27/11/08

Trần Văn Tích : Tìm kiếm đơn vị từ ngữ tương đương

10.6.2008
Trần Văn Tích
Tìm kiếm đơn vị từ ngữ tương đương

Als Ausdruck der Verbundenheit Frau Thai Kim Lan gewidmet

Tập tiểu thuyết đoản thiên văn ngôn Liêu trai chí dị của Bồ Tùng Linh có bốn trăm ba mươi truyện ngắn, trong số đó có truyện “Xúc chức”. Truyện “Xúc chức” có gần một ngàn bốn trăm chữ, trong số đó có câu văn: “Thị chi, hình nhược thổ cẩu, mai hoa sí, phương thủ trường hỉnh, ý tự lương.” Câu văn vừa kể có tất cả mười sáu chữ [1] , trong số đó có hai chữ “thổ cẩu”. Ðó là hai chữ quí hoá, vì nhờ nó mà có bài viết hôm nay.

Ðề tài của Liêu trai chí dị rất rộng rãi, nội dung phong phú, chủ yếu bao gồm ba lĩnh vực. Lĩnh vực thứ nhất đả kích tính chất hắc ám của xã hội chính trị, như các truyện “Xúc chức”, “Tịch Phương Bình”, “Mộng lang”. Lĩnh vực thứ hai vạch trần tệ đoan của chế độ khoa cử, như các truyện “Tư Văn Lang”, “Vương Tử An”, “Giả Phụng Trĩ”. Lĩnh vực thứ ba mô tả ái tình giữa hồ tinh và con người, như “Anh Ninh”, “A Bảo”, “Liên Hương”, “Tiểu Tạ”. Truyện “Xúc chức” được Lâm Ngữ Ðường đánh giá là một đoản thiên tiểu thuyết kiệt tác trứ danh của Trung Quốc.

Liêu trai chí dị hành văn trau chuốt công phu trong sáng trôi chảy. Có rất nhiều bản chú giải Liêu trai chí dị. Ngoài ra còn nhiều bản trích lục Liêu trai chí dị, thích ứng với nhu cầu thưởng ngoạn của từng độc giả. Liêu trai chí dị hiện có bản dịch toàn bộ sang chữ Việt, bên cạnh nhiều bản trích dịch. Ðối với các ngoại ngữ khác, cũng có những bản dịch toàn bộ và những bản tuyển dịch.

Trong “Xúc chức”, Bồ Tùng Linh kể chuyện một ông vua thích đá dế, quan lại các cấp đua nhau dâng dế để mong lấy lòng vua, còn bọn cai trị địa phương thì nhân cơ hội đó ra tay vơ vét, tạo nên thảm cảnh nhà tan cửa nát, dân chúng lầm than chết chóc. Câu văn “Thị chi, hình nhược thổ cẩu, mai hoa sí, phương thủ trường hỉnh, ý tự lương” mô tả tình huống nhân vật chính trong truyện ngắn tên “Thành Danh” bắt được con dế và ngắm kỹ nó. Có thể dịch thành Quốc ngữ như sau: “Nhìn kỹ thì hình giống thổ cẩu, cánh tựa hoa mai, đầu vuông cẳng dài, có vẻ tốt.”


Thổ cẩu, hai chữ khó hiểu

Các dịch giả Việt Nam và ngoại quốc “xử lý” hai chữ thổ cẩu qua nhiều cung cách chuyển ngữ. Nguyễn Văn Huyền trong Liêu trai chí dị, Lời bình Tản Ðà, Lời bạt Chu Văn, in lần thứ tư, Nhà Xuất bản Văn học, Hà Nội, 2002, trang 369: “Ngắm kỹ, đầu vuông, đùi dài, dáng ve sầu cánh hoa mai, có vẻ tốt.” Ðồng thời dịch giả chú thích: “Nguyên văn ‘thổ cẩu’ (chó đất) một loại côn trùng, dạng ve sầu.” Dịch giả họ Nguyễn chủ xướng thổ cẩu là một loại côn trùng dạng ve sầu, nhưng không biết chắc nó là con gì.

Nguyễn Quốc Ðoan khi dịch Trung Quốc truyền kỳ tiểu thuyết của Lâm Ngữ Ðường, Nhà Xuất bản Văn hoá Thông tin, Hà Nội, 1994, trang 19, đã trình bày câu văn nguyên tác mười sáu chữ của Bồ Tùng Linh theo lối viết lại (trùng biên) của Lâm Ngữ Ðường: “(…) ông đứng nhìn con dế nhỏ có cái cổ dài, trên cánh có hoa văn hình hoa mai, có lẽ là một con dế thiện chiến.”

Sir Walter Hillier trong The Chinese Language How to learn it, Volume II, Part I, The Lazarist Press, Peking, 1909, đã dịch thoát truyện “Xúc chức” làm tài liệu trợ huấn cho việc học Hoa ngữ và chuyển ngữ linh động nơi trang 65: “(…) and when he had a close look at him he seemed to be rather a capable sort of an insect, (…)” Nơi phần chú thích từ vựng, thổ cẩu không được nhắc đến mà chỉ có các nhóm chữ xúc chức, khúc khúc và giải xác thanh nhằm chỉ loài dế.

Herbert A. Giles trong Strange Stories from a Chinese Studio, Third Edition Revised, Kelly & Walsh, Limited, Shanghai, Hongkong, Singapore and Yokohama, 1916, trang 278: “and, on examining it more nearly, he saw that it really was a handsome insect, with well-formed head and neck, (…)” Nhà Trung Hoa học người Anh tránh tìm đơn vị ngữ nghĩa tương ứng trong tiếng mẹ đẻ của mình để chuyển dịch thổ cẩu mà chỉ dịch thoát là “một côn trùng đẹp”.

Ursula Löffler trong Chinesische Geschichten, Deutscher Verlagsanstalt, Stuttgart, 1954, chuyển dịch Liêu trai chí dị từ bản Anh ngữ của Lâm Ngữ Ðường (Lin Yu-tang), trang 258: “Der Vater ergriff ihn und prüfte ihn eingehend. Er hatte einen langen Hals und ein Pflaumenblütenmuster auf den Flügeln. Er mochte ein guter Kämpfer sein, (…)” [Ông bố chụp bắt nó và chăm chú nhìn nó. Nó có cổ dài và trên đôi cánh có hình mẫu hoa mai. Nó có thể là một con vật chiến đấu tốt (…)] Dịch giả xem như nguyên tác không có hai chữ thổ cẩu.

Adrian Baar trong Chinesiche Gespentergeschichten, Fischer Taschenbuch Verlag, Frankfurt am Main, 1975, trang 109: “(…) und als er sie genauer betrachtete, sah er, dass es eine recht hübsche Grille war, mit gut geformtem Kopf und Hals, und trug sie deshalb im Haus.” [(…) khi nhìn kỹ hơn thì anh ta thấy rằng đó là một con dế rất đẹp với đầu và cổ cân đối nên liền mang nó vào nhà.] Tác giả chuyển thổ cẩu thành “con dế rất đẹp” đồng thời bỏ rơi các chi tiết hình thể học liên quan đến “mai hoa sí”, đến “trường hỉnh”; và mặc dầu Bồ Tùng Linh không hề mô tả cổ con thổ cẩu, Baar vẫn dịch thành mit geformtem Hals, với cổ cân đối.

Gottfried Rösel trong Zwei Leben im Traum, Verlag die Waage Zürich, 1989, trang 290: “Er betrachtete es: es sah wie eine ‘Erdhund-Grille’ aus, hatte Flügel von der Farbe der Pflaumenblüte, einen viereckigen Kopf, lange Unterschenkel und schien von gutem Charakter.” (Anh ta nhìn kỹ con vật: nó giống như một con “dế chó đất”, cánh màu hoa mai, đầu bốn góc, đùi dài và có vẻ tốt.) Dịch giả người Ðức trực dịch thổ cẩu thành chó đất đặt trong ngoặc, từ đấy mô tả cho động vật chí Trung Quốc một loài dế mới, dế chó đất.

Thổ cẩu cũng xuất hiện trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, nhưng với tư cách một món ăn không mấy khoái khẩu. Trong thời gian đi sứ vào hai năm 1813 và 1814, nhiều lần phái đoàn ngoại giao do Nguyễn Du lãnh đạo bị nghẽn đường vì thuỷ tai hoặc nội loạn. Vào đất Hà Nam, vừa vượt qua Hoàng Hà sau năm ngày nhịn đói do nước sông lên to lại không đi được nữa vì lương dân nổi dậy, để sống sót, nhà ngoại giao thi sĩ đành chấp nhận những món ăn thuộc mơ-nuy của… tù cải tạo cộng sản, cố gắng nuốt vào dạ dày những thực phẩm như bánh gạo mạch và thổ cẩu. Bài “Hoàng Hà trở lạo” (Mắc lụt bên Hoàng Hà) ghi nhận:

Mạch cao thổ cẩu nan vi thực,
Lạc ngạnh phiêu bình thất tự mưu.

(Bánh gạo mạch và thổ cẩu khó nuốt,
Cành trôi bèo nổi, chẳng mưu được việc).

Thơ chữ Hán Nguyễn Du đã được tuyển dịch, chú thích và ấn loát, phổ biến tương đối rộng rãi, nhất là vào thời buổi kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Gặp hai chữ thổ cẩu, tất cả các dịch giả sang quốc văn hiện đại đều cố gắng giảng giải.

Trước tiên là nhóm Lê Thước - Trương Chính. Ấn bản do nhị vị phụ trách sưu tầm, chú thích, phiên dịch, sắp xếp cùng với mười cộng tác viên khác, Nhà Xuất bản Văn học, Hà Nội, bản in lần thứ hai, 1978, trang 350, giải thích hai chữ thổ cẩu như sau: “3. Thổ cẩu: con dê đất. Nhưng theo Từ nguyên thì đó là một loài quái vật ở nước hình giống con dê. Xưa có người đào giếng bắt được một quái vật, không hiểu con gì, đến hỏi Khổng tử. Ông này trả lời đó là loài dê. Ở đây chỉ một giống vật lạ do nước lụt mang đến.”

Tôi chép lại nguyên văn và nguyên dạng chú thích số 3, kể cả hàng chữ in nghiêng, mà tôi chẳng rõ tại sao lại phải in như vậy, chắc chỉ là lỗi ấn loát. Nhưng tuy thế câu chú thích vẫn còn một số điểm bất ổn. Dựa vào tài liệu nào nhóm chủ biên cho rằng thổ cẩu là dê đất? Và đã hiểu như vậy tại sao lại còn “nhưng” để rồi đan cử Từ nguyên? Vả lại Từ nguyên (bản tôi tham khảo in năm 1984, tương đối mới) không đề cập gì đến chuyện Ðức Khổng phu tử được tham vấn. Huống chi, đã là dê, cho dù là dê đất (?), thì đâu đến nỗi nuốt không trôi, ăn không nổi trong cảnh cơ hàn lũ lụt?

Hai dịch giả khác cũng sử dụng nguyên văn lời chú thích Lê Thước - Trương Chính liên quan đến thổ cẩu:

* Chi Ðiền Hoàng Duy Từ, Nguyễn Du, Thơ chữ Hán, Quyển 2, Nhà Xuất bản Mr. L. Hoàng, California, 1986, trang 137;

* Duy Phi. 249 bài thơ chữ Hán Nguyễn Du, Nhà Xuất bản Văn hoá Dân tộc, Hà Nội, 2000, trang 343.

Riêng Bùi Hạnh Cẩn trong 192 bài thơ chữ Hán của Nguyễn Du, Nhà Xuất bản Văn hoá Thông tin, Hà Nội, 1995, trang 122 thì chú là: “Thổ cẩu: con dế (dấu sắc, TVT) đất. Nhưng theo Từ nguyên thì đó là một loại quái vật ở nước hình giống con dê.”

Theo Nguyễn Du toàn tập, Tập 1, Nhà Xuất bản Văn học, Hà Nội, Thơ chữ Hán, Mai Quốc Liên phiên âm, dịch nghĩa, chú thích với sự cộng tác của Nguyễn Quảng Tuân, Ngô Linh Ngọc, Lê Thu Yên, 1996, trang 435 thì: “Thổ cẩu: con dê. Theo Từ nguyên thì xưa có người đào giếng bắt được một con vật lạ, không hiểu con gì, đến hỏi Khổng Tử. Ông này trả lời đó là con dê. Bản C in là dế đất thì sai.”

Tóm lại, đối với hai chữ thổ cẩu được Bồ Tùng Linh và Nguyễn Du đưa vào tản văn trần thuật và vận văn trữ tình, thái độ của các dịch giả Việt Nam và quốc tế như sau:

* tránh né không dịch;

* chuyển thành một động vật được xem là tương tự;

* trực dịch thành “chó đất”;

* cho là con dê đất (không dấu), con dế đất (dấu sắc);

* dựa vào Từ nguyên để xem là một quái vật.

Ðiều đáng nói là nếu thơ văn Quốc ngữ luôn luôn tìm cách chú thích nhiều khi dài dòng về thổ cẩu thì các soạn giả Trung Hoa không phải bao giờ cũng làm công việc này. Ðó chẳng hạn là trường hợp ấn bản Trương Hữu Hạc. Sau dòng chính văn in bốn chữ phương thủ trường hỉnh với cỡ chữ tương đối lớn là hai dòng chú thích in theo lối lưỡng cước với cỡ chữ nhỏ chỉ bằng nửa chữ thường: “Hà chú: mai hoa sí, giải xác thanh, phương thủ trường hỉnh, xúc chức hình dã” (Họ Hà chú: cánh tựa hoa mai, cua vỏ xanh [2] , đầu vuông cẳng dài, đó là hình dáng con dế). Còn bản Dương Gia Lạc thì không có lời giải thích nào sau câu văn có hai chữ thổ cẩu mặc dầu nơi trang 331 liên hệ có đến mười ba chú thích. Dường như đối với người Trung Hoa, thổ cẩu là một từ ngữ không gây nhiều vấn đề. Tuy nhiên trong Cảnh thế thông ngôn, truyện “Tinh dương cung thiết thụ trấn yêu” do Phùng Mộng Long chấp bút thì thổ cẩu tử có được giải nghĩa nơi chú thích số 20, trang 646: “Thổ cẩu tử: tựu thị lâu cô, khoát lâu đích tục xưng.” (Thổ cẩu tử chính là cách gọi thông tục của lâu cô, khoát lâu.) [3]

Thực ra chỉ cần tra cứu các công cụ tham khảo đơn ngữ hay song ngữ là biết thổ cẩu là con gì. Hán ngữ đại từ điển, Trung văn đại từ điển, Từ nguyên đều có mục từ thổ cẩu:

* Hán ngữ đại từ điển ghi cho thổ cẩu ba nghĩa: 1. truyền thuyết trung đích thổ quái (giống vật lạ ở đất theo truyền thuyết); 2. đổ thuỷ đích thổ đại, tiền nhuệ hậu quảng, tiền cao hậu đê, trạng như đôn toạ đích cẩu, cố danh (túi để chắn nước, trước nhọn sau rộng, trước cao sau thấp, hình giống chó ngồi chồm hổm, nên thành tên); 3. diệc xưng “thổ cẩu tử”, lâu cô đích biệt danh (cũng gọi là “thổ cẩu tử”, tên riêng của lâu cô).

* Trung văn đại từ điển ghi cho thổ cẩu ba nghĩa: 1. phần dương dã (dê ở vùng mồ mả); 2. trùng danh, Bản thảo. Lâu cô. Thích danh: huệ cô, thiên lâu, tiên cô, thạch thử, ngô thử, thổ cẩu (tên sâu bọ. Sách Bản thảo. Lâu cô. Còn có tên huệ cô, thiên lâu, tiên cô, thạch thử, ngô thử, thổ cẩu); 3. dĩ thổ tác cẩu hình, dữ thổ độn dụng (lấy đất nặn hình chó, dùng như heo đất).

* Từ nguyên ghi cho thổ cẩu ba nghĩa: 1. một loài quái vật truyền thuyết; 2. một thứ túi, đẫy, trước hẹp sau rộng, trước cao sau thấp, giống hình con chó ngồi trên mặt đất nên có tên thổ cẩu; 3. tên riêng của lâu cô.

Trong các nghĩa trên, chỉ có nghĩa liên quan đến tên sâu bọ là thích hợp với câu văn Bồ Tùng Linh và câu thơ Nguyễn Du. Theo nghĩa đó, thổ cẩu là một tên khác của lâu cô.

Thiều Chửu trong Hán-Việt từ điển giảng: “Lâu cô: con dế, một thứ sâu ở lỗ giống như con dế mèn, rất làm hại lúa và nho.” Từ điển Hán-Việt, do Hầu Hàn Giang, Mạch Vĩ Lương đồng chủ biên, dứt khoát hơn: “lâu cô là dế dũi, dế nhũi”. Cả Chinese English Dictionary của Mathews lẫn A Chinese-English Dictionary của Herbert A. Giles đều cùng ghi cho thổ cẩu một nghĩa duy nhất và thống nhất (chứ không ghi đến ba nghĩa như các từ điển Hán-Hán): the mole-cricket. Theo Das neue chinesisch-deutsche Wörterbuch thì lâu cô là Maulwurfgrille; Grille là dế mèn, Maulwurf là chuột chũi; như vậy lâu cô là dế chũi. Tiếng Pháp cũng có cấu trúc từ ngữ tương tự: taupe-grillon. Các sách dược liệu học cổ truyền còn minh bạch hơn nữa. Hồng Nghĩa giác tư y thư của Tuệ Tĩnh, bài “Nam dược quốc âm phú”, ghi “Dế dũi gọi lâu cô.” Trong Hải Thượng Y tông tâm lĩnh, tập Lĩnh nam bản thảo, quyển Thượng, mục Côn trùng loại, Lãn Ông Lê Hữu Trác cho biết (nguyên văn chữ Hán, dịch sang Quốc ngữ): “Lâu cô tục gọi là con dế nhũi, một tên nữa là thổ cẩu.” Trung Quốc y học đại từ điển, quyển I, trang 169, cho biết: “Thổ cẩu, lâu cô đích biệt danh.” (Thổ cẩu là tên riêng của lâu cô). Nguyễn Văn Minh, tác giả Dược tính chỉ nam, quyển IV, trang 1373, mục từ 3771, xác định thổ cẩu là con dế. Ðỗ Tất Lợi, qua Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam, trang 954, ghi nhận con dế dũi là thổ cẩu, lâu cô. Dế trũi thuộc loại côn trùng cánh thẳng (trực sí loại), màu nâu, lớn chừng 4-5 cm, có hai càng trước rất phát triển để đào ngạch khoét lỗ, tạo thành những đường hầm dưới đất, vì vậy làm hại nương vườn. Ðôi cánh thẳng, đôi càng khỏe là những điểm mạnh của dế trũi, nên tác giả Liêu trai chí dị đã chọn hai chi tiết hình thái học này (mai hoa sí, trường hỉnh) nhằm mô tả con dế màu nhiệm của truyện ngắn “Xúc chức”.

Hiểu thổ cẩu là dế trũi [chứ không phải dê đất (không dấu) hay dế đất (dấu sắc) hoặc quái vật truyền thuyết] thì mới thích hợp với ngữ cảnh truyện ngắn Bồ Tùng Linh và hoàn cảnh chánh sứ Nguyễn Du:

* thổ cẩu mô tả con dế đặc biệt được hồn con trai Thành Danh nhập vào có dạng hình dế trũi với những ưu điểm cơ thể học, mặc dầu nó vốn là dế mèn;

* thổ cẩu tạm thời là nguồn cung cấp protein cho vị trưởng phái đoàn ngoại giao khi nước lụt tràn ngập hang ổ dế trũi.

Dầu sao cuối cùng rồi cũng có người biết đúng nghĩa chữ. Truyện ngắn nhan đề “Dế chọi” trong Tuyển tập Liêu trai chí dị do Nguyễn Huệ Chi nghiên cứu, tuyển chọn, hiệu đính, Nhà Xuất bản Văn nghệ, TP HCM, 1999, tập 3, Lý Việt Dũng phụ trách chuyển ngữ, đã trình bày câu văn mười sáu chữ của Bồ Tùng Linh nơi trang 189-190 bằng tiếng Việt như sau: “Nhìn nó bộ dạng giống như con dế trũi, cánh đốm hoa mai, đầu vuông cổ dài, xem chừng là giống tốt.” Eurêka!


Ðơn vị từ ngữ tương đương

Câu chuyện chuyển dịch hai chữ thổ cẩu không còn thuộc lĩnh vực văn chương nghệ thuật mà bước sang địa hạt khoa học kỹ thuật. Thổ cẩu đã cởi áo nghệ thuật để khoác áo khoa học. Ngôn ngữ nghệ thuật mang nhiều tính hình tượng, nhiều sắc thái biểu cảm, nhiều ý nghĩa liên tưởng. Trái lại ngôn ngữ khoa học rõ ràng, đơn nghĩa, chủ yếu bao gồm những bất biến ngôn ngữ như thuật ngữ, công thức. Vì thế dịch văn khoa học phải rất chính xác, thậm chí có thể sử dụng máy dịch để chuyển nghĩa. Và tất cả vấn đề là phải tái hiện bản gốc qua bản đích bằng những đơn vị từ ngữ tương đương. Ðơn vị từ ngữ Hán là thổ cẩu. Ðơn vị từ ngữ Việt là dế trũi. Thế thôi. Không có dê, không có dế đất, không có dạng ve sầu, không có Erdhunde v.v…

Người dịch thuật, trong tình huống đang bàn, trở thành người biên soạn từ điển song ngữ; nghĩa là phải hiểu sát từ ngữ của văn bản chính và phải biết đúng từ ngữ của văn bản dịch.

Trong trường hợp không nắm vững các đơn vị từ ngữ tương đương trong hai ngôn ngữ gốc và đích, soạn giả từ điển không hoàn thành được nhiệm vụ của mình một cách tối ưu. Chúng ta thử tham khảo Thiều Chửu và Trần Trọng San. Cả hai soạn giả đều thỉnh thoảng lâm cảnh thiếu khoa học lúc chuyển một số từ. Trần Trọng San trong Hán Việt tự điển, Bắc Ðẩu, Canada, 1997, không chuyển nghĩa mà giảng nghĩa chữ yển (bộ thử, chuột): đó là “một loài chuột nhỏ, lông xám hơi vàng, bắt ăn côn trùng có hại, rất hữu ích cho nhà nông.” Thiều Chửu, tác giả Hán Việt tự điển do Ðại Nam in lại ở quốc ngoại, còn dài dòng hơn: “yển: một giống chuột sinh hoạt ở trong đất mình dài hơn năm tấc, lông màu nâu mà rậm và mượt, hình trông y như con chuột, chỉ khác rằng cổ ngắn chân ngắn, chân trước kề sát với đầu, móng chân to và cứng như răng bồ cào, mắt bé mà sâu hoắm, mũi nhọn hoắt mà rất thính, hay dũi đất bắt giun ăn”. Thiết tưởng biên soạn từ điển đơn ngữ cũng chỉ định nghĩa chi tiết được đến như Thiều Chửu là cùng. Trong Thơ văn Nguyễn Khuyến, in lần thứ hai, Nhà Xuất bản Văn học, Hà Nội, 1979, trang 387 cũng như trong Nguyễn Khuyến - tác phẩm, Nguyễn Văn Huyền sưu tầm, biên dịch, giới thiệu, Nhà Xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1984, trang 523 đều cùng giảng giải từ ghép yển thử trong câu thơ Yển thử ẩm Hà diệc mãn phúc là “một loài chuột nhỏ”. Nhưng chuột bạch, chuột nhắt cũng là những “loài chuột nhỏ”. Nếu tham khảo các từ điển song ngữ Hán-Pháp, Hán-Anh, Hán-Ðức thì sẽ thấy rằng yển hay yển thử là con taupe, con mole, con Maulwurf, tức là con chuột chũi. Trần Trọng San thích nghĩa du diên (bộ trùng, sâu) là “một loại trùng sừng dài, chân giống chân rết, ăn các sâu hại lúa”. Ðúng ra, đây là con sên. Dứu (bộ thử, chuột) là “một loài thú nhỏ, đầu hơi tròn, chân ngắn, lông vàng sạm, giỏi co duỗi, ngày ẩn đêm ra, bắt ăn gà chuột; khi gặp địch, thì đít phát ra hơi thối rồi chạy trốn”. Ðúng ra là weasel, belette, Wiesel, con lon, chồn rái. La bặc (thảo đầu) là “tên rau, hạt dùng làm thuốc”. Ðúng ra là củ cải. Chữ tuy (Trần Trọng San, tlđd, trang 449) phải được hiểu là ngò, thay vì “tên một loại rau thơm”; tương tự như chữ kép hồ tuy (Thiều Chửu, tlđd, trang 554) không thể được giải thích thành “một thứ rau, lá non nấu đồ ăn thơm ngon”. Chỉ thử xem qua cách dịch các chữ Hán thuộc bộ trùng (sâu) trong hai tài liệu tham khảo vừa kể, đã có thể phát hiện một số trường hợp cần điều chỉnh vì hai tác giả không đưa ra danh từ đối chiếu thuộc Việt ngữ mà chỉ giảng giải, mô tả. Sau đây là vài ví dụ (Trần Trọng San = Hán Việt tự điển của Trần Trọng San, Thiều Chửu = Hán Việt tự điển của Thiều Chửu).

Mang (Trần Trọng San, trang 470): “tên một loại nhặng chuyên hút máu thú vật”; manh (Thiều Chửu, trang 590, trang 597): “con nhặng”; đúng ra là ruồi trâu. Sải (Trần Trọng San, trang 479): “một loài nhện độc đuôi dài”; đúng ra là loài bọ cạp. Trá, trá mãnh (Trần Trọng San, trang 471): “tên một loại sâu ăn hại lúa”; đúng ra là châu chấu. Huyền (Trần Trọng San, trang 471): “tên một loại trùng, giống con rết nhưng không độc”; huyền, mã huyền (Thiều Chửu, trang 585): “một thứ sâu dài độ hơn một tấc, mình như cái ống tròn, có từng đốt, mỗi đốt có hai chân, động đến liền co lại như con ốc, có mùi như dầu thơm, nên tục gọi là hương du trùng”; đúng ra là cuốn chiếu. Hồi (Trần Trọng San, trang 472): “con giun sống trong ruột động vật”; đúng ra là sán (hay lãi). Cùng, phi cùng (Trần Trọng San, trang 472): “một loại sâu bay ăn hại lúa”; đúng ra cùng là tên cũ của con dế. Phiêu, phiêu tiêu (Trần Trọng San, trang 477): “trứng của con bọ ngựa (đường lang) bám trên cành cây”; Phiêu, phiêu sao (Thiều Chửu, trang 592): “trứng con bọ ngựa hay làm tổ ở bên cây dâu, nên gọi là tang phiêu sao”; đúng ra là tổ bọ ngựa. Dũng (Trần Trọng San, trang 473): “trạng thái trong thời kỳ quá độ từ ấu trùng biến thành trùng”; đúng ra là nhộng. Bì (Trần Trọng San, trang 474): “một loài nhện, có hại cho người, gia súc và nông phẩm”; đúng ra là ve. Phúc (Trần Trọng San, trang 475): “một loại rắn độc”; các từ điển song ngữ Hán-Pháp, Hán-Anh, Hán-Ðức ghi là Ancistrodon, như vậy đúng ra là rắn hổ mang. Bành, bành kỳ (Trần Trọng San, trang 478): “một loại cua nhỏ màu đỏ”; đúng ra là cáy. Hoạch (Trần Trọng San, trang 479): “xem chữ xích (trang 470)”, xích hoạch (trang 470): “ấu trùng của loại sâu giống con tằm”; đúng ra là sâu đo (đáng chú ý là chữ xích viết với bộ trùng bên trái và chữ xích bên phải, mà chữ xích vốn chỉ một đơn vị đo chiều dài). Có thể ước đoán là đối với những chữ vừa được đan cử, hai soạn giả tự điển đã dịch phần định nghĩa của từng chữ theo tự điển đơn ngữ Hán-Hán, vì không biết rõ đơn vị từ vựng tương đương thuộc tiếng Việt.

Thực vậy, một trong những vấn đề khó khăn phức tạp của công việc đối chiếu từ vựng của các dân tộc khác nhau là việc xác lập liên hệ tương đương giữa các đơn vị thuộc ngôn ngữ được đối chiếu và ngôn ngữ đối chiếu. Trong thực tế, những thuật ngữ biểu thị các khái niệm nhiều khi phổ thông của một ngôn ngữ nước ngoài khi đem đặt song song với các thuật ngữ xem như tương đương trong tiếng Việt, lắm khi chỉ đạt được tính chính xác tương đối. Cho nên các từ điển Pháp-Việt, Anh-Việt, Ðức-Việt v.v… – chứ chẳng riêng gì tự điển Hán-Việt – có thói quen thích nghĩa tên gọi một thứ cây, một ngọn cỏ, một loài vật, một con sâu v.v… qua lối phu diễn ngữ pháp. Chính vì thế nên khi ngôn ngữ học tạo cơ may cho hai từ tuy thuộc hai tiếng nói khác nhau nhưng lại “giống” nhau như hai giọt nước thì người chuyển dịch song ngữ – chứ chẳng phải riêng gì người biên soạn tự điển, từ điển – phải biết nắm ngay lấy cơ may hãn hữu đó. Ðiều này nhóm biên soạn Thơ văn Lý Trần, Tập III, Nhà Xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1978, đã không thực hiện được khi dịch nghĩa và chú thích chữ toa với thảo đầu nơi trang 18. Họ cho biết: “chữ toa vốn chỉ một thứ cây có tên khoa học là Cyperus rotundus, rễ của nó gọi là ‘hương phụ tử’, là một vị thuốc bắc. Ở đây tạm dịch chung là ‘cỏ’ cho dễ hiểu.” Thật ra vị thuốc bắc liên hệ không phải là rễ (Radix) mà là thân rễ (Rhizoma) cây Cyperus rotundus L., cho nên khoa dược liệu học Trung y gọi nó là Rhizoma Cyperi. Nhưng thiếu sót đáng tiếc là nhóm biên soạn không biết rằng đây chính là cây cỏ cú, một loại cỏ dại mọc tràn lan khắp nước ta, một loại cỏ rất khó tiêu diệt đối với nhà nông, một vị thuốc thân quen đến nỗi giới dao cầu thuyền tán hằng truyền tụng là nam bất thiểu trần bì, nữ bất ly hương phụ nghĩa là chữa bệnh cho đàn ông không thể thiếu trần bì, chữa bệnh cho đàn bà không thể rời hương phụ. Và khi dịch câu thơ chữ Hán, phải có thái độ khẳng định hơn, chính xác hơn, chẳng thể “tạm dịch chung là ‘cỏ’” mà cần dịch dứt khoát, tự tín là “cỏ cú”.

Tìm kiếm đơn vị từ ngữ tương đương có khi trở thành công việc đào bới địa tầng văn hoá. Chữ Hán bát là tám, bát bát tất nhiên là tám (mươi) tám. Nhưng Nguyễn Khuyến dùng bát bát với nội hàm khác hẳn trong câu thơ mở đầu bài thơ thường được xem là mang tựa đề “Di chúc”. Tam nguyên Yên đổ tự viết về mình:

Ngã niên trị bát bát.

Một số tài liệu văn học dịch thành:

Kém hai tuổi xuân đầy chín chục; hay Còn hai xuân nữa đầy chín chục. [4]

Ðây là chuyện kỳ lạ khó hiểu vì Nguyễn Khuyến chỉ tại thế có bảy mươi bốn năm thiếu mười ngày mà lại làm thơ “thành khẩn khai báo lý lịch” là tuổi mình vừa được tám mươi tám! Nhà Nho làng Vị Hạ không chỉ là một nhà thơ của làng quê ao chuôm chiêm trũng, một ngòi bút tự trào, một tác gia vừa Nôm vừa Hán, và cả Nôm cả Hán mà còn là một người có đặc tính rất chăm chỉ đếm tuổi đời qua vận văn. Niên kỷ là một thông tin thi ca mà người hàn sĩ, anh khoá Thắng, ông giải nguyên, vị tam nguyên, rồi viên quan nhà Nguyễn cáo về đã lâu thường ưa thích nhắc đến và nhắc đến rất chính xác, theo một nhịp độ ngắn và một tần số cao, y như một công chức tự khai tiểu sử hành chánh. Nhà thơ lại còn chân tình nhớ rõ tuổi tác bạn bè thân thuộc như ông hương sinh họ Nguyễn, ông bạn học Lê Sĩ Nhân. Và con người Nguyễn Khuyến từ thuở bắt đầu biết làm thơ cho đến những năm cuối cổ lai hy là một con người đúng đắn, kỹ lưỡng, trí tuệ sáng, ký ức tốt. Vậy mà bỗng dưng vào một trường hợp duy nhất và trong một bài thơ duy nhất, thi sĩ vận dụng một thủ pháp cách điệu bất chấp sự thật, nó không thể nào là phong cách nhà nho làng Vị hạ. Một nhân vật lịch sử suốt cả đời chi ly cẩn trọng tính tuổi, ghi tuổi, nhẩm tuổi, nhớ tuổi để rồi khi khổng khi không nói sai cả tuổi bản thân vào lúc sáng tác một thi phẩm để đời với chủ đích nhấn mạnh lời dặn của mình cho con cháu là lời phát biểu lúc sáng suốt, có suy nghĩ chín chắn, cần phải làm theo! [5] Sáng suốt, chín chắn mà mở đầu bằng sai lầm, lẫn lộn! Và sai lầm về một vấn đề không thể sai là tuổi tác, lẫn lộn về một thông tin không thể lẫn là niên kỷ! Tuổi tác, niên kỷ của chính mình chứ không phải của tha nhân! Cho nên có nhiều phần chắc Nguyễn Khuyến chẳng hề ghi sai, mà chỉ có thể người đời sau hiểu lời thơ không đúng. Nói cụ thể và vắn tắt: bát bát không phải tám mươi tám, phải tìm cho nó một nghĩa khác thích hợp với văn cảnh bài thơ và hoàn cảnh nhà thơ. Nghĩa đó là nghĩa y học, sinh học chuyên biệt; không phải nghĩa toán học, số học thông thường.

Trong văn cảnh sinh học, y học hai chữ bát bát không có nghĩa tám mươi tám mà có nghĩa sáu mươi tư. Tương tự như vậy, trong thư tịch sinh lý học, bệnh lý học Trung y, thất thất là bốn mươi chín, không phải bảy mươi bảy. Tập sách gối đầu giường của các cụ lương y, sách Hoàng đế Nội kinh Tố vấn viết, và viết ngay ở chương đầu tiên, chương “Thượng cổ thiên chân luận”, khi bàn về sinh lý sinh dục chính thường nam nữ (trích đoạn và trích dịch): “thất thất, nhâm mạch hư, thái xung mạch suy thiểu, thiên quý kiệt, địa đạo bất thông, cố hình hoại nhi vô tử dã” (đến năm bảy bảy, nhâm mạch hư, thái xung mạch kém, thiên quý hết, địa đạo không thông, cho nên thân thể hao mòn mà không có con) và “bát bát, thiên quý kiệt, tinh thiểu, thận tượng suy, hình thể giai cực, tắc xỉ phát khứ.” (đến năm tám tám, thiên quý hết, tinh thiếu, thận suy, hình thể tột bực, răng tóc đều rụng). Người thầy thuốc cổ truyền Việt Nam đọc đoạn kinh văn này, lập tức tự động hiểu thất thất (đối với phái nữ) là bảy lần bảy tức bốn mươi chín và bát bát (đối với phái nam) là tám lần tám tức sáu mươi tư. Ða số – nếu không là tất cả – các nhà Nho thì đều có những tri thức cơ bản về y dược. Chư vị không đủ trình độ, bản lĩnh để hành nghề y sĩ, không đủ kiến thức kinh nghiệm để biện chứng luận trị, nhưng có thể bàn thảo về các thang phương, góp ý về cách điều trị. Nguyễn Khuyến cũng không ra ngoài thông lệ. Cho nên rất tự nhiên, nhà thơ đã sử dụng một kiến thức phổ quát thuộc lĩnh vực sinh lý bệnh lý Trung y. Và thi sĩ nghĩ rằng tha nhân, hậu thế cũng sẽ hiểu như mình hiểu [6] .

Trở lại với hai chữ từng được Bồ Tùng Linh và Nguyễn Tố Như sử dụng trong tản văn và vận văn của mình: dầu sao đi nữa, thì cũng có thể coi như gần bước qua thiên niên kỷ thứ ba, con đường thương khó chuyển dịch thổ cẩu sang Quốc ngữ (và ngoại ngữ) mới đi đến đích. Sự bất lực tìm ra từ ngữ tương đương của thổ cẩu trong Việt văn, Anh văn, Ðức văn chấm dứt.

Westpreußenstr., 29.05.2008

© 2008 talawas

[1]Vì tài liệu cổ chữ Hán vốn không có dấu phẩy dấu chấm nên một câu văn có thể mang độ dài ngắn khác nhau tuỳ theo sự lĩnh hội nội dung của từng người đọc. Riêng đối với câu văn này có tài liệu nâng độ dài lên hai mươi chữ: “Thị chi, hình nhược thổ cẩu, mai hoa sí, phương thủ trường hỉnh, ý tự lương, hỷ nhi thu chi.” (Nhìn kỹ thì hình giống thổ cẩu, cánh tựa hoa mai, đầu vuông cẳng dài, có vẻ tốt, bèn vui mừng bắt lấy.) Ðó là trường hợp ấn bản do Dương Gia Lạc chủ biên. Tăng đính Trung Quốc học thuật danh trứ đệ nhất tập. Bút ký tiểu thuyết danh trứ đệ nhất tập. Ðệ cửu sách. (Thanh) Bồ Tùng Linh soạn. Hiệu chú Liêu trai chí dị. Thượng quyển (toàn nhị sách). Thế giới thư cục phát hành. Ðài Bắc. Trung Hoa Dân quốc ngũ thập nhất niên nhị nguyệt sơ bản. tr. 331. Tôi chọn độ dài mười sáu chữ theo ấn bản Bồ Tùng Linh. Liêu trai chí dị. Hội hiệu, hội chú, hội bình bản. Trương Hữu Hạc tập hiệu. Thượng. Quyển tứ. Trung Hoa thư cục. 1962. tr. 487.
[2]Giải xác thanh (cua vỏ xanh) là tên một con dế khác, cũng rất thiện chiến, của một tay chơi dế trong thôn.
[3]Phùng Mộng Long (1574-1646) là văn học gia, hí khúc gia đời Minh. Có nhiều tác phẩm trong đó có thể kể Dụ thế minh ngôn, Cảnh thế thông ngôn, Tỉnh thế hằng ngôn, gọi chung là Tam ngôn. Mỗi tập có bốn mươi truyện ngắn, cộng chung tất cả thành một trăm hai mươi truyện. (Cảnh thế thông ngôn. Hạ. Ðệ tứ thập quyển. Phùng Mộng Long biên. Trung Hoa thư cục Hương Cảng phân cục. 1978).
[4]a. Văn đàn bảo giám, Trần Trung Viên sao lục, tập II, Ðại Nam in lại ở quốc ngoại, trang 79;
b. Thơ văn Nguyễn Khuyến, Nhà Xuất bản Văn học, Hà Nội, 1979, trang 167 (chữ Quốc ngữ) và trang
444 (chữ Hán phiên âm);
c. Hợp tuyển thơ văn Việt Nam 1858-1920, Huỳnh Lý chủ biên, Nhà Xuất bản Văn học, Hà Nội, 1984, trang 412;
d. Thơ Nôm, Bùi Văn Bảo, Nhà Xuất bản Quê hương, Toronto, Canada, trang 51.
[5]Bài “Di chúc” còn có một đầu đề khác là “Trị mệnh”. Ðầu đề này có xuất xứ từ điển tích Ngụy Khoả-Ðỗ Hồi trong Xuân Thu tam truyện, Tả truyện, Tuyên công thập ngũ niên, Tần nhân phạt Tấn. Nội dung của hai chữ trị mệnh là mệnh lệnh lúc còn sáng suốt, cần phải theo. Cho nên các tự điển Hán-Anh chuyển thành dying requests that may be carried out (Mathews’ Chinese-English Dictionary) hoặc to carry out rightful behests given as dying injunctions (Herbert A.Giles, A Chinese-English Dictionary).
[6]Herbert A.Giles (tlđd) và Mathews (tlđd) đều chuyển bát bát sang Anh ngữ thành sixty-four.

Trần Tiễn Cao Đăng : Cao Xuân Hạo, thầy của tôi

Trần Tiễn Cao Đăng
Cao Xuân Hạo, thầy của tôi


Cao Xuân Hạo (1930-2007)





Cao Xuân Hạo đã từ trần.

Chúng ta đã mất một trong những người yêu tiếng Việt nhất, hiểu tiếng Việt nhất, suốt đời đấu tranh không mệt mỏi cho sự chuẩn xác và thuần khiết của tiếng Việt, và bản thân đã để lại cho hậu thế một số bản dịch văn học thuộc hàng mẫu mực nhất.

Người ta thường biết đến ông như một nhà ngôn ngữ học hay đưa ra những ý kiến “trái chiều” về việc thế nào mới đích thực là tiếng Việt, khẳng định sự sai trái của hệ thống dạy ngữ pháp tiếng Việt trong nhà trường nước ta. Sự đơn độc của ông đã khiến Hà Văn Thùy, trong một bài viết có lẽ nhiều người biết đến, gọi ông là “Chàng Don Quijote độc hành”. Vâng, cả với những người mà công việc hàng ngày gắn liền với ngôn ngữ như chúng tôi, những người viết văn và dịch văn học, chúng tôi nhiều lúc cũng ngỡ ngàng trước những khẳng định dứt khoát của ông về sự kém hiểu biết tiếng Việt của đại đa số người Việt, rằng một cách nói nào đó quen thuộc của chúng tôi kỳ thực không phải là tiếng Việt.

Tuy nhiên, còn đáng kể hơn thế và quan trọng hơn thế, Cao Xuân Hạo không phải là một học giả suông. Ông không chỉ phân tích và luận giải bằng những phương pháp học thuật sâu sắc và chuẩn tắc về tiếng Việt; ông còn là người trực tiếp làm việc với ngôn ngữ. Là một dịch giả xuất sắc, ông đã làm ra một số trong những những văn bản tiếng Việt thuần khiết và chuẩn tắc nhất, như là sự hóa thân trọn vẹn những lý thuyết của ông vào thực tại. Câu của người xưa, “tri hành hợp nhất” tìm được một hiện thân sống động ở ông.

Mất một người như ông, nền dịch thuật Việt Nam nói riêng và nền văn hóa Việt Nam mất đi một trong những bậc thầy đích thực, là mẫu mực cho các dịch giả chúng tôi, cũng như tất cả chúng ta, về tinh thần trí thức cũng như tinh thần dân tộc và ý thức công dân. Ông buộc chúng ta phải nghiêm khắc và thường xuyên đặt nghi vấn cái hiểu của chính mình về tiếng Việt. Ông nêu cho chúng ta một tấm gương không tì vết về việc chiến đấu không mệt mỏi cho chân lý mình hằng tin, dù có phải gian nan đối mặt với sức ì của số đông. Ông cho chúng ta thấy, tiếng Việt đích thực khác với thứ tiếng Việt đang lan tràn trên thông tin đại chúng và trên cửa miệng những người bình thường chúng ta như thế nào. Bằng những bản dịch văn chương của chính mình, ông cho chúng ta thấy một chân dung khác, có thể nói là cái thực tại tinh tuyền về tiếng Việt, khác xa với cái chân dung giả tạo và quái gở về tiếng Việt đang tràn ngập khắp nơi nhưng nhiều nhất là trên các phương tiện thông tin đại chúng, cái thứ tiếng Việt đầy rẫy những lệch chuẩn mà dường như không ai thấy, đang ngày càng làm nghèo, làm thấp, làm què quặt đi cảm nhận về cái đẹp ngôn từ và qua đó là thế giới tinh thần của chúng ta.

Một người như ông không bao giờ đã sống vô ích. Những gì ông đang làm, sẽ có người nối tiếp. Những chuẩn mực cao và không khoan nhượng của ông về phẩm tính trí thức, sẽ có người lấy đó làm chuẩn mực tự trau mình. Sự lao động quả cảm và không mệt mỏi của ông trên các bản dịch văn chương, được dẫn dắt bằng một hệ quy tắc đẹp và nhất quán, chắc chắn sẽ có những người lấy làm dưỡng chất nuôi dưỡng lòng quyết tâm của họ đối với công việc chuyển ngữ và tình yêu của họ đối với tiếng Việt, đối với ngôn ngữ.

Tôi chưa từng được học ông (theo nghĩa học trực tiếp ở trường), nhưng từ lâu, trong thâm tâm, tôi coi ông là người thầy lớn của tôi. Thật hạnh phúc nếu trong đời ta gặp được một, hai người thầy như thế. Ông đã qua đời, nhưng tinh thần ông sẽ còn mãi trong tâm trí tôi. Và, trong những gì tôi làm sau này, trong tất cả những gì tôi làm có liên quan đến ngôn ngữ, ông sẽ luôn luôn có mặt. Thực ra, đó là cách thực tế nhất để tồn tại vĩnh cửu.
SOURCE : TALAWAS

Nguyễn Ðức Dương : Sao không dạy tục ngữ cho học sinh tiểu học?

3.9.2008
Nguyễn Ðức Dương
Sao không dạy tục ngữ cho học sinh tiểu học?

Tục ngữ là pho tập đại thành những tri thức, những kinh nghiệm sống và kinh nghiệm đạo đức mà ông cha ta chắt lọc được trong suốt hàng ngàn năm để truyền lại cho con cháu mai sau. Cái gia tài bề thế và vô giá đó, tiếc thay, hiện vẫn chưa được đem ra giảng dạy cho học sinh tiểu học một cách hệ thống, tuy ai cũng biết mười mươi rằng ít có bài thuyết giảng đạo đức nào, dẫu hay đến mấy, có thể sánh bằng một câu tục ngữ về tác dụng giáo huấn. Ðứng trước thực trạng đáng suy nghĩ đó, những ai từng nặng lòng với con trẻ và tiếng Việt đều không khỏi băn khoăn tự hỏi: cái gì đã trói tay các nhà biên soạn?

Mục đích chính của bài này là thử đi tìm lời giải cho câu hỏi vừa nêu.
Theo chúng tôi, sách giáo khoa tiếng Việt bậc tiểu học sở dĩ đã e ngại với tục ngữ có lẽ vì vấp phải mấy thứ trở ngại chính sau đây: (1) những trở ngại về từ ngữ; (2) những trở ngại về ngữ pháp và (3) những trở ngại về ngữ nghĩa và văn hoá. Dưới đây chúng tôi xin đi vào từng điểm một.

1. Những trở ngại về từ ngữ

Tục ngữ là sản phẩm của quá khứ. Vì vậy, khi dạy tục ngữ, chúng ta tất phải đối mặt với những từ ngữ cổ hết sức xa lạ với học sinh, nhất là học sinh còn ở tuổi thiếu niên. Giới biên soạn sách giáo khoa (SGK) e dè như thế kể cũng phải, vì trong cái gia tài đồ sộ gồm đến hơn năm sáu nghìn câu ấy chúng ta khó lòng có thể né tránh được những từ ngữ “hiểm hóc”, đến độ từng gây lúng túng cho không ít các nhà học giả danh tiếng. Ðể dễ hình dung những gì vừa nêu đó, chúng tôi xin minh họa bằng một vài dẫn chứng.

Dẫn chứng 1. Chắc vì chưa rõ RÀN là gì trong câu Ðại hàn trâu nằm RÀN, người ngồi bếp, các soạn giả Ðại từ điển tiếng Việt (1999) đành chép chữ ấy thành GIÀN, rồi diễn giải: “Trời quá lạnh phải ngừng mọi công việc để tránh rét” (tr. 577). Giá chịu khó tra cứu, chắc họ sẽ thấy RÀN là từ hiện còn thông dụng tại một số địa phương, như Từ điển tiếng Việt (của Viện Ngôn ngữ học) từng chỉ ra, với cái nghĩa tương tự như “chuồng [nhốt trâu bò]”, và chắc hẳn họ cũng sẽ tự thấy phải chia tay ngay với cách diễn giải “nông nổi” vừa nhắc để bằng lòng với lời diễn giải sau (vì nó gần sự thật hơn): “Vào ngày đại hàn giá lạnh thì hãy để trâu nằm lại trong chuồng [chứ đừng lùa nó ra đồng (vì trâu yếu chịu rét)], còn người thì hãy đưa nhau xuống bếp mà ngồi [cho ấm].”

Dẫn chứng 2. Cũng do lầm tưởng THẢ CÁ trong câu Thứ nhất thả cá, thứ nhì gá bạc là “thả cá xuống ao đầm để nuôi”, một nhà giáo tên tuổi đã diễn giải câu này là: "Việc thả cá có lợi là đúng và cần khuyến khích, còn gá bạc thì ngày nay là một tội phạm, vì đó là một việc làm ăn bất chính" (x. Nguyễn Lân. Từ điển thành ngữ và tục ngữ Việt Nam (1989), tr. 277).

Thực ra, THẢ CÁ còn có một nghĩa nữa là “thách cá”, như nhiều từ điển đã ghi nhận. Và theo quy tắc “phù ứng ngữ nghĩa”, cái nghĩa này mới ăn khớp với câu tục ngữ đang bàn. Bởi vậy, cả THẢ CÁ lẫn GÁ BẠC đều là những nghề “bất chính” như nhau, và câu tục ngữ ấy có lẽ nên được diễn giải là: “Thả cá và gá bạc là hai trò đỏ đen chóng sinh lợi bậc nhất [trong xã hội ngày trước].”

Dẫn chứng 3. Xin nêu một dẫn chứng nữa để bạn đọc có thể hình dung dễ dàng hơn về thứ trở ngại đang xét. Cuốn Từ điển thành ngữ và tục ngữ Việt Nam vừa dẫn đã chép lộn TRÀNG trong câu Áo cứ TRÀNG; làng cứ xã thành CHÀNG, rồi diễn giải: “Nói tính ỷ lại của người đàn bà, cũng như tính ỷ lại của người dân trong thôn xóm, không thấy được vai trò làm chủ của mình" (tr. 10).

Thực ra, TRÀNG là một từ cổ chỉ cái vạt trước của chiếc áo dài (thời xưa), như Từ điển tiếng Việt (của Viện Ngôn ngữ học) đã thu thập và cắt nghĩa rất phân minh. Bởi thế, đây không phải là lời chê trách thói ỷ lại, mà là lời nhắc nhở người đời sau nên dựa vào cái gì khi định cắt may/bình phẩm về áo quần, cũng như nên dựa vào ai khi cần xét đoán/bình phẩm về dân tình sinh sống trong làng xã.

Tuy nhiên, chỉ cần đọc lướt qua mấy diễn giải vừa nhắc, chắc ai cũng có thể dễ dàng nhận thấy ngay: trở ngại về từ ngữ quả tình chỉ là thứ trở ngại rất dễ vượt qua: chỉ cần chú giải cẩn thận, như chúng ta từng làm lâu nay khi dạy văn thơ cổ cho học sinh, là mọi “hóc hiểm” sẽ lập tức bị đẩy lùi. Vì vậy, có lẽ chúng ta không nên bàn tiếp chuyện ấy nữa mà nên dành thì giờ và công sức cho những công việc khác ý vị hơn rõ rệt.


2. Những trở ngại về ngữ pháp

Ngữ pháp của một ngôn ngữ, như chúng ta đều biết, là thứ công cụ nhằm giúp người nói truyền đạt dễ dàng và chính xác tới người nghe mọi nội dung ngữ nghĩa mà anh ta cần/muốn chuyển giao. Và sở dĩ không ít bạn đọc hiện chưa hài lòng lắm với công trình diễn giải các đơn vị tục ngữ hiện hành chắc hẳn chỉ vì các soạn giả đã hình dung chưa đúng lắm về cấu trúc cú pháp của các đơn vị tục ngữ. Xin minh hoạ bằng một vài dẫn chứng.

Dẫn chứng 4. Do lầm tưởng RẮN MAI cũng như RẮN HỔ trong câu Rắn mai tại lỗ; rắn hổ về nhà là “chủ ngữ” [CN], còn TẠI LỖ cũng như VỀ NHÀ là “vị ngữ” [VN] của câu và mối quan hệ về nghĩa giữa CN với VN là mối quan hệ giữa “Người hành động” với “Hành động”, cuốn Từ điển thành ngữ và tục ngữ Việt Nam (1989) vừa nhắc đã diễn giải câu trên thành: “(Mai là mai gầm, hổ là hổ mang). Nhận xét cho rằng rắn mai gầm thường ở trong hang; còn rắn hổ mang thì thường ra ngoài" (sđd, tr. 244).

Tiếc thay, lời diễn giải ấy lại chẳng hề ăn nhập chút nào với vốn kinh nghiệm sống còn mà dân bắt rắn chuyên nghiệp đã tích luỹ được: “Hễ bị rắn mai [gầm cắn thì nạn nhân có thể chết ngay] tại lỗ [= hang của nó]; hễ bị rắn hổ [mang cắn thì nạn nhân có thể lê] về tới nhà [mới tắt thở].”

Tại sao lại có sự chênh lệch ấy?

Theo Cao Xuân Hạo, có lẽ vì người Việt không hề coi RẮN MAI cũng như RẮN HỔ là CN, mà coi là “đề ngữ” [tức topic], còn TẠI LỖ cũng như VỀ NHÀ chẳng phải là VN mà là “thuyết ngữ” [tức comment], và mối quan hệ về nghĩa giữa hai bộ phận ấy là mối quan hệ giữa “điều kiện” với “hậu quả (do điều kiện ấy mang lại)” [1] .

Nói cách khác, tục ngữ Việt (và chẳng riêng gì tục ngữ!) là những câu không hề được tổ chức theo khuôn “chủ–vị” [C–V] (như ngữ pháp nhà trường (vốn bị quan điểm “dĩ Âu vi trung” chi phối) đang cố dạy cho con em chúng ta!) mà là theo khuôn “Ðề – Thuyết”, như ông cùng nhiều nhà Việt ngữ học tên tuổi ở nước ngoài (L. Thompson, H. Dyvik, v.v.) đã nhận thấy từ rất sớm và đã chứng minh hết sức thuyết phục trong nhiều công tình đã công bố trong hơn mấy chục năm qua. Bằng chứng là nếu diễn giải câu Chó treo; mèo đậy theo khuôn C–V, ta buộc lòng phải cho rằng “Chó đem treo [thức ăn cần cất giữ lên cao]; còn mèo thì cố đậy [kín thức ăn cần cất giữ lại]”, tuy cái nghĩa đích thực của câu ấy lại là: “[Ðể] chó [khỏi ăn vụng] thì [thức ăn cần cất giữ] nên được treo cao lên; [để] mèo [khỏi ăn vụng] thì [thức ăn cần cất giữ] nên đậy kín lại”, vì mối quan hệ về nghĩa giữa CHÓ cũng như MÈO với TREO cũng như ÐẬY là mối quan hệ giữa hai sự thể: sự thể thứ nhất nêu “cái đích cần được nhằm tới“ và sự thể sau nêu cái “hành động (mà chúng ta nên làm để đạt tới đích)”.

Ðến đây, chúng ta có thể đưa ra một nhận xét nhỏ nhưng hết sức hệ trọng: còn quyến luyến với cái khuôn C–V chúng ta còn cản trở con em chúng ta thừa hưởng cái gia tài đồ sộ mà ông cha đã dày công vun đắp nhằm truyền lại cho chính các em.

Tiện thể cũng nên dẫn thêm ra ở đây vài dẫn chứng nữa để bạn đọc có thể dễ hình dung việc vận dụng mô hình C–V cho tục ngữ thường gặt hái được những “thành quả tai hại” như thế nào.

Dẫn chứng 5

1. Ẵm con chồng hơn bồng cháu ngoại được diễn giải như là “Có tư tưởng coi trọng đàn ông, coi thường phụ nữ, ví như thà ẵm con của chồng tuy không yêu quý, thích thú gì nhưng dẫu sao vẫn thuộc dòng họ nội [sic!], còn hơn bế con của con gái mình” (Ðại từ điển tiếng Việt 1999, tr. 45) [2] ;
2. Ăn cơm có canh, tu hành có vãi thường được diễn giải như là “Sự ham muốn nhục dục của đôi kẻ trong giới tu hành cũng là chuyện thường tình, ví như ăn cơm thì phải có canh, ở nhà chùa thì ắt có vãi” (sđd., tr. 48) [3] ;
3. Ăn lúc đói, nói lúc say được diễn giải như là “Lúc đói ăn cảm thấy ngon, lúc say thường nói rất hay”(sđd., tr. 52) [4] ;

v.v. và v.v.


3. Những trở ngại về văn hoá

Tục ngữ trực tiếp phản ánh cách thức ông cha ta cảm nhận về thế giới; mà cách cảm nhận thế giới lại là nhân tố không thể không liên quan đến văn hoá, nên tục ngữ có lẽ là một trong những tấm gương phản chiếu trung thành nhất những đặc trưng văn hoá Việt mà chúng ta mong giải mã sớm để gìn giữ được các bản sắc Việt của chúng ta. Ấy thế nhưng không ít tác giả đã chẳng bận tâm mấy tới điều này, và rốt cục, họ đã phải trả giá cho sự khinh suất ấy rất đích đáng. Xin nêu một vài dẫn chứn minh hoạ.

Dẫn chứng 6

Ếch tháng ba, gà tháng bảy là câu chê bai cửa miệng của đông đảo người Việt sành ẩm thực. Vậy mà một giáo trình về văn hoá học Việt Nam phổ biến rộng khắp trong cả nước lại ngang nhiên coi đây là hai món ăn khoái khẩu nhất của đồng bào mình. Chắc tác giả giáo trình ấy đã quên mất một sự thực hết sức đau lòng từng hằn trong tâm trí dân ta, ngay cả giữa thời buổi hiện nay: THÁNG BA và THÁNG BẢY/TÁM là thời kì giáp hạt hằng năm. Vào dịp này, ngay cả con người cũng còn lay lắt vì thiếu đói [5] , huống hồ là GÀ và ẾCH. Nói cách khác, vào thời gian ấy, hai giống vật vốn cho thịt rất ngon kia chỉ còn da với xương thì làm sao lại có thể là những món ăn khoái khẩu được? [6]

Dẫn chứng 7

Ẵm con chồng hơn bồng cháu ngoại là một câu đậm chất nhân bản và hay dùng để phàn nàn về thói ăn ở bạc bẽo của đám cháu ngoại đối với ông bà mình. Vậy mà Ðại từ điển tiếng Việt (1999) lại coi đây là lời chê trách “tư tưởng coi trọng đàn ông, coi thường phụ nữ”. Giá chú ý hơn chút đỉnh tới các đặc trưng văn hoá lồng trong ấy, chắc hẳn các nhà biên soạn đã nhận thấy ngay đây không phải là câu đề cập tới thói “trọng nam khinh nữ”, mà là một gợi ý cho các cô gái trẻ sớm bị goá chồng nên ứng xử ra sao khi còn chưa sinh được con trai để nối dõi giống dòng. Nói cách khác, nội dung của câu Ẵm con chồng hơn bồng cháu ngoại có lẽ nên được diễn giải như là: “Thà [lấy một kẻ goá vợ làm chồng và] chăm bẵm cho lũ con thơ côi cút của anh ta [để có nơi nương tựa khi về già] còn hơn là [cứ ở vậy cùng con gái và] chăm bẵm cho lũ con của nó [những kẻ vốn chẳng hề ngó ngàng gì tới mồ mả của bà ngoại, như tục ngữ từng ghi nhận [7] ]”.

Dẫn chứng 8

Chết đuối đọi đèn chỉ là một “trích đoạn” chưa từng thấy một người Việt bình thường nào sử dụng trong giao tiếp. Vậy mà Ðại từ điển tiếng Việt (1999, tr. 345) vẫn thu thập và diễn giải: “Thất bại hoặc chết vì những hoàn cảnh, lý do, duyên cớ tầm thường, không đáng phải chịu chết thiệt”.

Trong khi câu đầy đủ của nó là Chết sông, chết suối, chẳng ai chết đuối đọi đèn lại được các soạn giả diễn giải như là: "Thà phải đương đầu với khó khăn lớn lao, chứ không chịu thất bại trước một đối tượng tầm thường" (tr. 347).

Ðọc những lời cắt nghĩa kiểu "vọng văn sinh nghĩa" vừa nhắc, chắc ai cũng phải lấy làm tiếc: chẳng hiểu sao các soạn giả lại không chú ý đến"tập quán thề nguyền" của người Việt ngày trước? Giá chú ý chút đỉnh, chắc họ sẽ lập tức nhận thấy ngay hồi xưa, mỗi khi thề nguyền, ông bà chúng ta thường thốt ra một câu thề độc (chẳng hạn, “sẽ chết ngay tức khắc nếu đơn sai”...), rồi lấy các vật thể trường tồn trong vũ trụ (như sông biển, núi non, v.v.), các nguồn sáng (như mặt trời, mặt trăng, các vì sao, đèn nến, v.v.) hoặc các lực lượng siêu nhiên (như thần linh, ma quỉ, v.v.) ra làm các "đấng" chứng giám cho lời thề. Ngoài ra, thế nào họ cũng còn nhận thấy thêm: thời chưa có đèn dầu hoả hoặc đèn điện, ông bà ta thường phải lấy một cái đĩa hoặc bát [tiếng địa phương gọi là ”đọi”], cho dầu lạc [= đậu phụng] và một ngọn bấc [= tim] vào để làm vật thắp sáng đêm đêm.

Dựa vào các tri thức văn hoá ấy, chúng ta có thể dễ dàng đưa ra cho câu tục ngữ đang xét một lời diễn giải gần với sự thật hơn như sau: “[Người ta chỉ có thể] chết đuối ngoài sông ngoài suối, chứ chưa thấy lại có thể chết đuối trong bát dầu lạc vốn được dùng làm đèn [và thường được đưa ra để chứng giám cho những lời thề]. Hay dùng để khuyên người đời chớ có vội tin vào những lời thề thốt, ngay cả những lời thề độc, vì nó chưa từng được ai coi là thứ chứng cứ xác đáng cả”.

Những tri thức văn hoá kiểu ấy chẳng lẽ lại không đáng để truyền giảng lại cho học sinh tiểu học?


4. Vài lời kết luận

Từ những gì vừa trình bày, chúng ta có thể đi đến kết luận: hãy sớm giã từ khung ngữ pháp C–V (vì câu của tiếng Việt không hề có CN ngữ pháp, như nhà thơ Ðoàn Phú Tứ từng nhận thấy từ rất sớm khi đi tìm CN trong Truyện Kiều), để đến với cái khuôn “Ðề – Thuyết” từng được nhà ngữ học Cao Xuân Hạo tâm đắc vì đó là phương sách hiệu quả nhất nhằm giúp cho học sinh tiểu học chúng ta thừa kế được cả một gia tài đồ sộ với bao tri thức, bao kinh nghiệm sống và kinh nghiệm đạo đức vô giá mà ông cha ta đã chắt lọc được trong suốt hàng ngàn năm qua.

Tháng Chạp năm 2006


[1]Về điểm này, xin xem thêm Cao Xuân Hạo. Tiếng Việt. Sơ thảo ngữ pháp chức năng. Bản in lần thứ hai, 2004, nhất là các trang 137-170.
[2]Trong khi nghĩa đích thực của câu này khác hẳn, xem Dẫn chứng 7.
[3]Trong khi nghĩa đích thực của câu này là: “Ăn cơm thì cần có canh [cho dễ nuốt]; tu hành thì cần có vãi [để đỡ bị phân tâm vào chuyện cơm nước khi đang phải dồn hết tâm trí cho việc tu hành]”.
[4]Trong khi nghĩa đích thực của câu này là: “Ăn là việc mà ai cũng hay làm lúc đang đói; nói là việc mà ai cũng hay làm lúc đang ngà ngà say [rượu]”.
[5]Như dân gian từng phản ánh trong nhiều câu tục ngữ đáng kinh sợ, chẳng hạn, Tháng tám đói qua; tháng ba đói chết.
[6]Ðối chiếu thêm câu Ếch tháng mười, người tháng giêng, một câu có nghĩa hoàn toàn trái ngược với câu đang phân tích.
[7]Tục ngữ ta có câu: Cháu ngoại chẳng đoái đến mồ [ông bà mình].

Nguồn: Tạp chí Ngôn ngữ tháng 4.2008

Hà Văn Thùy : Cao Xuân Hạo – chàng Don Quijote độc hành

26.10.2005
Hà Văn Thùy
Cao Xuân Hạo – chàng Don Quijote độc hành

Dường như thế hệ bọn tôi có cái may là được học Văn trong buổi giáp ranh tranh tối tranh sáng sau hòa bình 1954. Khi đó người ta chưa kịp tạo dựng một thiết chế dạy và học môn Văn chặt chẽ đến ngặt nghèo. Khi đó người thày còn có thể dạy một cách hứng khởi theo hiểu biết của mình và nhiều thầy dạy Văn của tôi là những nhà giáo lưu dung (lạy Phật, sao lại có cái danh xưng xúc phạm con người đến vậy?!) kiến thức thâm hậu. Ngày ấy chúng tôi học tiếng Việt theo lời ăn tiếng nói của dân gian, ngữ pháp tiếng Việt chưa phải là phong ba bão táp hành hạ học trò. Học Văn với chúng tôi là niềm vui lớn của sự tự do bộc lộ hiểu biết, bộc lộ năng khiếu thẩm văn thẩm thơ của chính mình. Chúng tôi chưa kịp biến hình thành vẹt hay loài nhai lại.

Nhiều năm sau này, mỗi dịp tiếp xúc với sách giáo khoa Văn học khi dạy con, khi giảng cho cô giáo văn của tôi những mắc mớ về ngữ pháp, tôi lại một lần sởn da gà. Tôi trộm nghĩ, nếu như bây giờ phải quay lại làm học trò học chương trình Tiếng Việt, mình sẽ ra sao? Chắc hẳn sẽ rơi vào một trong hai tình trạng như sau: Hoặc sẽ dốt nát chẳng biết gì về tiếng Việt, hoặc sẽ thành kẻ khởi loạn dẫn đầu những con chữ tấn công vào nhà ngục Bastille giáo trình ngữ pháp, giải phóng cho tiếng mẹ đẻ khỏi gông cùm! Dù cách nào rồi cũng là bi kịch! May mà điều đó không xảy ra. Tôi đã qua cầu thoát nạn. Nhưng các con tôi, rồi bây giờ là cháu tôi, truyền đời bị hành hạ! Quả là đáng thương cho con dân Việt!

Ðang trong nỗi bức xúc không có đường ra khiến tôi hoang mang nghi ngờ tiếng Việt thì may sao tôi gặp những ý tưởng của giáo sư Cao Xuân Hạo, dù chỉ qua vài ba bài báo. Ðiều đáng nể là ông dũng cảm khẳng định nhiều giáo trình ngữ pháp đã giảng sai tiếng Việt. Tiếp đó, ông chỉ ra một cách thuyết phục cái cơ chế, cái công nghệ, cái quy trình dẫn đến những lầm lẫn ấy. Ðó là người ta đã không hiểu tiếng Việt, đã nặng đầu óc nô lệ và biếng lười cóp nhặt ngữ pháp tiếng nước ngoài, mà trước hết là tiếng Pháp, đem áp đặt lên tiếng Việt. Tư tưởng táo bạo của ông đến với tôi như một sự giải thoát. Từ phân vân hoang mang lo lắng, tôi lấy lại được niềm tin là ngữ pháp tiếng Việt không quái đản như những gì người ta viết trong sách giáo khoa. Và tôi tin rằng, từ chỗ biết sự sai, sẽ có ngày tìm ra cách sửa.

Trước tết năm Rồng (2000), tôi nhận được của ông bài viết thú vị nhưng hơi dài và có những kiến thức quá chuyên sâu so với yêu cầu của bạn đọc báo Văn Nghệ. Bỏ đi thì tiếc, tôi đành mạn phép ông làm cái việc gọi là biên tập, tức cái sự lược bớt, chắp nối để thể hiện nổi bật tư tưởng của tác giả. Bài viết được in ra với nhan đề “Sợ hơn bão táp”. Nhiều bạn đọc hoan nghênh nhưng bài báo vấp phải sự phản ứng bão táp của một số cây đa cây đề ở ngành Giáo dục. Ông cười hóm hỉnh bảo: “Cố nhiên thôi, tôi đập bể niêu cơm của họ mà!” Không chỉ đơn thuần là niêu cơm, tôi nghĩ. Ông chính là cái máy xúc, cái xe ủi, ủi đi những “công trình” những “sự nghiệp” vàng mã của khối người! Họ được đào tạo rất bài bản về ngôn ngữ, nhưng không phải ngôn ngữ Việt. Rồi khi về nước, vừa khiếp nhược trước khoa học ngữ pháp chính xác chuẩn mực của nước ngoài, vừa dốt tiếng mẹ đẻ, họ đem cái khuôn mẫu vừa học được, tức đem cái giày ngoại quốc về, vừa đẽo vừa cưa vừa kéo bàn chân Việt sao cho vừa giày... Bằng những việc làm vừa giả vừa phản khoa học ấy, họ đã ngụy tạo nên những “công trình”, những “sự nghiệp” đủ cho họ vênh vang danh lợi một đời! Ông là ai mà dám hiện ra lừng lững như cái xe ủi trước những lâu đài dinh thự vàng son hàng mã ấy?

Trước Tết năm Rắn (2001), tôi gọi điện xin bài. Ông vui vẻ: “Tôi đang viết. Tôi định lấy tên là ‘Hồn tiếng Việt’”. Rồi ông say sưa kể câu chuyện: trên đường ra Hà Nội với nhà Việt học người Hung, ông đố bạn thế nào là chó treo mèo đậy? Nhà Việt học châu Âu cho rằng: đem chó treo lên, lấy rổ lấy nơm úp (đậy) con mèo lại! Ông kết luận, chỉ có người Việt mới hiểu được cái hồn của chữ Việt! Tôi thật mừng, như sự phát hiện, hồn chữ: cái chữ có hồn! Lâu nay người ta quên mất phần hồn mà chỉ dạy phần xác. Vì vậy lớp lớp học trò không biết đến hồn vía tiếng Việt, chữ nghĩa họ dùng chỉ là xác chữ. Chân lý thường đơn giản. Chỉ với bốn chữ quen thuộc chó treo mèo đậy mà làm rối trí một nhà Việt học! Chỉ chúng ta mới cảm nhận được hồn tiếng Việt.

Dường như Cao Xuân Hạo không hòa hợp lắm với đồng nghiệp mình. Người ta coi ông như kẻ hay kiếm chuyện không để cho ai yên. Hình như trong cuộc đời ông cũng chịu không ít bầm dập. Nhưng tôi cho là may mà đời có ông. Ông chân thực vô tư mà minh triết như chú bé trong ngụ ngôn Andersen đã nói huỵch toẹt: hoàng đế cởi truồng!

Không hiểu sao tôi có liên tưởng ngộ nghĩnh: một chiều gió bấc, một con đường mòn xa tít hun hút tới chân trời. Trên đó chàng kỵ sĩ gầy, mái đầu muối tiêu, nách cắp cây thương, cưỡi trên con ngẽo cà khổ. Ðó là ông, Cao Xuân Hạo, chàng kỹ sĩ độc hành. Trong chiều tà, ngọn bút của ông được phản quang phóng to thành cây thương. Một người một ngựa, ông trơ trọi đi trong chiều vắng. Trước mắt, những hồn ma bóng quế chập chờn. Nhưng ông vui vì tin rằng một ngày mai những con chữ Việt sẽ tưng bừng trong cuộc hoan ca chào đón ông - người giải phóng.

Cái ngày đó chưa đến, nhưng đã một thời ông là thần tượng của lớp trẻ chúng tôi bởi những bản dịch mà ông chuyển ngữ văn xuôi Nga thành thứ tiếng Việt tuyệt vời, chính xác mà uyển chuyển. Ông đã truyền cho chúng tôi lòng yêu tiếng Việt chính bởi ông là người yêu tiếng mẹ đẻ đến tận cùng!

© 2005 talawas

Nguyễn Tường Tâm : Cao Xuân Hạo và ngữ pháp tiếng Việt

Nguyễn Tường Tâm
Cao Xuân Hạo và ngữ pháp tiếng Việt

Tôi chưa đọc ông Cao Xuân Hạo bao giờ. Lý do là tôi trưởng thành và làm việc trong môi trường hoàn toàn khác với ông. Mặc dù vậy tôi thấy tên ông quen thuộc lắm. Tôi cứ nghĩ đó là một cán bộ văn hoá có quyền thế chăm lo kiểm soát các sách báo văn hoá phẩm. Xin lỗi ông, tôi dửng dưng với tin ông mất như dửng dưng với tin một cán bộ Đảng hay nhà nước qua đời. Nhưng tin ông mất gây âm vang trong giới truyền thông trong nước khiến tôi đọc những bài viết về ông vì tò mò. Và rồi bài của ông Hà Văn Thùy khiến tôi giật mình ngạc nhiên, giúp tôi trút bỏ nỗi bực bội lâu nay về môn ngữ pháp tiếng Việt bởi vì theo Hà Văn Thùy, ông Cao Xuân Hạo là người đầu tiên và duy nhất “dũng cảm khẳng định nhiều giáo trình ngữ pháp đã giảng sai tiếng Việt.” [1]

Năm 1985, sau gần 10 năm xa nhà trở về, bốn đứa con tôi đã lớn, ba đứa đã học cấp 2. Ðứa nào cũng được bảng học sinh tiên tiến nhưng sao tôi thấy nản quá. Chúng không ở trình độ thông thường như tôi nghĩ. Ðặc biệt là sao chúng dốt môn ngữ pháp thế, đồng thời tôi tự hỏi tại sao cấp II (tức trung học đệ nhất cấp ngày trước ở trong Nam) học sinh lại còn phải học cái môn trước kia chỉ dành cho trẻ con là ngữ pháp? Tò mò tôi mở vở ngữ pháp (văn phạm) của chúng ra xem. Tôi chẳng hiểu họ dạy gì. Cái môn văn phạm (ngữ pháp) tiếng Việt trước năm 1954 và sau này ở miền Nam chỉ được dạy ở bậc tiểu học. Lên lớp 6 (đệ thất) là thuộc trung học đệ nhất cấp, học sinh không còn phải học văn phạm tiếng Việt nữa. Tới lớp 9 ở miền Nam, học sinh đã học bình thơ Trần Tế Xương, Nguyễn Công Trứ, Truyện Kiều, học các tư tưởng xuất thế của Lão Trang, nhập thế của Khổng Tử qua văn chương. Làm gì còn cái trò học ngữ pháp ở lớp 9 để thi tốt nghiệp cấp 2 như bây giờ. Cuối cùng tôi phải nhờ thầy dạy văn của các cháu kèm thêm. Thú thực với ông thầy là tôi không hiểu sách ngữ pháp của trường nên xin được ngồi coi ông thầy giảng môn văn và ngữ pháp lớp 9 cho con mình. Nhìn vào tập vở của cháu, tôi thấy ông thầy gạch dưới và kẻ những mũi tên vào các phần của một câu để phân tích câu văn cho cháu. Ông thầy càng phân tích, tôi thấy cháu càng đăm chiêu. Rõ ràng cháu không hiểu. Cháu đang căng thẳng. Tôi cũng không hiểu luôn. Nhìn mặt ông thầy lúc đó, tôi không biết chính ông ấy có hiểu những điều ông ấy đang giảng hay không. Tôi tự hỏi, “Người ta đã giảng dạy loại ‘ngữ pháp quái đản’ này (chữ của Hà Văn Thùy) bao lâu rồi? Từ đâu người ta nghĩ ra loại ‘ngữ pháp quái đản’ này mà ở trong Nam trước 1975 không có? Tại sao cả nước chẳng có ai lên tiếng về loại ngữ pháp này? Chẳng lẽ cả nước có thể hiểu loại ngữ pháp này mà bản thân tôi, một người cũng đã tốt nghiệp đại học trong Nam từ cái thời mỗi năm một phân khoa đại học nhiều lắm chỉ cho ra trường chưa tới 100 cử nhân lại không thể hiểu hay sao?”

Khi dạy toán cho các cháu, tôi lại khám phá thêm một điều lạ lùng nữa là sách giáo khoa toán được viết bởi một thứ ngôn ngữ có những kết cấu “ngữ pháp quái đản” tới độ học trò không thể nào hiểu được. Tôi nghĩ lý do các sách toán, sách khoa học đều trở nên khó hiểu là vì các tác giả của chúng thời còn là học trò đều bị nhồi nhét thứ “ngữ pháp quái đản” đó, đến khi trở lại làm thầy thì làm sao họ viết câu thành cú được chứ đừng nói là viết một bài văn rõ ràng, mạch lạc. Tôi phải bỏ cuốn sách toán của trường, chỉ dựa vào chương trình để tự soạn bài giảng theo trí nhớ về những gì tôi học gần 30 năm trước đó (thập niên 1960) ở trường trung học trong Nam. Ðiều buồn cười là đối với các bài toán các cháu không làm được, tôi không cần giảng toán mà chỉ cần viết lại câu văn (rewording) là các cháu hiểu ngay và giải được liền. Cháu không dốt toán. Cháu chỉ không hiểu câu văn.

Tôi “ngộ” ra được điều đơn giản, “Hàng ngày nói, viết tiếng mẹ đẻ tự nhiên như hít thở, ít ai để ý tới tầm quan trọng của ngôn ngữ trong việc phát triển khoa học kỹ thuật”. Người ta, nhất là ở những nước chậm phát triển như Việt Nam, thường có thói quen đánh giá cao khoa học kỹ thuật. Học trò ban văn chương dễ bị coi thường. Thời đi học tôi cũng từng có ý nghĩ như vậy. Nhưng lúc đó (1985), lần đầu tiên trong đời tôi mới thấy tầm quan trọng của môn văn và nghiệm ra rằng khi ngôn ngữ của một dân tộc bị làm hỏng, có nghĩa là văn chẳng ra văn, câu chẳng ra câu, thì giao tiếp bị gián đoạn: người nhận thông tin không hiểu ý người truyền đạt thông tin, trò không hiểu thầy, độc giả không hiểu sách, báo, thính giả không hiểu diễn giả v.v. Và như thế sẽ cản trở luôn sự phát triển ở tất cả các bộ môn khác.

Tình trạng viết câu không thành cú đã hiện diện trong nhiều bài nhật tụng về chính trị Mác-Lênin một thời suốt cả ngày toàn dân ai cũng phải học (mà không hiểu!) đã được nhà văn Thế Uyên trích dẫn trong một tác phẩm của ông viết về văn hoá xã hội chủ nghĩa [2] . Trước một thực tế như thế, ở vào trường hợp tôi ai mà chẳng bực mình. Tôi ước mong tìm được một cuốn ngữ pháp của Viện Ngôn ngữ để xem họ viết về vấn đề này ra sao. Thời buổi đó thật khó tìm sách, ngoại trừ các bộ toàn tập của các lãnh tụ. Tôi lại ở một thị trấn nhỏ xa xôi, ra khỏi tỉnh là phải xin phép, phương tiện đi lại cũng thật khó khăn. Ðặc biệt cả hai vợ chồng tôi đều thuộc diện những người quen làm cán bộ nhà nước, ngay cả các thầy cô giáo, cũng không được tiếp xúc. (Ðã có một người bạn lâu năm làm hiệu trưởng trường trung học cấp hai trong cùng phường bị kiểm điểm vì ghé thăm gia đình tôi.) Thế là tôi ôm nỗi bực mình đó trong cô đơn. Một hôm tình cờ thấy trong góc một kệ sách đóng bụi ở một cửa hàng sách quốc doanh nhỏ trước cửa chợ Ðông Hà (Quảng Trị) một cuốn không dày viết về ngữ pháp của Viện Ngôn ngữ Hà Nội (tên chính xác thì tôi quên rồi). Nôn nóng mua về, thế nhưng, đọc cuốn sách tôi lại cảm thấy ngỡ ngàng hơn. Xin lỗi những ai đã viết ra hay đã đóng góp vào việc hình thành cuốn ngữ pháp đó, tôi cố gắng đọc mà chẳng hiểu các tác giả muốn nói gì. Tôi lật đi lật lại bìa sách, Viện Ngôn ngữ đàng hoàng (chi tiết về danh xưng có thể không chính xác). Những người làm việc trong cái viện này chắc chắn phải được đào tạo chuyên môn cao; chắc chắn phải có học vị ít ra là cử nhân, nếu không là tiến sĩ ngôn ngữ. Họ phải xứng đáng với danh hiệu học giả chứ! Họ viết ra, sáng chế ra ngữ pháp để cả nước phải theo khi nói, khi viết tiếng Việt cơ mà! Nhưng càng đọc tôi càng thấy rối mù. Chịu! Không thể nào hiểu được các “học giả” trong cái viện đó muốn nói gì. Tôi không hiểu vì sao ngữ pháp tiếng Việt, một bộ môn đang từ hết sức dễ dàng và chỉ được dạy tới lớp nhất (lớp 5) bậc tiểu học trước kia (không gì dễ bằng học ngữ pháp - thời của tôi - trước 1975 tại miền Nam Việt Nam) lại trở nên quá phức tạp như vậy. Ðọc cuốn sách, cho tới giờ này tôi chỉ nhớ (với một sự kinh hoàng) vài chữ hay nhóm chữ được lặp đi lặp lại như: “người bản ngữ”, và những quỉ quái gì nữa! Trời đất ơi, kinh hoàng thế này ư? Tôi gào thét trong tâm mà không biết chia sẻ cùng ai. Các con tôi, cũng như các bạn học trò khác của các cháu, dĩ nhiên cũng không hiểu, nhưng hàng ngày vẫn phải cố nuốt những thứ kinh hoàng đó. Chúng vật lộn với ngữ pháp. Chúng tưởng chúng dốt. Nhưng thực ra chúng (học trò) không ngờ rằng chúng không dốt, mà chính các ông thầy, các ông “đại sư phụ” từ cái Viện ở Trung ương đó dốt. Những từ, nhóm từ (pharses), những câu, và thậm chí toàn bộ những đoạn văn trong cuốn ngữ pháp đó khó hiểu như những câu thần chú bí hiểm.

Khi không hiểu thì người ra diễn tả một cách khó khăn, biến những điều đơn giản trở nên khó hiểu. Khi loè bịp thiên hạ, người ta cũng viết khó hiểu như vậy. Tôi không biết các “nhà nghiên cứu” ở Viện Ngôn Ngữ thời đó thuộc diện nào (không biết thời này có khá hơn không?). Thật đau khổ khi biết là đất nước đang trải qua một nỗi kinh hoàng sẽ mang lại một hậu quả lâu dài trải qua hàng thế hệ, có khi cả trăm năm sau, nếu không được thay đổi, mà mình không làm gì được. Tôi nghĩ có cố gắng lắm viết được một bài báo cũng chẳng cảnh tỉnh được ai; cũng chưa chắc có ai biểu đồng tình. Mà có viết cũng chẳng ai đăng (Tất cả các báo đều là của nhà nước.) Nếu có được đăng thì cũng bị người ta cho là ngạo mạn, kiêu căng. Có lẽ Cao Xuân Hạo cũng bị ở trong tình huống đó nên mới bị cho là “chàng Don Quixote độc hành”. Sau khi gọi Cao Xuân Hạo là “chàng Don Quixote độc hành”, ông Hà Văn Thùy viết tiếp, “Dường như Cao Xuân Hạo không hoà hợp lắm với đồng nghiệp của mình. Người ta coi ông như kẻ hay kiếm chuyện không để cho ai yên”. Tôi ôm nỗi bực bội đó tới nay đã 22 năm (1985-2007). Thỉnh thoảng nghĩ tới tôi vẫn thấy chán nản, bi quan cho đất nước và ngạc nhiên sao cả nước không ai nhận ra vấn đề.

Nhưng rồi thật là bất ngờ. Sự ra đi của ông Cao Xuân Hạo đã tình cờ giúp tôi giải toả được phần nào niềm u uẩn. Nói cho rõ hơn, hai bài báo của hai đồng nghiệp và học trò của ông viết để ngợi ca người đã khuất đã cho thấy hóa ra bấy lâu, trong ngành văn chương và giáo dục cũng có ít ra ba người có thực tài có cùng sự bực bội như tôi. Cũng như tôi, họ không làm gì được, không lên tiếng được, hay lên tiếng cũng chẳng ai nghe. Ông Hà Văn Thùy đã thú nhận, chính ông trong nhiều năm đã có những “bức xúc không có đường ra...” và ông viết tiếp, “Ngữ pháp tiếng Việt không quái đản như những gì người ta viết trong sách giáo khoa”. Rồi lại thêm ông Trần Tiễn Cao Ðăng cũng xác nhận như ông Thùy rằng ông Cao Xuân Hạo đã dũng cảm khẳng định nhiều giáo trình ngữ pháp trong nhà trường nước ta đã giảng sai tiếng Việt. [3]

Những đồng cảm này không những giải toả bớt cho tôi niềm u uẩn, mà còn mang lại cho tôi niềm hy vọng rằng có lẽ cũng còn nhiều người trong nước (rất hi vọng là tất cả mọi người, trừ các ông “học giả” trong Viện Ngôn ngữ Hà Nội, cha đẻ của môn ngữ pháp tiếng Việt cách nay mấy chục năm) có cùng niềm u uẩn đó và mong có thay đổi. Ðây không là chính trị. Ðây là văn hoá. Ðây là tương lai của dân tộc. Một khi đại đa số học sinh, sinh viên, và phụ huynh cùng giáo chức và các nhà văn có cùng một ý nghĩ, một ước muốn như Hà Văn Thùy, như Trần Tiễn Cao Ðăng, như Cao Xuân Hạo, thì thực tế phải sớm có thay đổi, phải sớm có những học giả thứ thiệt ngồi vào các chức vụ đủ quyền uy trong ngành giáo dục để thay đổi nội dung môn ngữ pháp sao cho trở lại đơn giản như trước kia để học sinh chỉ còn phải học ngữ pháp tới hết lớp 5 bậc tiểu học là đủ rồi. Có như vậy “tiếng nước tôi” mới trở thành đòn bẩy làm phát triển tất cả mọi ngành khoa học kỹ thuật khác và đưa đất nước đi lên trong thời kỳ hội nhập toàn cầu.




[1]Hà Văn Thuỳ: "Cao Xuân Hạo - Chàng Don Quijote độc hành" talawas 19/10/07
[2]Thế Uyên, Con đường qua mùa đông, nhà xuất bản Xuân Thu, 1990 (trang 102: “Muốn xây dựng xã hội... biện chứng với nhau.”
[3]Trần Tiễn Cao Ðăng: "Cao Xuân Hạo, thầy của tôi", talawas 20/10/07

Nam Dao : Cao Xuân Hạo, những nỗi niềm và trăn trở…

23.10.2007
Nam Dao
Cao Xuân Hạo, những nỗi niềm và trăn trở…

Tôi gặp anh lần đầu khi cùng Trịnh Công Sơn đến thăm anh ở Phú Nhuận. Trưa hôm đó, con gái anh và chị Thanh đang còn tuổi ô mai, đòi chú Sơn hát "Ở trọ" cho nghe. Anh ngồi, gật gù, cười nửa miệng với phong cách nho nhã ngày càng ít thấy. Sơn hát xong, anh ôm đàn, đáp lễ. Anh cũng hát, một bài thời anh tham gia kháng chiến, giọng trong và khoẻ, ngân nga luyến láy như ai. Hình như đó là bài có những câu như "chiều nay trên chiến khu trong rừng chiều, bên đèo tiếng suối reo… đạn bay vèo". Năm đó, năm 1982. Trên tập Về Kinh Bắc chỉ được in chính thức năm 94 tặng tôi, tức là 12 năm sau, anh Hoàng Cầm ghi: để nhớ một năm đầy hạnh phúc và oan nghiệt. Hạnh phúc, tôi yêu, rồi tôi quýnh quáng lấy vợ, quà tặng của anh Cầm là tập Về Kinh Bắc anh nắn nót chép tay cho tôi. Oan nghiệt, khi ra phi trường Tân Sơn Nhất, người ta cộp tôi lại, rà soát xem tôi có mang văn hoá phản động ra ngoài không? Tập thơ anh Cầm tặng, tôi gửi lại một người bạn. Bạn tôi gửi lại một người bạn khác. Và cuối cùng, chính Cao Xuân Hạo là người giữ để sau này trả về cho nhà thơ, người bị tù chẳng phải vì tuồn tập thơ ra hải ngoại mà vì cái tội bán rượu lậu (?!). Chuyện xưa, xưa như Diễm. Nhắc lại, vì nhớ Hạo, và cái không khí nặng nề của những năm tháng ngột ngạt thời cả nước tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên… "thiên đường mù", tên một cuốn tiểu thuyết vào những năm đổi mới sau này.

Đổi mới, tôi thôi bị (được?) cấm cửa, về Hà Nội năm 88. Lại có dịp gặp Hạo từ Sài Gòn ra, và lê la với Dương Tường, Phan Ngọc. Thời đó, báo chí hô khẩu hiệu thời thượng "đậm đà bản sắc dân tộc". Tôi không nhớ Hạo hay Phan Ngọc dí dỏm dịch qua tiếng Pháp là "imbus du caractère national!". Với Hạo, tôi có dịp gặp nhà văn Nguyễn Huy Thiệp, khi đó chưa tiếng tăm. Hẹn nhau, tôi đến nơi Hạo ở tạm thì đã có TM, một người bạn của anh. Lát sau, Thiệp và một anh bạn vào. Chuyện trò với TM, tôi không để ý lắm đến người mặt mũi khắc khổ sần sùi thì thào to nhỏ với Hạo. Khi anh ta và bạn về, Hạo bảo: "… Đặc biệt đấy! Viết rất hay!". Thì ra nhà văn đến trao đổi với Hạo về dăm ba tác phẩm chưa in. Tôi hỏi, Hạo cho mượn bản thảo (trí nhớ tôi nay tồi, nhưng có thể là "Thương nhớ đồng quê" và "Ngọn gió Hua Tát"?). Đọc và dăm ngày sau tôi đi tìm Thiệp ở một cơ quan phát hành sách gần nhà Dương Tường ngõ Phan Huy Chú, sau tôi còn rủ rê nhà văn đi "rượu chè" ở tư gia đạo diễn Thanh Tú nhân dịp chị làm lễ cúng sao giải hạn. Ngày ấy, nhà văn còn rất dễ mến, hồn nhiên thủ thỉ: "Anh lôi tôi, tôi mới đi chứ tôi ít giao du!", chứ ai ngờ ít lâu sau "người" trở thành chủ quán nhậu Hoa Ban danh trấn giang hồ.

Phải bốn năm sau tôi mới gặp lại Hạo, lần này ở Paris. Oan nghiệp thế nào mà tôi đã tưởng "mút mùa" khỏi nơi chôn nhau cắt rốn, nên gặp nhau, mừng mừng tủi tủi những chuyện xưa, chuyện nay, chuyện người, chuyện ngợm. Collège de France mời, anh đi và bảo đây là lần đầu được qua một xứ Tây Âu, có lẽ vì cuốn Phonologie et linéarité. Réflexions critiques sur les postulats de la phonologie contemporaine (1985) anh in bên Pháp đã có tiếng vang. Trong những ngày nghỉ, chúng tôi lang thang, khi trên bờ sông Seine khu Quartier Latin, khi thì Monmartre, gần một cái appartement cô em Hạo để Hạo trú ngụ. Thời đó, Hạo rất năng động, viết lách khá nhiều, hăng hái làm việc với Tiểu ban Việt học Đại học Tổng hợp TPHCM, hào hứng thúc đẩy và xây dựng Hội Nghiên cứu Ngôn ngữ… Tâm sự, anh bảo nay chỉ mong ước một chuyện, là tiếp tục nghiên cứu và góp phần đào tạo một số anh em quan tâm đến tiếng Việt. Và như mọi lần, anh lại than tiếng Việt bây giờ ngọng nghịu bởi viết với ngữ pháp tiếng Tây. Anh cho rằng chữ Quốc ngữ ABC giữ được âm nhưng làm mất nghĩa, học thì lợi là nhanh nhưng hại ở chỗ mù mờ khiến kiến thức thường dàn trải mà không sâu. Anh lan man qua những vấn đề chuyên môn, cho rằng âm vị học khai triển ở phương Tây không thể dùng để phân tích những ngôn ngữ như tiếng Việt ta, vốn đơn âm, và cứ mỗi âm tiết (tiếng) là một đơn vị ngôn ngữ, không thể phân tích ra thành những âm tố, rồi nhiều âm vị, trong một cấu trúc ngữ pháp châu Âu mà mỗi tiếng có thể gồm nhiều yếu tố có ý nghĩa khu biệt. Trước niềm say mê của anh, tôi nghe. Dĩ nhiên như vịt nghe sấm, nhưng chẳng sao, cái anh truyền đạt được cho những người nghe anh nói là sự trân quí tiếng mẹ đẻ và tấm lòng trung trinh với văn hoá. Học thầy không tầy học bạn. Học giá trị sống, học cách làm người, lòng đam mê. Học những niềm hy vọng. Và cả những nỗi trăn trở.

Cuối 98 đầu 99, tôi lại hồi hương thời mình thôi bị "cấm vận". Gặp Hạo, vẫn trẻ măng, vẫn phong nhã, vẫn cứ một niềm say mê. Kể chuyện vui: sau giờ lên lớp của Hạo, chúng tôi ngồi uống bia ở một cái quán trong khuôn viên Đại học Tổng hợp TPHCM. Cô tiếp viên quen mặt Hạo, gọi bằng thầy, đi qua đi lại "phục vụ" khá chu đáo, cứ như "khách hàng là Thượng đế", ngay cho đám thầy trò nghèo rớt chỉ biết thưởng thức bia hơi và đậu phọng. Đợi Hạo vào toa-lét, cô đến gần hỏi: "Anh công tác ở Hà Nội?". Tôi gật, đá lông nheo, cái thói cứ có dịp là đùa nghịch. "Anh dzô luôn hay đi công tác ngắn hạn?" Tôi đáp: "Dzô luôn, sống ngoải cực lắm!". Thấy tôi bắt chước tiếng Sài Gòn, cô cười: "Chắc ngày trước ông bà già đi tập kết hả?" Tôi lại gật. Khi đó, Hạo ra và cô tiếp viên lui về đứng tựa quầy hàng. Cô liếc tôi, cứ tần ngần, lát sau mang ra mấy điếu ba số, lúng túng: "Em mời thầy, mời anh, hút cho vui!". Hạo ngạc nhiên. Đợi cô tiếp viên đi, Hạo cười tinh quái, bảo cô ta nhẵn mặt thầy mà nay mới mời thuốc, chắc chẳng phải vì thầy mà vì anh. Nhìn tôi dò hỏi, thấy tôi lắc đầu: "Nghịch ngợm ấy mà, kiểu anh hùng thấy chuyện… qua đường… chẳng tha, nhưng chỉ thế thôi!", Hạo hỏi: "Ông có đọc Zorba the Greek chưa?". Cười ha hả, Hạo tiếp: "Zorba nói, khi một người đàn bà đến anh dâng hiến tình yêu mà anh quay lưng, thì anh có biết thế là anh báng bổ thần linh không?". Ôi chao, nhưng tôi biết làm chi đây? Nhìn lên, ảnh Bác vẫn đó, Bác sống mãi trong sự nghiệp chúng ta. Nhìn xuống, cái thân mình Việt kiều bước đi một bước giây giây lại dừng và… nhìn về đàng sau, tôi ngậm ngùi lẩy Kiều: "Zorba thì mặc Zorba. Quan trên trông xuống, người ta trông vào… Thôi ông ạ, ta đi…"

Hoà hợp trong-ngoài tuỳ giá máy bay về nước, thời gian thoát được chuyện áo cơm, lại phụ thuộc vào độ phập phồng mở ra đóng vào trong "hoàn cảnh" đối ngoại nên năm năm sau tôi mới gặp anh. Lần này, Công ty Văn hoá Phương Nam đã mua lại tác quyền toàn bộ tác phẩm của anh, hẳn đời anh "tươi" hơn ít nhiều. Anh không còn ở đường Huỳnh Văn Bánh quận Phú Nhuận mà dọn đến phố Phạm Văn Chiêu ở Gò Vấp. "Lạ thật, ông Bánh rồi ông Chiêu lấy làm tên đường, nhưng ông có biết họ là ai không?", tôi hỏi. Hạo lắc đầu, đăm chiêu "… Chuyện lạ thì đất nước này nhiều lắm!". Anh mang ra cuốn Tiếng Việt, văn Việt, người Việt (Nxb Trẻ, 2003), giở trang 333, bài nói về tính hiếu học…, đọc một đoạn cho tôi nghe: mục Viết nhịu trong tạp chí Ngôn ngữ & đời sống của Hội Ngôn ngữ học Việt Nam kê ra vài trăm lỗi viết về tri thức cơ bản thường thấy. Trong các sách giáo khoa đại học, có thể tìm ra 2000 câu lỗi như thế, và trên căn cứ có kiểm kê, khoảng 72% sách đại học đều chứng tỏ người viết không biết đến những tri thức ngôn ngữ sơ đẳng. Cuốn Nhập môn ngôn ngữ học được mang giảng dạy ngang nhiên phủ nhận tất cả thành tựu của ngành ngôn ngữ học của toàn nhân loại, và lấy tư cách Chủ tịch Hội đồng Khoa học Viện Khoa học Xã hội tại TPHCM, năm 1997, Hạo gửi thư cho ông Giám đốc Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn cùng ông Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo một thư dài kèm 200 trang tư liệu minh chứng, để kiểm tra và kết luận về tác hại của cuốn sách đó. Nhưng đến nay, tức 7 năm sau, vẫn chẳng có hồi âm, kể cả công văn báo đã nhận thư cũng không có!

Hôm đó là ngày mồng hai Tết. Đáng lẽ phải vui xuân, chúng tôi lại lẩn thẩn nói những chuyện cực lòng. Ngay cả đối với những giáo sư ngôn ngữ, chẳng lẽ họ lại coi thường tiếng mẹ đến thế sao? Họ chắc phải biết ngôn ngữ là lớp trầm tích sâu nhất của văn hoá, khai quật thì có thể soi rọi cách sống, từ tư duy, cảm nhận đến những quan hệ ứng xử giữa người với người, giữa cá nhân và cộng đồng… Lơ là để cho ngôn ngữ thành một thứ tạp nham dị dạng vô hồn, có thể nào, tôi nói liều, cả dân tộc này mắc chứng trầm cảm tập thể, giải quyết bệnh tâm thần bằng cách xô nhau làm giầu ăn xổi để khỏi suy nghĩ, hệt như trong một xã hội tiêu thụ vinh danh khách hàng như Thượng đế, tha hoá biến chính mình thành một món hàng không hơn không kém?

Trong tương quan giữa ngôn ngữ và văn hoá, tôi đặc biệt quan tâm đến những đại từ nhân xưng, trao đổi với Hạo dịp đó, và hứa sẽ đào sâu sau này. Ở ngôi thứ nhất dạng đơn, ngoài tôi, ta, tao, tớ, mỗ có tính hồi chỉ chính danh thì có lẽ đến 90% chúng ta dùng ngôi vị thân tộc và tuổi tác (con, cháu, anh, em…) để xưng hô. Ở dạng phức, ta ghép thêm từ chúng vào ta, tôi, tao. Ở ngôi thứ hai, ngoài từ mày, mi, bay xưng hô phần lớn tuỳ tuổi tác (cụ, ông, cha, mẹ, anh, em), chức năng hoặc cương vị (bác sĩ, giáo sư, ngài…), thường ở dạng đơn, thêm những hoặc các hoặc tụi hoặc bọn để chỉ dạng phức (nhưng xin lưu ý các anh, chứ chúng anh lại chỉ ngôi thứ nhất). Với hai ngôi này, rất ít đại từ có tính trung hoà được dùng trong đời sống, khác hẳn với những ngôn ngữ phương Tây (je, moi, tu, toi, nous, vous trong tiếng Pháp, I, you trong tiếng Anh) hoặc trong tiếng Trung Quốc (ngổ, nỉ… áp dụng một cách phổ biến ngay trong quan hệ gia đình giữa bố mẹ anh em). Nếu mày, tao được sử dụng giữa bè bạn thì chúng (tụi, bọn) bay, chúng (tụi, bọn) mày, chúng (tụi, bọn) tao (ta) thường chỉ những quan hệ những nhóm có ít nhiều đối kháng cành cựa với nhau. Đặc biệt hơn hết là nhân xưng trên cơ sở tuổi tác, địa vị, và liên hệ trên-dưới có tính thân tộc vừa miêu tả tạo ra một tương quan bất bình đẳng giữa những con người. Tác động tốt của nhân xưng thân tộc (cha mẹ cô chú anh em) một cách đại trà như thể mọi người cùng thuộc một gia đình là tạo ra liên kết tình cảm, nhưng mặt tích cực đó có thể bị triệt tiêu vì hai yếu tố. Thứ nhất, cái liên kết trên ảo; nó thể hiện một sự mong đợi trông chờ chứ không phải một hiện thực, và đẩy đến một cực nào đó, nó là sự giả trá chấp nhận như một qui ước. Thứ nhì, nhân xưng ở ngôi thứ nhất tự thân bị những ràng buộc trên-dưới, ảo-thực… nên khó có thể phát huy trọn vẹn cái tôi cá thể bị kiềm toả trong ngôn từ xưng hô phản ánh trật tự (thậm chí, đạo đức) của xã hội dựa trên nền tảng gia đình thị tộc [1] . Cái nền tảng đó do truyền giống nên tự nhiên và bất biến, hệ luận là từ cách xưng hô đó, cái trật tự kia cũng vậy, và con người sử dụng nó vô hình chung bị vi khuẩn "bảo thủ" ngấm vào đến tiềm thức, ứng xử thụ động trước mọi quyền lực ngoại tại.

Nhưng đáng chú ý là những đại từ nhân xưng ở ngôi thứ ba. Tôi rất khó chịu khi phải sử dụng nàng và chàng, nghe nó cứ như "làm sao ấy", hơi "sên sến", lắm khi dùng không khéo thì phá tan nát cái không khí văn chương. "Thiếu gì từ khác", Hạo đáp. Hết thời gian nên tôi phải chia tay, hứa sẽ "lạm" bàn với Hạo lần gặp sau.

Ở ngôi thứ ba, ngôn ngữ ta quả không thiếu gì đại từ nhân xưng ở dạng đơn: giống đực: y, hắn; giống cái: ả, thị; trung tính: nó, va(?), nghỉ… chẳng hạn. Từ va và nghỉ hoặc là tiếng địa phương, hoặc là tiếng cổ, nay không còn thông dụng. Ở dạng phức, chỉ còn chúng (bọn, tụi) nó. Nhưng mỗi đại từ trên đều mang một nghĩa hàm ẩn, thường là nghĩa xấu. Thị, ta liên tưởng đến tôi đòi, quê kệch. Ả, tất ả giang hồ, đám xướng ca. Y, có vẻ gì như hiểm hóc, tối tăm. Còn hắn, đỡ hơn, nhưng chắc chắn xa lạ. Tóm lại, với những đại từ nhân xưng ngôi thứ ba vừa nêu lên, tính cách và thậm chí bản chất khác với chủ thể hiển ngôn ở ngôi thứ nhất. Nó thường hàm ẩn sự đánh giá, từ khinh miệt đến xa lánh, vì chuẩn mực "đạo đức" gắn vào danh xưng tưởng như trung hoà nhưng chính ra không phải vậy. Tưởng tượng một cuộc thoại giữa tôi với anh về một đệ tam nhân ở ngôi thứ ba. Danh xưng không thôi cũng có khả năng chia rẽ: gọi là y, là hắn, là nó… đều hàm chứa đánh giá đối tượng này. Bây giờ, giả thử có ba người và những cuộc đối thoại song phương về một người thứ ba. Đánh giá hàm ẩn qua đại từ nhân xưng gấp lên ba lần, tỉ lệ thuận với khả năng chia rẽ. Và có phải chính vì thế mà cứ có một người Việt thì công việc chạy hơn với hai người người ngoại quốc (người Nhật chẳng hạn), trong khi có ba người Việt thì lại không bằng chỉ với một người (như người Nhật chẳng hạn) như trong chuyện tiếu lâm tân thời. Ngôi thứ ba dạng phức cũng vậy. Chúng (bọn, tụi) nó có cái gì đó không thiện cảm chút nào, chẳng những xa lạ mà còn như đe doạ. Và chính vì vậy mà chúng ta lúc nào cũng phải đối phó với chúng nó, khi thì lao vào chiến tranh, lúc hoà bình thì ta dùng mẹo trong ngoại giao, trước sau bất tất cứ phải như một. Ở ngoài nước, tình trạng phân chia phe nhóm chúng ta hầu như có trong tất cả mọi cộng đồng rải rác khắp nơi. Chỉ khi chúng nó là một đe doạ thực sự thì chúng ta mới đoàn kết được.

Tôi vừa đưa ra giả thiết rằng tính chất của đại từ nhân xưng ngôi thứ ba có thể là một (một thôi, xin nhấn mạnh) trong những yếu tố giải minh tính chia rẽ giữa người Việt với nhau. Giả thiết này không đề đạt một hệ luận nhân-quả, thuần là một giả thiết về tương quan giữa ngôn ngữ với văn hoá và xã hội mà thôi. Trong tham luận "Ngôn ngữ học có thể đóng góp gì vào việc tìm hiểu tư duy và văn hoá Việt Nam?" đọc tại Hội nghị Quốc tế về các giá trị văn hoá phương Đông ở Hà Nội năm 1999 [2] , Cao Xuân Hạo đề nghị bảy vấn đề, hoặc hệ vấn đề, mà khi được giải quyết thích đáng sẽ dẫn đến những tìm tòi xa hơn. Anh viết: 1… 2… nhưng tôi xin chỉ kể:

7. Tại sao, và tự bao giờ, các thuật ngữ chỉ quan hệ thân thuộc được dùng thay cho các đại từ nhân xưng, các đại từ nhân xưng hồi chỉ chính danh trở thành vô lễ, và rốt cuộc trong tiếng Việt không còn có đại từ nào (kể cả đại từ hồi chỉ) có tính trung hoà… nữa? Hệ thống đại từ này có ảnh hưởng như thế nào đối với các quan hệ giữa người với người trong xã hội Việt Nam?

Là người "ngoại đạo" ngành ngôn ngữ, tôi vẫn đánh liều thử "lạm" bàn, lẽ ra là chỉ với Hạo lúc sinh thời, nhưng nay quá muộn nên đành viết ra để thay một nén hương thắp lên cho bạn. Đó là cách cá nhân tôi trả nợ, nhưng điều này nhỏ, tôi chỉ hy vọng làm xúc tác cho một cuộc tìm tòi nghiêm túc và có hệ thống.

Chuyện lớn hơn, tôi nay xin thưa. Tháng 8 năm ngoái, năm 2006, tôi lại gặp Hạo. Lần này, rõ là anh hơi tiều tuỵ, trầm ngâm hơn, nhưng lúc chuyện trò, anh vẫn giữ được chất lửa khi nói về những nỗi niềm và trăn trở. Trăn trở, anh lo chuyện lạm phát phi mã những mảnh bằng tiến sĩ, phó tiến sĩ. Những chức danh giáo sư, phó giáo sư. Anh sợ định luật Graham, như với tiền giấy hồi thế kỷ thứ 17 bên châu Âu, "la mauvaise monnaie chasse la bonne" [3] . Anh than vãn, báo chí tự thân có trách vụ văn hoá và giáo dục, nhất là với ngôn ngữ vì phần lớn người ta có đọc là đọc báo. Nhưng khốn thay, đội ngũ làm báo tắc trách, đáng lẽ nâng lên thì lại làm ngôn ngữ xuống cấp, mất ngữ nghĩa, mất trong sáng… mà tôi lấy một thí dụ điển hình trong phụ lục dưới đây.

Còn về nỗi niềm của anh, tôi xin chỉ kể ra đây một. Hỏi Hạo về khả năng nhóm cộng sự và môn sinh tiếp tục đào sâu những vấn đề học thuật anh chưa giải quyết được, anh trầm ngâm rất lâu, lát sau nói: "Mình cũng kỳ vọng ở họ rất nhiều, nhưng khả năng đâu chỉ tuỳ thuộc họ, nhất là ở cái buổi ‘hội nhập’ này, anh em làm khoa học đâu mang rao bán được cái gì trong kinh tế thị trường!". Mắt sáng lên, anh nói về một bộ những cuốn sách giáo khoa anh đã cùng họ soạn thảo với hy vọng thay thế những cuốn sách quái dị kiểu Nhập môn Ngôn ngữ học đã kể ở trên, hy vọng đem tiếng Việt thuần khiết chứ không sao chép ngữ pháp châu Âu trả về cho người Việt. Theo một bài phỏng vấn Cao Xuân Hạo trong báo Xuân Lao Động năm 2003 [4] thì:

Hỏi: Thời hội nhập, tiếng Việt có cần tuân theo những quy tắc truyền thống quá cứng nhắc nữa không; hay cần đơn giản hoá, thưa ông?

Đáp: Làm sao tiếng Việt chấp nhận những kiểu nói của tiếng châu Âu? Tôi không hẹp hòi, nhưng rõ ràng có một điều kiện tiên quyết và quyết định là đừng làm mâu thuẫn những quy tắc ngữ pháp cơ bản của tiếng Việt. Duy nhất trước đây có Giáo sư Nguyễn Tài Cẩn đặt vấn đề về một trong những quy tắc mà ngay chính các nhà ngôn ngữ học cũng không giải thích được, chỉ dùng theo bản năng. Nhiệm vụ của nhà ngôn ngữ học là hiển ngôn hoá những gì mà em bé năm tuổi chưa hiển ngôn được. Tôi đã viết gần xong 300 quy tắc như thế cho riêng tiếng Việt.

Tôi không biết các anh đã soạn xong bộ sách chưa, và nếu xong, những cơ quan có chức trách khu xử thế nào. Riêng mình, tôi cầu mong cho nó đến được tay những sinh viên, học sinh, những nhà văn nhà thơ, những biên tập viên, những nhà báo, ngài Chủ tịch Nước, ngài Thủ tướng, và vân vân.

Chia tay Hạo năm ngoái, tôi leo lên ngồi sau Honda của một người bạn, quay lại vẫy. Anh đứng trên lề đường, nhìn theo, và cười, vẫn cái cười phong nhã. Hẹn hò gặp nhau nay khép lại, vĩnh viễn. Mở cuốn sách anh đề tặng, … để nhớ những lần gặp nhau (về rất nhiều phương diện), tôi không khỏi bùi ngùi. Nhưng Hạo ạ, sống ở thác về. Sống thế nào, anh đã sống toàn vẹn. Còn thác, thì chuyện dĩ nhiên ấy mà. Và nơi về với một con người đã sống toàn vẹn là lòng những người ở lại.

Quebec 21-10-2007




Phụ lục
Nhặt cỏ dại trong một bài báo trên web của BBC tiếng Việt ngày 19-10-2007

Theo truyền thống nhặt cỏ dại, còn gọi là bắt sâu, trong báo chí, tôi xin làm công việc này với một bài báo (có thể đây chỉ là một trường hợp đơn lẻ). Những chữ hoặc câu in đậm là để lưu ý, phần trong ngoặc là cách tôi hiểu và đề nghị thay thế, hoặc giản dị là tôi không hiểu! Không phải có hậu ý phê phán BBC mà tôi đã được đọc những bài viết công phu và có chất lượng, tôi làm cái việc nhổ cỏ dại này chỉ nhằm thể hiện nỗi lo âu của những người thấy "tiếng Việt xuống cấp tới mức trầm trọng", trong đó có Giáo sư Cao Xuân Hạo, người đã lên tiếng đánh động nhiều lần.

Người tiên phong DNA bị đình chỉ

Tiên phong cho cái gì? Phải chăng: người tiên phong trong nghiên cứu về DNA?

Đình chỉ gì? Công sự, hợp tác? Đọc tựa, tôi không thể đoán ra nội dung. Đọc cả bài báo, tôi hiểu thế này:

Đình chỉ cộng sự của người tiên phong trong nghiên cứu về DNA

Cái tựa đề thêm 7 chữ, nhưng rõ nghĩa và tóm lược được nội dung bài báo.

Ông Watson nhận được những lời chỉ trích gay gắt vì những nhận xét của mình trên một tờ báo của (có cần không?) Anh vào cuối tuần trước.

Trong bài phỏng vấn, ông được trích dẫn đã nói rằng người Châu Phi kém thông minh hơn người Châu Âu.

Phòng thí nghiệm Cold Spring Harbor đã cho biết họ không có liên quan gì những lời nhận xét của ông, nhưng hội đồng quản trị đã đình chỉ ông.

(Đình chỉ một sự việc nào đó, chứ đình chỉ một người thì là gì? Bắt, giam, thải…? Có thể là: đình chỉ sự cộng tác với ông?)

Hoàn toàn xin lỗi

Ông Watson theo lịch sẽ có một bài diễn thuyết tại bảo tàng Khoa học ở Luân Đôn hôm thứ Sáu trong tour lưu diễn (lần ra mắt?) sách của ông. Nhưng bảo tàng này đã huỷ bỏ hoạt động này và (vì?) cho rằng nhà khoa học đã đi quá xa trong cuộc tranh cãi.

Liên hoan Ý tưởng tại Bristol cũng huỷ bỏ sự có mặt của ông Watson.

Ông Watson cũng nhận được lời chỉ trích gay gắt từ phía giáo sư Craig Venter, một nhà khoa học và cũng là một doanh nhân đã có những nỗ lực cá nhân trong việc giải mã gen (gien, chuyển âm cho đúng với tiếng Việt) và cũng tình cờ tới thăm Anh để quảng bá một cuốn sách. (Trong 1 câu mà 3 lần cũng!)

Ông Venter nói: “Màu da đại diện cho chủng tộc là một khái niệm xã hội, không phải khoa hoc”.. “Không có cơ sở khoa học nào về việc gen quy định màu da ở người ảnh hưởng tới trí tuệ.”

Trong bài phỏng vấn với tờ Sunday Times, giáo sư Watson giữ nỗi ảm đạm cố hữu về triển vọng của Châu Phi vì “tất cả những chính sách xã hội đều dựa vào việc họ có chung trí tuệ với chúng ta – trong khi các thí nghiệm không cho thấy điều đó”. (ảm đạm là một tĩnh từ, và tôi hiểu thế này: giáo sư Watson giữ sự bi quan cố hữu về…)

Ông còn cho biết thêm ông hi vọng mọi người đều bình đẳng nhưng “có lẽ những người phải đối phó (đối phó cái gì?) với những nhân viên da đen thì đã không tìm thấy điều này”.

Kể từ đó (?, sau đó?) nhà khoa học đã nói “Tôi có thể hiểu được tại sao những người đọc những lời lẽ đó lại phản ứng như vậy”.

“Gửi tới tất cả những người đã hiểu rằng Châu Phi, với tư cách là một châu lục, có phần thấp kém hơn về mặt di truyền, tôi hoàn toàn xin lỗi”.

“Tôi không có ý như vậy. Quan điểm của tôi là, không có cư (cơ?) sở khoa học nào cho việc tin tưởng (như) vậy”.

Nỗ lực khoa học

Trong các lời phát biểu trên tờ The Independent hôm thứ Sáu, giáo sư Watson cố gắng làm trong sạch tình thế (ông ta đi tắm? Chắc không phải thế, có thể là ông ta cố gắng làm minh bạch ý kiến) của mình.

“Chúng ta chưa hiểu rõ cách thức các môi trường khác nhau lựa chọn gen quyết định năng lực làm việc của chúng ta”. (môi trường không thể lựa chọn! Tôi ngầm hiểu rằng thiên nhiên lựa chọn, và câu trên có thể viết như sau: Chúng ta chưa hiểu phương thức lựa chọn gien, điều quyết định năng lực làm việc, trong những môi trường khác nhau.)

“Đây không phải là những thảo luận về việc hơn hay kém mà là để hiểu nguyên nhân của sự khác biệt, rằng tại sao một số người trở thành các nhạc sĩ tài ba trong khi số khác lại trở thành những kỹ sư giỏi”.

Giáo sư Watson là người đã cùng (với ai?) giành giải Nobel năm 1962 vì khám phá cấu trúc DNA.

Gần 40 năm sau, các nhà khoa học đã có thể đọc được tất cả DNA trong tế bào của chúng ta và cho thấy không có cơ sở khoa học nào cho khái niệm chủng tộc.

Con người từ những nhóm chủng tộc khác nhau có thể giống nhau hơn về mặt gen so với những người trong cùng chủng tộc. Các nghiên cứu về gen cũng cho thấy có nhiều đa dạng trong gen của Châu Phi hơn bên ngoài. (… cho thấy gien ở châu Phi đa dạng hơn ở những châu lục khác.)

© 2007 talawas


[1]Tham khảo bài “Mấy vấn đề về văn hoá trong cách xưng hô” trong Tiếng Việt, văn Việt, người Việt của Cao Xuân Hạo (Nxb Trẻ, 2003), trang 315-322, trong đó tác giả chỉ ra cái sắc thái khiêm tốn cùa đại từ nhân xưng tôi, do nghĩa gốc "tôi tớ", nhưng nay đã khá phai mờ. Cũng ở đây, xin trích (trang 320): (Xưng hô kiểu "gia tộc chủ nghĩa")… "đưa đến một không khí gia tộc hoàn toàn nhân tạo trong môi trường không cần đến không khí gia tộc. Thậm chí không thể chấp nhận thứ không khí này, vì nó quá thuận lợi cho chủ nghĩa con cháu (nepotism) và cho những thái độ kẻ cả của người này và thái độ khúm núm nịnh bợ của người kia."
[2]Sách đã dẫn, trang 305-313.
[3]Tiền xấu (giả, rách) đuổi tiền tốt (thật, lành)
[4]"Tiếng Việt: xuống cấp hay hội nhập?", Lao Động, 27-01-2003