28/11/08

Nguyễn Văn Xuân: Nói

Loạt bài: Văn học miền Nam trước 1975


Nguyễn Văn Xuân
Nói

Tôi đọc Văn số 1 (loại Nghiên cứu và Phê bình Văn học) bài “Nói nghĩa là gì?” của Lê Văn Siêu, rất thú. Thú nhất là đọc câu này ở cuối tập “Tác giả bài Nói nghĩa là gì? xin trích tiền nhuận bút để tặng bạn đọc nào tìm thấy một ý nghĩa nào còn quên trong bài là năm mươi đồng một nghĩa”.

Bài tiểu luận ấy chắc tác giả hoài bão đã lâu lắm nên đến bây giờ mới có thể viết ra công phu đến thế. Và ông phải nghĩ là giá có ai tìm ra được nhiều lắm thì cũng năm mười nghĩa nữa là cùng, vì như thế đã mất năm ba trăm bạc rồi. Mà năm ba trăm bạc với một nhà văn Việt Nam trích trong nhuận bút thì cũng đã là cả một vấn đề, đã là một sự “đau xót” rồi, bởi mỗi trang báo viết trọn ngày nhận nhuận bút bao nhiêu mà còn phải cắt xén ra chừng ấy! Tôi cũng chợt nghĩ như ông định bỏ qua. Nhưng vì mấy lúc này cũng có hay nghiên cứu về ngôn ngữ (dù chưa học khoa ngôn ngữ bao giờ) nên táy máy cầm bút định ghi thêm một số chữ chợt hiện ra trong óc cho vui.

Nào ngờ mới cầm bút một lát, tôi không thể nào ghi kịp nữa. Những từ ngữ, thành ngữ, câu ca dao, câu thơ cứ xô đẩy nhau tuôn ra. Thành ra cái ý định ghi cho vui biến thành cái ý định viết hẳn một bài, một bài có lẽ khá dài, một bài mà nếu cố gắng tìm kiếm thêm, tôi chắc cũng không “nghèo” hơn bài của ông Siêu bao nhiêu.

Sở dĩ có sự phong phú đó, sự phong phú “đến vô tận” như ông Siêu nói, ấy là vì vốn có “Một nền văn nghệ miền Nam” trong nền văn nghệ chung của dân tộc, một nền văn nghệ có cá tính, có cội rễ có duyên do phát khởi và đã trưởng thành, nảy nở từ cuộc Nam tiến, chủ yếu là “Ngã rẽ Nguyễn Hoàng” [1] . Đã qua nhiều thế kỷ, đã trở thành một khối lượng, một thế lực, một bản sắc. Vậy thì bài tiểu luận này được viết ra không cốt để góp nghĩa những chữ nói với ông Siêu mà chỉ để phụ hoạ “Nói nghĩa là gì” (đa số là theo nghĩa miền Bắc) bằng một sự thu góp của một người ở một trong những tỉnh mở đầu và đồng thời có nhiều liên hệ mật thiết “tuy hai mà một” với đồng bào, tiếng nói trong Nam [2] . Tôi nhấn mạnh Nền văn nghệ miền Nam còn có ý nhắc tất cả những nhà văn, nhà biên khảo, nhà phê bình, văn học sử miền Bắc khi viết về người miền Nam cần chú ý nhiều thêm về các phương diện phát triển của nền văn nghệ có đặc tính không hoàn toàn giống miền Bắc; đặc biệt là các sáng tác phẩm văn học của nó phải cơ sở trên tâm lý, hoàn cảnh và ngôn ngữ của nó, một thứ ngôn ngữ vừa đương nhiên bao hàm ngôn ngữ miền Bắc vừa phối hợp thu hút ngôn ngữ nhiều dân tộc khác như Chàm, Thượng, Cao Miên v.v… đã trở nên phức tạp và như tôi đã nói trên, phong phú lạ lùng. Nói cách khác, nếu ai muốn biết ngôn ngữ ấy giàu có đến mức độ nào thì chỉ cần căn cứ vào một chữ, một tiếng Nói, thu góp hầu hết [3] những cái nghĩa của tiếng ấy trên 19 trang giấy nơi bài ông Siêu viết trong số Văn 1, chi chít những nghĩa, cộng với những nghĩa mà tôi sắp trình bày sau đây sẽ thấy rõ. Tức là tôi đã bỏ cái nghĩa trên 19 trang giấy ấy (mà tiếng Nói ấy, người miền Nam dùng ít ra đến 8 phần 10) để chỉ viết những trang nặng về tiếng Nói của miền Nam. Cộng cả hai bài ấy lại, bạn đọc sẽ có một bài biên khảo tạm đủ về tiếng nói miền Nam và chỉ là một phần miền Nam, chứ chưa phải đủ cả miền. Mong có một nhà văn miền Nam nào rất sành về tiếng trong Nam, nhất là cực Nam phụ hoạ vào, lúc ấy ta mới dám biết một cách tương đối chắc chắn sự phong phú kỳ diệu về nghĩa chữ Nói đó có khối lượng, có sức biến hoá ra sao. Thật tình, tôi không dám treo giải như ông Siêu, vì tôi không dám ước đoán khả năng tiếng Việt ở những vùng mà chúng ta chưa được sống suốt đời như những đứa con thân yêu từng vùng của đất nước, bám chặt vào tiếng Mẹ với cái vú sữa vô biên, càng già chừng nào, chất cung dưỡng càng tràn trề chừng ấy.

*

Nói nghĩa gì? Tôi không cần định nghĩa, e sẽ dông dài. Có lẽ điều ta cần nên biết là tiếng nói phát xuất từ đâu? Theo quan niệm đồng bào ta xưa có thể do cái miệng, cái lưỡi, cái cuống họng, cái phổi hay cái môi. Bởi thế, cái miệng hay cái mồm khi nói sai, nói bậy, nói nhiều không còn được giữ cái danh từ đẹp đẽ ấy mà biến thành: Cái mỏ, cái mỏ bể, cái mỏ ăn mắm ăn muối, cái ống loa, cái ống nhổ, theo thời đại tân tiến, nó còn hoá cái “máy phát thanh”, cái ra-dô, cái còi hú. Rồi cái lưỡi thì “lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”, “có miệng mà không có lưỡi”. Cái cuống họng, cái phổi thì “bán phổi”, “nói bể phổi”, “nói cháy cuống họng”. Cái môi thì hé môi, hở môi và cái môi hình như chỉ dùng… cho phụ nữ.

Những động từ về nói do đó cũng tùy trường hợp mà thay đổi. Vì chữ nói chỉ dùng cho trường hợp phát thanh thanh bình, có ý nghĩa nào đó. Chứ khi nói quá bậy, quá to, quá liều lĩnh thì nó biến thành mửa (thôi đừng mửa bậy ra, ngậm miệng lại), xổ (xổ chữ, xổ nho), hoặc bị súc vật hoá, một phương pháp thường dùng trong văn chương Việt Nam, như khi muốn hạ ai, người ta mượn: sủa (thằng ấy còn sủa dai nhách) rống (chồng: Rống vừa chứ, khuya rồi), gáy (thính giả: Ông diễn giả ơi, gáy thế là vừa), hót (Hót cả buổi sáng, chưa đủ à!). Và còn những nói như ếch kêu, nói như cóc kêu (nghiến hai hàm răng mà nói), nói như cú mổ (ăn nói độc địa).

Tiếng nói khi bị nhìn một cách hờn giận, ghét bỏ, chống đối cũng biến thành tiếng la, ré, hò, hét, thét, hô hoán, đánh hống. Chẳng hạn, người vợ có thể bảo chồng ngay khi chồng ghen, nhưng nói rất nhỏ: “Ông la lên để cho hàng xóm biết mà chạy đến xem à? Sao không thét lên luôn đi!” hay “Muốn cho mẹ nghe, mẹ đánh chị, tôi “đánh hống” lên bây chừ”.

*

Nói là lối tự động, thường do mình phát ra theo sở thích, ý muốn bày tỏ, hy vọng, nhưng cũng có khi bị một mệnh lệnh sai khiến. Sự sai khiến ấy tùy trường hợp hoàn cảnh mà tỏ nên lời:

Khi cha mẹ dặn con thì bảo “chớ nói” như thế lại khác hẳn khi đứa con quả quyết đối kháng: Con sẽ nói chớ. Khi người cảnh sát, công an viên tra kẻ có lỗi có tội thì: Hãy nói, phải nói, đừng nói bậy! Nói lẹ! Nói mau không đánh bể đầu! Nói gấp! Nói liền! Nói liền tay! Có nói không? Ráng nói, gắng nói, nên nói, đáng nói. Đáng ra phải nói. Lẽ ra phải nói. Chán nói chưa?

Kẻ nói thường có thái độ ngoẹo đầu, quay cổ, hoa chân múa tay, chống nạnh, lắc đầ. Đó là những:

Cái hạnh nói con mẹ ấy, tôi ghét lạ. Cái cách nói, cái lối nói, cái bộ nói, chưa nghe xong đã muốn đánh lộn, thằng cha nói như đóng tuồng, nói như hát, con mẹ đó nói như đóng kịch. Cái điệu nói sao mà dễ “hét” quá! Mới nghe đã muốn thương rồi, cái kiểu nói như con nhà quan, tiếng nói nghe như quen quen!

*

Nói là một điều khó. Thành ra người ta phải học ăn học nói, học gói học ghém, chứ đâu phải nói lấy được thế nào xong thì thôi. Chính vì quen và không quen nói, hoặc gặp hoàn cảnh khó dễ xử, hoặc vì đối tượng mà:

Nói mau, nói chậm, nói xuôi (chứ không phải xuôi theo, xuôi ro), nói lầy nhầy cả giờ, nói gì cho rõ ràng, sao cứ nói lằng nhằng chẳng hiểu gì cả! Nói cái vụt, nói vùn vụt, nói không ngớt, nói không nghỉ miệng, nói nhát gừng, nói bai bải, nói lụp chụp, nói tất bật, nói cà bật cà bưởi, nói lua lua như sợ ai cướp lời, con trai gì mà ăn nói rù rờ, thằng ấy nói không vấp, nói như bắp rang, nói không mỏi họng từ sáng đến chừ! Mới đến làm rể nên còn sợ, ăn nói lụp chụp, khiến mất lòng ông gia. Khó nói (theo văn chương là “khôn nói nên lời”), khó nói (không thể nói vì có những uẩn khúc) thì thành ngữ này đừng lộn với nói khó (vì cuống họng chưa thành thục). Nói không kịp nghe, nói sấn tới đi, nó sắp thua rồi đó! Nói cụt ngủn, nói gọn lỏn, nghe qua chẳng hiểu gì cả, ăn nói láu táu vừa mau vừa vô phép. Nói lúng túng trong miệng như vừa ngậm kẹo vừa nói. Nói đốp đốp như bắn súng, ai mà nghe cho kịp. Nói huyên thiên bạ đâu nói đó: Nói cù cưa hoài, không dứt khoát cái gì ra cái gì cả, nói liền liền không để ai kịp nói. Trẻ con nói rân ngoài kia, ra dẹp chúng nó đi!

Vì có những cách nói như thế mà người ta chán nói, ngán nói, hết muốn nói, hết chỗ nói, chớm nói (mới mở miệng), định nói rồi thôi, dợm nói mấy lần mà không nói được. Hoặc thích nói, ưng nói, nói say, nói như say máu ngà (một thứ cảm giác bàng hoàng như có chất men rượu, lôi kéo người ta đi trong lời nói). Biết rồi khổ lắm, nói mãi! (Vũ Trọng Phụng).

*

Người Việt là những kẻ xây dựng. Càng vào miền Nam mở rộng đất đai, cái tài xây dựng càng thấy rõ ràng. Vậy mà không hiểu tại sao trong thành ngữ của miền Nam, những tiếng đi với nói có tính cách yêu thương, giúp đỡ, giáo hoá, bao dung, rộng lượng có rất ít, phải tìm kiếm khó khăn lắm. Phải chăng dân tộc ta, kể cả miền Bắc, rất thông minh dạn ăn dạn nói, dạn miệng dạng mồm, khéo ăn khéo nói, nói dẽo nhẹo cái miệng, nói ngon nói ngọt là thế, mà căn bản vẫn là dân tộc hay cả thẹn. Sự cả thẹn đó có lẽ duyên do vì đời sống xã hội rất ít, gần như chỉ rút trong những lúc hội hè, đình đám. Còn những cuộc giao tiếp khác giữa những bạn bè, những người chung nghề nghiệp, những người đồng học, tinh thần “công cộng” không được gắn bó vững vàng bằng một tổ chức nào cả, còn tinh thần cá nhân, gia đình bao trùm mọi hành vi nên lấn át hết. Đã thế trong xã hội nông nghiệp lạc hậu sự tranh giành với nhau từng tấc đất, từng miếng thịt giữa làng, từng cây cột chèo, từng chút quyền lợi cỏn con giữa đàn ông (nông dân, đánh cá, thợ thuyền), sự tranh giành trong việc mua bán giữa đàn bà có thể diễn ra hằng ngày. Sự cả thẹn vì không quen thảo luận bàn cãi thường khiến người ta có những phản ứng không hay. Đàn ông gặp những trường hợp ấy họ chỉ nói nặng nói nhẹ, nói xỏ nói xiên, nói qua nói lại, nói tới nói lui, cũng có trường hợp xảy ra nói hung nói dữ, rồi thượng cẳng chân hạ cẳng tay. Để chờ có ai nói giải hòa, nói phải không nhất là gặp hạng ăn nói biết điều thì cũng dễ dàn xếp. Chứ như đàn bà mà gặp phải hạng ăn nói hung hãn, ăn nói chua ngoa, nói như cú kêu, nói như cối xay cùn, nói không kể trời đất gì thì thật khó xử. Có khi chỉ vì một con cá, ban đầu là nói chơi rồi nói chơi thành thật, thế là nói chẹn, nói chận họng, nói đá, nói móc, thêm những kẻ bàng quang nói xía vô mấy câu, đổ dầu đổ lửa ra, thế là tá hỏa tam tinh. Thế là nói giành nói giật, nói không cần nghĩ, nói phong phóc, nói tưới hột sen, nói hỗn nói hào, nói không sợ trời đánh thánh vật. Những kẻ đứng ngoài càng nói châm nói chọc, nói chọc tức, nói phá đám, là các bà ở trong cứ thao thao bất tuyệt. Họ nói như điên, nói cho hả hơi, nói cho đã nư, nói cho hả giận, nói cho bớt xốn xang. Nhiều khi người ta đã về hết mà một mình đứng lại còn nói oang oang, nói có cô bác làm chứng, nói có quỷ thần trên đầu trên cổ, đứa nào nói gian cho nó hộc máu. Tới khi chỉ còn một mình vẫn nói lẩm bẩm, nói thì thầm, nói như con mẹ khùng. Về nhà chồng hỏi làm sao. Tức thì cơn giận lại nổi lên. Gặp anh chồng cộc (vợ chồng không quen bàn luận gì) ít ăn, ít nói, lầm lầm lì lì. Thấy vợ cứ nói sa đà, nói lải nhãi mãi, mất ngủ, đâm ra tức. Thế là nổi lên: “Tại sao mi không biết nói lại? Cái mỏ để ở đâu? Chỉ biết khôn nhà dại chợ”. – Rồi thì những: đồ nói ngu như bò, nói như chó, nói với chó chớ nói với tau như rứa à? Tôi có nói đâu? Chó nói (đổi hẩn chủ từ của vợ). Nói rứa Chó cũng không nghe được. Nói kiểu ông nội người ta, ai mà chịu cho được. Tức như rứa thì Phật trên bàn cũng phải nói, nữa là người. Thế rồi cứ kéo dài cái chuyện nói phải nói không, nói dông nói dài, nói tài nói giỏi, nói mỏi miệng khan hơi. Kết thúc bằng vài cú đấm, vài tiếng kêu thất thanh… rồi đi ngủ, giữa khuya chồng còn nghe vợ nói mớ.

Trong gia đình Việt Nam sự sống chung rất cần thiết cho hoàn cảnh nông nghiệp thiếu phương tiện sản xuất. Chế độ đại gia đình bắt nguồn từ sự cần thiết phải hợp tác giữa những người tin cậy lẫn nhau để giúp công, giúp sức với nhau. Bên Trung Hoa những Lưu gia thôn, Trương gia trang, với những giai thoại “chín đời không rời nhau ra” kiểu Trương Công Nghệ. Bên ta, không hẳn ở chung một nhà lớn khi con cái đã có vợ chồng và bầy trẻ dại, như các Thân, Loan (Đoạn tuyệt) với kiểu đại gia đình giàu có. Nhưng cha mẹ cũng thường tìm quanh quất trong vườn, trong xóm gần gũi, cho con cái lập nhà cửa để sự giúp đỡ đó được hiệu quả và liên tục. Cả cha mẹ lẫn con cái đều thấy vì quyền lợi vật chất lẫn tinh thần mà phải ở chung, hoặc ở gần gũi với nhau. Nhưng chính sự chung đụng “giữa đàn bà với nhau” mà hay sinh sự. Điều ấy cũng dễ hiểu. Đàn bà thường lo ăn uống, cắt xếp nên thấy quyền lợi rất cụ thể, rất rõ ràng lại không được chế độ cho phép tiếp xúc bên ngoài, nên tư tưởng, tình cảm thường khuôn theo những quyền lợi nhỏ mọn của mình. Do lẽ đó mà chị em dâu, bà gia mặc sức mà tiếng bấc tiếng chì, nói nặng nói nhẹ, nói gần nói xa, nói nên nói hư, nói chùng nói lén, nói úp nói mở, nói hùa (theo), nói kháy, nói theo, nói dìm, nói chọc tức, nói hàng hai, nói gạt, nói ba phải, nói giỡn không ra giỡn thiệt không ra thiệt, nói khống (biến âm của không), nói khống nguyền, nói lừa, nói phỉnh, nói xuôi theo, nói châm chọc, nói đẩy đưa, nói khích nói bác, nói lấp liếm, nói đổng, nói trống không, nói vu vơ, nói hành (nói trộm những điều xấu, một từ ngữ rất thịnh hành).

Đó là lúc còn ở chung, chứ khi đã ra riêng rồi, cái thế lực bà gia đã bớt, thì lời nói cũng có phần cứng cựa hơn. Dám nói cứng hơn. Bây giờ mà gặp phải cô dâu dữ, cô cũng dám nhiều lúc quay về phía các em chồng trong nhà bà gia mà nói cượng (chứ không phải nói gượng vì cô tự cho mình cứng lý chứ không phải đuối lý). Nói ác lỗ miệng, nói xấu hổ, nói đổ sông đổ biển, nói mang tội với trời chứ tôi đã cực khổ, đã đau đã xót, đã tốn kém, đã làm thân tôi mọi mà họ còn mần ri, mần rưa v.v… Họ chỉ nói dẽ cái lỗ miệng, họ ăn sàm nói sỡ, họ nói cho tan gia bại sản tôi, tôi phải nói bật, nói trớt, nói tuốt mi da ghè, cho ai muốn hiểu thì hiểu. Tôi phải nói cho đã miệng, chớ không dại chi mà giữ ấm ức trong bụng nữa. Tôi nói cho những ai nói trước quên sau, nói đứng dựng ngược, nói điêu nói ngoa, nói rắn nói rồng, cho họ biết là “nói dối lòi đuôi”, họ phải nghe “nói để vào tai” mà ngẫm nghĩ, cho họ không thể nói ngang như bứa, nói sóng nói gió gì thì tự do mà nói. Tôi nói để cho những ai mang gươm mang dao trong bụng mà miệng nói ngọt như mía lát, cái chi nói (cũng) xuôi ro, mới nghe tưởng sớt cửa sớt nhà mà nham hiểm không ai bằng khiến họ phải xấu hổ. Tôi đâu có phải hạng “thở ra khói nói ra lửa”, tôi nhắc lại những chuyện ni thiệt là cười ra nước mắt. Tôi cũng biết người đời có câu tục là me nói oan, quan nói hiếp, chồng có nghiệp nói thừa”, nhưng mà oan quá, hiếp quá, thừa quá thì tới lúc còn ai mà nhẫn nhục. Lúc đó trời cấm cũng cứ nói.

Anh chồng của chị có tiếng là “nói như đinh đóng”, “nói như đinh đóng cột”, “nói như chặt đinh”, “nói như chém gạch”, “nói như rìu chém xuống đá rạ chém xuống đất” chứ không phải hạng nói như tép nhảy, mở miệng nói (là) sợ động thời văn, thật là hạng miệng nói có gang có thép, thế mà từ đằng xa định về nhà, nghe tiếng vợ với các em nặng lời với nhau qua không gian, cũng đành ngậm ngùi chân bước. Bênh vợ, bênh em đều mang tiếng, sợ thiên hạ nói. Mà vợ và em đều nói quá (tức nói quá nhiều, nói quá đáng, nói quá lời, tùy trường hợp mà hiểu nghĩa) như thế thì tình trạng bất hòa biết bao giờ cho hết, nói không còn chỗ vớt vát, mạnh ai nấy nói, nói hoài nói hủy, nói rồi lại nói, thật ngán hết chỗ nói.

Bạn hỏi đi đâu? Anh nói tỉnh là đi mượn vào món đồ. Rồi anh nhìn bạn dạy một thằng bé con nói chưa thành tiếng, chưa nên lời, vừa nói đớt (như lưỡi hụt) vừa nói chớt (nói không rõ tiếng), phải ăn nói đàng hoàng. Trẻ con cần nhất “Biết thì thưa thốt, không biết dựa cột mà nghe”. Anh dạy cho đứa lớn, một cô gái đừng nói hớt người lớn, đừng nói cướp lời, đừng nói thiên thẹo, đừng ăn gian nói dối, đừng nói khít hai hàm răng, đừng nói chọc tức, đừng nói dưa, nói đẩy đưa, nói bóng gió, nói lấy chừng, nói kiểu hàng tôm hàng cá. Phải thuộc câu thơ rất quen thuộc trong bản về Tam Khôi mà con gái thường thuộc lòng:

Khi ăn khi nói chững chàng
Khi ngồi khi đứng bẽ bàng dung nghi.

Anh cũng lại dạy con biết nói nhỏ nhẻ, nói tỉ tê, nói thủ thỉ, nói vớt. Gặp gia đình ai có đám nào đi hỏi mà con gái không ưng thì nên nói giúp, nói giùm (nói hộ), nói cho, nói vào (tức là nói, bàn những điều có lợi, cho nên việc, đừng phá đám – khác với câu bàn ra nói vào là dư luận phân vân) đừng nói ra (phá hoại), đừng nói thập ngộ (những điều bất ngờ có hại). Nếu có dịp sẽ nói đừng nói lãng nhách nói lạt thách. (Tiếng Bắc: Nhạt thếch; Trung: lạc thách; Nam: lạt nhách).

Thằng em trai thì anh dạy đừng nói xỏ xiên, nói cà đai (kéo dài), nói xỏ lá, nói ba que, nói lung tung, nói tùm lum tùa lua (không ra ngô ra khoai gì), nói cà riềng cà tỏi (kéo dài không đến đâu), nghệ sĩ khoả lấp, nói cho bằng được (không kiêng nể, không ngần ngại), nói liều mạng, nói trù trừ (nói lưỡng lự, không dứt khoát), nói bắt quờ (không rõ điều chính, điều quan trọng, gặp ý gì mới nghe thì nói theo), nói chận họng, nói lẫn lộn, nói lúng túng, nói gàn bướng, nói sai bét, nói lấp liếm (vì sai, phải nói cái gì đó để giữ thể diện), nói lạc đề, nói trêu gan (chọc tức ai) nói xạo, nói ba xạo, nói tránh trớ (nói ra khỏi điều chính với dụng ý khỏi làm việc), nói tránh (nói chệch để khỏi phạm điều không nên nói, như tên ông bà kỵ nói, phải nói Mạng ra Mệnh), nói xí xoá (nói chữa thẹn, nói cho quên việc nào đó), nói qua quít, nói hoạ may (may thì trúng, rủi thì trật, nhưng đã trúng), nói khoả lấp, nói xách mé, nói cà gật (nói không nghĩa lý gì, không chú tâm như kẻ ngái ngủ, gât gù), nói ba trợn ba nháng (không ra đâu vào đâu cả). Đừng có nói hoảng (vì hoảng sợ, bịa đặt), nói áp nạp (nói ép, nói buộc, nói mạnh khiến kẻ khác phải thua), nói trạng (nói tài giỏi, đừng lộn với trạng nói thường cũng có nghĩa là tay chỉ quen nói tài nói giỏi). Cần nhất là nói đằng thằng (có lễ độ, rõ ràng), nói cho cặn kẽ hay nói cho có kẽ có còi, nói có thứ có lớp, nói có lớp có lang, nói có trước sau, nói có nghĩ trước nghĩ sau (đừng lộn nói trước và nói sau), nói tách bạch rõ ràng, nói có văn vẻ, nói có cân nhắc. Cấm không được đụng đâu nói đó, không được nói tréo cuống họng, nói trật bản họng, nói đâm họng, nói móc gan móc ruột, nói độc địa, nói cho tức hộc máu, nói cho trào cơm người ta ra. Vậy thì nói là cốt cho rõ sự lý, chứ không phải nói gỡ rạc, nói xả hơi. Kỵ nhất là đừng lên giọng bề trên mà nói trịch thượng, nói dằn mặt, nói dạy đời, nói cù cao (cố vươn lên địa vị cao, ở trên), ăn nói trống trải (vô lễ, thiếu kín đáo, không nói rào đón), nói trù (tức hại ngầm người ta, không cho khá lên nổi, thường đi đôi với nói ếm), nói dặm (nói thêm một hai tiếng khi kẻ khác dứt câu, chứ chưa phải nói chêm là họ đang nói thì xía vô một hai tiếng) hoặc nói thêm là việc ít nói xít ra nhiều. Nhất là đừng nói trước (Tôi sẽ đỗ đầu kỳ này! Tôi nói trước). Cũng đừng nói thụi (nói theo có tính xu nịnh), nói sau (nói tỏ ra tài giỏi khi việc đã xong rồi như “thầy bói nói sau”, ai nói mà không được), nói vừa (tức là chỉ nói theo bụng kẻ khác: hoặc nói chừng chừng, ai cũng biết):

Bói xem một quẻ trong nhà
Chuồng heo ở dưới chuồng gà ở trên.

Cũng như nhà báo nói láo ăn tiền, lối nói ấy là nói lấy tiền gần những lối nói dè chừng, nói bắt quớ, nói dựa, nói cầu may, nói gợi ý, nói bất mánh (tức là liệu chứng sự phản ứng của kẻ đối thoại, rồi theo đó mà đoán già đoán non, đừng lầm với nói mánh nói khóe, nói có ý điêu ngoa gian giảo cũng không phải nói cạnh nói khóe là nói trêu gan bằng những cái xấu của người ta một cách gián tiếp. Cuối cùng là đừng ngồi nói lối suốt ngày (nói lối đây không phải dùng lối văn vần theo lệ thường mà chỉ có nghĩa là nói chuyện lung tung, say sưa, không làm gì cả).

Đã nói đến nói nhiều thì không thể không nói tới ăn. Người Việt Nam thường bảo: “Có tài ăn nói”, “Ăn nói giỏi”, “Ăn nói cừ khôi”, tay ăn nói ở vùng này đấy. Theo lối phát ngôn tự do bây giờ thì “một cây ăn nói” đó. Phàm ở đời hễ “có miệng ăn thì phải có miệng nói”, hễ những ai “ăn không nên đọi nói không nên lời” đều đáng chê trách cả.

Vậy thì có bao nhiêu câu mà ăn đi với nói?

Trước hết là chê hạng người muốn nói gì thì nói:

Ăn nói cẩu thả.
Ăn nói lộn xộn.
Ăn không nói có.
Bạ ăn bạ nói.
Ăn nói quàng xiên.
Ăn nói đĩ bợm.

Hạng người nay nói có, mai nói không, không nhất trí:

Ăn ngược nói ngạo.
Ăn nói phản phúc.
Ăn nói ngỗ nghịch.

Trái lại là hạng:

Ăn ngay nói thật.
Ăn to nói lớn.

Đôi khi cha mẹ dạy con đừng:

Ăn sóng nói gió.
Ăn chả nói chớt.

Và nên:

Ăn bớt bát nói bớt lời.

Tuyệt vời là lối giải thích những cách ăn nói đó mà chẳng giải thích gì cả, song lại chính là sự giải thích kỳ thú của bình dân:

Ăn ốc nói mò, ăn măng nói mọc.
Ăn cò nói leo.

Ăn đã thú mà nói trong lúc ăn thì còn gì thú cho bằng. Cho nên “Học ăn học nói” là điều các bậc trưởng thượng vẫn dạy con cháu để chúng ăn có nhai, nói có nghĩ, dám ăn dám nói, mạnh ăn mạnh nói để khi gặp sự tranh đua, gia đình khỏi lâm cảnh “mạnh miệng ăn, sưa miệng nói” [4] .

Cái miệng dùng để nói, để ăn và cũng để cười, cho nên có nói cười, cười nói:

Nói cười hỉ hả.
Nói cười hả hê.

(Khóc) hay: Nói hổ ngươi, cười ra nước mắt.

Những ai chưa nói đã cười,
Chưa đi đã chạy là người vô duyên.

Nói đi với cười thì cũng đi với thề:

Xưa kia nói nói thề thề,
Bây giờ bẻ khoá, trao chìa cho ai?

*

Nói cũng như một hoạt động cơ thể khác cũng có bệnh. Cái bệnh đầu tiên và trào phúng là bệnh hay nói. Nhưng nó cũng có bệnh thật như ta đã biết của trẻ con (đớt, chớt) và những thứ bệnh khác như bệnh nói cà lăm, một thứ bệnh mà người nói cứ gân cổ ra nói tiếng cứ lặp nhau, khó thành câu trọn vẹn (Tôi tôi… chưa chưa… ăn ăn). Nói ngọng là nói sai hẳn một số tiếng nào đó, chưa sửa được, do một thói quen lúc nhỏ hay do cuống họng (chữ đ nói không được) đi đâu: i âu; cái chuông: ái uông. Nói liệu là lối nói lạ nhất thường có ít bà mắc phải. Tức là nói luôn một hơi những tiếng rất thô tục hoặc một số tiếng nào đó. Đèn, dèn, dèn, đèn, đèn, đèn. Đèn đèn, địt địt, ỉa ỉa… mãi một lúc lâu rồi mới nói được cái điều muốn nói mà khi nói được lại trơn tuột. (Đừng lộn lối nói này với lối nói líu (líu lưỡi, lưỡi dính lại nói khó khăn). Nói lảng là nói không đúng vào vấn đề, thường do bệnh hoạn hay tinh thần sút kem khiến nói ra ngoài điều muốn nói, hoặc bỗng dưng không ai hỏi mà nói. Nói sảng là do một cơn bệnh, nhất là trẻ con khi bị sốt nhẹ thì nói mê, nặng quá thì phát nói liên miên, sợ hãi, cũng gọi mê sảng (đừng lầm nói hoảng trên kia, là tự nhiên bị bí, không biết nói gì đặt bậy ra mà nói cho qua việc, để đỡ đòn, nhất là ở các phòng tra tấn). Nói lẫn là lối nói của các ông già, quá già nói điều này lầm sang điều nọ vì trí nhớ bị kém, bị suy nhược (có hơi giống nói lảng và người ta cũng bảo “Cụ tôi bây giờ lẫn rồi nên hay nói lảng”). Thật xa hẳn cái thời mới bể tiếng nói hay bể giọng tức có giọng khàn khàn của bọn thiếu niên đang chẳng trong cơ thể để lớn vội (khoảng 14, 15 tuổi). Nói mớ nói trên kia tuy rât thường, nhưng đối với một số người cũng là một thứ bệnh vì mớ to mà mớ suốt đếm thường vẫn bị gọi là “kéo gỗ” ban đêm.

Những bệnh nói trên có liên quan đến các bổn phận trong họng, trong lưỡi, khiến cho khi nhắc đến nói người ta không quên giọng nói. Giọng đây không phải giọng Huế hay Hà Nội, mà chỉ là lối gọi tổng quát cách phát âm theo một cung bực, một màu sắc hoặc cũng chính là kiểu nói, cách nói không chừng đỗi.

Chẳng hạn nói giọng mãi là thứ giọng như hai cánh mũi bị ép lại (giọng Tây, giọng đầm, giọng lai). Nhưng khi nói giọng lên, hay lên giọng, tức đổi cách nói, đổi thái độ, nói hạ giọng, xuống giọng tức bỏ lối trịch thượng mà giữ lối cầu xin, nói giọng du côn, nói giọng ba rọi, nói giọng chó má, nói giọng mẹ rượt đều là những lối nói của hạng bất trị. Nhưng nói giọng lại cái, là của hạng nói không ra đàn ông không ra đàn bà rất khó nghe, hoặc nói giọng đực rựa là giọng đàn bà mà nghe như đàn ông.

*

Đã có giọng khi lên xuống bổng trầm, tức là có ca hát. Căn bản của mọi Văn nghệ miền Nam là Nói và trình diễn [5] : Vì dân miền Nam khi vào đây là để hành động chứ không phải để suy tư, để sản xuất, chiến đấu, mở mang, khai thác… mãi cho đến thời Gia Long trở lại việc học mới thành kỷ cương. Suốt mấy thế kỷ ấy mọi hoạt động văn nghệ đều lấy đối tượng là quần chúng, không vụ độc giả mà vụ khán giả thính giả nên tất cả đều dựa vào lối nói, lối kể, lối đọc, lối hát, lối trình diễn làm căn bản. Bởi vậy nên miền Nam gọi nói thơ, nói về, nói tuồng, nói truyện, nói tiếu lâm, là vì lẽ bao giờ cũng có người ngòi kể cho kẻ khác nghe bằng cách này hay cách khác. Nói thơ (có khi gọi nói truyện) là lối đọc những quyển bằng lục bát, với một giọng ngân nga hơi khác nói vè một chút vì giọng vè thường có tính cách thời sự, văn viết theo lối nói lối, ngắn giọng và linh hoạt (trừ vè dài, bằng lục bát như truyện thì không kể). Nói tuồng là một lối hát bộ thu gọn vào một (hay năm ba người) ngồi trước cái trống chầu, vừa ca hát vừa làm bộ tịch. Nói tiếu lâm là nói những “chuyện hoang” để cười. Cũng như nông dân các nước, dân ta rất thích cái cười thoải mái, tự do, cười bằng thích, cười bò lăn, bò càng ra đó.

*

Nói cũng bị ảnh hưởng từng thời kỳ tiếp xúc của lịch sử. Nhưng cứ xem như trên kia thì thấy rõ ràng Nói, ít dùng ngoại ngữ bằng Viết. Nói cách khác là dân chúng khi nói, giao thiệp, tiếp xúc đã tìm hết các cách để diễn tả rất gọn những điều cần diễn tả, một cách thông minh, đầy đủ mà những nhà trí thức khi viết cả khi nói, đã không cố gắng đến mức tối đa để đặt ra những tiếng cần thiết đó. Chỉ quen vay mượn rồi bằng lòng với sự vay mượn đó, lâu ngày thành một thói tục đến nay vẫn chưa bỏ. Điều thật lạ lùng! Một nhà văn sĩ Việt, chuyên viết tiếng Pháp là ông Phạm Duy Khiêm vẫn quả quyết là tiếng ta chỉ có tiếng cụ thể, không có tiếng trừu tượng bao nhiêu, do đó khi dùng tiếng trừu tượng phải mượn của Trung Hoa. Nếu nói dân ta không đủ tiếng trừu tượng phải mượn của Trung Hoa thì hầu hết những tiếng Nói trong bài ông Siêu và bài trên đây của tôi là tiếng cụ thể hay sao? Không cần nhìn đâu xa, qua các bệnh Nói mà tôi trình bày trên kia như nói ngọng, nói liệu, nói hoảng, nói lẫn, nói mớ, nói mê, nói sảng… là tiếng trừu tượng hay cụ thể? Tôi nghĩ là chỉ khi viết mới cần nhiều tiếng trừu tượng Trung Hoa đến thế. Chứ như viết tiểu thuyết là môn sở trường của ông Khiêm mà bảo phải dùng nhiều tiếng trừu tượng thì tôi tưởng đó là trừu tượng của ta, tiếng trừu tượng của quần chúng nhân dân vì tiểu thuyết chính là thể hiện cuộc sống đó. Nhưng bởi ít tiếp xúc với dân chúng, ít có dịp sống lâu trên đất nước, ông không được cơ hội thu nạp thật nhiều những tiếng đó nên ông có cảm tưởng lầm lạc trên, một cảm tưởng đã làm cho trí thức Việt Nam phẫn nộ một thời.

Thật ra, trong khi nói, không phải đồng bào ta không chịu thu nạp chút nào của người ngoại quốc, nhất là những nước có quan hệ trực tiếp với ta. Nhưng xét ra, số ấy vẫn rất ít so với sự sáng tạo của quần chúng.

Chẳng hạn chịu ảnh hưởng Hán học:

Nói đại, nói lý, nói lý sự, đại xạo, xàm ngôn, phét ngôn, xin ngôn rằng (kiểu nhật báo)… Tiếng Trung Hoa thuần túy thì: đại ngôn, đàm thoại, đối thoại, độc thoại, phát ngôn, phát biểu.

Những tiếng phát biểu là tiếng hay dùng nhất thời kháng chiến đi đôi với chữ xin nói [6] , có thể dùng bất cứ giờ phút nào. Thời ấy cũng có câu tục ngữ này rất thịnh hành:

Muốn sang làm hành chính.
Muốn đánh làm công an.
Muốn lang thang làm tình báo.
Muốn nói láo làm thông tin.

Chịu ảnh hưởng khi theo văn học Pháp, có một số tiếng nay rất được dùng để đùa như đía, đía ba son, đía sanh tử, nói xí lô xí là, nói phân-xi-lô, nói tiếng Tây (nghĩa là nói những gì không hiểu gì hết như thời K.C. người ta nói: Cô ấy 18 tuổi Đông Dương (bạc Đông Dương so bạc kháng chiến rất cao giá, ý nói muốn nói bớt tuổi, hay như bây giờ màu áo chiêu đãi viên là màu xanh đậm mà tươi) nói tiếng Tây bây giờ còn rất hay dùng. Ngoài ra, lối dùng theo phương pháp của Pháp để diễn đạt ý cũng nhiều: Tổng thống nói (không rõ chữ này dịch từ dire (Pháp) hay viết của Tàu) phim nói, nói cho đúng ra, nói vắn tắt, nói rút lại, nói cách khác, nói riêng, nói chung, chính danh mà nói, nói rộng nói hẹp, nói với ác ý, nói bằng mắt [7] .

Trong lối dịch tiếng Pháp này, có lẽ câu dịch sau đây của Hoàng Đạo là thú vị nhất (nguyên văn: Parlez moi d’amour, parlez moi des choses tendres) và ông đã dịch trong một truyện dài trào phúng:

Hãy nói với anh cái ái tình
Lại nói với anh những cái đồ mềm (!).

Viết tới đây, tôi sực nhớ một giai thoại mà Tế Hanh, một nhà thơ có lần từng kể cho tôi: - Buồn cười là khi tôi (lời T.H.) đề tựa cho tập Luật hỏi ngã của Nguyễn Đình, tôi bỗng chợt nhận ra cái gì, cậu biết không? Là phần ngoại lệ nhiều hơn phần chính”. Tôi không rõ nhà thơ Quảng Ngãi đùa hay thật. Nhưng cũng vì giai thoại đó mà tôi phải vội dừng lại ở đây. Vì tôi ngại lỡ kẻo bài viết của tôi (dù muốn dù không bài của tôi cũng là để đáp ứng và phụ hoạ phần chính trong bài ông Siêu) dài hơn bài của ông Siêu thì chẳng hoá ra… phần ngoại lệ lại dài hơn phần chính hay sao? Mà bản thảo của tôi đã đến trang 24 rồi! Không khéo lại có nói bô bô, nói không sợ mất lòng: Cái thằng cha “Quảng Nam hay cãi” quen thói “ăn một cục, nói một hòn” này, cứ nói cà trật cà hót không ra ngô, ra khoai gì mà lại nói dai nhách.


[1]Xin xem “Khi đám lưu dân trở lại” đăng ở Bách Khoa.
[2]Nói thế tức tôi không nhận tiền nhuận bút của ông Siêu. Tôi chỉ nhận nhuận bút của Văn như cộng sự viên của tạp chí.
[3]Tôi nói hầu hết, vì có một số chữ ông Siêu lấy ở tiếng trong Nam, nhưng chỉ là số rất ít.
[4]Nguyễn Du cũng là một tay ăn nói, trong truyện Kiều, giở ra phần nào cũng có thể tìm nhiều câu rất thú vị: “Những nghe nói đã lạ lùng”, “Ra vào một mực nói cười như không”.
Cho nên hễ có ăn nói, tất không thể quên nhà thơ thiên tài ấy mà các câu sau đây hình như đã đi vào tục ngữ:
Nói lời rồi lại ăn lời được ngay.
Khi ăn khi nói nhỡ nhàng.
Ăn làm sao nói làm sao bây giờ.
[5]Xem Bách Khoa: “Khi đám lưu dân trở lại”, Nguyễn Văn Xuân
[6]Vì có sự xin nói, rồi nói quá nhiều, nói quá dài, nên thường chủ tọa phải “tôi xin cắt”, tôi “xin cắt đứt”. Về sau, ở Mộ Đức, Quảng Ngãi có người đàn bà cắt mất vật quý của chồng nên ở Liên khu V trong những cuộc mạn đàm, những tiếng xin cắt đứt hoá thành “xin Mộ Đức”.
[7]Cũng nên nhắc hai câu thơ của Xuân Diệu:
Em phải nói, phải nói và phải nói
Bằng lời môi, nơi cuối mắt, đầu mày.
.....................
Nguồn: Tạp chí Văn, Nghiên cứu và Phê bình văn học, năm thứ nhất, đệ tam tam cá nguyệt 1967, tập 3, trích từ trang 7 đến trang 21. Chi phiếu, bưu phiếu đề tên ông Nguyễn Đình Vượng. Thư từ, bản thảo, ấn phẩm đề tên ông Trần Phong Giao. Giao thiệp trực tiếp về mọi việc xin hỏi ông Gia Tuấn. Số 38, Phạm Ngũ Lão, Sài Gòn. Điện thoại: 23.595. K.D. số 1194 ngày 26-6-1967. Giá 30 đồng. Bản điện tử do talawas thực hiện.

Lê Văn Siêu : Nói nghĩa là gì?

Lê Văn Siêu
Nói nghĩa là gì?

NÓI là diễn tình ý của mình bằng những tiếng từ miệng ra, là vạch trần mưu định và tình ý của người. Nói còn là khai ra sự thực: Việc xảy ra thế nào hãy nói ra như thế; là dạy bảo: Giời có nói gì đâu! nói gì đâu! là đoán quẻ: Ông thầy bói này nói hay lắm; là ra giá: Nói giá cao quá; là cãi cọ: Kẻ nói người nghe; là mắng nhiếc: Tôi mới nói cho một trận nên thân nhé.

Gom gọn lại, thì nói là cái cách dùng những lời như những phương tiện để diễn tình và ý của mình, trong cuộc sống. Nó là đầu mối sự gián tiếp giữa người nọ với người kia. Nó còn là dấu hiệu của sự sống nữa như hơi thở vậy. Người còn lẩm bẩm nói một mình được, hay đã chẳng nói chẳng rằng gì nữa rồi, nhưng còn nói thầm trong bụng để mình tự nhận biết được, thì người ấy vẫn còn sống. Chỉ khi nào hết nói, hết tri giác, hết thở và tim ngừng đập, thì người ấy mới thật là hai năm mươi. Để nếu có nói thì là hiện hồn về nói qua lời của cô hồn, hay cô hồn bịa ra mà nói, cũng chưa biết chừng.

Hồn rằng hồn thác ban ngày
Thương cha nhớ mẹ hồn rày thác đêm.

Vậy rằng là nói, xưng là nói, thưa là nói gởi, là nói, trình là nói, báo là nói, thưa thốt, truyền phán, chỉ dạy, bảo ban, thú nhận, ra miệng cũng là nói, và tâu nộp, mách lẻo, tố giác, tán tỉnh, đấu hót, ba hoa chích choè… cũng là nói nữa. Nghĩa là cuộc sống xã hội càng phức tạp, sự gián tiếp càng cần tinh tế để nhận xét tình ý của người và biểu lộ tình ý của mình, thì những cách để diễn tình ý ấy cũng lại càng nhiều. Nhiều cho đến vô tận như sau đây:


A. Nói lời

NÓI LỜI hay nói câu là diễn một tình ý bằng những tiếng có bố cục thành câu:

Nói lời thì giữ lấy lời
Đừng như con bướm đậu rồi lại bay.

LỜI NÓI thì lại là những câu nói ấy:

Lặng nghe lời nói như ru
Chiều xuân dễ khiến nét thu ngại ngùng
Lời nói chẳng mất tiền mua
Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau.

Cái lời, tức là cái câu ấy, đối với người Việt, không phải chỉ là vừa lòng nhau, mà còn nguôi lòng nhau nữa:

Chẳng được miếng thịt miếng xôi
Cũng được lời nói cho nguôi tấm lòng.

Ấy thế là lời nói có tính cách đỡ đói, tính cách vừa lòng hả dạ và cho nhau một lời nói còn giá trị hơn là cho nhau một miếng ăn nữa. Có lẽ vì thế chăng, mà người ta đã có thể đánh giá lời nói bằng nhiều cách.

1. Người ta chắc đã đánh giá được bằng lưỡi thì mới biết vị ngọt của nó (Nói ngọt thì lọt đến xương).

Cười cười nói nói ngọt ngào
Hỏi rằng chúng ở nơi nào lại chơi.

Hay vị chua của nó:

Mồ cha con bướm trắng
Đẻ mẹ cái ông vàng
Khen ai uốn lưỡi
Để cô nàng nói chua.

Hay vị mặn nhạt của nó:

Một thương tóc bỏ đuôi gà
Hai thương ăn nói mặn mà có duyên.

Và:

Anh chàng nói nhạt như nước ốc


2. Người ta chắc còn đánh giá được bằng mũi nữa thì mới biết được mùi của nó: thằng cha nói không ngửi được.

3. Và nhất là còn đánh giá bằng mắt thì mới biết được số lượng nhiều ít của nó:

Ăn lắm thì hết miếng ngon
Nói lắm thì hết lời khôn hóa rồ.

Hay màu sắc của nó: Nói trắng ra.

Hay sự cách biệt gần xa của nó:

Kẻ nói đơn người nói kép.

Sự thiếu thừa của nó:

Yêu ai thì nói quá ưa
Ghét ai nói thiếu nói thừa như không.

Cả chiều hướng của nó:

Dù ai nói Đông nói Tây
Thì ta vẫn vững như cây giữa rừng.

Lẫn cả thế đứng của nó nữa:

Dù ai nói ngả nói nghiêng
Thì ta vẫn vững như kiềng ba chân.

4. Cuối cùng người ta chắc còn đánh giá nó cả bằng óc nữa thì mới biết giá trị của nó:

Một lời nói quan tiền thùng thóc
Một lời nói dùi đục cẳng tay

Cùng phân biệt về trọng lượng của nó:

Kim vàng ai nỡ uốn câu
Người khôn ai nỡ nói nhau nặng lời.

Và phân biệt về tuổi già non của nó:

Chuông già đồng điếu chuông kêu
Anh già lời nói em xiêu tấm lòng.

Thật đã đáng lấy làm kinh khủng cho người nghe, khi chỉ thoáng một cái đã phải nhận định cho ra nhiều thứ đến thế. Nhưng đâu đã hết! Còn phải nhận định ra sự phải trái “Nói phải củ cải nghe cũng lọt”; “Nói phải gãi chỗ ngứa”, nhận định ra sự hay dở: “Nói hay hay hơn nói”; “Nói dở như cám hấp”; nhận định ra sự dại khôn:

Ai mà nói dối cùng ai
Đến khi nói dại mặt ngay cán tàn.

Nhận định ra sự thật dối:

Ai mà nói dối cùng ai,
Thì Trời giáng hạ cây khoai giữa đồng.

Và nhận định ra sự xấu tốt: Nói xấu nói tốt.

Thuộc phạm vi của sự nói lời ấy, để đặt vào trong vòng nhận thức như vậy, ta thấy còn hết sức nhiều nghĩa nữa.

Ở khía cạnh trình diễn trên sân khấu ta thấy:

NÓI LỐI là nói những lời dẫn thính giả đến một câu hát ở trên sân khấu. Những lời dẫn ấy kể lể đến truyện tích lịch sử là nói sử, than thở về thân phận hẩm hiu của con người là nói than, kết cấu về những sự việc đã qua là nói vãn, mà nói thành những câu có vần là nói vè hay nói dáo vè. Tất cả đều không phải là hát nói. Hát nói lại là tên một điệu hát Ả đào sau câu mưỡu, để tác giả nói lên cái ý mình cho cô đào hát.

Thuộc phạm vi sự nói lối để trình diễn trên sân khấu này, còn có nói bông lơn do một vai hề khích bác để làm vui cho thính giả trong khi sửa soạn nghe một điệu hát mới; lối nói ấy cũng gọi là nói bông phèng. Tỷ dụ như: Đại phong là gió lớn, gió lớn thì đổ chùa, đổ chùa thì tượng lo, tượng lo là lọ tương vậy.

Thuộc phạm vi mỹ từ pháp thì có:

Nói chữ không hẳn là nói toàn chữ trong sách, mà còn như người ta thường bảo nói dài dòng văn tự, nó là một cách dẫn điễn này tích nọ mãi rồi mới đến một kết luận nào, Xấu hay làm tốt, dốt hay nói chữ. Nói chữ theo thời nay còn có nghĩa là văng tục: nhà văn có khác, thích nói chữ thế! Nói chữ ở đây có nghĩa như xổ Nho vậy.

Nói lái là nói đảo ngược tiếng cho âm tiếng nọ vào với bộc âm của tiếng kia va đổi cả thanh nữa, cho người nghe vô tình không hiểu ngay ý của người nói: Mịt quả mốt là một quả mít. Còn nói lỡm thì lại là một cách nói để bẫy người ta cho bị hớ mà cười: Như chuyện Trạng Quỳnh thấy bà Chúa đi trên đường thì chạy xuống ao khỏa chân. Bà hỏi Trạng làm gì thế? Trạng đáp: Ấy, tôi chẳng có việc gì làm thì xuống ao đá bèo chơi!

Kể vị trí của kẻ nói và người nghe thì lại có:

Nói leo là chưa được địa vị xứng đáng đã dám bày tỏ ý kiến: trẻ con đừng nói leo vào chuyện của người lớn; và người ta thường mắng là: Biết thì thưa thốt, không biết thì dựa cột mà nghe. Nói hỗn, nói láo là nói leo mà còn có ý xấc với người trên. Nói mất lựa là nói với những chưa xứng đáng. Nói khó là tự hạ mình để xin cho được việc: Nói khó cho qua buổi chợ. Nói khan là nói tâng bốc người (không giống với nói nựng là uốn giọng để hỏi chuyện đứa trẻ đang tập nói. Trẻ lên ba cả nhà học nói, là vì thế: Âu! Âu! ác gai bạo mày là coong tó đấy mà!). Nói nhũn là nói điều không gây gổ để hòa giải và cho xong việc. Nói hớt là nói trước cái điều người ta sắp nói đến: Rõ nam mô hớt chửa! Nói đỡ lời là ngắt ngang câu nói của người khác để thêm ý ào cho lý luận vững chắc hơn. Còn trẻ con mà cũng giở giọng giảng luân lý như người đã cay chua nhiều với cuộc sống, thì là nói như ông cụ non.

Kể về nội dung câu chuyện thì có:

Nói thật là trình bày sự thật, ngược lại, giấu giếm sự thật đi là nói dối.

Đi nói dối cha, về nói dối chú.

Nói ngay cũng là sự thật thế nào thì nói ra thế. Nó gần đồng nghĩa với nói thẳng. Nói thẳng là nói không rào đón, không sợ mất lòng như nói toạc móng heo. Còn nói cho phải xấu hổ và mang tai mang tiếng, thì là nói ngay vào mặt, nói vỗ vào mặt, nối đốp vào mặt, nói giữa dạ. Nói đúng là trình bày rõ ý người ta nghĩ hay rõ sự việc xảy ra, ngược lại là nói sai. Nói sai là nói không ngờ toàn điều lầm lạc điều lầm lạc cả. Nói điêu hay điêu toa là cố ý nói sai, dành riêng cho kẻ ít tuổi, kẻ ở bề dưới. Còn người lớn và bề trên thì là nói dối. Nói lầm là nói không đúng cách. Nói lẫn là trỏ người già cả nói câu được câu chăng. Nói gở là nói những gì không hay nó vận vào mình hay vào người, khi gặp người lỡ nói như thế thì người ta phải thui cái xui xẻo ấy đi và gọi là nói phỉ thui hay nói dại nào! Nói dại là nói những điều lỡ xảy ra thật thì tai hại, trong còn hàm ý mong không xảy ra: nói dại, cháu có bề nào thì xin bác gỡ giùm cho. Nói khôn là nói những ý hay và phải. Nói phải là nói đúng lẽ như vậy. Còn phải nói là có ý kiến cần phải trình bày ra. Nhưng hiểu về nội dung câu chuyện thì người Việt Nam đã không chịu hiểu một cách quá đơn giản đâu. Người ta đã hiểu theo cái lối vẫn nói là con ruồi bay qua mà biết được con đực con cái kia.

Riêng về mục nói sai đã có:

Nói mò là đoán sai và nói sai hết sự thật “ăn ốc nói mò”.

Nói không là việc biết rằng không có cũng cứ nói là có, còn gọi là nói chua sinh chua tử là ăn không nói có hay nói dựng đứng, muốn nói không làm chồng mà nói. Nói vu cũng có nghĩa ấy là không có mà đổ diệt tội lỗi cho người. Gặp trường hợp này thì người ta sẽ nguyền rủa: Một lời nói một đọi máu, ấy là rủa rằng hễ nói không và vu oan thì hộc máu mồm ra. Nói ngoa là có ít xít ra nhiều, thổi phồng câu chuyện cho thêm to, thêm quan trọng: Muốn nói ngoa làm cha mà nói.

Nói quấy nói quá là chỉ nói qua loa đại cương và vùn vụt như gió không có gì rõ ràng cả:

Tay mang túi bọc kè kè
Nói quấy nói quá người nghe ầm ầm.

Nói phiệu hay bố phiệu là chỉ nói vẩn vơ, không có gì đích xác cả.

Nói đi nói lại là chỉ người tiền hậu bất nhất không giữ lời hứa:

Quân tử nhất ngôn là quân tử dại
Quân tử nói đi nói lại là quân tử khôn.

Khiến người ta phải rao hẹn: Thôi nhé, đừng có nói oong đơ gì nữa đấy! Do chữ Pháp oong đơ nghĩa là một hai. Nó không giống hẳn với lời nói đi thì nhẹ, lời nói lại thì nặng, vì bị thêm thắt khi có người nhắc lại. Cũng không giống với nói nước đôi hay nói phân hai là nói lưỡng để đàng nào mình cũng phải: Tài trai nói phân hai dễ chối.

Nói giăng nói cuội là nói toàn điều sai lầm dối trá cả (do tên Cuội là nhân vật trong chuyện cổ tích chỉ chuyên nói dối).

Đến mục nói thêm lên và thổi phồng sự thực thì có:

Nói khoác hay nói khoác lác khuếch khoác hay nói một tấc đến giời là khoe những cái tài mà mình không có.

Cấm người giả lịnh giả thị
Chẳng ai cấm người mang bị nói khoác.

Nói cha hươu mẹ vượn là nói dông dài nói toàn điều vớ vẩn chẳng biết đàng nào mà tin được nữa. Nói thánh nói thần hay nói trên không chằng dưới không rễ cũng có nghĩa ấy. Đó là cái lối nói mà không biết ngược.

Nói phách hay phách lối là khoe cái địa vị và quyền lực mình không đáng. Nói hợm là có địa vị và quyền lực nhưng hay khoe để khinh người; còn nói phét là chẳng có gì cả mà dám khoe khoang. Ấy là cái lối:

Nói thì đâm năm chém mi
Đến bữa tối trời chẳng dám ra sân.

Cũng là cái điệu nói ba hoa chích choè như thế không ai tin được, nhưng quá đáng lắm, quá đáng đến độ cả ông trạng như Trạng Quỳnh, cũng không nói được, thì người ta bảo: Nói như trạng mẹ nghĩa là cái ông trạng còn đẻ ra được ông Trạng kia. Và nói vơ vào để khoe hay khoe giỏi cho thiên hạ chẳng ai ra quái gì hết, hay là chỉ để cho vui, thì là nói mỹ tự: Ấy thằng chú Huyên nó nhà tôi cũng có cái áo mưa kiểu ấy, nhưng toàn đi xe hơi thì có được dùng đến lần nào đâu! Nói mỹ tự cũng là nói mẽ. Còn chỉ vơ vào để cầu lợi là Nói giọng kẻ Bưởi cuốc vào: Áo này tôi mặc vừa đáo để. Bác định cho tôi ấy à?

Đến mục nói để thêm oai, mà bây giờ người ta gọi là để lấy “le”, thì có:

Nói hống hách là nói lời nạt nộ: Ông ấy hống hách gớm nhỉ. Nói dõng dạc là nói dằn từng tiếng cho người ta nghe rõ để mình thêm oai. Và để cười cái oai ấy, cả những điệu bộ ấy, người ta mỉa mai là Nói như ông tướng Quảng Lạc (do tên rạp hát tuồng Tàu ở Hà Nội hồi đệ nhất thế chiến, người ta thích đến xem các ông tướng diễu võ dương oai). Nói dọa là nói để cho người ta sợ. Nói đe là dọa đánh đòn trẻ con để cho nó vào khuôn phép. Nói ức hiếp người ta để lấy phần nói phải là nói đè đầu đè cổ, nói như cha người ta ấy. Hễ không nghe lại còn được thể để bảo là nói như nước đổ lá khoai, như nước đổ đầu vịt. Nói sẵng là nói gần như măng mỏ. Còn mắng mỏ không tiếc lời là nói như táo đổ mặt mâm, nói như chan cánh canh đổ mẻ vào mặt, mà nói chẳng còn dành một chút tử tế nào với nhau nữa, là nói cạn tàu ráo máng.

Đến cái mục nói khéo thì là:

Nói rắn trong lỗ bò ra nghĩa là khéo đến độ người ta không bằng lòng cũng phải thuận theo, như con rắn nằm yên trong hang mà cũng phải bò ra vậy.

Nói như rồng cũng là nói khéo như thế. Đó là cách người ta gọi là nói như khướu bách thanh trong còn hàm thêm ý mỉa mai nữa. Nói xẻ cửa xẻ nhà là làm như thương yêu quý mến nhau lắm để chia sẻ cơm áo cho nhau đấy, nhưng kỳ thực là hão cả, cũng như nói nhân nghĩa và Tú Đễ [1] , người ta thường bảo nói trăm voi không được bát nước sáo. Và người nói ấy được người ta cho là đồ bẻm mép để sẽ tìm cách mà nói chữa thẹn. Nói vuốt đuôi là nói tử tế lại sau khi đã có thái độ không tốt với người. Nói đãi bôi là nói lời ân nghĩa thủy chung chẳng phải tử tế gì với gia chủ mà chỉ để nói cho lọt miếng xôi trôi miếng thịt mà thôi. Nói có duyên là nói vui, dễ nghe và ai cũng mến. Nói vụng (hay vụng về) là nói mà để nhiều sơ hở thiếu sót, không phải nói vụng (trộm) là nói lén.

Còn nói để đấu khẩu thì lại tinh vi ghê gớm lắm. Khi tự vệ thì dùng một chiến thuật. Khi tấn công lại dùng một chiến thuật khác. Có khi tưởng là tự vệ mà hóa ra lại tấn công lúc nào không biết đấy, chẳng hạn như:

Nói mát là nói vứt mình đi, để tâng bốc người ta, mà làm người ta phải đau đớn. Thí dụ như: Ấy bên bác thì có bao giờ phải ăn đến rau muống! Nói mỉa là dài môi nhắc lầm lỗi của người ta cho phải xấu hổ!

Nói xa nói gần là kể những chuyện đâu đâu ấy cho người ta nhẩn nha.

Nói bóng nói gió hay nói xa xôi bóng gió, nói xỏ, nói xiên, nói xéo, cũng vậy. Đó là lối nói:

Sấm bên Đông động bên Tây
Tuy rằng nói đấy nhưng đây động lòng.

Sự động lòng ở đây, người ta còn cụ thể hóa hơn một tầng nữa, để gọi là nói trúng tim đen, nói lật tẩy, nói chạm nọc, chạm vía.

Nói chạm vía là nói xa xôi để nhắc đến những lầm lỗi kín đáo của người ta cho mà sợ hãi. Không giống với nói trộm vía là nói lén với nhau sợ có điều gì gở: Nói trộm vía, thằng bé lớn như thổi!

Nói bâng quơ là nói không chỉ đích người nào, nói cứ lơ lơ lửng lửng làm người ta tức anh ách, mà không lẽ ra miệng thế nào bây giờ! Cũng là nói Đổng Kim Lân do tên một võ tướng trong tuồng San Hậu hay diễn vào dịp đầu năm cho người ta đi xem để bói tuồng. Vai tuồng chắc hay nói bâng quơ, nói lơ lửng giữa trời, nên tên mới được dùng thành một phẩm từ như thế. Nói ậm ừ là nói nửa ra nhận mà nửa ra không, nói ỡm ờ lại là nói cợt nhả lẳng lơ, còn nói lửng lơ hay lơ lửng hay thêm nữa nói lơ lửng con cá vàng là nói giữa trời để ai có tật giật mình. Chính nó là nói buông lơi, nói phất phơ, nói chơi, nói chuyện phiếm và nói mà là không nói, không nói mà là nói vậy.

Nói xin ông (hay bà) để ngoài tai thì thật ra đã đáng tức cười vì người ta làm như vậy có thể gắp được những lời gì bỏ vào trong hay bỏ ra ngoài tai vậy. Chính ra thì đây là một cách nói xin lỗi trước về những lời sắp nói ra, nó sẽ có thể chướng tai và phật lòng ông hay bà đấy. Nói khi vô phép, nói bác tha lỗi, hay nói thế này khi không phải, đều là một công thức như nhau cả. Nói phòng hờ: hay phòng xa, hay nói thòng là nói khôn, phòng xa đến cả trường hợp có thể sẽ xảy ra khác nữa.

Nói buông lửng là nói một phần thôi, còn phần sau để người ta phải đoán ra. Nói hồ đồ là nói bậy bạ lung tung không có giá trị. Nói hàm hồ là nói đụng chạm đến nhiều người làm mất cả hòa khí, gần giống như nói đổ cả hương án bàn độc. Nói đổ cả hương án bàn độc là nói lời bạc bẽo làm mất cả cái tử tế của người.

Nói có quỷ thần hai vai là vừa nói vừa thề, với lời cầu xin quỷ thần chứng giám cho lời nói đúng.

Nói có vong hồn của ai đó vừa là nói vừa cầu vong hồn người quá cố làm chứng cho lời nói đúng.

Nói có ngọn đèn tắt tôi tắt là vừa nói vừa thề độc đến có thể chết được nếu sai sự thật. Nói của đáng tội là nói cho phải giá không thêm bớt: nói của đáng tội thì anh ta cũng có bụng tham.

Thật chưa có tiếng nôm nào lại nhiều nghĩa linh động đến như thế. Nói đâm hông là nói xa xôi nhưng đau đớn như xiên vào hông người ta; không giống với nói đâm ngang hay nói ngang là nói bẻ quẹo câu chuyện để lảng ra phía khác.

Nói ngang cành bứa, ngang như cua lại là nói bướng, không đúng lẽ và chướng tai; người ta còn gọi là nói cù nhầy và bảo nói với nó như đánh bùn sang ao hay tức quá thì bảo: nói với nó như đánh bùn sang ao hay tức quá thì bảo: nói với nó thà vạch đầu gối ra mà nói chuyện. Nói đay hay nói nghiến là day dứt cho người nghe phải đau buồn khổ sở; nói đay nghiến như dứt từng miếng thịt; nói nghiến như một ấy không sao chịu nổi! Nói móc họng là nói phăng ngay cái xấu mà đối phương giấu giếm để không còn mở miệng ra sao được nữa.

Nói xóc óc, lộng óc cũng là ý ấy. Nói châm nói chọc hay nếu trêu còn thêm ý để cười nữa. Nói đâm bị chọc thóc bị gạo thì lại là khích bác bên này một câu, bên kia một câu, cho người ta cãi nhau. Đó là cái lối suỵt chó vào bụi rậm, hay ném xương cho chó cắn nhau.

Xem thế đủ biết thủ đoạn của người Việt Nam về phương diện nói thật đã là cao cường vậy.

Nói dèm là viện dẫn các lý do để chê bai. Nói xiểm là dèm cho người ta ghét kẻ khác. Nói lảng là thấy vẻ không thành thì liệu đi tới đi lui, nói thách là đặt giá cao cho người ta mặc cả dầu. Bán hàng nói thách, làm khách trả rẻ. Nói thớt cao dao bầu cũng cùng một ấy, nhưng có ý mỉa mai; nói một giời tiền cũng vậy, nhưng còn thêm ý chê trách. Nói hờ là lỡ ra giá quá thấp một món hàng. Hiểu rộng ra là lỡ nói điều thiệt cho mình. Nói vào nói ra là đưa những ý kiến lôi thôi rắc rối cho người ta ngã lòng.

Cũng thuộc về mục đấu khẩu, lại còn cái trò nói đưa hơi là nói để cho phải bốc nóng lên mà xông ra cãi nhau hay đánh nhau. Không giống với đưa lời: Mượn chén đưa lời là cái cách giả say rượu để thóa mạ người mà nếu có bị bắt lỗi thì vẫn có cớ để không phải chịu trách nhiệm, vì ai cũng cho rằng: nói với người say như vay không trả, và người giả say thì sẽ: ấy xin lỗi các ngài, rượu nó nói đấy ạ!

Những mánh khóe của người Việt Nam thật đã man mác nhiều vô kể. Có khi đóng cửa ở trong nhà nói nhau, mắng mỏ chửi bới nhau, mà lại là để cho người hàng xóm nghe, lấy làm hết sức đau đớn. Đấy là cái phép “Trong dậy ngoài lậy”để làm người ta chết điếng đi. Có khi là đá thúng đụng nia, chửi mèo quéo chó. Không còn biết đâu mà lường được nữa.

Nói rào đón là ngăn ngừa những ý nghĩ gì người ta có thể nghĩ được về câu chuyện mình sắp nói để bác và chặn trước đi. Nói thớ lợ là nói giọng tử tế ngoan ngoãn bề ngoài cho người ta thương mến và không chê trách được mình. Nói đưa đẩy hay đưa đà là bắt đầu với những lời ngoài lề cho thêm mạnh miệng. Còn có sao nói vậy là nói nỡm ra. Nói ướm hay nói dạm là đưa thử một vài ý kiến để dò tình ý đối phương. Nói mà không hy vọng được còn nhờ may là nói Gia Cát cầu phong.

Đến mục nói chuyện thường thôi, cũng có những lối thật là lạ. Nói tào lao là nói không thành câu chuyện đứng đắn gì cả. Nói thao thao là nói trôi chảy. Nói ấp úng hay ấp úng như ngậm hột thị là nói bối rối không được ý nghĩ gì rõ ràng, cứ ngập ngà ngập ngừng hay dấp da dấp dính mãi. Nói ấm ớ hay nói ấm ớ hội tề là nói lưỡng lự không rõ ý muốn dứt khoát là trắng hay đen. Gốc ở tiếng hội tề là tên tổ, chức hành chính ở vùng giữa khu kháng chiến và khu đã theo Tây mà người trong tổ chức ấy đã không dám có thái độ dứt khoát ngả theo phía nào. Còn nói rối mù lên chẳng đâu vào đâu cả là nói ba sí ba tú. Nói úp mở là nói nửa thực nửa hư, để đối phương thoáng nhận ra.

Sư nói sư phải, vãi nói vãi hay không phải để dành riêng cho giới tu sĩ mà để kể chung mọi người khi nói tranh nhau lấy phần phải về mình. Còn người ta nói một đàng lại hiểu quàng một nẻo thì là Ông nói gà bà nói vịt.

Nói đưa đẩy hay đưa duyên là lựa ý người nghe mà nói cho vui vẻ cả làng. Nói xuôi theo là theo lời và ý của người ta mà tán thêm. Chính đó là nói lựa. Thầy bói nói dựa. Nói cho sướng miệng, nói thích khẩu, nói lấy được là láy đi láy lại mãi để mắng mỏ, dạy khôn hay để lấy phần phải về cho mình, khiến người nghe sốt ruột lên, còn để nhấn mạnh cho người ta thấy lời mình đoán hay ngừa trước đã rất đúng, thì người ta lại bảo: Mồm mẹ mẻ nói không sứt.

Nói lấp liếm theo lối cả vú lấp miệng em là nói không ngừng cho người ta không kịp lúc nào cãi lại được nữa. Nói như đinh đóng cột. Nói chắc như cua gạch là nói nhất định hẳn một chiều, không gì lay chuyển được ý định nữa.

Nói để bụng là nói mà đừng nhắc lại. Nói để đấy là hứa hẹn mà chẳng bao giờ làm theo, đó là cái chuyện lời nói không đi đôi với việc làm của các vị “chính khách” và nói trước quên sau. Người ta sẽ chép miệng bảo: Nói vậy biết vậy! Nói có sách mách có chứng là trình bày câu chuyện thật rõ ràng có chứng cớ hẳn hoi không cãi vào đâu được, cứ ắng: người ra, cho người ta cười là ăn làm sao nói làm sao bây giờ?

Nói vanh vách là nói hết những điều người ta tưởng giấu được: Đạp đồng lên, nó nói vanh vách như mẹ Ranh ấy.

Nói cho ngay là tiếng của miền Nam tương đương với nói cho đúng của miền Bắc; đó là một thành ngữ để trợ từ, thực không cần phải có công dụng trong câu, chỉ là để có thêm một chút thời gian suy nghĩ. Cũng như nói chung và nói riêng cho phép người ta phát ngôn trước công chúng dùng để lời nói thêm lưu loát. Nhưng lâu dần thành bệnh để những viết cũng lại cứ nhai nhải nói chung với nói riêng! Miền Nam nói chung, xã hội Saigon nói riêng rồi lại xã hội Saigon nói chung, dân chúng đô thành nói riêng… thật là sốt ruột vậy.

Đến cái mục đàm thoại để cho vui mà bây giờ được người ta gọi là đấu hót là bốc lê xa bút (đánh võ mồm) hay bốc thối bốc thơm thì nói chơi là để cho vui:

Nói chơi cho đỡ vui lòng
Ăn có chốn tựa loan phòng có nơi.

cũng cùng một nghĩa với nói bỡn, nói cợt:

Nói bỡn mà chơi nói cợt mà chơi
Áo ai người mặc có mùi gì đâu.

hay nói đùa, nói giỡn, nói bông, nói bông phèng cũng vậy, hay quá hơn nữa là tán gẫu, tán hươu, tán vượn và có vẻ Tây hơn nữa là tán phó-mát nghĩa là tán để ăn phó-mát hay tán để nghiền bột cục phó-mát ra cũng được cả. Vì phó-mát lại là loại thực phẩm nặng mùi như mùi mắm tôm của ta, nên tán phó-mát còn hàm thêm ý tán thối nữa. Nói lần khân là dùng lối cợt nhả để trì hoãn một công việc. Nói bờm sơm là lợi dụng lúc vui để leo thang câu chuyện mà người ta vẫn mắng là chơi chó, chó liếm mặt đấy. Nói lươn khươn là nói lòng vòng rồi cũng đến đích. Nói đểu là nói một cách thô bỉ cho đến người ta có thể mắng là đồ ăn nói mất dạy. Nói tục là dùng lời thô bỉ nói những chuyện tục tĩu như chuyện tiếu lâm tân thời chẳng hạn.

Đến mục thể cách nói, để giao thiệp ở đời cho người ta khỏi chê là ăn không nên đọi nói chẳng nên lời thì:

Nói mớm là nói để dọ ý và khích cho người nghe phải bộc lộ ý mình ra. Nói mớm là truyền thụ khéo những lời khôn cho kẻ khác nói.

Mái bên gió đã bồi hồi
Kìa ai vú lép mớm lời cho con.

Ấy là cái cách nói vẽ đường cho hươu chạy.

Nói dè chừng là nói ngừa trước những việc không hay:

Sinh rằng hay nói dè chừng
Lòng đây lòng đấy chưa từng hay sao.

Nói dai hay nói nhai nhải là nhắc đi nhắc lại mãi chỉ có một câu chuyện đó thôi: Nói dai như chó nhai giẻ rách, nói dai như chão rách. Tức cũng là cách nói lài nhài, nói rặng đa bà cụ vậy. Nói cộc lốc hay nói trống không là nói hỗn hào không thưa gởi lễ phép gì cả. Nói xách mé cũng vậy. Nói thô là nói không lựa lời cho dễ nghe; ấy là cái việc mà người ta gọi là Nói cộc cằn, nói như dùi đục chấm mắm cáy hay là ăn nói dóng một. Nói đâm ba chẻ củ là nói châm chọc một cách dấm dẳn cho ai cũng phải có chịu. Nói nhảm là bộc lộ những gì không nên cho biết: Im đi nói nhảm nào! Còn nói lảm nhảm là nói một mình những chuyện không ra đâu vào đâu cả: Ông ta bây giờ đã giở chứng, cứ nằm nói lảm nhảm suốt ngày. Nói lẩm cẩm cũng là ý ấy để trỏ người già lão nói lẫn lộn lung tung? Nói quàng hay bắt quàng hay nói đầu cua tai nheo là đương chuyện đằng này dằng dây qua chuyện khác. Không như nói quàng xiên là nói điều càn dỡ, láo lếu, bậy bạ.

Nói bạo là nói ra vẻ ta không sợ gì cả.

Nói liều là biết rằng đáng sợ nhưng cũng nói bừa đi. Nói nhăng, nói ẩu tả, nói sàm, nói tầm bậy, tầm phào là nói không nghe được, nói không lọt lỗ tai:

Hâm rằng ông quán nói nhăng
Dẫu cho hay lắm cũng thằng bán cơm.

Đó là những nghĩa dễ hiểu về nội dung, trong mục nói lời.


B. Nói tiếng

Qua mục nói tiếng để hiểu về hình thức, ta thấy cũng man mác nhiều nghĩa lắm.

Nói tiếng là phát ra một âm thanh, chưa cần có bao hàm một tình ý gì cả.

Tiếng nói là cái âm thanh ấy:

Chim khôn kêu tiếng rảnh rang
Người khôn tiếng nói dịu dàng dễ nghe

Người thanh tiếng nói cũng thanh
Chuông kêu sẽ đánh bên thành cũng kêu.

Chơi thì chơi chốn thập thành
Lời ăn tiếng nói nhẹ mình như tên.

Nói năng là biểu lộ một âm thanh:

Hòn đất mà biết nói năng
Thì thầy địa lý hàm răng chẳng còn.

Ăn nói cũng là phát biểu ý mình qua âm thanh ấy; Con bé này, ăn nói mới hay chứ!

Nói tiếng ta, tiếng Tây, tiếng Tàu là dùng tiếng nói của ta hay của người ngoại quốc: Cô ta nói tiếng Mỹ như gió. Còn nói tiếng Tây giả cầy là nói pha lẫn cả tiếng ta. Bây giờ lại có thêm một tiếng lóng nữa: nói tiếng Đức, ấy là nói văng tục có những tiếng gì viết đầu bằng chữ Đ đấy. Nói lóng là nói những tiếng chỉ riêng cho một giới nào hiểu. Nói nhỏ là nói cho vừa tai người lắng nghe. Nói nhỏ nhẻ hay thỏ thẻ lại là cố ý làm cho lời nói êm ái dịu dàng dễ thương: Nó nói nhỏ nhẻ (hay thỏ thẻ) như con gái ấy. Còn gọi là nói ỏn ẻn. Nói thầm là ghé miệng vào tai mà nói cho lời nói không thành ra tiếng khiến người khác không nghe được.

Nói xôn xao là nhiều người cùng nói một lúc khiến người nghe không phân biệt nổi là nói những gì:

Trong nhà người nói xôn xao
Nào con nào mẹ ồn ào gọi nhau.

Nói léo xéo hay léo nhéo là nói không thành câu chuyện gì từ ở đàng xa: Tôi cũng thấy họ nói léo xéo cái gì mất cắp mất trộm đấy. Nói to, nói lớn là phát ra những tiếng lớn. Còn nói lớn lối lại là không có mà nói thêm lên cho ra vẻ hống hách, cũng như phách lối vậy. Nói nặng là nói giọng trầm nghe thấy vẻ vất vả: Nói nặng như dân làng Bịu (không phải nói nặng lời là sỉ vả) “Giợi đật ơi, tội như đêm dây như đật thệ này, thì đi đâu được”. Nói ngọng là vì bộ máy phát âm hư hỏng nên nói không đúng tiếng người ta thường phải nói. Nói sõi là nói rõ ràng từng tiếng một: Thằng bé nói sõi đáo để. Nói lơ lớ là nói gần gần giống giọng: Anh ta nói lơ lớ giọng Tàu. Nói bập bẹ là nói được một vài câu gần giống tiếng người bản xứ: Anh ta dạo này đã nói bập bẹ được ít tiếng “Cám ơn ông”! Nói lắp là nói líu ríu mãi mới bật ra một tiếng. Nói lắp bắp hay lắp ba lắp bắp là mấp máy môi cho tiếng nói cứ ấp úng trong miệng không phát ra được rõ. Nói lẩm bà lẩm bẩm cũng vậy. Nói bí ba bí bô là trỏ những con trẻ mới. Nói nhiều, nói lắm là nói luôn miệng:

Cách bức chẳng được nói luôn
Những người bên ấy có buồn cùng chăng.

Nói chậm nói nhanh là quen tính cho nhịp điệu của tiếng nói phát ra chậm hay nhanh.

Nói như pháo ran là nói lép bép, nhiều, và nhanh như pháo nổ.

Nói dàn cung mây là nói lung tung cả, cho người ta gọi là cái máy nói. Nói như khướu bách thanh là nịnh nọt như khướu hót bên tai. Còn một tiếng mới nữa vừa thịnh hành, ấy là nói như vẹm nghĩa là nói dối cứ xoen xoét mà vẫn ra vẻ có lý đáo để.

Nói xoen xoét hay lem lém là nói trôi như nước để chối cãi một điều gì. Nói dấm dẳn là nói không trôi chảy, tiếng nói có vẻ gì như dúm dó từng quãng nói dấm dẳn như váy ba bức, hay dấm dẳn như chó cắn ma. Nói trơn là nói không vấp váp tức là nói giảo hoạt: nói trơn như nước chảy.

Nói lè nhè là dài môi nói giọng người say rượu.

Nói nhịu là nói lẫn tiếng sang những tiếng tục: Gái đẻ không nên nói chuyện với người ở cách phòng, kẻo về già sinh ra nói nhịu.

Nói đớt là nói có vẻ gì ngường ngượng ở miệng, không hẳn là nói ngọng nhưng cũng không hẳn là nói đúng. Nói thơn thớt là nói trơn tru tử tế ngoài môi:

Bề ngoài thơn thớt nói cười
Mà trong nham hiểm giết người không gươm.

Nói thẽo thọt là nói buông lỏng những tiếng ra khiến sai cả thanh âm và không thành câu cú gì cả.

Nói ú ớ là nói ấp úng trong miệng, tiếng nói không thành ra được: Người gần chết thì nói ú ớ.

Nói khàn khàn như vịt đực là nói cho tiếng phát ra nhiều bằng cổ họng.

Nói pha tiếng là bắt chước một cách vụng dại tiếng nói của người ta, để cho thành trò cười: Chửi cha không bằng pha tiếng. Nói nhại là bắt chước đúng giọng và tiếng nói của người. Nói trại là nói chệch tiếng đi vì vô tình hay cố ý. Nói trọ trẹ là nói giọng người địa phương xứ Nghệ, uốn lưỡi nhiều và nặng: Môn là cựa, cựa ra cựa vô, không phại là cựa ga cựa vịt. Nói ra miệng là bộc lộ một mưu định.

Còn nói đi không phải vừa nói vừa đi, mà là giục nhau phát biểu ý kiến, và đi nói theo miền Nam lại là đi hỏi vợ.

Học nói là tập phát âm: Trẻ lên ba, cả nhà học nói. Nhưng học nói cũng còn là học cách nói năng cho khéo léo nữa: Học ăn học nói cho tầy người ta.


C. Nói điều

Đến cái mục khác là mục nói điều, thì nói điều là kể về cái khía cạnh hay dở xấu tốt nào đó.

Ở ăn thì nết cũng hay
Nói điều ràng buộc thì tay cũng già.

Nó cũng có nghĩa là nói đến cái gì hay hay dở dở: Chúng tôi nói điều gì không phải, xin các ngài đánh chữa đại xá đi cho!

Đất xấu trồng cây khẳng khiu
Những người thô tục nói điều phàm phu.

Có khi cái điều ấy là một câu chuyện:

Khôn ngoan chẳng lọ là nhiều
Người khôn mới nói nửa điều đã khôn.

Bởi vậy Nguyễn Du mới có quyền viết:

Trải qua một cuộc bể dâu
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng.

Nói người là kể xấu người:

Nói người chẳng ngẫm đến ta
Thử sờ lên gáy xem xa hay gần.

Người ta nói là thiên hạ xầm xì bàn tán: Người ta nói đã rát cả tai ra đấy. Nghe nói là hình như có ai nói thế: Nghe nói bây giờ cô ấy lấy Mỹ.

Nói chuyện là kể lể và có sự đáp ứng nhau về một sự việc đã xảy ra. Còn kể truyện chỉ là một người biết truyện và kể lại bằng văn xuôi hay văn vần.

Nói vậy là thành ngữ để kết luận mà chiều hướng lại khác với dự tưởng của người ta: Nói vậy, chớ tao mặt nào làm như thế! Nó đồng nghĩa với tiếng tuy nhiên hay giản dị hơn và nôm na hơn, là nói thì nói chờ đời nào tao làm thế.

Nói vậy không thể lầm với tiếng vậy không thôi, là tiếng để kết luận theo chiều hướng lý luận đã dẫn.

Vậy, xin các bạn đọc ghi nhận cho: tiếng nói của một nước mà nhiều nghĩa đến như thế, thì đủ rõ đời sống tinh thần của nước ấy phong phú thế nào.

Và bạn đọc khi công nhận điều ấy là phải, thì sẽ trả lời: Thôi, còn phải nói! Nghĩa là: Thôi, điều ấy còn cần gì phải nói nữa, điều ấy thì khỏi phải nói, hay hết nước nói rồi, de người ta dịch ra tiếng Tây giả cầy là “phi-ni lô đia” vậy.


[1]Bà Tú Để chắc xưa là một người khéo nói và giả nhân giả nghĩa giỏi lắm nên mới nổi tiếng như vậy.
Nguồn: Tạp chí Văn, Nghiên cứu và Phê bình văn học, năm thứ nhất, đệ nhất tam cá nguyệt 1967, tập 1, trích từ trang 12 đến trang 30. Chi phiếu, bưu phiếu đề tên ông Nguyễn Đình Vượng. Thư từ, bản thảo, ấn phẩm đề tên ông Trần Phong Giao. Giao thiệp trực tiếp về mọi việc xin hỏi ông Gia Tuấn. Số 38, Phạm Ngũ Lão, Sài Gòn. Điện thoại: 23.595. Giá 30 đồng.
Bản điện tử do talawas thực hiện.

Bùi Giáng : Không cốc túc âm

Loạt bài: Văn học miền Nam trước 1975

Bùi Giáng
Không cốc túc âm

“Nàng đã đến bởi con đường vạch trắng..”

Nàng là nàng thơ, nàng Thúy, nàng Dương, nàng Hà, nàng Thái Chân, Thậm Mỹ, Chí Thiện, Từ Bi… Nhưng phải gọi, thì nàng mới về… Mà gọi cũng là lắng nghe… Lắng nghe trong vắng lặng Thái Hư tịch mịch chiều hồng…

“Lặng nghe lời nói như ru
Chiều xuân dễ khiến nét thu ngại ngùng”

Thế là bỗng dưng biên thuỳ xoá mất… Ai là kẻ gọi? Ai là người nghe? Và cả trời, cả đất, cả xuân, cả thu cũng tràn lan vào trong cõi. Niềm tương ứng càn khôn vũ trụ mấp mé bên nhịp cầu ngại ngùng trong từng trận gió tịch mịch hư không.

Người xưa dùng cái tiếng “không cốc túc âm” cũng không ngoài nghĩa đó: “ngồi trong hang động im vắng mà nghe gót chân…khơi động bên ngoài”.

Gót chân nào đi?

Gót chân nào bước?… Và đi trong bước để tái lập mộng đời ở quanh quất hương màu các ngã ba:

“Nàng từ lánh gót vườn Hoa
Dường gần Rừng Tía, đường xa Bụi Hồng”

Nàng là ai?… Chính lời cậy hỏi nọ đã buộc ta bước lên đường kêu gọi mãi… Về miền Nam nước Việt nhớ nhung hoài người bạn tuổi anh niên.

Người bạn tuổi anh niên… của miền Nam nước Việt -vốn xưa kia tên gọi là nước Việt của trời Nam- đã từng gặp những cơn mạo hiểm lưu ly…Tố Như Tử! Đã từng rời mái Thanh Hiên, chịu làm Hiệp Hộ Lang Thang ghé Gia Tĩnh tìm nàng suốt hà sơn vạn lý!…

“Xuân phong tiếu bộ nguyên màu
Liễu yêu bài động mối sầu trở cơn”

Bởi một đường rẽ trắng….nàng đến.

Bởi một đường rẽ trắng….nàng đi.

Hỡi ôi! Chính đó là cái chỗ để trần gian dấn thân vào mà phiêu bồng tư lự chiêm bao:

Huyền diệu của con người. Dị thường của con kẻ.
Kỳ bí của tồn lưu. Vô ngần của tâm lý.
U uẩn của tân thanh. U huyền của ngôn ngữ.
U lệ của ra hoa. U kiều của thanh lục.
U diễm của thanh hà trên vạn lý hà sơn.

Cái đáng kể là riêng duy chỉ rằng, chân lý tồn lưu chịu về trong ngôn ngữ và tư tưởng chịu đạt tới ngôn ngữ nọ. Ngôn ngữ nào?… Ngôn ngữ tái tạo tân thanh. Ngôn ngữ thiết lập thịnh triều của ngôn ngữ. Vô thanh vô tức trong Nếp gấp Bất tư nghi của Vô Ngôn.

Nói nghìn lời để dìu cái-không-lời về trong cái-không-nói.

Và cái-không-nói cũng thường là cái mệnh đề phụ thuộc giắt cài thêm, lửng lơ như cái-nói-rằng-không là triền miên trong-có vậy.

Thường thấy người ta phàn nàn: thằng nọ viết văn làm thơ lớ mớ, nửa cỏ nửa gai, không gì ra rành mạch cả. Sao nó không viết đơn giản rành rõ như ông Nguyễn Du, như ông Hồ Dzếnh, như ông Khổng, ông Lão, ông Trang?

Tưởng như ông Khổng, ông Trang, ông Du, ông Dzếnh viết văn rành mạch đơn giản lắm!

Tưởng như người ta đã hiểu rõ cái điều ông Khổng, ông Du đã nói!

Và hỡi ôi! Tưởng như ai ai cũng có thể và có bổn phận phải viết như các thánh sống, thần linh kia! Kỳ dị thay!

Giữa phong tình cổ lục, và lục đại mây mưa vốn có một cái hang từ thiên cổ. Cái hang chia xa tồn lưu và tồn hoạt. Chia xa dị biệt.

Rồi về sau, lúc mê cung tư tưởng chuyển sang Mê Hội Trận Triết Học chi ly, khi cái chỗ chia xa dị biệt đạt tới mức độ vô ngần.

Đó là trường hợp Đức Khổng. Hình nhi thượng và Hình nhi hạ ban sơ tương giao ở địa điểm tồn sinh nào, mà về sau căn cơ an thập lập mệnh trôi tuốt đi ba ngã, bốn bề phiêu bồng suốt xứ. Lời than tê buốt lại dội ngầm:

“Thái Sơn kỳ đồi hồ!
Lương mộc kỳ hoại hồ!
Triết nhân kỳ nuy hồ!” [1]

Chúng ta bàn hoàn xiết bao, chợt một lần nghe ra tiếng than thở nọ.

Đầu ta hai ba thứ tóc!

Mà sao chiêm bao vạn lý, sao hà sơn đi?

Đại hồng ký thác từ quy: “Lời trong căn để vui gì lắm đâu”.

Suốt kiếp phải nghiêng mình lên huyền nhiệm nọ! Ấy bởi rằng, không thể dòm ngó theo lối “ lai rai “.

“Cái cốt thiết, cái hệ trọng, cái tinh thể làm sao nhìn thấy với hai con mắt thao láo mở”. Hãy xin người hãy đăm chiêu hơn nữa…Từ con trăn trong rừng thẳm nuốt con mãnh thú trong rừng sâu, tới con rắn vàng hoe mổ vào chân Hoàng Tử Bé…, cho tới miền bàn hoàn của kẻ ở lại sớm hôm bần thần nêu câu hỏi:

“Một nơi nào đó, chẳng biết là đâu, một con cừu đã, có hay không, ăn mất một đoá hồng?” [2]

Chân thành nhìn vào chỗ nọ, ta sẽ nêu câu hỏi: “Nhạt thưa gương dọi đầu cành”, “ngọn đèn khi tỏ khi mờ” vây phủ cõi đăm chiêu chiêm niệm của những chàng, những chị thiếp lúc họ đối diện với định mệnh mình, khi tỉnh mộng, khi trở cơn?

“Chập chờn cơn tỉnh cơn mê
Song hồ nửa khép mở về chiêm bao»

Chính những câu thơ chập chờn lay lắt của Nguyễn Du là cái chỗ căn cơ cho mọi cuộc thiết lập trường tồn vô ngần lãng đãng. Nguyễn Du đã âm thầm đẩy một nhịp cầu tồn lưu “tổng hợp” tới dưới bước chân con người đang khập khiễng trên bình diện náo sinh.

Những “tổng hợp” lớn trong những trận suy tư hoằng viễn, cũng hiện ra trong Nếp Gấp dị thường cơ cấu lung linh mờ tỏ “dường gần Rừng Tía, dường xa Bụi Hồng”. Cho đến lúc nào cái lẽ tử sinh hiện ra giữa trận tiền theo tiết điệu: “sinh là tử, tử là sinh”, tử sinh là cái thiên thu tặng vật phong phú trao về từ dĩ vãng đang chờ đợi con người ở chân trời sương bóng Mai sau.

Truyện Kiều biến làm truyện sử lịch Tây Phương đang tìm sang Đông Phuơng để nêu một câu hỏi trong cuộc gây cấn tương tranh.

Nhưng nếu người Đông Phuơng không nghe cái tiếng nói của Đông Phương thì làm sao mà nghe tiếng nói của Tây Phương.

Phải trả Đức Lý về cõi sơ nguyên trong ánh sáng mờ tỏ của tồn thể, thì Đức Lý mới đủ sức đi tiếp dặm đường và giải toả thiên hạ để bước vào Mê Cung lớn.

Từ đó về sau, thiên hạ sẽ đọc lại thơ Việt Nam trên bình diện Thái Cổ Cực Kim.
Đó là điều môt bực tiền bối cũng đã nói:

“Lão phu mạo hỹ
Tam thu khai bồ liễu chi dung”

Tới lúc đó thì cả trời, cả đất, cả vũ trụ và càn khôn, và Sài Gòn phố thị, và Chợ Lớn phố phường, và cô em họ gái phố Tunis sẽ… hòa chung trong cõi miền bấn loạn của Tình Điên:

“Đã có một lần (giữa trận tiền), tôi xin phép Đại Uý cho phép về Tunis thăm người em họ gái”, Đại Úy trả lời: “Trong thế gian còn chứa đầy xiết bao là cô em họ gái!” [3]
Đông Phương, Tây Phương gặp gỡ nhau chính tại trận tiền nọ.

Một phen trong cõi, đã yêu một cô em họ gái trong miền, thì từ đó về sau nhìn đâu đâu cũng thấy “trong thế gian còn chứa đầy xiết bao là cô em họ gái”. Những da vàng, da trắng, da đen, da Triều Minh Gia Tĩnh, da Hy Lạp Homère, da Sylvie thôn nữ, da cô em mọi nhỏ phiêu bồng… nguồn dịu ngọt… suối tóc hồng vàng… dặm nghìn nước thẳm… năm nghìn cây số sa mạc bên kia….

Những trang viết ẩn kín của mấy nhà tư tưởng Tây Phương đang nói với chúng ta những điều cốt yếu thân thiết trong tâm hồn họ. Nghĩa là tâm hồn của Lục Địa đang thao thức vì câu chuyện sử xanh lạc loài rơi vào trong tồn sinh “hư vô chủ nghĩa” đã tàn phá cõi “Thái Hư”.

Những nhà tư tưởng xưa nay vẫn lần mò đi đứng trong đáy hang sâu… để nghe rõ ràng những vang bóng đi qua…

Kỳ lạ sao. Cứ mỗi phen đoạn trường dội tân thanh là một phen trần gian lẩy bẩy hy vọng náo nức.

Chúng ta muốn rủ nhau chết chùm để có cơ hội hồi sinh sống bó.

Tất cả những trang sách hoằng viễn của hiện đại đều nằm trong trong cơn chiêm bao bát ngát thầm thì vết máu bất-khả-tư-nghi của hoài vọng Hy-Lạp-Ly-Tao!

Tiếng kêu đó phải được nghe trên lối về miền vắng lặng. Vì nó nằm trong cõi bất-tư-nghị của mọi tư tưởng kim cổ trong bầu gió của Tồn Thể Uyên Nguyên.

Vô thanh vô tức… Đoạn trường tân thanh… Thanh hiên thi tập… Terre des hommes… Le Petit Prince… tiếng kêu chìm trong hơi thở hiu hiu…

“Bậc chân nhân đời xưa công trùm thiên hạ, mà thiên hạ không biết không hay”.

Từ câu nói đó, những tặng vật thiên thu bỗng được trao về.

Ta đón nhận và tự nhủ rằng: «dù sao cũng không quá muộn”.

(1965)



Phụ lục

Vài lời dẫn của Mộc Giai


I.

Bài tiểu luận trên gồm những đoạn văn tôi đã trích lục nguyên văn từ bài Tựa, Bùi Giáng viết cho quyển Sương Tỳ Hải, nhà Xuất Bản Phú Vang, Sài Gòn 1966. Trong quyển Sương Tỳ Hải này, Bùi Giáng dịch và giảng giải một số văn bản của Albert Camus, André Gide, Martin Heidegger.

Taị sao những nhà tư tưởng văn học Tây phương xa xôi ấy?

“Những trang viết ẩn kín của mấy nhà tư tưởng Tây phương đang nói với chúng ta những điều cốt yếu thân thiết trong tâm hồn họ”… nhưng cũng là những điều cốt yếu trong tâm hồn của toàn thể chúng ta vốn từ xưa vẫn thao thức với câu hỏi “nhân loại tồn sinh - có hay không - trong Hư Vô chủ nghĩa.

Ôi! Biết bao nhiêu là những trang sách hoằng viễn, tư tưởng “thiên thu tặng vật” trao về từ Đông phuơng, từ Tây phương, từ dĩ vãng cho chúng ta ngày nay, cho con người của mai sau. Những trang sách nằm trong chiêm bao bát ngát hoài vọng khởi sự từ Homère tới Nguyễn Du, từ Khổng Tử tới Camus- Gide -Heidegger…

Trong bài Tựa, Bùi Giáng lại tự hỏi giữa chúng ta, có còn những ai, ai bây giờ biết “lắng nghe” những lời vang vọng đó.

Người xưa đã đặt câu hỏi vào bốn chữ: “Không Cốc Túc Âm”, trong hang động im vắng của tâm hồn, lắng nghe bước chân của người đi rộn ràng bên ngoài, dẫn đường cho tư tưởng.

Và Bùi Giáng còn tự nghĩ, chính chúng ta, người Việt Nam đây, có thật nghe ra được không Nguyễn Du đã nói gì, và định rõ được thế nào là nguồn thơ Việt Nam kim cổ trong giòng lịch sử thi ca của nhân loại. Những điều đặt trong cõi Bất Tư Nghị giữa “bầu gió tồn thể uyên nguyên”


II.

Bùi Giáng có thể ngồi ngay bên lề đường, tựa mình vào một gốc cây, viết hàng chục trang giấy trên một quyển vở học trò. Và cứ như thế trao cho nhà in!

Bùi Giáng phủ nhận mọi giằng co đo đếm, mọi chi ly lý luận.

Ngay trong sáng tác văn học, Bùi Giáng “bản nhiên thử tại trong cõi tồn sinh thể tại”.

Toàn bộ những trang sách văn thơ đã in ra phát hành của Bùi Giáng, đều có thể được coi là những bản thảo. Những bản thảo của thiên tài: câu thơ câu văn tự nó bay bổng không cùng, ý tứ cứ thế lôi theo nhau ẩn hiện đan ghép, ngôn ngữ như suối nước tràn lan bất tận.

Đọc Bùi Giáng, độc giả mỗi người phải biết thu mình lắng nghe, lần mò theo dõi một hai ý. Trước hết phải biết lược gạt, trong cái nghĩa “cất khép lại giữa hai dấu ngoặc” (bracketing) của Husserl, trong Hiện Tượng Luận Học. Lược gạt những đột phá không cùng, hồn nhiên thi phú của nhà thơ chìm đắm trong lời và trong ý.

Bài tiểu luận trên, theo cái ý đó, đã thu gọn vào 3-4 trang sách bài Tựa dài 22 trang sách mà Bùi Giáng đã viết cho Sương Tỳ Hải.

Hỏi tôi đã quá mạo muội không?

Hỏi tôi có phản bội tư tưởng của Bùi Giáng không?

Tôi chỉ biết trả lời rằng tôi đã “thành tâm lắng nghe”.

Bài tiểu luận ngắn gọn, tôi mạn nghĩ, đưa Bùi Giáng gần gũi người trần chúng ta hơn. Và cho các bạn đọc, cho cả chính tôi nữa dễ dàng nhận ra một số suy tư bay bổng, sâu rộng của nhà thơ nhà văn hàng đầu trong lịch sử văn học Việt Nam.

8.3.2004

© 2004 talawas




[1]Những hình ảnh trong Hoàng Tử Bé, Bùi Giáng dịch Le Petit Prince, truyện của Saint Exupéry
[2]Thái sơn tới kỳ lở! Rường gỗ tới kỳ mục! Triết nhân tới kỳ mỵ!
[3]Đoạn văn trích từ Cõi Người Ta, Bùi Giáng dịch Terre des Hommes, truyện của Saint Exupéry.

27/11/08

Huỳnh Ngọc Chiến Từ Buddha đến Bụt và Phật

25.7.2008
Huỳnh Ngọc Chiến
Từ Buddha đến Bụt và Phật

Vấn đề nguồn gốc danh xưng Bụt hay Phật đã được bàn cãi rất nhiều suốt mấy năm qua, dù cả hai danh xưng đó đều được chấp nhận là cách phiên âm của danh từ Buddha trong Phạn văn. Song cũng như nhiều cuộc tranh luận khác, dường như khẳng định cuối cùng vẫn còn để ngỏ. Trên tinh thần trao đổi và học hỏi, chúng tôi đóng góp bài viết nhỏ này, dựa vào kết quả nghiên cứu của nhà Phật học Quý Tiển Lâm của Trung Quốc [1] để trình bày mối liên quan giữa Buddha trong Phạn văn với Phật (hay Bụt) trong Hán văn, mà chúng tôi cho là có tính thuyết phục và đáng tin cậy hơn cả. Trong bài viết này, chúng tôi không đi sâu vào vấn đề từ nguyên và ngữ âm, mà chỉ trình bày vì sao danh từ Buddha với hai âm tiết lại được phiên âm thành Phật hoặc Bụt chỉ với một âm tiết.

Về danh xưng Bụt và Phật, đại khái hiện nay có ba quan điểm:

a. Quan điểm thứ nhất: Phần đông cho rằng từ “Buddha” trong Phạn văn được phiên âm sang Hán văn là “Phật Đà 佛陀” hoặc “Bột Đà 勃 陀”; và Phật là cách gọi tắt của Phật Đà, còn Bụt cách đọc trại chữ “Bột” trong “Bột Đà”.

b. Quan điểm thứ hai: Bụt (chữ Nôm viết là 孛) là cách phiên âm trực tiếp âm tiết thứ nhất của từ Bhudha của người Việt trong giai đoạn sơ kỳ, khi Phật giáo Ấn Độ truyền bá vào nước ta: Bud → Bụt. Quan điểm này cho rằng cách đọc Bụt (là cách đọc bình dân của người Việt) đã xuất hiện trước cách đọc Phật (là cách đọc bác học theo kinh điển Trung Quốc), để khẳng định rằng vào buổi ban đầu, Phật giáo Việt Nam được truyền trực tiếp từ phương Nam tức từ Ấn Độ sang, chứ không phải được truyền từ phương Bắc là Trung Quốc. Cách đọc Phật là do ảnh hưởng của Trung Quốc, và cách đọc này chỉ xuất hiện khi quân Minh sang xâm lược nước ta, tức khoảng cuối thế kỷ 15.

c. Quan điểm thứ ba: Về từ nguyên thì Bụt và Phật đều là cách đọc khác nhau của cùng một chữ 佛 trong chữ Hán mà thôi. Chỉ khác là trước kia đọc là Bụt, sau này đọc là Phật. Nói chung thì Bụt và Phật tuy hai mà một.

Song có một điều đơn giản mà các nhà nghiên cứu chưa giải quyết được là: vì sao trong cả hai cách phiên âm Bụt hay Phật đều chỉ có một âm tiết, trong khi từ Buddha trong tiếng Phạn lại có hai âm tiết? Do đó mới nảy ra cách phỏng đoán Phật chỉ là cách đọc tắt của Phật Đà, và Bụt là cách đọc tắt của Bột Đà hoặc là cách phiên âm trực tiếp âm tiết thứ nhất của từ Bhudha.

Bụt là Phật, điều đó hiển nhiên không có gì để bàn cãi. Trong truyện cổ tích Việt Nam thì Bụt là hình tượng dùng để chỉ vị tiên hiền lành nhân hậu, chuyên ban phúc và cứu giúp cho người lương thiện, điển hình là trong truyện “Tấm Cám”. Từ Bụt đã tồn tại rất lâu trong ca dao tục ngữ, lẫn văn chương bác học.

Ví dụ:

* Chưa dễ ai là Bụt Thích ca/ Mọi điều nhân nghĩa nhẫn thì qua (Nguyễn Bỉnh Khiêm);
* Bụt cũng hiền từ sư cũng khá/ Chỉ hai con chó chữa từ bi (Nguyễn Công Trứ);
* Đi với Bụt mặc áo cà sa, đi với ma mặc áo giấy (Tục ngữ) v.v…

Tác giả Nguyễn Trọng Phu trong bài nghiên cứu “Bụt hay Phật?”có trích dẫn theo quyển Lịch sử chữ Quốc ngữ” của Ðỗ Quang Chính (Tủ sách Ðường Mới, Paris, 1985) một bản thảo của Bento Thiện (sinh năm 1614) là một thầy giảng thuộc Dòng Tên đạo Thiên Chúa, sống gần thời với Đắc Lộ (Alexandre de Rhodes 1593-1660) và đã học chữ quốc ngữ đầu tiên với các linh mục Dòng Tên Marini, Gaspar d'Amiral, Ðắc Lộ. Trong bản thảo đó cho thấy hai từ Bụt và Phật đều được dùng đồng thời [2] .

Theo các tự điển Phật học thì từ Phật 佛 còn có các cách gọi khác như:

* Bộ Đa 部多
* Bộ Đà 部陀
* Bột Đà 勃 陀/勃 馱/馞 陀
* Bộ Tha 步 他
* Hưu Đồ 休 屠
* Một Đà 沒 馱/没陀
* Phật Đà 佛陀/佛 馱
* Phật Đồ 佛圖
* Phí Đà 沸 馱
* Phù Đà 浮 陀
* Phù Đầu 浮 頭
* Phù Đồ 浮 屠/浮 圖
* Phục Đậu 復豆
* Vật Tha 物 他
* Vô Đà 毋陀 v.v….

Trên đây là một số cách mà người Trung Quốc, qua nhiều giai đoạn, dùng để dịch âm danh từ Buddha trong Phạn văn, dịch ý là “Giác giả”, nghĩa là “Đấng giác ngộ”, dùng để chỉ đức Phật. Hai cách phiên âm phổ biến được sử dụng trong kinh điển là “Phù Đồ” 浮屠 hay 浮圖,và “Phật” 佛, song cách phiên âm được kinh điển Trung Quốc sử dụng nhiều nhất vẫn là Phật.Trong bài này, chúng ta tập trung vào cách phiên âm Phật.

Theo các vận thư và tài liệu cổ Trung Quốc thì chữ Phật có nhiều cách phiên thiết. Căn cứ vào Tập vận 集韻 và Chính vận 正韻 thì chữ Phật có hai cách phiên thiết, và do đó có thể đọc theo hai cách bằng âm Hán Việt:

1. Phù vật thiết (符勿切)
=>
Ph(ù) + (v)ật => Phật.
2. Bồ một thiết (蒲沒切)
=>
B(ồ) + (m)ột => Bột.

Theo Thích Văn 釋 文 thì Phật được đọc theo âm Bật 弼.

Đây có lẽ là cơ sở ngữ âm để các nhà nghiên cứu suy ra rằng Bụt (là cách đọc trại của Bột) và Phật đều là cách đọc của một chữ Hán duy nhất, tại hai giai đoạn khác nhau. Theo nhà Hoa ngữ học lỗi lạc Karlgren, trong tác phẩm Grammata Serica, thì chữ Phật có 3 cách đọc là [b’i̭wt/b’i̭ut/fu]. Trong các tự điển Trung Quốc hiện đại, chữ Phật được phát âm theo hai cách là [Fó] và [Bó]. Như vậy, chúng ta có thể thấy rằng giữa cách phát âm Bụt và Phật có mối liên quan mật thiết. Còn vì sao cách đọc Bụt hầu như mất hẳn khỏi nền văn chương truyền khẩu lẫn văn chương bác học thì mọi nghiên cứu để chứng minh cũng chỉ đều là sự suy diễn và phỏng đoán, chứ chưa có một cơ sở khoa học hoặc chứng cứ lịch sử vững chắc nào để khẳng định một cách thuyết phục, ngoài những luận cứ về ngữ âm.

Nếu cho rằng Bụt là cách đọc trại của Bột trong Bột Đà thì phải chấp nhận hai sự kiện. Thứ nhất: từ Bột Đà trong kinh điển Trung Quốc đã xuất hiện trước từ Bụt trong tiếng Việt. Song hiện nay vẫn chưa thấy có văn bản nào được trích dẫn làm sở cứ để chứng mình điều đó cả. Thứ hai: để Bột trong Bột Đà biến thành cách đọc Bụt trong dân gian thì rõ ràng Bột Đà phải là từ rất phổ biến. Song từ Bột Đà chủ yếu chỉ xuất hiện trong các chân ngôn và thần chú trong kinh điển như kinh Lăng Nghiêm, kinh Phật đỉnh tôn thắng đà la ni (bản dịch của sa môn Phật Đà Ba Lợi) v.v… Mà trong kinh điển Phật giáo, tần số xuất hiện của thần chú, chân ngôn so với kinh văn do Phật thuyết lại không cao, thêm vào đó là trúc trắc rất khó đọc, khó nhớ. Tín đồ Phật giáo không còn lạ gì câu: “Đi lính sợ trèo ải, làm sãi sợ chú Lăng Nghiêm”, đủ thấy các chân ngôn, thần chú đọc khó tiêu, khó nhớ như thế nào. Do đó, chúng tôi cho rằng Bột Đà khó lòng được sử dụng phổ biến trong dân gian để biến thành cách gọi tắt là Bụt trong tiếng Việt được.

Còn nếu chỉ căn cứ vào sự xuất hiện của từ Bụt trong những câu ca dao, tục ngữ hoặc các câu chuyện cổ tích dân gian mà ta không thể xác định được thời điểm ra đời, để khẳng định rằng Bụt là cách người Việt phiên âm trực tiếp âm tiết thứ nhất của từ Bhuddha, và qua đó khẳng định rằng Phật giáo được truyền đến Việt Nam trước khi qua Trung Quốc, thì e rằng rất khó thuyết phục.

Thông thường, khi một từ của ngôn ngữ nước ngoài được du nhập vào ngôn ngữ bản địa, mà ta gọi là tá tự hay là từ vay mượn (loan-word), thì người ta phải dùng cách đọc tương tự của ngôn ngữ bản địa để dịch âm, gọi là âm dịch hoặc thể thanh, sao cho cách đọc đó bảo lưu được âm hình ban đầu, dù từ phiên âm đó không có nghĩa trong ngôn ngữ bản địa. Ví dụ người Việt dùng từ “xà-phòng” hoặc “xà-bông” để gọi savon của người Pháp, hoặc “xăng-uých” để gọi bánh sandwich của người Mỹ. Chắc chắn phải trải qua một thời gian dài và được sử dụng phổ biến, dần dần người ta mới quên hẳn nguồn gốc từ vay mượn đó và xem nó như là ngôn ngữ bản địa.

Danh từ Buddha cũng vậy. Khi Phật giáo mới truyền bá đến Trung Quốc, các thuật ngữ chuyên môn đều được những tín đồ phiên dịch kinh Phật giữ nguyên âm điệu, bằng cách dùng những từ Trung Quốc có cách đọc tương đồng để phiên âm cho chính xác. Theo các nhà nghiên cứu, chưa có trường hợp từ hai âm tiết trong Phạn văn nào lại được phiên âm rút gọn thành một âm tiết trong Hán văn. Hơn nữa, Buddha được xem là giá trị tối linh thì chắc chắn các tín đồ Phật giáo dịch kinh thời kỳ đầu không dám phiên âm tắt được. Đó là điều hiển nhiên. Ví dụ tín đồ Thiên Chúa giáo không dám gọi tắt đấng Giê-hô-va là đấng Giê-hô, cũng như tín đồ Hồi giáo không dám gọi tắt đấng Ala là đấng A được hay nhà tiên tri Ma-hô-mét là Ma-hô được.

Như vậy từ Buddha được phiên âm thành Phật hẳn phải bắt nguồn từ nguyên nhân khác. Như đã nói trên, rất nhiều người cho rằng Phật là cách đọc tắt của Phật Đà hoặc Bột Đà. Ngộ nhận này khá phổ biến, và đều bắt nguồn từ Dị bộ tông luân luận thuật ký 異 部 宗 輪 論 述 記 mà ra. Cuốn này ghi rằng: “Phạn âm ‘Phật Đà’ là nói đấng giác ngộ. Từ xưa đã gọi tắt là Phật” (佛陀梵音,此云覺者. 隨舊略語,但稱曰佛: Phật Đà Phạn âm, thử vân giác giả. Tuỳ cựu lược ngữ, đản xưng viết Phật).
Sư cô Chơn Không của thiền viện Làng Mai dẫn chứng lời nói của pháp sư Khuy Cơ, trong phần chú thích cho “Lá thư Làng Mai 25”, như sau:

“Sư khuy Cơ, cao đệ của Tam Tạng Pháp sư Huyền Trang, đời Ðường, trong sách Ðại thừa pháp uyển nghĩa lâm chương, quyển thứ sáu, có nói: ‘Bột Ðà (Buddha) là tiếng Phạn, gọi tắt một cách sai lầm là “Phật” (Phạn văn Bột Ðà, ngoa lược vân Phật)’” [3] .

Điều này lâu nay đã trở thành hiển nhiên đến mức hầu như không còn ai nghi ngờ gì nữa. Song trong các thư tịch còn lại từ thời Hậu Hán Tam Quốc, thì danh từ “Phật” đã xuất hiện trước danh từ Phật Đà rồi! Thư tịch cho thấy không có trường hợp danh từ Phật Đà xuất hiện trước danh từ Phật. Có thể Phật Đà chỉ là cách phiên âm bổ sung thêm vào từ Phật trong giai đoạn về sau, chứ không phải Phật là cách đọc tắt của Phật Đà.

Nhiều nhà nghiên cứu Trung Quốc sống sau thời Hậu Hán, khi đối chiếu nguyên bản Phạn văn với những danh từ được phiên âm trong bản dịch kinh Phật đời trước, thấy không tương đồng, nên cho rằng đó là cách phiên âm sai hoặc phiên âm tắt. Thật ra, trong buổi ban đầu, Phật giáo truyền đến Trung Quốc không phải là Phật giáo Ấn Độ như chúng ta lâu nay lầm tưởng, mà chính là Phật giáo vùng Trung Á, từ các nước như Đại Nhục Chi và các nước nhỏ vùng Tân Cương ở Trung Á, thông qua con đường tơ lụa. Do đó, khi được du nhập vào Trung Quốc trong buổi sơ kỳ, thì phần lớn kinh Phật không được dịch trực tiếp từ Phạn văn mà thông qua một ngôn ngữ trung gian. Chỉ đến đời ngài Huyền Trang thì công việc dịch thuật mới được xem là tập đại thành. Chính vì vậy, trong tác phẩm Đại Đường Tây Vực ký của mình, ngài Huyền Trang đã phê phán cách phiên âm nhiều thuật ngữ Phạn văn trước đó là sai (Ngoa dã). Ví dụ ngài cho rằng phải phiên âm Yojana là du thiện na thay vì do tuần hay do diên, Vaiśya là Phệ Xá thay vì Tỳ Xá v.v… [4] Thực ra, đó không có gì là sai cả. Điều này cũng tương tự như ta phiên âm các danh từ Hy Lạp bằng tiếng Việt, qua trung gian tiếng Anh hoặc tiếng Pháp.

Khi kinh Phật truyền vào Trung Quốc thì danh từ Buddha trong Phạn văn được phiên âm khác nhau là “Phù Đồ” hoặc “Phật”, chỉ vì do con đường du nhập vào Trung Quốc khác nhau, nghĩa là qua hai ngôn ngữ trung gian khác nhau. Danh từ Buddha trong Phạn văn được phiên âm là “Phù Đồ” khi qua nước Đại Hạ và But khi qua các nước nhỏ vùng Tân Cương, Trung Á. Nhà Phật học Quý Tiển Lâm, với kiến thức uyên bác và những luận chứng thuyết phục về ngữ học đã chứng minh cho thấy trong văn tự Hồi Hột, Buddha biến thành trọc âm (âm đục) But. Và các tín đồ Phật giáo Trung Quốc buổi sơ kỳ đã dùng chữ Phật để phiên âm lại danh từ But, vì trọc âm xưa của Phật “佛” cũng là But.

Trong kinh nhật tụng bằng văn tự Hồi Hột, ta thấy cách tụng Nam mô Phật/ Pháp/Tăng như sau:

Quy mệnh Phật (Nam mô Phật)
歸命佛(南無佛)
=>
namo but
Quy mệnh Pháp (Nam mô Pháp)
歸命法(南無法)
=>
namo drm
Quy mệnh Tăng (Nam mô Tăng)
歸命僧(南無僧)
=>
namo sag

Cách phiên âm của từ Buddha trước khi vào Trung Quốc, đã thay đổi qua ngôn ngữ trung gian như sau:

1. Ấn Độ
=> Đại Hạ (Đại Nhục Chi)
=> Trung Quốc
Buddha
=> bodo, boddo, boudo
=> Phù Đồ.

2. Ấn Độ
=> Các nước nhỏ vùng Tân Cương, Trung Á
=> Trung Quốc
Buddha
=> But
=> Phật/Bột.

Sau đây là bảng đối chiếu cách phiên âm từ Buddha trong một số văn bản:

Trong văn tự
Buddha biến thành
Đại Hạ
bodo,boddo,boudo
Các nước nhỏ vùng Tân Cương, Trung Á
but
Văn tự Ba Tư cổ (Thánh điển của Bái hoả giáo)
bwt
Văn tự Ma Ni giáo của An Tức
bwt/but
Văn tự Ma Ni giáo của Mễ Đặc
bwty,pwtyy
Kinh điển Phật giáo Mễ Đặc
pwt

Như vậy, chính vì do cách phiên âm qua trung gian của ngôn ngữ vùng Trung Á [5] , trong khoảng trung thế kỷ, mà người Trung Quốc đã dùng từ Phật để phiên âm từ Buddha của tiếng Phạn, chứ hoàn toàn không phải là cách phiên âm trực tiếp. Điều này cho thấy chữ Phật có thể được đọc là Bụt trong thời cổ. Đây là những luận cứ khoa học về ngữ âm mà chúng tôi thấy là đáng tin cậy hơn cả.

Do đó, chúng ta có thể tạm kết luận: Phật hay Bụt đều là hai cách đọc khác nhau của một từ duy nhất. Và từ này không phải được phiên âm trực tiếp từ danh từ Buddha trong Phạn văn, mà thông qua ngôn ngữ trung gian của vùng Trung Á.

Chúng tôi hy vọng rằng bài viết ngắn này giải thích được phần nào nguồn gốc của hai từ Bụt và Phật. Song theo thiển ý, đã là Phật tử thì chúng ta cũng không cần phải quan tâm quá đáng với sự phân biệt giữa Bụt và Phật như các nhà nghiên cứu, mà hãy tự hỏi từ Bụt có đem lại an lạc tâm linh hơn từ Phật hay không, và ngược lại? Đạo Phật chủ trương “Bất hoại giả danh nhi thuyết thực tướng”. Trong kinh Lăng Già, đức Phật luôn nhắc nhở môn đồ rằng tất cả ngôn thuyết đều do nhân duyên hoà hợp mà thành, cho nên ngôn thuyết không thể nói về đệ nhất nghĩa đế, huống chi là hai từ Bụt và Phật?


© 2008 talawas

[1]Quý Tiển Lâm, Phật giáo học thuật luận văn tập, Nxb Đông sơ xuất bản xã, Đài Bắc, 1996, tr. 1 - 18.
[2]Xem “Bụt hay Phật?”, Nguyễn Trọng Phu, http://www.thuvienhoasen.org/ddpp-buthayphat-01.htm
[3]Xem “Danh từ Bụt - Trích Lá thư Làng Mai ngày 12-2-2002”, Sư Cô Chơn Không, http://www.thuvienhoasen.org/ddpp-buthayphat-02.htm
[4]Xem thêm Bút ký Đường Tăng, dịch giả TS Lê Sơn, Nxb Phương Đông, 2007, các tr. 75, 128, 153, 157…
[5]Mễ Đặc tức Sugda thời trung thế kỷ, còn gọi là Tốt Lợi (sūlīk), người BaTư cổ đại gọi là Suguda. Đại Hạ là quốc gia ở vùng tây bắc Trung Quốc thời cổ, người Hy Lạp cổ đại gọi là Bactria. An Tức là Arsacid hay Parthia thời cổ.

Trần Văn Tích : Tìm kiếm đơn vị từ ngữ tương đương

10.6.2008
Trần Văn Tích
Tìm kiếm đơn vị từ ngữ tương đương

Als Ausdruck der Verbundenheit Frau Thai Kim Lan gewidmet

Tập tiểu thuyết đoản thiên văn ngôn Liêu trai chí dị của Bồ Tùng Linh có bốn trăm ba mươi truyện ngắn, trong số đó có truyện “Xúc chức”. Truyện “Xúc chức” có gần một ngàn bốn trăm chữ, trong số đó có câu văn: “Thị chi, hình nhược thổ cẩu, mai hoa sí, phương thủ trường hỉnh, ý tự lương.” Câu văn vừa kể có tất cả mười sáu chữ [1] , trong số đó có hai chữ “thổ cẩu”. Ðó là hai chữ quí hoá, vì nhờ nó mà có bài viết hôm nay.

Ðề tài của Liêu trai chí dị rất rộng rãi, nội dung phong phú, chủ yếu bao gồm ba lĩnh vực. Lĩnh vực thứ nhất đả kích tính chất hắc ám của xã hội chính trị, như các truyện “Xúc chức”, “Tịch Phương Bình”, “Mộng lang”. Lĩnh vực thứ hai vạch trần tệ đoan của chế độ khoa cử, như các truyện “Tư Văn Lang”, “Vương Tử An”, “Giả Phụng Trĩ”. Lĩnh vực thứ ba mô tả ái tình giữa hồ tinh và con người, như “Anh Ninh”, “A Bảo”, “Liên Hương”, “Tiểu Tạ”. Truyện “Xúc chức” được Lâm Ngữ Ðường đánh giá là một đoản thiên tiểu thuyết kiệt tác trứ danh của Trung Quốc.

Liêu trai chí dị hành văn trau chuốt công phu trong sáng trôi chảy. Có rất nhiều bản chú giải Liêu trai chí dị. Ngoài ra còn nhiều bản trích lục Liêu trai chí dị, thích ứng với nhu cầu thưởng ngoạn của từng độc giả. Liêu trai chí dị hiện có bản dịch toàn bộ sang chữ Việt, bên cạnh nhiều bản trích dịch. Ðối với các ngoại ngữ khác, cũng có những bản dịch toàn bộ và những bản tuyển dịch.

Trong “Xúc chức”, Bồ Tùng Linh kể chuyện một ông vua thích đá dế, quan lại các cấp đua nhau dâng dế để mong lấy lòng vua, còn bọn cai trị địa phương thì nhân cơ hội đó ra tay vơ vét, tạo nên thảm cảnh nhà tan cửa nát, dân chúng lầm than chết chóc. Câu văn “Thị chi, hình nhược thổ cẩu, mai hoa sí, phương thủ trường hỉnh, ý tự lương” mô tả tình huống nhân vật chính trong truyện ngắn tên “Thành Danh” bắt được con dế và ngắm kỹ nó. Có thể dịch thành Quốc ngữ như sau: “Nhìn kỹ thì hình giống thổ cẩu, cánh tựa hoa mai, đầu vuông cẳng dài, có vẻ tốt.”


Thổ cẩu, hai chữ khó hiểu

Các dịch giả Việt Nam và ngoại quốc “xử lý” hai chữ thổ cẩu qua nhiều cung cách chuyển ngữ. Nguyễn Văn Huyền trong Liêu trai chí dị, Lời bình Tản Ðà, Lời bạt Chu Văn, in lần thứ tư, Nhà Xuất bản Văn học, Hà Nội, 2002, trang 369: “Ngắm kỹ, đầu vuông, đùi dài, dáng ve sầu cánh hoa mai, có vẻ tốt.” Ðồng thời dịch giả chú thích: “Nguyên văn ‘thổ cẩu’ (chó đất) một loại côn trùng, dạng ve sầu.” Dịch giả họ Nguyễn chủ xướng thổ cẩu là một loại côn trùng dạng ve sầu, nhưng không biết chắc nó là con gì.

Nguyễn Quốc Ðoan khi dịch Trung Quốc truyền kỳ tiểu thuyết của Lâm Ngữ Ðường, Nhà Xuất bản Văn hoá Thông tin, Hà Nội, 1994, trang 19, đã trình bày câu văn nguyên tác mười sáu chữ của Bồ Tùng Linh theo lối viết lại (trùng biên) của Lâm Ngữ Ðường: “(…) ông đứng nhìn con dế nhỏ có cái cổ dài, trên cánh có hoa văn hình hoa mai, có lẽ là một con dế thiện chiến.”

Sir Walter Hillier trong The Chinese Language How to learn it, Volume II, Part I, The Lazarist Press, Peking, 1909, đã dịch thoát truyện “Xúc chức” làm tài liệu trợ huấn cho việc học Hoa ngữ và chuyển ngữ linh động nơi trang 65: “(…) and when he had a close look at him he seemed to be rather a capable sort of an insect, (…)” Nơi phần chú thích từ vựng, thổ cẩu không được nhắc đến mà chỉ có các nhóm chữ xúc chức, khúc khúc và giải xác thanh nhằm chỉ loài dế.

Herbert A. Giles trong Strange Stories from a Chinese Studio, Third Edition Revised, Kelly & Walsh, Limited, Shanghai, Hongkong, Singapore and Yokohama, 1916, trang 278: “and, on examining it more nearly, he saw that it really was a handsome insect, with well-formed head and neck, (…)” Nhà Trung Hoa học người Anh tránh tìm đơn vị ngữ nghĩa tương ứng trong tiếng mẹ đẻ của mình để chuyển dịch thổ cẩu mà chỉ dịch thoát là “một côn trùng đẹp”.

Ursula Löffler trong Chinesische Geschichten, Deutscher Verlagsanstalt, Stuttgart, 1954, chuyển dịch Liêu trai chí dị từ bản Anh ngữ của Lâm Ngữ Ðường (Lin Yu-tang), trang 258: “Der Vater ergriff ihn und prüfte ihn eingehend. Er hatte einen langen Hals und ein Pflaumenblütenmuster auf den Flügeln. Er mochte ein guter Kämpfer sein, (…)” [Ông bố chụp bắt nó và chăm chú nhìn nó. Nó có cổ dài và trên đôi cánh có hình mẫu hoa mai. Nó có thể là một con vật chiến đấu tốt (…)] Dịch giả xem như nguyên tác không có hai chữ thổ cẩu.

Adrian Baar trong Chinesiche Gespentergeschichten, Fischer Taschenbuch Verlag, Frankfurt am Main, 1975, trang 109: “(…) und als er sie genauer betrachtete, sah er, dass es eine recht hübsche Grille war, mit gut geformtem Kopf und Hals, und trug sie deshalb im Haus.” [(…) khi nhìn kỹ hơn thì anh ta thấy rằng đó là một con dế rất đẹp với đầu và cổ cân đối nên liền mang nó vào nhà.] Tác giả chuyển thổ cẩu thành “con dế rất đẹp” đồng thời bỏ rơi các chi tiết hình thể học liên quan đến “mai hoa sí”, đến “trường hỉnh”; và mặc dầu Bồ Tùng Linh không hề mô tả cổ con thổ cẩu, Baar vẫn dịch thành mit geformtem Hals, với cổ cân đối.

Gottfried Rösel trong Zwei Leben im Traum, Verlag die Waage Zürich, 1989, trang 290: “Er betrachtete es: es sah wie eine ‘Erdhund-Grille’ aus, hatte Flügel von der Farbe der Pflaumenblüte, einen viereckigen Kopf, lange Unterschenkel und schien von gutem Charakter.” (Anh ta nhìn kỹ con vật: nó giống như một con “dế chó đất”, cánh màu hoa mai, đầu bốn góc, đùi dài và có vẻ tốt.) Dịch giả người Ðức trực dịch thổ cẩu thành chó đất đặt trong ngoặc, từ đấy mô tả cho động vật chí Trung Quốc một loài dế mới, dế chó đất.

Thổ cẩu cũng xuất hiện trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, nhưng với tư cách một món ăn không mấy khoái khẩu. Trong thời gian đi sứ vào hai năm 1813 và 1814, nhiều lần phái đoàn ngoại giao do Nguyễn Du lãnh đạo bị nghẽn đường vì thuỷ tai hoặc nội loạn. Vào đất Hà Nam, vừa vượt qua Hoàng Hà sau năm ngày nhịn đói do nước sông lên to lại không đi được nữa vì lương dân nổi dậy, để sống sót, nhà ngoại giao thi sĩ đành chấp nhận những món ăn thuộc mơ-nuy của… tù cải tạo cộng sản, cố gắng nuốt vào dạ dày những thực phẩm như bánh gạo mạch và thổ cẩu. Bài “Hoàng Hà trở lạo” (Mắc lụt bên Hoàng Hà) ghi nhận:

Mạch cao thổ cẩu nan vi thực,
Lạc ngạnh phiêu bình thất tự mưu.

(Bánh gạo mạch và thổ cẩu khó nuốt,
Cành trôi bèo nổi, chẳng mưu được việc).

Thơ chữ Hán Nguyễn Du đã được tuyển dịch, chú thích và ấn loát, phổ biến tương đối rộng rãi, nhất là vào thời buổi kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Gặp hai chữ thổ cẩu, tất cả các dịch giả sang quốc văn hiện đại đều cố gắng giảng giải.

Trước tiên là nhóm Lê Thước - Trương Chính. Ấn bản do nhị vị phụ trách sưu tầm, chú thích, phiên dịch, sắp xếp cùng với mười cộng tác viên khác, Nhà Xuất bản Văn học, Hà Nội, bản in lần thứ hai, 1978, trang 350, giải thích hai chữ thổ cẩu như sau: “3. Thổ cẩu: con dê đất. Nhưng theo Từ nguyên thì đó là một loài quái vật ở nước hình giống con dê. Xưa có người đào giếng bắt được một quái vật, không hiểu con gì, đến hỏi Khổng tử. Ông này trả lời đó là loài dê. Ở đây chỉ một giống vật lạ do nước lụt mang đến.”

Tôi chép lại nguyên văn và nguyên dạng chú thích số 3, kể cả hàng chữ in nghiêng, mà tôi chẳng rõ tại sao lại phải in như vậy, chắc chỉ là lỗi ấn loát. Nhưng tuy thế câu chú thích vẫn còn một số điểm bất ổn. Dựa vào tài liệu nào nhóm chủ biên cho rằng thổ cẩu là dê đất? Và đã hiểu như vậy tại sao lại còn “nhưng” để rồi đan cử Từ nguyên? Vả lại Từ nguyên (bản tôi tham khảo in năm 1984, tương đối mới) không đề cập gì đến chuyện Ðức Khổng phu tử được tham vấn. Huống chi, đã là dê, cho dù là dê đất (?), thì đâu đến nỗi nuốt không trôi, ăn không nổi trong cảnh cơ hàn lũ lụt?

Hai dịch giả khác cũng sử dụng nguyên văn lời chú thích Lê Thước - Trương Chính liên quan đến thổ cẩu:

* Chi Ðiền Hoàng Duy Từ, Nguyễn Du, Thơ chữ Hán, Quyển 2, Nhà Xuất bản Mr. L. Hoàng, California, 1986, trang 137;

* Duy Phi. 249 bài thơ chữ Hán Nguyễn Du, Nhà Xuất bản Văn hoá Dân tộc, Hà Nội, 2000, trang 343.

Riêng Bùi Hạnh Cẩn trong 192 bài thơ chữ Hán của Nguyễn Du, Nhà Xuất bản Văn hoá Thông tin, Hà Nội, 1995, trang 122 thì chú là: “Thổ cẩu: con dế (dấu sắc, TVT) đất. Nhưng theo Từ nguyên thì đó là một loại quái vật ở nước hình giống con dê.”

Theo Nguyễn Du toàn tập, Tập 1, Nhà Xuất bản Văn học, Hà Nội, Thơ chữ Hán, Mai Quốc Liên phiên âm, dịch nghĩa, chú thích với sự cộng tác của Nguyễn Quảng Tuân, Ngô Linh Ngọc, Lê Thu Yên, 1996, trang 435 thì: “Thổ cẩu: con dê. Theo Từ nguyên thì xưa có người đào giếng bắt được một con vật lạ, không hiểu con gì, đến hỏi Khổng Tử. Ông này trả lời đó là con dê. Bản C in là dế đất thì sai.”

Tóm lại, đối với hai chữ thổ cẩu được Bồ Tùng Linh và Nguyễn Du đưa vào tản văn trần thuật và vận văn trữ tình, thái độ của các dịch giả Việt Nam và quốc tế như sau:

* tránh né không dịch;

* chuyển thành một động vật được xem là tương tự;

* trực dịch thành “chó đất”;

* cho là con dê đất (không dấu), con dế đất (dấu sắc);

* dựa vào Từ nguyên để xem là một quái vật.

Ðiều đáng nói là nếu thơ văn Quốc ngữ luôn luôn tìm cách chú thích nhiều khi dài dòng về thổ cẩu thì các soạn giả Trung Hoa không phải bao giờ cũng làm công việc này. Ðó chẳng hạn là trường hợp ấn bản Trương Hữu Hạc. Sau dòng chính văn in bốn chữ phương thủ trường hỉnh với cỡ chữ tương đối lớn là hai dòng chú thích in theo lối lưỡng cước với cỡ chữ nhỏ chỉ bằng nửa chữ thường: “Hà chú: mai hoa sí, giải xác thanh, phương thủ trường hỉnh, xúc chức hình dã” (Họ Hà chú: cánh tựa hoa mai, cua vỏ xanh [2] , đầu vuông cẳng dài, đó là hình dáng con dế). Còn bản Dương Gia Lạc thì không có lời giải thích nào sau câu văn có hai chữ thổ cẩu mặc dầu nơi trang 331 liên hệ có đến mười ba chú thích. Dường như đối với người Trung Hoa, thổ cẩu là một từ ngữ không gây nhiều vấn đề. Tuy nhiên trong Cảnh thế thông ngôn, truyện “Tinh dương cung thiết thụ trấn yêu” do Phùng Mộng Long chấp bút thì thổ cẩu tử có được giải nghĩa nơi chú thích số 20, trang 646: “Thổ cẩu tử: tựu thị lâu cô, khoát lâu đích tục xưng.” (Thổ cẩu tử chính là cách gọi thông tục của lâu cô, khoát lâu.) [3]

Thực ra chỉ cần tra cứu các công cụ tham khảo đơn ngữ hay song ngữ là biết thổ cẩu là con gì. Hán ngữ đại từ điển, Trung văn đại từ điển, Từ nguyên đều có mục từ thổ cẩu:

* Hán ngữ đại từ điển ghi cho thổ cẩu ba nghĩa: 1. truyền thuyết trung đích thổ quái (giống vật lạ ở đất theo truyền thuyết); 2. đổ thuỷ đích thổ đại, tiền nhuệ hậu quảng, tiền cao hậu đê, trạng như đôn toạ đích cẩu, cố danh (túi để chắn nước, trước nhọn sau rộng, trước cao sau thấp, hình giống chó ngồi chồm hổm, nên thành tên); 3. diệc xưng “thổ cẩu tử”, lâu cô đích biệt danh (cũng gọi là “thổ cẩu tử”, tên riêng của lâu cô).

* Trung văn đại từ điển ghi cho thổ cẩu ba nghĩa: 1. phần dương dã (dê ở vùng mồ mả); 2. trùng danh, Bản thảo. Lâu cô. Thích danh: huệ cô, thiên lâu, tiên cô, thạch thử, ngô thử, thổ cẩu (tên sâu bọ. Sách Bản thảo. Lâu cô. Còn có tên huệ cô, thiên lâu, tiên cô, thạch thử, ngô thử, thổ cẩu); 3. dĩ thổ tác cẩu hình, dữ thổ độn dụng (lấy đất nặn hình chó, dùng như heo đất).

* Từ nguyên ghi cho thổ cẩu ba nghĩa: 1. một loài quái vật truyền thuyết; 2. một thứ túi, đẫy, trước hẹp sau rộng, trước cao sau thấp, giống hình con chó ngồi trên mặt đất nên có tên thổ cẩu; 3. tên riêng của lâu cô.

Trong các nghĩa trên, chỉ có nghĩa liên quan đến tên sâu bọ là thích hợp với câu văn Bồ Tùng Linh và câu thơ Nguyễn Du. Theo nghĩa đó, thổ cẩu là một tên khác của lâu cô.

Thiều Chửu trong Hán-Việt từ điển giảng: “Lâu cô: con dế, một thứ sâu ở lỗ giống như con dế mèn, rất làm hại lúa và nho.” Từ điển Hán-Việt, do Hầu Hàn Giang, Mạch Vĩ Lương đồng chủ biên, dứt khoát hơn: “lâu cô là dế dũi, dế nhũi”. Cả Chinese English Dictionary của Mathews lẫn A Chinese-English Dictionary của Herbert A. Giles đều cùng ghi cho thổ cẩu một nghĩa duy nhất và thống nhất (chứ không ghi đến ba nghĩa như các từ điển Hán-Hán): the mole-cricket. Theo Das neue chinesisch-deutsche Wörterbuch thì lâu cô là Maulwurfgrille; Grille là dế mèn, Maulwurf là chuột chũi; như vậy lâu cô là dế chũi. Tiếng Pháp cũng có cấu trúc từ ngữ tương tự: taupe-grillon. Các sách dược liệu học cổ truyền còn minh bạch hơn nữa. Hồng Nghĩa giác tư y thư của Tuệ Tĩnh, bài “Nam dược quốc âm phú”, ghi “Dế dũi gọi lâu cô.” Trong Hải Thượng Y tông tâm lĩnh, tập Lĩnh nam bản thảo, quyển Thượng, mục Côn trùng loại, Lãn Ông Lê Hữu Trác cho biết (nguyên văn chữ Hán, dịch sang Quốc ngữ): “Lâu cô tục gọi là con dế nhũi, một tên nữa là thổ cẩu.” Trung Quốc y học đại từ điển, quyển I, trang 169, cho biết: “Thổ cẩu, lâu cô đích biệt danh.” (Thổ cẩu là tên riêng của lâu cô). Nguyễn Văn Minh, tác giả Dược tính chỉ nam, quyển IV, trang 1373, mục từ 3771, xác định thổ cẩu là con dế. Ðỗ Tất Lợi, qua Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam, trang 954, ghi nhận con dế dũi là thổ cẩu, lâu cô. Dế trũi thuộc loại côn trùng cánh thẳng (trực sí loại), màu nâu, lớn chừng 4-5 cm, có hai càng trước rất phát triển để đào ngạch khoét lỗ, tạo thành những đường hầm dưới đất, vì vậy làm hại nương vườn. Ðôi cánh thẳng, đôi càng khỏe là những điểm mạnh của dế trũi, nên tác giả Liêu trai chí dị đã chọn hai chi tiết hình thái học này (mai hoa sí, trường hỉnh) nhằm mô tả con dế màu nhiệm của truyện ngắn “Xúc chức”.

Hiểu thổ cẩu là dế trũi [chứ không phải dê đất (không dấu) hay dế đất (dấu sắc) hoặc quái vật truyền thuyết] thì mới thích hợp với ngữ cảnh truyện ngắn Bồ Tùng Linh và hoàn cảnh chánh sứ Nguyễn Du:

* thổ cẩu mô tả con dế đặc biệt được hồn con trai Thành Danh nhập vào có dạng hình dế trũi với những ưu điểm cơ thể học, mặc dầu nó vốn là dế mèn;

* thổ cẩu tạm thời là nguồn cung cấp protein cho vị trưởng phái đoàn ngoại giao khi nước lụt tràn ngập hang ổ dế trũi.

Dầu sao cuối cùng rồi cũng có người biết đúng nghĩa chữ. Truyện ngắn nhan đề “Dế chọi” trong Tuyển tập Liêu trai chí dị do Nguyễn Huệ Chi nghiên cứu, tuyển chọn, hiệu đính, Nhà Xuất bản Văn nghệ, TP HCM, 1999, tập 3, Lý Việt Dũng phụ trách chuyển ngữ, đã trình bày câu văn mười sáu chữ của Bồ Tùng Linh nơi trang 189-190 bằng tiếng Việt như sau: “Nhìn nó bộ dạng giống như con dế trũi, cánh đốm hoa mai, đầu vuông cổ dài, xem chừng là giống tốt.” Eurêka!


Ðơn vị từ ngữ tương đương

Câu chuyện chuyển dịch hai chữ thổ cẩu không còn thuộc lĩnh vực văn chương nghệ thuật mà bước sang địa hạt khoa học kỹ thuật. Thổ cẩu đã cởi áo nghệ thuật để khoác áo khoa học. Ngôn ngữ nghệ thuật mang nhiều tính hình tượng, nhiều sắc thái biểu cảm, nhiều ý nghĩa liên tưởng. Trái lại ngôn ngữ khoa học rõ ràng, đơn nghĩa, chủ yếu bao gồm những bất biến ngôn ngữ như thuật ngữ, công thức. Vì thế dịch văn khoa học phải rất chính xác, thậm chí có thể sử dụng máy dịch để chuyển nghĩa. Và tất cả vấn đề là phải tái hiện bản gốc qua bản đích bằng những đơn vị từ ngữ tương đương. Ðơn vị từ ngữ Hán là thổ cẩu. Ðơn vị từ ngữ Việt là dế trũi. Thế thôi. Không có dê, không có dế đất, không có dạng ve sầu, không có Erdhunde v.v…

Người dịch thuật, trong tình huống đang bàn, trở thành người biên soạn từ điển song ngữ; nghĩa là phải hiểu sát từ ngữ của văn bản chính và phải biết đúng từ ngữ của văn bản dịch.

Trong trường hợp không nắm vững các đơn vị từ ngữ tương đương trong hai ngôn ngữ gốc và đích, soạn giả từ điển không hoàn thành được nhiệm vụ của mình một cách tối ưu. Chúng ta thử tham khảo Thiều Chửu và Trần Trọng San. Cả hai soạn giả đều thỉnh thoảng lâm cảnh thiếu khoa học lúc chuyển một số từ. Trần Trọng San trong Hán Việt tự điển, Bắc Ðẩu, Canada, 1997, không chuyển nghĩa mà giảng nghĩa chữ yển (bộ thử, chuột): đó là “một loài chuột nhỏ, lông xám hơi vàng, bắt ăn côn trùng có hại, rất hữu ích cho nhà nông.” Thiều Chửu, tác giả Hán Việt tự điển do Ðại Nam in lại ở quốc ngoại, còn dài dòng hơn: “yển: một giống chuột sinh hoạt ở trong đất mình dài hơn năm tấc, lông màu nâu mà rậm và mượt, hình trông y như con chuột, chỉ khác rằng cổ ngắn chân ngắn, chân trước kề sát với đầu, móng chân to và cứng như răng bồ cào, mắt bé mà sâu hoắm, mũi nhọn hoắt mà rất thính, hay dũi đất bắt giun ăn”. Thiết tưởng biên soạn từ điển đơn ngữ cũng chỉ định nghĩa chi tiết được đến như Thiều Chửu là cùng. Trong Thơ văn Nguyễn Khuyến, in lần thứ hai, Nhà Xuất bản Văn học, Hà Nội, 1979, trang 387 cũng như trong Nguyễn Khuyến - tác phẩm, Nguyễn Văn Huyền sưu tầm, biên dịch, giới thiệu, Nhà Xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1984, trang 523 đều cùng giảng giải từ ghép yển thử trong câu thơ Yển thử ẩm Hà diệc mãn phúc là “một loài chuột nhỏ”. Nhưng chuột bạch, chuột nhắt cũng là những “loài chuột nhỏ”. Nếu tham khảo các từ điển song ngữ Hán-Pháp, Hán-Anh, Hán-Ðức thì sẽ thấy rằng yển hay yển thử là con taupe, con mole, con Maulwurf, tức là con chuột chũi. Trần Trọng San thích nghĩa du diên (bộ trùng, sâu) là “một loại trùng sừng dài, chân giống chân rết, ăn các sâu hại lúa”. Ðúng ra, đây là con sên. Dứu (bộ thử, chuột) là “một loài thú nhỏ, đầu hơi tròn, chân ngắn, lông vàng sạm, giỏi co duỗi, ngày ẩn đêm ra, bắt ăn gà chuột; khi gặp địch, thì đít phát ra hơi thối rồi chạy trốn”. Ðúng ra là weasel, belette, Wiesel, con lon, chồn rái. La bặc (thảo đầu) là “tên rau, hạt dùng làm thuốc”. Ðúng ra là củ cải. Chữ tuy (Trần Trọng San, tlđd, trang 449) phải được hiểu là ngò, thay vì “tên một loại rau thơm”; tương tự như chữ kép hồ tuy (Thiều Chửu, tlđd, trang 554) không thể được giải thích thành “một thứ rau, lá non nấu đồ ăn thơm ngon”. Chỉ thử xem qua cách dịch các chữ Hán thuộc bộ trùng (sâu) trong hai tài liệu tham khảo vừa kể, đã có thể phát hiện một số trường hợp cần điều chỉnh vì hai tác giả không đưa ra danh từ đối chiếu thuộc Việt ngữ mà chỉ giảng giải, mô tả. Sau đây là vài ví dụ (Trần Trọng San = Hán Việt tự điển của Trần Trọng San, Thiều Chửu = Hán Việt tự điển của Thiều Chửu).

Mang (Trần Trọng San, trang 470): “tên một loại nhặng chuyên hút máu thú vật”; manh (Thiều Chửu, trang 590, trang 597): “con nhặng”; đúng ra là ruồi trâu. Sải (Trần Trọng San, trang 479): “một loài nhện độc đuôi dài”; đúng ra là loài bọ cạp. Trá, trá mãnh (Trần Trọng San, trang 471): “tên một loại sâu ăn hại lúa”; đúng ra là châu chấu. Huyền (Trần Trọng San, trang 471): “tên một loại trùng, giống con rết nhưng không độc”; huyền, mã huyền (Thiều Chửu, trang 585): “một thứ sâu dài độ hơn một tấc, mình như cái ống tròn, có từng đốt, mỗi đốt có hai chân, động đến liền co lại như con ốc, có mùi như dầu thơm, nên tục gọi là hương du trùng”; đúng ra là cuốn chiếu. Hồi (Trần Trọng San, trang 472): “con giun sống trong ruột động vật”; đúng ra là sán (hay lãi). Cùng, phi cùng (Trần Trọng San, trang 472): “một loại sâu bay ăn hại lúa”; đúng ra cùng là tên cũ của con dế. Phiêu, phiêu tiêu (Trần Trọng San, trang 477): “trứng của con bọ ngựa (đường lang) bám trên cành cây”; Phiêu, phiêu sao (Thiều Chửu, trang 592): “trứng con bọ ngựa hay làm tổ ở bên cây dâu, nên gọi là tang phiêu sao”; đúng ra là tổ bọ ngựa. Dũng (Trần Trọng San, trang 473): “trạng thái trong thời kỳ quá độ từ ấu trùng biến thành trùng”; đúng ra là nhộng. Bì (Trần Trọng San, trang 474): “một loài nhện, có hại cho người, gia súc và nông phẩm”; đúng ra là ve. Phúc (Trần Trọng San, trang 475): “một loại rắn độc”; các từ điển song ngữ Hán-Pháp, Hán-Anh, Hán-Ðức ghi là Ancistrodon, như vậy đúng ra là rắn hổ mang. Bành, bành kỳ (Trần Trọng San, trang 478): “một loại cua nhỏ màu đỏ”; đúng ra là cáy. Hoạch (Trần Trọng San, trang 479): “xem chữ xích (trang 470)”, xích hoạch (trang 470): “ấu trùng của loại sâu giống con tằm”; đúng ra là sâu đo (đáng chú ý là chữ xích viết với bộ trùng bên trái và chữ xích bên phải, mà chữ xích vốn chỉ một đơn vị đo chiều dài). Có thể ước đoán là đối với những chữ vừa được đan cử, hai soạn giả tự điển đã dịch phần định nghĩa của từng chữ theo tự điển đơn ngữ Hán-Hán, vì không biết rõ đơn vị từ vựng tương đương thuộc tiếng Việt.

Thực vậy, một trong những vấn đề khó khăn phức tạp của công việc đối chiếu từ vựng của các dân tộc khác nhau là việc xác lập liên hệ tương đương giữa các đơn vị thuộc ngôn ngữ được đối chiếu và ngôn ngữ đối chiếu. Trong thực tế, những thuật ngữ biểu thị các khái niệm nhiều khi phổ thông của một ngôn ngữ nước ngoài khi đem đặt song song với các thuật ngữ xem như tương đương trong tiếng Việt, lắm khi chỉ đạt được tính chính xác tương đối. Cho nên các từ điển Pháp-Việt, Anh-Việt, Ðức-Việt v.v… – chứ chẳng riêng gì tự điển Hán-Việt – có thói quen thích nghĩa tên gọi một thứ cây, một ngọn cỏ, một loài vật, một con sâu v.v… qua lối phu diễn ngữ pháp. Chính vì thế nên khi ngôn ngữ học tạo cơ may cho hai từ tuy thuộc hai tiếng nói khác nhau nhưng lại “giống” nhau như hai giọt nước thì người chuyển dịch song ngữ – chứ chẳng phải riêng gì người biên soạn tự điển, từ điển – phải biết nắm ngay lấy cơ may hãn hữu đó. Ðiều này nhóm biên soạn Thơ văn Lý Trần, Tập III, Nhà Xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1978, đã không thực hiện được khi dịch nghĩa và chú thích chữ toa với thảo đầu nơi trang 18. Họ cho biết: “chữ toa vốn chỉ một thứ cây có tên khoa học là Cyperus rotundus, rễ của nó gọi là ‘hương phụ tử’, là một vị thuốc bắc. Ở đây tạm dịch chung là ‘cỏ’ cho dễ hiểu.” Thật ra vị thuốc bắc liên hệ không phải là rễ (Radix) mà là thân rễ (Rhizoma) cây Cyperus rotundus L., cho nên khoa dược liệu học Trung y gọi nó là Rhizoma Cyperi. Nhưng thiếu sót đáng tiếc là nhóm biên soạn không biết rằng đây chính là cây cỏ cú, một loại cỏ dại mọc tràn lan khắp nước ta, một loại cỏ rất khó tiêu diệt đối với nhà nông, một vị thuốc thân quen đến nỗi giới dao cầu thuyền tán hằng truyền tụng là nam bất thiểu trần bì, nữ bất ly hương phụ nghĩa là chữa bệnh cho đàn ông không thể thiếu trần bì, chữa bệnh cho đàn bà không thể rời hương phụ. Và khi dịch câu thơ chữ Hán, phải có thái độ khẳng định hơn, chính xác hơn, chẳng thể “tạm dịch chung là ‘cỏ’” mà cần dịch dứt khoát, tự tín là “cỏ cú”.

Tìm kiếm đơn vị từ ngữ tương đương có khi trở thành công việc đào bới địa tầng văn hoá. Chữ Hán bát là tám, bát bát tất nhiên là tám (mươi) tám. Nhưng Nguyễn Khuyến dùng bát bát với nội hàm khác hẳn trong câu thơ mở đầu bài thơ thường được xem là mang tựa đề “Di chúc”. Tam nguyên Yên đổ tự viết về mình:

Ngã niên trị bát bát.

Một số tài liệu văn học dịch thành:

Kém hai tuổi xuân đầy chín chục; hay Còn hai xuân nữa đầy chín chục. [4]

Ðây là chuyện kỳ lạ khó hiểu vì Nguyễn Khuyến chỉ tại thế có bảy mươi bốn năm thiếu mười ngày mà lại làm thơ “thành khẩn khai báo lý lịch” là tuổi mình vừa được tám mươi tám! Nhà Nho làng Vị Hạ không chỉ là một nhà thơ của làng quê ao chuôm chiêm trũng, một ngòi bút tự trào, một tác gia vừa Nôm vừa Hán, và cả Nôm cả Hán mà còn là một người có đặc tính rất chăm chỉ đếm tuổi đời qua vận văn. Niên kỷ là một thông tin thi ca mà người hàn sĩ, anh khoá Thắng, ông giải nguyên, vị tam nguyên, rồi viên quan nhà Nguyễn cáo về đã lâu thường ưa thích nhắc đến và nhắc đến rất chính xác, theo một nhịp độ ngắn và một tần số cao, y như một công chức tự khai tiểu sử hành chánh. Nhà thơ lại còn chân tình nhớ rõ tuổi tác bạn bè thân thuộc như ông hương sinh họ Nguyễn, ông bạn học Lê Sĩ Nhân. Và con người Nguyễn Khuyến từ thuở bắt đầu biết làm thơ cho đến những năm cuối cổ lai hy là một con người đúng đắn, kỹ lưỡng, trí tuệ sáng, ký ức tốt. Vậy mà bỗng dưng vào một trường hợp duy nhất và trong một bài thơ duy nhất, thi sĩ vận dụng một thủ pháp cách điệu bất chấp sự thật, nó không thể nào là phong cách nhà nho làng Vị hạ. Một nhân vật lịch sử suốt cả đời chi ly cẩn trọng tính tuổi, ghi tuổi, nhẩm tuổi, nhớ tuổi để rồi khi khổng khi không nói sai cả tuổi bản thân vào lúc sáng tác một thi phẩm để đời với chủ đích nhấn mạnh lời dặn của mình cho con cháu là lời phát biểu lúc sáng suốt, có suy nghĩ chín chắn, cần phải làm theo! [5] Sáng suốt, chín chắn mà mở đầu bằng sai lầm, lẫn lộn! Và sai lầm về một vấn đề không thể sai là tuổi tác, lẫn lộn về một thông tin không thể lẫn là niên kỷ! Tuổi tác, niên kỷ của chính mình chứ không phải của tha nhân! Cho nên có nhiều phần chắc Nguyễn Khuyến chẳng hề ghi sai, mà chỉ có thể người đời sau hiểu lời thơ không đúng. Nói cụ thể và vắn tắt: bát bát không phải tám mươi tám, phải tìm cho nó một nghĩa khác thích hợp với văn cảnh bài thơ và hoàn cảnh nhà thơ. Nghĩa đó là nghĩa y học, sinh học chuyên biệt; không phải nghĩa toán học, số học thông thường.

Trong văn cảnh sinh học, y học hai chữ bát bát không có nghĩa tám mươi tám mà có nghĩa sáu mươi tư. Tương tự như vậy, trong thư tịch sinh lý học, bệnh lý học Trung y, thất thất là bốn mươi chín, không phải bảy mươi bảy. Tập sách gối đầu giường của các cụ lương y, sách Hoàng đế Nội kinh Tố vấn viết, và viết ngay ở chương đầu tiên, chương “Thượng cổ thiên chân luận”, khi bàn về sinh lý sinh dục chính thường nam nữ (trích đoạn và trích dịch): “thất thất, nhâm mạch hư, thái xung mạch suy thiểu, thiên quý kiệt, địa đạo bất thông, cố hình hoại nhi vô tử dã” (đến năm bảy bảy, nhâm mạch hư, thái xung mạch kém, thiên quý hết, địa đạo không thông, cho nên thân thể hao mòn mà không có con) và “bát bát, thiên quý kiệt, tinh thiểu, thận tượng suy, hình thể giai cực, tắc xỉ phát khứ.” (đến năm tám tám, thiên quý hết, tinh thiếu, thận suy, hình thể tột bực, răng tóc đều rụng). Người thầy thuốc cổ truyền Việt Nam đọc đoạn kinh văn này, lập tức tự động hiểu thất thất (đối với phái nữ) là bảy lần bảy tức bốn mươi chín và bát bát (đối với phái nam) là tám lần tám tức sáu mươi tư. Ða số – nếu không là tất cả – các nhà Nho thì đều có những tri thức cơ bản về y dược. Chư vị không đủ trình độ, bản lĩnh để hành nghề y sĩ, không đủ kiến thức kinh nghiệm để biện chứng luận trị, nhưng có thể bàn thảo về các thang phương, góp ý về cách điều trị. Nguyễn Khuyến cũng không ra ngoài thông lệ. Cho nên rất tự nhiên, nhà thơ đã sử dụng một kiến thức phổ quát thuộc lĩnh vực sinh lý bệnh lý Trung y. Và thi sĩ nghĩ rằng tha nhân, hậu thế cũng sẽ hiểu như mình hiểu [6] .

Trở lại với hai chữ từng được Bồ Tùng Linh và Nguyễn Tố Như sử dụng trong tản văn và vận văn của mình: dầu sao đi nữa, thì cũng có thể coi như gần bước qua thiên niên kỷ thứ ba, con đường thương khó chuyển dịch thổ cẩu sang Quốc ngữ (và ngoại ngữ) mới đi đến đích. Sự bất lực tìm ra từ ngữ tương đương của thổ cẩu trong Việt văn, Anh văn, Ðức văn chấm dứt.

Westpreußenstr., 29.05.2008

© 2008 talawas

[1]Vì tài liệu cổ chữ Hán vốn không có dấu phẩy dấu chấm nên một câu văn có thể mang độ dài ngắn khác nhau tuỳ theo sự lĩnh hội nội dung của từng người đọc. Riêng đối với câu văn này có tài liệu nâng độ dài lên hai mươi chữ: “Thị chi, hình nhược thổ cẩu, mai hoa sí, phương thủ trường hỉnh, ý tự lương, hỷ nhi thu chi.” (Nhìn kỹ thì hình giống thổ cẩu, cánh tựa hoa mai, đầu vuông cẳng dài, có vẻ tốt, bèn vui mừng bắt lấy.) Ðó là trường hợp ấn bản do Dương Gia Lạc chủ biên. Tăng đính Trung Quốc học thuật danh trứ đệ nhất tập. Bút ký tiểu thuyết danh trứ đệ nhất tập. Ðệ cửu sách. (Thanh) Bồ Tùng Linh soạn. Hiệu chú Liêu trai chí dị. Thượng quyển (toàn nhị sách). Thế giới thư cục phát hành. Ðài Bắc. Trung Hoa Dân quốc ngũ thập nhất niên nhị nguyệt sơ bản. tr. 331. Tôi chọn độ dài mười sáu chữ theo ấn bản Bồ Tùng Linh. Liêu trai chí dị. Hội hiệu, hội chú, hội bình bản. Trương Hữu Hạc tập hiệu. Thượng. Quyển tứ. Trung Hoa thư cục. 1962. tr. 487.
[2]Giải xác thanh (cua vỏ xanh) là tên một con dế khác, cũng rất thiện chiến, của một tay chơi dế trong thôn.
[3]Phùng Mộng Long (1574-1646) là văn học gia, hí khúc gia đời Minh. Có nhiều tác phẩm trong đó có thể kể Dụ thế minh ngôn, Cảnh thế thông ngôn, Tỉnh thế hằng ngôn, gọi chung là Tam ngôn. Mỗi tập có bốn mươi truyện ngắn, cộng chung tất cả thành một trăm hai mươi truyện. (Cảnh thế thông ngôn. Hạ. Ðệ tứ thập quyển. Phùng Mộng Long biên. Trung Hoa thư cục Hương Cảng phân cục. 1978).
[4]a. Văn đàn bảo giám, Trần Trung Viên sao lục, tập II, Ðại Nam in lại ở quốc ngoại, trang 79;
b. Thơ văn Nguyễn Khuyến, Nhà Xuất bản Văn học, Hà Nội, 1979, trang 167 (chữ Quốc ngữ) và trang
444 (chữ Hán phiên âm);
c. Hợp tuyển thơ văn Việt Nam 1858-1920, Huỳnh Lý chủ biên, Nhà Xuất bản Văn học, Hà Nội, 1984, trang 412;
d. Thơ Nôm, Bùi Văn Bảo, Nhà Xuất bản Quê hương, Toronto, Canada, trang 51.
[5]Bài “Di chúc” còn có một đầu đề khác là “Trị mệnh”. Ðầu đề này có xuất xứ từ điển tích Ngụy Khoả-Ðỗ Hồi trong Xuân Thu tam truyện, Tả truyện, Tuyên công thập ngũ niên, Tần nhân phạt Tấn. Nội dung của hai chữ trị mệnh là mệnh lệnh lúc còn sáng suốt, cần phải theo. Cho nên các tự điển Hán-Anh chuyển thành dying requests that may be carried out (Mathews’ Chinese-English Dictionary) hoặc to carry out rightful behests given as dying injunctions (Herbert A.Giles, A Chinese-English Dictionary).
[6]Herbert A.Giles (tlđd) và Mathews (tlđd) đều chuyển bát bát sang Anh ngữ thành sixty-four.