lối thoát ? Nếu quả thực ‘văn chương’ có thực, đang hấp hối, đang tìm lối thoát, tôi xin mang ít giấy mực, thực phẩm hết sức cần thiết cho chuyện viết lách, ân cần thăm hỏi: chúc mày may mắn. Thế thôi. Thân phận của ‘văn chương’ không thiết thân lắm đối với tôi. Kiếm cơm cháo cấp bách hơn nhiều. Những điều ‘văn chương’ lo âu vượt khả năng hiểu biết của tôi. Con thú cần lối thoát khi sinh mệnh của nó bị uy hiếp. Con người cũng vậy. Ngoài ra, con người, trong cuộc sống hôm nay, trong thế giới hôm nay của mình (và của người khác!) có thể thấy ngộp, cần lối thoát, vì nó đã mất khả năng thực hiện nhân cách của nó, vì tư tưởng của nó bế tắc hoặc vì một trăm lý do khác. Lúc đó, nó có thể có nhu cầu sáng tác nghệ thuật, văn chương. Đó cũng là một cách làm người. Đó mới là chuyện đáng bàn vì chúng ta đều là người cả. Vì, dù muốn dù không, thế giới này là của chung, chúng ta chẳng thể có thế giới thực khác. Còn thế giới ảo của riêng từng người, xin mỗi người tùy tiện, tôi không dám có ý kiến. Nhiều nhất là chuyện Bá Nha Tử Kỳ, không nên lè nhè trong một cuộc phỏng vấn với Hợp Lưu.
Còn ‘tất yếu’ trong văn học, tôi không có khả năng hiểu. Là thằng kiếm ăn trong lĩnh vực sử dụng máy tính điện tử, tôi hiểu tính tất yếu của một số quá trình vận động của vật chất trong một số khuôn khổ hành động của còn người. Thế thôi.
Có quy luật gì khiến Miêng ‘tất yếu’ thấy một áng văn hay, một người đàn ông quyến rũ? Ê, trước khi thử nghiệm vấn đề thứ hai này, nên hỏi ý lệnh lang nhe, không thì ‘tất yếu’ sẽ thấy ‘địa ngục, chính là tha nhân’ đó.
- Còn hiện thực huyền ảo, anh nghĩ gì về dòng văn này? Anh phân biệt thế nào giữa văn cổ điển và lối hành văn cách tân, chẳng hạn phong cách ‘hậu hiện đại’? Và nếu cho rằng cổ điển mà hay vẫn hơn cách tân, thì phải chăng văn chương không cần đổi mới?
- Tôi không biết ‘hiện thực huyền ảo’ là gì cả. Khi các tác giả bị nhốt vào cũi nhãn hiệu ấy viết tác phẩm lừng danh của họ, thuật ngữ ấy chưa có trong làng văn học. Tôi mê Cent ans de solitude, La danse immobile, Le partage des eaux, v.v. Tôi có đọc vài tác giả tự xếp mình cùng với những tác giả của những tiểu thuyết trên sau từ ngữ ‘hiện thực huyền ảo’. Tôi không còn nhớ gì về họ cả. Có thể họ là môn đồ của chủ nghĩa ‘hiện thực huyền ảo’, tôi không có khả năng chứng minh ngược lại nhưng, với tôi, họ không là nhà văn: họ không để lại một điều gì trong tôi cả.
Ê, nếu ‘hiện thực huyền ảo’ nghĩa là pha trộn chi tiết ‘hiện thực’ với chi tiết ‘huyền ảo’ trong câu chuyện, chỉ cần đọc truyện Thạch Sanh Lý Thông là có đủ. Gần đây, đọc Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh hay Tiểu thuyết vô đề của Dương Thu hương cũng thế. Trong văn chương đích thực, mọi chuyện đều huyền ảo, đều thật (authentique, khái niệm của Sartre; chân thật, chứ không phải có thực như Tháp Eiffel có thực trên bờ sông Seine, hay chân tình, theo kiểu nói của tôi). Chỉ nhà văn đích thực mới đạt được, như Borgès với người Tây Âu chẳng hạn. Vấn đề của nhà văn chỉ ở chỗ này: độc giả cảm nhận anh (chị) thật hay không. Hành văn mà chỉ có kỹ thuật, vứt đi. Như best sellers viết theo đơn đặt hàng ấy mà. Thí dụ: Gone with the wind (Cuốn theo chiều gió), tập 2. Tôi chưa từng thấy một lý luận văn học có thể biến tác phẩm văn chương dở thành hay. Ngược lại, tác phẩm văn chương hay, dù bị chê bai lúc ra đời, cuối cùng vẫn kiếm được độc giả của mình. Thí dụ, từ Rabelais tới những nhà văn hiện đại của Pháp, đầy rẫy.
- Anh phân biệt thế nào giữa văn cổ điển và lối hành văn cách tân, chẳng hạn phong cách ‘hậu hiện đại’?
- Văn Lưu Quang Vũ, Nguyễn Huy Thiệp, Bảo Ninh, Cao Xuân Huy, Trần Vũ, Nam Dao, v.v. và v.v. là văn ‘cách tân’, ‘hậu hiện đại’. Trong nhiều năm nữa! Hè hè! Những thứ văn khác, nếu không mở một chân trời mới cho tôi, cho ngôn ngữ tôi dùng để suy nghĩ, cảm nhận, ngôn ngữ Ziao Chỉ, vì tôi vốn là người Ziao Chỉ, tôi coi như... mất thời giờ, còn bàn gì tới văn với vẻ. Còn văn của tác giả tự vỗ ngực ‘hậu hiện đại’, tôi xin đọc trước khi có ý kiến, nếu tôi còn nhớ một cảm giác sau khi đã đọc. Không phải không có. Có những bài thơ trong tập thơ của 26 nhà thơ tôi đọc ở Boston năm nay, tới nay tôi còn nhớ, còn muốn đọc lại. Phải rõ ràng: trong quyển sách ấy không có vấn đề ‘hậu hiện đại’, nhưng, theo tôi biết lờ mơ,ø có tác giả chủ trương chủ nghĩa hậu hiện đại. Tôi không quan tâm điều đó, chỉ đọc thơ, rung cảm hay không, như mọi độc giả. Tôi không giải thích nổi những bài thơ tôi thích ‘hậu hiện đai’ ở chỗ nào. Tôi chỉ biết: hay! Chỉ có thể viết: vì sao tôi thấy hay. Và mong người đời thấy hay, càng lâu càng tốt. Trong mấy số Hợp Lưu mới đây, có mấy truyện ngắn, bài thơ, đoạn trích tiểu thuyết khơi trong tôi cảm giác ấy. Nếu mấy tác giả ấy tự cho mình là ‘hậu hiện đại’, tôi hoan nghinh ‘trào lưu hậu hiện đại Ziao Chỉ’. Nếu không, tôi vẫn thích. Cho phép tôi nhố nhăng một lời, đâu phải lúc nào cũng có dịp được đăng trên Hợp Lưu: nếu có điều gì ấm ức trong lòng, tha thiết cho mình, cho đời, hãy viết đi, bằng tiếng Ziao Chỉ đích thực, bất kể hình thái, với văn phong kinh điển hay ‘hậu hiện đại’ cũng được, nhưng phải là văn phong của chính mình. Tôi thèm đọc những áng văn như thế.
Đối với tôi, không có văn cổ điển đối chọi với văn cách tân, càng không có văn hậu hiện đại. Có tác phẩm đáng gọi là văn chương và các thứ còn lại. Tác phẩm văn chương là tác phẩm, khi tôi đọc, khiến tôi khát khao ‘làm người’. Xin lỗi, tôi chỉ ‘trích’ được một câu nói tầm thường của người Ziao Chỉ, không trích nổi bất cứ một ‘minh triết’ hay một nhà ‘mỹ học’ trong văn học Tây Âu mà tôi có dịp đọc, ngoài Sartre khi chàng nói vói tôi tại Toà án Bertrand Russell ở Stockholm: ‘J’essaie de faire mon métier d’homme’ (Tôi cố hành nghề làm người của tôi). Khái niệm ‘nghề làm người’ của Sartre gắn liền với khái niệm ‘lao động là nhân cách’ của Tây Âu trong thế kỷ 19 và 20, khiến người bị sa thải thấy mình mất nhân cách. Tôi không có quan điểm đó, không coi làm người như nghề. Làm người hay yêu, với tôi, là một nghệ thuật. Nhưng tôi quý câu ấy. Nó nói với tôi một điều gì của một nền văn minh. Trong nền văn minh ấy, thời trung cổ, người có tay nghề (thủ công) là người đầu tiên thoát khỏi thân phận nông nô. Tay nghề của họ đã giúp họ nên người tự do.
- Và nếu cho rằng cổ điển mà hay vẫn hơn cách tân, thì phải chăng văn chương không cần đổi mới?
- Miêng ơi, đừng giận nhé, tôi mượn câu hỏi rất phổ cập này để đả kích một lối suy luận thiết thân của tôi trong lĩnh vực khoa học, kỹ thuật nhưng tôi kỵ trong lĩnh vực văn học: suy luận theo lôgíc hình thức. Hãy coi như tôi đả kích chính mình. Đó là phản ứng thường tình của tôi, nhất là khi tôi mê một điều gì, một ai.
Ta khẳng định khơi khơi khái niêm ‘cổ điển’ như một cái gì có thực, rồi gán cho nó thuộc tính ‘cũ’. Tiếp theo, ta khơi khơi khẳng định khái niệm ‘cách tân’, gán cho nó thuộc tính ‘mới’. Rồi ta tán tới tán lui về quan hệ, thậm chí về cuộc tranh chấp một mất một còn giữa cũ và mới, giữa cổ điển và cách tân. Như mấy ông quan tư tưởng cộng sản ấy mà! Trong lịch sử của phong trào cộng sản trong thế kỷ 20, không phải chuyện đùa đâu, học tập cải tạo mục xương đó. Tôi không ngờ, trong thế giới đã chiến thắng chủ nghĩa cộng sản kiểu thế kỷ 20, lối suy luận ấy trong văn học vẫn thịnh hành. Nói đùa vậy thôi. Tôi đã hiểu hai thế giới ấy là một, vì sao.
Ai thích trò chơi này, xin nhẩy vào cuộc đấu đá giữa Les anciens et les Modernes trong văn học Pháp thủa xưa. Tôi không có khả năng tham gia.
Đùa tí nhé: câu hỏi của Miêng ‘cổ điển’, câu trả lời của tôi ‘cách tân’. Nghĩa của nó thế này: đúng, con người là một vật thể, nhưng nó không chỉ là một vật thể, không nên bàn về nó trong một tập san văn học trong khuôn khổ hạn hẹp (tuy đúùng trong quan hệ giữa người với vật thể, năng khiếu sáng tạo kỹ thuật ấy mà) của lôgíc hình thức. Hẳn Miêng đã từng yêu, đã từng ghen. Hãy thử vận dụng kiểu suy luận này về những hiện tượng ấy xem? Khá nhất là không hiểu gì hết. Tôi không chúc bất cứ ai hiểu được trong khuôn khổ đó: sẽ trả giá nặng, vô bổ, vô tình. Tôi càng không chúc bất cứ ai cầm bút hành văn trong cũi suy luận đó.
- Và về văn học hiện sinh, anh có thể cho biết thế nào là tác phẩm theo dòng hiện sinh, tại sao nó có giá trị vượt trội hơn tác phẩm không hiện sinh? Theo anh, ngoại quốc có tác phẩm nào và Việt Nam có tác phẩm nào theo dòng này?
- Làm sao tôi trả lời được! Bản thân Sartre đã tuyên bố về từ ‘hiện sinh’:
Beauvoir 1940
«Le mot est idiot. Ce n’est d’ailleurs pas moi, comme vous le savez, qui l’ai choisi: on me l’a collé et je l’ai accepté. Aujourd’hui, je ne l’accepterais plus. Mais personne ne m’appelle plus ‘existentialiste’, sauf dans les manuels, où cela ne veut rien dire2.
Đó là một từ ngữ ngu ngốc. Như ông biết, tôi không hề chọn nó, người ta đã gán nó cho tôi và tôi đã chấp nhận. Hôm nay, tôi sẽ không chấp nhận nữa. Nhưng cũng chẳng còn ai gọi tôi là ‘[triết gia] hiện sinh’ nữa, trừ trong sách giáo khoa cho học trò, nơi nó chả có nghĩa gì cả.»
Tôi chỉ có thể nói, tôi đã đọc đi đọc lại, hiểu sơ sơ triết lý của Sartre, có thể nhại chàng trong một số vấn đề, nói đằng sau những câu văn nổi tiếng của chàng hay Simone de Beauvoir, có suy luận triết lý nào. Trong nghĩa đó, tôi chưa may mắn được đọc một tác giả VN đã trình bày triết lý ấy một cách chung thủy, rõ ràng, dễ hiểu như Francis Jeanson. Tôi chưa may mắn được đọc một tác phẩm văn chương Việt Nam trong đó tôi nhận diện nội dung tư tưởng của Sartre. Nhại hình thức thì có, và dở. Còn người tự nhận là đệ tử của Sartre, thậm chí vượt Sartre, có nhiều trên thế giới. Đọc họ, có lúc tôi thấy đúng vậy, có lúc tôi thấy không. Làm sao có thể bàn chuyện này về từng tác giả trong một cuộc phỏng vấn? Tôi không dám đâu.
- Tại sao tác phẩm của Sartre ‘có giá trị vượt trội hơn tác phẩm không hiện sinh?’
- Miêng cứ hỏi ủy ban Nobel thì biết. Những tác phẩm Miêng gọi là hiện sinh, có tác phẩm tôi biết, có tác phẩm tôi không biết, đoán mò vậy thôi: Miêng không nêu bất cứ tên tác phẩm nào. Trong những tác phẩm tôi biết, thỉnh thoảng, khi tôi đọc, tôi có thể thấy: câu văn này thể hiện tư tưởng của Sartre, như khi tôi viết Vẫy gọi Nhau Làm Người, thỉnh thoảng, tôi ý thức rõ: câu văn này là tư tưởng của Sartre diễn Nôm. Thí dụ, trong bài Niềm tin khủng khiếp, câu: ‘Tâm hồn nó trong veo, trong suốt, trong tới mức khả nghi’. Sự nghi hoặc kia, đương nhiên, gợi nhớ nghi vấn về sự hiện hữu của chính mình, khởi điểm và nền tảng trong triết lý của Descartes. Còn ‘Tâm hồn nó trong veo, trong suốt’ thì quả là Sartre diễn Nôm. Tôi chưa hề che dấu rằng Sartre và Marx là hai người đã ảnh hưởng sâu đậm vào tư duy, cuộc đời của tôi. Còn lại, những câu văn khác của tôi thể hiện điều gì, ở đây, tôi không dám bàn, phải tính tới ngân quỹ của Hợp Lưu chứ!
Có ít nhất ba lý do khiến tác phẩm văn chương của Sartre ‘vượt trội’:
a/ Tác phẩm ấy đương đầu với thân phận làm người trong một thời đại. Quyết liệt, sâu sắc, phong phú. Ai cũng biết chàng chủ trương văn chương dấn thân. Điều ấy phù hợp với nhu cầu hiểu đời, làm người của nhiều độc giả.
b/ Tác phẩm ấy thể hiện một triết lý cần thiết cho thời đại ấy: hành động cùng với người khác để thiết thực làm chủ định mệnh của mình, để thay đổi thế giới vì thế giới ấy quá phi nhân; vì thế, trong hành động và tư duy, phải bảo toàn tự do của chính mình. Làm người cùng với mọi người vì không thể khác được nhưng, trước hết, phải đích thực làm người tự do.
c/ Tác phẩm ấy có tính nghệ thuật: không cần hiểu biết gì về triết lý của chàng mà vẫn cảm nhận được và, trong một số tác phẩm, nghệ thuật ấy vượt triết lý của chàng.
Tôi đã phân tích vấn đề này trong Penser Librement, không thể dông dài ở đây.
Về các nhà văn khác, đông lắm, bị xếp hay tự xếp dưới nhãn hiệu ‘hiện sinh’, ngoài Simone de Beauvoir, Kenzaburo Oe và vài tác giả khác, tôi không còn nhớ gì cả, không dám có ý kiến.
- Tại sao Marx và Sartre đi đôi trong PHĐ?
- Thứ nhất, tại thời cuộc. Con người nên người, làm người trong thời cuộc. Tôi trưởng thành tại Paris trong những năm 60-70, không thể tránh đương đầu với hai tư tưởng ấy, và nhiều tư tưởng khác. Hai tư tưởng này thâm nhập tôi vì chúng vận dụng một cách nhất quán một loại suy luận lôgíc khác suy luận lôgíc tôi học ở đại học để có nghề nuôi thân, và loại lôgíc ấy cần thiết để hiểu đời, hiểu chính mình. Lúc ấy, phong trào CS thế giới đã chiếm 1/3 nhân loại. Những đảng CS Pháp, Ý là đảng lớn trong nước của họ. Phong trào công nhân trong các nước tư bản Châu Âu rất mạnh. Trí thức có máu mặt quốc tế, có nhiều người tả khuynh. Trên khắp thế giới, cách mạng giải phóng dân tộc chống chủ nghĩa thực dân, đế quốc, đâu đâu cũng có. VN tập trung những mâu thuẫn đó. Tôi lại lỡ là người Việt. Trong hoàn cảnh ấy, Sartre vừa là ‘bạn đường’ của phong trào CS thế giới vừa là đối thủ số một của phong trào ấy với tư cách triết gia của tự do! Tôi không thể không quan tâm tới cả hai tư tưởng.
Thứ hai, cả Sartre lẫn Marx đều mang lại cho tôi những kiến thức cần thiết để hiểu thế giới của mình, để đương đầu với thân phận làm người trong thế giới ấy. Nội dung cơ bản nhất của cả hai triết lý ấy là giải phóng con người khỏi những lệ thuộc không cần thiết để nó thực hiện sâu rộng nhân cách, cá tính của nó. Điều ấy phù hợp với đam mê sống của tôi. Điều kẹt là họ kình địch với nhau. Sartre có hoài bão vượt Marx về triết lý. Sau khi đã tuyên bố ‘triết lý của Marx là chân trời không thể vượt qua được trong thời đại của chúng ta’ chàng lại viết vài nghìn trang để ‘Phê phán lý trí biện chứng’ (bỏ dở)!
- Anh nghĩ sao về nền tiểu thuyết VN hiện tại?
- Lại một câu hỏi quá lớn đối với khả năng của tôi. Tôi chỉ có thể nói thế này về những quyển sách tôi có dịp đọc. Sách về chiến tranh, có ba quyển tôi thích.
Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh, một tác phẩm trác tuyệt, xứng đáng đứng ngang hàng với những tác phẩm lớn trong văn chương của nhân loại. Chưa bao giờ tôi đọc một quyển sách ám ảnh miên man như thế, thể hiện tuyệt vời thân phận làm người trước chết chóc, tình yêu, sáng tác nghệ thuật. Đoạn kết ngoạn mục. Vợ tôi nhận xét: trong thời gian tôi dịch quyển sách ấy, tôi như người mất hồn, phải một tháng sau khi hoàn thành, tôi mới bình thường trở lại. Bài đề tựa tôi viết cho quyển sách ấy là một bài tôi đắc ý: Une douleur sans perspective, Một nỗi đau không có viễn tượng.
Tháng ba gẫy súng của Cao Xuân Huy. Không biết xếp quyển sách này trong thể loại nào. Về quyển sách này, bản thân tác giả không nhận mình là nhà văn, chỉ tuyên bố: nói 100% sự thật mình đã sống, với ngôn ngữ của đời sống thực, ngôn ngữ của lính thủy quân lục chiến VNCH. Thế mà thành văn. Đã đọc, không sao quên được.
Tiểu thuyết vô đề của Dương Thu Hương. Ít quyển sách khắc khoải như vậy. Trong tiểu thuyết này, Dương Thu Hương bộc lộ một văn phong mới lạ so với văn phong của chị trước đó. Chị viết một mạch, gửi ngay cho tôi, không có thời giờ sửa vì, lúc đó, chị biết chị sắp bị bắt.
Tiểu thuyết về thời hậu chiến, tôi thích Thiên Sứ của Phạm thị Hoài. Ít tác giả Việt Nam có khả năng vận dụng thành công nhiều bút pháp như thế trong một quyển sách. Tôi thích Ngoài khơi miền đất hứa của Nguyễn Quang Thân. Nói về tình bạn trong thời nay như thế, hiếm.
Tiểu thuyết dã sử, tôi thấy chưa ai viết bằng Nam Dao.
Kịch, Lưu Quang Vũ, Nam Dao đều có tác phẩm tuyệt vời.
Truyện ngắn, số một có Nguyễn Huy Thiệp. Trần Vũ, Khánh Trường có nhiều truyện ngắn tôi mê. Phạm Thị Hoài có vài truyện ngắn tôi thích. Đây có vẻ là sở trường của nhà văn Việt Nam. Nhiều người viết và có truyện hay. Tôi đã dịch khá nhiều.
- Theo anh, ranh giới giữa văn chương và triết học là gì?
- Lại một câu hỏi tầy trời! Nhưng tôi liều trả lời, đó là hai lĩnh vực thiết thân với tôi.
Tổng hợp, không có ranh giới. Chẳng thể khác. Mỗi người đều mang trong đầu mình, một cách có ý thức hay không, một hay nhiều triết lý, thể hiện (chúng) nó qua cách tiếp cận cuộc đời, tình cảm, suy luận, hành động của mình. Một hình thái hành động đặc thù của con người là... viết văn! Đọc vài trang đầu của một tác phẩm, chỉ qua văn phong thôi, ta có thể đoán đại khái nhân sinh quan của tác giả. Tác phẩm hay chính là tác phẩm vượt qua giới hạn đó, khiến ta nhìn lại thân phận làm người của chính ta, không vì cốt truyện, vì cách vận dụng ngôn ngữ để tìm người khác, tìm mình, tìm người, vì văn phong.
Kỹ thuật, có ranh giới. Người viết triết cần nhất người khác hiểu rõ, không nhập nhằng, quan điểm và lý luận của mình. Người viết văn cần nhất độc giả cảm nhận mình, gặp mình, ngay cả trong những lĩnh vực không ‘hiểu’ nổi vì, trong lúc hành văn, đôi khi mình không hiểu nổi chính mình, chỉ có một điều muốn nói, phải nói, không thể lý giải, nhưng phải khiến nó thành lời.
Tôi có nhận xét: triết gia lớn, khi đã đi tới tận cùng lý luận của mình mà vẫn không nói được điều mình muốn nói thì... hành văn!
Câu ‘Ta tư duy, vậy ta có thực’ của Descartes, đối với tôi, vừa là triết vừa là... thơ! Nó là triết ở chỗ này: Descartes là người đầu tiên đặt Tôi như trung tâm của triết học với tư cách là chủ thể của tư duy (ý của Hegel) và khẳng định Tôi là tự do (ý của Sartre). Nó là thơ ở chỗ này: đây là một tuyên ngôn làm người. Còn về mặt lý luận, rất dễ bắt bẻ, người đời ngay từ thời của chàng cho tới nay đã từng bắt bẻ hữu lý (hình thức).
Về mặt hành văn, câu Je pense, donc je suis đẹp không thua nửa câu alexandrin của Corneille: Je le suis, je veux l’être. Cả hai câu đều cân đối, vững vàng, quyết liệt, không thừa một chữ. Nhưng âm điệu, nhục cảm, ngược nhau, khớp với nội dung. Corneille khẳng định con người bằng ý chí (je veux), nhưng cảm thấy rõ ý chí thôi không đủ. Câu văn bắt đầu quyết liệt (Je le suis, je veux), chấm dứt bằng âm thanh mềm xèo, être, (e câm trong tiếng Pháp, thường khiến câu văn êm ả, yểu điệu, hoặc khiến câu nói nghiêm trang nhưng không quyết liệt tí nào). Câu văn này hay ở tính nhập nhằng của nó. Động từ être ở đây có hai nghĩa: trong Je le suis, nó thể hiện ý chí của con người. Trong je veux l’être, tùy cách phát âm, có thể hiểu: a/ je veux l’Être (ta muốn Tự Tại) hay je veux l’être (ta muốn thế). Trong cả hai nghĩa, không có gì đảm bảo ta được mãn nguyện... Buông từ être một cách long trọng hay như một tiếng thở dài cũng thế thôi. Vứt nửa câu thơ này, câu thơ trên nhạt nhẽo ngay. Tuyệt. Ngược với Corneille, câu văn của Descartes bắt đầu yếu ớt, je pense (chấm dứt bằng e câm), khớp với triết lý của Descartes. Trong triết lý ấy, hình thái đầu tiên của tư duy là nghi hoặc, kể cả nghi hoặc hiện hữu của... chính mình. Từ nghi hoặc ấy, qua lý luận, Descartes kết luận: ta có thực, je suis. Corneille quyết liệt ở hình thức, văn phong thể hiện ý chí của nhà thơ, hay ở chỗ đã cảm thấy ngay là thiếu hụt. Descartes quyết liệt ở nội dung, văn phong thể hiện trí tuệ. Phải đến khi công chúa Élisabeth de Bohême bắt bẻ, trí tuệ ấy mới biết mình có điều chưa ổn. Đàn bà khả úy. Triết gia mê và sợ đàn bà là đáng đời.
Sartre khác đời ở điểm này: chàng vừa là triết gia khắt khe vừa là nhà văn bay bướm, văn chương của chàng có lúc vượt triết lý của chàng. Khi, trong đoạn cuối của L’Être et le Néant, chàng viết ‘L’homme est une passion inutile’ (Con người là một đam mê hão), nội dung triết rõ ràng, nhưng đồng thời độc giả có thể... hiểu khác, rất văn chương. Chính chàng đã công khai ân hận về điều đo3ù. Trong vở kịch Le Diable et le Bon Dieu (Ác quỷ và Thượng đế), khi Goetz nói với Hilda:
«Regarde-moi, ne cesse pas un instant de me regarder: le monde est devenu aveugle; si tu détournais la tête, j’aurais peur de m’anéantir.
Hãy nhìn anh, đừng bao giờ ngừng nhìn anh, dù chỉ một khắc; thế giới đã mù loà; nếu em ngoảnh mặt đi, anh sợ sẽ tan mình trong hư vô.»
chàng thể hiện triết lý của L’Être et le Néant.
Ai đã từng yêu ngấm đòn, nhừ tử, ắt hiểu. Triết gia tán gái đến thế là cùng! Các bà ơi, thật đấy, chẳng đùa đâu. Làm đàn ông khốn khổ thế đấy4.
Nhưng trong đối thoại sau:
Goetz: Je voudrais que tu sois une bête pour te monter comme une bête.
Hilda: Comme tu souffres d’être un homme!
Goetz: Tao muốn mày là một con thú để tao nhẩy mày như một con thú.
Hilda: Tội nghiệp mày, phải làm người [đàn ông] đau đớn đến thế sao?
nội dung vừa thống nhất vừa vượt nội dung của L’Être et le Néant. Tuyệt! Hilda là nhân vật đẹp nhất trong văn chương của Sartre. Nàng thể hiện giấc mơ làm người của Sartre.
- Hiện tại văn chương VN thiếu gì, cần gì?
- Hiện nay, văn chương Việt Nam chẳng thiếu gì, chẳng cần gì cả. Nhưng nhà văn Việt Nam sống tại Việt Nam cần nhiều thứ. Chẳng hạn, cần học bổng để làm chủ một ngoại ngữ, đi chơi một vòng thế giới, sống vài năm tại một nước phát triển, dân chủ, tự do, dù rằng tương đối. Nhà văn Việt Nam sống ở Tây Âu cần có khí phách của một Trần Đức Thảo khi đi vào lĩnh vực triết hay lĩnh vực văn học. Điều đó không cần thiết để viết văn ra hồn văn. Trong lĩnh vực này, cần nhất, đừng bao giờ chỉ làm học trò của ai, đừng bao giờ nhại ai, kể cả chính mình.
- Có nên mang triết học vào văn chương không?
- Khi bản thân mình không có điều gì đáng nói với đời về mặt triết lý, không nên mang triết học vào văn chương. Triết học đã ‘học trò’ thì văn chương cũng thế thôi. Đã dám cầm bút hành văn, không thể làm học trò của ai cả.
- Cảm ơn anh Phan Huy Đường.
Miêng thực hiện

11-10-2003
Nxb Hồng Lĩnh, tiệm Mưa Hồng, 9531 Bolsa Avenue, Westminster, CA 92683, USA.
2 Entretiens sur moi-même, Situation X, Gallimard, 1976, trang 192.
3 Entretiens sur moi-même, Situation X, Gallimard, 1976, trang 139.
4 Lời bàn của Mao Tôn Cương Ziao Chỉ ‘hiện sinh’.