27/11/08

Nguyễn Tường Tâm : Cao Xuân Hạo và ngữ pháp tiếng Việt

Nguyễn Tường Tâm
Cao Xuân Hạo và ngữ pháp tiếng Việt

Tôi chưa đọc ông Cao Xuân Hạo bao giờ. Lý do là tôi trưởng thành và làm việc trong môi trường hoàn toàn khác với ông. Mặc dù vậy tôi thấy tên ông quen thuộc lắm. Tôi cứ nghĩ đó là một cán bộ văn hoá có quyền thế chăm lo kiểm soát các sách báo văn hoá phẩm. Xin lỗi ông, tôi dửng dưng với tin ông mất như dửng dưng với tin một cán bộ Đảng hay nhà nước qua đời. Nhưng tin ông mất gây âm vang trong giới truyền thông trong nước khiến tôi đọc những bài viết về ông vì tò mò. Và rồi bài của ông Hà Văn Thùy khiến tôi giật mình ngạc nhiên, giúp tôi trút bỏ nỗi bực bội lâu nay về môn ngữ pháp tiếng Việt bởi vì theo Hà Văn Thùy, ông Cao Xuân Hạo là người đầu tiên và duy nhất “dũng cảm khẳng định nhiều giáo trình ngữ pháp đã giảng sai tiếng Việt.” [1]

Năm 1985, sau gần 10 năm xa nhà trở về, bốn đứa con tôi đã lớn, ba đứa đã học cấp 2. Ðứa nào cũng được bảng học sinh tiên tiến nhưng sao tôi thấy nản quá. Chúng không ở trình độ thông thường như tôi nghĩ. Ðặc biệt là sao chúng dốt môn ngữ pháp thế, đồng thời tôi tự hỏi tại sao cấp II (tức trung học đệ nhất cấp ngày trước ở trong Nam) học sinh lại còn phải học cái môn trước kia chỉ dành cho trẻ con là ngữ pháp? Tò mò tôi mở vở ngữ pháp (văn phạm) của chúng ra xem. Tôi chẳng hiểu họ dạy gì. Cái môn văn phạm (ngữ pháp) tiếng Việt trước năm 1954 và sau này ở miền Nam chỉ được dạy ở bậc tiểu học. Lên lớp 6 (đệ thất) là thuộc trung học đệ nhất cấp, học sinh không còn phải học văn phạm tiếng Việt nữa. Tới lớp 9 ở miền Nam, học sinh đã học bình thơ Trần Tế Xương, Nguyễn Công Trứ, Truyện Kiều, học các tư tưởng xuất thế của Lão Trang, nhập thế của Khổng Tử qua văn chương. Làm gì còn cái trò học ngữ pháp ở lớp 9 để thi tốt nghiệp cấp 2 như bây giờ. Cuối cùng tôi phải nhờ thầy dạy văn của các cháu kèm thêm. Thú thực với ông thầy là tôi không hiểu sách ngữ pháp của trường nên xin được ngồi coi ông thầy giảng môn văn và ngữ pháp lớp 9 cho con mình. Nhìn vào tập vở của cháu, tôi thấy ông thầy gạch dưới và kẻ những mũi tên vào các phần của một câu để phân tích câu văn cho cháu. Ông thầy càng phân tích, tôi thấy cháu càng đăm chiêu. Rõ ràng cháu không hiểu. Cháu đang căng thẳng. Tôi cũng không hiểu luôn. Nhìn mặt ông thầy lúc đó, tôi không biết chính ông ấy có hiểu những điều ông ấy đang giảng hay không. Tôi tự hỏi, “Người ta đã giảng dạy loại ‘ngữ pháp quái đản’ này (chữ của Hà Văn Thùy) bao lâu rồi? Từ đâu người ta nghĩ ra loại ‘ngữ pháp quái đản’ này mà ở trong Nam trước 1975 không có? Tại sao cả nước chẳng có ai lên tiếng về loại ngữ pháp này? Chẳng lẽ cả nước có thể hiểu loại ngữ pháp này mà bản thân tôi, một người cũng đã tốt nghiệp đại học trong Nam từ cái thời mỗi năm một phân khoa đại học nhiều lắm chỉ cho ra trường chưa tới 100 cử nhân lại không thể hiểu hay sao?”

Khi dạy toán cho các cháu, tôi lại khám phá thêm một điều lạ lùng nữa là sách giáo khoa toán được viết bởi một thứ ngôn ngữ có những kết cấu “ngữ pháp quái đản” tới độ học trò không thể nào hiểu được. Tôi nghĩ lý do các sách toán, sách khoa học đều trở nên khó hiểu là vì các tác giả của chúng thời còn là học trò đều bị nhồi nhét thứ “ngữ pháp quái đản” đó, đến khi trở lại làm thầy thì làm sao họ viết câu thành cú được chứ đừng nói là viết một bài văn rõ ràng, mạch lạc. Tôi phải bỏ cuốn sách toán của trường, chỉ dựa vào chương trình để tự soạn bài giảng theo trí nhớ về những gì tôi học gần 30 năm trước đó (thập niên 1960) ở trường trung học trong Nam. Ðiều buồn cười là đối với các bài toán các cháu không làm được, tôi không cần giảng toán mà chỉ cần viết lại câu văn (rewording) là các cháu hiểu ngay và giải được liền. Cháu không dốt toán. Cháu chỉ không hiểu câu văn.

Tôi “ngộ” ra được điều đơn giản, “Hàng ngày nói, viết tiếng mẹ đẻ tự nhiên như hít thở, ít ai để ý tới tầm quan trọng của ngôn ngữ trong việc phát triển khoa học kỹ thuật”. Người ta, nhất là ở những nước chậm phát triển như Việt Nam, thường có thói quen đánh giá cao khoa học kỹ thuật. Học trò ban văn chương dễ bị coi thường. Thời đi học tôi cũng từng có ý nghĩ như vậy. Nhưng lúc đó (1985), lần đầu tiên trong đời tôi mới thấy tầm quan trọng của môn văn và nghiệm ra rằng khi ngôn ngữ của một dân tộc bị làm hỏng, có nghĩa là văn chẳng ra văn, câu chẳng ra câu, thì giao tiếp bị gián đoạn: người nhận thông tin không hiểu ý người truyền đạt thông tin, trò không hiểu thầy, độc giả không hiểu sách, báo, thính giả không hiểu diễn giả v.v. Và như thế sẽ cản trở luôn sự phát triển ở tất cả các bộ môn khác.

Tình trạng viết câu không thành cú đã hiện diện trong nhiều bài nhật tụng về chính trị Mác-Lênin một thời suốt cả ngày toàn dân ai cũng phải học (mà không hiểu!) đã được nhà văn Thế Uyên trích dẫn trong một tác phẩm của ông viết về văn hoá xã hội chủ nghĩa [2] . Trước một thực tế như thế, ở vào trường hợp tôi ai mà chẳng bực mình. Tôi ước mong tìm được một cuốn ngữ pháp của Viện Ngôn ngữ để xem họ viết về vấn đề này ra sao. Thời buổi đó thật khó tìm sách, ngoại trừ các bộ toàn tập của các lãnh tụ. Tôi lại ở một thị trấn nhỏ xa xôi, ra khỏi tỉnh là phải xin phép, phương tiện đi lại cũng thật khó khăn. Ðặc biệt cả hai vợ chồng tôi đều thuộc diện những người quen làm cán bộ nhà nước, ngay cả các thầy cô giáo, cũng không được tiếp xúc. (Ðã có một người bạn lâu năm làm hiệu trưởng trường trung học cấp hai trong cùng phường bị kiểm điểm vì ghé thăm gia đình tôi.) Thế là tôi ôm nỗi bực mình đó trong cô đơn. Một hôm tình cờ thấy trong góc một kệ sách đóng bụi ở một cửa hàng sách quốc doanh nhỏ trước cửa chợ Ðông Hà (Quảng Trị) một cuốn không dày viết về ngữ pháp của Viện Ngôn ngữ Hà Nội (tên chính xác thì tôi quên rồi). Nôn nóng mua về, thế nhưng, đọc cuốn sách tôi lại cảm thấy ngỡ ngàng hơn. Xin lỗi những ai đã viết ra hay đã đóng góp vào việc hình thành cuốn ngữ pháp đó, tôi cố gắng đọc mà chẳng hiểu các tác giả muốn nói gì. Tôi lật đi lật lại bìa sách, Viện Ngôn ngữ đàng hoàng (chi tiết về danh xưng có thể không chính xác). Những người làm việc trong cái viện này chắc chắn phải được đào tạo chuyên môn cao; chắc chắn phải có học vị ít ra là cử nhân, nếu không là tiến sĩ ngôn ngữ. Họ phải xứng đáng với danh hiệu học giả chứ! Họ viết ra, sáng chế ra ngữ pháp để cả nước phải theo khi nói, khi viết tiếng Việt cơ mà! Nhưng càng đọc tôi càng thấy rối mù. Chịu! Không thể nào hiểu được các “học giả” trong cái viện đó muốn nói gì. Tôi không hiểu vì sao ngữ pháp tiếng Việt, một bộ môn đang từ hết sức dễ dàng và chỉ được dạy tới lớp nhất (lớp 5) bậc tiểu học trước kia (không gì dễ bằng học ngữ pháp - thời của tôi - trước 1975 tại miền Nam Việt Nam) lại trở nên quá phức tạp như vậy. Ðọc cuốn sách, cho tới giờ này tôi chỉ nhớ (với một sự kinh hoàng) vài chữ hay nhóm chữ được lặp đi lặp lại như: “người bản ngữ”, và những quỉ quái gì nữa! Trời đất ơi, kinh hoàng thế này ư? Tôi gào thét trong tâm mà không biết chia sẻ cùng ai. Các con tôi, cũng như các bạn học trò khác của các cháu, dĩ nhiên cũng không hiểu, nhưng hàng ngày vẫn phải cố nuốt những thứ kinh hoàng đó. Chúng vật lộn với ngữ pháp. Chúng tưởng chúng dốt. Nhưng thực ra chúng (học trò) không ngờ rằng chúng không dốt, mà chính các ông thầy, các ông “đại sư phụ” từ cái Viện ở Trung ương đó dốt. Những từ, nhóm từ (pharses), những câu, và thậm chí toàn bộ những đoạn văn trong cuốn ngữ pháp đó khó hiểu như những câu thần chú bí hiểm.

Khi không hiểu thì người ra diễn tả một cách khó khăn, biến những điều đơn giản trở nên khó hiểu. Khi loè bịp thiên hạ, người ta cũng viết khó hiểu như vậy. Tôi không biết các “nhà nghiên cứu” ở Viện Ngôn Ngữ thời đó thuộc diện nào (không biết thời này có khá hơn không?). Thật đau khổ khi biết là đất nước đang trải qua một nỗi kinh hoàng sẽ mang lại một hậu quả lâu dài trải qua hàng thế hệ, có khi cả trăm năm sau, nếu không được thay đổi, mà mình không làm gì được. Tôi nghĩ có cố gắng lắm viết được một bài báo cũng chẳng cảnh tỉnh được ai; cũng chưa chắc có ai biểu đồng tình. Mà có viết cũng chẳng ai đăng (Tất cả các báo đều là của nhà nước.) Nếu có được đăng thì cũng bị người ta cho là ngạo mạn, kiêu căng. Có lẽ Cao Xuân Hạo cũng bị ở trong tình huống đó nên mới bị cho là “chàng Don Quixote độc hành”. Sau khi gọi Cao Xuân Hạo là “chàng Don Quixote độc hành”, ông Hà Văn Thùy viết tiếp, “Dường như Cao Xuân Hạo không hoà hợp lắm với đồng nghiệp của mình. Người ta coi ông như kẻ hay kiếm chuyện không để cho ai yên”. Tôi ôm nỗi bực bội đó tới nay đã 22 năm (1985-2007). Thỉnh thoảng nghĩ tới tôi vẫn thấy chán nản, bi quan cho đất nước và ngạc nhiên sao cả nước không ai nhận ra vấn đề.

Nhưng rồi thật là bất ngờ. Sự ra đi của ông Cao Xuân Hạo đã tình cờ giúp tôi giải toả được phần nào niềm u uẩn. Nói cho rõ hơn, hai bài báo của hai đồng nghiệp và học trò của ông viết để ngợi ca người đã khuất đã cho thấy hóa ra bấy lâu, trong ngành văn chương và giáo dục cũng có ít ra ba người có thực tài có cùng sự bực bội như tôi. Cũng như tôi, họ không làm gì được, không lên tiếng được, hay lên tiếng cũng chẳng ai nghe. Ông Hà Văn Thùy đã thú nhận, chính ông trong nhiều năm đã có những “bức xúc không có đường ra...” và ông viết tiếp, “Ngữ pháp tiếng Việt không quái đản như những gì người ta viết trong sách giáo khoa”. Rồi lại thêm ông Trần Tiễn Cao Ðăng cũng xác nhận như ông Thùy rằng ông Cao Xuân Hạo đã dũng cảm khẳng định nhiều giáo trình ngữ pháp trong nhà trường nước ta đã giảng sai tiếng Việt. [3]

Những đồng cảm này không những giải toả bớt cho tôi niềm u uẩn, mà còn mang lại cho tôi niềm hy vọng rằng có lẽ cũng còn nhiều người trong nước (rất hi vọng là tất cả mọi người, trừ các ông “học giả” trong Viện Ngôn ngữ Hà Nội, cha đẻ của môn ngữ pháp tiếng Việt cách nay mấy chục năm) có cùng niềm u uẩn đó và mong có thay đổi. Ðây không là chính trị. Ðây là văn hoá. Ðây là tương lai của dân tộc. Một khi đại đa số học sinh, sinh viên, và phụ huynh cùng giáo chức và các nhà văn có cùng một ý nghĩ, một ước muốn như Hà Văn Thùy, như Trần Tiễn Cao Ðăng, như Cao Xuân Hạo, thì thực tế phải sớm có thay đổi, phải sớm có những học giả thứ thiệt ngồi vào các chức vụ đủ quyền uy trong ngành giáo dục để thay đổi nội dung môn ngữ pháp sao cho trở lại đơn giản như trước kia để học sinh chỉ còn phải học ngữ pháp tới hết lớp 5 bậc tiểu học là đủ rồi. Có như vậy “tiếng nước tôi” mới trở thành đòn bẩy làm phát triển tất cả mọi ngành khoa học kỹ thuật khác và đưa đất nước đi lên trong thời kỳ hội nhập toàn cầu.




[1]Hà Văn Thuỳ: "Cao Xuân Hạo - Chàng Don Quijote độc hành" talawas 19/10/07
[2]Thế Uyên, Con đường qua mùa đông, nhà xuất bản Xuân Thu, 1990 (trang 102: “Muốn xây dựng xã hội... biện chứng với nhau.”
[3]Trần Tiễn Cao Ðăng: "Cao Xuân Hạo, thầy của tôi", talawas 20/10/07

Nam Dao : Cao Xuân Hạo, những nỗi niềm và trăn trở…

23.10.2007
Nam Dao
Cao Xuân Hạo, những nỗi niềm và trăn trở…

Tôi gặp anh lần đầu khi cùng Trịnh Công Sơn đến thăm anh ở Phú Nhuận. Trưa hôm đó, con gái anh và chị Thanh đang còn tuổi ô mai, đòi chú Sơn hát "Ở trọ" cho nghe. Anh ngồi, gật gù, cười nửa miệng với phong cách nho nhã ngày càng ít thấy. Sơn hát xong, anh ôm đàn, đáp lễ. Anh cũng hát, một bài thời anh tham gia kháng chiến, giọng trong và khoẻ, ngân nga luyến láy như ai. Hình như đó là bài có những câu như "chiều nay trên chiến khu trong rừng chiều, bên đèo tiếng suối reo… đạn bay vèo". Năm đó, năm 1982. Trên tập Về Kinh Bắc chỉ được in chính thức năm 94 tặng tôi, tức là 12 năm sau, anh Hoàng Cầm ghi: để nhớ một năm đầy hạnh phúc và oan nghiệt. Hạnh phúc, tôi yêu, rồi tôi quýnh quáng lấy vợ, quà tặng của anh Cầm là tập Về Kinh Bắc anh nắn nót chép tay cho tôi. Oan nghiệt, khi ra phi trường Tân Sơn Nhất, người ta cộp tôi lại, rà soát xem tôi có mang văn hoá phản động ra ngoài không? Tập thơ anh Cầm tặng, tôi gửi lại một người bạn. Bạn tôi gửi lại một người bạn khác. Và cuối cùng, chính Cao Xuân Hạo là người giữ để sau này trả về cho nhà thơ, người bị tù chẳng phải vì tuồn tập thơ ra hải ngoại mà vì cái tội bán rượu lậu (?!). Chuyện xưa, xưa như Diễm. Nhắc lại, vì nhớ Hạo, và cái không khí nặng nề của những năm tháng ngột ngạt thời cả nước tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên… "thiên đường mù", tên một cuốn tiểu thuyết vào những năm đổi mới sau này.

Đổi mới, tôi thôi bị (được?) cấm cửa, về Hà Nội năm 88. Lại có dịp gặp Hạo từ Sài Gòn ra, và lê la với Dương Tường, Phan Ngọc. Thời đó, báo chí hô khẩu hiệu thời thượng "đậm đà bản sắc dân tộc". Tôi không nhớ Hạo hay Phan Ngọc dí dỏm dịch qua tiếng Pháp là "imbus du caractère national!". Với Hạo, tôi có dịp gặp nhà văn Nguyễn Huy Thiệp, khi đó chưa tiếng tăm. Hẹn nhau, tôi đến nơi Hạo ở tạm thì đã có TM, một người bạn của anh. Lát sau, Thiệp và một anh bạn vào. Chuyện trò với TM, tôi không để ý lắm đến người mặt mũi khắc khổ sần sùi thì thào to nhỏ với Hạo. Khi anh ta và bạn về, Hạo bảo: "… Đặc biệt đấy! Viết rất hay!". Thì ra nhà văn đến trao đổi với Hạo về dăm ba tác phẩm chưa in. Tôi hỏi, Hạo cho mượn bản thảo (trí nhớ tôi nay tồi, nhưng có thể là "Thương nhớ đồng quê" và "Ngọn gió Hua Tát"?). Đọc và dăm ngày sau tôi đi tìm Thiệp ở một cơ quan phát hành sách gần nhà Dương Tường ngõ Phan Huy Chú, sau tôi còn rủ rê nhà văn đi "rượu chè" ở tư gia đạo diễn Thanh Tú nhân dịp chị làm lễ cúng sao giải hạn. Ngày ấy, nhà văn còn rất dễ mến, hồn nhiên thủ thỉ: "Anh lôi tôi, tôi mới đi chứ tôi ít giao du!", chứ ai ngờ ít lâu sau "người" trở thành chủ quán nhậu Hoa Ban danh trấn giang hồ.

Phải bốn năm sau tôi mới gặp lại Hạo, lần này ở Paris. Oan nghiệp thế nào mà tôi đã tưởng "mút mùa" khỏi nơi chôn nhau cắt rốn, nên gặp nhau, mừng mừng tủi tủi những chuyện xưa, chuyện nay, chuyện người, chuyện ngợm. Collège de France mời, anh đi và bảo đây là lần đầu được qua một xứ Tây Âu, có lẽ vì cuốn Phonologie et linéarité. Réflexions critiques sur les postulats de la phonologie contemporaine (1985) anh in bên Pháp đã có tiếng vang. Trong những ngày nghỉ, chúng tôi lang thang, khi trên bờ sông Seine khu Quartier Latin, khi thì Monmartre, gần một cái appartement cô em Hạo để Hạo trú ngụ. Thời đó, Hạo rất năng động, viết lách khá nhiều, hăng hái làm việc với Tiểu ban Việt học Đại học Tổng hợp TPHCM, hào hứng thúc đẩy và xây dựng Hội Nghiên cứu Ngôn ngữ… Tâm sự, anh bảo nay chỉ mong ước một chuyện, là tiếp tục nghiên cứu và góp phần đào tạo một số anh em quan tâm đến tiếng Việt. Và như mọi lần, anh lại than tiếng Việt bây giờ ngọng nghịu bởi viết với ngữ pháp tiếng Tây. Anh cho rằng chữ Quốc ngữ ABC giữ được âm nhưng làm mất nghĩa, học thì lợi là nhanh nhưng hại ở chỗ mù mờ khiến kiến thức thường dàn trải mà không sâu. Anh lan man qua những vấn đề chuyên môn, cho rằng âm vị học khai triển ở phương Tây không thể dùng để phân tích những ngôn ngữ như tiếng Việt ta, vốn đơn âm, và cứ mỗi âm tiết (tiếng) là một đơn vị ngôn ngữ, không thể phân tích ra thành những âm tố, rồi nhiều âm vị, trong một cấu trúc ngữ pháp châu Âu mà mỗi tiếng có thể gồm nhiều yếu tố có ý nghĩa khu biệt. Trước niềm say mê của anh, tôi nghe. Dĩ nhiên như vịt nghe sấm, nhưng chẳng sao, cái anh truyền đạt được cho những người nghe anh nói là sự trân quí tiếng mẹ đẻ và tấm lòng trung trinh với văn hoá. Học thầy không tầy học bạn. Học giá trị sống, học cách làm người, lòng đam mê. Học những niềm hy vọng. Và cả những nỗi trăn trở.

Cuối 98 đầu 99, tôi lại hồi hương thời mình thôi bị "cấm vận". Gặp Hạo, vẫn trẻ măng, vẫn phong nhã, vẫn cứ một niềm say mê. Kể chuyện vui: sau giờ lên lớp của Hạo, chúng tôi ngồi uống bia ở một cái quán trong khuôn viên Đại học Tổng hợp TPHCM. Cô tiếp viên quen mặt Hạo, gọi bằng thầy, đi qua đi lại "phục vụ" khá chu đáo, cứ như "khách hàng là Thượng đế", ngay cho đám thầy trò nghèo rớt chỉ biết thưởng thức bia hơi và đậu phọng. Đợi Hạo vào toa-lét, cô đến gần hỏi: "Anh công tác ở Hà Nội?". Tôi gật, đá lông nheo, cái thói cứ có dịp là đùa nghịch. "Anh dzô luôn hay đi công tác ngắn hạn?" Tôi đáp: "Dzô luôn, sống ngoải cực lắm!". Thấy tôi bắt chước tiếng Sài Gòn, cô cười: "Chắc ngày trước ông bà già đi tập kết hả?" Tôi lại gật. Khi đó, Hạo ra và cô tiếp viên lui về đứng tựa quầy hàng. Cô liếc tôi, cứ tần ngần, lát sau mang ra mấy điếu ba số, lúng túng: "Em mời thầy, mời anh, hút cho vui!". Hạo ngạc nhiên. Đợi cô tiếp viên đi, Hạo cười tinh quái, bảo cô ta nhẵn mặt thầy mà nay mới mời thuốc, chắc chẳng phải vì thầy mà vì anh. Nhìn tôi dò hỏi, thấy tôi lắc đầu: "Nghịch ngợm ấy mà, kiểu anh hùng thấy chuyện… qua đường… chẳng tha, nhưng chỉ thế thôi!", Hạo hỏi: "Ông có đọc Zorba the Greek chưa?". Cười ha hả, Hạo tiếp: "Zorba nói, khi một người đàn bà đến anh dâng hiến tình yêu mà anh quay lưng, thì anh có biết thế là anh báng bổ thần linh không?". Ôi chao, nhưng tôi biết làm chi đây? Nhìn lên, ảnh Bác vẫn đó, Bác sống mãi trong sự nghiệp chúng ta. Nhìn xuống, cái thân mình Việt kiều bước đi một bước giây giây lại dừng và… nhìn về đàng sau, tôi ngậm ngùi lẩy Kiều: "Zorba thì mặc Zorba. Quan trên trông xuống, người ta trông vào… Thôi ông ạ, ta đi…"

Hoà hợp trong-ngoài tuỳ giá máy bay về nước, thời gian thoát được chuyện áo cơm, lại phụ thuộc vào độ phập phồng mở ra đóng vào trong "hoàn cảnh" đối ngoại nên năm năm sau tôi mới gặp anh. Lần này, Công ty Văn hoá Phương Nam đã mua lại tác quyền toàn bộ tác phẩm của anh, hẳn đời anh "tươi" hơn ít nhiều. Anh không còn ở đường Huỳnh Văn Bánh quận Phú Nhuận mà dọn đến phố Phạm Văn Chiêu ở Gò Vấp. "Lạ thật, ông Bánh rồi ông Chiêu lấy làm tên đường, nhưng ông có biết họ là ai không?", tôi hỏi. Hạo lắc đầu, đăm chiêu "… Chuyện lạ thì đất nước này nhiều lắm!". Anh mang ra cuốn Tiếng Việt, văn Việt, người Việt (Nxb Trẻ, 2003), giở trang 333, bài nói về tính hiếu học…, đọc một đoạn cho tôi nghe: mục Viết nhịu trong tạp chí Ngôn ngữ & đời sống của Hội Ngôn ngữ học Việt Nam kê ra vài trăm lỗi viết về tri thức cơ bản thường thấy. Trong các sách giáo khoa đại học, có thể tìm ra 2000 câu lỗi như thế, và trên căn cứ có kiểm kê, khoảng 72% sách đại học đều chứng tỏ người viết không biết đến những tri thức ngôn ngữ sơ đẳng. Cuốn Nhập môn ngôn ngữ học được mang giảng dạy ngang nhiên phủ nhận tất cả thành tựu của ngành ngôn ngữ học của toàn nhân loại, và lấy tư cách Chủ tịch Hội đồng Khoa học Viện Khoa học Xã hội tại TPHCM, năm 1997, Hạo gửi thư cho ông Giám đốc Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn cùng ông Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo một thư dài kèm 200 trang tư liệu minh chứng, để kiểm tra và kết luận về tác hại của cuốn sách đó. Nhưng đến nay, tức 7 năm sau, vẫn chẳng có hồi âm, kể cả công văn báo đã nhận thư cũng không có!

Hôm đó là ngày mồng hai Tết. Đáng lẽ phải vui xuân, chúng tôi lại lẩn thẩn nói những chuyện cực lòng. Ngay cả đối với những giáo sư ngôn ngữ, chẳng lẽ họ lại coi thường tiếng mẹ đến thế sao? Họ chắc phải biết ngôn ngữ là lớp trầm tích sâu nhất của văn hoá, khai quật thì có thể soi rọi cách sống, từ tư duy, cảm nhận đến những quan hệ ứng xử giữa người với người, giữa cá nhân và cộng đồng… Lơ là để cho ngôn ngữ thành một thứ tạp nham dị dạng vô hồn, có thể nào, tôi nói liều, cả dân tộc này mắc chứng trầm cảm tập thể, giải quyết bệnh tâm thần bằng cách xô nhau làm giầu ăn xổi để khỏi suy nghĩ, hệt như trong một xã hội tiêu thụ vinh danh khách hàng như Thượng đế, tha hoá biến chính mình thành một món hàng không hơn không kém?

Trong tương quan giữa ngôn ngữ và văn hoá, tôi đặc biệt quan tâm đến những đại từ nhân xưng, trao đổi với Hạo dịp đó, và hứa sẽ đào sâu sau này. Ở ngôi thứ nhất dạng đơn, ngoài tôi, ta, tao, tớ, mỗ có tính hồi chỉ chính danh thì có lẽ đến 90% chúng ta dùng ngôi vị thân tộc và tuổi tác (con, cháu, anh, em…) để xưng hô. Ở dạng phức, ta ghép thêm từ chúng vào ta, tôi, tao. Ở ngôi thứ hai, ngoài từ mày, mi, bay xưng hô phần lớn tuỳ tuổi tác (cụ, ông, cha, mẹ, anh, em), chức năng hoặc cương vị (bác sĩ, giáo sư, ngài…), thường ở dạng đơn, thêm những hoặc các hoặc tụi hoặc bọn để chỉ dạng phức (nhưng xin lưu ý các anh, chứ chúng anh lại chỉ ngôi thứ nhất). Với hai ngôi này, rất ít đại từ có tính trung hoà được dùng trong đời sống, khác hẳn với những ngôn ngữ phương Tây (je, moi, tu, toi, nous, vous trong tiếng Pháp, I, you trong tiếng Anh) hoặc trong tiếng Trung Quốc (ngổ, nỉ… áp dụng một cách phổ biến ngay trong quan hệ gia đình giữa bố mẹ anh em). Nếu mày, tao được sử dụng giữa bè bạn thì chúng (tụi, bọn) bay, chúng (tụi, bọn) mày, chúng (tụi, bọn) tao (ta) thường chỉ những quan hệ những nhóm có ít nhiều đối kháng cành cựa với nhau. Đặc biệt hơn hết là nhân xưng trên cơ sở tuổi tác, địa vị, và liên hệ trên-dưới có tính thân tộc vừa miêu tả tạo ra một tương quan bất bình đẳng giữa những con người. Tác động tốt của nhân xưng thân tộc (cha mẹ cô chú anh em) một cách đại trà như thể mọi người cùng thuộc một gia đình là tạo ra liên kết tình cảm, nhưng mặt tích cực đó có thể bị triệt tiêu vì hai yếu tố. Thứ nhất, cái liên kết trên ảo; nó thể hiện một sự mong đợi trông chờ chứ không phải một hiện thực, và đẩy đến một cực nào đó, nó là sự giả trá chấp nhận như một qui ước. Thứ nhì, nhân xưng ở ngôi thứ nhất tự thân bị những ràng buộc trên-dưới, ảo-thực… nên khó có thể phát huy trọn vẹn cái tôi cá thể bị kiềm toả trong ngôn từ xưng hô phản ánh trật tự (thậm chí, đạo đức) của xã hội dựa trên nền tảng gia đình thị tộc [1] . Cái nền tảng đó do truyền giống nên tự nhiên và bất biến, hệ luận là từ cách xưng hô đó, cái trật tự kia cũng vậy, và con người sử dụng nó vô hình chung bị vi khuẩn "bảo thủ" ngấm vào đến tiềm thức, ứng xử thụ động trước mọi quyền lực ngoại tại.

Nhưng đáng chú ý là những đại từ nhân xưng ở ngôi thứ ba. Tôi rất khó chịu khi phải sử dụng nàng và chàng, nghe nó cứ như "làm sao ấy", hơi "sên sến", lắm khi dùng không khéo thì phá tan nát cái không khí văn chương. "Thiếu gì từ khác", Hạo đáp. Hết thời gian nên tôi phải chia tay, hứa sẽ "lạm" bàn với Hạo lần gặp sau.

Ở ngôi thứ ba, ngôn ngữ ta quả không thiếu gì đại từ nhân xưng ở dạng đơn: giống đực: y, hắn; giống cái: ả, thị; trung tính: nó, va(?), nghỉ… chẳng hạn. Từ va và nghỉ hoặc là tiếng địa phương, hoặc là tiếng cổ, nay không còn thông dụng. Ở dạng phức, chỉ còn chúng (bọn, tụi) nó. Nhưng mỗi đại từ trên đều mang một nghĩa hàm ẩn, thường là nghĩa xấu. Thị, ta liên tưởng đến tôi đòi, quê kệch. Ả, tất ả giang hồ, đám xướng ca. Y, có vẻ gì như hiểm hóc, tối tăm. Còn hắn, đỡ hơn, nhưng chắc chắn xa lạ. Tóm lại, với những đại từ nhân xưng ngôi thứ ba vừa nêu lên, tính cách và thậm chí bản chất khác với chủ thể hiển ngôn ở ngôi thứ nhất. Nó thường hàm ẩn sự đánh giá, từ khinh miệt đến xa lánh, vì chuẩn mực "đạo đức" gắn vào danh xưng tưởng như trung hoà nhưng chính ra không phải vậy. Tưởng tượng một cuộc thoại giữa tôi với anh về một đệ tam nhân ở ngôi thứ ba. Danh xưng không thôi cũng có khả năng chia rẽ: gọi là y, là hắn, là nó… đều hàm chứa đánh giá đối tượng này. Bây giờ, giả thử có ba người và những cuộc đối thoại song phương về một người thứ ba. Đánh giá hàm ẩn qua đại từ nhân xưng gấp lên ba lần, tỉ lệ thuận với khả năng chia rẽ. Và có phải chính vì thế mà cứ có một người Việt thì công việc chạy hơn với hai người người ngoại quốc (người Nhật chẳng hạn), trong khi có ba người Việt thì lại không bằng chỉ với một người (như người Nhật chẳng hạn) như trong chuyện tiếu lâm tân thời. Ngôi thứ ba dạng phức cũng vậy. Chúng (bọn, tụi) nó có cái gì đó không thiện cảm chút nào, chẳng những xa lạ mà còn như đe doạ. Và chính vì vậy mà chúng ta lúc nào cũng phải đối phó với chúng nó, khi thì lao vào chiến tranh, lúc hoà bình thì ta dùng mẹo trong ngoại giao, trước sau bất tất cứ phải như một. Ở ngoài nước, tình trạng phân chia phe nhóm chúng ta hầu như có trong tất cả mọi cộng đồng rải rác khắp nơi. Chỉ khi chúng nó là một đe doạ thực sự thì chúng ta mới đoàn kết được.

Tôi vừa đưa ra giả thiết rằng tính chất của đại từ nhân xưng ngôi thứ ba có thể là một (một thôi, xin nhấn mạnh) trong những yếu tố giải minh tính chia rẽ giữa người Việt với nhau. Giả thiết này không đề đạt một hệ luận nhân-quả, thuần là một giả thiết về tương quan giữa ngôn ngữ với văn hoá và xã hội mà thôi. Trong tham luận "Ngôn ngữ học có thể đóng góp gì vào việc tìm hiểu tư duy và văn hoá Việt Nam?" đọc tại Hội nghị Quốc tế về các giá trị văn hoá phương Đông ở Hà Nội năm 1999 [2] , Cao Xuân Hạo đề nghị bảy vấn đề, hoặc hệ vấn đề, mà khi được giải quyết thích đáng sẽ dẫn đến những tìm tòi xa hơn. Anh viết: 1… 2… nhưng tôi xin chỉ kể:

7. Tại sao, và tự bao giờ, các thuật ngữ chỉ quan hệ thân thuộc được dùng thay cho các đại từ nhân xưng, các đại từ nhân xưng hồi chỉ chính danh trở thành vô lễ, và rốt cuộc trong tiếng Việt không còn có đại từ nào (kể cả đại từ hồi chỉ) có tính trung hoà… nữa? Hệ thống đại từ này có ảnh hưởng như thế nào đối với các quan hệ giữa người với người trong xã hội Việt Nam?

Là người "ngoại đạo" ngành ngôn ngữ, tôi vẫn đánh liều thử "lạm" bàn, lẽ ra là chỉ với Hạo lúc sinh thời, nhưng nay quá muộn nên đành viết ra để thay một nén hương thắp lên cho bạn. Đó là cách cá nhân tôi trả nợ, nhưng điều này nhỏ, tôi chỉ hy vọng làm xúc tác cho một cuộc tìm tòi nghiêm túc và có hệ thống.

Chuyện lớn hơn, tôi nay xin thưa. Tháng 8 năm ngoái, năm 2006, tôi lại gặp Hạo. Lần này, rõ là anh hơi tiều tuỵ, trầm ngâm hơn, nhưng lúc chuyện trò, anh vẫn giữ được chất lửa khi nói về những nỗi niềm và trăn trở. Trăn trở, anh lo chuyện lạm phát phi mã những mảnh bằng tiến sĩ, phó tiến sĩ. Những chức danh giáo sư, phó giáo sư. Anh sợ định luật Graham, như với tiền giấy hồi thế kỷ thứ 17 bên châu Âu, "la mauvaise monnaie chasse la bonne" [3] . Anh than vãn, báo chí tự thân có trách vụ văn hoá và giáo dục, nhất là với ngôn ngữ vì phần lớn người ta có đọc là đọc báo. Nhưng khốn thay, đội ngũ làm báo tắc trách, đáng lẽ nâng lên thì lại làm ngôn ngữ xuống cấp, mất ngữ nghĩa, mất trong sáng… mà tôi lấy một thí dụ điển hình trong phụ lục dưới đây.

Còn về nỗi niềm của anh, tôi xin chỉ kể ra đây một. Hỏi Hạo về khả năng nhóm cộng sự và môn sinh tiếp tục đào sâu những vấn đề học thuật anh chưa giải quyết được, anh trầm ngâm rất lâu, lát sau nói: "Mình cũng kỳ vọng ở họ rất nhiều, nhưng khả năng đâu chỉ tuỳ thuộc họ, nhất là ở cái buổi ‘hội nhập’ này, anh em làm khoa học đâu mang rao bán được cái gì trong kinh tế thị trường!". Mắt sáng lên, anh nói về một bộ những cuốn sách giáo khoa anh đã cùng họ soạn thảo với hy vọng thay thế những cuốn sách quái dị kiểu Nhập môn Ngôn ngữ học đã kể ở trên, hy vọng đem tiếng Việt thuần khiết chứ không sao chép ngữ pháp châu Âu trả về cho người Việt. Theo một bài phỏng vấn Cao Xuân Hạo trong báo Xuân Lao Động năm 2003 [4] thì:

Hỏi: Thời hội nhập, tiếng Việt có cần tuân theo những quy tắc truyền thống quá cứng nhắc nữa không; hay cần đơn giản hoá, thưa ông?

Đáp: Làm sao tiếng Việt chấp nhận những kiểu nói của tiếng châu Âu? Tôi không hẹp hòi, nhưng rõ ràng có một điều kiện tiên quyết và quyết định là đừng làm mâu thuẫn những quy tắc ngữ pháp cơ bản của tiếng Việt. Duy nhất trước đây có Giáo sư Nguyễn Tài Cẩn đặt vấn đề về một trong những quy tắc mà ngay chính các nhà ngôn ngữ học cũng không giải thích được, chỉ dùng theo bản năng. Nhiệm vụ của nhà ngôn ngữ học là hiển ngôn hoá những gì mà em bé năm tuổi chưa hiển ngôn được. Tôi đã viết gần xong 300 quy tắc như thế cho riêng tiếng Việt.

Tôi không biết các anh đã soạn xong bộ sách chưa, và nếu xong, những cơ quan có chức trách khu xử thế nào. Riêng mình, tôi cầu mong cho nó đến được tay những sinh viên, học sinh, những nhà văn nhà thơ, những biên tập viên, những nhà báo, ngài Chủ tịch Nước, ngài Thủ tướng, và vân vân.

Chia tay Hạo năm ngoái, tôi leo lên ngồi sau Honda của một người bạn, quay lại vẫy. Anh đứng trên lề đường, nhìn theo, và cười, vẫn cái cười phong nhã. Hẹn hò gặp nhau nay khép lại, vĩnh viễn. Mở cuốn sách anh đề tặng, … để nhớ những lần gặp nhau (về rất nhiều phương diện), tôi không khỏi bùi ngùi. Nhưng Hạo ạ, sống ở thác về. Sống thế nào, anh đã sống toàn vẹn. Còn thác, thì chuyện dĩ nhiên ấy mà. Và nơi về với một con người đã sống toàn vẹn là lòng những người ở lại.

Quebec 21-10-2007




Phụ lục
Nhặt cỏ dại trong một bài báo trên web của BBC tiếng Việt ngày 19-10-2007

Theo truyền thống nhặt cỏ dại, còn gọi là bắt sâu, trong báo chí, tôi xin làm công việc này với một bài báo (có thể đây chỉ là một trường hợp đơn lẻ). Những chữ hoặc câu in đậm là để lưu ý, phần trong ngoặc là cách tôi hiểu và đề nghị thay thế, hoặc giản dị là tôi không hiểu! Không phải có hậu ý phê phán BBC mà tôi đã được đọc những bài viết công phu và có chất lượng, tôi làm cái việc nhổ cỏ dại này chỉ nhằm thể hiện nỗi lo âu của những người thấy "tiếng Việt xuống cấp tới mức trầm trọng", trong đó có Giáo sư Cao Xuân Hạo, người đã lên tiếng đánh động nhiều lần.

Người tiên phong DNA bị đình chỉ

Tiên phong cho cái gì? Phải chăng: người tiên phong trong nghiên cứu về DNA?

Đình chỉ gì? Công sự, hợp tác? Đọc tựa, tôi không thể đoán ra nội dung. Đọc cả bài báo, tôi hiểu thế này:

Đình chỉ cộng sự của người tiên phong trong nghiên cứu về DNA

Cái tựa đề thêm 7 chữ, nhưng rõ nghĩa và tóm lược được nội dung bài báo.

Ông Watson nhận được những lời chỉ trích gay gắt vì những nhận xét của mình trên một tờ báo của (có cần không?) Anh vào cuối tuần trước.

Trong bài phỏng vấn, ông được trích dẫn đã nói rằng người Châu Phi kém thông minh hơn người Châu Âu.

Phòng thí nghiệm Cold Spring Harbor đã cho biết họ không có liên quan gì những lời nhận xét của ông, nhưng hội đồng quản trị đã đình chỉ ông.

(Đình chỉ một sự việc nào đó, chứ đình chỉ một người thì là gì? Bắt, giam, thải…? Có thể là: đình chỉ sự cộng tác với ông?)

Hoàn toàn xin lỗi

Ông Watson theo lịch sẽ có một bài diễn thuyết tại bảo tàng Khoa học ở Luân Đôn hôm thứ Sáu trong tour lưu diễn (lần ra mắt?) sách của ông. Nhưng bảo tàng này đã huỷ bỏ hoạt động này và (vì?) cho rằng nhà khoa học đã đi quá xa trong cuộc tranh cãi.

Liên hoan Ý tưởng tại Bristol cũng huỷ bỏ sự có mặt của ông Watson.

Ông Watson cũng nhận được lời chỉ trích gay gắt từ phía giáo sư Craig Venter, một nhà khoa học và cũng là một doanh nhân đã có những nỗ lực cá nhân trong việc giải mã gen (gien, chuyển âm cho đúng với tiếng Việt) và cũng tình cờ tới thăm Anh để quảng bá một cuốn sách. (Trong 1 câu mà 3 lần cũng!)

Ông Venter nói: “Màu da đại diện cho chủng tộc là một khái niệm xã hội, không phải khoa hoc”.. “Không có cơ sở khoa học nào về việc gen quy định màu da ở người ảnh hưởng tới trí tuệ.”

Trong bài phỏng vấn với tờ Sunday Times, giáo sư Watson giữ nỗi ảm đạm cố hữu về triển vọng của Châu Phi vì “tất cả những chính sách xã hội đều dựa vào việc họ có chung trí tuệ với chúng ta – trong khi các thí nghiệm không cho thấy điều đó”. (ảm đạm là một tĩnh từ, và tôi hiểu thế này: giáo sư Watson giữ sự bi quan cố hữu về…)

Ông còn cho biết thêm ông hi vọng mọi người đều bình đẳng nhưng “có lẽ những người phải đối phó (đối phó cái gì?) với những nhân viên da đen thì đã không tìm thấy điều này”.

Kể từ đó (?, sau đó?) nhà khoa học đã nói “Tôi có thể hiểu được tại sao những người đọc những lời lẽ đó lại phản ứng như vậy”.

“Gửi tới tất cả những người đã hiểu rằng Châu Phi, với tư cách là một châu lục, có phần thấp kém hơn về mặt di truyền, tôi hoàn toàn xin lỗi”.

“Tôi không có ý như vậy. Quan điểm của tôi là, không có cư (cơ?) sở khoa học nào cho việc tin tưởng (như) vậy”.

Nỗ lực khoa học

Trong các lời phát biểu trên tờ The Independent hôm thứ Sáu, giáo sư Watson cố gắng làm trong sạch tình thế (ông ta đi tắm? Chắc không phải thế, có thể là ông ta cố gắng làm minh bạch ý kiến) của mình.

“Chúng ta chưa hiểu rõ cách thức các môi trường khác nhau lựa chọn gen quyết định năng lực làm việc của chúng ta”. (môi trường không thể lựa chọn! Tôi ngầm hiểu rằng thiên nhiên lựa chọn, và câu trên có thể viết như sau: Chúng ta chưa hiểu phương thức lựa chọn gien, điều quyết định năng lực làm việc, trong những môi trường khác nhau.)

“Đây không phải là những thảo luận về việc hơn hay kém mà là để hiểu nguyên nhân của sự khác biệt, rằng tại sao một số người trở thành các nhạc sĩ tài ba trong khi số khác lại trở thành những kỹ sư giỏi”.

Giáo sư Watson là người đã cùng (với ai?) giành giải Nobel năm 1962 vì khám phá cấu trúc DNA.

Gần 40 năm sau, các nhà khoa học đã có thể đọc được tất cả DNA trong tế bào của chúng ta và cho thấy không có cơ sở khoa học nào cho khái niệm chủng tộc.

Con người từ những nhóm chủng tộc khác nhau có thể giống nhau hơn về mặt gen so với những người trong cùng chủng tộc. Các nghiên cứu về gen cũng cho thấy có nhiều đa dạng trong gen của Châu Phi hơn bên ngoài. (… cho thấy gien ở châu Phi đa dạng hơn ở những châu lục khác.)

© 2007 talawas


[1]Tham khảo bài “Mấy vấn đề về văn hoá trong cách xưng hô” trong Tiếng Việt, văn Việt, người Việt của Cao Xuân Hạo (Nxb Trẻ, 2003), trang 315-322, trong đó tác giả chỉ ra cái sắc thái khiêm tốn cùa đại từ nhân xưng tôi, do nghĩa gốc "tôi tớ", nhưng nay đã khá phai mờ. Cũng ở đây, xin trích (trang 320): (Xưng hô kiểu "gia tộc chủ nghĩa")… "đưa đến một không khí gia tộc hoàn toàn nhân tạo trong môi trường không cần đến không khí gia tộc. Thậm chí không thể chấp nhận thứ không khí này, vì nó quá thuận lợi cho chủ nghĩa con cháu (nepotism) và cho những thái độ kẻ cả của người này và thái độ khúm núm nịnh bợ của người kia."
[2]Sách đã dẫn, trang 305-313.
[3]Tiền xấu (giả, rách) đuổi tiền tốt (thật, lành)
[4]"Tiếng Việt: xuống cấp hay hội nhập?", Lao Động, 27-01-2003

Phan Ngọc Một vài suy nghĩ về nhà ngữ âm học lớn nhất Việt Nam

Phan Ngọc
Một vài suy nghĩ về nhà ngữ âm học lớn nhất Việt Nam

Cách đây hai tuần tôi nghe tin anh Cao Xuân Hạo đã vào nhà thương vì mắc bệnh nhũn não mà bàng hoàng. Tôi và anh Hạo quen thân nhau từ năm 1940, khi anh còn là cậu học sinh lớp 6 của trường trung học Công giáo Thiên Hựu ở Huế, bạn cùng lớp với cậu em con ông chú của tôi là Phan Thiều, và cho đến nay, vào năm 2007, tức là đã 67 năm. Tuy hoàn cảnh cuộc đời mỗi người có nhiều thay đổi, nhưng tình bạn của tôi đối với anh không thay đổi. Trong thời gian sau giai đoạn “Nhân văn - Giai phẩm”, sau khi cả hai đều mất công việc giảng dạy, chỉ còn làm phiên dịch, hai người thường đi chung với nhau. Người nào nhắc đến Phan Ngọc thì cũng nhắc đến Cao Xuân Hạo, và ngược lại cũng thế. Kể ra, điều này không phải là vô lý, vì tôi và anh Hạo có nhiều điểm chung, khiến chúng tôi khác nhiều người.

Tôi xin nói trước đến một vài điểm giống nhau.

Ai cũng nhận thấy anh Hạo thạo nhiều ngoại ngữ. Theo kinh nghiệm của tôi, điều này là dựa vào việc học tiếng Latinh. Người nào đã học tiếng Latinh cũng đều nhận thấy trong ngôn ngữ này, hệ thống biến hóa hình thái là vô cùng phức tạp. Hầu như mọi quan hệ hình thái có thể có trong các ngôn ngữ phương Tây, thì đều có sẵn trong tiếng Latinh, cho nên đã học tiếng Latinh thì việc nắm các quan hệ ngữ pháp của các ngôn ngữ châu Âu là hết sức dễ dàng, gần như không cần phải học. Còn về vốn từ, thì tối đại đa số các chính tố trong các tiếng châu Âu đều đã có sẵn trong tiếng Latinh, cho nên việc nhớ không phải vất vả. Đã thế, một câu tiếng Latinh trung bình có từ 200 đến 300 chữ. Khi dịch ra tiếng Pháp bắt buộc phải dịch thành 4-5 câu, vì tiếng Pháp là ngôn ngữ phân tích tính. Do đó mà học được cách ngắt câu và cách viết sao cho các câu tách rời này vẫn tạo thành một thể thống nhất chặt chẽ là điều hết sức cần thiết. Những điều này đều hết sức có lợi giúp người học biết phân tích, tổng hợp, hay biết cách dùng các từ đệm sao cho cả một loạt câu thành một thể thống nhất. Không phải ngẫu nhiên mà anh Hạo, cũng như Trương Vĩnh Ký đều rất giỏi ngoại ngữ. Anh Hạo còn hơn tôi về điểm anh rất thạo âm nhạc, đã từng là một nhạc công và một nhạc sĩ. Cho nên anh có tai rất tốt, và rất thạo cách bắt chước sao cho đúng với ngôn ngữ nước ngoài. Có thể nói anh là nhà ngôn ngữ học bẩm sinh, và đời tôi chưa gặp một người thứ hai có năng khiếu này như anh. Phần lớn các nhà ngôn ngữ học Việt Nam, kể cả tôi và anh Nguyễn Tài Cẩn, đều do say mê ngôn ngữ học mà học suốt ngày nên có đôi chút thành tựu, chứ không phải là những nhà ngôn ngữ học bẩm sinh.

Anh Hạo cũng không bị kỷ luật làm nản chí, trái lại, càng lo làm việc tích cực hơn. Công việc cũng là dịch và làm khoa học. Anh đi vào âm vị học, tôi đi vào tín hiệu học để tìm hiểu tiếng Việt và văn hóa Việt. Hai ngành này đều cùng một gốc, theo cái xu hướng ngôn ngữ học mới ra đời sau những năm 30 của thế kỷ 20. Do đó, không phải ngẫu nhiên mà hai người gắn bó với nhau và thường tâm sự với nhau. Chính tôi đã đưa anh vào trường đại học tổng hợp và sư phạm để làm giảng viên ngữ âm học, vì thực tế lúc bấy giờ chưa có ai thạo ngữ âm học. Còn tôi thì biết năng khiếu của anh về ngữ âm học từ những buổi trò chuyện ở trường trung học Nguyễn Xuân Ôn phủ Diễn Châu (Nghệ An), vào những năm 1947-1949, khi thầy Cao Xuân Huy còn làm hiệu trưởng.

Anh Hạo cũng như tôi đều đi con đường thức nhận. Khi đi con đường này, người làm khoa học không bó hẹp vào cách nhìn của mình để đưa ngay ra kết luận về một hiện tượng. Trái lại, anh ta đối lập cách nhìn của mình về một vấn đề nào đó với mọi cách nhìn có thể có cũng về vấn đề này. Bài viết toàn là đối lập và đối lập, và người viết cố gắng giải thích mọi kiến giải khác nhau để cuối cùng đưa ra kiến giải của mình mà anh ta cho là hợp thực tế. Rất tiếc là tôi và anh tuy có cộng tác với nhau trong việc dịch một vài tác phẩm, nhưng chưa hề có dịp cộng tác với nhau về văn hóa học hay ngôn ngữ học. Việc khen chê đúng sai là thuộc thực tế sau này, tôi không dám bàn đến.

Bây giờ nói đến chỗ khác nhau.

Chỗ khác nhau chủ yếu là ở lối sống. Tôi là nhà nho Việt Nam, về chuyện tình yêu tôi bó hẹp vào chuyện vợ chồng chung thủy. Tôi lại được đặc biệt may mắn có bà vợ hiền lo lắng cho tôi về mọi việc trong gia đình, cho nên tôi có điều kiện làm việc suốt ngày. Còn anh rất khổ sở về chuyện gia đình. Tôi xin phép chỉ nói đến giai đoạn trước năm 1975, khi hai người còn ở gần nhau, chủ yếu là ở Hà Nội. Còn giai đoạn sau khi đất nước thống nhất, hai người ở xa nhau, tôi ở Hà Nội, anh ở Thành phố Hồ Chí Minh, cho nên tôi không có ý kiến.

Trong thời gian trước 1975, anh không gặp may về chuyện lập gia đình, hầu như phải một mình gà trống nuôi con, lo cho hai cháu là Cao Xuân Minh và Cao Liễu Thanh mọi việc từ ăn uống đến sinh hoạt, nhất là trong thời gian đi sơ tán, cuộc sống cực kỳ vất vả.

Điểm khác nhau thứ hai là lối sống nhà nho của tôi rất khác lối sống nghệ sĩ của anh. Anh là người đẹp trai, hát hay, đàn giỏi nên có nhiều tình duyên. Tôi đã có lần xung đột với anh về chuyện này, có một thời gian anh giận tôi gần như cắt đứt quan hệ với tôi. Cách làm việc của anh cũng khác tôi. Anh có thể thức 3-4 đêm liền không ngủ để hoàn tất một công việc. Nhưng rồi sau đó lại đi lông bông cả tuần. Còn tôi thì sáng 6 giờ dậy, tối 11 giờ ngủ, ngày nào cũng như ngày nào, suốt cả cuộc đời như vậy.

Có câu tục ngữ Latinh nói: “Những lời nói bay đi, nhưng chữ viết thì còn lại”. Những lời nói của anh không khỏi gây rắc rối cho anh. Nhưng những bài viết của anh sẽ còn. Những công trình của anh về âm vị học sẽ tồn tại như những đóng góp có một không hai trong ngôn ngữ học Việt Nam. Tôi hy vọng các bài ấy sẽ được tập hợp và xuất bản để nêu bật giá trị của một nhà ngôn ngữ học Việt Nam có tầm cỡ quốc tế.

Công trình âm vị học lớn nhất của anh là tác phẩm Âm vị học tuyến tính, suy nghĩ về những định đề của âm vị học đương đại (Nxb Quốc gia - Hà Nội - 2001). Công trình này anh dịch từ tác phẩm của anh viết bằng tiếng Pháp Phonologie et Linéarité réflexions critiques sur les postulats de la phonologie contemporaine (SELAF - Paris - 1985). Về trình độ tiếng Pháp của anh, đây là nhận xét của hai giáo sư A. G. Haudricourt và C. Hagège [1] :

“Trước hết, cần nói rằng tác giả là một nhà ngôn ngữ học Việt Nam chưa từng sống ở Pháp, nhưng đã viết cuốn sách dày 273 trang bằng một thứ Pháp văn tuyệt hảo.”

“Điểm thứ nhất mà một độc giả biết được bằng cách tiếp thu được trong sách là không làm gì có một môn học gọi là ngữ âm học” (phonétique); đó chẳng qua là một thứ “liên âm vị học” (interphonologie). Tôi hoàn toàn tán đồng ý kiến này, nhưng tôi chưa bao giờ thuyết phục được các nhà ngữ âm học nghiệp dư (và các nhà ngữ âm học chuyên nghiệp nữa) hiểu được điều này”.

J. P. Chambon của trường đại học Nam Illinnois [2] đã nhận xét về bài viết của anh “Vấn đề âm vị trong tiếng Việt” như sau:

“Thế nhưng bài báo của Cao đã chứng minh một cách hoàn toàn chính xác rằng có những ngôn ngữ trong đó nguyên âm và phụ âm cũng chẳng có tính chiết đoạn gì hơn các thanh điệu.”

“Công trình của Cao chứa chất những hệ quả trọng đại.”

Chúng tôi thấy có nói cũng thừa, không bằng chính lời của J. P. Chambon đã nói. Tôi chỉ nhắc đến câu kết luận:

“Sự thật là có lẽ phải nhìn về cái hướng mà Cao Xuân Hạo đã chỉ ra, chứ không phải về cái hướng của ngữ pháp tạo sinh cải biến, để tìm kiếm một cuộc cách mạng Copernic trong ngôn ngữ học hiện đại. Chẳng phải là một sự kiện có tính quy luật đó sao, khi lời chất vấn khẩn thiết này đến với chúng ta từ một nước xã hội chủ nghĩa thuộc Thế giới Thứ ba?” (Tôi nhấn mạnh).

Theo tôi, Cao Xuân Hạo là người Việt Nam đầu tiên đã góp được một tiếng nói quan trọng vào lý luận ngôn ngữ học của thế giới. Đây là mơ ước lớn nhất của một người làm khoa học. Trong bài này, tôi cố tình không nhắc đến chức vụ và tên từng tác phẩm của anh, và tôi gọi “anh Cao Xuân Hạo” với tư cách người anh cả của ngành âm vị học. Tôi tin chắc uy tín của anh sẽ còn và sẽ lớn lên với thời gian. Cái chết là chung cho mọi người, nhưng việc sống sau khi chết lại là rất hiếm. Trong những người ấy sẽ có anh Cao Xuân Hạo.


[1]Tập san của Hội Ngôn ngữ học, tập XI, 1986, trang 37-41.
[2]J. P. Chambon, Tạp chí các ngôn ngữ La Mã, Trung tâm nghiên cứu khoa học, tập LXXIII, tháng 11-1978, tập 1.

Bùi Kỷ : Ngôn ngữ và văn chương Việt Nam

Bùi Kỷ
Ngôn ngữ và văn chương Việt Nam
(Kỉ niệm 120 năm sinh Bùi Kỷ 05.01.1888 - 05.01.2008)

Lời người sưu tầm

Vào dịp kỷ niệm 120 năm sinh Bùi Kỷ (1888-2008), định tìm một văn bản nào đó để hậu thế được dịp nghe lại lời văn một nhà nghiên cứu tiên khu về ngữ văn Việt Nam, nhưng trong sưu tập Thơ văn Bùi Kỷ do nhà nghiên cứu quá cố Nguyễn Văn Huyền thực hiện (Hà Nội, 1994: Nxb. KHXH) lại chỉ có một số thơ văn chứ hầu như không có bài nghiên cứu nào của cụ Ưu Thiên. Đang toan rút lấy một vài chương đoạn trong sách Quốc văn cụ thể của cụ thì chợt nhớ trên Phụ trương văn chương của nhật báo Trung lập ở Sài Gòn hồi 1931 có đăng nhiều kỳ một bài của Phó bảng Bùi Kỷ. Tôi trở lại tìm và lấy được bài đó, xin trân trọng dùng làm của tin của người xưa gửi lại cho người nay.

Xin nhắc lại rằng cụ Bùi Kỷ (1888-1960, tự Ưu Thiên, hiệu Tử Chương) xuất thân trong một gia đình Hán học, nhà ở Châu Cầu, Phủ Lý; cha là Tiến sĩ Bùi Thức (1859-1915); ông nội là Phó bảng Bùi Văn Quế (1837-1913); bản thân Bùi Kỷ đỗ Cử nhân 1909, đỗ Phó bảng 1910, khi mới 24 tuổi, được bổ làm Huấn đạo nhưng từ chối, lấy cớ ở nhà phụng dưỡng cha già, và tự tìm đọc “tân thư”, học chữ Quốc ngữ và Pháp văn. Năm 1912 Bùi Kỷ được nhà nước Bảo hộ đưa sang học trường thuộc địa ở Paris, ở đấy từng xúc tiếp với Phan Chu Trinh, Nguyễn Ái Quốc; hai năm sau về nước không chịu ra làm quan, chỉ chuyên dạy học, viết sách. Cụ là một trong những người cộng tác tích cực với Trần Trọng Kim và một số học giả khác như Trần Văn Giáp, Phạm Duy Khiêm, Nguyễn Quang Oánh, v.v… trong việc soạn thảo các cuốn sách giáo khoa về tiếng Việt và văn chương Việt Nam dùng trong hệ thống nhà trường Pháp - Việt đương thời. Cụ là soạn giả đóng vai trò chủ yếu trong việc soạn thảo Việt Nam tự điển của hội Khai trí Tiến đức. Cụ là giảng viên người Việt đầu tiên về các môn Hán văn và Việt văn ở trường Cao đẳng Sư phạm Đông Dương mà học trò khoá đầu là những Dương Quảng Hàm, Đặng Thai Mai, v.v…; cụ cũng là đồng nghiệp hồi những năm 1930 của các nhà giáo ở trường tư thục Thăng Long (Hà Nội) như Võ Nguyên Giáp, Phan Thanh, Hoàng Minh Giám, v.v…

Trong hồi ức của nhiều học trò và đồng nghiệp, Bùi Kỷ thường được nhắc nhở như một nhà khoa bảng đỗ đạt cao nhưng khinh thường hoạn lộ, và khi nghiên cứu thường khảo thẳng vào để gắng đọc ra những đặc tính cần biết của đối tượng. Những nét của phương pháp Âu Tây đã hiện diện trong tư duy của nhà nghiên cứu trong khi cảm thức Á Đông vẫn hầu như còn nguyên trong tâm cảm nhà nho người Việt này. Đó có lẽ là những nét nên nhớ về một con người, một trí thức, đối với các thế hệ hậu thế, hơn là lặp lại những lời ca ngợi tuy to tát nhưng sáo rỗng.

Xin giới thiệu bài nghiên cứu này với bạn đọc.

Lại Nguyên Ân


*


… Mỗi một quốc âm là hồn của một dân tộc, từ tính tình, tư cách, tập tục, cho đến trình độ tiến hoá của một dân tộc, đều có thể xét ở quốc âm mà biết được. Cứ như ý riêng tôi nghĩ thì phàm thứ tiếng nào đã hay mà làm được văn chương, thì tiếng ấy không phải là tiếng tầm thường, phàm nước nào đã có tiếng làm được văn chương hay, thì nước ấy không phải là nước tầm thường (cái ý kiến này đã nói ở trong bài bia kỷ niệm cụ Tiên Điền).

Vậy nay ta thử xét kỹ xem, tiếng ta nên để vào hạng nào, có phải là hạng tầm thường không?

Tiếng ta thuộc về một loài tiếng đan âm. Chữ cổ thế nào, nay chưa xét ra hoặc không có, hoặc có mà chưa thành lập, rồi mất đi, đến nay không có bằng chứng rõ ràng để tra khảo, cho nên vẫn còn là một vấn đề khuyết nghi. Song cứ lấy ngay tiếng mà xét, thì thấy cái cách kết cấu và dung hợp thật là thần diệu và tinh vi. Tiếng có tiếng bằng tiếng trắc, bằng chia làm hai thanh, trắc chia làm bốn thanh. Trừ những tiếng nguyên là tiếng trắc thì chỉ có hai thanh, còn hết thảy tiếng bằng đều có đủ cả sáu thanh. Ví như “Việt Nam”, Việt nguyên là tiếng trắc, thì chỉ có hai thanh “viết” và “việt”; Nam là tiếng bằng thì có đủ cả sáu thanh: “nam”, “nàm”, “nám”, “nảm”, “nãm”, “nạm”. Vì tiếng có nhiều thanh thì mỗi một thanh có thể thành một nghĩa, thì gọi là tiếng đơn; khi nào phải dùng đến hai thanh mới thành một nghĩa, thì gọi là tiếng đôi và tiếng ghép.

Nay tôi xin kể qua mấy thứ tiếng làm thí dụ:

1. Hoán-âm là tiếng thuộc về tiếng đơn, vốn cùng gốc bởi một nghĩa, mà đọc làm thanh khác để đặt thêm một nghĩa, hoặc hơi khác nhau, hoặc khác nhau hẳn, như tiếng miệng với miếng, lững với lưng, ủng với ung, ứ với ừ.

2. Điệp-âm là thứ tiếng thuộc về tiếng đôi, một tiếng đọc lắp lại hai lần, làm cho kém nghĩa đi, như con con, to to, xanh xanh, vàng vàng… Trừ khi nào hai thanh trắc đi luôn với nhau, thì thanh đầu đọc làm bằng cho dễ đọc như đo đỏ, lơn lớn.

3. Hình-dung-âm là thứ tiếng thuộc về tiếng đôi; ta không có chữ, cho nên không có chữ tượng hình, hài thanh, hội ý như chữ Tàu, song nhờ có tiếng hình dung, dẫu cái gì khó mô tả đến đâu, cũng mô tả ra được, như đủng đỉnh, lững thững, thánh thót, lác đác, long đong, bông lông, nếu chia đôi hai thanh mà tìm nghĩa, thì chẳng có nghĩa gì, song hợp hai thanh lại mà đọc lên, tự khắc tưởng tượng ra hình như mắt đã trông thấy cái thái trạng gì, tai đã nghe thấy cái xoang điệu gì, hay trong ý đã hiểu thấu cái cảnh huống gì.

4. Chính-phụ-âm là thứ tiếng thuộc về tiếng đôi, tiếng trên có nghĩa gọi là chính, tiếng dưới không có nghĩa gọi là phụ, song tiếng chính nào có riêng tiếng phụ ấy, khi tiếng phụ đi với tiếng chính, lại làm cho rõ thêm nghĩa tiếng chính ra, như tiếng lẽo đi với lạnh, tiếng tênh đi với buồn, tiếng xoá đi với trắng, tiếng xì đi với đen.

5. Thấu-hợp-âm là thứ tiếng thuộc về tiếng ghép, nguyên hai tiếng vốn có nghĩa riêng, khi ghép vào làm một, lại thành ra một nghĩa khác, như bản lề, cửa võng, v.v…

6. Phân-loại-âm là thứ tiếng thuộc về tiếng đơn, nguyên là tiếng danh hô, rồi dùng làm tiếng phân loại. Tiếng ta không có chia giống đực giống cái, song nhờ có tiếng phân loại, dùng để đề chỉ cái gì cũng rõ. Tiếng con tiếng cái là tiếng phân loại chung, còn khi nào tiếng con tiếng cái không dùng được, thì hết thảy những tiếng danh hô đều dùng làm tiếng phân loại, ví như cuộc vui, đám hội, tiếng cuộc tiếng đám là tiếng phân loại, dùng theo nghĩa chính; quả núi, cây bông, cánh tay, tiếng quả, cây, cánh là tiếng phân loại, dùng theo nghĩa rộng hay nghĩa mượn. Còn như tiếng nào không thể phân loại được hay không cần phải phân loại như trời, đất, nước, lửa, bố, mẹ, anh, chị, không dùng đến tiếng phân loại bao giờ. Xem thế thì thấy cách dùng tuy giản dị song thật là tinh vi và hợp lý.


Tôi kể qua mấy thứ tiếng như trên này, không phải là định cắt nghĩa về mẹo luật tiếng ta, cốt là để bày tỏ cái hay của tiếng ta, tiếng chưa có chữ mà hay, thì cái hay cũng lạ lùng thật.

Tiếng ta nguyên có cái tư cách đủ thành lập làm một thứ tiếng của một nước, cho nên tuy không có chữ viết, tiếng ta vẫn thông dụng trong nước, không những thế, dẫu có cái thế lực của văn tự nước ngoài đưa đến, tiếng ta cũng không hề suy giảm đi chút nào.

Nước ta từ thời kỳ nội thuộc, chữ Tàu đã tràn sang ta, đến thời kỳ độc lập, trong nước dùng toàn chữ Tàu, thứ nhất tự nhà Trần trở về sau, Hán học cực thịnh, tiếng ta không những không thấy suy kém đi, mà lại càng giàu thêm mãi lên, - lấy bề ngoài mà xét thì cái thế lực chữ Tàu muốn thần phục cả tiếng ta, như tự Bắc Trung Hoa nuốt cả Nam Trung Hoa, song lấy bề trong mà xét thì chính là cái thế lực của tiếng ta đủ đối địch lại nổi chữ Tàu, lại thâu thái được hết thảy cái hay của Tàu làm cái hay của tiếng ta, cho nên chữ Tàu thịnh hành bao nhiêu thì cái kho tiếng ta sung túc bấy nhiêu.

Một thứ tiếng bỏ vơ bỏ vất trong hơn hai ngàn năm, học hiệu không giảng đến, khoa cử không dùng đến, vua quan ít khi công nhận đến, sĩ phu ít khi luyện tập đến, nằm ở dưới cái áp lực thật mạnh mẽ thật nặng nề của chữ Hán, là một thứ chữ cực tinh vi tường bị ở Á Đông, mà vẫn sinh tồn phồn tư được mãi mãi, lại càng ngày càng nở ra như hoa, thêu ra như gấm, thì thật quả không phải là một thứ tiếng tầm thường, mà cái hay cũng không phải là cái hay tầm thường.

Tiếng đã hay như thế cho nên không những chỉ dùng làm tiếng nói thông thường, mà khi dùng để tả cảnh vật hay cảm hoài hay thế thái nhân tình vẫn dồi dào mà không thiếu.

Xem ngay những ca dao ngạn ngữ từ xưa lưu truyền đến nay như những câu:

1. Ai làm lở biển rung ngàn
Cho ổ cá vỡ cho đàn chim bay?


2. Con sông nước chảy đôi dòng
Đèn khêu đôi ngọn em trông ngọn nào?


3. Ta về ta tắm ao ta
Dầu trong dầu đục vẫn là ao quen


4. Bầu ơi thương lấy bí cùng
Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn.


Những câu này tuy ngắn ngủi mộc mạc mà thật là uyển chuyển du dương, đủ làm chứng rằng: tiếng ta tuy không có chữ viết, song đã đủ gây nên một áng văn chương ở cõi Giao Chỉ cửu quận rồi.


*

Ai cũng biết rằng nước ta tự xưa vẫn dùng chữ Hán làm thứ chữ công ở trong nước, song vì ở bên cạnh thứ văn viết bằng chữ Hán vẫn có một thứ văn, ngâm nga phúng vịnh bởi cái thiên lai tự nhiên lưu lộ ra bằng tiếng ta, tả rõ được cái thiên chân cực lan man, cái tư tưởng cực thuần phác, cái chí thú cực hoà nhã và thanh tao, thứ văn ấy là cái hồn thiêng liêng của cõi Cổ Việt, không tài nào tiêu ma mai một đi được, cho nên bên cạnh chữ Hán mới đặt ra chữ Nôm để biên chép những thứ văn viết bằng tiếng ta.

Các tiên nho truyền lại, cho chữ Nôm có từ đời Trần, cách đặt chữ theo y như phép lục thư của Tàu: tượng hình, hội ý, hài thanh, chỉ sự, chuyển chú, giả tá. Nay xét trong chữ Nôm có thể tìm ra được mấy phép như sau này:

1. Chữ phút (chữ Nôm): tượng hình

2. Chữ trời (chữ Nôm): hội ý

3. Chữ đất (chữ Nôm): giả tá

4. Chữ xanh (chữ Nôm), chữ đỏ (chữ Nôm): một nửa là hội ý, một nửa là hài thanh

5. Còn những chữ nào thêm dấu “nhấp nháy” ở bên cạnh là chuyển chú.

Xem thế thì so với phép lục thư của Tàu, chữ Nôm thiếu một phép chỉ sự. Cách đặt thật là cẩu giản, chưa lấy gì làm tường bị, song xem như quyển Kiều, ngoại ba ngàn câu dùng đến ngoại hai vạn tiếng, chữ Nôm cũng đủ để chép, trong ngần ấy tiếng, trừ những tiếng viết hẳn bằng chữ Hán, hay những chữ trùng nhau, còn đến mấy ngàn tiếng viết bằng chữ Nôm, thì chữ Nôm đặt cũng gần đủ rồi. Giá phỏng từ trước, ta công nhận ngay chữ Nôm làm thứ chữ công, nhân cái phương pháp sẵn mà chỉnh đốn tu bổ lại, thì chữ Nôm thật là một thứ chữ tiện lợi và thích hợp với tiếng ta, vì tiếng ta quá nửa gốc ở chữ Tàu, mà chữ Nôm lại là một thứ chữ mượn ở chữ Tàu, thì trong khi ta đọc, càng nhận được cái nguyên hình của nó, mà ta học cũng dễ.

Song tiếc thay! Tiếng ta, ta đã không nhìn nhận đến, chữ đặt ra, ta cũng không đoái hoài đến, như có nhà không giữ, phải đi ở nhờ, có ruộng không cày, phải đi làm mướn, để đến nỗi thứ chữ có thể dùng mà không thành lập được, thì ta còn đổ lỗi cho ai!

Nay nhờ có chữ Quốc ngữ dùng hai mươi ba chữ cái, đặt tiếng nguyên âm, tiếng phát âm, lại có năm dấu để đánh vần ra các tiếng, rất là giản dị và dễ học, ta có thể dùng làm một thứ chữ viết để thay vào chữ Nôm, song hiềm vì còn có vài điều hơi bất tiện cho ta:

1. Chữ Quốc ngữ chỉ nhờ ở phù hiệu để đánh vần chứ kỳ thật thì không có hình chữ, ta thử nói ngay tính danh của chúng ta như Trần-Chung, Nguyễn-Chính, Lê-Bảo, Phạm-Trân, mà một bên viết bằng chữ Quốc ngữ một bên viết bằng chữ ta, thì bên nào trông có ý nghĩa hơn?


2. Quốc ngữ chưa phân biệt được tiếng đồng âm, như năm là năm tháng, năm là năm sáu, minh là sáng, minh là tối, minh là thề, minh là kêu, minh là khắc, không tài nào viết cho khác nhau.


3. Chữ đánh dấu cả ở dưới ở trên, viết hay nhầm mà coi không đẹp. Theo thiển kiến của tôi thì chữ Quốc ngữ còn có mấy cái khuyết điểm như đã kể ở trên này, song ta cũng không lấy làm phàn nàn, vì không có cái gì mới sáng tạo ra mà đã mỹ mãn ngay, nếu ta lưu tâm dụng công mà tìm được những cách ổn thiện để sửa đổi lại, lo gì sau này chữ Quốc ngữ không phải là một thứ chữ cực hoàn toàn của nước ta.



*

Tiếng và chữ của ta tôi nói đại khái như thế tưởng cũng đủ rồi, nay tôi xin nói qua về các lối văn. Văn ta có hai nguồn gốc: một là bởi cái âm hưởng tự nhiên của chúng ta mà thành ra những thể tài riêng, gọi là Việt-Hán văn; hai là bắt chước lối văn của Tàu mà đặt bằng tiếng ta gọi là Việt văn. Vì có hai nguồn gốc ấy cho nên sinh ra nhiều lối văn, song tóm cả lại, có thể chia làm bốn lối:

1. Có vần mà không đối nhau, như lục bát (Việt văn), thơ cổ phong, từ khúc (Hán-Việt văn)


2. Có vần mà đối nhau, như song thất (Việt văn), thơ luật, phú (Hán-Việt văn)


3. Đối nhau mà không có vần, như tứ lục: hịch, trướng, chiếu, biểu cận thể (Hán-Việt văn)


Tôi xin bày tỏ mấy lẽ để xét thử hai cái nguồn gốc văn chương ấy thành ra bao nhiêu chi phái và cách liên lạc với nhau là thế nào.

Văn nước nào cũng phát nguyên trước tiên bằng văn vần. Văn ta phát nguyên lối lục bát, văn Tàu phát nguyên bằng lối thơ, hai lối đều là lối văn vần song đặt lục bát vần ở chữ thứ sáu và thứ tám; trong câu bát có hai vần: chữ thứ sáu dùng để nối vần với chữ thứ sáu câu trên, còn chữ thứ tám để khởi vần cho câu lục nối theo câu ấy, vì ở trong một câu bát, chữ thứ sáu và chữ thứ tám dùng để gieo hai vần bằng, cho nên hai chữ không được đi cùng một thanh, nghĩa là một tiếng đoản bình thanh (tiếng không có dấu huyền) đi với tiếng trung bình thanh (tiếng có dấu huyền). Còn lối thơ cổ thì gieo cả vần bằng và vần trắc mà vần ở cuối cùng câu. Nay thử lấy bốn câu lục bát:

Núi chìm hang nổi lần lần,
Trơ trơ trong cõi hồng trần một ta.
Năm năm xuân trẻ thu già,
Cây xanh mây trắng xa xa lại gần.

so với bốn câu thơ cổ phong:

Gió chiều lá lác đác,
Chim hôm bay xào xạc.
Gánh củi lững thững về,
Đường quen không sợ lạc.

thì thấy trong bốn câu lục bát: hai câu trên có hai vần, câu thứ hai, thứ ba, thứ tư ba vần; còn bài thơ thì bốn vần ở cuối cùng câu. Xem thế thì lối lục bát chỉ gieo được đến ba câu là cùng, còn lối thơ muốn gieo bao nhiêu vần cũng được.

Song thất khác với lục bát là gieo cả vần trắc: câu thất trên vần ở cuối cùng, câu thất dưới vần ở chữ thứ năm và thứ bảy, nếu câu thất trên, chữ cuối cùng là tiếng trắc thì câu thất dưới chữ thứ năm nối vần với tiếng trắc, mà chữ thứ bảy nhất định phải là tiếng bằng; nếu câu thất trên chữ cuối cùng là tiếng bằng thì câu thất dưới chữ thứ năm nối với vần bằng, mà chữ thứ bảy nhất định là tiếng trắc. Lối song thất lại còn một điều khác với lối lục bát, là hai câu có khi đặt đối nhau. Thí dụ mấy câu như sau này:

Lò dung chú không than vẫn cháy,
Khoá tuần hoàn chẳng máy mà xoay.
Dại làm sao dại ngáp mắc may,
Khôn như thế khôn hay gặp rủi

Xem như trong bốn câu thơ này thì thấy hai câu trên và hai câu dưới đối nhau, còn cách gieo vần thì cứ chữ thứ năm câu thất dưới nối với chữ cuối cùng câu trên, câu thứ nhất, thứ nhì có hai vần trắc; câu thứ nhì, thứ ba, thứ tư có ba vần bằng, gieo vần cũng chỉ được đến ba vần là cùng, như lối lục bát vậy. Song lối đối nhau và lối gieo vần ở chữ thứ năm, không phải là một luật bó buộc, xem như mấy câu này:

Mắt danh lợi thế thôi là thế,
Mặt trần ai ai đã biết ai

Gieo vần khác nhau. Lục bát chỉ dùng vần bằng. Câu lục vần ở cuối cùng. Câu:

Tội chi kệ nệ cái hình hài,
Đeo thêm nặng chữ tài cho mệt

Xét trong bốn câu này: hai câu trên đối nhau mà không có vần, hai câu dưới không đối nhau mà có vần, thì biết rằng lối đối nhau và lối gieo vần ở chữ thứ năm, không phải là một lệ nhất định.

Nói tóm lại, Việt văn chỉ có hai lối là lục bát và song thất rồi thành ra các biến thể, như hát xẩm là biến thể của lục bát, hát nói (ả đào) là biến thể của song thất; khi nào dung hợp cả hai lối như Tần cung oán, Chinh phụ ngâm thì gọi là song thất lục bát.

Còn lối văn Tàu thì phát nguyên từ cổ thi, rồi thêm lối Đường luật; phàm bao nhiêu từ khúc ca hành đều là biến thể của cổ thi cả; phú cũng là biến thể của thơ, phú lại biến ra tứ lục (biền ngẫu) cho đến kinh nghĩa, văn sách, đều gốc ở lối phú cả.

Trong thời kỳ ta học Hán tự, dùng hết thảy lối Hán văn, để dạy và thi học trò, lâu ngày thông dụng cả nước, các nhà văn sĩ bắt chước lối văn ấy, viết bằng tiếng ta mà thứ nhất là thơ, phú, tứ lục, thành hẳn như là lối văn của ta vậy. Nay xem như tập thơ Bạch Vân am, bài phú Tây hồ, bài văn Tế trận vong tướng sĩ, bài hịch dụ Bắc thành trung nghĩa của ông Lê Huy Đao, lối văn mượn của Tàu, văn viết bằng tiếng ta, mà đặc sắc, cái tuyệt diệu có thể bá trọng với văn Tàu, thật đủ làm vẻ vang cho cái giá trị của tiếng ta vậy.

Nay ta xét xem hai cái nguồn gốc văn chương tại làm sao mà có thể hoà hợp với nhau được.

1. Tiếng ta cùng tiếng Tàu đều thuộc về loài đơn âm, cho nên ta có thể thâu thái chữ Tàu làm văn liệu của ta.


2. Lối lục bát giống cổ thi của Tàu. Thí dụ:


Khối tình lăn lóc cổ câm
Cõi trần được một tri âm cũng nhiều
Vườn đào gió sớm mưa chiều
Lấy ai mà giải mọi điều não can?

Bốn câu này là bốn câu lục bát, song giá phỏng lấy nguyên câu thứ nhì, thứ ba, và câu thứ tư bỏ đi hai chữ cuối cùng, thì thấy có ba câu cổ thi hay là ba câu ca hành ở trong.

Cõi trần được một tri âm cũng nhiều
Vườn đào gió sớm mưa chiều
Lấy ai mà giải mọi điều

Lối song thất giống lối tứ lục. Thí dụ:

Bụi vơ vẩn, bóng câu vì vụt
Mây tần ngần trận nhạn loi thoi
Năm tháng ngày dừng lại mũi thoi
Sống lâu mãi mà coi cho thích

Bốn câu này tức là bốn câu song quan của lối tứ lục, chỉ khác nhau một chút, là lối song thất đặt nối vần.

Vì lối văn ta và văn Tàu có cái liên lạc với nhau như thế, tự nhiên có thể hoà hợp với nhau, mà không bao giờ mâu thuẫn, cho nên không những ta đã dùng được những chính thể ở trong lối văn Tàu, mà ta lại đặt ra được nhiều lối tạp thể, dùng lẫn cả lối văn Tàu ta vào trong một bài văn, như hát tỳ bà là bài thơ đi với một khúc song thất lục bát, hát thiên thai là bài thơ đi với bốn câu lục bát mà thứ nhất là lối hát chèo tuồng, là lối hợp dụng cả bốn lối văn như vừa kể trên kia.

Chèo tuồng là những lối văn có thể cảm động được nhân tâm, bổ ích cho phong hoá, chính là một vấn đề mà ngày nay ta cần phải kê cứu đến, tiếc thay tôi không phải là một nhà chuyên môn, chỉ biết được ngạnh khái mà thôi.

Bộ Vũ trung tuỳ bút chép rằng: đời Lý có bọn đạo sĩ nhà Tống sang ta, dạy lối phấn hý, tức là lối hát chèo; bộ Kiến văn tiểu lục lại chép rằng: đởi Trần lúc đánh Toa-Đô, bắt được bọn ưu nhân là Lý Nguyên Cát, đặt ra những lối truyện ký, như Tây vương mẫu hiến đào, v.v… tức là lối hát tuồng.

Lối chèo câu hát đặt như câu nói chuyện, thỉnh thoảng đặt chêm lẫn lối thơ, lối biền ngẫu (câu song quan), giọng hát có ví, than, ngâm, giọng phổ thông nhất là giọng đường trường, sa lệch, mà cái đặc sắc của chèo là những câu khôi hài. Lối tuồng câu hát đặt phần nhiều theo lối song thất hay biền ngẫu, thỉnh thoảng chêm lẫn lối lục bát, giọng hát có giáo đầu, xướng, vãn, loạn nam bắc, tẩu mã, v.v… Lối hát tự Trần về trước thất lạc không lưu truyền lại; đến đời Lê Hồng Đức, vua Thánh Tông sai các văn thần là Thân Nhân Trung, Đỗ Nhuận, Lương Thế Vinh định lại các lối hát, chia làm hai bộ: Đồng văn và Nhã nhạc. Bộ Đồng văn chuyên về âm luật, bộ Nhã nhạc chuyên về bài hát, giọng hát, có đặt ra làm tám lối hát: hoang chung, cung nam, cung bắc cung, đại thực, dương kiều, âm kiều, hà nam, hà bắc, gọi là “bát đoan cẩm”. Hai bộ ấy dùng làm bộ hát của triều đình, còn ở dân gian thì đặt ra giáo phường để trông coi các lối hát cho có thể thống.

Đến cuối Lê, bộ Đồng văn và Nhã nhạc chẳng qua chỉ là chiếu lệ, kỳ thực nhạc chế và ca bản đã sai ngoa gần hết, còn chủ giáo phường chỉ trông coi về đào kép mà thôi; những lối bát đoan cẩm nào còn lại, lẫn vào với lối hát cửa đình, hát ả đào, song hoàng cung gọi sai làm cung huỳnh, đại thực làm đại thạch, dương kiều làm kiều dương, hà nam làm sà nam, ngay tên khúc hát đã nói sai, thì khúc bản chắc cũng mất mát gần hết. Ấy là lối hát chèo hát bội của ta đã suy ngay từ cuối đời Lê rồi.

Song xét trong những bản nảo [1] cũ, có nhiều câu đọc lên khoái trí lắm, thành ra một lối văn riêng, nay xin trích mấy câu:

1. Chèo Trương Viên (hề hát):

Phú tê tê, ông sao Hôm, phú lý chừng hồ mọc, ông sao Mai. Phú lý chừng hồ lặn, hỡi cô nhiễu chúa múa kia, đứng dậy mà về, kẻo sương pha lác đác, lác đác lạnh lùng.

2. Chèo Lưu Bình (hề nói):

Dạ lạy bác bác gọi tôi là thằng sơ,
Dạ lạy bác, sơ còn có tích,
Con nhớ ngày xưa con đi học, sách “Tam tự kinh”có câu “nhân chi sơ”
Đến sau con nên chín nên mười,
Làm thơ như đổ son vào,
Cũng có ông sơ ông phúc.
Trong Chu lễ cũng có sơ xuân, sơ hạ, sơ thu, sơ đông.
Bốn mùa ấy cũng phải lấy sơ làm thủ.
Vậy có thơ rằng:
Thiên thượng cửu trùng ban hạ chính
Nhân gian vạn lý phó xuân sơ.

3. Tuồng Sơn hậu (hồi bà Nguyệt Tam cung chị Tạ Thiên Lăng đi tu):

Một cây sinh năm bảy cành hoa,
Hưởng phú quý cũng là hậu quả.
Xin tuyệt nẻo sinh sinh hoá hoá,
Được khỏi vòng khứ khứ lai lai.

4. Tuồng Ngũ hổ quá quan (hồi Địch mẫu than con):

Gánh hào kiệt để trong vũ trụ,
Nợ anh hùng phụ với giang san,
Sinh con ra khám nám hơn vàng
(Ai ngờ con) làm cho mẹ luống bơ vơ đầu bạc.

5. Tuồng Tam nữ (hồi Phương Cơ qua sông):

Quân nói:
Bóng câu bay bổng qua sông
Hỏi thăm em đã có chồng hay chưa?
Có chồng năm ngoái năm xưa,
Năm nay chồng để như chưa có chồng

Phương Cơ nói:
Khen ai miệng mặt khéo chìu,
Cắt lìa trung nghĩa như mài lưỡi gươm.
Thương ai công nghiệp nửa chừng,
Cây rung khi gió lửa bừng khi mưa.
Thương ai ai đã bõ chưa?
Trăm năm đái lệ, một giờ tang thương.


Những câu này, tuy chỉ là một cánh ở trong cây bông hoa, một sợi ở trong cả tấm, song đọc lên hay nghe thấy, ta không nên vội chê cười bọn mặt mày lấc xấc như thù nho, áo mũ lăng nhăng như ưu mãnh mà bảo rằng không có cái đặc sắc văn chương.

Lối chèo tuồng cũ không phải là dở cả, song sở dĩ càng ngày càng suy đồi đi, là vì các văn gia không mấy khi lưu tâm đến, bản mới hiếm có bản hay, bản cũ ít có người sưu tập; hãy nói ngay như tấn tuồng “Bách bảo” là tấn tuồng rất có giá trị, mượn các vị thuốc để ví một cái cảnh triều đình, mới có năm sáu năm mươi nay mà đã tam sao thất bản, khó lòng tìm được cả nguyên văn, đủ biết ta tự xưa đối với nghề chèo tuồng vẫn hay giữ một cái thái độ lãnh đạm, mà lại có khi khinh rẻ, cho là những nghề hèn thấp, không thèm ngó nhìn đến.

Ít lâu nay, nhân có cái phong trào mới, cả nước cổ vũ về quốc văn, ta bắt đầu để ý đến nghề diễn hý. Lối chèo tuồng đã thấy sửa đổi ít nhiều, lại thêm một lối hát mới đặt bằng văn xuôi là kịch bản; xét chữ kịch không có nghĩa riêng, có thể dùng để gọi chung cả lối chèo lối tuồng, song công chúng đã công nhận cho chữ kịch có một nghĩa, khác với chèo tuồng, thì chữ kịch tự nhiên thành một nghĩa riêng, vậy lối kịch và lối chèo tuồng cộng cả lại, là trong hý viện của ta ngày nay có ba lối hát.

Theo về phương diện cải lương, thì lối kịch so với hai lối kia, có phần tiện lợi hơn: phần thì không phải hát hò hét, không có kèn trống om sòm, phần thì bày cảnh, chia tấn cũng dễ, làm cho công chúng hiểu ngay. Song theo về phương diện văn chương thì mỗi lối có một cái hay, có một cái khó, không nên thiên khinh thiên trọng lối nào.

Lối chèo thuộc về văn trào phúng, đặt câu cần phải thoát sáo mà có lý thú, hý hước mà không thô tục; lối tuồng thuộc về văn trang nhã, điển cố, chỗ nên tả ra cực hùng tráng, chỗ nên tả ra cực đường chánh, chỗ nên tả ra cực lâm ly, và lại đặt câu theo lối song thất hay lối tứ lục, thì cú pháp lại phải tề chỉnh lắm; lối kịch thuộc về văn trân tự cũng như đoản thiên tiểu thuyết cốt nhất ở cách phô diễn có từng thứ khúc triết lý và minh bạch, và mỗi một vai ra phải có một khẩu văn riêng, nghĩa là hạng người nào có giọng nói của hạng người ấy. Đại khái cái hay và cái khó của ba lối là thế.

Song lại còn một điều rất quan thiết mà các nhà làm văn cần phải cứu đến, là cách hoà hợp của âm và thanh. Âm là tiếng nói ở trong miệng ra, có thần âm, xỉ âm, thiệt âm, hầu âm, tỵ âm, ngạc thương âm; thanh là cùng một âm mà đọc ra giọng lên giọng xuống khác nhau. Tiếng ta trừ âm trắc chỉ có hai thanh, còn âm bằng thì có đủ sáu thanh như tôi đã nói ở trên. Song ta thường thấy có khi viết một câu văn mà đọc lên khó đọc, nghe ra khó nghe, là tại làm sao? Là có khi mấy âm đi với nhau không thuận, mấy thanh đi với nhau không kêu, thí dụ âm há to miệng đi luôn ngay với âm ngậm miệng như bá với bóp, chụp với cá; ba thanh trắc đồng thanh đi luôn với nhau, như cá-lá-sá, dục-lục-tục, thế là phạm vào luật khổ độc vậy.

Vậy cách hoà hợp của âm và thanh tuy thuộc về một phần hình chất, song có quan hệ đến xoang điệu tiết tấu ở trong bài văn, các văn gia không nên khinh thường mà không lý hội đến.

Mong rằng các nhà có nhiệt thành có hứng thú về quốc văn, nhân tiếng ta sẵn là một thứ tiếng hay, trước đã có cái nguồn gốc cũ là Hán văn, nay lại thêm cái nguồn gốc mới là Âu văn, mà kê cứu một ngày một thâm, luyện tập một ngày một tinh, để cho những cuốn kiệt tác thuộc về cả lối văn một ngày một phát hiện ra nhiều, thì vẻ vang cho tiếng ta biết là chừng nào, cho nước ta biết là chừng nào!


[1]nảo (hay não?) có nghĩa là bản nháp, bản thảo (viết tay). Từ này không thấy có trong các từ điển từ Việt cổ. Ở đây căn cứ vào một số bài trên báo Trung lập ở Sài Gòn, chẳng hạn Bùi Thế Mỹ ở Phụ trương văn chương số 23 (Trung lập, 3/10/1931) có bài nhan đề: “Làm văn có nảo không?”, trong đó tác giả nói rõ nghĩa của “nảo” là “bổn nháp, bổn thảo”… “theo tiếng Sài Gòn, tôi để nảo (brouillon)” (LNA)
Nguồn: Trung lập, Sài Gòn, số 6469 (Phụ trương văn chương số 8, thứ bảy 20 Juin 1931); số 6475 (PTVC số 9, thứ bảy 27 Juin 1931); số 6481 (PTVC số 10, thứ bảy 4 Juillet 1931); số 6487 (PTVC số 11, thứ bảy 11 Juillet 1931); số 6497 (PTVC số 13, thứ bảy 25 Juillet 1931)

PHAN KHÔI : CÙNG SƯ THIỆN CHIẾU BÀN VỀ LỐI DỊCH SÁCH HAY LÀ PHÊ BÌNH LỐI DỊCH CỦA SÁCH “PHẬT HỌC TỔNG YẾU”

CÙNG SƯ THIỆN CHIẾU BÀN VỀ LỐI DỊCH SÁCH HAY LÀ PHÊ BÌNH LỐI DỊCH CỦA SÁCH “PHẬT HỌC TỔNG YẾU”



Sư Thiện Chiếu đã biên dịch và ấn hành cuốn sách nhỏ kêu là Phật học tổng yếu, có tặng cho tôi một cuốn. Cả cuốn gồm có tám bài luận về Phật học, nguyên văn bằng chữ Tàu đăng trong tạp chí Hải triều âm mà Sư đã lượm lặt dịch ra.

Lâu nay tôi thỉnh thoảng cũng có nhận được những sách mới xuất bản mà người soạn thuật đã gởi tặng. Mỗi khi tiếp được một cuốn, tôi đọc qua rồi cất đó. Duy có lần này đọc cuốn của Sư, thì gợi ra cho tôi một mối cảm tưởng, muốn lạm bút mà phê bình.

Sự phê bình có dễ chi. Huống chi tôi chẳng phải là tay phê bình nhà nghề, đối với Phật học lại cơ hồ không biết một chút nào hết, mà đòi phê bình cái gì chớ ! Nhưng bạch Sư cho tôi nói : Tôi dầu không phải là tay phê bình chuyên gia và cũng không hiểu về Phật học, song về cách dịch sách thì tôi có biết võ vẽ một ít ; tôi chỉ muốn đem cái điều biết chút đỉnh của tôi đó mà thương xác cùng Sư vậy.

Vậy bài nầy tôi tiêu đề rằng “Cùng sư Thiện Chiếu bàn về lối dịch sách”, mà có muốn kêu bằng phê bình thì cũng chỉ “Phê bình lối dịch sách Phật học tổng yếu”. Luôn thể tôi đặt ra một cái giới thuyết rằng trong bài nầy tôi không phê bình về Phật học và cũng không phê bình cái lý thuyết trong sách Phật học tổng yếu là thế nào.

Trước khi đem cái chỗ biết của tôi mà hầu chuyện cùng Sư, thì lại muốn nói một điều. Lâu nay tôi đã nhận biết trong nghề văn học rất cần có sự phê bình. Nhưng trong làng văn ta dường như chưa có chỗ dung được sự ấy. Tôi đã nghiệm ra, mỗi khi mình thấy ai có nói điều gì ngang trái mà thử nhắc nhở cho họ thì họ lại không ưng. Không ưng trơn, còn khá ; nhiều khi lại sanh ra hiềm oán. Vậy nên mỗi khi nhận được cuốn sách tặng nào, tôi dầu có thấy điều gì sai lầm ở trong, cũng phải làm lơ đi mà cho như là cuốn sách ấy đã hoàn mỹ, ta chỉ có đọc qua rồi trân tang(*) vào tủ.

Than ôi ! Sự phê bình mà lại là sự không nên, sự rất cấm kỵ trong làng văn xứ ta ! Tôi có ngờ đâu !

Theo tôi tưởng, nếu cứ vậy mãi rồi trên cái sân khấu văn học của ta sau nầy trở nên bại hoại là dường nào ! Lần lần kép nhứt đi hết, rồi thì nam khách trại bẹ(**), nhảy múa không nhằm nhịp, mà khán giả cũng cứ việc vỗ tay, ông cầm chầu cũng cứ việc thưởng, không thưởng thì họ nhiếc ! Nghĩ đến nông nỗi nầy mà trong bụng không ra làm sao hết.

Muốn truyền cái đạo phê bình ra trong làng văn ta, có khi phải núp dưới cái bóng phường từ bi của Phật mới đặng. Ấy là mối cảm tưởng sanh ra cho tôi sau khi đọc cuốn Phật học tổng yếu(***) của Sư Thiện Chiếu.

Tôi đã từng đôi lần được nghe thuyết pháp dưới tòa sen của Sư ; vậy thì về cuốn sách nầy nếu có điều gì nên thương xác thì tôi bàn miệng với Sư cũng được chớ. Nhưng tôi không làm thế mà lại viết bài đăng báo, chẳng giấu gì Sư và cũng chẳng giấu gì độc giả, tôi muốn nhơn dịp nầy, nhờ cái đức “không hay giận” của nhà Phật để đổ chén thuốc đắng phê bình vào trong miệng người An Nam.

*

* *

Tôi đọc qua sách Phật học tổng yếu thì thấy cái trình độ học chữ Hán của Sư Thiện Chiếu thật đã cao. Tiếc tôi không được thấy cả nguyên văn mà đối chiếu thử, song đọc nội bản dịch cũng có thể biết được đại khái là đúng. Lần trước tôi thấy một tờ báo quốc ngữ có bài của ông chi đó dịch bài Dĩ Phật pháp phê bình xã hội chủ nghĩa của Thái Hư pháp sư(*), tôi đọc mà chẳng hiểu chi cả ; đến khi tìm được nguyên văn dò lại thì té ra ông ấy dịch sai bét hết, không nói hàm hồ, sai cũng đến sáu phần mười. Song lần nầy tôi đọc của Sư thì hiểu đâu ra đó, bởi vậy tôi dám chắc là đại khái đúng với nguyên văn.

Mấy lời trên đó là tôi theo sở kiến mình mà nói bằng một cách thiệt thà chớ chẳng phải theo cái lối hành văn thường, hễ khi muốn dằn ai xuống thì trước phải nâng lên đâu. Sư Thiện Chiếu là một vị học giả mới ra đời trong làng Phật học ở đất nầy. Sư tự có cái sở học sở đắc của Sư, cần chi tôi phải dùng lời khen ngợi ; còn tôi đây cũng thấy làm sao nói làm vậy, nói là vì văn học mà nói, chẳng biết nâng ai mà cũng chẳng biết dằn ai.

Đây nhẫn xuống là những chỗ thấy trong sách Phật học tổng yếu, mà theo ý tôi, tôi cho cái lối dịch như vậy là chưa được, vậy dẫn ra đây thương xác cùng Sư và cũng chất chánh(**) cùng độc giả.

*

* *

Một là về sự dùng chữ Hán. Trong các khoa học bây giờ có nhiều danh từ dùng chữ Hán mà dịch thì nghe gọn gàng hơn là dùng tiếng ta. Trong Phật học cũng vậy. Về Phật học, danh từ bằng chữ Hán đã có sẵn lại nhiều lắm, như những chữ thập nhị nhân duyên, tứ diệu đề(***), trong nhà chùa nói đã quen rồi thì ta nên dùng theo ; cho đến như những chữ nhiễm trước, phan duyên(*), tuy nói thường ít dùng đến, nhưng muốn tìm tiếng ta mà dịch cho nghe được cũng khó, thì cũng phải dùng theo nữa. Ngoài ra, những chữ không phải là danh từ riêng của Phật học mà có thể nói bằng tiếng ta, thì tôi tưởng phải nói bằng tiếng ta, không nên dùng chữ Hán.

Cái lẽ, một là vì, đã gọi là dịch nguyên văn chữ Hán, thì theo lẽ phải nói hết thảy bằng tiếng An Nam, cực chẳng đã tiếng nào An Nam không có mới phải để y chữ Hán, nếu chỗ nói tiếng An Nam được mà không nói thì sao gọi là dịch ? Hai là vì, dịch ra tiếng An Nam là cốt muốn cho những người không thông chữ Hán đọc mà hiểu được, bằng để nguyên chữ Hán thì dịch làm gì ?

Theo lẽ ấy, trong sách Phật học tổng yếu, nơi trang 38 có câu “Chơn tâm chẳng phải cái quả tim nhục đoàn”; hai chữ “nhục đoàn” đó nên dùng tiếng ta mà không nên dùng chữ Hán. Tôi tạm dịch là : “Chơn tâm chẳng phải là quả tim bằng khối thịt”, tưởng có lẽ người ta nghe dễ hiểu hơn vậy. Lại như câu ở trang 3, “ăn thì trân tu, mặc thì hoa lệ, ở thì trang nghiêm”, tưởng nên đổi lại mà nói : “ăn thì của ngon, mặc thì áo đẹp, ở thì nhà cao cửa rộng”, có lẽ dễ nghe hơn. Trong ba cặp chữ Hán đó có chữ trân tu lại càng làm cho người thường khó hiểu lắm ; viết mà viết cho người ta không hiểu thì vô ích.

Nơi trang 4 lại có ba cái động từ kép mà dùng chữ ta chữ Hán xen kẽ với nhau, ấy là câu : “Chúng ta bị hoàn cảnh xô đẩy, áp bách, khu trục”, thì tôi tưởng nên nói : “Chúng ta bị hoàn cảnh xô đẩy, đè nén, xua đuổi”, chắc là nghe xuôi tai hơn.

Đại khái trong sách của Sư đây dùng nhiều chữ Hán quá ; tôi là người thông chữ Hán đây mà đọc còn thấy ngán, huống chi là kẻ khác.

Ấy là điều thứ nhứt xin Sư về sau sửa sang lại.

Hai là về sự chua nguyên văn tiếng Phạn. Có những danh từ chuyên dùng một chữ Hán, sợ không hết ý, phải truy nguyên đến tiếng Phạn hay là chua bằng tiếng Phạn. Theo lối dịch, sự đó là phải lắm, đáng làm như vậy lắm. Nhưng ngộ khi như vậy thì tôi tưởng nên để nội một mình chữ Phạn mà thôi ; còn cái chữ Hán mà họ đã do tiếng Phạn dịch âm ra, mình nên bỏ đi là phải. Nếu để thêm cái tiếng dịch âm của Tàu đó thì làm cho thêm rộn mà chẳng được việc chi. Trang 23 có một câu như vầy :

“Địa ngục nguyên tiếng Phạn là “na-lạc-ca”(1) (naraka) nghĩa là “không vui”, “đáng gớm”, v.v...”

Ba chữ “na-lạc-ca”, là theo giọng An Nam mình mà đọc ba chữ Hán ấy, chớ không phải đọc theo tiếng Phạn là “naraka”. Vậy thì nay mình đã truy nguyên đến tiếng Phạn, cũng nên bỏ ba chữ ấy đi cho rảnh mắt. Xin sửa câu ấy lại như vầy :

“Địa ngục nguyên tiếng Phạn là “naraka” nghĩa là “không vui”, “đáng gớm”.”

Như vậy thì thành ra tiếng An Nam mình trực tiếp với tiếng Phạn, khỏi bắc thêm cái cầu dịch âm của chữ Hán là cái cầu mình không cần dùng nữa. Và như vậy thì làm cho kẻ đọc khỏi bỡ ngỡ. Còn như theo lối dịch của Sư thì trong khi đọc đến, người ta phải hỏi trong trí rằng : Ủa, chớ đã có tiếng Phạn là na-lạc-ca mà còn naraka nữa, là cái gì ?

Chúng tôi dịch tên người tên đất bên Âu châu, có khi, như gặp tên Napoléon, chúng tôi để y như vậy mà chua ở dưới rằng “Tàu dịch là Nã-phá-luân”. Cái đó là một cách cần dùng tạm thời. Vì cái tên “Nã-phá-luân” người mình quen nghe rồi, mà nay chúng tôi không muốn nói vậy nữa, muốn nói ngay bằng tiếng Tây cho đúng hơn, thì tạm phải nhắc lại cho người ta nhớ, kẻo có người lầm tưởng là hai tên. Chớ còn như đối với “na-lạc-ca” hay “naraka”, người mình cũng đều chưa quen cả, thì bây giờ nhét vào trong tai người ta cả hai, chi bằng nhét lấy một. Bởi vậy tôi chủ trương rằng khi nào gặp như thế thì nên dùng một mình tiếng Phạn mà bỏ tiếng dịch âm của Tàu, trừ ra khi nào cần lắm thì mới nhắc đến, như nói rằng : “Tên đức Phật, tiếng Phạn là Sakya-muni (hoặc viết Sakyamouni) mà Tàu dịch là Thích-ca-Mâu-ni”.

Ba là về sự dịch những thành ngữ của chữ Hán. Không cứ dịch thứ tiếng gì, khi gặp một thành ngữ (expression) của tiếng ấy mà nếu tìm trong tiếng mình cũng có một thành ngữ giống nhau, thì nên dùng mà dịch ; bằng không, thì nên nát cái nghĩa của thành ngữ ấy ra tiếng mình cho xuôi, chớ không nên dịch y theo thành ngữ ấy, vì nếu làm như vậy thì câu văn nghe ra sống sượng quá.

Theo nguyên tắc ấy, tôi xin đặt ra đây một cái ví dụ. Như dịch chữ Hán, gặp câu “Ngã dữ bỉ ngôn, như thủy đầu thạch”. “Như thủy đầu thạch” là một cái thành ngữ của chữ Hán, nghĩa là nói như nước chảy trên đá trợt lớt không ăn thua chi. Trong tiếng ta cũng có một thành ngữ giống như vậy, ấy là “nước đổ lá khoai”. Vậy ta nên dùng mà dịch câu kia, dịch rằng : “Tôi nói với nó như nước đổ lá khoai” vậy là được. Ngộ như trong tiếng ta không có câu thành ngữ nào như thế, thì ta phải nát nghĩa mà dịch rằng : “Tôi nói với nó mà nó chẳng nghe tôi”, cũng đủ nghĩa rồi, chớ không nên theo đúng chữ mà dịch rằng : “Tôi nói với nó như nước gieo đá”. Nếu nói vậy thì nghe ra sống sượng, vì “nước gieo đá” trong tiếng ta chẳng có ý nghĩa gì hết, chẳng ai hề nói như vậy bao giờ.

Nơi trang 11 có câu : “... khác nào như chụp gió trên không, rược bóng bề ngoài đâu”; câu ấy nghe khí sống sượng, e khi có người không hiểu nữa. Đó chắc là dịch chữ “bộ phong tróc ảnh”. Nhưng theo tiếng An Nam không ai hề dùng cái ví dụ “chụp gió rượt bóng” để chỉ nghĩa vô ích và mất công. Huống chi thêm chữ “trên không” và “bề ngoài” thì lại càng lủng củng khó nghe lắm. Nhứt là chữ “bề ngoài” thì tôi cũng chẳng hiểu được. Đó là một cái thành ngữ chữ Hán mà ta không có thành ngữ tương đương thì chi bằng nát nghĩa ra mà dịch.

Lại nơi trang 36 có câu : “Người sanh ở đời, chẳng qua vài mươi phen lạnh nắng mà thôi”. Chữ “lạnh nắng” đó cũng làm cho lạ tai người An Nam. Tôi biết, ấy là dịch đúng theo chữ “sổ thập hàn thử” trong chữ Hán. Nhưng chữ Hán nói thế được mà chữ ta không nói thế được. “Sổ thập hàn thử” tức là vài mươi năm, thì cứ nói : “Người ta ở đời chẳng qua vài mươi năm mà thôi” có phải dễ nghe hơn không ?

Bốn là về sự xê xít nguyên văn. Phép dịch văn đời xưa khác và dịch văn đời nay khác. Dịch văn xưa cần phải đúng từng chữ từng câu(*), dịch văn nay miễn đúng ý là được. Vậy, dịch những bài luận hiện thời, khi gặp câu không phải là kinh văn mà nghe nó trúc trắc, thì nên xê xít, đảo lên đảo xuống cho xuôi tiếng An Nam. Làm như vậy vì rằng mình biết chắc dầu có xê xít cũng không sai ý, và xê xít thì theo tiếng mình dễ hiểu.

Trang 51 có một đoạn như vầy :

“Bởi vọng niệm của chúng ta đều bởi ba nghiệp (thân, khẩu, ý) mà khởi ra, nếu những khi ba nghiệp đều dùng thì vọng niệm không do đâu mà sanh được. Thử lấy một việc trước mắt để chứng minh : Như khi chúng ta xem sách hoặc nghe giảng, tuy một lòng chăm chỉ mà có khi cũng còn mống tạp niệm. Ấy tại sao ? Bởi khi xem sách, nghe giảng chỉ dùng có “ý nghiệp” mà thôi. Còn những khi chép bài thì ít sanh tạp niệm, ấy là những điều chúng ta có kinh nghiệm hằng ngày đương khi chép bài, dùng cả “thân nghiệp” và “ý nghiệp” vậy”.

Trong đoạn đó, nửa phần sau nghe không được thông suốt, tưởng nên sửa lại như vầy :

“Như khi chúng ta xem sách hoặc nghe giảng, tuy một lòng chăm mà có khi cũng còn mống tạp niệm ; còn khi chép bài thì ít sanh tạp niệm. Ấy tại sao ? Bởi khi xem sách, nghe giảng chỉ dùng có ý nghiệp mà thôi, còn khi chép bài, dùng cả thân và ý nghiệp. Ấy là những điều chúng ta có kinh nghiệm hằng ngày vậy”.

Theo đoạn sửa lại đó, ý nghĩa cũng không khác nguyên dịch của Sư chút nào, mà lại có phần rõ ràng hơn nữa.

Trái lại, khi dịch văn đời xưa, nhứt là dịch các kinh điển của các tông giáo, lại không nên đảo lên đảo xuống, xê xít hoặc thêm bớt chút nào ; vì giọng nói đời xưa khác, đời nay khác ; mình xê xít một chút thì sợ sai đi, nên phải cẩn thận từng chữ.

Bài kế đây sẽ nói đến điều ấy.

Năm là về sự theo đúng từng chữ của nguyên văn. Trong bài trước tôi đã nói : dịch văn xưa, nhứt là dịch kinh điển của các tông giáo lại không nên xê xít hay là thêm bớt chút nào, vì giọng nói đời xưa khác, đời nay khác, mình xê xít một chút thì sợ sai đi, nên phải giữ cẩn thận từng chữ.

Nội mấy điều tôi kể ra trong bài phê bình nầy, tôi cho điều nầy là hệ trọng hơn hết, nên viết riêng ra một bài và lượm ra nhiều câu trong Phật học tổng yếu để bàn bạc sửa đổi lại.

Như câu kinh Niết bàn ở trang 17 : “Phụ tác bất thiện, tử bất đại thọ ; tử tác bất thiện, phụ bất đại thọ; thiện tự hoạch phước, ác tự thọ ương”(*). Sư dịch rằng : “Cha làm điều chẳng phải, con không chịu thế được; con làm điều chẳng phải, cha cũng không chịu được. Ai lành nấy được phước, ai ác nấy bị hại”.

Tôi cứ theo đó đặt ra mấy câu hỏi như vầy : chữ “bất thiện” sao lại dịch là “chẳng phải” ? Nếu là “chẳng phải” thì nguyên văn đã nói “bất thị” rồi, sao lại nói “bất thiện” làm chi ? Mà “bất thiện” với “bất thị” có khác nhau không ? Nguyên văn không có ý gì là “được” thì sao trong câu dịch lại thêm chữ “được” ? Nguyên văn trong câu sau cùng có chữ “đại” nữa sao dịch lại bỏ đi ? Thêm vào và bỏ đi như vậy, nó có sai ý với nguyên văn chăng ? “Thọ ương” sao lại dịch là “bị hại” ? Nó có làm cho nguyên văn nhẹ ý đi không ?

Để yên thì thôi, khi đã có người hỏi đến như vậy, dễ Sư cũng phải đồng ý như tôi mà trả lời rằng : “Bất thị” là “chẳng phải”, “bất thiện” là “chẳng lành”, – khác nhau. Kinh nói “bất thiện” thì dịch là “chẳng lành” đúng hơn. Chữ “được” nghĩa là “có thể” nên khi nói “con không chịu thế được” tức là “con không có thể chịu thế” mà theo nguyên văn thì chẳng nói đến có thể hay không có thể, chỉ nói “tử bất đại thọ”, con không chịu thế mà thôi, vậy thì nên bỏ chữ “được” đi. Trong câu sau “con cũng không chịu được” có thể hiểu ra nghĩa khác, chữ “đại” dịch lại lần nữa mà đừng bỏ. “Ương” là danh từ, “bị hại” là bị động từ, nói “thọ ương” thì ý nó nặng hơn “bị hại”, cho nên không dùng chữ “bị hại” mà dịch chữ “thọ ương” được, song phải dịch bằng chữ “mang họa”.

Theo lẽ đã trả lời đó, tôi xin sửa mấy câu trên đó như vầy : “Cha làm điều chẳng lành, con chẳng chịu thế, con làm điều chẳng lành, cha chẳng chịu thế. Ai lành nấy được phước, ai ác nấy mang họa”.

Trang 27 dẫn lời Hoằng Nhẫn đại sư nói rằng : “Thế nhân sanh tử sự đại, nhĩ đẳng chung nhật chỉ cầu phước điền, bất cầu xuất ly sanh tử khổ hải ; tự tánh nhược mê, phước hà khả cứu”.

Sư dịch rằng : “Trong đời duy có sự sanh tử là lớn hơn cả, cớ sao các ngươi chỉ lo cầu phước mà không cầu cho ra khỏi cái biển khổ sanh tử kia ? Nếu tự tánh còn mê thì phước không sao cứu được”.

Nguyên văn nói “thế nhân sanh tử sự đại” là chỉ nói trống sự sanh tử là lớn, hoặc có ý nói người đời có nhiều sự lớn mà sanh tử là một sự cũng chưa biết chừng. Vậy thì sao lại thêm vào chữ “duy có” và chữ “hơn cả” ? Câu kế đó nguyên văn không có ý hỏi, sao lại thêm vào ý hỏi ? Vả, có hồ nghi hay trong nguyên văn quả quyết không hồ nghi thì sao mình lại thêm vào ý hồ nghi ? Phước điền có ý đối với khổ hải, sao lại bỏ chữ “điền” đi không dịch ? Vậy xin sửa lại :

“Sự sanh tử của người đời là sự lớn; vậy mà các người cả ngày chỉ cầu ruộng phúc, không cầu ra khỏi cái biển khổ sanh tử. Nếu tự tánh còn mê thì phước sao cứu được ?”

Đoạn trên đó, muốn cho nẩy ý, có thêm chữ “vậy mà”, vì nghĩ rằng không hại đến nguyên ý, song muốn cho chắc chắn khỏi có sự sai lầm khác mà mình không ngờ kịp, thì bỏ đi cũng được.

Liền theo đó, trang 27, 28 dẫn lời Hoằng Nhẫn đại sư nói với Huệ Năng rằng : “Bất thức bổn tâm, học pháp vô ích, nhược thức tự bổn tâm, kiến tự bổn tánh, tức danh trượng phu, thiên nhân sư phật”. Dịch rằng : “Không biết được bổn tâm thì học đạo cũng vô ích. Nếu biết được bổn tâm, thấy được tự tánh, ấy mới kêu là trượng phu, là thầy của trời ngươi, là Phật”.

Trong câu “thức tự bổn tâm kiến tự bổn tánh” có hai chữ “tự” và hai chữ “bổn” như vậy chẳng phải là không có ý chi. Bổn tâm bổn tánh là cái tâm tánh gốc, mà “tự” là mình nhận biết lấy của mình; vậy không có thể bỏ bớt, bỏ bớt thì thành ra nói bông lông, không thiếu triệt. Tôi tưởng phải y theo nguyên văn mà dịch câu ấy là : “Nếu biết bổn tâm của mình, thấy bổn tánh của mình, v.v...”

Rồi đến trang 34-35 có những câu nguyên văn là : “Sám giả, sám kỳ tiền khiên ; hối giả, hối kỳ hậu quá”. Lại câu “Phàm phu ngu mê, chỉ tri sám kỳ tiền khiên, bất tri hối kỳ hậu quá”. Bốn chữ “kỳ” ấy là adjectif possessif (*) để chỉ cho rõ cái khiên cái quá ấy của ai. Vậy mà Sư đã bỏ chữ “kỳ” đi, dịch câu trước rằng : “Sám là cải những lỗi trước, hối là chừa những lỗi sau”, dịch câu sau rằng : “Những kẻ phàm phu dại dột chỉ biết cải lỗi trước mà không biết chừa lỗi sau”. Như vậy thì không rõ. Tưởng nên sửa câu trên lại rằng : “Sám là cải những lỗi trước của mình ; hối là chừa những lỗi sau của mình”, và câu dưới rằng : “Những kẻ phàm phu dại dột chỉ biết cải lỗi trước của nó mà không biết chừa lỗi sau của nó”.

Tôi nói vậy chắc có người cho tôi là học hành theo thói nhà quê, không biết biến hóa ; trong câu đó không có chữ “của mình”, “của nó” cũng đủ rõ rồi, hà tất phải thêm vào làm cho cho nó nặng nề khó nghe. Nhưng tôi thưa lại rằng : Dịch những lời trong các kinh chẳng khác làm tờ hợp đồng, phải chữ nào cho chắc chữ ấy ; những chữ như vậy mà còn có khi sai thay, huống chi là không giữ. Vả lại còn có lẽ nầy mạnh hơn nữa : Như nói không có chữ “của mình” “của nó” cũng đủ hiểu thì bên nguyên văn dùng luôn mà không sợ trùng điệp ? Lẽ đó tỏ ra rằng trong mấy câu đó phải có chữ “kỳ” mới được, thì bên tiếng An Nam nầy mình cũng phải dịch theo mới được.

Nhẫn lên là mấy chỗ tôi cho là quan hệ nên trích ra mà thỉnh giáo lại cùng Sư. Chí như những chỗ dịch đúng, như bài Tu tâm quyết của Phổ Chiếu thiền sư nơi trang 28-29 thì rõ ràng mà lại gọn gàng nữa, nhưng tôi viết lời phê bình nầy cốt muốn bổ thêm điều thiếu sót trong sự dịch của sư Thiện Chiếu, chớ không cốt để ca tụng cái tài dịch sách của người, nên tôi lược đi, không nói đến.

Sáu là về sự đọc chữ cho đúng.

Ở trang 49 có chữ “Chich-ma giáo” có chua ba chữ Hán và cả chữ Tây là “Lamaisme”.

Theo ba chữ Hán đó thì nên đọc là Lạt-ma-giáo ; cái chữ “khẩu bằng rồi chữ thích” đó là chữ Lạt chớ không phải chữ Chich. Tiếng đó gần như một danh từ riêng. Nguyên ở xứ Mông Cổ và Tây Tạng người ta kêu thầy tu bằng “La-ma”, nên đạo Phật ở đó gọi là đạo “La-ma”. Đã là danh từ riêng thì nơi khác phải nói theo người bổn thổ đó, cho nên người Tàu cũng kêu bằng “Lạt-ma giáo” và Tây cũng kêu bằng “Lamaisme”. Lạt-ma và Lama không khác nhau là mấy. Bây giờ Sư kêu bằng “Chich-ma” thì khác nhau xa quá, khiến cho người nào dầu học biết chữ đó rồi đi nữa cũng không nhìn ra được. Như vậy là khuấy rối người ta lắm. Bởi vậy, nó là Lạt-ma thì xin Sư đọc là Lạt-ma. Còn như muốn nói vì sao mà biết nó là Lạt-ma ? Cái đó không khó lòng chi, chỉ có giở tự vị ra thì biết.

Vừa nói đến hai chữ tự vị mà làm cho tôi lại nhớ ra một chuyện đọc chữ không đúng, làm lôi thôi cho người ta là dường nào. Nguyên hai chữ “tự vị” xưa nay ngoài Bắc kỳ đọc thế nào không biết, còn trong Trung Nam đều đọc là “tự vị” cả, chưa hề nghe ai đọc “tự vựng” bao giờ. Từ khi tạp chí Nam phong ra đời, trong đó người ta đề hai chữ “tự vựng” thật lớn, rồi sau có nhiều người bắt chước mà đọc là tự vựng. Vả chăng, Nam phong bấy giờ có tiếng lắm, có thế lực lắm, nên ai cũng theo, vì cho Nam phong là mọi sự mọi đúng.

Không ngờ Nam phong đọc như vậy là sai. Chữ vựng và chữ vị hai chữ hơi giống nhau mà khác nhau xa lắm, Nam phong lầm mà đọc vị ra vựng, thành ra dạy cho người ta đọc lầm nữa.

Tôi thì tôi nói chữ nào cũng cần phải đọc cho đúng, như lạt thì đọc lạt, đừng đọc ra chích ; vị thì đọc vị, đừng đọc ra vựng, vì tôi cho đọc sai là có hại. Còn như ai nói đọc thế nào cũng được, không có hại chi, thì tuỳ ý họ ; tôi không đem câu chuyện nầy mà nói với họ cho thừa.

Bảy là về sự chấm câu cho đúng.

Tôi thấy có nhiều người viết quốc ngữ chấm câu không rành. Tôi từng đọc nhiều cuốn sách thấy trong đó chấm sai hết, như tuồng người viết sách không để ý đến, muốn chấm muốn phết chỗ nào cũng được, không cần theo phép tắc gì. Nếu người viết đó không thông chữ Pháp, chẳng nói làm chi, cái nầy học chữ Pháp giỏi mà viết quốc ngữ lại không dùng phép chấm câu theo như chữ Pháp, thì thật là lạ quá, tôi không có thể hiểu được.

Đến như dịch chữ Hán ra quốc ngữ thì lại càng nên chú ý đến sự chấm câu lắm. Vì phép chấm câu của chữ Hán sơ sài quá, phần nhiều sách họ chỉ lấy cái khuyên mà ngăn câu theo lối cũ mà thôi, chớ ít sách chấm theo lối mới. Tức như bộ Văn sao của Thái Hư pháp sư cũng chấm câu theo lối cũ.

Vậy khi dịch chữ Hán, trước hết mình phải lý hội mạch lạc của cả một bài, một đoạn, phân câu ra cho rành rồi hãy dịch. Trong sách Phật học tổng yếu có bộn chỗ phân câu sai ; đây tôi chỉ cử ra một chỗ sai mà làm cho người ta có thể hiểu lầm.

Nơi trang 69 có một đoạn như vầy : “Thích Ca là dòng, Mâu Ni là tên khi thành Phật; thuở nhỏ tên Tất Đạt Đa, họ Cồ Đàm, con vua Tỉnh Phạn Vương và Ma Gia phu nhơn, nước Ca Bi La ở Ấn Độ”.

Đọc đoạn đó có thể làm cho người ta hiểu rằng đức Phật Thích Ca chỉ thuở nhỏ mới là họ Cồ Đàm và mới là con của vua Tỉnh Phạn Vương mà thôi, còn lớn lên thì không thuộc về họ Cồ Đàm và không phải con của vua Tỉnh Phạn nữa.

Vả người ta sanh ra, con ai, họ gì, thì thuở nhỏ thế nào, lớn lên cũng thế ấy, không có thể nhỏ khác lớn khác được. Nếu hiểu nghĩa như tôi mới vừa nói đó thì kỳ cục quá. Nhưng cứ theo đoạn văn đó thì phải hiểu như vậy, không hiểu khác được. Ấy không phải là tại đặt văn sai mà tại chấm câu sai.

Theo nguyên đích chấm phết vào sau câu “Mâu Ni là tên sau khi thành Phật”, thì đó về trước ngăn ra một ý. Rồi tiếp theo, nói “thuở nhỏ, v.v...” thì thành ra bao nhiêu ý sau đều gồm trong chữ “thuở nhỏ” hết, thành ra người ta phải hiểu rằng đức Phật chẳng những duy thuở nhỏ tên là Tất Đạt Đa, mà cũng duy thuở nhỏ mới là họ Cồ Đàm, con vua Tỉnh Phạn, v.v...

Muốn cho người ta đừng hiều như vậy, chỉ có đem dấu chấm phết để chỗ khác là được. Ấy là để dấu chấm phết sau chữ “thuở nhỏ tên Tất Đạt Đa”. Làm như vậy tự nhiên nó ngăn ý trên với ý dưới ra, không ai hiểu lầm nữa.

Bài phê bình nầy tôi viết đến đây là hết. Kể ra thì bài nầy, cái tánh chất của nó không đủ là một bài phê bình. Nhưng xin độc giả biết cho, ở xứ mình một trăm sự chi cũng còn thiếu cả, bây giờ mới bắt đầu thì tài chi cho hoàn toàn được ? Không đáng gọi là bài phê bình mà tôi kêu đại là phê bình vì tôi có ý tập cho người viết mà cũng quen cho người đọc nữa.

Bạch Sư Thiện Chiếu, trong bài của tôi đây nếu có chỗ nào sai lầm thì xin Sư đính chánh lại. Tôi sẵn lòng thọ giáo.

Một điều tôi dám tin chắc là Sư không có nhơn bài nầy mà giận tôi. Phật không hề giận ai.

PHAN KHÔI

Thần chung, Sài Gòn,

s. 279 (24.12.1929); s.280 (26.12.1929); s.281 (27.12.1929); s.283 (29 và 30.12.1929)




(*) trân tang : chưa rõ nghĩa.

(**) trại bẹ : tiếng nói sái cung, sái giọng (theo Huình Tịnh Paulus Của : Sđd.)

(***) có vài chỗ trong bài nêu tên sách là Phật giáo tổng yếu, chắc do in sai, ở đây sửa lại.

(*) Đây là nhắc đến bài dịch của dịch giả Hoàng Long Phi tự Phổ Chấn ở An Nhơn, An Linh, Bến Tre, đăng báo Thần chung 2 kỳ (số ra ngày 13.6 và số ra ngày 14.6.1929).

(**) chất chánh hoặc chất chính : hỏi lại để cho được đúng (theo Đào Duy Anh : Sđd.).

(***) thập nhị nhân duyên (pratitya-samutpâda) : luận điểm cơ bản của Phật giáo về tam thế luân hồi với chuỗi nhân duyên gồm 12 phần (nidâna) : vô minh, hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thụ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử.

Tứ diệu đề, hoặc tứ diệu đế hoặc tứ đế : bốn chân lý màu nhiệm của Phật học, gồm : Khổ đế (chánh lý về sự đau khổ) ; tập đế (chân lý về sự xuất hiện của đau khổ) ; diệt đế (chân lý về việc kết thúc đau khổ) ; đạo đế (chân lý về con đường dẫn tới kết thúc đau khổ) (theo Từ điển minh triết phương Đông (dịch), Hà Nội, 1997 ; và Từ điển Nho, Phật, Đạo (dịch), Hà Nội, 2001).

(*) nhiễm trước : nhuốm lấy, vương lấy chẳng thể lìa;

phan duyên : nương theo duyên, theo cảnh vật ngoài (theo Đoàn Trung Còn : Phật học từ điển, ba tập, Sài Gòn, 1967).

(1) Nguyên văn chỗ nầy có ba chữ na-lạc-ca bằng chữ Hán nữa (nguyên chú của P.K.)

(*) bản gốc là “từ chữ từ câu”, ở đây sửa lại.

(*) Chỗ này bản gốc in thiếu một vế 4 chữ và một vài chữ sai. NST sửa lại theo đoạn trích lại ở bài trả lời của sư Thiện Chiếu.

(*) adjectif possessif : tính từ sở hữu

© Copyright Lại Nguyên Ân 2006

“PHẬT HỌC TỔNG YẾU ” BỊ PHÊ BÌNH LÀ PHẢI !

Phụ lục

“PHẬT HỌC TỔNG YẾU ” BỊ PHÊ BÌNH LÀ PHẢI !



Phan tiên sanh !

Trước khi hầu chuyện cùng tiên sanh, xin cho phép tôi tỏ đôi lời cùng các nhà hữu tâm với xã hội :

Phật giáo lưu nhập vào nước ta đã lâu rồi, lâu cho đến có gần hai ngàn năm. Thế mà trong nước cũng vẫn chưa thấy được một vài quyển sách viết bằng quốc văn nói về Phật giáo. Tuy gần đây có quyển Phật giáo đại quan của Phạm Thượng Chi tiên sanh ra đời, về mặt văn chương thì thiệt có phần đặc sắc, nhưng về nghĩa gốc của Phật như lý niết bàn, thuyết vô ngã thì tiên sanh còn tỏ ra cái thái độ hoài nghi. Thế là từ xưa đến nay chưa có một quyển sách nào nói về Phật cho đúng !

Lương Nhậm Công tiên sanh nói rằng : “Giữa đời Lục trào, Tuỳ, Đường chính là thời đại học thuật tư tưởng của Trung Quốc rất suy sút, đó chẳng qua luận về Nho học sử, nhưng về Văn học sử thì lại thời đại toàn thạnh. Vì đời bấy giờ, những người học vấn uyên thâm, chí hạnh cao khiết đều dắt nhau vào trong phạm vi Phật giáo, nên mới có một ánh hào quang chói lọi trong lịch sử Trung Hoa”. Thế thì Phật giáo không phải không có cái giá trị đáng nghiên cứu, mà trong văn học sử của các nước Đông Á cũng cần phải có Phật giáo mới được quang vinh vậy.

Người trí thức trong nước phần nhiều không biết Phật giáo rất có quan hệ đến văn hóa ; có biết, cũng không chịu nghiên cứu ; không biết, thì chỉ ngó sơ qua cái hình thức lễ bái, rồi cho Phật cũng đồng một loại với quỷ thần, nên mới có câu : “Nhứt thiết quỷ thần tiên phật đều là cừu địch của nhơn loại”; cho Phật giáo là yếu thế, nên mới có câu “Xin mời ông Thích Ca ra ngoài để cho chúng tôi lo đóng tàu đúc súng”. Người trí thức còn vậy, huống chi kẻ tự xưng là người chấn hưng Phật giáo mà viết sách nói – “thấy Phật trong cảnh chiêm bao” và “thành Phật cũng phải ở dưới quyền chánh phủ” thì còn nói làm sao được !

Phật giáo suy đồi đến thế là cực điểm. Lỗi ấy tại ai ?

Thạnh bên kia ắt suy bên nọ, các nhà trí thức đua nhau xu hướng về chánh trị, về kinh tế, về các cõi khác, thì bên Phật học giới không người tài ba lỗi lạc là phải !

Nước Tàu kinh điển Phật giáo được hoàn bị hơn ở Ấn Độ, là vì sự nghiệp phiên dịch chẳng những có các vị cao tăng trong nước mà cũng nhờ nhiều vị cao tăng ở các nước, có người xuất gia mà cũng có người tại gia. Gần đây Phật giáo rất có vẻ hoạt động, Phật học hội hầu khắp trong nước. Phật học viện tỉnh nào cũng có, có Trung Quốc Phật giáo liên hiệp hội, có Thế giới Phật giáo liên hiệp hội, có Trung Quốc Phật giáo cư sĩ lâm, có Thế giới Phật giáo cư sĩ lâm, các nhà bác học Âu, Mỹ sang để nghiên cứu Phật học. Thái sư pháp sư đi giảng học Âu châu, nếu trước kia không có Dương Nhân Sơn, Khương Nam Hải(*), Lương Khải Siêu, các vị danh nhơn, các nhà Phật học tạo nhân thì có đâu được kết quả tốt đẹp như thế ? Và không có Phật học từ điển, Phật học đại cang, Ấn Độ triết học, Phật giáo triết học của mấy người tại gia cư sĩ trứ thuật, thì làm sao Phật giáo Trung Quốc được chói lói, rực rỡ như thế ?

Còn nước ta, trong thì chế độ tăng già quá ư hủ lậu, không có tài liệu nghiên cứu, không có học đường giáo dục, mà nhứt là đối với quốc văn cho như một thứ chữ ngoại quốc ; ngoài lại bị nhiều kẻ vô kiến thức khinh khi Phật giáo, cừu thị tăng đồ, dầu có tín ngưỡng chẳng qua là mê tín, chớ có biết Phật lý là gì đâu ! Trong nước từ xưa đến nay chưa có một quyển sách viết bằng quốc văn nói về Phật giáo cho đúng, ấy cũng tại hoàn cảnh xã hội sử nhiên(**).

Tôi, nói ra hổ thẹn, hai mươi mấy năm trường ở dưới cái chế độ tăng già hủ bại ấy, nói cho đúng, cũng như ở một quả địa cầu khác, không biết việc xã hội, việc thế giới là gì, tưởng đâu trọn đời đồng khô mục với cây cỏ. Đến khi trong nước nổi lên cái phong trào Chấn hưng Phật giáo, nhân cơ hội ấy, đi tìm khắp các tùng lâm ở Trung, Bắc không có một vị cao tăng nào gọi là đại tài đại trí đứng ra chống đỡ Phật pháp trong lúc khuynh nguy ! Người xuất gia chỉ biết có thầy Trà Am ở Thừa Thiên, thầy Bích Liên ở Bình Định, người tại gia thì chỉ biết có cụ phó bảng Huy, ông Mai Văn Ngọc Nam kỳ là những người có Phật học, nhưng chỉ lo tự giác mà thôi.

Ở Nam kỳ, đây là nói riêng phần người xuất gia. Chỉ có sư cụ Khánh Hòa là người thâm Phật học, có nghị lực có nhiệt thành, hiện đương chủ nhiệm Linh Sơn Tự, nhưng tiếc vì tuổi đã cao, sức đã yếu rồi.

Huống chi, người ra chủ trương việc trùng hưng Phật giáo không phải dễ, trong đánh đổ một cái chế độ hủ bại xưa nay, ngoài đối phó với các tôn giáo có thế lực, bên kia khoa học, bên nọ cường quyền, bốn mặt đều có quân giặc phủ vây, có ai đơn đao độc mã mà dám xông vào trong giữa chiến trường nguy hiểm ấy không ?

Xã hội yêu cầu, quốc dân nguyện vọng đương thiết tha ao ước có chủ nghĩa từ bi bác ái thiệt hiện trên thế giới bất bình nầy tuy biết rằng trong nước hiện thời chưa có một người đại tài đại trí ra đời để gánh vác cái trách nhiệm lớn lao ấy, để làm cho thỏa mãn cái lòng yêu cầu nguyện vọng ấy, nhưng nếu cứ nhút nhát rụt rè, chỉ ôm cái nhiệt tâm than vắn thở dài, mua sầu chuốc não, tưởng kết cuộc cũng không được việc gì. Bởi vậy, một mặt chúng tôi lo cho trong tăng già có trường Phật học, một mặt đem Phật học giới thiệu cùng những kẻ ưu thời, nên vừa rồi trường Phật học đã tuyên cáo thành lập, và quyển Phật học tổng yếu mới mạo hiểm mà ra đời vậy.

Theo ngu kiến tôi, trường Phật học nếu không điều chi trở ngại, thì cũng mười lăm năm nữa mới sản xuất được nhơn tài. Nhưng thời cuộc hay đổi dời, cũng không biết đâu mà tiên liệu. Vậy thời bây giờ lấy ai làm kẻ tạo nhân ?

Phật học mênh mông, có đủ các khoa học. Ai chuyên về Nhân minh, tức là khoa Luận lý học ? Ai chuyên về Duy thức, tức là khoa Tâm lý học ? Ai chuyên về Bát nhã tôn, tức là khoa Triết học ? Ai chuyên về Phật giáo sử ? Ai chuyên về Giới luật học ? Ai lo Tiểu thừa ? Ai lo Đại thừa ? Ai biên dịch Phật giáo giáo khoa thơ ? Ai biên dịch Phật học từ điển ? Than ôi !...

Phật học tổng yếu là một bức Huyết lệ thơ.

Phật học tổng yếu là một quyển sách cốt để giới thiệu Phật học cùng các nhà trí thức trong nước, muốn cho các nhà trí thức nghiên cứu Phật học đặng làm kẻ tạo nhân cho Phật học giới. Phật học tổng yếu là một quyển sách bày tỏ chỗ dị đồng giữa Phật giáo với các tôn giáo, cho các ngài muốn học Phật để phân biệt Phật giáo là Vô thần giáo, chỉ nói “Tam giới duy tâm”, chớ không phải như các tôn giáo nói võ trụ sanh ra bởi có một đấng tạo vật. Phật học tổng yếu là một quyển sách giới thiệu Phật học cho các nhà học giả, mà chưa phải là một quyển sách phổ thông. Phật học tổng yếu là một quyển sách tỏ cùng các nhà nhiệt tâm muốn nghiên cứu Phật học biết rằng muốn học Phật phải học chữ Hán, vì hiện thời chưa có thể dịch hết ra tiếng An Nam được, mà cũng có nhiều câu không thể dịch được. Xem như Nhựt Bổn là một nước đã văn minh còn để y nguyên bổn Đại-tạng mà không phiên dịch, Ấn Độ là chỗ sản xuất Phật giáo, mà nay ông hội trưởng của hội “Mana boddhi” còn viết thơ cho Dương Văn Hội cư sĩ ở Kim Lăng xin mời giùm người thâm Đại thừa Phật học của Tàu. Theo như tôi hiểu thì, về phương diện Phật học hiện thời chưa có thể thoát ly cái ách nô lệ chữ Hán được. Nếu có nhiều nhà Phật học trau dồi quốc văn một cách sốt sắng, có thoát ly được chăng nữa tưởng cũng có trên dưới một trăm năm.

Nói tóm lại, quyển Phật học tổng yếu ra đời, chẳng qua bởi lòng nhiệt thành muốn cho các nhà học giả nghiên cứu Phật học, mà học Phật nên học của Tàu. Phật học tổng yếu cũng là một quyển sách để nhắc nhở các nhà học giả, các vị ưu thời nên làm thế nào cho sớm thỏa mãn cái lòng yêu cầu của xã hội, nguyện vọng của quốc dân vậy.

Các ngài trí thức trong nước ! Tiện đây xin thưa cho các ngài biết : Các ngài chớ quá tin rằng công việc của chúng tôi làm là thành công mà không thất bại, mỗi người trong chúng tôi đều giữ đúng cái tôn chỉ từ bi bác ái cả, và chớ tưởng rằng người học Phật chừng năm bảy người là đủ, chỗ để học Phật chừng đôi ba chỗ là đủ.

Phan tiên sanh !

Tôi đã thú thiệt rằng hai mươi mấy năm trường vùi lấp trong chế độ tăng già hủ bại, không có thầy hay bạn tốt chỉ lối đưa đường nên đã thành một kẻ thất học, nếu ngày nay bắt đầu can thiệp đến xã hội mà lại không ai ngó ngàng đến nữa, thì có lẽ trọn đời thành một người bỏ đi ! Quyển Phật học tổng yếu vừa xuất bản, được cái hân hạnh có nhà học giả thương đến mà phê bình, phê bình để bổ thêm những điều khuyết điểm của tôi. Thưa tiên sanh : Rất đỗi một nhà Nho học còn biết nghe ai bảo mình có lỗi thì mừng, huống chi một người biết chút ít Phật học như tôi quyết lo rửa sạch sân si nghiệp chướng đặng ra khỏi biển trầm luân. Cho nên tôi đọc suốt ba bài phê bình, chẳng những đối với tiên sanh sẵn có một mối mỹ cảm, mà lại lạc quan đối với Phật học giới sau nầy : Từ đây những nhà học giả đã lưu tâm đến Phật học rồi ! Từ đây những sách nói về Phật giáo nhảm nhí hoang đường không dám ra đời nữa.

Nhưng trong ba bài(*) phê bình của tiên sanh có chỗ đúng, có chỗ quá ư nghiêm khắc, có chỗ ưng, cũng không khỏi có chỗ oan. Người đã gọi là người học Phật, dầu ưng dầu oan, lẽ thì không nên biện bạch. Nhưng tiên sanh đã vui lòng mà chỉ giáo cho, cái hậu ân ấy thiệt không biết lấy chi mà đền đáp, vậy lời phê bình của tiên sanh nếu có chỗ chưa đúng mà tôi giấu đi, không trình cho tiên sanh biết, chẳng là người vô nghĩa lắm ư ? Vậy xin dẫn những chỗ oan của tôi ra sau đây, xin tiên sanh nhã giám.

Khoản dùng chữ Hán. – Quyển Phật học tổng yếu là một quyển sách cốt để giới thiệu Phật học cho các nhà học giả, mà không phải là một quyển sách phổ thông. Lại là một quyển sách có ý tỏ cho những người muốn gấp học Phật biết rằng muốn học Phật phải học chữ Hán. Vì tiếng ta hiện thời chưa có thể dịch hết ý sâu xa trong nguyên văn chữ Hán được. Vì cớ đó mà tôi dùng nhiều chữ Hán. Dùng nhiều chữ Hán, theo ý tôi đối với người đã thông Hán học tưởng cũng không trở ngại gì, và những người chưa biết chữ Hán mà muốn học Phật nếu có chí cầu học, thì dầu khó đến đâu cũng không thối chí bao giờ. Tôi nói thế, không phải là ngụy biện, trong sách mấy bài chữ Hán tôi có dịch âm cả, và có chua nhiều chữ Hán, ấy đủ chứng cho cái bổn tâm của tôi vậy.

Khoản theo đúng từng chữ của nguyên văn. – Trước khi biện về khoản nầy, xin thưa cùng tiên sanh rằng : Phật học có khác hơn văn nghệ, Phật học không nê cố(**) văn tự, Phật học sở dĩ để cầu thấy tánh sáng lòng. Tánh tức là bổn tánh, lòng tức là chân tâm, bổn tánh tức là cái bổn thể không sanh không diệt vậy. Người sanh trên đời, không khác như ở trên sàn hát, cái màn hưng vong, trung, nịnh tuy có lắm lúc đổi dời, nhưng chẳng qua một cuộc giả. Đã là cuộc giả, sao lại ta khi cười khi khóc, lúc giận lúc thương ? Ấy bởi “vọng tâm” chấp trước, tại mình làm khổ cho mình ! Cho nên cái mục đích học Phật là cầu cho khỏi khổ được vui, muốn cho khỏi khổ được vui phải tìm cho thấy cái chân tâm không sanh không diệt ấy. Người học Phật, trước khi chưa thấy chân tâm cũng phải mượn đến văn tự, cũng như mượn ngón tay để chỉ mặt trăng, mượn cái nơm để bắt con cá vậy. Nếu cứ ngó ngón tay thì không bao giờ thấy được mặt trăng, cứ cố cái nơm thì không bao giờ bắt được con cá, cũng như cứ nê cố văn tự thì không sao thấy được chân tâm. Kết cuộc còn cái vọng tâm sanh diệt thì khổ cũng vẫn khổ, thế thì có ích lợi gì đâu ! Cho nên Phật thuyết pháp 45 năm chưa hề viết ra một chữ, không những không có một chữ, mà lại cũng không có thuyết pháp !

Phật nói rằng : “Nếu ai nói ta có thuyết pháp, ấy là chê ta, vì không hiểu cái sở thuyết của ta” (Nhược nhơn ngôn như lai hữu sở thuyết pháp, tức vì bằng phát bất năng giải ngã sở thuyết cố. – Kim cang kinh). Ngài nói rằng : “Không pháp nào gọi là pháp đáng nói mới kêu là nói pháp” (Vô pháp khả thuyết, thị danh thuyết pháp – Kim cang kinh). Ngài lại nói : “Các ông tỳ kheo ! Phải biết rằng ta thuyết pháp ví như chiếc bè (khi chưa qua sông phải cầu có bè), pháp còn phải bỏ, huống chi là phi pháp (Nhữ đẳng tì kheo, tri ngã thuyết pháp như phiệt vu giả, pháp thượng ưng xã, hà huống phi pháp – Kim cang kinh)

Ấy là Phật dạy rằng : Phải lìa hết chữ nghĩa và tiếng nói mới thấy được chân tâm.

Bởi tôi thấy trong khoản nầy nhiều đoạn tiên sanh có hơi nê cố văn tự, sợ e trở ngại về sự nghiên cứu Phật học, nên tôi nói có hơi dông dài một chút, xin tiên sanh lượng cho. Và nếu nê cố văn tự thì thế nào cũng sai lạc ý nghĩa trong văn kinh. Vậy xin dẫn một đoạn dưới đây để cùng tiên sanh bàn bạc.

Như câu kinh Niết bàn ở trang 17 : “Phụ tác bất thiện, tử bất đại thọ, tử tác bất thiện, phụ bất đại thọ. Thiện tự hoạch phước, ác tự thọ ương”.

Tôi dịch : “Cha làm điều chẳng phải, con không chịu thế được, con làm điều chẳng phải, cha cũng không chịu thế được”. Nhưng sách in sót : “... Cha cũng chẳng chịu được”.

Tiên sanh nói : “Nguyên văn, trong câu sau, cũng có chữ “đại” nữa, sao dịch lại bỏ đi ?”

Nói cho phải, trong sách Phật học tổng yếu thiệt có nhiều chỗ thiếu sót và sai lầm, vì bởi sửa không kỹ. Như trang đầu sót luôn một câu : “... lân là loài mao trùng (trùng lông)”, mà trong biểu đính chánh cũng không có bỏ vào cho đủ. Vả lại biểu đính chánh cũng có chỗ sai nữa, như “kín nhiệm” mà sai là “kính nhiệm”. Nhưng câu “cha cũng không chịu được” thì trước biểu đính chánh cũng có sửa lại rồi. Thưa tiên sanh : Tôi không bao giờ dám bỏ nghĩa chữ “đại”.

Tiên sanh nói : “Nguyên văn không có ý gì là “được” thì sao trong câu dịch lại thêm chữ “được”? Tiên sanh lại nói : “Chữ “được” nghĩa là “có thể” nên khi nói “con không chịu thế được” tức là “con không có thể chịu thế”.

Thưa phải ! theo lý nhân quả, ai gây nấy chịu, cũng như không thể mượn lỗ mũi của người khác mà thở được. Dầu tiên sanh nói : “Không thể được” là “con không thể chịu thế”, thưa tiên sanh, nói như vậy cũng được. Vì cha làm quấy, dầu con có lòng thảo muốn chịu tội thế, cũng không thể chịu thế được. Cả câu “không chịu thế được” là có cái ý nghĩa nói quả quyết rằng : “Dầu có lòng thương nhau, cũng không bao giờ chịu thế cho nhau được”. Ví như câu : “Con cháu tuy chật nhà, cũng không chết thế được”, đều bỏ chữ “được” đi, thì thành con cháu bất hiếu !

Bài dịch ấy, tiên sanh sửa lại rằng : “Cha làm điều chẳng lành, con chẳng chịu thế ; con làm điều chẳng lành, cha chẳng chịu thế. Ai lành nấy được phước, ai ác nấy mang họa”.

Thưa tiên sanh ! Ba chữ “chẳng chịu thế” nó hàm có cái ý nghĩa cha con đối đãi với nhau rất là lãnh đạm vô tình, ai chết nấy chịu, không ai chịu thế cho ai. Tại chẳng chịu thế, chớ không phải muốn chịu thế mà không được. Trái lại thì là “nếu muốn chịu thế cũng được”. Thế thì nó trái hẳn với lý nhân quả rồi !

Mấy đoạn dưới như câu : “Trong đời duy có sự sanh tử là lớn hơn cả”, và “Không biết được bổn tâm, thì học đạo cũng vô ích” v.v. và “Những kẻ phàm phu dại dột, chỉ biết cải lỗi trước, mà không biết chừa lỗi sau” v.v..., tôi dịch có thêm bớt mà tiên sanh cho sự thêm bớt ấy là quan hệ, vậy nên xin thưa cùng tiên sanh rằng : Trong kinh Niết bàn Phật có dạy : “Theo kinh rõ nghĩa, chớ theo kinh không rõ nghĩa”. (Y liễu nghĩa kinh, bất y bất liễu nghĩa kinh). Nếu không rõ nghĩa, thì dầu tới Phật cũng có thể cãi được. Phật giáo cho người tư tưởng tự do, sở dĩ khác hơn tôn giáo là ở chỗ đó. Thế thì thêm bớt mà rõ nghĩa, dầu nguyên văn có cùng không có cũng vô hại.

Trước khi cáo biệt, xin có lời trân trọng thưa cùng tiên sanh.

Ai có thiệt tâm giúp đời thì bao giờ cũng không khỏi có kẻ ghét mà lại có những hạng người ở trong vòng hắc ám trở hiềm oán cái kẻ ra tay tháo cũi sổ lồng cho, ấy mới là lạ chớ ! Chánh trị vậy, tôn giáo vậy, mà văn học cũng vậy.

Nhưng người đã biết bổn phận, không sợ ai ghét, cũng không cần ai thương, nên trước sau không bao giờ để cho sai lạc tôn chỉ.

Tiên sanh đã nói : “Trong nghề văn học rất cần có sự phê bình”, tiên sanh đã biết là “rất cần”, sao tiên sanh lại “ngại” ?

Nếu tiên sanh cứ “ngại” thì bao giờ văn học mới có vẻ quang vinh ? Mà nếu những người thiệt tâm giúp đời cũng lại ngại thì bao giờ xã hội hết bất bình, nhơn gian có chân lý ?



THIỆN CHIẾU(*)

Thần chung, Sài Gòn, s.285 (2.1.1930); s.286 (3.1.1930); s.287 (4.1.1930)




(*) Hòa thượng Thiện Chiếu, họ tên thật là Nguyễn Văn Tài (1898-1974), còn có tên Sáng, bút hiệu Xích Liên, sinh ở làng Long Hựu tỉnh Gò Công (nay thuộc huyện Gò Công, tỉnh Tiền Giang) ; thuở nhỏ học cả Hán học và Tây học ; 8 tuổi xuất gia theo học Phật ở chùa Linh Tuyền. 1926 lên Sài Gòn học, trụ trì ở chùa Linh Sơn ; 1927 được hòa thượng Khánh Hòa (người khởi xướng phong trào chấn hưng Phật giáo Nam Kỳ) cử ra Hà Nội liên lạc với chư tăng miền Bắc nhằm phối hợp hoạt động chấn hưng Phật giáo ; tại Hà Nội, Thiện Chiếu xúc tiếp với Nam Đồng thư xã, với Nguyễn Thái Học, Phạm Tuấn Tài. 1942 bị bắt đày ra Côn Đảo. Tháng 8. 1945 trở về làm phó chủ tịch UBKCHC Gò Công, làm việc ở quân khu 7, 8, 9. Năm 1954 tập kết ra Bắc, làm việc ở ban nghiên cứu văn sử địa ; được cử đi Trung Quốc làm việc tại Nhà xuất bản ngoại văn Bắc Kinh. 1961 trở về Hà Nội, làm chuyên viên khoa triết thuộc UBKHXHViệt Nam. Mất 1974 tại Hà Nội. Thiện Chiếu là dịch giả một loạt sách Phật học: Phật học tổng yếu, Phật học vấn đáp, Phật hóa tân thanh niên, Tranh biện ; là dịch giả một số sách văn học Nga: Họ đã chiến đấu vì Tổ quốc (của M.Sholokhov), Tiền tuyến (kịch của A.E.Korneichuk), Tính cách Nga (truyện ngắn của A.Tolstoi), Ông già (truyện của V.Grossman)... Tháng 4. 2003 tạ Hà Nội có hội thảo “Nhà sư, chiến sĩ cộng sản Thiện Chiếu” (Theo Phúc Anh: Trở về từ cõi không // Hà Nội mới, 15/5/2003).

(*) Dương Nhân Sơn (1837-1911) người Trung Quốc, cư sĩ Phật giáo, có công lớn trong việc tổ chức in khắc trùng san các bộ kinh Phật ; Khương Nam Hải tức là Khang Hữu Vi (1858-1927) quê Nam Hải, Quảng Đông nên cũng được gọi là Nam Hải tiên sinh.

(**) sử nhiên : có lẽ dựa theo thành ngữ chữ Hán “thiên lý sử nhiên”, ý nói lẽ trời xui khiến như vậy ; “hoàn cảnh xã hội sử nhiên” có lẽ ý nói hoàn cảnh xã hội gây nên như vậy.

(*) Bài của Phan Khôi đăng 4 kỳ báo. Có lẽ Thiện Chiếu viết bài phản hồi này sau khi đọc 3 kỳ đầu nên gọi là “ba bài”.

(**) nê cố : tương tự “câu nệ”, “chấp nê”.

© Copyright Lại Nguyên Ân 2006