30/4/10

Nguyễn Lan – Nước Việt có cần một chủ nghĩa dân tộc?

Nguyễn Lan – Nước Việt có cần một chủ nghĩa dân tộc?
01/05/2010 | 6:00 sáng |

Tác giả: Nguyễn Lân

Chuyên mục: Chính trị - Xã hội
Thẻ: Chủ nghĩa dân tộc

Sau 1975, chế độ Hà Nội cương quyết thực hiện chủ nghĩa xã hội (ngay cả tên nước cũng đổi thành Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam) với phương châm “tiến nhanh, tiến mạnh, tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội”, thế nhưng tiến đâu không thấy, chỉ thấy lùi: phá sản kinh tế (nông dân Bến Tre, quê hương của Đồng Khởi, đốt hoa màu phản đối chính sách hợp tác xã, nhân dân phải ăn bo bo để sống cầm hơi), “thiên đường xã hội chủ nghĩa” đầy rẫy nhà tù “học tập, cải tạo”, nhân dân tán thán (với những chuyện tiếu lâm như: XHCN = Xếp hàng cả ngày, cái cột đèn cũng muốn đi, tượng thánh Trần chỉ tay ra biển Đông (khuyên dân đi di tản với tượng Bác Hồ xòe bàn tay ra giá 5 cây vàng), Việt Nam đoạt các cúp: cúp nước, cúp điện,…), bị cô lập với thế giới (về ngoại thương, vì thiếu ngoại tệ nên hầu hết phải dùng hàng hóa thay thế), Bắc Kinh “dạy cho một bài học” (1979), xâm chiếm Trường Sa (1988)…

Tới thời mở cửa, mặc dù kinh tế khá hơn (nhất thời, chưa tính hậu quả về sau trong việc khai thác tài nguyên thiên nhiên bừa bãi), không còn bị cô lập (vào WTO), nhưng lại nẩy sinh những vấn nạn khác: con người và xã hội ngày càng tha hóa trầm trọng (xã hội đen, đĩ điếm, các “cậu ấm”, “cô chiêu” của các quan cách mạng sống buông thả như một lũ mất dạy, bản thân các ông quan này cũng đểu giả, lưu manh không kém…), tham nhũng, lạm quyền, lộng quyền, bóc lột dân oan, tư sản “đỏ”, ô nhiễm…

Trong khi đó, đối với Bắc Kinh, Hà Nội đi từ nhân nhượng này tới nhân nhượng khác: nhượng đất (Hiệp định Biên giới đất liền Việt-Trung), nhượng biển (Hiệp định về Vịnh Bắc Bộ), hiệp định về vùng đánh cá chung mà thực chất là để cho tàu cá Bắc Kinh (lớn và đầy đủ phương tiện) tự do khai thác, thậm chí họ còn có ý đồ khác (ông Thứ trưởng ngoại giao Lê Công Phụng nói theo kiểu ngoại giao: “họ nói mãi nên chúng tôi mới chịu ký”; trên thực tế, “nói mãi” là gây áp lực buộc Hà Nội phải ký hiệp định có lợi cho họ), thậm chí can thiệp vào chuyện nội bộ của Hà Nội (dưới áp lực của Bắc Kinh, sau Đại hội Đảng VII, ông cố Bộ trưởng ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch bị thất sủng, mất chức, bị loại khỏi Bộ Chính trị; trong Đại hội Đảng X, Bắc Kinh “mong muốn” Nông Đức Mạnh tiếp tục làm Tổng Bí thư…). Ngày nay, Bắc Kinh tiếp tục buộc Hà Nội phải “hợp tác toàn diện”, để cho Bắc Kinh khai thác bô-xít Tây Nguyên (ngoài hậu quả nghiêm trọng về môi trường, văn hóa vùng đã được các chuyên gia cảnh báo trước, Tây Nguyên còn là địa bàn chiến lược: Tây Nguyên là vùng cao điểm, kiểm soát được Tây Nguyên là kiểm soát được toàn vùng Đông Dương), phải nhân nhượng trong các cuộc đàm phán về việc phân chia lãnh hải vùng Biển Đông (nhằm thực hiện ý đồ bá quyền Biển Đông của họ), thường xuyên răn đe bằng các thủ đoạn như tập trận (có khi bằng đạn thật), tuần tra lãnh hải (kể cả vùng thuộc chủ quyền của Việt Nam), bắt đầu công khai khai thác Biển Đông bất chấp mọi phản đối, thậm chí bắt giữ, đòi tiền chuộc, bắn giết ngư dân Việt…

Trong bối cảnh “thù trong, giặc ngoài” đó, có khuynh hướng (trực tiếp hay gián tiếp) cho rằng cần phải xây dựng (chí ít là biểu dương) một chủ nghĩa dân tộc (mới) nhằm giải quyết những vấn nạn nêu trên. Vậy, ý nghĩa và công dụng của “chủ nghĩa dân tộc”, “chủ nghĩa dân tộc Việt” là gì?

I. Chủ nghĩa dân tộc
Trên khắp thế giới, ở một giai đoạn nhất định, trong một hoàn cảnh khó khăn nào đó (bị xâm lăng, khủng hoảng kinh tế,…), mọi chính quyền đều kêu gọi lòng yêu nước của người dân để động viên, huy động lực lượng toàn dân nhằm vượt qua khó khăn ấy. Đây là điều thông thường, chính đáng và chỉ là sự động viên nhất thời chứ không phải là một chủ nghĩa rõ nét nào cả; mọi quốc gia đều làm như thế.

Thế nhưng cần xem xét một số đặc trưng:

•Các chế độ độc tài kiểu Quốc xã: các chế độ độc tài này thường sử dụng chiêu bài “dân tộc” để khích động nhân dân và buộc họ phải phục tùng; thậm chí còn được thêm vào chiêu bài “chủng tộc” (chủ nghĩa Quốc xã coi chủng tộc Đức hơn hẳn các chủng tộc khác và đặc biệt chủng tộc Do Thái thấp hèn, độc hại cần phải loại trừ). Ngày nay, các đảng chính trị cực đoan cũng vẫn dùng chiêu bài dân tộc để kiếm phiếu cử tri. Riêng tại Nam Tư cũ (và nhất là tại Bosnia) đã từng có các cuộc “thanh lọc chủng tộc” đẫm máu. Tại vài nước châu Phi, có các cuộc “thanh lọc bộ tộc”, nhưng chủ yếu là hệ quả của chính sách thực dân chia vùng ảnh hưởng thành các quốc gia thuộc địa không hợp lý (trước đó, các vùng này không phải là một quốc gia và có nhiều bộ tộc sinh sống) và chính sách giải thực vội vã (đúng ra là… bỏ chạy); các thủ lĩnh khích động tình cảm bộ tộc, có thể coi đây là một chủ nghĩa dân tộc sơ khai. Về đại thể đây là chủ nghĩa dân tộc cực đoan.
•Tại một số nước (kể cả tại các nước dân chủ), trong một số hoàn cảnh (như khó khăn kinh tế), chủ nghĩa dân túy có dịp bùng nổ, chủ nghĩa này khích động tinh thần bài ngoại, kỳ thị chủng tộc, văn hóa,… Thí dụ là Mặt trận Quốc gia (Front National) của ông Le Pen, Pháp hay các nhóm “đầu trọc uống bia” tại một số nước thuộc khối Liên Xô cũ. Đây là một biến thể của chủ nghĩa dân tộc cực đoan, các đảng chính trị cực hữu thường dùng thủ đoạn này.
•Các chế độ độc tài xã hội chủ nghĩa: là các quốc gia theo chủ nghĩa cộng sản quốc tế (với khẩu hiệu “vô sản thế giới đoàn kết lại”) nên họ phải tôn sùng chủ nghĩa quốc tế của họ, thế nhưng, từ dân thường tới đảng viên (kể cả lãnh đạo), chẳng ai biết cái chủ nghĩa cộng sản (hay chủ nghĩa xã hội) là gì để mà ủng hộ, do đó họ phải thêm vào chiêu bài dân tộc dễ thuyết phục hơn. Riêng tại Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam (CSVN) đưa ra khẩu hiệu “yêu nước là yêu chủ nghĩa xã hội”, mong dùng lòng yêu nước truyền thống để buộc dân tộc ta phải đi theo cái chủ nghĩa (mơ hồ) của họ. Đây là một chủ nghĩa dân tộc kiểu “mượn hoa cúng Phật”, dùng cái dễ khích động để bảo vệ nền chuyên chính vô sản của họ. Ngày nay, về lý thuyết, Trung Quốc vẫn theo chủ nghĩa xã hội, nhưng trên thực tế, kể từ thời Đặng Tiểu Bình, họ đã từ bỏ chủ nghĩa này; do đó, để bảo vệ cái chế độ đầu Ngô, mình Sở này và cũng để thực hiện giấc mộng bá quyền, họ chỉ còn có nước sử dụng chiêu bài dân tộc mà thôi; Trung Quốc ngày càng theo chủ nghĩa dân tộc cực đoan (có thể coi như một Đức Quốc xã mới), đây là một hiểm họa cho các nước trong vùng và cả thế giới.
•Các chế độ độc tài (quân phiệt) khác: đây là các chế độ độc tài “tiền và súng” (vì quyền và lợi riêng của mình, họ sẵn sàng dùng bạo lực trấn áp, như Miến Điện, vài nước ở Phi, Mỹ Latinh). Vì cần dùng “súng” nên kẻ cầm quyền thường là các tướng lãnh (hay có liên hệ mật thiết với quân đội, công an). Do không có lý thuyết nào cả nên họ sẵn sàng gắn từ “phản quốc” cho bất kỳ ai mà họ cho là chống đối chế độ; ngược lại, những ai theo họ là “ái quốc”. Họ sử dụng chủ nghĩa dân tộc như một luận cứ để bảo vệ cái ghế ngồi của họ.
•Các chế độ độc tài tôn giáo (toàn thủ): cụ thể là các nước (và cả các nhóm) Hồi giáo cực đoan kêu gọi tín đồ của họ trên toàn thế giới (tính quốc tế) mở cuộc thánh chiến chống lại “quỷ sa tăng” Mỹ và chư hầu. Có lẽ lý thuyết “người anh em Hồi giáo” (Les Frères musulmans – Muslim brothers) có ảnh hưởng quan trọng, chí ít lý thuyết này giải quyết được vấn đề chia rẽ lâu đời giữa các hệ phái Hồi giáo. Mặc dù có tính quốc tế, nhưng tại mỗi quốc gia này, chiêu bài dân tộc cũng vẫn được sử dụng vì lòng yêu nước vốn là tình cảm tự nhiên của người dân mọi quốc gia trên thế giới.
•Các chế độ dân chủ phương Tây: dân chủ và tự do (có thể gọi chung là Freedom) là những giá trị tinh thần lâu đời của họ và do đó họ thường nhắc lại những giá trị ấy. Khi gặp khó khăn, họ cũng kêu gọi lòng yêu nước của người dân thêm vào những giá trị ấy (như trong Thế chiến II: các nước dân chủ phe Đồng minh chống lại các nước độc tài phe Trục). Tất nhiên không phải lúc nào cái Freedom ấy cũng có chỗ đứng đúng nghĩa (Freedom là những giá trị nội tại, còn chính sách ngoại giao của họ lại là vấn đề khác). Trong Thế chiến II, đối với các nước bị xâm lăng, tinh thần dân tộc lên cao, đây là phản ứng tự nhiên của mỗi dân tộc trước hiểm họa ngoại xâm; thế nhưng, khoảng thời gian từ trước (chuẩn bị chiến tranh) tới sau (tàn dư cuộc chiến) Thế chiến quá ngắn ngủi để thấy được các đặc trưng của tinh thần dân tộc này. Một cách tổng quát, chủ nghĩa dân tộc tại các nước này không có nét đặc trưng, mặc dù qua mỗi kỳ bầu cử, lại rộ lên các chiêu bài dân túy.
•Trong khoảng trước và sau Thế chiến I và II, nổi lên các phong trào giải thực xuất phát từ nguyện vọng muốn giành lại độc lập, tự do. Một cách tổng quát, tại một số nước, trong thời kỳ chống xâm lăng hay phục hưng, người dân nỗ lực thực hiện hoài bão muốn dân tộc họ trở thành một nước phát triển. Từ lý tưởng chính đáng ấy, đây là chủ nghĩa dân tộc trong sáng.
Nhìn từ góc độ thực tiễn, mọi chủ nghĩa dân tộc đều là phương tiện nhằm đạt được các mục tiêu đã định. Chủ nghĩa dân tộc, tự nó, không nhất thiết phải là “tốt” hay “xấu”, vấn đề là dụng ý của người sử dụng mà thôi; có thể phân loại thành: 1) chủ nghĩa dân tộc trong sáng (nhằm đạt được mục đích chính đáng) và 2) chủ nghĩa dân tộc thực dụng (dùng chủ nghĩa này như một phương tiện nhằm đạt được ý đồ riêng).

Nhìn từ góc độ lý tưởng, mọi dân tộc đều có quyền mơ ước quốc gia của họ hùng cường, vang danh trên thế giới. Nếu một quốc gia trở nên hùng cường nhờ vào tài năng và điều kiện khách quan thuận lợi mà không xâm lược, trấn áp các quốc gia khác thì rất đáng để mọi người khâm phục và học hỏi, rút kinh nghiệm. Ngược lại, chủ nghĩa dân tộc cực đoan muốn đạt mục đích “xưng hùng, xưng bá” của họ bằng cách chà đạp, trấn áp các dân tộc khác và khi cần chủ nghĩa này sẵn sàng gây chiến, xâm lược các quốc gia khác.

Trong một số trường hợp, chủ nghĩa dân tộc đáp ứng được nhu cầu thời cuộc. Thế nhưng việc lạm dụng nó, sử dụng nó như một công cụ nhằm đạt được tham vọng, mưu đồ riêng thay vì lợi ích chung của cả dân tộc thường chỉ đem lại những tai họa cho chính kẻ sử dụng, dân tộc ấy và có khi cho cả thế giới (trường hợp Hitler là thí dụ điển hình). Hơn nữa, chủ nghĩa dân tộc không chỉ đơn giản là các thủ đoạn tâm lý chiến nhằm khích động tình cảm, lòng yêu nước của nhân dân. Cần xem xét cái nội hàm của chủ nghĩa ấy. Phải chăng chỉ vì hình hài, màu da của kẻ thống trị? Nếu thế thì đây chỉ là chủ nghĩa chủng tộc và nếu kẻ thống trị là người bản địa thì “yêu nước là yêu kẻ thống trị” vì chúng là đại diện cho dân tộc hay sao? Phải chăng chỉ vì muốn dân tộc mình làm bá chủ vùng hay thế giới? Đây là điều đã từng xảy ra từ các đế quốc cổ đại đến các đế quốc Liên Xô, Trung Quốc, tự nhận là theo “tinh thần vô sản quốc tế” nhưng trên thực tế vẫn cổ vũ cho chủ nghĩa dân tộc của họ, nếu thế thì đây chỉ là chủ nghĩa chủng tộc mà thôi.

II. Chủ nghĩa dân tộc Việt
Trước hết, cần phải xem xét lại lịch sử, quá trình tư duy và hàm ý của lòng yêu nước của dân tộc.

Thời phong kiến, trong thế giới Trung Hoa, tình tự dân tộc tự nhiên như hơi thở, cứ mỗi lần bị Bắc Triều xâm lược, dân tộc ta (từ dân tới quan), muôn người như một, lại đứng lên đánh đuổi chúng. Từ hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước, chủ nghĩa dân tộc Việt truyền thống là mong muốn đất nước được tự chủ (trong thế giới Trung Hoa thời ấy, nước Việt bị coi là một chư hầu, đối với người Việt đương thời, khái niệm “độc lập”, cả về nội dung lẫn hình thức, còn khá mơ hồ) và bảo vệ phong cách sống riêng (xem “Bình Ngô đại cáo” của cụ Nguyễn Trãi, các bài hịch của vua Trần Hưng Đạo, Quang Trung,…). Vì nặng về tình cảm, có thể coi đây là chủ nghĩa dân tộc cảm tính.

Tới thời thực dân Pháp xâm chiếm nước ta, các sĩ phu viết “hịch Cần Vương” theo đúng bài bản trước đây mỗi khi đất nước bị xâm lăng, mặc dù thời thế đã đổi thay: thế giới Trung Hoa tàn lụi (Trung Hoa trở thành một nước bán thuộc địa) và đằng sau sức mạnh quân sự áp đảo của thực dân Pháp là một nền văn minh mới (văn minh phương Tây). Để đối phó với nền văn minh ấy, dân tộc ta chỉ biết dùng chủ nghĩa dân tộc cảm tính muôn thuở với vũ khí truyền thống và thô sơ (mặc dù có bắt chước sử dụng, chế tạo súng – cụ Cao Thắng -, nhưng không thể so sánh với cả một nền kỹ nghệ vũ khí của Pháp được).

Các phong trào Cần Vương thất bại, các nhà cách mạng phải mầy mò tìm ra phương thức và lý thuyết mới. Mỗi người mầy mò theo cảm nhận và điều kiện riêng của họ, dần dần hình thành các nhóm nhỏ có cùng một số quan điểm với các phong trào, lý thuyết (hay quan điểm): Đông Du, Duy Tân, thuyết Tam Dân (du nhập từ Trung Hoa), thuyết Dân tộc Sinh tồn, các tác phẩm của cụ Lý Đông A (Chính khí Việt, Huyết hoa), Đệ Tam, Đệ Tứ,… Ngoài ra, các sĩ phu thời ấy cũng tiếp cận với tư tưởng nhân quyền, dân chủ thông qua các bài viết của hai cụ Lương Khải Siêu và Khang Hữu Vi (người Hoa). Đây cũng là cuộc tiếp xúc, hội nhập với nền văn minh phương Tây trong lãnh vực chính trị. Tấm lòng của các thế hệ trước thật đáng trân trọng; thế nhưng, ngày nay, nhìn lại buổi giao thời ấy, chúng ta không khỏi suy ngẫm về một số vấn đề cơ bản, đặc biệt là các cách tiếp cận vấn đề của họ.

1.Từ cách nhìn thực tiễn: Với sự đi lên của Nhật Bản (một nước châu Á, cũng chịu ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa), cụ Phan Bội Châu chủ trương dựa vào Nhật. Một số người chỉ trích phong trào Đông Du của cụ quá trông chờ vào ngoại viện. Nhìn từ góc độ hiệu quả nhất thời thì điều này đúng (vì rốt cuộc phong trào Đông Du chỉ đào tạo được một số nhỏ người), nhưng cũng cần thấy là mặc dù dân tộc ta có một nền văn minh lâu đời nhưng chỉ là nền văn minh lúa nước cổ xưa, dân trí kém, lại là một dân tộc bị trị thì làm sao có tiềm lực để đánh đuổi thực dân Pháp? Việc tìm kiếm đồng minh (ngoại viện) là điều hiển nhiên cần thiết và không phải chỉ có cụ Phan mới có ý định ấy. Chứng cứ là tên gọi Việt Minh là viết tắt của Mặt trận Việt Nam Độc lập Đồng minh với từ “Đồng minh” đầy dụng ý. Xuyên suốt cuộc chiến Việt-Pháp và tại Đông Dương sau này, Việt Nam nhận viện trợ của khối XHCN (xã hội chủ nghĩa) với Liên Xô và Trung Quốc là chủ yếu: huấn luyện người, kinh tế, vũ khí và cả cố vấn quân sự, quân đội,… Nhìn từ góc độ hậu quả lâu dài, cần đặt câu hỏi: phải chăng các vụ “nhượng đất, nhượng biển” ngày nay là cái giá phải trả cho Bắc Kinh? Nếu đúng thì đây là một bài học đắng cay đắt giá, đáng để đời trong mối quan hệ Việt-Trung.

2. Về quan điểm, lý thuyết: Đại đa số các lý thuyết (hay quan điểm) nêu trên có nguồn gốc từ phương Tây (kể cả thuyết Tam Dân vì thuyết này của cụ Tôn Dật Tiên cũng đi từ tư tưởng nhân quyền, dân chủ của phương Tây) và được cải biên lại. Về đại thể, các lý thuyết (hay quan điểm) này đều ít, nhiều là một chủ nghĩa dân tộc, mặc dù Đệ Tam và Đệ Tứ có mâu thuẫn quan điểm “quốc tế-dân tộc” (riêng về Đệ Tam, việc thống nhất 3 đảng cộng sản Đông Dương và do cụ Hồ Chi Minh lãnh đạo là một dấu hiệu cho thấy họ muốn tạm thời từ bỏ tính quốc tế: cụ Hồ Chí Minh có quan điểm thuộc loại trung dung và thiên về dân tộc, khác với khuynh hướng cực đoan, “sắt máu” theo đúng quan điểm đấu tranh giai cấp của Quốc tế Cộng sản và Stalin của Trần Phú, Hà Huy Tập,… – một biểu hiện của khuynh hướng quốc tế và tả khuynh là vụ Xô-viết Nghệ Tĩnh năm 1930).

Sự khác biệt lý thuyết nêu trên dẫn tới các tranh cãi, thậm chí tranh chấp về quan điểm: bảo hoàng (lập lại chế độ quân chủ, với cụ Cường Để), ít, nhiều cực hữu (Đại Việt) hay cực tả (Đệ Tam, Đệ Tứ),… Điều ngộ nghĩnh là tranh chấp Đệ Tam – Đệ Tứ vốn là vấn đề riêng giữa Stalin và Trotsky lại trở thành sự đấu đá giữa hai khuynh hướng Tam – Tứ Việt!

Cũng cần xem lại nguồn gốc của từ “quốc gia” với từ kép “quốc-cộng” và các cụm từ liên hệ: tại Trung Hoa, cụm từ “cuộc chiến quốc-cộng” là một cuộc nội chiến và đấu tranh ý thức hệ, với từ kép “quốc-cộng”: “quốc” là Quốc dân Đảng, “cộng” là Đảng Cộng sản Trung Hoa, mọi chuyện đều rõ ràng; trong khi đó, tại nước Việt, “cộng” thì rõ ràng (Đảng CSVN), nhưng “quốc” là viết tắt của từ “quốc gia”, không nêu đích xác một chính đảng nào và về nghĩa lại khá mơ hồ:

•Theo định nghĩa, từ “quốc gia” (state, etat) hay “đất nước” dùng để chỉ một lãnh thổ có chủ quyền; tự nó không hàm ý một chủ nghĩa nào cả. Về sau này, khoảng những năm 1930 trước Thế chiến II, việc một số quốc gia (Đức, Ý, Nhật…) mới nổi lên và có khuynh hướng đối đầu với các cường quốc đương thời (Anh, Pháp,… là các đế quốc có nhiều thuộc địa) khiến một số các nhà cách mạng ở các nước bị trị, trong dó có nước Việt, có cảm tình với các nước này và ít, nhiều chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa dân tộc cực đoan của họ. Các đảng chính trị cực hữu tại các nước này thường dùng từ “quốc gia” để khích động người dân, hai thí dụ là Đảng Phát-xít Ý (Partito Nazionale Fascista – National Fascist Party) và Đảng Quốc xã Đức có tên chính thức là Đảng Công nhân Quốc gia Xã hội Đức (Nationalsozialistische Deutsche Arbeiterpartei – National Socialist German Workers’ Party), có lẽ từ “quốc gia” (hàm ý dân tộc) có thêm hàm ý chống cộng (quốc tế). Việc có cảm tình với các nước mới nổi này là phản ứng thông thường của người dân một nước bị trị, còn tác hại của các chủ nghĩa cực đoan này thì người đương thời khó thấy được. Từ đó và sau này, tại nước Việt, có các cụm từ như “chánh nghĩa quốc gia”, “lý tưởng quốc gia”,…
•Thời kỳ 1945, có cuộc tranh chấp giữa Đảng CSVN và các đảng chính trị và hệ phái tôn giáo khác, do tính chất “đảng tranh”, từ “quốc gia” lại hàm ý cuộc đấu đá “quốc-cộng”.
•Từ 1954, nước Việt bị chia đôi và sau đó là cuộc nội chiến Bắc-Nam (một khía cạnh của cuộc chiến tại Đông Dương lần 2), tại miền Nam, tính chất quốc gia – cộng sản lại tăng lên gấp bội.
•Sau 1975, đa số những “thuyền nhân” có ít, nhiều dính lứu tới chế độ miền Nam cũ (VNCH), thường được coi / tự nhận là “người quốc gia” nghiêng về phe bảo thủ (thậm chí có khi là cực hữu) tại các quốc gia sở tại. Đa phần những người này vì oán hận chế độ Hà Nội nên có cảm tình với phe bảo thủ (có khi là cực hữu) để chứng tỏ quyết tâm “không đội trời chung với cộng sản” mà thôi, họ chẳng cần biết rằng các đảng cực hữu (có khi là bảo thủ) chủ trương bài ngoại!
Trở lại về quan điểm, lý thuyết, điều đặc biệt là không thấy sự hiện diện thực sự của khuynh hướng Đệ nhị Quốc tế, với các đảng dân chủ xã hội, tiền thân của các đảng xã hội sau này. Đảng Xã hội trong Mặt trận Việt Minh (1946) chỉ là cái bình phong được lập ra nhằm che giấu thực chất của Đảng CSVN trong Mặt trận này mà thôi. Về quan điểm, Đệ Nhị cũng theo chủ nghĩa xã hội như Đệ Tam (và Đệ Tứ). Sự khác biệt giữa các đảng cộng sản (Đệ Tam) và xã hội (Đệ Nhị) gồm 2 điểm chính: 1) đảng cộng sản chủ trương thành lập chế độ chuyên chính vô sản (được coi là “nguyên tắc”, một thể hiện của nguyên tắc này là điều 4 Hiến pháp của chế độ Hà Nội) trong khi đảng xã hội không chấp nhận nguyên tắc này (có nghĩa là chấp nhận một chế độ dân chủ), 2) đảng cộng sản chủ trương đấu tranh lật đổ chế độ đương thời (kể cả việc dùng bạo lực, còn “đấu tranh nghị trường” chỉ là sách lược nhất thời mà thôi) trong khi đảng xã hội chủ trương đấu tranh nghị trường. Chính vì muốn dùng bạo lực nên “đảng kiếu mới” của Lenin là một tổ chức bán quân sự, Đảng CSVN cũng tổ chức theo mô hình ấy; từ quan điểm tới tổ chức, việc Đảng CSVN lãnh đạo đấu tranh là một nguyên nhân khiến phương thức đấu tranh bạo động là điều không tránh khỏi.

3. Từ bản chất và thực trạng của dân tộc: Cách tiếp cận vấn đề của đại đa số các lý thuyết (hay quan điểm) nêu trên đều là cách trực tiếp, đối đầu, tức khắc: vì đất nước ta trở thành thuộc địa của Pháp nên phải đánh đuổi thực dân, giành lại độc lập; giống như trước đây dân tộc ta phải đánh đuổi giặc phương Bắc. Giản dị thế thôi! Cách làm này là một thứ phản xạ tự nhiên, theo kiếu trả đũa (người đánh ta thì ta đánh trả – chủ trương bạo động) và với sự nóng vội mong có kết quả (giành lại độc lập) tức thời.

Từ nhận định về tình trạng của dân tộc ta thời đó, cụ Phan Chu Trinh có cách tiếp cận khác hơn: mặc dù mục đích vẫn là giành độc lập, nhưng trước tình trạng dân tộc suy yếu, dân trí thấp kém như thế, trước tiên cần phải “Khai dân trí, Chấn dân khí, Hậu dân sinh”, với phương châm “Tự lực khai hóa”, cụ vận động những người cùng chí hướng thức tỉnh dân chúng, tuyên truyền tư tưởng dân quyền. Đây là cách tiếp cận gián tiếp, không đối đầu, giai đoạn: để giải quyết vấn nạn giặc Pháp, cụ không kêu gọi kiểu “giặc đến nhà, đàn bà phải đánh!”, phong trào Duy Tân của cụ không phải là một tổ chức chính trị (hay cách mạng) đối đầu với chính quyền đương thời, cụ chủ trương phải có “dân trí, dân khí, dân sinh” (nói theo kiểu ngày nay là “nội lực”) trước khi giải quyết vấn đề độc lập.

So sánh chủ trương của cụ Phan và các khuynh hướng khác, chúng ta thấy có sự khác biệt về trình tự giải quyết vấn đề độc lập: xây dựng “nội lực” trước hay phát động đấu tranh giành độc lập trước (bằng bất cứ giá nào và không quan tâm tới “nội lực”)?

Ngoài ra, dù trước hay sau, chính quyền mới (độc lập) cũng vẫn phải đối diện với vấn đề hội nhập là điều cần phải đặt ra kể từ khi bị thực dân Pháp xâm lược: trở lại với nền văn minh Trung Hoa (đang tàn lụi) hay tiếp thu nền văn minh phương Tây?

Sau thời kỳ Cần Vương, gián tiếp hay trực tiếp, các khuynh hướng chính trị (Đông Du, Duy Tân, Việt Nam Quốc dân Đảng, Đại Việt, Đệ Tam, Đệ Tứ,…) đều ít/nhiều có hàm ý thừa nhận nền văn minh phương Tây. Cụ Phan Bội Châu muốn dựa vào Nhật Bản vì họ đã tiếp thu được nền khoa học, kỹ thuật phương Tây và trở nên một nước hùng mạnh. Cụ Nguyễn Thái Học tiếp thu thuyết Tam Dân, là một thể hiện của tư tưởng nhân quyền, dân chủ. Đệ Tam, Đệ Tứ theo chủ nghĩa xã hội của Marx (mặc dù Đệ Tứ chống lại Stalin) xuất xứ từ phương Tây. Riêng về Đệ Tam (Đảng CSVN) theo chủ nghĩa xã hội của Marx, ông này là một triết gia, mặc dù về bề nổi lý thuyết của ông ta chống tôn giáo (thần học) nhưng chủ nghĩa của ông ta chỉ là hướng ngược lại của cùng con đường tôn giáo (thiên đường cộng sản chẳng qua cũng là khái niệm thiên đường trong tôn giáo mà thôi); hơn nữa cái chủ nghĩa xã hội du nhập vào nước Việt lại là bản sao (ở mức độ sơ khai, “yếu lược”) cộng thêm “mắm muối” là chủ nghĩa Lenin, Stalin, Mao và cuối cùng là tinh thần câu nệ Khổng giáo còn rơi rớt lại của chính những đảng viên Đảng CSVN! Riêng cụ Phan Chu Trinh, mặc dù có cảm tính với Đảng Xã hội Pháp (Đệ Nhị) và thiên về quan điểm nhân quyền, dân chủ, nhưng chủ yếu cụ muốn thực hiện một cuộc cải cách sâu rộng, toàn diện xã hội.

Giả sử như phong trào Duy Tân thành công, sự thành công này tạo tiền đề để dân tộc ta giải quyết rốt ráo vấn đề hội nhập. Trước đây, khi phương tiện giao thông còn thô sơ, việc giao lưu kinh tế và văn hóa rất hiếm hoi, ngoại trừ vài trường hợp đặc biệt (như truyền bá tôn giáo), việc hội nhập hầu như không đáng kể; kể từ khi phương Tây xâm chiếm và khai thác thuộc địa ở mức độ toàn thế giới, tiến trình hội nhập bước sang giai đoạn phát triển mới, dù muốn hay không, các quốc gia bị trị phải đối diện với vấn đề hội nhập, vì đằng sau sức mạnh quân sự là nền văn minh mới – văn minh phương Tây -, trong đó có giá trị dân chủ. Đối với các dân tộc này, ngoài vấn đề giành lại độc lập, câu hỏi còn lại là họ chấp nhận hay phủ nhận, toàn bộ hay từng phần, nền văn minh mới này? Hơn nữa, họ có đủ “nội lực” để chủ động thực hiện lựa chọn của họ hay không? Riêng đối với nước Việt, chủ trương “dân trí, dân khí, dân sinh” là trang bị tối cần thiết để dân tộc ta trả lời câu hỏi nêu trên.

Trước đây, một số người cho rằng cụ Phan Chu Trinh theo khuynh hưởng “cải lương” (thường với hàm ý tiêu cực là không triệt để), Đảng CSVN cũng nhận định như thế, một phần vì họ muốn quảng cáo cho đường lối đấu tranh bạo động “đúng đắn” của họ và do đó chê bai mọi đường lối khác, phần khác xuất phát từ quan điểm chung của các đảng cộng sản (Đệ Tam) phê phán các đảng xã hội (Đệ Nhị) là “cải lương”, “thỏa hiệp” với tư bản (cụ Phan có khuynh hướng gần với Đảng Xã hội Pháp). Ngày nay, 70-80 năm đã qua, với bao đau thương, mất mát, thất vọng, nhục nhã và kinh nghiệm đắng cay, một số người, trong và ngoài nước, mới xem xét và đánh giá lại chủ trương đúng đắn của cụ.

Thế nhưng vì sao chủ trương đúng như thế lại không được đông đảo những nhà cách mạng đương thời ủng hộ và tham gia? Sau đây là vài giải thích:

•Khi bị thực dân Pháp xâm lược, phong trào Cần Vương là phản ứng tự nhiên, truyền thống của sĩ phu thời ấy (giống như khi bị Bắc Triều xâm lược); phong trào này thất bại, các nhà cách mạng phải thay đổi quan điểm, phương hướng hoạt động, nhưng mục tiêu trước tiên cũng vẫn là đánh đuổi thực dân Pháp mà ít/không quan tâm tới “nội lực” của dân tộc, còn việc phủ nhận/chấp nhận nền văn minh phương Tây khá mơ hồ và có nhiều ý kiến khác biệt, sự khác biệt này là các cảm nhận, đánh giá khác nhau về hiệu quả của các chủ nghĩa nhập cảng này đối với mục tiêu giành lại độc lập mà thôi. Một dẫn chứng là cụ Hồ Chí Minh nói về lựa chọn Đệ Nhị hay Đệ Tam của mình: tôi chọn Đệ Tam vì chỉ có Đệ Tam mới nêu lên vấn đề giải phóng thuộc địa; ngoài ra cụ dịch cuốn Chủ nghĩa cộng sản yếu lược của Stalin là một cuốn sách vỡ lòng về chủ nghĩa cộng sản làm tài liệu truyền bá chủ nghĩa này, trong khi Marx là một triết gia và những điều ông ta viết không đến nỗi thô thiển, ấu trĩ đến thế! Ngoài ra, việc nhập cảng và cải biên các lý thuyết, chủ nghĩa khác thể hiện một giấc mơ, hoài bão (đầy cảm tính) về một dân tộc Việt hùng cường với mục tiêu trước mắt là giải phóng dân tộc; có thể coi đây là một chủ nghĩa dân tộc cảm tính. Vì quá quan tâm đến mục tiêu trước tiên nêu trên nên họ không hưởng ứng chủ trương giai đoạn của cụ Phan Chu Trinh.
•Do yếu kém về tư tưởng (tư tưởng nhân quyền, dân chủ không trực tiếp du nhập vào nước Việt), choáng ngợp bởi các lý thuyết mới của phương Tây và sự nổi lên của một số quốc gia (Đức, Ý, Nhật) đối đầu với các đế quốc đương thời, trong đó có Pháp, nên các nhà cách mạng không quan tâm tới thực trạng đáng buồn của dân tộc mà cụ Phan đã nhận định. Xét cho cùng, dân tộc ta không tiêu hóa nổi văn hóa chính trị phương Tây còn quá mới.
•Sự thiếu vắng của một đảng xã hội Việt đặt ra câu hỏi là phải chăng vì quan điểm, chủ trương của các đảng xã hội (theo khuynh hướng Đệ Nhị) mang tính “cải lương”, “thỏa hiệp” (nói theo kiểu tả khuynh thời ấy) nên các nhà cách mạng Việt (với tinh thần triệt để) không muốn du nhập?
•Về đại thể, động cơ thúc đẩy dân tộc ta muốn đánh đuổi thực dân Pháp là sự uất ức và thù hận (với một nguyên nhân gần là nạn đói năm Ất Dậu 1945), còn việc thực hiện công cuộc giành lại độc lập thì tùy thời mà hành động (ngoại trừ con đường của cụ Phan Chu Trinh). Đây là phản ứng của cảm tính, nói cách khác là cách tiếp cận cảm tính mà thôi. Nhân đây, cũng cần nhắc lại thời “chống Mỹ cứu nước”, ông Tố Hữu, cứ ngồi tròn xoe trong nhà mà hô hoán “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”, vậy xin hỏi ông: khi giặc đi rồi, ông có thể lấp lại dẫy Trường Sơn đã bị xẻ đôi hay không?
Tới khi chiến tranh Việt-Pháp nổ ra, dân tộc ta bị lôi cuốn vào vòng xoáy của chiến tranh, các tranh cãi lý thuyết và tranh chấp chính trị (“đảng tranh”) ngắn ngủi thời kỳ 1930-1945 hầu như tan biến trong vòng xoáy ấy. Sau vài năm hòa bình, cả dân tộc lại lao đầu vào cuộc chiến mới. Trong cơn bão thời cuộc ấy, người Việt trở thành một con ốc trong guồng máy chiến tranh, một con tốt đen trong bàn cờ chính trị thế giới. Thiên hạ tranh hùng, tranh bá, thắng thua thế nào là chuyện của họ, còn dân tộc ta lại chọn lá bài “đằng nào cũng thua”!

Tóm lại, từ khi bị xâm lược, dân tộc ta có hai vấn đề cơ bản cần giải quyết: độc lập và hội nhập. Xét cho cùng thì độc lập chỉ là hệ quả của vấn đề hội nhập mà thôi: 1) Thái Lan không bị mất độc lập vì họ áp dụng chính sách ngoại giao mở cửa cho tất cả mọi cường quốc, 2) Nhật Bản trở thành một cường quốc vì họ đã thành công trong công cuộc hội nhập từ thời Minh Trị Thiên Hoàng, hơn nữa ngày nay sức mạnh kinh tế của Nhật Bản khiến họ không còn là một quốc gia thua trận và chịu sự khống chế của Đồng minh (Hoa Kỳ) như thời sau 1945, 3) triều Nguyễn Gia Long vì áp dụng chính sách “bế quan, tỏa cảng” nên dân tộc bị mất độc lập. Đối với dân tộc ta, từ một vấn đề “hội nhập” lại trở thành hai vấn đề “độc lập và hội nhập”! Hơn nữa, từ 1975 đến nay, lịch sử đã chứng minh rằng dù có độc lập nhưng lại còn tồi tệ hơn trước (nhân dân ao ước: bao giờ cho đến… ngày xưa!), hơn nữa từ “độc lập” nay lại trở thành một câu hỏi lớn.

III. Một chủ nghĩa dân tộc Việt mới?
Loạn chủ nghĩa

Trước hết cần xem xét lại từ “chủ nghĩa”. Từ này quá chung chung, hầu như người ta có thể gắn từ “chủ nghĩa” vào bất kỳ một khuynh hướng, quan điểm nào đấy; điều này có thể dẫn đến những ngộ nhận kỳ quái:

- Chủ nghĩa xã hội (danh từ chung) đi từ tư tưởng xã hội đã có từ trước Mác, xuất hiện từ thời tư bản tự phát (với khởi đầu là sự cơ giới hóa ngành dệt,…) dẫn tới bất bình đẳng và tranh chấp xã hội. Sau này Marx đặt tên cho chủ nghĩa của mình là chủ nghĩa xã hội khoa học (từ đó đi lên giai đoạn chủ nghĩa cộng sản) để phân biệt với cái được gọi là “chủ nghĩa xã hội không tưởng” đã có từ trước. Về sau, do thói quen giản lược từ ngữ và hậu quả của các tranh chấp “tả-hữu”, chủ nghĩa xã hội khoa học trở thành chủ nghĩa xã hội (của Marx). Nhìn từ góc cạnh xã hội, xét cho cùng thì chủ nghĩa xã hội (danh từ chung) có từ trước và sau chủ nghĩa Marx: chừng nào còn có những bất bình đẳng xã hội quá lớn vẫn cần có một chủ nghĩa xã hội nào đó. Hơn nữa, trước đây bất bình đẳng xã hội chủ yếu là bất bình đẳng kinh tế (Marx phê phán dân chủ tư sản là dân chủ “vỏ”: tư bản bóc lột công nhân, không chia sẻ lợi nhuận kinh tế và mặc dù có các cuộc bầu cử nhưng rốt cuộc, dưới bất kỳ chính quyền “tư sản” nào, giai cấp vô sản cũng vẫn chỉ có cái bụng đói meo mà thôi), ngày nay, suy rộng ra, sự bất bình đẳng ấy không chỉ đơn thuần là về kinh tế. Mặt khác, tại các nước phát triển ngày nay, để giải quyết bất bình đẳng kinh tế, người ta dựa trên hai quan điểm đối chọi nhau: “chia đều cái bánh” (khuynh hướng xã hội, đã có từ khoảng 200-300 năm nay) và “làm cho cái bánh lớn hơn” (khuynh hướng tự do kinh tế). Riêng tại nước Việt, với chế độ “tư bản đỏ” ngày nay, ý nghĩa nguyên thủy của quan điểm xã hội vẫn còn nguyên vẹn!

- Người ta thường so sánh chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa cộng sản (hay chủ nghĩa xã hội). Có 3 nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sự so sánh này: 1) hậu quả của các cuộc đấu tranh giai cấp thời kỳ tư bản tự phát, 2) hậu quả của cuộc chiến tranh lạnh giữa hai phe “tự do” và “cộng sản”, 3) chủ nghĩa Marx coi chủ nghĩa tư bản là đối tượng, đối thủ của chủ nghĩa cộng sản (với lối lý luận nhị nguyên kiểu “thiên đường-địa ngục chia hai).

Đây là một so sánh khập khiểng, vì chủ nghĩa cộng sản là một chủ nghĩa toàn trị, một hệ tư tưởng bao trùm mọi lãnh vực, từ kinh tế đến xã hội, khoa học, văn hóa, đạo đức, tâm linh…, trong khi chủ nghĩa tư bản chỉ là các lý thuyết nhằm quản lý nền kinh tế thị trường, mục đích duy nhất của nó là năng suất (bao gồm lợi nhuận, lợi nhuận là động cơ phát triển kinh tế thị trường); mặc dù có quan hệ hữu cơ với các lãnh vực khác, nhưng chủ nghĩa tư bản chỉ nằm trong lãnh vực kinh tế mà (đối với chủ nghĩa tư bản, việc “bóc lột” hay “không bóc lột” thuộc về phạm trù năng suất chứ không phải là phạm trù đạo đức; nói cách khác, trước đây khi thấy con số 8, giới chủ bèn hoảng sợ vì liên tưởng tới yêu sách ngày làm 8 giờ của công nhân, đáp ứng yêu sách này là làm giảm năng suất; sau này với sự hình thành xã hội tiêu thụ, giới chủ không những hài lòng với các yêu sách ngày làm 8 giờ, được nghỉ hè có lương,… mà họ còn rất quan tâm tới sức mua của người làm công vì họ hiểu rằng sức mua lớn dẫn tới lợi nhuận nhiều cho họ). Điều kỳ dị là, vô tình hay cố ý, có người nhân cách hóa (hay sinh vật hóa) chủ nghĩa tư bản, coi nó như một con (quái) vật kiểu “chủ nghĩa tư bản giẫy chết”, “chủ nghĩa tư bản biết điều tiết”; họ không thấy được là chủ nghĩa tư bản chỉ là hệ quả của nền kinh tế thị trường mà thôi (đây là các lý thuyết kinh tế nhằm giải quyết các khó khăn, khủng hoảng hay nhằm phát triển nền kinh tế này) và sự hình thành nền kinh tế thị trường là kết quả tự nhiên của công cuộc kỹ nghệ hóa kinh tế; không ai phát minh ra nó cả (ngược với cái gọi là “nền kinh tế hoạch định xã hội chủ nghĩa” của chủ nghĩa Marx được tạo ra trong mục đích toàn trị của chủ nghĩa này); nếu không muốn trở lại thời kỳ trước kỹ nghệ hóa thì – dù muốn dù không – phải sống với nền kinh tế thị trường, giả sử như có một cuộc khủng hoảng kinh tế và không có lý thuyết (tư bản) nào giải quyết thì nhân loại… chết ráo cả!

Từ nhận định trên, việc so sánh chế độ tư bản và chế độ cộng sản (hay chế độ xã hội chủ nghĩa) cũng là một so sánh khập khiễng. Một quốc gia theo chế độ tư bản là lựa chọn kinh tế: kinh tế thị trường (nói một cách giản dị là để cho người dân tự do làm ăn), còn thế chế chính trị là một lựa chọn khác: độc tài, quân chủ, dân chủ,… Trong khi chế độ cộng sản là lựa chọn kinh tế: kinh tế hoạch định XHCN và chính trị: chế độ độc tài đảng trị kiểu cộng sản trị, vì quốc gia này đi theo chủ nghĩa cộng sản là một chủ nghĩa toàn trị. Khi Đặng Tiếu Bình chủ trương “đổi mới kinh tế trước, cải tổ chính trị sau” thì điều này có nghĩa là họ Đặng lựa chọn nền kinh tế thị trường (nói cách khác là theo chế độ tư bản) nhưng vẫn giữ “cái đuôi” (độc tài) cộng sản (“chủ nghĩa xã hội theo màu sắc Trung Quốc”). Về sau, Hà Nội cũng bắt chước “anh Hai” và hô hoán “đổi mới hay là chết!” (thay vì “yêu nước là yêu chủ nghĩa xã hội!”) và ngày nay, Hà Nội mong muốn được thế giới công nhận nền kinh tế Việt là một nền kinh tế thị trường nhưng vẫn giữ cái đuôi “theo định hướng xã hội chủ nghĩa”.

- Về mặt hiệu quả, các chủ nghĩa nêu trên đạt được mục tiêu gì? Xin xem xét 3 trường hợp cụ thể:

1. Chủ nghĩa Tam Dân: tại Trung Hoa, chủ nghĩa này thực hiện được cuộc cách mạng Tân Hợi, xóa bỏ được chế độ phong kiến lâu đời, thế nhưng chế độ mới của Tưởng Giới Thạch lại nhanh chóng trở thành một chế độ nửa quân phiệt, nửa phong kiến. Té ra thuyết Tam Dân này chỉ được thực hiện một cách nửa vời! Do không đáp ứng được nguyện vọng của nhân dân (dân tộc, dân quyền, dân sinh) do chính thuyết Tam Dân đề ra, nên về sau này sự thất bại của Tưởng trong cuộc chiến quốc-cộng là điều không tránh được.

2. Chủ nghĩa cộng sản: trong hoàn cảnh bần cùng của các tầng lớp nhân dân lao động thời đó, Marx đề ra chủ nghĩa cộng sản với thiên đường cộng sản “làm theo khả năng, hưởng theo nhu cầu” (nôm na là giấc mơ “ngày mai ăn phở khỏi trả tiền”) và ông ta phê phán “dân chủ tư sản là dân chủ vỏ”; chưa cần xem xét dân chủ vỏ/thực là thế nào, chỉ cần thấy mọi chế độ XHCN trên thế giới đều là chế độ độc tài thứ thệt.

3. Riêng trường hợp nước Việt: năm 1945, Đảng CSVN thực hiện cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ (CMDTDC, từ dân chủ hàm ý dân chủ tư sản) với khẩu hiệu “độc lập, tự do, hạnh phúc” là giai đoạn chuyển tiếp trước khi phát động cách mạng vô sản. Hiệu quả của việc thực hiện chủ nghĩa xã hội đã được thấy rõ và đã trình bày trong phần đầu của bài, ở đây chỉ xem xét 2 khẩu hiệu “độc lập” và “tự do”. Sau 4.1975, Hà Nội tuyên bố “từ nay, đất nước sạch bóng quân thù”, ngày nay, cái bóng của tàu chiến Bắc Kinh tràn ngập Biển Đông, vậy phải chăng mục tiêu “độc lập” của CMDTDC đã hoàn toàn đạt được? Từ 1953 tới nay, với Đề cương văn hóa (buộc văn nghệ sĩ phải chấp hành quan điểm giai cấp, không còn được tự do sáng tác), cuộc “rèn cán, chỉnh quân”, “đấu tố” (kiểu Mao, với khẩu hiệu “trí, phú, địa, hào; đào tận gốc, bật tận rễ”), “cải tạo công thương nghiệp ở miền Nam”,… và chỉ riêng trong lãnh vực văn hóa, từ trước cho đến nay, Bộ “4T” (hay Ban Văn hóa Tư tưởng Trung ương) vẫn là cái “lửng lơ” trên đầu giới làm văn hóa; vậy cái “tự do” của CMDTDC vẫn còn là mục tiêu chưa đạt! Riêng về “hạnh phúc” là một khái niệm nằm trong phạm trù cá nhân (mỗi người cảm thấy hạnh phúc theo cảm quan, nhu cầu riêng của họ) chứ không phải và không thể là chuyện “đem lại hạnh phúc cho nhân dân” như những người chủ trương CMDTDC lầm tưởng rằng họ có thể ban phát cho nhân dân được và do đó coi hạnh phúc là một mục tiêu.

Chủ nghĩa và học thuyết

Như trên đã trình bày, chủ nghĩa thường chỉ đem lại… sự bát nháo. Thế nhưng, trong lãnh vực chính trị, có những hoàn cảnh cực kỳ phức tạp, khó khăn, đa diện như khủng hoảng kinh tế thế giới, chiến tranh lớn,…; do đó cần xây dựng một lý thuyết (với quan điểm, mục tiêu, phương châm,…), từ đó xây dựng sách lược, phương án, lập kế hoạch,… và làm kim chỉ nam hướng dẫn hành động. Từ đó, có khái niệm học thuyết (doctrine), khái niệm này khá mơ hồ và ý nghĩa khác nhau tùy thuộc vào mỗi lãnh vực (tôn giáo, kinh tế, chính trị,…); trong bài chỉ đề cập tới lãnh vực chính trị và góc cạnh thực tiễn mà thôi.

Sự hình thành học thuyết nhằm đáp ứng nhu cầu thời cuộc. so với chủ nghĩa, học thuyết chỉ nhằm đạt được một số mục tiêu cụ thể đã định, được thực hiện trong một khoảng thời gian ngắn (5-10 năm) và trái với chủ nghĩa “toàn diện” (như chủ nghĩa Marx, tôn giáo toàn thủ,…), học thuyết không phải là một triết lý, tư tưởng toàn thể, vượt thời gian, có giá trị phổ quát (thí dụ: chủ nghĩa Marx mang tính toàn diện, vĩnh hằng, tuyệt đối – những điều Marx nêu lên là không thể sai chẳng khác gì “khuôn vàng, thước ngọc” của cụ Khổng).

Thường thì chỉ có các quốc gia lớn mới cần phải có học thuyết để vượt qua các thử thách lớn. Xin nêu một số thí dụ:

- Trường hợp Hoa Kỳ: 1) chính sách New Deal (mặc dù không được gọi là học thuyết) nhằm giải quyết cuộc khủng hoảng kinh tế năm 1929 khởi đầu tại Mỹ và lan ra toàn thế giới, 2) học thuyết Nixon, đằng sau mục tiêu trước mắt là rút quân khỏi miền Nam nước Việt là xác định lại các mục tiêu và bố trí lại lực lượng, đặc biệt tại Đông Nam Á và Đông Á (lợi dụng sự rút lui này, Bắc Kinh bành trướng ảnh hưởng của họ tại Đông Nam Á), 3) vì Hoa Kỳ là một siêu cường, phải giải quyết nhiều vấn đề trên phạm vi toàn thế giới, nên đằng sau các cuộc bầu cử tổng thống thường là việc chuẩn bị nhóm cầm quyền mới, với một học thuyết mới.

- Trường hợp Trung Quốc: 1) sau thời đại “hoàng đế đỏ” Mao Trạch Đông, Đặng Tiểu Bình đưa ra chính sách “mèo trắng, mèo đen” với “4 hiện đại” nhằm… xóa bỏ chủ nghĩa xã hội, xây dựng nền kinh tế thị trường, giải quyết tai họa của “bè lũ 4 tên” trong Cách mạng Văn hóa và phá sản kinh tế kể từ khi Mao đưa ra bước Đại nhảy vọt; cái gọi là “chủ nghĩa xã hội theo màu sắc Trung Quốc” chỉ nhằm mục đích biện minh cho sự tiếp tục hiện hữu và cầm quyền của Đảng Cộng sản Trung Quốc, 2) Giang Trạch Dân đưa ra thuyết “3 đại diện” với mục đích là chính thức hóa, mở đường cho đám “tư sản đỏ” lên nắm quyền; giải quyết chuyện nội bộ trong đảng được coi là “đảng của giai cấp công nhân”, “liên minh với giai cấp nông dân”, 3) Hồ Cẩm Đào đưa ra luận điểm “xã hội hài hòa” nhằm mục đích xóa bỏ… đấu tranh giai cấp đang diễn ra từng ngày và trở nên cực kỳ nghiêm trọng với nguy cơ bạo loạn, do chính sự lên ngôi của tầng lớp “tư sản đỏ”, với hậu quả là lạm quyền, lộng quyền, tham nhũng, ăn cắp của công, cướp đất, bóc lột dân đen, người lao động (đa số là nông dân),…

Riêng trong trường hợp nước Việt, lần đầu tiên dân tộc ta phải đối phó với hoàn cảnh “thù trong, giặc ngoài” (trung tướng Nguyễn Chí Vịnh, cầm đầu Tổng Cục 2 và cũng là nhân vật thân Bắc Kinh, nay được lên làm Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, vậy thì cái bộ ấy còn làm được cái gì nữa?!), lại không có chỗ dựa (đồng minh) nào cả, đa số người dân chỉ biết cúi đầu chịu nhục, lo làm ăn hầu như bằng bất cứ giá nào (kể cả làm nàng Kiều thời đại ở khắp nơi trên thế giới – nói thẳng thừng là làm đĩ bốn phương -, con ở được gọi tránh né là ô-sin, tha phương cầu thực, buôn lậu, trồng cần sa,… làm sát thủ,…)!

Từ tình trạng “thế cùng, lực kiệt” hiện nay, để giải quyết những vấn đề của dân tộc, cần phải xây dựng một lý thuyết (học thuyết) làm tư tưởng chỉ đạo. Đối với dân tộc ta, đây là việc làm quá sức, thế nhưng tình thế bắt buộc chúng ta phải làm công việc ấy mới mong thoát được hoàn cảnh ngặt nghèo hiện nay: con người tha hóa, tài nguyên khánh tận, môi trường hủy diệt, chế độ độc tài, tham nhũng, ác độc, ngu xuẩn, ươn hèn (nếu chưa phải là làm tay sai cho ngoại bang, sẵn sàng bán đứng đất, biển, tài nguyên lấy ít tiền bỏ vào cái túi không đáy của họ) và hiểm họa Bắc Triều.

Vì công cuộc xây dựng học thuyết quá khó khăn nên cần phải có sự tham gia của mọi người, nhất là các chuyên viên (chính trị, ngoại giao, kinh tế, quân sự, luật pháp và luật pháp quốc tế, lịch sử, văn hóa,…). Việc thực hiện, tất nhiên cần phải có sức của toàn dân với nhiều gian khổ, hy sinh, mất mát và thậm chí có thể có mất mát to lớn, lâu dài. Đổi lại, dân tộc ta mới thực sự có độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, lãnh hải, hòa bình, thịnh vượng, được đối xử bình đẳng; đối với thế giới, nước Việt có vị trí tương xứng với cuộc đấu tranh từ hơn trăm năm nay kể từ ngày bị thực dân Pháp đô hộ; người dân hãnh diện mình là một Con Người và là Người Việt!

Tinh thần Việt

Để xây dựng học thuyết, điều trước tiên là phải trả lời câu hói Đâu là tinh hoa của dân tộc? Đối với một quốc gia, tinh hoa là những giá trị tinh thần của quốc gia ấy. Chính cái tinh hoa ấy khiến cho, sau một ngàn năm Bắc thuộc, dân tộc ta mới vùng lên, dựng nước và giữ nước cho tới khi thất bại trước nền văn minh Tây phương.

Giữ gìn và phát huy những giá trị truyền thống

Nhắc lại, những giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt là mong muốn đất nước được tự chủ và bảo vệ phong cách sống riêng. Câu nói “thà làm quỷ nước Nam, còn hơn làm vương đất Bắc” của cụ Trần Bình Trọng thể hiện tinh thần ấy. Nhờ những giá trị ấy, mới có các phong trào Cần Vương, Đông Du, Duy Tân, khởi nghĩa Yên Bái, Cách mạng tháng Tám,…

Ngày nay, một số người nhắc lại câu “hồn thiêng sông núi”, vậy cái “hồn thiêng” ấy là gì nếu không phải là những giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc?

Việc giữ gìn và phát huy những giá trị tinh thần là điều mọi quốc gia phải làm, vì những giá trị ấy là nền tảng để một quốc gia dựng nước và giữ nước vững chắc, lâu dài; giá trị tinh thần là tiềm lực để vượt qua những khó khăn, thử thách nhất thời. Nếu một quốc gia chỉ biết dựa trên bạo lực thì khi không còn sức mạnh này, quốc gia ấy sẽ tiêu vong, lịch sử các đế quốc hay các chế độ dùng bạo lực thống trị, từ xưa đến nay, đã chứng minh điều ấy.

Xây dựng và truyền bá những giá trị thời đại

Kể từ thời Phục hưng (với Thế kỷ Ánh sáng) tới các cuộc cách mạng dân chủ tại các nước Âu Châu, nền văn minh Tây phương đã khai sáng và phát huy những giá trị tinh thần mới, đó là Nhân Quyền, Dân Chủ.

Trước nền văn minh Tây phương, Ấn Độ đã thành công trong công cuộc giành lại độc lập một cách hòa bình (điều này có nghĩa là họ chịu rất ít thiệt hại về người và của) và đã tiếp thu được những giá trị dân chủ. Ngược lại, dân tộc ta đã không biết, không hiểu và không tiếp thu được những giá trị ấy; do đó chúng ta mới dùng chính sách “bế quan, tỏa cảng”, phát động Cần Vương theo truyền thống “giặc đến nhà, đàn bà phải đánh” và nhập cảng bừa bãi hầu hết mọi chủ nghĩa, thậm chí tiếp thu chủ nghĩa cộng sản pha trộn Marx-Lenin-Stalin-Mao, là một chủ nghĩa không tưởng, quá khích, bạo động; hậu quả thế nào, người quan tâm tới thời cuộc đều biết rõ.

Ngày nay, cần xem xét từ cuộc đấu tranh giành độc lập đã qua đến cuộc đấu tranh hiện nay, có những giá trị nào đã được phát huy hay đang hình thành?

1. Trước 1945, mặc dù các cuộc đấu tranh hay vận động cho độc lập đều thất bại, nhưng ý thức độc lập dân tộc được nâng cấp và rõ nét hơn: chúng ta đòi độc lập (với đầy đủ ý nghĩa của từ này) chứ không chỉ là mong muốn được tự chủ trong thế giới Trung Hoa thời xa xưa.

2. Trong cuộc kháng chiến lâu dài chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ, cuộc sống sản sinh các “mẹ anh hùng”, “mẹ liệt sĩ”, các tấm gương hy sinh của mọi tầng lớp xã hội. Thực tế cuộc sống đã chứng minh ý chí giành độc lập của dân tộc ta; đây chính là tinh hoa của chủ nghĩa dân tộc trong sáng nước Việt thời ấy. Điều đáng tiếc là khi hòa bình lập lại, Hà Nội nóng vội “tiến lên chủ nghĩa xã hội”, tinh hoa ấy bị bỏ quên (như số phận hẩm hiu của các thanh nữ thanh niên xung phong thời “chống Mỹ”); ngày nay, giới “tư sản đỏ” đào mồ liệt sĩ làm hồ nuôi tôm, “mẹ anh hùng” trở thành “dân oan” ở vườn hoa Mai Xuân Thưởng, tinh hoa ấy bị vùi dập! Người ta thường trách dân ta “vô cảm”, thế nhưng kẻ đáng trách trước tiên là nhà cầm quyền Hà Nội, khi họ phủ nhận chính cái tinh hoa của hai cuộc kháng chiến mà họ tự nhận là hậu duệ. Điều cơ bản là Hà Nội đã không thấy được là có thể biến cái tinh hoa, giá trị tinh thần ấy thành sức mạnh chính trị, ngoại giao và kinh tế (theo sau ngoại giao), làm tiền đề để triển khai sức mạnh trong các lãnh vực khác (ngày nay, người ta gọi là “quyền lực mềm”).

3. Đòi tự do: 1) từ phía những người theo kháng chiến, chính quyền Hà Nội: từ phản ứng chống lại Đề cương văn hóa (1953) nhằm bóp nghẹt tự do sáng tác tới Nhân văn – Giai phẩm và sau này đòi “cởi trói”, “đổi mới” (1986, thời Đại hội Đảng VI) cho thấy nhu cầu đòi tựdo (trước hết là tự do sáng tác) trong nội bộ Đảng và chính quyền, về kinh tế, năm 1968, có vụ làm “khoán chui” của ông Kim Ngọc, Bí thư Tỉnh uỷ Vĩnh Phúc, là một hình thức tự do kinh doanh cá nhân, 2) từ phản ứng đối với những chính sách sai lầm của Hà Nội (cải cách ruộng đất với các cuộc đấu tố kinh hoàng, cấm tự do tôn giáo, cải tạo công thương nghiệp ở miền Nam, học tập cải tạo, chính sách kinh tế “ngăn sông, cấm chợ” sau 1975, chèn ép các sắc tộc thiểu số, đặc biệt người Thượng ở Tây Nguyên, sự lạm quyền, lộng quyền của đám “tư sản đỏ”,…): di cư vào Nam (1954, khoảng 1 triệu người), vụ Quỳnh Lưu của Công giáo miền Bắc (1956), một số thành phần trong cuộc di tản 4.1975, thuyền nhân (từ 1978, khoảng 2 triệu người?) để “tỵ nạn cộng sản”, “đi tìm tự do”, các biến động tại Tây Nguyên, “dân oan” đòi lại ruông đất,… Đây là bước đầu của cuộc đấu tranh vì tự do, mặc dù mới chỉ là những đòi hỏi tự do sơ khai chứ chưa phải là có ý thức tự do sâu sắc.

4. Đòi dân chủ: chế độ cộng sản là một chế độ độc tài, dẫn tới sự khao khát dân chủ, ban đầu là những tiếng nói đòi dân chủ trong nội bộ Đảng song song với những đòi hỏi tự do; từ thập niên 1980 và đặc biệt thời 1989 (bức tường Bá Linh sụp đổ), nhận thức về dân chủ trở nên sâu sắc, có hệ thống và thành phần tham gia rộng hơn (nhân sĩ trong và ngoài Đảng, tu sĩ,…); ngày nay, cuộc đấu tranh vì dân chủ được mở rộng hơn (với nhiều thành phần tham gia: nhà dân chủ, thanh niên, tôn giáo, “dân oan”,…) và bắt đầu có tổ chức và đấu tranh.

5. Điều đặc biệt là ngày nay, trước chính sách xâm lấn và răn đe của Bắc Kinh, vấn đề dân tộc (bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, lãnh hải và chống lại các hiệp định phi lý, phi pháp mà Đảng CSVN đã ký) lại nổi cộm. Cuộc đấu tranh vì dân chủ lại có thêm chiều hướng mới: vì dân tộc; nói cách khác, Nhân Quyền và Dân Chủ bao gồm hai ý nghĩa: 1) về con người và quan hệ giữa người và người: quyền làm người đối với người Kinh cũng như các sắc tộc thiểu số, bao gồm các quyền tự do cá nhân, dân sự,…; 2) về quan hệ giữa các quốc gia: quyền của mỗi dân tộc: quyền được đối xử bình đẳng, tôn trọng độc lập, chủ quyền, biên giới (theo các công ước quốc tế),…

Những điều nêu trên là những giá trị nhân bản, thời đại của cuộc đấu tranh vì dân chủ và dân tộc hiện nay của nước Việt. Đây là một thử thách thời đại của dân tộc ta. Cuộc đấu tranh này đầy gian khổ, quyết liệt, có thể lâu dài, trong hoàn cảnh bị đẩy tới đường cùng; ngoài lương tâm, trí tuệ và lòng dũng cảm, dân tộc ta hầu như không có phương tiện nào khác. Thông qua cuộc đấu tranh này, cùng với những giá trị truyền thống, những giá trị thời đại sẽ tiếp tục hình thành và phát huy, trở thành Tinh thần Việt.

Trong trường hợp thành công, thành công ấy là chiến thắng của những giá trị tinh thần (không có kẻ chiến bại) – đúc kết của Tinh thần Việt, từ nghìn xưa tới cuộc đấu tranh vì dân chủ và dân tộc – và trở thành tinh hoa của dân tộc ta. Về sau này, việc gìn giữ và phát huy tinh thần Việt là nền tảng vững chắc để dân tộc ta bước vào thời kỳ Phục hưng, có những lựa chọn đúng đắn để giải quyết rốt ráo vấn đề hội nhập, một thử thách thời đại khác, theo kịp đà tiến hóa của nhân loại, trong tư thế của một quốc gia ngang tầm với mọi quốc gia độc lập khác, có sắc thái riêng và cùng với thế giới giải quyết những vấn đề của nhân loại.

Ngày 28.04.2010

Liên lạc: nguyenlan.be@gmail.com

© 2010 Nguyễn Lan

Nguyễn Khải - ĐI TÌM CÁI TÔI ĐÃ MẤT

ĐI TÌM CÁI TÔI ĐÃ MẤT


Nguyễn Khải *

(Tuỳ bút chính trị – 2006)





- 1 -


Năm 70 tuổi tôi bắt đầu chán viết, người rã ra, đọc sách cũng nằm, đọc được mười lăm phút chữ nghĩa đã loè nhoè, chả rõ mình đang đọc cái gì. Rồi ngủ. Ngủ như chim, một chớp mắt đã tỉnh, tiếp tục đọc nốt cái nửa trang đọc dở vẫn cứ lờ mờ vì chả còn nhớ họ viết cái gì trong cái nửa trang vừa đọc. Cũng năm ấy tôi được trao giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật đợt 2. Mừng thì rất mừng nhưng tôi đã nhận ra ngay đây là tấm bia mộ sang trọng cắm lên một đời văn đã tới hồi phải kết thúc. Thế là lại buồn, ra vào ngẩn ngơ cả tháng. Rồi quyết định ra chơi ngoài Bắc, trở lại quê ngoại là nơi tôi đăng ký tòng quân năm 1946, cũng là nơi tôi tập tọng viết những bài báo kháng chiến đầu tiên in litô vào năm 1949. Nó mở đầu cho nhiều chục năm tiếp theo, vừa là anh bộ đội vừa là nhà báo nhà văn. Cái thị xã quạnh quẽ, tơi tớp, tối tăm, toàn một màu xanh và đen những năm nào, giờ đã biến hoá thành một quận của Hà Nội hay Sài Gòn hôm nay. Lại nhớ tới những dãy phố ngắn ngủi, nhà thấp, hè hẹp, rợp bóng nhãn, mặt người hiền lành, dáng đi thong thả, thị xã như cái làng lớn, đi một đoạn đường phải chào hỏi không biết bao nhiêu là người vì toàn người quen cả. Năm chục năm sau, trở lại cái thị xã của tuổi mới trưởng thành, mà là trở về lần thứ ba (hai lần trước cách đây đã hơn hai chục năm) , cái mảnh đất thân thuộc đã hoá ra xa lạ. Đạp xe cả ngày chả gặp người quen nào, hoặc có gặp nhưng đã là hai ông già ở tuổi bảy mươi làm sao nhớ lại gương mặt của nhau cái thời mới mười tám đôi mươi. Lần về thứ hai vẫn còn ba người quen cũ, một người là Thuận, đại tá về hưu, một người là Tùng, trung đội phó, một người là Mễ, tiểu đội trưởng là những cấp chỉ huy đầu tiên của tôi trong cuộc sống quân ngũ. Lần này về gặp anh Thuận, cũng là ông chủ báo đầu tiên của tôi, anh hơn tôi vài tuổi. Còn hai người kia đều mới mất ở tuổi ngoài bảy mươi cả. Đường phố không quen, mặt người không quen, còn lại một ông bạn thân tối ngày đi họp, đủ các thứ hội hè để ông đến họp, vẫn là cái khát khao của người đã già, đã nghỉ hưu có dịp gặp lại bạn cũ, trò chuyện là chính, nhắc lại chuyện ngày xưa là chính, rồi than thở, đủ thứ than thở, chuyện nhà chuyện nước. Cũng buồn nhỉ ? Chuyện người già có vui bao giờ, người đã xong một việc có làm gì cũng không thể vui. Vì tôi là người có gốc địa phương nên tỉnh uỷ có gặp và mời ăn một lần cho phải phép. Nhưng nhìn những gương mặt quan chức của tỉnh hôm nay mà kinh ngạc. Mặt người nào cũng đầy những múi thịt, sần sùi, nói nhiều, cười to, lời lẽ nhạt nhẽo, dung tục, và không bao giờ nhìn thẳng vào mặt mình để nói, cứ như là đang nói với một ai khác ngồi cạnh mình hoặc ngồi sau mình. Bữa sắp về Hà Nội, bí thư tỉnh uỷ lại mời gặp, không phải là gặp chính thức mà là cùng ngồi ăn sáng với ông vì ông cũng đang bận. Buổi gặp vừa hình thức vừa khó chịu vì chỉ có người lãnh đạo của tỉnh nói, nói như người rao hàng, mắt nhìn đâu đâu, bụng nghĩ đâu đâu. Tôi chỉ còn nhớ một chuyện, có một ông tướng, là danh tướng, người địa phương, có đem một giống hoa lạ từ Hà Nội về, tự tay ông trồng ở vườn hoa của tỉnh uỷ vì phải chọn đúng ngày, đúng giờ, cả đúng hướng nữa mới đem lại thịnh vượng, hạnh phúc cho dân trong tỉnh. Thật vậy sao ?

Trong mấy ngày xuống xã vừa vui vừa buồn. Ai cũng giàu có hơn trước, nấu cơm bằng nồi cơm điện, tối xem tivi mầu, giờ rảnh thì xem phim bộ. Mỗi xóm đều có cửa hàng cho thuê băng vidéo, có gái điếm cho ngủ chịu đến mùa trả bằng thóc, có cờ bạc, có hút thuốc phiện và chích hêroine, thành phố có gì ở làng quê đều có, cả hay lẫn dở, dở nhiều hơn hay. Tôi về một xã, xã cho tôi ở nhà một anh bưu tá, lúc rảnh rỗi hỏi chuyện gì anh cũng bảo không biết. Ở xã ba ngày, đảng uỷ, uỷ ban không ai tiếp cả. Có một buổi tối có một anh chàng to béo đến chơi với gia đình, cả vợ lẫn chồng nhà chủ ăn nói thưa gửi, bộ điệu khúm núm. Anh ta ngồi ưỡn người trên ghế tựa, hai chân xoạc rộng, hai bàn tay đặt lên bụng, nói hỏi trống không, thỉnh thoảng đưa mắt nhìn tôi nhưng không hỏi gì, chào cũng không, mắt nhìn cứ lừ lừ, mà hắn chỉ đáng tuổi con tuổi cháu. Tôi cứ nghĩ tay này hẳn là dân buôn bán ở tỉnh có họ hàng gì với anh chủ nhà, tạt qua chốc lác rồi đi. Nhưng anh bưu tá lại bảo đó là ông chủ tịch xã. Lại một ngạc nhiên nữa ! Mấy ngày sau lại về một xã thuộc phía Bắc tỉnh. Cách đây đã ba chục năm tôi đã đi đi về về xã đó khoảng một năm để viết về một anh chủ tịch xã chưa tới ba mươi tuổi trong cái thời có cao trào lập hợp tác xã nông nghiệp. Ngồi chơi ở phố huyện kề liền xã bất ngờ lại gặp người quen cũ của mấy chục năm trước. Hiện giờ ông ấy đã ngoài sáu chục tuổi, có cửa hiệu chụp ảnh ở ngay phố, to béo, rềnh ràng, chuyện gì cũng biết, lại biết cách thuật lại về mọi cái biết của mình một cách sống động, tươi rói, nghe chuyện mà tưởng như chính mình cũng được chứng kiến. Nhà văn mà gặp được một người như thế là có thể nghĩ ngay một cuốn sách sẽ viết, viết cũng nhanh thôi, vì mọi vật liệu đã sẵn sàng. Bao nhiêu chuyện sui sẻo, buồn bã của chuyến đi bất thần được đền bù quá hậu hĩ nhân một lần gặp lại người quen cũ. Đang mừng khấp khởi liền bị mấy ông xã nhảy vô phá đám, đi một bước có trưởng công an xã theo một bước, vừa là người hướng dẫn vừa là người bảo vệ. Chỉ được trò chuyện với người đã được xã giới thiệu và ăn ngủ tại nhà ông bí thư xã. Nhưng tôi đâu có chịu thua hoàn toàn. Xuống cái xã bị ghẻ lạnh thì tôi chơi với dân, viết về một ông nông dân bị giời hành, được bạn bè khen là rất khá. Về cái xã được chiều chuộng quá mức tôi viết được cái bút ký “Mất Toi Một Cuốn Sách”. Sang tuổi 70, mọi hoạt động của con người đều chậm, đều kém, riêng cái chuyện viết lách của tôi vẫn giữ được phong độ gần như xưa, vẫn viết rất nhanh, riêng cái nhìn thì trào lộng nhiều hơn, ngậm ngùi nhiều hơn. Nó là thứ hương vị thơm ngát chắt ra từ hơn bảy mươi năm được làm người.


- 2 -


Tôi là một đứa trẻ khi bước vào đời có nhiều điều thua thiệt nhưng tôi đã biết níu chặt lấy thời thế mà leo dần lên. Tôi nói thế chả phải vì cái thói cơ hội, thời này có mấy ai thích nói mình thành tài là nhờ cách mạng. Nhưng có nhiều người được cách mạng ôm hẳn vào lòng nâng niu, vỗ về mà vẫn không nên người thì sao ? Là vì họ còn thiếu một yếu tố nữa, thiếu cái đó dầu họ có được bước trên thảm đỏ, kẻ nâng người dắt một đời vẫn không ra con người tử tế. Mà tôi thì có, có dư thừa. Ấy là cái tính hài hước bẩm sinh, trước hết là biết giễu mình, theo dõi từng bước đi, từng câu nói của chính mình bằng cái nhìn của người khác vừa nghiêm khắc vừa bỡn cợt. Sau mình đến người, tôi cũng hay nhìn ra cái khía cạnh buồn cười ở người khác dầu họ xuất hiện dưới cái vỏ trang trọng đến thế nào. Cái buồn cười là cái trái nghịch trong cùng một người, kẻ vô luân nói chuyện đạo đức, tên ăn cắp dạy dỗ phải bảo vệ của công, người hống hách lại là tên nịnh bợ bậc nhất. Nếu tán rộng ra thì còn vô vàn chuyện buồn cười mà ta bắt gặp ở mọi nơi, trong mọi thời gian của cuộc sống. Anh dốt thường làm ra vẻ thông thái, thằng nhát rất thích xuất hiện như người anh hùng, một chính khách đầu óc rỗng tuếch luôn tỏ ra uyên bác bằng những lời nói vô nghĩa. Nếu những người đó có được một chút hài hước, có khả năng tự ngắm mình trong khi diễn trò thì họ sẽ biết cách tự kiềm chế trong một giới hạn nào đó.

Muốn có cái mình không thể có không chỉ là chuyện buồn cười mà còn là căn bệnh không thể cứu chữa của nhân loại. Các triết gia, giáo chủ cũng không thoát khỏi cái trò cười ấy. Họ muốn cho nhân loại cái họ không thể có, muốn cứu nhân loại bằng những phương tiện nhiều lắm chỉ đem lại mê say tự huyễn hoặc mà thôi. Học thuyết xã hội hay tôn giáo khôn ngoan phải là học thuyết mở, có thể là thế này mà cũng có thể là thế khác, luôn luôn biến hoá, lấy sự biến hoá của thời thế và con người làm mục tiêu tối thượng để tự điều chỉnh. Học thuyết là do con người làm ra, một trí tuệ sáng láng nhất vẫn cứ bị ràng buộc bởi nhiều vòng tự giác và không tự giác của thời thế, của cuộc đời. Bởi vì họ không thể là Thượng Đế để biết hết vô vàn nguyên nhân những tác động qua lại, uốn éo, bất ngờ của nó đưa đẩy mọi sự vật tới những thay đổi rất nhỏ, không mấy ai chú ý, cuối cùng là những biến thiên cực lớn. Chả có học thuyết nào dự đoán đúng những gì sẽ xảy ra trong tương lai và cũng chẳng thể dự đoán được cái kết cuộc của nhiều sự việc đang xảy ra trong hiện tại. Mọi lời tiên tri đều có tính mê sảng, đồng cốt. Dành cả một thời thanh xuân để tin vào những lời tiên tri ấy, về già nhìn lại cái tài sản tinh thần thâu góp một đời chỉ là một cái kho chứa đủ tạp nham chẳng có một chút giá trị gì.


- 3 -


Tính hài hước là cái thứ mà người cộng sản ghét nhất vì nó có thể biến mọi chuyện thiêng liêng thành trò cười. Một học thuyết không thể chứng minh sự đúng đắn của nó trong thực tiễn thì trước sau sẽ biến thành tôn giáo. Vì tôn giáo là niềm tin, là thói quen, là tập quán, là vâng phục, là ở thế giới này chỉ có một chân lý, ngờ vực nó, đặt quá nhiều câu hỏi về nó chỉ là kẻ phản đồ, phải bị trục xuất khỏi cộng đồng, phải bị cách ly, bị ngồi tù để tránh mọi sự truyền nhiễm có thể. Học thuyết xã hội đã phải đội lốt tôn giáo để tồn tại thì mọi thứ thuộc về nó đều là thiêng liêng. Lãnh tụ thành thần thánh, lời nói bài viết của họ thành kinh bổn, cuộc sống cá nhân và xã hội của họ đầy ắp những chuyện phi thường. Hình ảnh của Lénine và Stalin, của Mao Trạch Đông và Kim Nhật Thành và lời nói của các vị ấy bao trùm lên toàn bộ cuộc sống tinh thần của các quốc gia họ cầm quyền, làm gì, nói gì, nghĩ gì đều không thoát ra khỏi cái bóng che ấy. Bài hát về lãnh tụ trang nghiêm như thánh ca, người hát có dáng điệu sùng bái như tín đồ. Cái thế giới cá nhân của các công dân đã bị đốt cháy, đã thành tro bụi và tan biến trong hương khói của đền đài. Trong không khí ngùn ngụt lửa cháy cùng với tiếng sóng hoan hô khi gần khi xa không lúc nào dứt, vậy những người làm việc bằng trí tuệ sẽ tìm đâu ra một khoảng trời yên tĩnh và tự do để suy nghĩ về những công trình một đời của riêng mình. Người cộng sản sẽ không bao giờ hiểu được cách làm việc cá nhân, đơn độc, xa rời quần chúng, xa rời các phong trào cách mạng có tính địa phương của các nhà trí thức thấm đẫm “tư tưởng tư sản” ấy. Phải cải tạo họ bằng các chuyến đi thực tế, bằng các lớp học chính trị ngắn hoặc dài ngày, và bằng cả những lần được gặp gỡ thân mật với lãnh tụ để có thêm lòng tin vào những lý do phải tự phủ định, để khẳng định sự nghiệp vĩ đại của quần chúng. Phải bỏ hẳn những tư tưởng triết học và thế giới quan phù hợp với cách nghĩ, cách nhìn, cách đánh giá của riêng mình, đã được chứng minh qua những trải nghiệp của bản thân để nhập vào dòng tư tưởng chính thống, cái triết học chính thống, cách nhìn nhận và đánh giá chính thống, xét cho cùng chả liên quan bao nhiêu tới cái tâm sự đang ấp ủ, tới những điều cần phải viết, và trên hết, máu thịt hơn hết là những phát hiện độc đáo của riêng mình trong lịch sử, trong văn hoá, trong nhân sinh. Mất những cái đó thì còn sống tiếp làm gì, còn viết tiếp làm gì nên một số đã phải đổi nghề, bỏ nghề sáng tạo sang nghề cạo giấy, làm một anh công chức hiền lành, mẫu mực, vừa có quyền vừa có lợi. Cái danh cái lợi cũng có sức quyến rũ người ta lắm, qua nhiều năm tháng nó đã trở thành ý nghĩa quan trọng nhất để sống, sống với vợ con, với bạn bè, với xóm làng, với xã hội. Còn một số nhỏ vì không làm nghề gì khác ngoài cái nghề văn chương nên đã đầu quân về các nhà xuất bản, tuần báo, tạp chí tiếp tục làm nghề nhưng phải viết trong khuôn phép đã quy định, cũng có đôi lúc đã tự buông thả theo những cảm xúc tự nhiên hoặc bất chợt bị mê hoặc bởi những hình tượng nghệ thuật quá đẹp đã trở thành những nạn nhân oan uổng của nhiều vụ án văn tự, nghĩ lại mà tiếc cho nhiều người, mộng mơ nhiều thì tài năng cũng nhiều đều bị thui chột ngay từ những năm còn trẻ.


- 4 –


Trong suốt ba chục năm chiến tranh, mỗi người Việt Nam đã quên hẳn những nhu cầu vật chất và tinh thần của riêng mình để được cùng sống như mọi người, cùng cảm nghĩ như mọi người, sống cùng sống chết cùng chết. Học thuyết Mác và vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng Sản được tôn vinh đến tuyệt đối. Vì số phận cá nhân gắn liền với tập thể với dân tộc, trùng hợp khít khao với các mục tiêu chính trị của đảng cầm quyền và những tham vọng của người lãnh đạo. Nhưng cả mấy thế hệ cùng tham gia chiến tranh, sống trong một môi trường xã hội, chính trị của một đất nước đang có chiến tranh cũng là một tai hoạ khôn lường. Trong chiến tranh tập thể gạt phắt cá thể sang một bên, có thể giẫm đạp lên nó cũng chả mất mát gì, vì chiến tranh đòi hỏi sự nhất trí, cần sự ra lệnh đúng lúc của nhiều cái đầu chứ không có thời gian bàn luận, sai đúng có sự tham gia của nhiều cái đầu. Vả lại nếu người lãnh đạo tính toán sai lập tức sẽ bị đối phương trừng phạt ngay, không sớm tỉnh ngộ thì cả sự nghiệp có thể bị đổ vỡ. Đến thời hoà bình thì chỉ còn dân chúng đối mặt với chính quyền, quyền lợi khác nhau, nguyện vọng khác nhau, có trăm ngàn thứ khác nhau trong một cộng đồng: dân tộc, tôn giáo, văn hoá, điều kiện sống…trong một thời gian dài tạm quyên đi, tạm gác lại để lo việc lớn, lúc này nhất loạt trỗi dậy, đòi hỏi và mỗi cá nhân đều thấy cái mình đòi là quan trong nhất, bức thiết nhất. Độc lập có rồi, tự do có rồi, vậy cái hạnh phúc của mỗi chúng tôi nhà nước định quên sao? Nhưng người dân phải tìm ra cơ hội nào để nói, đến chỗ nào để nói, dùng phương tiện gì để nói. Nói với tổ chức, với các đoàn thể mình là một hội viên, không ai nghe cả. Nói trên báo chí không báo nào dám đăng. Viết kế sách, thỉnh nguyện gửi lên các cấp có thẩm quyền thì chả bao giờ nhận được trả lời. Vậy phải làm gì nhỉ ? Làm loạn không dám, biểu tình đúng pháp luật cũng chưa có tiền lệ. Người đứng đắn bộc lộ sự không bằng lòng của mình tại các cuộc họp lập tức bị những kẻ cơ hội trấn áp tức thì, bị cơ quan an ninh ghi vào sổ đen, thăng chức nên lương từ nay không thể, chỉ còn đợi ngày về hưu thôi. Nhưng dân chúng vẫn có cách xả nỗi bất bình của họ bằng cách sáng tạo ra nhiều chuyện tiếu lâm chính trị. Trong cả nước không đâu có nhiều chuyện tiếu lâm bằng Hà Nội vì nó là thủ đô hành chính, mọi chuyện cung đình vừa thật vừa giả tràn gập các quán cà phê mỗi ngày. Không ra được báo viết thì làm báo mồm vậy, lời nói bay đi lấy đâu làm bằng, tưởng như vô hại mà hại vô kể. Vì nó sẽ thành dư luận, không ai bắt giam được dư luận, giết được dư luận, cái dư luận hỗn tạp, vô sở cứ mở rộng mãi ra, bao trùm mọi việc mọi người trở thành mặt bằng mới để đặt ra các tiêu chuẩn sống cho một thời. Cái tiêu chuẩn mới có tên gọi là “mặc kệ nó”. Nó là người khác, là nhà nước, là bất cứ ai, bất cứ việc gì không có quan hệ trực tiếp tới các lợi ích cá nhân mình. Cái cá thể sau một thời gian dài nhập vào cái tập thể đã tự tách ra khỏi nó để tìm lại mình. Nhưng cách tìm lại ấy thường thuộc về phía tiêu cực của con người, lấy lợi ích bản thân làm mục tiêu nên không tạo ra được sự thăng hoa, sự tự do chân chính, là môi trường cho mọi sáng tạo độc đáo, vừa thấm đẫm tính cá nhân vừa thấm đẫm tính thời đại ở yếu tố tiền phong của nó. Ở đây tôi muốn nói thêm, tự do được nuôi dưỡng tự nhiên trong môi trường dân chủ là tự do của cống hiến, còn tự do vừa thoát ách chuyên chế thường có tính phá hoại, trả thù, để bù lại những năm tháng bị tước đoạt. Cứ so sánh về tự do của một xã hội dân chủ nhiều trăm năm như Hoa Kỳ và tự do vừa giành được của nước Nga Xô Viết là đủ rõ. Vì nó không được chuẩn bị, không được giáo dục, mọi bản năng của con người được xổng ra nhất loạt sẽ gây hỗn loạn cho cộng đồng, nhiều hơn là xây dựng. Dân chủ và tự do phải có thời gian để làm quen, để học cách sử dụng và bảo vệ, phân được ranh giới giữa cá nhân và cộng đồng. thành pháp luật, thành tập quán mới có thể đơm hoa kết trái được.


- 5 –


Một đất nước bị xâm lược, rồi bị nô dịch, dân chúng thành nô lệ không được pháp luật che chở, làm người cũng khó nói gì tới ý thức cá nhân trong mỗi con người. Ý thức cá nhân là ý thức về cái riêng biệt của mình, về cái có thể cống hiến của mình cho cộng đồng không giống với một ai do có một cách cảm nhận riêng, một cách suy nghĩ riêng, từ đó…Những cái giá trị cá nhân chỉ được nhìn nhận, được tôn vinh ở những xã hội tương đối tự do, các mối quan hệ giữa người với người tương đối tốt đẹp. Ở xã hội tư bản mà chúng ta vốn có thành kiến là rất xấu xa lại thường hay cho những tiếng kêu cứu, bảo vệ những giá trị truyền thống của cá nhân, vì đồng tiên đang làm mất phẩm giá của con người, phá vỡ nền tảng đạo đức, làm rối loạn các mối quan hệ xã hội. Con người được sống no đủ, trong tiện nghi mà vẫn đối địch với nó, muốn thoát ly khỏi nó vì không được thoả mãn những nhu cầu về tinh thần. Ta hay lấy những chuyện đó để làm chứng một cách hả hê cho sự tha hoá của con người sống dưới chế độ tư bản. Vậy các công dân của chế độ xã hội chủ nghĩa thì sao? Chả có ai kêu ca gì. Nhà văn là người có trách nhiệm chăm lo cuộc sống tinh thần của đồng loại cũng không kêu. Có một nhà văn Nga viết cuốn sách “Người ta không chỉ sống bằng bánh mì” bị cả giới văn nghệ Liên Xô phê phán. Ông đã viết sai vì các nước XHCN rất coi trọng cuộc sống tinh thần của các công dân. Họ đọc sách rất nhiều, trên xe điện, xe buýt, trong công viên, đứng xếp hàng từng dãy dài mua thực phẩm, mua vé xem vũ kịch, nghe âm nhạc họ đều mở sách đọc rất chăm chú, tưởng đâu như cuộc sống đích thực của họ là ở các trang sách. Chỉ có những giây phút chìm đắm trong sự đọc họ mới có cơ hội ngẫm nghĩ về thân phận của mình, của đồng loại, tìm lại cái bản gốc cá nhận đang lưu lạc ở một góc khuất nào đó của riêng mình. Rời khỏi trang sách là rơi ngay vào vòng quay của trăm ngàn công việc chả có nghĩa lỹ gì ngoài sự mưu sinh để tồn tại. Những ngày nghỉ, những giờ tạm gọi là rảnh rỗi họ cũng không được ngồi một mình, ngẫm nghĩ một mình, có bao nhiêu buổi lễ kỷ niệm lớn nhỏ, những phong trao cam kết thi đua và vô vàn cuộc họp của nghành của giới đã choán hết phần thời gian còn sót lại…Cuộc sống tập thể đã nhấn chìm cuộc sống cá nhân, cuộc sống trong chiến tranh đã xoá nhoà mọi thói quen của cuộc sống thời bình. Lúc nào cũng có kẻ thù rình rập đâu đó để tìm cớ lật đổ chế dộ bằng vũ trang, hay bằng diễn biến hoà bình. Lúc nào cũng được đồng chí trong chi bộ, bàn bè cơ quan giám sát mọi tư tưởng và hành vi để ngăn chặn mọi biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân của mỗi thành viên. Lúc nào cũng phải đề phòng, phải đề cao cảnh giác cách mạng, không tin cậy bất cứ ai, kể cả bạn bè. Chỉ có một điều lạ, là trong hoàn cảnh sống không có một tí tự do nào cho cá nhân mà chúng tôi vẫn sống được, lại còn viết văn làm thơ được!


- 6 -


Suốt 80 năm sống dưới ách đô hộ của Pháp, chúng ta vẫn đặt được những viên gạch đầu tiên cho nền văn xuôi Việt Nam. Những truyện ngắn, tiểu thuyết, phóng sự, tuỳ bút của thời ấy được in trên các tuần báo hoặc xuất bản thành sách nay đọc lại vẫn thích thú, vẫn làm ta cảm động. Nhiều truyện được đọc từ tuổi niên thiếu vẫn ám ảnh ta tới tận lúc tuổi già, và một loạt các nhà thơ, nhà phê bình văn học của cái thời gọi là thuộc địa đã trở thành những tên tuổi lớn tồn tại mãi mãi trong lòng nhiều thế hệ bạn đọc. Làm thân nô lệ mà vẫn trỗi lên thành những tài năng lớn là sao? Không chỉ trong văn chương mà còn cả trong mỹ thuật, trong kịch nghệ. Không chỉ trong văn nghệ mà trong cả khoa học, giáo dục, trong kinh doanh theo kiểu tư bản và trong nhiều nghề truyền thống. Tất cả đều được bắt đầu từ những năm đầu thế kỷ, được phát sáng, được bộc lộ mạnh mẽ các tài năng cá nhân và họ đã trở thành người khai sáng, người mở đường, thành tổ nghề, không chỉ có tài lớn mà còn có đức lớn, là những nhân cách kiểu mẫu cho con cháu, cho giống nòi, đều là chuyện có thật cả, không thể bóp méo hoặc bác bỏ. Mà giải thích về nó cũng rất đơn giản. Chế độ tư bản của Pháp và Châu Âu tiến bộ hơn, văn minh hơn chế độ phong kiến tập quyền của Châu Á tới vài thế kỷ, là khoảng cách giữa hai thời đại, nói như cụ Phan Chu Trinh. Thời Pháp thuộc bọn thực dân chỉ cấm, bỏ tù, xử bắn những người dám chống đối nó, trước hết là những người cộng sản. Cuộc sống của dân chúng vẫn lầm than như thời xưa, như thời phong kiến, khổ nhất vẫn là nông dân, nhưng xã hội có thêm nhiều nghề mới do công cuộc khai thác tài nguyên ở thuộc địa, hình thành dần nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, có đô thị và các trung tâm buôn bán, có các đường lớn xuyên quốc gia và liên tỉnh, có cầu cống và đường sắt, có báo hàng ngày, có tuần báo và tạp chí. Tiếng nói của công chúng sau nhiều thế kỷ câm bặt đã được cất lên bày tỏ thân phận và nguyện vọng của mình, dẫu còn yếu ớt nhưng đã gây được tiếng vang trong cả nước. Dầu xã hội phát triển một cách nhem nhuốc, đau đớn nhưng vẫn hơn cái thời tù mù, tối tăm của thời phong kiến. Thời thế là vị tư lênh tối cao, không có học thuyết nào, một thiên tài chính trị nào dám chống lại những mệnh lệnh của nó. Dám chống lại nó học thuyết sẽ tiêu tan, các chính khách thì thân bại danh liệt. Chế độ thực dân tuy tàn bạo nhưng nó là sản phẩm của thời đại này nên nó vẫn có khả năng ươm cấy nhiều nhân tố tích cực, có giá trị bền vững cho những xứ sở nó đô hộ. Còn những vương triều phong kiến dẫu được cai trị bởi các bậc minh quân thánh trí vẫn là những xã hội hủ lậu và thuộc về quá khứ. Tài giỏi như Khang Hy, Càn Long nếu còn trị vì Trung Quốc tới cuối thế kỷ 19 mà không chịu thay đổi thể chế đã quá cũ kỹ thì vẫn cứ thua, có khi còn thảm bại hơn vì lòng kiêu hãnh bệnh tật của họ. Cách tổ chức xã hội của giai cấp tư sản dẫu có xấu xa tới tận đâu cũng vẫn tạo được những môi trường tự do và dân chủ hơn, mở ra những cơ hội mới cho sự phát triển tài năng của mọi cá nhân và của cả cộng động. Lại lấy thêm một ví dụ về nước Nga trong non một thế kỷ qua. Dưới chế độ Xô Viết, người dân Nga được nhà nước chăm lo hoàn toàn từ khi sinh đến khi chết, nhưng họ vẫn không thích, vẫn thấy ngột ngạt vì đó là cuộc sống không phải lo nghĩ của một trại tập trung , con người bị đánh số, bị xếp theo khuôn, theo hàng, chỉ nhìn thấy đám đông chứ không thể nhìn ra từng con người riêng biệt, kể cả trong triết học và văn chương. Còn thời bây giờ là một xã hội mạnh ai nấy lo, người người lấn chen nhau, tranh cướp nhau vì những tham vọng không được kìm nén, kỷ cương cũ bị xoá bỏ, kỷ cương mới chưa kịp hình thành, mọi sự đều phải làm lại từ đầu từ quốc kỳ, quốc ca, quân kỳ… Nhưng xem ra chả có mấy ai than thở về hiện trang hỗn loại, họ cảm thấy thoải mái, bằng lòng với cuộc sống đầy bất trắc của hiện tại vì lần đầu tiên họ được lựa chọn cách sống của mình, thắng thua tự mình gánh chịu, cũng là lần đầu họ biết nhận ra cái “ bản lai diện mục” của chính họ.

-7-


Bất cứ nhà nước nào lấy học thuyết xã hội hoặc tôn giáo thay cho hiến pháp thì trước sau sẽ chuyển đổi thành nhà nước chuyên chế. Vì trong hàng triệu công dân sẽ có nhiều nhóm người không cùng lòng tin, không cùng tín ngưỡng với nhà cầm quyền. Họ trở thành những cộng đồng đáng ngờ, sẽ bị phân biệt đối xử, trước hết là mất quyền tự do tư tưởng, tự do ngôn luận, tự do xuất bản. Đó là nói về tầng lớp trí thức. Còn những người làm các nghề khác, chả dính dáng gì đến sách vở cũng sẽ cảm thấy bị tước đoạt nhiều quyền tự do, như quyền tự do lựa chọn cách sống của riêng mình chẳng hạn. Đã độc quyền về tư tưởng tất nhiên sẽ độc quyền cả về cách sống, vì mỗi học thuyết đều có phần đạo lý của nó, nó cần tiêu chuẩn làm người đã được lý tưởng hoá của nó để làm khuôn mẫu cho tu sĩ và tín đồ. Tôi có một bà cô sống ở Hà Nội suốt thời Pháp tạm chiếm, là dân cũ của Hà Nội, sau này giải phóng được một năm, bà than thở với tôi, nghĩ rằng sống với cách mạng thì dễ mà hoá ra rất khó. Bà bảo chính phủ gì việc lớn không lo toàn lo việc vặt, từ cách ăn mặc, cách yêu đương, cách nuôi dạy con cái là những việc người dân tự biết cách lo, tự biết cách học, lo không nổi thì đã có dư luận xã hội lo giùm, từ cổ tới nay vẫn thế mà. Lại nói về những tín đồ trung thành của chủ nghĩa Mác, những chiến sỹ theo cách mạng từ thuở mới lập nước là đám văn nghệ sỹ chúng tôi cũng “sống không dễ” trong sự viết lách. Viết đúng luật lệ thì chỉ có hai chủ đề: căm thù và hy sinh. Cũng chỉ có ba loại người được tôn vinh: công, nông, binh. Cái thế giới mênh mông, nhiều mầu sắc ngày một thu hẹp và chỉ có hai mầu: đỏ là quân ta, đen là quân địch. Văn chương cách mạng thoạt đầu cũng lạ so với văn chương thời trước nên được bạn đọc trẻ hoan nghênh. Nhưng cứ phải đọc mãi một vài đề tài quen thuộc, một vài loại người quen thuộc và những tâm trạng rất quen thuộc ngay những bạn đọc trung thành cũng phải chán. Chính chúng tôi cũng tự chán mình. Tài đã kém lại bị bó chặt từ đầu tới chân, xoay tới xoay lui cũng chỉ có một vòng quay, ú ớ một cách nói, càng viết càng nhảm cũng là phải. Một nền văn nghệ phải phục vụ chính trị (mà chính trị thì sớm nắng chiều mưa) là đã mất một nửa tự do rồi, lại phải phục chính trị theo nghĩa các chủ trương, chính sách của từng thời kỳ thì còn gì là tự do nữa. Ấy là chưa nói mỗi cấp cầm quyền lại có những yêu cầu riêng, những cách đối xử riêng, lúc nhu lúc cương, cái thằng nghệ sĩ chả còn biết lối nào mà lần. Văn chương đã đến nông nỗi ấy mà vẫn có giải thưởng quốc gia, nhưng những tác phẩm được giải thưởng Lenin, Stalin liệu có còn cuốn nào được người Nga hôm nay muốn đọc lại. Tôi cũng được giải thưởng văn chương cao nhất cấp quốc gia, nhưng tôi biết chỉ mươi năm nữa, thời thế đổi thay chắc chả còn ai nhớ tới mình nữa. Tôi là nhà văn của một thời, thời hết thì văn phải chết, tuyển tập, toàn tập thành giấy lộn cho con cháu bán cân. Buồn nhỉ? Nghĩ lại cũng chả có gì phải buồn, con người vốn sống trong những chiều kích hữu hạn lại mơ tưởng những gì do con người làm ra sẽ thuộc về vĩnh viễn, có hoạ rồ! Tất nhiên vẫn có nhiều công trình của trí tuệ thuộc về cõi bất tử nhưng là của các thiên tài. Với bộ não con sâu cái kiến, ngước nhìn những cái đầu khổng lồ ấy làm gì cho thêm buồn ra. Hãy viết những gì trong cái tầm nhìn tầm nghĩ của con sâu cái kiến vậy. Một cách nghĩ thiếu “tự hào dân tộc” nhưng chắc chắn là một cách nghĩ đúng. Đã từng có những quốc gia từng nghĩ từng viết rất tự hào, rất kiêu hãnh rằng dân tộc họ đã sải bước trước nhân loại cả trăm năm, sắp chạm tay vào cánh cửa thiên đàng rồi! Mà rồi sao nhỉ? Là như mỗi chúng (ta) đều đã được chứng kiến trong suốt mấy chục năm nay đấy!


-8-


Nhà văn Dư Hoa, một cây bút đang nổi của văn đàn Trung Quốc, trong lời cuối sách của tiểu thuyết “Huynh đệ”(NXB Công an Nhân dân, 2006), ông có viết đại ý, trong lịch sử thế giới từ thời Trung Cổ đến thời hiện đại phải trải qua 400 năm. Còn ở Trung Quốc từ thời cách mạng văn hoá, cả đất nước chìm sâu trong bóng đêm trung cổ với thời bấy giờ với bao nhiên thay đổi đến chóng mặt để đất nước Trung Hoa nhanh chóng bước vào đội ngũ các đại gia của G8. Cái khoảng cách vời vợi giữa hai thời đại ấy đã được rút gọn trong có 40 năm. Rằng hay thì thật là hay nến chỉ nhìn vào toàn cục, vào cả dân tộc. Nhưng nếu nhìn vào từng cá nhân, những cá nhân không được chuẩn bị từ căn cơ trong lịch sử, trong văn hoá, trong truyền thống và nhất là trong nhân cách làm người thì cái rút gọn trong mỗi cá nhân sẽ dẫn tới đâu? Theo ý tôi (N.K.) là các cá nhân ấy sẽ rất dễ bị GÃY khi gặp phải sóng to gió lớn. Vì cái lõi của nó chưa đủ cứng, chưa đủ bền, chưa đủ những tố chất về di truyền, về giáo dục (rất cần có thời gian) để ứng phó hữu hiệu với những thay đổi quá nhanh của môi trường sống. Các nhà cách mạng thường chỉ nghĩ tới mục tiêu và những con đường ngắn nhất nhanh nhất để đạt được mục tiêu, bất chấp các công dân của họ bằng lòng hay không bằng lòng. Và họ lại tin một cách ngây thơ, một cách tệ hại rằng cứ ép là được, cứ đẩy tới bằng các phong trào cách mạng của quần chúng là được, trước lạ sau sẽ quen dần. Nhưng các cá nhân cũng là lòng người không thuận thì mọi chủ trương dẫu hay đến mấy sớm muộn cũng bị đào thải, chả để lại một dấu vết tích cực nào. Và càng lạ hơn là những tổ chức kinh tế được xem là lạc hậu, là phản động của một thời vẫn có muôn vàn cơ hội để tái sinh và xem ra còn tồn tại rất lâu dài.

Trong những năm 90 của thế kỷ 20 nhiều vị lão thành cách mạng Việt Nam lấy làm kinh ngạc và đau đớn trước sự tiêu vong quá nhanh của một siêu cường mà chân móng của nó đã ăn sâu trong mảnh đất Nga non một thế kỷ. Thật ra toà lâu đài kiểu mẫu của tương lai ấy không hề có chân móng. Nó được xây trên cát. Mọi thay đổi lớn đều dựa vào phong trào quần chúng được hình thành, được vận động chỉ bằng có tuyên truyền chứ không từ nguồn lực tự thân. Tất cả đều phải ép buộc, đều phải dàn dựng, và phải có các diễn viên chuyên nghiệp trình diễn theo một kịch bản độc nhất. Có hai nhà văn lớn của Châu Âu đều được mời xem màn diễn về một xã hội lý tưởng do người cộng sản lãnh đạo. Ông Romain Rolland thì khen không hết lời, còn ông André Gide thì chê từ đầu đến cuối. Vì một ông chỉ nhìn có cái mặt tiền, cái tổng thể, đến đâu cũng thấy dân chúng ca hát, nhảy múa và vẫy cờ, vẫy hoa. Còn một ông lại chỉ quan sát cái sân sau của chế độ và thân phận của nhiều cá nhân ông có dịp tiếp xúc. Đám đông thường cho ta cái cảm giác sai vì họ không thể giữ được tính độc lập trong tình cảm và phán xét. Còn cá nhân thì cái thân phận riêng tư của họ bao giờ cũng thuộc về nhân loại hôm nay và mai sau.

Một xã hội mà công dân không được quyền sống thật, nói thật, nhà văn cũng không được quyền bộc bạch tâm sự riêng tư của mình trên trang giấy là một xã hội không có chân móng. Các quốc gia cùng sống với nhau trong một liên bang, gọi nhau là anh em là đồng chí, nhìn ngoài thấy họ sống cũng yên ấm vui vẻ. Vậy mà khi họ chia tay nhau cũng dửng dưng. Và ngay lập tức họ nhận ra nhiều mối lợi trên đất nước mình đã bị người anh em ruột thịt chia sẻ trong một cuộc đổi chác không công bằng. Thế là bắt đầu những cuộc tranh chấp các đường biên giới, đã có lúc phải dùng đến xe tăng, đại bác để nói chuyện. Rồi tranh chấp đường ống dẫn dầu và các mỏ dầu, các căn cứ quân sự và các vùng biển có hạm đội. Khi Mỹ và NATO muốn đặt căn cứ quân sự trên đất nước họ, nhân danh chống khủng bố họ gật đầu liền đâu biết Mỹ là đối thủ của nước Nga anh em. Yêu Mỹ là tất nhiên vì Mỹ sẽ rót tiền vào những cái két rỗng của họ. Ghét Nga cũng là lẽ đương nhiên vì xưa kia anh bắt nạt tôi, lấn át tôi, xem tôi như chư hầu, như thuộc địa, bây giờ chính là lúc tôi có quyền trả thù. Lúc giận nhau thì nghĩ nông cạn thế, còn bình tĩnh lại thì giữa các nước cộng hoà trong liên bang Xô Viết (cũ) vẫn có sự ràng buộc tự nhiên và máu thịt trong lịch sử vì họ đã là người một nhà non một thế kỷ, đã cùng nhau sống chết chống hiểm hoạ phát xít để bảo vệ sự tồn tại của Liên bang cũng như của các nước cộng hoà. Lại đã cùng nhau sinh con đẻ cái, đã pha trộn ngôn ngữ, văn hoá và kỷ niệm. Bây giờ mỗi quốc gia vừa được trở lại là chính mình, vừa có phần đóng góp thêm của các nền văn hoá lân cận, bạn bè, giàu có hơn trước, văn minh hơn trước. Rồi họ cũng sẽ sống với nhau như một cồng đồng của khu vực, nhưng lần này là tự nguyện, là do họ tự chọn một hình thức liên minh bình đẳng, dân chủ và hoàn toàn tự do. Bất cứ một thiết kế[chế?] xã hội nào nhắm tới dân chủ và tự do, xây một xã hội mở, một liên minh mở sẽ có may mắn tồn tại được lâu dài với sự đồng thuận của mọi người và sự hài lòng của mỗi cá nhân.


-9-


Gần đây tôi có được đọc hai cuốn sách hay. Một cuốn là Bàn Về Tự Do của MILL, một triết gia người Anh viết từ năm 1859, cách ta một thế kỷ rưỡi. Một cuốn là Tư Duy Tự Do của Phan Huy Đường, một nhà nghiên cứu học thuyết Mác có tên tuổi ở Pháp viết vừa mới đây. Khoảng mươi năm nay tôi đọc tiểu thuyết không vào, cả của ta, của Tàu lẫn Tây, cả sách mới dịch, mới xuất bản, cả sách của các đại gia của những thế kỷ trước. Năm còn trẻ đọc thấy hay, bây giờ già rồi nhìn trang sách cứ dửng dưng vì nó không chịu ăn nhập vào những trải nghiệm cá nhân của tôi, không mở ra trong tôi một cách tiếp cận mới với hiện thực, không làm bùng cháy một điều gì đang còn ẩn sâu trong đáy tiềm thức khiến tôi phải choàng thức chợt nhận ra một vỉa sáng tạo mới vừa thoáng xuất hiện. Hai cuốn sách trên, một cuốn do bạn cho mượn, một cuốn tình cờ mua được ở nhà sách vì cái tên của một tác giả tôi vốn quan tâm. Tôi đọc say mê cả hai cuốn như thời trẻ được đọc một cuốn tiểu thuyết hay, tất nhiên là khó đọc hơn tiểu thuyết nhưng đã thích lại có trải nghiệm bản thân hướng dẫn, không hiểu được đầy đủ thì cũng hiểu được cái đại thể. Nhiều ý của bài viết này là được cảm hứng từ hai tác giả đó.

Năm tôi 60 tuổi, khi viết về một bà cô đã ngoài tám chục mà còn rất minh mẫn trong cách đối nhân xử thế, bà vẫn giữ được tính cách riêng mà không làm mất lòng một ai, từ con cháu trong nhà đến các mối quan hệ ngoài xã hội. Tôi đã viết nếu bà cụ được trời cho chứng sống đến trăm tuổi mà vẫn còn sáng suốt ắt hẳn bà sẽ biết mọi bí mật của then máy tạo hoá. Thật ra là tôi nói về tôi đấy, có hơi bốc đồng nhưng tôi tin là tôi sẽ biết được con người nhiều hơn nếu tôi được sống lâu hơn, không cần trăm tuổi, chỉ cần 90 là đủ, miễn là vẫn giữ được một cái đầu bén nhạy như bây giờ, sẵn sàng tiếp nhận mọi sự khác lạ như bây giờ, kể cả sự phủ định chính mình. Năm ấy tôi đã hiểu ra mọi sự rút gọn ở đời đều trái tự nhiên, đều dẫn đến thất bại. Các cuộc cách mạng xã hội ở nước ta trong suốt ba chục năm đều hỏng cả, đều phải làm lại từ đầu, tất nhiên là theo hướng khác, mà kết quả vẫn vừa chậm vừa dây dưa. Nguyên do là các nhà lãnh đạo muốn rút gọn những công việc của trăm năm thành chuyện chỉ làm trong mấy năm. Vì họ chưa hiểu đầy đủ con người Việt Nam trong cuộc sống đời thường, cái cuộc sống không có chiến tranh, không có cách mạng xen vô, cái cuộc sống trôi đi lặng lẽ của muôn đời. Nghĩ rằng người Việt Nam của hôm nay đã khác nhiều với người Việt Nam trước năm 1945 là một cách nghĩ rất thiển cận, tự gây cho mình nhiều ảo tưởng trong việc trù liệu những việc phải làm để kiến tạo một xã hội dân chủ và văn minh. Mọi phong trào thi đua chả có ích lợi gì trong những việc cần nhiều chăm sóc nhẫn nại, bền bỉ, bắt đầu từ các cá nhân chứ không phải từ các đám đông với những khẩu hiệu, cờ quạt, kèn trống, diễn văn và đáp từ, vỗ tay và tặng hoa. Đám đông không thể đứng mãi dưới nắng để nghe lãnh tụ diễn thuyết. Họ luôn mong đợi được giải tán để về nhà. Con người ở nhà vẫn cũ kỹ nhưng là người thật chứ không phải là sự nhập đồng chốc lát khi đứng trong đám đông. Tôi thật lòng yêu mến, ngưỡng mộ Phiden, một nhà yêu nước kiên cường, một nhân vật đã thuộc về lịch sử của Cuba. Ông là một trí thức lớn, bạn tâm giao của Máckét, nghe nói trong túi lúc nào cũng có một cuốn tiểu thuyết đang đọc dở. Bởi vậy tôi mới lấy làm lạ khi ông buộc dân chúng phải đứng hàng nửa ngày dưới nắng để nghe ông cao đàm khoát luận về dủ mọi vấn đề. Lúc cách mạng mới thành công nói dài thế vì người dân còn đang háo hức với cuộc sống mới và các ngôn từ cách mạng cũng rất mới. Như một cặp tình nhân đang yêu nhau, đang cần nhau, nói với nhau đủ thứ chuyện vớ vẩn nhưng chả ai thấy thời gian là dài. Còn đã thành vợ thành chồng thì chỉ cần nói ít thôi, chỉ nói những việc cần làm thôi, chứ cần gì những thuyết lý dông dài. Mao Trạch Đông cũng thế, ông là một nhà chính trị thông kim bác cổ, quanh nơi ông làm việc và cả nơi ông nghỉ ngơi sách đang đọc xếp từng chồng, nhưng xem ra cũng chả hiểu đồng bào ông bao nhiêu. Người dân ở đâu cũng thế, đều muốn có một cuộc sống bình yên, được tính việc cá nhân và gia đình trong một khoảng thời gian dài, một trăm năm chẳng hạn, không có những thay đổi lớn trong lối sống, trong công ăn việc làm, trong các giá trị, đặt biệt là giá trị của đồng tiền. Chứ cứ phải sống mãi từ năm này qua năm khác trong các phong trào cách mạng, lúc chống tả lúc chống hữu, những hội nghị toàn quốc và địa phương nối nhau không dứt, những hô hào la hét từ trong nhà ra ngoài đường như một lũ hoá rồ, các quan hệ xã hội và các giá trị thay đổi soành soạch thì còn biết đằng nào mà sống. Vả lại các cuộc cách mạng ấy chả đem lại bất cứ lợi lộc nào, cho bất cứ giai cấp nào. Chỉ có những mất mát thôi, người giàu thì mất cơ nghiệp được kiến tạo từ nhiều đời, người nghèo thì mất những chỗ dựa cạy, có thể mất cả công việc kiếm sống mỗi ngày để được làm chủ một cái rỗng không. Có thực mới vực được đạo, đã đói ăn thì ngay đến cái tư cách làm người cũng không thế có nói gì đến đạo. Thành thử cái chủ trương rất quyến rũ, rất “văn nghệ”, nhất là với giới tri thức, của chủ nghĩa Mác “cải tạo thế giới, cải tạo con người” hoá ra chuyện không đâu, nói cho vui, bây giờ người ta cũng hay nhắc đến để chế giễu một học thuyết xã hội chứa đầy những hoang tưởng.


-10-


Do không hiểu con người cá nhân, hoặc chỉ hiểu theo những phân tích máy móc, nông cạn của chủ nghĩa duy vật cơ giới của thế kỷ 19, nên các nước xã hội chủ nghĩa mới dám đặt ra những mục tiêu huyênh hoang nhằm cải tạo con người trong vài thập kỷ nếu môi trường xã hội thay đổi. Nên mới gọi nhà văn là “kỹ sư tâm hồn” ! Văn chương do con người làm ra để trao tặng cho con người một cách tự do nhất, ít bị ép buộc nhất. Chỉ có văn chương mới tôn trọng mọi giá trị của cá nhân, tôn trọng mọi lựa chọn của cá nhân kể cả những thành kiến phi lý của họ. Họ có quyền yêu mình hoặc ghét mình , tôn vinh mình hoặc nguyền rủa mình, chả sao cả. Người viết cứ viết người ghét cứ ghét kể cả cái quyền ném sách vào lửa. Cái mục đích “tải đạo”, “giáo dục” của văn chương không bao giờ lộ liễu, lộ liễu là văn chương tồi. Vả lại chính người viết cũng không có ý định ấy, họ viết bằng tâm sự thành thật của mình, những trải nghiệm đau đớn của mình, họ viết cho họ trước rồi cho độc giả sau, có khi họ cũng chả nghĩ đến những người sẽ đọc họ, viết mà chơi thôi, viết để giải sầu rồi tự mình ngậm ngùi với mình, ứa lệ với riêng mình. Chả trách ai cả, chả giận ai cả, cũng chả lên án một ai. Vì không có vật cản nào nảy sinh trong ta khi đọc nên chữ nghĩa của tác phẩm cứ mặc nhiên trôi vào tận những kẽ ngách trong cái tâm sự u uẩn, những khát vọng thầm kín của riêng ta, đọng lại trong ấy, rồi cứ thẩm thấu dần dần vào cái thế giới tinh thần của ta một cách vô thức, giúp ta nhận ra một vùng sáng mới lạ nào đó, gột rửa một vài thành kiến, thay đổi một vài quan niệm, và ta vẫn nghĩ một cách khoan khoái là chính tự ta đã chủ động thay đổi, tuyệt nhiên không theo lời chỉ bảo của một ai cả, của một học thuyết nào cả, hoặc nhập vào một cách bất chợt một phong trào thời thượng nào cả. Bất cứ cái gì xa lạ với bản tính của mình, với thói quen của mình, nói một câu, với những gì làm nên lai lịch của mình, chả sớm thì muộn đều bị đào thải để mình lại được trở về với cái nguyên gốc. Tôi được biết có một cụ linh mục yêu nước và cấp tiến được cách mạng tín nhiệm mời lên khu làm việc cho kháng chiến thời đánh Pháp. Những khi ngồi một mình cụ vẫn rất buồn vì ở trong rừng không có nhà thờ để cụ đi lễ và làm lễ. Cụ nhớ Chúa, nhớ bày chiên và nhớ cả những lời nói của đấng chăn chiên với bày chiên trong công việc của mỗi ngày. Khi cụ sắp mất cụ thiết tha yêu cầu được một linh mục đang coi sóc một xứ đạo nào đó tới rửa tội và xức dầu Thánh cho cụ. Lại một chuyện khác, khi tôi được tiếp xúc với một vị lãnh đạo cấp cao của Đảng khi ông đang còn làm việc, quả thật tôi đã từng nghĩ ông là con người kiểu mẫu của một xã hội tương lai, chả nói gì, nghĩ gì về mình, tất cả cho tổ quốc, cho sự nghiệp, cho nhân dân. Nhưng rồi ông bị mất chức vì không được bầu lại vào uỷ ban trung ương của Đảng, một chuyện rất bất ngờ với nhiều người. Khi đại hội công bố kết quả bầu cử, nghe nói ông đã oà khóc, rồi khóc thầm lén tới mấy năm, không đi đâu cả, không gặp ai cả vì tự cho mình đã bị sỉ nhục, đã mất hết danh dự. Lại là một con người khác, tầm thường hơn cái lúc còn đeo tấm bài ngà rất nhiều. Con người mặc nhiều lớp áo là con người giả, con người đã bị lột truồng mới là con người thật. Con người đã bong một lớp sơn phủ kín chỉ còn trần lại cái lõi của nó mới là thật. Cái vỏ có thể luôn luôn thay đổi nhưng cái lõi muốn thay đổi phải mất có khi gần một đời người. Ấy là chỉ dám nói là có thể thay đổi chứ không dám nói chắc là sẽ thay đổi. Chỉ vì con người ta không chịu thay đổi theo những tiêu chuẩn đã được quy định hoặc theo mức tăng trưởng thu nhập tính theo đầu người. Sự phát triển của con người theo chiều hướng tích cực phụ thuộc rất nhiều vào môi trường sống tự do và dân chủ để tự nó khẳng định chính nó, tự nó đánh thức mọi tiềm năng sáng tạo đang nhen nhóm ở trong nó. Về cái thế giới tinh thần của mỗi cá nhân hãy để cho mỗi cá nhân tự lo liệu lấy, nó không thích người khác can thiệp bằng bất cứ cách nào. Nó sẽ biết cách tự điều chỉnh để thích ứng dần với mối quan hệ mới một cách có lợi nhất.


-11-


Trong nửa thế kỷ sống dưới sự lãnh đạo của một Đảng theo học thuyết Mác Lê, tôi luôn luôn được nhắc nhở phải tôn trọng quần chúng, sức mạnh của quần chúng có thể thay đổi dòng chảy của lịch sử và số phận của nhiều cá nhân. Nhưng cũng thật trớ trêu, không có một chế độ cộng hoà nào ở thế kỷ 20 lại dám coi thường quần chúng như tại các nước xã hội chủ nghĩa. Sống trong thể chế này suốt mấy mươi năm không có một cuộc biểu tình nào được tổ chức để phản đối một chính sách nào đó của nhà nước. Như thời làm cải cách ruộng đất hay thời huy động nông dân vào các hợp tác xã nông nghiệp. Giám đốc xí nghiệp nhà nước tham ô, mức sống của công nhân giảm sút cũng không có đình công. Nông dân bị kẻ cường quyền đàn áp, làm nhiều việc trái pháp luật, vừa mới nhen nhóm bày tỏ sự bất bình liền bị giập tắt ngay. Vì người lãnh đạo đã nhận định rất đúng rằng, nhân dân ta rất tốt, rất rễ bảo, bỗng dưng họ dám nói xược, dám đòi hỏi này nọ là do có mấy thằng cán bộ về hưu bất mãn cầm đầu. Cứ nhắm mấy thằng đó mà đe, nếu cần thì bắt là đâu vào đấy ngay. Quả nhiên thế thật. Tức là người cầm quyền chả coi dân chúng vào đâu. Họ chỉ sợ các cá nhân hiểu nhiều biết rộng, rất khó bắt nạt, là hay bày trò xúi giục thôi. Giống hệt cái thời còn vua còn Tây, kẻ cai trị rất sợ người cộng sản vì họ là kẻ hay gây rối. Đã là người cầm quyền với nước ta thì xưa là thế nay vẫn là thế, người dân vẫn sống dưới chế độ chuyên chế chứ chưa bao giờ được biết chế độ dân chủ là gì, đâu là dân chủ tư sản. Đã chuyên chế là chuyên chế làm gì có sự phân biệt chuyên chế tư bản với chuyên chế vô sản.

Người cộng sản rất kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân, nhưng lại chính từ các nước xã hội chủ nghĩa mà cái tệ sùng bái cá nhân đã nảy sinh. Vì lãnh tụ của học thuyết cũng là lãnh tụ của quốc gia. Họ lên cầm quyền không do phiếu bầu mà do tín nhiệm sẵn có của các tín đồ với giáo chủ. Giáo chủ là nhân vật tối linh, thuộc về thiêng liêng nên những gì của thế gian không thể ràng buộc ông ta được. Ông ta cầm quyền không có niên hạn vì ông phải phục vụ nhân dân cho tới lúc chết. Ông không phải tự phê bình và cũng không ai dám phê bình ông vì ông là biểu tượng của quốc gia, của Đảng cầm quyền, đứng trên hiến pháp và mọi luật pháp. Ông là người tự do hoàn toàn so với nguyên thủ các quốc gia dân chủ khác. Các cấp dưới từ trung ương tới địa phương cũng là những người có nhiều tự do nhất ở các ngành, các bộ và các địa phương họ cầm quyền. Là các lãnh chúa trong các lãnh địa của họ. Chả ai dám xâm phạm nếu còn muốn giữ cho mình một chút tự do cỏn con. Một xã hội có hàng triệu cá nhân không được đếm xỉa, không được tôn trọng nhưng một nhúm cá nhân lại được tôn vinh hết mức và được được hoàn toàn thoả mãn trong mọi nhu cầu là cái xã hội gì đây, là xã hội kiểu mẫu cho nhân loài tương lai ư?! Nói miệng mấy chuyện kỳ cục này đã khó nghe, lại còn viết thành văn mà các nhà văn không thấy ngượng sao? Ngượng thì vẫn ngượng nhưng chả lẻ lại gác bút, gác bút thì nuôi vợ con bằng gì? Nghĩ tới miếng ăn lại phải quên hết để sự bán mình cho quyền lực được hoàn toàn. Năm đất nước mới thống nhất vào Sài Gòn được gặp gỡ các nhà văn nhà báo, các nghệ sỹ của chế độ cũ mà thèm. Họ sống thoải mái quá, nói năng hoạt bát, cử chỉ khoáng đạt, như chưa từng biết sợ ai. Còn mình thì đủ thứ sợ, sợ gặp người thân vì chưa rõ họ có liên quan gì với Mỹ nguỵ? Nói cũng sợ vì nói thế là đúng hay sai? Đến vẻ mặt của mình cũng phải canh chừng, vui quá sợ mất cảnh giác, khen quá có thể đã ăn phải bả của nền kinh tế tư bản. Người lúc nào cũng căng cứng, nói năng gióng một nên bị bà con trong này chê là quê, nhà văn nhà báo gì mà “quê một cục”. Giải thích chuyện này cũng chả khó, họ là sản phẩm của nền kinh tế công nghiệp tư bản, dẫuu là thuộc địa cũng vẫn thuộc hệ thống tư bản, vẫn là những người đã được giải phóng khỏi nhiều ràng buộc từ quá khứ trong cách nghĩ, trong cách làm. Còn mình là sản phẩm của nền kinh tế nông nghiệp phong kiến, đâu đã được làm chủ nhân ông nhưng cũng chưa từng được hưởng cái mùi vị tự do và dân chủ là thế nào! Cái khoảng cách ấy có tính thời đại không thể bỏ qua mà cũng không thể rẽ tắt. Mình cũng đã đi tắt suốt mấy chục năm, rất tiếc là lịch sử không công nhận cái lối đi ấy. Tôi còn sợ rồi sẽ có ngày lịch sử sẽ trừng phạt mình vì cái tội muốn khôn hơn lịch sử, muốn đánh lừa lịch sử!


-12-


Các đảng cộng sản đều coi phê bình và tự phê bình là cách giải quyết mâu thuẫn nội bộ hữu hiệu nhất. Sự vật vận động sẽ sinh mâu thuẫn, giải quyết được mâu thuẫn sự vật mới có cơ hội phát triển, tiến lên. Phủ định và phủ định của phủ định, nghe vừa khoa học vừa huyền bí, như câu thần chú: “Vừng ơi, mở cửa ra!”, cứ đọc to lên là cánh cửa vào tương lai sẽ mở toang. Các nước xã hội chủ nghĩa vẫn đọc to câu thần chú ấy trong nửa thế kỷ mà cánh cửa vào tương lai vẫn đóng chặt. Mất thiêng rồi chăng? Quả là đã mất thiêng vì người hô không hề tin một chút nào vào cái khả năng kỳ diệu của nó. Nếu tin vào phê bình và tự phê bình thì Stalin đã không chế ra các vụ án chính trị man rợ để tiêu diệt các đối thủ vốn là tay trái tay phải của mình trong những năm đó. Nếu tin vào câu thần chú ấy thì Mao Trạch Đông đã không bày ra tấn tuồng “cách mạng văn hoá” để tiêu diệt mọi kẻ dám can ngăn những chủ trương đầy tính phiêu lưu của ông. Ấy là nói về những người nắm quyền lực cao nhất, còn những người nắm những cơ quan quyền lực thấp hơn cũng chả bao giờ họ tin vào cái phương pháp lãng mạn đó cả. Trong các cấp uỷ họ vẫn tự phê bình và phê bình nhau một cách sốt sắng giả dối. Và ai nấy đều tự bằng lòng hơn sau những lễ xưng tội giải tội hết sức vui vẻ này. Và mọi thói xấu, kể cả tội ác nữa, vẫn nghiễm nhiên tồn tại như trước đây, vẫn là những vùng cấm chỉ những kẻ quá chán đời mới dám đơn độc xông vào. Bởi vậy khi ông tổng bí thư của Đảng mới được bầu, trong cơn phấn khích đổi mới sinh hoạt đảng, đã phát động một phong trào tự phê bình và phê bình rộng khắp toàn đảng, các đảng bộ trong cả nước đều nhiệt liệt hưởng ứng, đều nhắc lại với lòng nhiệt thành hiếm có trong các bài diễn văn có đảng tính cao của họ. Đó là một màn diễn khổng lồ, rất tốn kém, chả đem lại bất cứ kết quả nào. Vì chỉ là diễn thôi, người cũ kẻ mới đều vào vai rất thành thạo. Rút cuộc kẻ có tội vẫn ngày càng hung hãn, càng tự tin, còn người tố tội càng lúc càng dè dặt, hãi sợ. Kỳ quái nhỉ?

Các tín đồ của học thuyết Mác đều rất tin môi trường xã hội và hoàn cảnh cá nhân có ý nghĩa quyết định tới sự hình thành tính cách con người. Một địa phương có nhiều phong trào cách mạng tích cực ắt phải sản sinh ra nhiều tập thể tốt, một tập thể tốt sẽ sinh ra nhiều cá nhân tốt. Con người là một thực thể vật chất nên không thể thoát ly những điều kiện vật chất đã cho phép nó tồn tại. Nhưng nó còn là một thực thể sinh học, một thực thể tinh thần, tâm linh, văn hoá bao gồm lịch sử cá nhân và dòng họ ở trong nó. Nó cũng không thể biết hết nó, không thể biết hết những phản ứng bất thần trong chính nó khi vấp phải những đối nghịch trong cuộc sống. Nên cái thế giới tinh thần, tâm lý của con người là rất đa dạng, phức tạp, có muôn vàn lối đi ngoắt ngoéo. Từ thời con người có ngôn ngữ để giao tiếp, có chữ viết để lưu lại, có văn chương để bày tỏ những bí mật của riêng rình, nó vẫn không ngớt than thở là chả biết được bao nhiêu về mình và đồng loại. Con người vẫn nguyên vẹn là một bí mật mênh mông, sâu thẳm như từ thủa nguyên sơ vậy. Người cộng sản phải kiêu ngạo lắm mới dám bày cái trò chỉnh huấn phê bình để lãnh đạo một cách chuẩn xác cái phần khó nắm bắt nhất trong con người. Vì nó biến hoá, nó phù du như mây như gió vậy.


-13-


Con người có 2 mắt đều hướng ra cái thế giới vật chất bên ngoài, không có con mắt nào hướng vào trong để ngắm nghía, kiểm soát cái thế giới tinh thần của nó nên nó bị mù một nửa, cũng như nó không có cái tai bên trong nên không thể nghe được những tiếng thì thầm rất nhỏ mỗi đêm trong chính mình. Hai cái khuyết tật bẩm sinh ấy đã làm con người thiếu hoàn chỉnh, là nguyên do mọi đổ vỡ của nhiều danh nhân dũng tướng vào những năm cuối đời. Nhưng cũng có một số ít người có khả năng nhìn được sự vận động cả trong lẫn ngoài, nghe được những tiếng động rất nhỏ cả ngoài lẫn trong. Họ không có cấu tạo vật chất đặc biệt nào mà chỉ bằng cái năng lực tinh thần rất mạnh đã bù đắp được những khiếm khuyết bẩm sinh. Nhiều tập hồi ký của các danh nhân cả chính trị lẫn văn hoá đều thiếu cái phần còn nhày nhụa của họ, cái phần thú vật của con người nơi sản sinh ra những tội ác chưa hình thành, cái què quặt, cái buồn cười đã được kiềm chế đúng lúc, đã được giấu nhẹm, cái phần họ muốn quên đi và rất dễ trở thành lang sói với đồng loại nếu trong đồng chí, đồng nghiệp còn có người biết đến và nhớ tới. Cuộc chiến đấu lớn, có tính bi kịch giữa mình với mình bao giờ cũng hoành tráng, cũng đẹp, rực rỡ những màu sắc đối nghịch vì nó đã bộc lộ đầy đủ nhất cái phẩm chất LÀM NGƯỜI trong mỗi CON NGƯỜI. Không phải bất cứ ai cũng tạo ra được trận chiến thần thánh ấy, vì chiến trường ở ngay trong lòng mình, mình vừa là kẻ thách đấu vừa là kẻ dám nhận đấu, dẫu thua cũng là cái thua của thần thánh. Một công việc trang trọng đến thế, hùng tráng đến thế mà lại dám nghĩ là công việc của số đông, của những người chưa hề chuẩn bị một cái nhìn bên trong, một cái nghe bên trong cho riêng mình, cả đời họ sống trong tự mãn, trong u mê, bất thần mời gọi hãy nhìn lại mình, hãy nhìn lại người để có được những phán xét và điều chỉnh chuẩn xác! Ông tổng bí thư đã mở một cuộc chiến ảo nên ông cũng chỉ nhận được những kết quả ảo.

Một Đảng, một thể chế chính trị lấy phê bình và tự phê bình làm vũ khí sắc bén để giải quyết mọi mâu thuẫn nội bộ, giả thử nó lại không còn dùng được nữa thì các mâu thuẫn sẽ được hoá giải bằng cách nào? Đảng đối lập không có, dư luận đối lập qua báo chí và các cuộc biểu tình quần chúng cũng không có, vậy làm cách nào để biết và điều chỉnh mọi sự rắc rối, thậm chí cả bạo loạn nữa nếu nó xảy ra? Vẫn có cách, là phải tạo ra một tình hình chính trị luôn căng thẳng (một cuộc chiến tranh có thể xảy ra, một cuộc bạo loạn có thể sảy ra) để buộc các công dân phải sống trong những quy chế nghiêm ngặt của thời chiến, ở các chế độ toàn trị chỉ có hai cơ quan mà quyền uy bao trùm cả xã hội. Đó là cơ quan tư tưởng, tuyên truyền và cơ quan công an. Một để chặn, một để chống. Còn khi đã có chuyện bất thường xảy ra thì chỉ có một biện pháp: đàn áp, bắt giữ, lập toà án xét xử những kẻ cầm đầu. Cách giải quyết vừa nhanh gọn lại mau ổn định, không dây dưa, phiền toái vì có quá nhiều luật lệ, qua nhiều lý lẽ như ở các nước tư bản. Những rối loạn vặt vãnh thật ra là nước là không khí của các nhà cầm quyền độc tài. Họ đâu có sợ loạn. Họ còn bày ra những cuộc chiến cung đình như ở Liên Xô và các nước Đông Âu, hay một cuộc chiến giữa nhân dân với nhau như đã làm ở Trung Quốc. Không có mùi vị của thuốc súng, của máu người và những tiếng la hét cuồng nộ của đám đông thì người cầm quyền biết thở bằng gì!


-14-


Tập thể không làm ra văn chương vì nó không có cảm nghĩ riêng, tâm sự riêng, tính cách riêng. Nó là vô danh. Một tâm sự mãn nguyện, những tiếng cười hoan lạc, một kiếp người quá đầy đủ cũng không thể có chỗ đứng trong văn chương. Vì văn chương bao giờ cũng thuộc về những tiêng kêu của con người để đòi lại những gì còn thiếu: thiếu tự do, thiếu công bằng, thiếu hạnh phúc…Đời người là bể khổ, những khao khát về tinh thần của con người là vô cùng nên mới cần có văn chương và nghệ thuật để bù lại. Còn mọi thứ đều được biết, đều đầy đủ, đều mãn nguyện thì tôn giáo không còn, triết học không còn, và tất nhiên văn chương cũng không thể còn. Nó sẽ chết vì bị ngạt, vì không còn những khoảng trống huyền bí để suy nghĩ, để mơ mộng và để thở. Những gì mà chủ nghĩa cộng sản hứa sẽ thành hiện thực trong tương lai thì cái hiện thực ấy sẽ giết chết cả loài người. Vì thượng đế đâu cần những con dòi béo quay lúc nhúc dưới chân Ngài. Cũng may đó chỉ là những lời nói dối, tự dối mình và dối người của những con người đã phải sống nhiều trăm năm trong cùng khổ, trong tuyệt vọng. Còn hướng tới thiên đàng ư ? Là thiên đàng trần gian hay thiên đàng thượng giới cũng không một ai có thể sống nổi. Sống không lo nghĩ, không mong muốn, không đấu tranh là kiếp sống con dòi rồi. Chả lẽ những con dòi cũng có thể cất cao những cái đầu múp míp của chúng để làm ra triết học và thơ ca!

Những điều viết trên đây không do tôi tưởng tượng ra mà do những trải nghiệm bản thân mà có. Những năm còn trẻ cả vợ lẫn chồng đều ăn lương quân đội, lại phải nuôi dưỡng những bốn đứa con, nhà ở ven bãi sông năm nào cũng phải chạy lụt, lại quá chật có 15 mét vuông. Ăn thì mì hai phần gạo một phần, gạo phải nhặt sạn cả buổi mới dám nấu thành cơm. Còn thức ăn ư? Chả nói nữa ai cũng ăn như thế, ăn dưa ăn mắm suốt mấy chục năm đã hoá quen. Cả nhà chỉ có hai cái giường, một cái bàn, hai cái ghế, tiếp khách ở đấy, mời cơm khách ở đấy, con học bài cũng ở đấy, và ông bố viết văn cũng chỉ có cái bàn ấy. Đêm đêm nằm cạnh hai thằng con trai lớn đạp ngang, quẫy dọc, rắm đánh thối um, vừa quạt cho hai thằng con ngủ tôi vừa mơ mộng đến một ngày nào đó, các con đã trưởng thành, tôi có được một phòng riêng để viết và tiếp bạn, mỗi bữa cơm đều có cá hoặc thịt, có cả chút rượu nữa càng hay. Tôi không phải lo nuôi con, không phải lo cả trăm thứ vặt vãnh để tồn tại, chỉ có đọc sách, ngẫm nghĩ, đi chơi đây đó với bạn bè và viết, ắt hẳn tôi sẽ viết được một hai cuốn sách để đời. Bây giờ tôi đã ngoài bảy chục tuổi, đã có đầy đủ những gì tôi khao khát, có thể nói còn hơn cả khao khát. Tôi đã sống đầy đủ, sang trọng nữa, hơn nhiều nhà văn tôi được biết ở các nước Đông Âu. Và tôi đã nghĩ nếu chủ nghĩa cộng sản thành công ở Việt Nam thì cũng chỉ cho được tôi đến thế. Khốn nỗi, lúc này tôi đâu còn năng lực làm việc bằng trí tuệ nữa mà cũng chả có nhu cầu nào phải đòi hỏi. Cuộc sống được vỗ béo của một kẻ ăn không ngồi rồi đã giết chết mọi tư tưởng ở trong tôi, rồi giết luôn đến đội quân chữ nghĩa, chúng đã hoá ra rỗng tuếch, vô hồn. Nhà văn mà hết chữ thì chỉ là cái xác chết. Xác chết con người với xác chết con dòi có gì là khác mà phải phân biệt !


-15-


Tôi có một tuổi thơ rất buồn, lại sống với những người có số phận buồn nên mới 14,15 tuổi đã nhìn đời như một ông già. Tức là một cái nhìn không mấy lạc quan. Cái xã hội tôi đang sống không mấy hoàn hảo, những người tôi gặp cũng không được hoàn hảo. Tôi quen thuộc với những gì không hoàn hảo tới mức gặp những gì quá đẹp, quá chu toàn tôi đều ngờ, đều sợ. Người truyền cho tôi cái nỗi sợ bẩm sinh ấy là mẹ tôi. Bà đã qua một đời chồng rồi mới gặp được bố tôi. Đời chồng trước mọi sự đều tốt đẹp, ông ấy còn trẻ, có địa vị trong xã hội, nhà giầu, lấy nhau được một năm lại sinh con trai. Mà rồi chỉ ở với nhau được ba năm phải bỏ. Đời chồng sau thì dở, dở cả mọi đằng. Bố tôi cũng còn trẻ, làm tham biện ở phủ thống sứ, nhưng ông đã có vợ và hai con nên phải làm lẽ và lấy giấu. Mẹ tôi bảo thế là đúng số, là đã an phận, nhưng lại lo bố tôi sẽ bỏ khi cuộc ăn chơi này gây thêm phiền phức cho cái gia đình chính thức của ông. Hai anh em tôi là bản sao nguyên mẫu của bà. Những gì nhận được từ tuổi thơ mãi mãi hằn dấu lên cho đến hết cuộc đời chúng tôi. Nhìn bên ngoài tôi có tướng con nhà phong lưu nhưng cái ruột của tôi lại thuộc về con cái của những gia đình nghèo, lại chả có thế thân gì nên rất biết phận, cho thì nhận, không cho cũng không đòi, chỉ cầu không có ai quấy nhiễu là mừng. Em trai kém tôi năm tuổi, lấy vợ muộn, về hưu sớm, lúc trẻ thì thay anh hầu hạ mẹ, về già thì đi chợ nấu cơm, giặt quần áo thay vợ chăm sóc các con. Cả đời chỉ biết cười, cái cười nhẫn nhục, bằng lòng với những gì mình có. Tôi thì khác, một cuộc sống bên ngoài ai cũng biết là khiêm tốn, nhẫn nại, ít làm phiền người khác và chả dám gây sự với một ai. Nhưng cuộc sống bên trong cũng có nhiều tham vọng, làm quan hay làm anh nhà giầu thì không dám vì tôi không có bản lĩnh tiến thân bằng hoạn lộ hay kinh doanh. Tôi chí có một ao ước duy nhất là được viết văn cho đến già. Với cái tài tôi tự biết, tôi phải sống rất lâu và viết rất nhiều may ra mới được một hai cuốn sách hay, mà cũng chỉ hay trong cái thời của nó chứ không thể hay ở mọi thời. Tôi tự nhận tôi là người có một con mắt bên trong và một cái tai bên trong từ nhỏ. Để quan sát, nghe ngóng những người khác họ yêu mình hay ghét mình. Càng lớn tuổi cái khả năng tự xét mình của tôi càng sắc nhọn. Và tôi đã nhận ra cái lợi của phép giấu mình. Trang Tử đã nói: Con chim bay cao thì tránh được tên, được bẫy, con chuột đào hang sâu thì tránh được cái hoạ bị khói hun.


-16-


Khi tôi nói, tôi sống và viết cũng thoái mải, vui vẻ trong một chế độ chuyên chế về tư tưởng cứ như là người nói dối, lại nói dối một cách trơ tráo, sống sượng. Nhưng đó là lời nói thật, không thật với nhiều người nhưng với tôi là thật. Tôi được thay đổi số phận từ cuộc cách mạng Tháng Tám năm 1945. Chín năm đánh pháp với nhiều người là rất dài, với tôi lại rất ngắn vì tôi được sống trong niềm vui, trong những cái khác thường và cả trong nhiều hi vọng. Nhiều anh trong cơ quan tuyên huấn của quân khu đều xuất thân từ các gia đình viên chức nhỏ, địa chủ nhỏ, được ăn học đàng hoàng đến hết bậc cao đẳng tiểu học đã có những thói quen, những nền nếp của cuộc sống thị dân từ nhỏ. Họ rất thích quan sát những phản ứng của tôi khi phải đối mặt với mọi thiếu thốn của cuộc sống kháng chiến. Vì nhìn ngoài tôi như một thư sinh con nhà quý tộc chưa từng biết cái thiếu cái khổ là gì. Những việc làm rất tự nhiên của tôi đều được đánh giá phải có nhiều nghị lực, nhiều quyết tâm mới làm được thế. Tôi vẫn sống như xưa kia, ngày xưa thì bị chê bị chửi, bây giờ lại được khen, được tuyên dương, người cứ lâng lâng như nhập đồng, còn biết cái thiếu là gì cái khổ là gì. Nếu so sánh thì trước kia tôi chỉ là con số không, còn bây giờ tôi đã có một cái tên ký dưới các bài báo, đã được nhiều ông anh trong cơ quan nhờ vả, đòi hỏi, bực tức hoặc khen ngợi. Tôi đã được tách ra khỏi đám đông để tự bằng lòng mình và có cả chút ít “kế hoạch riêng” cho mình nữa. Còn các anh hơn tôi dăm bảy tuổi thì đã có nhiều thứ để so sánh những cái “đã có” trước kia và cái “đang có” bây giờ. Cái “đang có” của dân tộc thì nhiều, còn cái “đang có” của cá nhân như chả còn được bao nhiêu. Những kiến thức lịch sử và xã hội, triết học và văn chương xem ra phải bỏ đi quá nửa. Các quan hệ giao tiếp xã hội được dạy bảo từ thuở còn thơ nếu dùng lại cứ vênh váo, buồn cười thế nào trong hoàn cảnh kháng chiến. Sống tinh tế, tôn trọng người khác là cách sống của anh tiểu tư sản. Lòng thương người không đúng chỗ cũng được xem như biểu hiện của một tính cách nhu nhược, không đáng tin cạy. Còn nhưng câu đùa thông minh, kín đáo ánh lên như một vệt sáng vui trong cuộc sống đơn điệu, tẻ nhạt của mỗi ngày lại dễ bị đồng đội hiểu lầm là một cách chế diễu của người có học với những anh em ít học. Qua mỗi cuộc chỉnh huấn tầm vóc của mấy anh càng như nhỏ lại, mờ nhạt hơn, mất dần những vẻ riêng, cái phần độc đáo riêng để nhập vào cái dòng chảy chung, vào cách nghĩ cách sống của một tập thể bao bọc quanh mình. Đại để cái riêng của mỗi chúng tôi đã bị cái chung nuốt dần như thế. Tôi thì sao? Tôi đã có một may mắn lớn vì tôi thuộc về số đông, một quần thể vô danh tồn tại âm thầm trong nhiều thế kỷ dưới chế độ phong kiến. Cách mạng Tháng Tám đã nhất loạt giải phóng họ ra khỏi thân phận nô lệ, tạo cơ hội cho họ phát triển những tài năng riêng của mình, chủ yếu trong lĩnh vực quân sự để kịp thời phục vụ những nhu cầu của kháng chiến. Số đông trong họ chỉ mới biết đọc biết viết từ ngày vào quân đội nhưng học rất nhanh cách xây dựng một quân đội hiện đại với những cơ quan phục vụ cho công việc tham mưu, tác chiến, hậu cần vì họ đã có được một ông thầy lý tưởng là quân đội hiện đại của đối phương với ông tướng lừng danh trong thế chiến 2 của nó. Trong chín năm đánh Pháp quân đội đã trở thành cái nôi đào tạo, nuôi dưỡng nhiều nhân tài quân sự của thời hiện đại, cả những tài năng văn nghệ phục vụ trong quân đội, nó là tổ chức tiên tiến nhất của xã hội Việt Nam trong nửa đầu thế kỷ 20. Trong chiến tranh người chỉ huy quân sự là hình tượng đẹp nhất, lãng mạn nhất vì họ là con người của hành động, của đảm bảo chiến thắng, luôn ở vị trí thứ nhất, còn con người của học thuyết chỉ ở vị trí đứng sau, trong nhiều trường hợp chỉ là cái anh bàn thêm, nói góp. Còn những năm xây dựng chủ nghĩa xã hội thì con người lý luận có nhiệm vụ bảo vệ sự trong sáng của học thuyết chính thống ở hàng đầu được tôn trọng và có quyền quyết định sự sống chết của nhiều người. Chính là trong những năm này mới sinh ra nhiều vụ án chính trị và văn chương, nay nghĩ lại vừa vô nghĩa vừa buồn cười nhưng thời ấy nó đã chôn sống nhiều tài năng thực sự ở mọi lĩnh vực vì họ đã tỏ ra ngờ vực sự đúng đắn của tư tưởng chính thống.

Một nửa nước đã được độc lập nhưng lòng người tan nát vì tài sản một đời chắt chiu của họ đã bị nhà nước tịch thu hoặc trưng thu khiến họ trở thành những người vô sản bất đắc dĩ. Tầng lớp trí thức chả có tài sản gì ngoài cái đầu được tư duy tự do, thì cái đầu cũng bị nhà nước trưng thu luôn, vì từ nay họ chỉ được nghĩ được viết theo sự chỉ dẫn của một học thuyết, của một đường lối nếu họ không muốn giẫm vào vết chân của nhóm “Nhân Văn Giai Phẩm”. Một dân tộc đã làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ mà mặt người dân nám đen, mắt nhìn ngơ ngác, đi đứng long rom như một kẻ bại trận. Quả thật dân tộc Việt Nam đã thắng lớn trong phong trào chiến tranh giải nhưng lại thua đậm trong công cuộc xây dựng một xã hội tự do và dân chủ. Thoát ách nô lệ của thực dân lại tự nguyện tròng vào cổ cái ách của một học thuyết đã mất hết sức sống. Dân mình sao lại phải chịu một số phận nghiệt ngã đến vậy!

Một xã hội tan nát, lòng người chĩu nặng những phiền muộn ưu tư, mà là những người đã hết lòng hết sức với kháng chiến bằng cách này hay cách khác. Vậy nhà văn phải viết như thế nào, phải viết cái gì để tạo được một hiện thực tràn đầy hy vọng như các nhà lãnh đạo cách mạng yêu cầu.


-17-


Những năm 50, 60 của thế kỷ 20, với tôi là những năm tràn đầy niềm vui. Nhìn vào đâu tôi cũng thấy tôi được, dân tộc tôi được. Nhưng cũng những năm ấy với hàng triệu người dân thường lại là những năm đầy lo lắng, hãi sợ và tuyệt vọng. Tôi vui là chuyện có thật, những trang viết của tôi vào những năm ấy là rất thành thật. Nhưng nước mắt của người khác cũng là chuyện có thật, tôi có biết, có được chứng kiến. Tôi nên nghiêng ngòi bút của tôi về phía nào. Về già tôi mới nhận ra nhà văn phải nghe theo tiếng gọi của tình cảm, của trái tim, của cái phần thiện lương trong con người mình. Nó đã bảo sai là sai, không có thứ lý luận nào chống đỡ nổi. Vả lại văn chương bao giờ cũng đồng cảm với nỗi đau của con người, những bất hạnh của con người. Chưa bao giờ vì sự mãn nguyện, sự thành công của con người mà cất lên tiếng hát ca ngợi cả. Ở các thể loại nghệ thuật ngôn từ con người phải chống chọi với mọi cảnh ngộ trái ngược chiếm gần hết các trang viết, các màn diễn, còn khi người nghèo đã thành giầu, người hèn được bước vào thế giới phú quý, trai gái phải chịu nhiều năm chia lìa tới lúc tái hợp là cuốn sách, vở diễn phải chấm hết ngay. Nó đã kết thúc cái phần nghệ thuật để bắt đầu sang phần tụng ca là cái thế giới của mãn nguyện của buồn chán, là cái phần phi nghệ thuật. Nhưng người lãnh đạo lại chỉ thích cái phần không phải là nghệ thuật, tặng giải thưởng, trao huân chương cho các tác giả chỉ để tưởng thưởng cái phần nhạt nhẽo vô vị ấy mà thôi. Cái cách cảm nhận hiện thực đầy tính lãng mạn ấy đã làm lệch lạc cách xem xét, cách ứng xử của nhiều thế hệ bạn đọc, nhất là bạn đọc ở tuổi mới trưởng thành, trước những biến hoá muôn mặt của cuộc sống. Họ chỉ có mỗi khả năng làm người phê bình văn học theo đường lối chính trị chính thống, tại sao cuộc sống đẹp như thế mà nhà văn lại miêu tả nó xấu đến thế. Làm sao dám cãi, hãy để cho những trải nghiệm của chính họ qua năm tháng sẽ âm thầm biện hộ giúp mình thôi.


-18-


Một xã hội không tự hiểu mình, mỗi cá nhân cũng không tự hiểu mình, vàng thau, phải trái, cao quí ti tiện lẫn lộn, các giá trị lẫn lộn bắt đầu từ sự không chuẩn xác của ngôn từ. Câu mở đầu kinh thánh Cựu ước “ Thoạt Tiên Là Ngôn Ngữ…” (Au conmmencement était le Verbe). Ngôn ngữ làm nên văn minh này, vì nó có thể lưu giữ và truyền lại toàn bộ kinh nghiệm của nhiều đời trước cho nhiều đời sau, càng ngày cái khả năng nhận thức càng gần đúng như nó có, khiến sự lựa chọn của con người khách quan hơn, có hiệu quả tích cực trong quá trình chủ động thích ứng với mọi đổi thay của môi trường sống và môi trường xã hội. Vậy mà ngôn từ lại là cái mặt yếu nhất trong các lãnh vực thuộc thượng tầng kiến trúc ở các nước xã hội chủ nghĩa. Công dân của các nước ấy dùng ngôn từ để che đậy chứ không nhằm giao tiếp, hoặc giao tiếp bằng cách che đậy, “ nói vậy mà không phải vậy”! Nó là cái vỏ cứng để bảo vệ mọi sự bất trắc, chống lại thói quen hay xét nét lời ăn tiếng nói của công dân của mọi chính quyền chuyên chế. Cái cách tự bảo vệ ấy lại càng rõ rệt ở cấp lãnh đạo và các viên chức nhà nước làm việc ở các cơ quan quyền lực. Họ nói bằng thứ ngôn ngữ khô cứng đã mất hết sinh khí, một thứ ngôn ngữ chết, ngôn ngữ “gỗ”, nói cả buổi mà người nghe vẫn không thể nhặt ra một chút thông tin mới nào. Các buổi trả lời phỏng vấn báo chí, diễn văn tại các buổi lễ kỷ niệm, báo cáo của Đảng, của chính phủ, của quốc hội, tất cả đều dùng các từ rất mơ hồ, ít cá tính và ít trách nhiệm nhất. Người cầm quyền cấp cao nhất và cấp thấp nhất đều biết cách nói mơ hồ, càng nói mơ hồ càng được đánh giá là chín chắn. Và nói dối, nói dối hiển nhiên, không cần che đậy. Vẫn biết rằng nói dối như thế sẽ không thay đổi được gì vì không một ai tin nhưng vẫn cứ nói. Nói đủ thứ chuyện, nói về dân chủ và tự do, về tập trung và dân chủ, về nhân dân là người chủ của đất nước còn người cầm quyền chỉ là nô bộc của nhân dân. Rồi nói về cần, kiện liêm chính, về chí công vô tư, về lý tưởng và cả quyết tâm đưa đất nước tiến lên chủ nghĩa cộng sản. Nói dối lem lém, nói dối lì lợm, nói không biết xấu hổ, không biết run sợ vì người nghe không có thói quen hỏi lại, không có thói quen lưu giữ các lời giải thích và lời hứa để kiểm tra. Hoặc giả hỏi lại và kiểm tra là không được phép, là tối kỵ, dễ gặp tai hoạ nên không hỏi gì cũng là một phép giữ mình. Người nói nói trong cái trống không, người nghe tuy có mặt đấy nhưng cũng chỉ nghe có những tiếng vang của cái trống không. Nói để giao tiếp đã trở thành nói để không giao tiếp gì hết, nói để mà nói, chả lẽ làm người lại không nói. Thật ra nói thế mà vẫn hiểu nhau cả. Người cầm quyền thì biết là nhân dân đang rất bất bình về nhiều chuyện, nhân dân thì biết người cầm quyền đang nói dối, nhìn vào thực tiễn là biết ngay họ đang nói dối. Nhưng hãy mặc họ với những lời lẽ dối trá của họ, còn mình là dân chả nên hỏi lại [rằng] nói thế là thật hay không thật. Mình cứ làm theo ý mình và mình cũng sẽ nói dối, nói che đậy nếu như có dịp được người cầm quyền hỏi.

Trong hàng trăm cuốn hồi ký của các nhà văn hoá, của những người hoạt động chính trị, của nhiều tướng lĩnh, ta chả biết được bao nhiêu cái thế giới riêng của họ, cái thế giới cá nhân của họ. Cái phần đóng góp của họ càng nhỏ thì cái ý nghĩa quyết định của tập thể càng lớn, cái có tên thì bé tí xíu, vô nghĩa, cái không tên thì bao trùm rộng khắp nhưng cũng không có hình thù rõ rệt, cứ mờ mờ mịt mịt, có đấy mà cũng không có đấy, cái chung ấy chả phải chịu trách nhiệm với một ai, có biết nó là ai mà truy cứu.


-19-


Trong cái bối cảnh xã hội, chính trị như thế, mỗi người đều ít nhiều đánh mất cái cá nhân của mình cũng là lẽ đương nhiên. Nhà văn là chuyên viên nghiên cứu mọi chuyện của cá nhân, những sắc thái tâm lý cùng với những biến hoá vô tận của nó trong những hoàn cảnh khác nhau, những thời thế khác nhau. Nhưng đọc hồi ký của các nhà văn cũng nhạt nhẽo lắm, họ chỉ phô diễn cái tôi trong các cuộc gặp những bậc đàn anh và bạn bè trong nghề, nói toàn chuyện tào lao, vụn vặt, chuyện sinh hoạt và chả đả động chút nào tới thời thế, tới những bức xúc về thời thế và cái nghề của mình trong thời thế. Tính hiện thực và tính lịch sử của một thời rất mờ nhạt, đơn giản, thành thử cái ý nghĩa truyền đạt những giá trị đích thực của một thời tới các thế hệ đến sau hầu như không có. Đó là điều rất đáng tiếc, vì nếu các chứng nhân không nói gì cả thì lịch sử cũng không thể cất lên tiếng nói chân thực của nó, thời gian qua đi, bóng tối phủ lên, quên lãng phủ lên, cái thời mở nước, giữ nước chỉ còn lưu lại những cột mốc của các chiến công, còn cuộc chiến thầm lặng đã làm tan nát nhiều con người để con người được là chính mình, được là một thực thể thiêng liêng, đền đài lưu giữ muôn thuở cái tài sản tinh thần của một dân tộc, một dòng họ mãi mãi được vun xới, được phát triển tương ứng với sự phát triển của dân tộc, của thời đại thì chưa được văn thơ nói đến, triết học nói đến, các ngành khoa học nhân văn nói đến.

Dầu không nói đến, không được phép nói đến thì cái dòng chảy vĩnh cửu ấy vẫn được nhiều triệu người âm thầm khai thông, bồi đắp để các nhân tài Việt Nam không ngừng xuất hiện lúc ở lãnh vực này, lúc ở lãnh vực khác. Một đất nước không có những cá nhân kiệt xuất, tài ba làm chân dung đại diện trong cộng đồng nhân loại thì đó là một bất hạnh cho dân tộc, tạo ra một khoảng trống tiếp nối trong lịch sử sinh tồn của mỗi cá nhân. Rồi các thế hệ đến sau phải nối lại bằng cách nào vì vẫn phải bắt đầu từ môi trường chính trị, xã hội, từ một xã hội vừa truyền thống vừa văn minh, những mục tiêu nhắm tới vừa là phát triển cái riêng biệt, vừa là sự hòa nhập vào nền văn minh của khu vực và thế giới. Một nền văn minh riêng lẻ, với những mục tiêu hoang tưởng, một môi trường xã hội ngột ngạt vì cái bóng quyền lực phủ lên tất cả, quyết định tất cả thì số phận những cá nhân sẽ ra sao?

Hãy nhìn vào nước Nga những năm 90 của thế kỷ 20 là sẽ rõ. Họ vừa thoát khỏi cái bóng che của chủ nghĩa chuyên chế để được nhìn cái ánh sáng thật của dân chủ và tự do. Ai chả nghĩ họ đã có cơ hội sải những bước chân dài khi đã bung phá mọi sự trói buộc. Nước Nga mãi mãi là một siêu cường vì những thử thách lớn nhất của một dân tộc là chiến tranh và cách mạng nước Nga đều đã trải qua mà vẫn tồn tại vì đất đai mênh mông của mình và những tiềm lực vô hạn ẩn giấu trong đó cả vật chất lẫn tinh thần. Phải vài chục năm nữa nước Nga sẽ là như thế nhưng trước mắt thì không thể. Lý do rất đơn giản, kinh tế có thể phục hồi nhanh nhưng con người phải có thời gian dài hơn nhiều nó mới có thể lấy lại những gì đã mất. Tầm vóc cá nhân của người Nga trong non một thế kỷ dưới chế độ Xô Viết đã bị co hẹp lại rất nhiều dầu họ vẫn được sống, được học tập và lao động trong những điều kiện của một xã hội văn minh. Chỉ đáng tiếc cái văn minh của họ là một nền văn minh tự tạo tách khỏi nền văn minh nhân loại, dựa trên những tiêu chuẩn mà tâm hồn Nga không thể chấp nhận, không thể tiến hoá. Lại thêm trong non một thế kỷ người Nga đã mất dần thói quen suy nghĩ độc lập, quyết định độc lập, mất dần cả tính cách phản kháng và bảo vệ chân lý, con người quen sống trong đám đông, trong tập thể, trong bày đàn, không có cơ hội và sự khích lệ của xã hội để tạo ra những chân dung riêng với những tư tưởng khác nhau, những triết lý khác nhau những cách sống khác nhau. Mọi cái khác với chính thống đều bị lên án, mọi cái giống nhau đều được tuyên dương. Vì những cái khác nhau rất khó tạo ra sự nhất trí, còn những cái giống nhau sẽ dễ nghe theo, làm theo mọi mệnh lệnh. Người cai trị sẽ rất dễ chịu, rất nhàn nhã nếu quốc gia mình cầm quyền được tổ chức giống như trại lính, ông ta sẽ có dư thời gian để làm thơ hoặc viết tiểu thuyết, vừa có cái bây giờ lại có cả cái sau này. Còn phải lãnh đạo một xã hội dân sự của các công dân tự do thì có hàng trăm công việc đòi hỏi phải được giải quyết mỗi ngày, mà cách thức giải quyết cũng rất phức tạp, nó yêu cầu phải đối thoại, phải được tranh luận bình đẳng, phải thương lượng, phải luôn luôn thay đổi những chủ trương mà dân chúng không bằng lòng. Và mọi việc làm đều phải tuân theo hiến pháp và được xã hội kiểm tra thông qua hệ thống thông tấn báo chí. Chẳng những người lãnh đạo phải bị kiểm tra những công việc thuộc về chức năng của họ mà còn bị theo dõi rất nghiêm ngặt mọi sinh hoạt thuộc về đời tư của họ để ngăn chặn kịp thời những vi phạm thuộc về đạo đức. Ở những xã hội văn minh thì người cầm quyền bị rất nhiều luật lệ câu thúc, trói buộc, là người mất tự do nhiều nhất, còn dân chúng thì được pháp luật bảo vệ đủ mọi đàng, càng ít bị trói buộc càng tốt, càng có nhiều tự do càng tốt. Chỉ một xã hội được tổ chức như thế thì vị trí cá nhân mới được tôn trọng, người có giá trị là người có cái TÔI mạnh mẽ, đầy sức sống, đầy sáng tạo. Nên mỗi người đều có ý thức vun trồng những nét đặc sắc của riêng mình, cái vẻ đẹp của riêng mình và con của cháu thành những gia đình nổi tiếng, những dòng họ nổi tiếng làm cột chống cho một quốc gia. Một chế độ độc tài khi phải đối mặt với những biến động lớn thường rễ bị nứt rạn, từ nứt rạn đến tiêu vong, thời gian diễn ra rất nhanh vì nó chỉ có trụ đỡ là quyền lực của một phe đảng, không có trụ đỡ về tinh thần của cả dân tộc. Một chế độ chính trị tồn tại tới non một thế kỷ hay một nửa thế kỷ cũng là lâu lắm, đã tạo ra mấy thế hệ ăn chung ở chung với nó, sinh con đẻ cái với nó mà khi nó chết không ai nhỏ được một giọt nước mắt, có người còn nhẫn tâm đạp lên cái vừa chết đó rồi mới tiếp tục bước đi, đủ biết người ta đã xem nó như vật bất tường, là quái thai, là tai hoạ, thời thế đã bất thần xoá bỏ nó một cách êm dịu, không phải tốn đến máu cũng là một may mắn phi thường. Có thể kết luận, một chế độ chính trị được xem là văn minh hay lạc hậu, là sẽ tồn tại lâu dài hay chỉ có mặt trong khoảng khắc của lịch sử là tuỳ thuộc vào cương lĩnh chính trị của Đảng cầm quyền có thật sự tôn trọng những quyền của con người hay không, các cá nhân với những khác biệt, những phản ứng, những bất tuân của nó có được đặt ở vị trí trang trọng trong hiến pháp hay không? Vì tiềm lực tinh thần của mọi cá nhân được vun xới, được phát triển trong tự do là nền tảng vững chắc nhất của mọi thiết chế chính trị. Vì còn nó ta có thể vững tin sẽ vượt qua mọi sóng gió bất thần của thời thế để mãi mãi tiến về phía trước.

Viết xong tại quận Bốn Thành phố Hồ Chí Minh ngày 27/5/2006





Ngoài tập “Đi tìm cái tôi đã mất”, nhà văn Nguyễn Khải còn có tập “Nghĩ muộn” gồm 22 tùy bút chính trị. Tuy nhiên, trong đó ông đề “dành riêng cho gia đình Nguyễn Khải“. Đồng thời ông căn dặn các con sau khi ông mất “nếu điều kiện cho phép” thì đưa tập tùy bút này vào phần cuối cuốn tiểu thuyết “Thượng Đế thì cười” của ông, “cho trọn vẹn cái tâm sự u uẩn của một đời văn.”

* Nhà văn Nguyễn Khải (1930-2008)

Duncan Currie : Good Morning, Việt Nam

Good Morning, Việt Nam *
Ba mươi ba năm sau khi Sài Gòn sụp đổ, đã có nhiều thay đổi – song không đủ

Bài của Duncan Currie

Ngày 15-5-2008

Ngày 30 tháng Tư đánh dấu kỷ niệm lần thứ 33 sự sụp đổ của Sài Gòn trước những người Cộng sản Bắc Việt Nam. Thủ đô cũ của Nam Việt Nam giờ được gọi là Thành phố Hồ Chí Minh, một cái tên phản ánh tốt cho cái quá khứ của Việt Nam hơn là hiện tại và tương lai của nó. Giống như John O’Sullivan đã quan sát, “Một Người Sao Hỏa đậu xuống Sài Gòn hay Hà Nội hôm nay chẳng biết gì về lịch sử từ năm 1970 sẽ cho rằng chắc chắn là miền Nam đã thắng trong cuộc chiến. Những thành phố này có tất cả những nhãn hiệu quần áo và nhà thiết kế của London hoặc Venice – và còn nhiều hơn cả hai thứ đó là cái sức sống nhạy bén kiểu cây nhà lá vườn.”


Mặc dù nó nhỏ hơn nhiều so với đất nước Trung Hoa, và theo đó cũng nhận được ít sự chú ý trên toàn cầu hơn, nhưng Việt Nam đã trở thành một trong những câu chuyện thành công lớn về kinh tế trong thế giới đang phát triển. Qua hai thập kỷ, nó đã tự chuyển đổi từ một con bệnh què cụt cùng kiệt thành một con hổ Á châu tráng kiện.


Chỉ quan sát những con số. Nền kinh tế của Việt Nam đã tăng trưởng với hơn 8% trong suốt ba năm. Kể từ khi chính phủ phát động cuộc cải cách kinh tế có tên là đổi mới vào năm 1986, hàng chục triệu người Việt Nam đã thoát khỏi nghèo nàn khốn khổ. Vào cuối năm 2007, trong những báo cáo của World Bank, tổng giá trị cổ phần hóa của Việt Nam đã “đạt 43% GDO”,” so với chỉ “1,5% hai năm trước.” Trong khi đó, “những cam kết đầu tư trực tiếp nước ngoài gần như tăng gấp đôi” trong năm 2007, “mức xuất khẩu chưa kể dầu lửa đã tăng 27%,” và “dự trữ ngoại tệ tăng lên 10 tỉ đô la đạt 21,6 tỉ đô la, tương đương 30,2% GDP hay trị giá 3,3 tháng nhập khẩu.”


Các nhà lãnh đạo của đất nước tỏ ra háo hức muốn mở rộng giao thương với nước ngoài (Việt Nam đã chính thức gia nhập Tổ chức Thương Mại Thế giới vào năm ngoái), tăng các cơ hội đầu tư, và khuyến khích doanh nghiệp tư nhân.


“Việt Nam đang chạy đua cho một tương lai gần hơn với Hoa Kỳ ngày nay,” đó là nhận xét của Daniel Griswold, một nhà phân tích chính sách thương mại của Cato Institute. Trong những năm gần đây, khu vực công nghệ thông tin đang tăng trưởng nhanh của nó đã đóng một vai trò quan trọng trong thu hút vốn tư bản nước ngoài và thúc đẩy thêm cho mở rộng tự do. Trương Gia Bình, CEO của tập đoàn phần mềm Việt Nam FPT, có thể đúng là người giàu nhất nước này. “Sự mở cửa ra với bên ngoài của Việt Nam do công nghệ là đáng chú ý,” theo như nhận xét của Carl Thayer, một chuyên gia về Việt Nam thuộc trường Đại học New South Wales và Viện hàn lâm Quốc phòng Úc (Australian Defense Force Academy). Phân tích thêm điều này, Thayer đã phán đoán rằng “Việt Nam sẽ tiếp tục mở cửa và mở cửa và mở cửa.”


Đúng vậy, nó còn là một nước đang phát triển với những vùng quê nghèo khổ. Tuy nhiên, sự phát triển dài lâu của Việt Nam thì thật đặc biệt. “Mới cách đây không lâu vào năm 1993, 58% dân số sống ở mức nghèo khổ, so với 37% năm 1998 và 29% năm 2002,” World Bank đã ghi nhận. “Những số liệu này giảm một nửa lượng dân chúng sống ở mức nghèo trong chưa đầy một thập kỷ. Hoặc, nói cách khác, là gần một phần ba dân số đã được đưa ra khỏi diện nghèo đói trong chưa đầy mười năm.” Quả thực, vào năm 2002, tỉ lệ nghèo đói của nó về căn bản thấp hơn những nước khác trong cùng mức độ phát triển. Vì vậy, ‘tốc độ’ mà tình trạng nghèo đói được thuyên giảm tại Việt Nam là nhanh hơn nhiều so với tốc độ trung bình ở khắp các nước đang phát triển.”


Điều thần kỳ Việt Nam phác họa căn nguyên của nó bằng ngược thời gian về những năm giữa thập kỷ 1980, khi mà đất nước bị tê liệt bởi những cơn khủng hoảng kinh tế. “Về căn bản nó là một tình huống khẩn cấp,” theo như đánh giá của Edmund Malesky, một chuyên gia về Việt Nam của trường California University, San Diago. Năm 1986, đảng Cộng sản quyết định dấn mình vào con đường táo bạo bằng cải cách theo định hướng thị trường. Hà Nội chuyển dịch dần việc xoá bỏ tập thể hóa nông nghiệp, nới lỏng những hạn chế đối với tự do kinh doanh, khuyếch trương khu vực tư nhân, mở rộng tự do hóa giá cả, và đẩy mạnh thương mại và đầu tư nước ngoài.


“Nó thực sự có tác dụng trợ giúp bởi vì bạn có thể thấy được hệ thống khác đã bị thất bại một cách khốn khổ,” đó là nhận xét của Malcolm Gillis, chủ tịch hội đồng quản trị Quỹ Giáo dục Việt Nam. Những cải cách ở Việt Nam hậu 1986 là tương tự với những gì mà Trung Quốc đã đi theo sau năm 1978. Như Malesky chỉ rõ, Việt Nam đã có một khu vực ngoài quốc doanh đáng kể từ trước 1986. Qua nhiều năm, những doanh nghiệp tư nhân đã bị kẹp chặt trong khe hẹp của một thể chế kế hoạch hóa tập trung. Nước này cũng đã cho phép thử nghiệm trên thị trường nội địa được trao đổi mua bán nông sản.


Ngày nay, Việt Nam lấy làm kiêu hãnh có một nền kinh tế ở thị thành gây ấn tượng mạnh. “Những tầng lớp trung lưu của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam đã phản ứng khá tốt với chủ nghĩa tư bản,” theo báo cáo của REUTERS tháng 11-2006. “Hoặc những gia đình có những bữa ăn nhà hàng quá hoang toàng, những thương nhân tậu những chiếc xe hơi sa xỉ, hoặc những người dân mua sắm những món hàng vô nghĩa, phong cách tiêu dùng phô trương đã trở nên phổ biến, đặc biệt ở Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội.”


Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tại Việt Nam tăng mạnh vào đầu những năm 1990, rồi suy sụp trong và sau cuộc khủng hoảng tài chính Á châu 1997-1998, và bùng nổ một cách dễ dàng trong mấy năm qua. Nó đã đạt một mức kỷ lục năm 2007. Trong Chỉ số Tin cậy FDI mới nhất của nó, hãng tư vấn A.T. Kearney đã xếp Việt Nam đứng thứ 12 trong đích đến hấp dẫn nhất của thế giới, là “mức xếp hạng cao nhất chưa từng thấy” của Việt Nam trong bảng chỉ số.


“Tôi thật sự nhận ra cái xứ sở sinh động,” Gillis nói. “Sinh động với sự đổi mới.” Tầm quan trọng của nhân khẩu học là không thể bỏ qua. Ước đoán có hơn 2 phần 3 trong số 85 triệu người Việt Nam hiện dưới 35 tuổi. Chất trẻ trung đó “làm nên một đất nước rất năng động,” theo Raymond Burghardt, từng làm việc tại Tòa đại sứ Hoa Kỳ ở Việt Nam từ 2001 đến 2004.


Nhân tố trẻ trung cũng giúp giải thích vì sao Việt Nam trở nên hâm mộ người Mỹ đến thế. Hầu hết người Việt không có ý niệm thực sự về chiến tranh. Song họ nhận biết được đầu tư của Hoa Kỳ giúp cho đất nước họ ra sao, và, như Malesky nêu ra, “bản chất luôn khát vọng” của họ khuyến khích một cái nhìn tích cực đối với ảnh hưởng của Hoa Kỳ. Giới trẻ Việt Nam cũng tỏ ta mê văn hóa đại chúng của Mỹ.


“Sự khâm phục đối với Hoa Kỳ thuộc về khía cạnh của thứ quyền lực mềm,” Thayer nhận xét. “Mỹ có một sức hấp dẫn to lớn.” Khi nhà sáng lập Microsoft Bill Gates viếng thăm đất nước này vào tháng Tư năm 2006, ông đã nhận được một sự nghênh đón như một người anh hùng. Trong một hiệu sách nào đó của Hà Nội, Burghardt nói, “đều có cả một chuyên mục nhiệt thành với Bill Gates.” Burghardt phán đoán rằng Việt Nam giờ đây nằm trong số những quốc gia hâm mộ người Mỹ nhất ở Đông Nam Á. “Có nhiều người dân cay nghiệt với chúng tôi,” ông thú nhận, “song đó là một ngoại lệ chiếm tỉ lệ nho nhỏ.”


Sau khi Liên Xô sụp đổ, Hà Nội đã đưa ra quyết định thực dụng tăng cường các liên hệ ngoại giao của mình ở Đông Nam Á và bình thường hóa quan hệ với Hoa Kỳ. Hoa Kỳ và Việt Nam đã ký kết một thỏa thuận thương mại song phương vào năm 2000, và thương mại hai chiều kể từ đó đã tăng lên. Ở đó cũng có sự tiến bộ quan trọng trong hợp tác an ninh đôi bên. Người Việt Nam lo ngại về ảnh hưởng khu vực đang gia tăng của Trung Quốc, theo nhận xét của Burghardt. Cùng lúc, họ lại không muốn bị nhìn nhận như là đang tham gia vào một liên minh “chống Trung Quốc.”


“Giờ đây họ đang phân chia thành thế tam giác rõ rệt,” Malesky nói, trong niềm hy vọng giữ những mối liên kết gần gũi với cả Washington và Bắc Kinh. Vấn đề người Việt Nam bị thương tật bởi Chất độc Da cam làm rụng lá cây trong chiến tranh (thứ được Burghardt gọi là “bóng ma cuối cùng còn lại của cuộc chiến”) vẫn còn là một nỗi đau đối với Hà Nội. Tuy nhiên, theo Burghardt về căn bản ông “lạc quan” rằng quan hệ Hoa Kỳ-Việt Nam “sẽ tiếp tục được cả thiện.”


Đương nhiên, chừng nào mà chính phủ Việt Nam vẫn còn là một chế độ độc tài chuyên chế độc đảng ngược đãi những người bênh vực cho dân chủ, các nhà báo độc lập, những người có đức tin tôn giáo, và các dân tộc thiểu số, thì tiến trình nâng cấp quan hệ song phương sẽ bị cản trở. Hà Nội thừa nhận điều này, và trong những năm gần đây nó đã thực hiện những bước đi làm dịu những mối quan ngại của Hoa Kỳ. Vào tháng 11-2006, Bộ Ngoại giao đã đưa Việt Nam ra khỏi danh sách những nước có đối xử tồi tệ nhất với tự do tôn giáo. Song nhiều nhà hoạt động có cảm giác rằng đó là một sai lầm. Vào đầu tháng này, Uỷ ban Tự do Tôn giáo Quốc tế ở Hoa Kỳ đã đưa ra một báo cáo với lý lẽ thuyết phục rằng, trong khi Việt Nam thực hiện được “những tiến bộ đáng chú ý,” chính quyền Bush đã hành động hấp tấp trong việc thay đổi mức độ đánh giá về nước này.


Trong sự khảo sát mới nhất của mình về tự do trên toàn thế giới, tổ chức Freedom House ** đã đưa ra mức xếp hạng thấp nhất cho Việt Nam (7 điểm trên 7) cho “quyền lợi chính trị” và mức xếp hạng thấp thứ ba (5 điểm trên 7) cho “các quyền tự do dân sự.” Điểm số xếp hạng gần đây đưa Việt Nam lên trước Trung Quốc nhưng lại đứng sau Malaysia, Singapore, và Thái Lan. Xét chung thì Freedom House phân loại Việt Nam thuộc diện “không có tự do.”


“Đây vẫn còn là một hệ thống chính trị theo chủ nghĩa Lê nin,” Burghardt nhận xét. Mặc dù các hoạt động bất đồng chính kiến ở nước này tỏ ra can đảm, nhưng quy mô của nó vẫn nhỏ bé. Việt Nam không làm gì để tiếp cận với “tâm trạng không ổn định của giới trí thức” trong khi Trung Quốc đã có từ cuối những năm 1980 (trước cuộc đàn áp ở Quảng trường Thiên An Môn). “Dân chúng thì đúng là tự hào về những gì đất nước đã làm được,” Burghardt giải thích, và họ trao sự tin cậy của mình cho đảng cầm quyền để khôi phục nền kinh tế và nâng cao mức sống.


Thật thú vị, Malesky nhận xét rằng Việt Nam đã có nhiều tham vọng hơn Trung Quốc trong cuộc thử nghiệm “dân chủ bên trong nội bộ đảng.” Ông cũng nói rằng so với Trung Quốc, bộ máy hành chính quan liêu của chính phủ Việt Nam độc lập hơn đối với đảng Cộng sản. Tuy nhiên, Trung Quốc đã làm được nhiều hơn trong việc đẩy mạnh cải cách luật pháp.


“Đó là một nhóm đáng kể tại Việt Nam vẫn còn lo sợ hòa bình phát triển,” Thayer nói. “Ở đó vẫn còn một thứ tàn dư hệ tư tưởng chưa rũ bỏ đi được.” Ông nhấn mạnh rằng “đảng Cộng sản không thống nhất,” với một số thành viên tán thành mở rộng tự do hơn những người khác. Trong khi nền kinh tế đã thay đổi, ngày càng nhiều hơn những người Việt Nam sẽ bước vào giới trung lưu và vị trí của các công ty tư nhân sẽ tiếp tục được nâng lên. “Những người này sẽ đòi hỏi một tiếng nói trong việc ra các quyết định chính trị,” Thayer biện luận. “Hệ thống nhà nước không thể khước từ tiếng nói của họ.”


Có thể – song bao lâu thì điều đó xảy ra? Trong một bài báo mới đây về Việt Nam, thông tín viên của tờ Economist Peter Collins đã viết rằng “ngay cả khi chính phủ chịu chấp nhận một phạm vi rộng lớn những ảnh hưởng từ bên ngoài, nó vẫn cố gắng giữ quyền kiểm soát trên tất cả những gì thuộc về chính trị và văn hóa.” Trong khi Burghardt nhận xét giọng buồn rầu, “cải cách chính trị thực sự sẽ rất chậm chạp ở Việt Nam.”

Duncan Currie là chủ nhiệm của tờ The America.

Bản tiếng Việt © Ba Sàm 2008


* Good Morning, Vietnam: tên bài cũng là tên một cuốn phim truyện nổi tiếng về chiến tranh Việt Nam trình chiếu năm 1987, có nam tài tử tài danh Robin Williams thủ vai chính, giành các giải ASCAP, American Comedy Award, Golden Globe,… và được đề cử giải OSCAR