25/6/11

Nam Dao : Hoàng Cầm, một vị thơ

Hoàng Cầm, một vị thơ


Nam Dao


Ngày 6-5-2011 sắp tới là ngày kỷ niệm một năm sau khi ông qua đời. Nhân dịp này NXB Hội Nhà Văn và công ty Nhã Nam vừa ra mắt một tuyển tập thơ Hoàng Cầm, với nhiều tranh ảnh minh hoạ và thủ bút. Đặc biệt có ba bài viết của các nhà văn Hoàng Hưng, Nam Dao và Nguyễn Thuỵ Kha. Chúng tôi đã đăng bài của Hoàng Hưng. Nay xin giới thiệu bài của Nam Dao, bản do tác giả gửi Diễn Đàn.




Hoàng Cầm, một vị thơ i




Nam Dao



Trong dòng thơ Việt Nam ở thiên niên kỷ 20, thơ Hoàng Cầm là những giọt nước trong veo nhưng mặn chát vị đắng, vị của thuốc mang tên Hoàng Cầm. Gặp anh đầu thập niên 80 kỷ trước, liên hệ trân quí này hẳn đã ảnh hưởng đến nghiệp viết của tôi, và hàng năm, cứ dịp Tết tôi lại điện thoại thăm hỏi chúc tụng anh. Mỗi lần, anh lặp đi lặp lại “cố về, để anh em còn gặp nhau…’’. Tết năm ngoái, đứa cháu anh trả lời : “ông cháu nay chẳng còn nhớ gì nữa rồi!’’ Cho nên, tuy tin anh về một cõi khác không đột ngột, nhưng sao vẫn rất đỗi đau lòng. Thơ Việt Nam lại vắng thêm một cái bóng khổng lồ, bóng anh.

Xin chép dăm câu thơ anh làm trên gường bệnh gửi tôi :

Thì em cứ đi
đã quá vòng định mệnh
Sao còn loanh quanh bên số phận của rừng
Tưởng đã đến một tầng sâu giun bướm
Hóa ra còn con dế vẫn dưng dưng

Và, thay nén nhang thắp lên tưởng nhớ anh trong ngày giỗ đầu, tôi xin trích đoạn những gì tôi viết về anh.


*


Thế đấy. Anh chép miệng cười. Nụ cười rất tươi, rực lên cùng ánh mắt. Anh bảo: «...tên nó vận vào người», lại rót rượu. Ðó là một loại rượu ngâm với mơ, màu vàng óng, vị hơi ngọt, uống khá đầm. «Rượu làng Vân, ngâm mơ thế này là đã cả năm rồi», anh lại cười, tay với điếu cày. Tiếng nước reo sòng sọc. Mùi thuốc lào hăng hắc xông lên. Anh ngả đầu ra sau, mắt lim dim. Tôi ngắm anh. Những nét hào hoa nay hằn xuống, nhưng vẫn là những nét hào hoa.

Anh quả là một người hào hoa.

Chị đi đâu về. Tôi đứng dậy. Chị bảo «...à, chú đấy à !». Rồi chị ra ngồi, tay rót nước. Tôi nhìn chị. Chị quả là một người đàn bà đẹp. So với người Hà Nội những năm đó, chị đỏm dáng. Có lẽ chị biết là mình đẹp.

Tôi đưa ly rượu lên môi, bâng khuâng nhớ người con gái trùng tên chị đã hẹn tôi rồi không đến một năm xưa. Tôi nhìn anh, vẩn vơ hồi tưởng lần đầu đến quán rượu này. Tai tôi lại văng vẳng tiếng cười ròn rã của họa sĩ Hoàng Lập Ngôn «... muốn thì đi với tớ, không đi lại chê Hà Nội không có !» Ngồi trên chiếc ghế đẩu chông chênh chỉ chực đổ soài ra, tôi nghe tiếng ngâm thơ. Anh ngâm một cách ngâm lạ lùng. Ngâm như than, như khóc, như rên rỉ, như van vỉ. Như hát chầu văn. Như rủ người nghe nhập đồng.

Quái lạ. Lời thơ lại vượt khỏi tầm trí tuệ. Nó lơ lửng ở chốn nửa nhân gian nửa thần thánh. Nó chém xuống tâm linh, để lại vết cắt, thứ vết cắt hằn sâu xuống ở lớp thứ tám. Vâng, hiểu thì chỉ cần lớp một cho đến lớp ba, bốn. Sau đến lớp năm, lớp bảy là cảm. Khi đó chữ nghĩa hết là chữ nghĩa. Nó thành những tác động tâm - sinh lý. Nhịp tim không còn đều đặn đẩy máu đi như làm thứ nghiệp vụ buồn tẻ trong một cơ thể bình thường. Nhịp thở không còn đều đặn như khi người ta ngủ say đến mất hết khả năng tiếp nhận bất cứ gì. Còn lớp tám ? Tôi phải nói thế nào ? Tôi biết như kẻ có lòng tin vào Thượng Ðế, nhưng làm sao nói đây ?


Tôi lẩm nhẩm «... Ta soi. Chỉ còn ta đạp lùi tinh tú. Ngủ say rồi đôi cá đòng đong». Ở tầng thứ tám, một bàn chân người nhỏ bé đạp vào không gian mênh mang bí ẩn đẩy lùi lại những vì sao long lanh trên dải ngân hà trong suốt. Cúi xuống, cũng ở tầng thứ tám đó, con người nhỏ bé soi mình trong lạch nước, và an bình thay, đôi cá đòng đong còn nhỏ bé hơn nữa đã ngủ say rồi. Từ vô cùng lớn, chỉ vài chữ là đến li ti nhỏ. Ở giữa, con người kia cô đơn làm cái ảo tác đạp lùi tinh tú. Hình ảnh đó còn bi tráng hơn huyền thoại Sisyphe lăn đá lên cao. Hòn đá tới đỉnh lại lăn xuống như một thứ định nghiệp vô căn do, lăn xuống để rồi lại phải đẩy lên, theo cách diễn tả sự phi lý kiếp người của Camus. Lăn đá là hình phạt của Zeus, thứ thần linh hóa ra đại bàng đi đánh cắp một cô con gái nhưng bị Sisyphe - kẻ được bàn dân coi như một vì vua mong xây dựng một vương quốc có văn minh - nhận diện và tố cáo. Văn minh nằm ép dưới quyền lực. Còn luân lý, luân lý đã nhiều lần chùn bước trước sức mạnh trong lịch sử nhân loại.

Hình ảnh lăn đá của Sisyphe khắc nghiệt hơn đôi cá đòng đong ngủ say. Con người cô đơn nổi loạn đạp lùi tinh tú, nhưng hiểu ra sự bất lực của ảo tác đó nên vội quay về tìm an nhiên bằng giấc ngủ của đòng đong. May thay, đòng đong vẫn có đôi. Ðó là một cách an ủi. Dĩ nhiên kém triệt để, nhưng bao dung hơn. Phải chăng Ðông khác Tây là vậy ? Nhưng thế thì sao «nó vận vào người» được nhỉ ?


*


Buổi sáng hôm ấy lành lạnh gió. Hai mươi năm sau, cứ mỗi lần gió như thế, tôi lại nhớ, lại mang mấy tấm ảnh cũ ra nhìn. Ảnh có cụ Sìn, có Văn Cao, có Thái bá Vân, những người đã khuất. Có anh. Có Duy. Có tôi. Những người vẫn còn. Có chị Băng, dĩ nhiên. Còn có T và L, hai cô gái nuôi của cụ Sìn, một họa sĩ đầu đàn của Hà Nội vào những năm ba mươi. T kéo violon cho dàn nhạc giao hưởng. Duy làm bài thơ khá đẹp về bàn tay và chiếc vĩ cầm. Còn L, cô dạy học ở Hải Phòng, nhưng nay đã lưu lạc đâu đâu bên Hòa Lan rồi. Duy đèo tôi bằng chiếc xe đạp Phượng Hoàng cứ dăm trăm thước lại tuột xích. Chúng tôi đi dọc đại lộ Lê Duẩn về hướng Nghi Tàm. Tôi bảo «Chẳng biết các ông ấy gặp nhau thì thế nào nhỉ ?». Khi mời anh, Duy chỉ nói «...anh lên xem bức tranh cụ Sìn vẽ anh năm tiếp thu thủ đô !». Khi mời Văn Cao, tôi chỉ nói «...cụ Sìn nhắn anh lên, lại khà khà bảo không có anh thì thôi không đình đám nữa. Cụ yếu lắm rồi...». Chúng tôi đều biết là từ cái thuở Nhân Văn gần ba mươi năm xa lơ xa lắc, anh và Văn Cao không gặp nhau nữa. Lý do? Tôi kêu lên «...miễn bàn !». Cả nước hòa hợp hòa giải. Văn hóa thì thế. Một dúm tác phẩm. Dăm ba ông đứng đầu, ông nọ tránh không nhìn mặt ông kia. Con cháu sau này trông vào thì sẽ nghĩ gì ? Thái bá Vân gật gù, nhỏ nhẻ «Cho tôi đi với !» rồi hồn nhiên tiếp «...cũng đến lúc các ông ấy nên gặp nhau rồi !»

Tôi không hề hỏi đến lúc là đến lúc nào. Tôi cũng vô tâm, chẳng thắc mắc thế nào là nên , thế nào là không nên . Bữa ăn nhà cụ Sìn khá vui vẻ. T và L chạy lên chạy xuống. Cụ bà đi vào đi ra. Tôi vui trong bụng, chỉ cảm thấy một thoáng sượng sùng khi hai anh bắt tay nhau, để ý các anh tránh nói với nhau, nhưng cả hai đều góp chuyện. Văn Cao thích làm dáng, đôi khi hơi gượng trong dăm ba hoạt cảnh đầy tính kịch. Còn anh, anh hồn nhiên. Cụ Sìn mang bức tranh cũ ra. Bức tranh không có khung, vải bố nhem nhuốc, nhưng anh, anh cười trong bộ quân phục màu vàng, đọâi mũ có đính sao. Cụ Sìn lại khà khà móm mém bảo «...lính Vệ quốc đẹp thế đấy !». Anh mơ màng «...đẹp và trẻ. Có lẽ đẹp vì trẻ...», mắt nhìn T và L đang cúi xuống thẹn thùng. Quả thế. Tôi cũng nhìn. Cô giáo ở Hải Phòng đằm thắm hơn. Cô nhìn lại rồi chạy vụt đi. Cô nhạc sĩ vĩ cầm dáng dấp có nét bốc lửa, nhưng mắt lại mơ màng chút u uẩn than tro. Cô làm vẻ thản nhiên, nhìn về phía sân, nơi nước ao đã tràn lên mấp mé ven bờ.


Buổi trưa hôm đó qua đi, rất nhẹ, không khác cơn gió lành lạnh chớm đông. Cõi nhân duyên chập chờn oái oăm. Hai anh lại chia chung cái chiếu rượu này. Và chia với chúng tôi. Mỗi kẻ một vẻ đời. Làm lính. Làm thơ. Kéo đàn. Dạy học. Ðến từ một bờ Ðại Dương xa lắc bên kia. Lên từ Cảng, quê hương của người tài tình thõng một câu thơ nhập « Sinh ra tôi đã có Hải Phòng...» cho bản trường ca Những người trên cửa biển dính dấp đến vụ quyền lực hãm và hiếp văn học vào năm 1956. Ðè xuống rồi nằm lên dăm ba tờ báo để che bớt đi cái ê chề có tên là cải cách ruộng đất, quyền lực thở phì phò, xong việc kéo quần lên, tay chùi mép dính nước bọt phán lửng một lời «...có phải con gái nhà lành đâu, quí báu đéo gì !». Chữ đéo không thừa. Nó vạch ra tính chất của hệ tương quan giữa chính trị và văn hóa. Con gái nhà lành thì dĩ nhiên không phải là con gái tạch tạch sè thành thị. Họ dẫu còn trinh nhưng điều đó không thể bảo đảm rằng họ thuộc thành phần cốt cán của dân tộc. Nước ta vốn là một nước nông nghiệp và sẽ còn lâu vẫn là một nước có rất nhiều nông nô. Nhưng chuyện đã xưa rồi. Bây giờ khác, người cày có ruộng và công bằng ra thì người viết có giấy có bút để góp phần xây dựng một xã hội tươi đẹp. Có lẽ chính vì vậy là đã đến lúc các ông ấy nên gặp nhau ? Tôi ngây thơ nghĩ thế. Còn anh, hồn nhiên như anh, chắc anh cũng nghĩ thế. Cụ Sìn, cụ chỉ cười khà khà. Cụ không nhầm, mặc dù tuổi đã cao.

Tối ăn cơm, không biết là chân ai khều nhè nhẹ vào chân tôi. Hẳn vô tình. Giá mà cố ý nhỉ. Ai biết được, lại chuyện nhân duyên. Ðêm hôm đó, tôi ngủ lại nhà cụ Sìn với Duy. Hai đưa lau sàn xi măng đã lên dầu mồ hôi sáng bóng rồi mắc màn. T và L cũng thế, hai cô nằm chiếu bên cạnh.

Tiếng ễnh ương bờ ao. Vẫn gió. Gió xào xạc. Ngọn đèn hoa kỳ vặn xuống li ti sáng một màu xanh biếc. Tiếng cụ Sìn ho. Tiếng đập muỗi. Tiếng thở dài nhè nhẹ chiếu bên. Duy bắt đầu ngáy. Tôi thiếp dần đi trong mùi đàn bà bay thoang thoảng. Tôi mơ bay lên thật cao, cao đến độ trái đất ở dưới chỉ còn là một hòn bi ve óng ánh màu hy vọng một hạnh phúc trong tầm với của cả dân tộc tôi. Thú thật, tôi đã là một kẻ có niềm tin như vậy. Cho đến tận bây giờ, tôi vẫn cố gắng tin và còn hy vọng nên mới viết được những giòng chữ này, dẫu rằng đôi khi bóng tối có lúc đã bao trùm cả đời tôi lẫn đời những người tôi yêu.

Hình như ai thò tay sang nắm lấy tay tôi. Tôi để yên, lòng ngậm ngùi, vờ ngủ. Cho đến nay tôi vẫn chưa biết bàn tay đó là tay L hay tay T. Tôi chỉ biết tờ mờ sáng L đã đi ra bến xe về Hải Phòng. Và sau đó tôi rồi cũng phải bay sang bờ Ðại Dương bên kia. Nỗi ngậm ngùi sau này đọng lại được đúng hai câu : Em đi rón rén trời chưa sáng. Bước động ao bèo bỗng hóa sông.


*


Thuở đó anh biết tôi yêu thơ. Thật ra, tôi yêu tất cả những cái đẹp. Và yêu, dĩ nhiên là mù quáng. Là như bị thôi miên. Là buông hết, và thả luôn đời mình vào cái mình yêu, hệt như những kẻ tử vì đạo. Cái đẹp, gộp luôn cả chân - thiện, trở thành tất yếu cho sự tồn sinh, và mặc dầu tôi là người ngoại đạo, thỉnh thoảng lại mập mờ mang hình tượng Ðức Chúa đóng đinh trên thánh giá cứu rỗi, sườn loang lổ máu một vết dao đâm vì lòng tham tàn cộng thêm sự ngu muội.


Tôi đến chơi với anh như đến với cái đẹp. Người ta chặc lưỡi «...giao du phải cẩn thận.» Tôi bảo «Nếu phải xin phép thì cho tôi một cái danh sách, những ai là người không nên giao du !». Người ta trừng mắt. Tôi quay lưng đi. Người ta cho là tôi thách thức quyền lực. Tôi thì không. Vì tôi nghĩ, rất ngây thơ, là đã «đến lúc» vì bây giờ chỉ có ta, và ta phải «cùng nhau» góp tay vào xây lại một mảnh đất đã quá đọa đầy. Ðòi hỏi của hai từ ghép «cùng nhau» là phải xóa đi lằn ranh dĩ vãng đã chia nhau ra thành đôi, thành ba, thành năm thành bảy mảng. Những mảng băng rời trôi mỗi mảng một hướng. Nước ơi, chỉ có tình của nước mới làm tan những mảng băng chia cắt lạnh lẽo kia. Người ta lắc đầu nghi ngại. Tôi đến chơi với anh. Với Trần Dần, Lê Ðạt. Với Ðặng Ðình Hưng. Người ta nhăn mặt «Trải chiếu hoa cho mà không biết lên ngồi à ? ». Tôi giật mình. Thì ra phải chọn giữa mảnh chiếu hoa đã trải và cái đẹp ! Nhưng tôi đã thưa, cái đẹp là tất yếu cho sự tồn sinh, và tôi xin trả lại một góc chiếu vẽ hoa đỏ không hợp tạng.

Anh biết tạng tôi, cái tạng con trẻ không làm sao cho khôn ngoan thích ứng hơn được với cuộc đời. Tôi không kể cho anh cái đêm có một bàn tay đàn bà thò qua màn nắm lấy tay tôi ở chiếu bên. Anh tặng tôi một chai rượu mơ anh ngâm, dán thêm hai chữ Men Quê và Bốn câu thơ. Anh kể :

«... Tên nàng cũng là Yến. Chúng mình lên đồi, mặt đất xanh rì, nhấp nhô mềm dịu như mông như vú đàn bà. Nắng đã bắt màu vàng tươi trên mái chùa Phật Tích ngói đỏ xa xa. Ngả mình nằm xuống thảm cỏ, nàng nhìn, cái nhìn như bảo ban. Bỗng nàng chồm dậy, hai tay bíu lấy đầu mình kéo xuống, rồi áp môi hôn những nụ hôn cuồng nhiệt. Khi buông nàng ra, mình đọc «Một con bướm lửa đậu môi». Nàng nắm hai tay mình kéo ra, miệng thầm thì «Hai nhành hoa lửa chia đôi tay cầm». Nhìn lên trời, những ráng mây xa óng ánh như sắp cháy bùng lên, mình tiếp «Ba làn mây lửa về thăm». Nàng như say sóng, ôm choàng lấy mình để giữ thăng bằng trong một cơn bão biển bất ngờ ào vào thân thể, mắt nửa khép nửa mở, tay quơ lên, miệng thở dốc. Mình lao vào nàng, vào cơ thể nàng, vào tâm hồn nàng bằng tất cả sinh lực đàn ông, cứ thế cho đến khi cùng kiệt. Nàng ngước mắt, vừa cười dịu dàng, vừa đếm «... Bốn lần chim lửa đến nằm rậm hoang».

Hai mươi năm sau, tôi vẫn nghĩ cho đến nay câu chuyện anh kể không chỉ là một câu chuyện thật. Nó có chất cốt tủy như khi anh bảo với tôi rằng nàng Thơ vốn dĩ lẳng lơ, gặp ai cũng quyến rũ, nhưng chung chạ gối chăn với nàng lại là chuyện khác... Tôi tin lời anh. Anh hồn nhiên nhận mình là người may mắn. Như vậy cái gì có thể lại «vận vào người» anh?


*


Mẹ, Chị, rồi Vợ anh và những người đàn bà yêu anh đều là cốt đồng cho anh nhập vào tâm giới của nàng Thơ. Hiện tượng này nằm dưới tầng ý thức của chính anh. Thậm chí, nó nằm ngoài anh, và chính vì thế mà anh kể là thơ anh «... vài ba câu đầu bao giờ cũng không phải là tôi nghĩ ra, mà đúng thật là những lời văng vẳng bên tai như có một giọng nữ đang hát, hay đang đọc... mà tôi xin gọi là lời của thần linh đọc cho mình chép lại được.».

Vâng, nghe đâu anh chép được nguyên bài Lá Diêu Bông. Lần cuối gặp anh năm ngoái, anh hỏi «Thơ mình được mấy bài ?». Tôi tần ngần, đếm có Về với Ta, Ðợi mùa, Cây tam cúc, Quả vườn ổi. Ðó là những bài thơ lạ, ngôn ngữ thơ biết thở, biết hát và biết im lặng. Tôi đáp «năm, sáu bài...». Anh cười «...thế là lấy của thiên hạ quá nhiều rồi !» và hồn nhiên nói tiếp «... à, em mới kể có năm thôi !». Thật ra còn bài U gì anh làm gửi cho Ðặng Ðình Hưng. Bài Ðợi mùa, ít người nhắc. Thú vị nhất là tiếng chim tu hú, thứ chim lớn hơn sáo, lông đen nhạt điểm trắng, đẻ trứng thì đẻ vào tổ sáo hay tổ chim ác là, và cuối Xuân là kêu để gọi Hè về :

Mùa chưa về
Tu hú gọi Em đi tìm Mẹ

Dãy tre xa giấu biệt giải khăn điều
Khi gậy nắng ăn mày đã quăng sau núi
Hàng tre nhà
yếm trả
Mẹ về
lều dột đón mưa đêm
Thì chị đi
mấy lối chân chim
Ðể Mẹ về bao phương bèo nổi
Riêng Em nằm trơ đợi giờ tu hú gọi

Câu bốn và năm trong đoạn này rủ người đọc thở một nhịp thở gấp gáp, tiếp đó, nhịp thở lại chậm đi, rồi nức nở nghẹn lại. Tôi xin trích thêm một đoạn :

Em bước vào đình
ôm cột bốn người ôm
Em rẽ sang chùa
lay chân hộ pháp
Sau chùa tát đêm một, chạp
Gầu giai ai vớt Chị ơi lòa lõa thân trăng
Chị lỡ xe hồng
Mẹ đi lấy chồng
Cỗ cưới chênh vênh khoai luộc
Mật vàng mọng rách vỏ nâu non

Giữa câu bốn và năm trong đoạn này, thơ chuyển mạch bằng cách im lặng (đọc ở giữa hai câu, nghĩa là không có chữ nào ). Và đây là đoạn cuối:

Có hôm Em lần xuống bếp
Cậy cháy sành vỡ toác chôn niêu
Một con mèo mướp ruỗi chân chiều
Lưỡi gió liếm gio vờn tóc rụng
Tưởng như Mẹ về
Vai áo toạc ba vá chằng tơ dứa
Tưởng như Chị về
Tơ tóc đêm xưa giờ rễ tre
Bao giờ Chị về
tóc phủ vai Em chiều hương nhu
Bao giờ Mẹ về
Buộc yếm đào phai vỗ hát ru

Khấn thầm như gặp Chị
Mắt nứa cứa tay Em
vẫy đón đầu làng
Khấn thầm
như mẹ lỡ đò ngang
Miệng hé hạt na nhòa bến vắng
Cổ tay tròn đẫn mía gie
Không
Bầu mẹ không tròn
Bưởi Chị không hoa
Ðã hết năm tu hú gọi rừng già
Ðã sang mùa
tu hú ngủ rừng xa

Hai câu cuối cùng, thơ là thơ biết hát. Trong đoạn vừa trích, thơ biết im lặng sáu lần và hát lên hai lần. Còn thở, thơ thở hắt ra ba lần, thở kiểu máu nhồi cơ tim một lần. Mời bạn tìm, xem sao.

Ðiều tôi thực sự muốn nói bằng cách nói trên : Thơ hay là Thơ có tác động sinh lý lên người đọc qua nhịp thở và nhịp tim. Chính tác động đó ảnh hưởng đến tâm lý, tạo ra cái đa dạng của thất tình : buồn, vui, bâng khuâng, bực dọc, phẫn nộ... Ðã nói đến nhịp, là nói về nhạc. Thơ hay không phải chỉ một câu hay. Thơ hay, không phải một chữ hay. Trò kén chữ cho khéo là trò kén chồng, kén để làm lễ cưới cho có pháo nổ và họ hàng hai bên cười cợt, xong lễ thì ém nhẹm đi cuộc sống lứa đôi dẫu ổn thỏa hay không ổn thỏa. Thơ hay là thơ nhìn dưới góc độ một tổng thể. Tác động câu chữ là tác động trên trí tuệ. Thêm một mức, một mức cao hơn mới tới tâm cảm, hệ quả của tác động trên nhịp thở - nhịp tim, yếu tố sinh lý gây lên thất tình. Thơ hay chính nó là Nhạc. Và thường thường, chúng ta đơn giản hóa Nhạc vào vần, vào điệu. Nhưng vần thì thật ra thừa, và điệu, rất sáo mòn, nhất là vần điệu của lục bát, tứ tuyệt hay thất ngôn (nhưng nói thế, không phải bảo rằng Thơ hay không có thơ lục bát, tứ tuyệt hay thất ngôn ). Thơ anh ra ngoài thể loại vần điệu đó. Thơ anh mang âm vận của Từ đời Tống và những bài Phú thời Nguyên - Minh, tự do hơn, phóng khoáng hơn, nhưng là thơ Việt Nam vì mang mang tính cách Quan họ đặc biệt đất Bắc Ninh. Thơ anh có Mẹ, có Chị. Những «Bầu Mẹ không tròn, bưởi Chị không hoa». Cũng vì vậy nên thơ anh là thơ của Lỡ Làng. «Chị lỡ xe hồng. Mẹ đi lấy chồng, cỗ cưới chênh vênh khoai luộc...». Sự lỡ làng chỉ đổi lại bằng khoai, «mật vàng mọng rách vỏ nâu non». Vỏ khoai có khác ai hơn là Em, tâm hồn tả tơi làm thơ khóc những lỡ làng ?


*


Năm 1982 là một năm đầy oan trái nghiệp nghiệt. Ngẫm lại, hình như những vết chém phi lý và vô nghĩa, những vết chém không làm sao tìm được căn do, đều chọn được loại nạn nhân riêng của nó. Cả anh lẫn tôi đều nằm ọp bốn năm liền nhấm nháp cái vị tanh của máu ứa ra từ những vết chém đó. Anh chịu cả phần xác lẫn phần hồn trong lao ngục. Phần tôi, tôi chịu phần hồn trong một nhà tù không cần cửa sắt chấn song.

(…) Về Hà Nội lần này, tôi gần như tuyệt vọng : thế quyền đã «co cụm» lại sau Ðại Hội IV, vẫn khăng khăng một thứ giáo điều lưỡi gỗ, ngược hẳn lại với những điều tôi đã trình bày về phương thức dùng qui luật thị trường nhằm ổn định kinh tế Việt Nam trong một đề nghị chuyên ngành với cấp cao nhất có thẩm quyền. Chống lại niềm tuyệt vọng, thấy ánh đèn là tôi lao vào, cứ như loài thiêu thân. Dễ nhất lại là lao vào tình yêu. Hay bất cứ gì đồng dạng với tình yêu. Anh cho tôi một món quà mừng cái tình yêu đó : tập thơ Về Kinh Bắc anh hì hục chép tay trên một quyển vở học trò. Tôi vào Sài Gòn trước khi bay sang Pháp. Một người bạn vào báo anh vừa bị công an giữ để điều tra. Tập thơ Về Kinh Bắc tôi trao cho những người trong nước giữ lại, không mang theo khi đi, tránh không để ai kết tội anh chuyển thơ «chống đối» ra nước ngoài. Thật ra, Về Kinh Bắc chẳng chống đối gì cả : nhà xuất bản Văn Học đã in nó năm 1994. Còn bắt anh, họ bắt vì lý do gì rồi giam cầm anh một thời gian khá dài ? Bán rượu ? Hút thuốc phiện ? «Hủ hóa» Việt Kiều ? Trên Métro từ Luxembourg đến Place Italie, tôi giở tờ Le Monde đọc. Báo loan tin anh bị tù. Hôm ấy, tôi đọc rồi nước mắt ứa ra. Cứ thế, tôi khóc. Kẻ đi qua thản nhiên hay chỉ khẽ nhăn mặt. Duy có một người da đen đến chìa cho tôi mẩu thuốc lá hút dở, và nói «Bonne chance !»

Sau đó, tôi có xin về nước, nhưng người ta không cấp thị thực nhập cảnh, bảo có lệnh cấm. Lệnh miệng. Và chịu. Eo ôi !


*


(…) Năm 1988, giải tỏa lệnh cấm. Dĩ nhiên, Ðại Hội VI đã Ðổi Mới Tư Duy, và thấp thoáng một nền kinh tế thị trường có định hướng xã hội chủ nghĩa. Vậy thì những đề nghị ngày xưa của tôi đâu là tội. Tôi, con gà gáy trước khi trời sáng, chỉ là thứ gà non, gà ngoại, gà lai giống, gà vừa đạp vỡ vỏ trứng đã vội khập khiễng đi tìm rạng đông.

Tôi men ngách vào nhà anh, số 43 Lý Quốc Sư. Nhà vẫn vậy, nhưng quán rượu thì dẹp rồi. Cháu nội gọi ông, anh từ gác xép leo xuống. Anh đây. Anh gày gò, tóc bạc gần hết đầu, mắt trũng sâu, răng cửa đã khuyết một cái. Anh ngẩn ngơ nhìn. Tôi ôm lấy anh. Chúng tôi ngồi nhìn nhau. Giữa chúng tôi là bốn năm tù của anh. Tôi nói «... có điều gì khúc mắc anh cứ hỏi». Anh bảo «... giá em về trước hai năm thì anh em mình chẳng được thế này đâu». Tôi im lặng. Trong tù đầy, hỏi cung, quay quắt ra biết bao nhiêu thêu dệt thực hư. Tôi hỏi «Tập thơ anh chép cho em, anh đã lấy lại rồi chứ ?». Anh cười, cái cười đau xót. Ðó là cái lấy lại được, nhưng vừa ra khỏi tù thì anh mất ngay chị, rồi liền sau đó anh mất con gái anh, cũng tên là Yến. Nước mắt ứa ra, anh kể :

«... đêm hôm đó, anh đang chập chờn ngủ, sao lại ở đâu có một con bướm vàng bay vào lảng vảng quanh màn. Mở cửa màn, con bướm chui vào. Anh linh cảm, anh biết, anh khấn. Bướm bay rồi đậu lên bàn thờ. Anh lại khấn «Yến ơi, con ơi, con về đấy à, khổ thân con». Bướm từ bàn thờ bay xuống quấn quít bên anh như không nỡ rời dẫu âm dương cách trở».

Nắm tay anh, tôi không muốn để anh mất mát thêm bất cứ gì. Sau, tặng tôi tập thơ Men Ðá Vàng, anh viết «...để cùng nhớ những năm tháng đầy oan nghiệp nhưng cũng đầy hạnh phúc». Ðấy, cặp bài trùng oan nghiệp - hạnh phúc. Và hạnh phúc của nhà thơ lúc nào cũng là một điều thật bí ẩn. Bí ẩn như ngôi sao trên kia long lanh sáng, nhưng xa lơ xa lắc, kẻ bình thường như tôi có giơ tay lên với cũng không nắm bắt được.




Có một người Anh như anh, là một niềm hạnh phúc. Anh nghiêm mặt bảo «...cái vốn từ của cậu chưa đủ. Phải đọc đi đọc lại truyện Kiều. Rồi đọc cô tổ Xuân Hương...» Tôi cãi, chữ cho đơn giản chứ bí hiểm quá, sang quá, hay điển tích quá thì đều là «quá tải». Hôm ấy có cả Trần Dần và Lê Ðạt. Anh Ðạt khéo kết chữ cũ cho ra mới. Còn anh Dần, anh đi tìm chữ mới, đang thử nghiệm loại thơ cực ngắn, đôi khi chỉ đúng hai chữ. Anh quay hỏi «...nó nói thế, chúng mày nghĩ thế nào ?» Anh Ðạt lý giải. Còn anh Dần, anh nhìn tôi chằm chằm, buông gọn, cũng cực ngắn, «cứ làm !».

Cãi thế, nhưng tôi về tôi nghĩ. Tôi đọc đi đọc lại Truyện Kiều. Tôi đọc đi đọc lại thơ Xuân Hương. Tôi học chữ Hán để đọc cả Bắc Hành Thi Tập. Rồi tôi dịch lại hai trăm bài thơ Ðường mà khi chuyển sang tiếng Việt, những người đi trước tôi lại dùng thể lục bát. Rồi tôi dịch lại cả Chinh Phụ Ngâm của Ðặng Trần Côn cho sát lối Tập Cổ, tránh kiểu song thất lục bát của bà Ðiểm. Ðấy, chỉ một câu anh nó thôi mà khi hiểu ra tôi đã đổ mồ hôi như vậy. Chuyện này, tôi chỉ mới nói thoáng cho anh nghe. Nay nói lại, một cách gửi lời cảm tạ anh. Quả là vốn từ của tôi nay có hơn xưa. Song có ân ái được với nàng Thơ hay không lại là một chuyện khác.

Hợp rồi tan. Tôi lại phải ra đi. Cứ mỗi lần như thế, anh nhắn nhe «...lại anh thêm dăm phút». Lúc tôi về, anh lại đạp xe đạp theo đến khách sạn. Và khi chia tay, anh ôm tôi, anh hôn, anh khóc. Tôi nhìn theo anh trong bóng đêm. Mái tóc anh trắng bồng bềnh lồng lộng gió ven hồ Hoàn Kiếm. Bóng anh mãi cũng xa dần rồi mất tăm. Lúc ấy tôi cũng khóc.

Chúng tôi là những kẻ mau nước mắt.


*


Là một người có tự do, tôi lại càng hiểu thế nào là tù ngục. Những năm anh tù tội nằm trong trại giam lại ám ảnh tôi. Anh tội gì? Ai có quyền cướp sống dăm ba năm một đời người? Nhân danh ai, nhân danh gì? Và hẳn anh rồi không có tội nên anh mới được phục hồi «hội tịch» vào năm 89 !

Phục hồi, chắc cũng trả cho tí tiền. Liệu tiền đó có đổi được những đêm dài lắng nghe muỗi vo ve, tiếng chuyện trò duy nhất với những tội nhân. Riêng anh, loại tội nhân có cái tội là chót làm nhà thơ. Và tội to hơn, thơ lại là thơ hay. Nhưng hình như có ai nói dân tộc ta toàn là những nhà thơ. Ðó là một điều đáng hãnh diện. Ðồng thời đó cũng là một điều bất hạnh trong cái cặp biện chứng oan nghiệt - hạnh phúc.

Thôi im đi, tiếng hát ngọng nghịu của thứ gió định mệnh khắc nghiệt sụp về đánh úp hạnh phúc. Thôi im đi, những lạc quan đen, những cú phất cờ hô khẩu hiệu, hoan hô và đả đảo. Hãy trả cho chúng tôi những cái tay bắt chân thành, những cốc rượu của tình bạn, những cuộc đoàn viên có tiếng cười, những phi vụ vui chơi lương thiện... Tôi bị cấm về, chỉ thỉnh thoảng nghe tin anh qua bè bạn, là ông ấy năm nọ ốm đã tưởng đi, ông ấy khỏe lại yêu, yêu PQ, yêu B.Ng, Yêu ÐÐ..., yêu vân vân và vân vân. Tôi mừng, ông ấy vẫn đó. Cho đến 1998 tôi mới lại đặt chân trở lại Hà Nội. Lần này về, về cho bè bạn. Và đi kèm có cháu Việt, con trai lớn của tôi.

Lại men cái ngách 43 Lý Quốc Sư. Ngách vẫn thế nhưng nhà anh nay khác, lên ba tầng, trước nhà vẫn còn một đống cát, xi-măng, và dăm ba chiếc xẻng. Bây giờ, không ai réo tên nhau. Phải bấm chuông. Tôi hồi hộp. Cửa mở. Anh thò đầu nhìn, mắt nhắm mắt mở. Tóc anh xù ra bạc trắng màu mây. Anh còm xuống. Răng thật rụng hết, nay chỉ có răng giả. Anh cười. Ở một cái tuổi nào đấy, cười làm sao thì cũng như hơi mếu máo. Anh ngồi xuống ghế salon bọc simili-cuir. Bàn kính. Nhà lát gạch hoa. Thế thì đâu rồi những chiếc ghế đẩu nằm soài ra trên nền đất nện ? Thế thì đâu rồi cái điếu cày, dăm chiếc đóm, chai rượu mơ và ngọn đèn hoa kỳ bấc vặn thật thấp li ti đốm cháy ? Tôi xin anh, thôi lên chỗ anh ở, chứ ngồi salon làm gì. Leo gác hai, anh đẩy cửa. Một cái giường đơn. Trên sàn, trải chiếu, khay nước nằm tênh cạnh ngọn đèn hoa kỳ. Và chiếc điếu với dăm vê thuốc lào. Rồi dăm chiếc đóm. Tôi ngồi sụp xuống đất. Tôi bắt đầu nhận ra anh. Anh cười. Bấy giờ, cái cười mới hết mếu máo.

Về, tôi hẹn đến đưa anh đi ăn cơm trưa với Việt ngày mai. Khi bố con tôi đến thì người nhà anh bảo anh ốm lắm. Chúng tôi lại leo gác hai. Trong phòng, anh co quắp trên chiếc chiếu giải trên sàn, mình đắp chăn. Tôi cúi xuống nhìn. Mắt anh nửa khép nửa mở, trắng đục, vô hồn. Anh không nhận ra tôi.

Anh phải vào viện. Năm ngày sau, bố con tôi đến thăm anh trong nhà thương. Anh bị xưng phổi sau cái chuyến đi «trình diễn» thơ ở Thái Bình thì phải. Mỗi chuyến đi thế, cũng được thù lao một hai triệu, nghĩa là một, hai trăm đô Mỹ. Lộc thơ chỉ có thế, và phải chờ những ngày cuối năm. Chúng tôi đến thì đã có dăm ba phóng viên những tờ nhật báo của Hà Nội. Anh lại khều tôi, miệng cười rất tươi, chỉ một chị phóng viên ước độ trên dưới ba mươi, và hỏi «...trông được chứ nhỉ !». Rồi anh víu vai cháu Việt, nói bằng tiếng Pháp, «Bác về là sẽ hỏi cô ta làm vợ». Ngớ ra, Việt không hiểu nhìn tôi dò hỏi. Anh tiếp tục, rất chân thành, «Mais oui, je vais lui demander sa main... C’est sur». Sau, con tôi cứ cười, bảo «...quả bác ấy là nhà thơ. Un poète-fou !»

Ðúng đấy. Có nhà thơ nào không điên? Tôi lại nhớ lời ra tiếng vào của một người bạn, bàn «Ông ấy nỡm lắm. Già thế mà lên tivi cứ nói tình yêu này, tình yêu kia... Nghe ngượng đỏ cả mặt!». Thưa anh bạn đứng đắn, anh Cầm thế, vì anh ấy sống phút nào là chong mắt tìm một cốt đồng để nhập vào, hy vọng thêm một lần ân ái với nàng Thơ. Nỡm ư ? Nhưng ngẫm kỹ mà xem, cứ giả thử như chúng ta có tất cả nhưng không còn yêu thương được nữa, giả thử như trái đất này đánh rơi vào cái rọ đen - black hole - tất cả tình yêu và đam mê. Chúng ta có tất cả đấy, nhưng lại không còn gì ngoài cái hành trình của những người không tim trong thiên hà mênh mang kia. Anh bạn đứng đắn ơi, trong hành trình đó anh cứ đi một mình. Chúng tôi xin ở lại.


*


Chúng tôi ở lại. Với nghiệp dĩ của những kẻ tin rằng hoang tưởng chẳng thừa trên cõi người. Thiếu, thiếu vô cùng, hoang tưởng như nước trong sa mạc. Và ảo ảnh một cái hồ long lanh nhấp nhoáng sau những đụn cát vàng cháy là lý do để không bỏ hành trình đến sự sống. Hoàng Cầm len vào tiểu thuyết Trăng Nguyên Sơ của tôi. Nhân vật ‘‘hắn‘‘ trong trích đoạn cuốn tiểu thuyết đẻ non, mới in thì không được phép phát hành, đi tìm bảo vật bảo quốc hộ dân hòng giải phép trấn yểm đất Đại Việt của tay phù thủy Cao Biền phương Bắc:

(…) Lần theo bản đồ chi chít tên đường, tôi tìm được phố Lý Quốc Sư. Trước mặt một quảng trường, Nhà Thờ nghễu nghện chọc trời, tường xám xịt dấu vết những tháng năm không chăm sóc tu bổ. Dưới nắng rừng rực chực bốc lửa, tôi vội bước, nhìn số nhà rồi rẽ vào một cái ngách. Chục năm trước, tôi có đến đây một lần nhưng bây giờ chẳng còn nhận ra gì nữa. Quán rượu ngày xưa giờ là căn nhà ba tầng bằng gạch, cửa sắt khóa bằng một sợi dây xích sắt to bằng ngón tay cái. Tôi bấm chuông. Một đứa bé ra bảo: "Ông cháu đau, không xuống được!". Tôi nhờ cháu lên gác báo, khẩn khoản dặn: "Cháu cứ nói thế, chắc ông cho gặp!". Quả vậy. Uốn người, tôi leo một cái cầu thang hẹp, bậc không đều, cao thấp khó lường.

Nhà thơ ngước mắt nhìn tôi. Ông ta đây sao? Mười lăm năm trước, ông đã đứng tuổi nhưng vẫn cường tráng mặc dầu khi tôi gặp, ông mới bị quản chế đâu gần ba năm vì cái tội chính thức là… bán rượu lậu. Nay, tóc ông bạc phau, móm mém, mắt lờ đờ, nằm nghiêng phì phò thở.

"Nhà thơ chắc không nhận ra... tôi!"

Ông lắc. Tôi nhắc lại buổi tôi gặp ông với hắn cách đây mới thế mà đã mười lăm năm. Ông mỉm cười:

"Lâu nhỉ! Mình trí nhớ kém rồi... Lại mới ngã cầu thang, xương chậu bị vỡ, ngồi lên không được! Xin lỗi phải tiếp khách trong cái thế khó coi này!", ông khẽ cười.

Hỏi ông đã gặp hắn chưa, ông nhắm mắt, đáp:

"Bao giờ về cậu ấy cũng đến thăm tôi. Sau dịp Tết vừa qua, cậu ấy từ Đà Nẵng vào..."

"Anh ấy có nhắc sẽ đi tìm chùa Báo Thiên... Thưa nhà thơ, chùa ấy ở đâu?"

"À... Chùa xây cuối đời Lý, bị phá thế kỷ trước mất rồi... Người Pháp xây Nhà Thờ Lớn ngay trên móng nhà chùa, ở góc phố. Làm gì còn chùa Báo Thiên? Khi cậu ấy hỏi, tôi đã bảo vậy!"

Tôi cân nhắc, rồi ngập ngừng:

"Nhà thơ có biết anh ấy đi tìm gì không?"

"Biết..."

"Nhưng đó là một niềm hoang tưởng..."

Tôi nhẩn nha kể lại cho nhà thơ nghe nội dung những bức e-mail tôi nhận được và kết luận:

"Sợ anh ấy hoang tưởng ở mức bệnh hoạn... Cho nên tôi mới về gấp!"

Nhà thơ mỉm cười, từ tốn:

"Đừng sợ. Một thứ vật quý hiếm như vậy, có hoang tưởng thì cũng tự nhiên thôi. Vả lại, người nghệ sĩ nào chẳng hoang tưởng. Động cơ tái tạo mọi hiện thực phải giẫy bỏ để giải phóng sáng tạo... Hoang tưởng càng lớn thì khả năng nghệ thuật càng cao. Như cái nghiệp ấy mà!"

Ngưng lại lấy hơi, nhà thơ thều thào tiếp:

"... Thế là tháng nay không thấy mặt, chẳng hiểu đã tìm ra chưa, rõ cơ khổ!"

Ra đường, tôi vòng lại Nhà Thờ. Đứng dưới mái hiên một cửa hàng bán mỹ nghệ cho khách du lịch, tôi ngước nhìn cây thập tự cao vút chọc vào nền trời sáng lóa mắt, tưởng tượng cảnh xe bò chở tượng Phật đi để lấy tượng Chúa thay vào thế chân trong một cuộc thay nhà đổi chủ.

Thế quyền và tâm linh phải chăng là hai mặt một đồng xu trong một thể cân bằng không bao giờ ổn định. Đồng xu quay sau cái búng tay của tên phù thủy biến chuyện đời thành trò ảo thuật quay tít thò lò, và tiếng hô: "Nào đặt cược nào, sấp hay ngửa!".


*


Bây giờ, trên đầu hai thứ tóc nên tôi rất sợ hô khẩu hiệu. Chẳng hạn loại khẩu hiệu như «... tất cả cho mai sau», hoặc «Tự do hay là chết». Bây giờ, trên đầu hai thứ tóc, tôi rất do dự khi đụng vào cái chết. Tôi linh cảm rằng sự sống quí hơn tất cả. Nó đèo bồng trên lưng tự do. Và càng tự do thì gánh nặng càng nhiều. Cái gánh nặng đó nằm trong câu hỏi là ta làm gì và sống ra sao với cái tự do đó. Cho những người theo đòi nghiên bút, làm gì là viết gì. Sống ra sao đồng nghĩa với ý thức trách nhiệm thế nào với người và với mình.

Ngày bức tường Bá Linh sụp đổ, có người bạn gửi cho tôi một cục đá nhỏ. Anh ta viết kèm «... kể từ nay, tự do không còn là một cụm từ trong thứ ngôn ngữ chết. Con người biết tự mình cởi ra những sợi dây trói buộc, kể cả đám lính kín, công an. Chúng ta có quyền hy vọng...». Anh ta kể ra hoài bão thực hiện một bộ tiểu thuyết về bức tường mà không còn sợ hãi gì nữa. Mươi năm qua, anh vẫn chưa viết gì được. Tôi hỏi, anh đáp hai trăm trang đã viết là viết trước ngày bức tường sụp đổ. Từ đó, anh chịu. Tự do đấy, nhưng anh chỉ thêm được vài trang. Còn hai trăm trang kia, anh đã lặng lẽ viết trong nỗi lo âu. Lo và sợ. Ðến độ vợ con anh cũng không hay biết. Tôi lại hỏi, tại sao, tại sao thế. Anh buồn bã trả lời «...ngày trước, tôi viết chống một cái gì để cho một cái gì khác chưa có. Nó thật rõ ràng. Bây giờ ư ? Cái gì đó chưa có đã thành ra có, nhưng có đấy mà lại mù mờ nên tôi không còn định hướng viết cho cái gì được nữa. Có nhà xuất bản bảo tôi, hãy viết để giải trí cho công chúng người đọc thôi, vừa dễ viết, vừa dễ bán. Viết hay sẽ dịch ra tiếng Anh, có cả thị trường toàn thế giới. Tôi đã thử, nhưng rồi xấu hổ đem đốt cả đi. Tôi không muốn là một nhà văn vô trách nhiệm...».

Nhưng trách nhiệm đó là gì? Có lẽ với anh là ca ngợi Tình Yêu chăng? Chỉ năm ngoái tôi mới được anh cho tập thơ Về Kinh Bắc, tập cuối cùng anh giữ lại. Sách in lem nhem, bìa photocopy đen trắng trên nền xanh lơ, mặc dầu để là nhà xuất bản Văn học in năm 1994. Tôi cầm cuốn sách, lòng ngậm ngùi. Những vần thơ mượt mà nhất trong thơ Việt Nam thế kỷ hai mươi bị tình phụ trong nền kinh tế thị trường có định hướng xã hội chủ nghĩa ? Đó là những vần thơ tình rất đẹp. Tình yêu Kinh Bắc. Bắt đầu bằng năm đêm, trong ngũ hành. Rồi anh đi liền bảy nhịp, trong một cuộc tuần du có Mẹ, có Chị và Lỡ Làng. Lỡ làng, bến tình không người đợi. Lỡ làng, mắt mỹ nhân khép đến thiên thu. Lỡ làng, những mảng hoa bèo ao cá quẫy. Lỡ làng, xin Chị một quả ương, Chị lại dối quả ương chim khoét thủng dẫu chẳng con chim nào lại chọn quả ương. Lỡ làng, cúi nhặt chiều mưa dăm quả rụng... Lỡ làng, quan đốc đồng áo đen nẹp đỏ, thả tịnh vàng cưới Chị võng mây trôi. Lỡ làng, em đứng nhìn theo em gọi đôi. Lỡ làng, đứa con anh thai nghén sau những đêm ân ái với nàng Thơ. Lỡ làng, cơn đau của con tằm rút ruột nhả tơ. Lỡ làng, là đời anh. Bởi anh biết yêu. Biết yêu là yêu đến cuồng dại (…)

Ðể kết một cuốn sách đọc lâu rồi nên tôi đã quên tên, André Breton - một cột sống trong phái siêu thực - viết «Je vous souhaite d’être follement aimée.» (Xin chúc bạn được yêu đến cuồng dại). Ðược yêu thôi ư? Cũng tạm. Nhưng tôi, tôi chúc anh khác, chúc anh hơn vậy nhiều. Tôi chúc anh yêu đến cuồng dại, với chữ Yêu cùng một lúc hiểu như danh từ, trạng từ và nhất là như động từ. Vâng, yêu có bao giờ lại là tĩnh từ. Nhất quyết Yêu là hành động, và cho một nhà thơ, Yêu là trách nhiệm cứu rỗi của những con chữ có nghĩa. Những con chữ đẹp. Những con chữ có đời sống. Muốn đẻ ra chúng, thì có hề chi những cơn đau trở dạ. Thì có hề chi những lỡ làng.

Tôi nhớ đã hỏi anh Hoàng Cầm, tại sao là Hoàng Cầm, và Hoàng Cầm có nghĩa gì? Anh cười, có chút gì như là chua xót, «Hoàng Cầm là tên một vị thuốc đắng... Tên nó vận vào người».

Hoàng Cầm còn vận vào thành một vị thơ. Vị của những vần thơ sang nhất, đẹp nhất, nhưng cũng xót xa nhất của dòng thơ Việt Nam ở thế kỷ 20. Cơn mây mưa giữa nàng Thơ và Anh đã sinh hạ ra Lỡ Làng, dấu vết cặp oan nghiệp -hạnh phúc như vết chân con rắn và trái táo cắn dở của Eva.

Nhưng hề chi, có hề chi.


*

Chép lại, như để khép một vết thương, dăm câu viếng anh:

Ánh sao vun vút
băng qua Thiên hà
mông mênh
mưa Thuận Thành nhe nhẹ
ướt tà váy Đình Bảng gió lộng
bồng bềnh

Bây giờ
những giấc mơ vuột khỏi tầm tay
chiều hoang quả rụng, chẳng ai hay
Bây giờ
tiếng tu hú gọi bình minh khản cổ
tiếng con chào mào hót muộn ngày mai

Nhưng thôi…
Bây giờ
xin Anh cứ yên ả nằm nghiêng
trên giải sông Ngân
một dòng phẳng lặng
chảy xuôi đến an nhiên,
nơi chắc không cần nước mắt.


Nam Dao

Nguồn: Bài in trong tuyển tập Thơ Hoàng Cầm do
Công ty Nhã Nam phát hành tháng 4/2011





i* Trích một phần từ ‘’ Một vị thuốc đắng, một vị thơ ‘’ đã in trong ‘’ Những con người, những bóng ma’’, NXB Văn Mới, California, 2006, và một phần từ tiểu thuyết Trăng Nguyên Sơ, NXB Lao Động và Trung Tâm Văn Hóa Ngôn Ngữ Đông Tây, Hà Nội, 2008.

Thanh Thảo : HOÀNG CẦM RA ĐI, MỘT-THẾ-GIỚI-THƠ CÒN LẠI

HOÀNG CẦM (1922-2010)


Thanh Thảo

Tác giả Kiều Loan, Lá diêu bông, Bên kia sông Đuống... đã từ trần vào lúc 9g12 sáng thứ năm 6.5.2010 tại Hà Nội





HOÀNG CẦM RA ĐI,
MỘT-THẾ-GIỚI-THƠ CÒN LẠI





thanh thảo




Vào giờ Thìn, ngày Thìn, tháng Thìn (6/5/2010) Hoàng Cầm thi sĩ - người tuổi Nhâm Tuất (1922) đã trút hơi thở cuối cùng, thọ 89 tuổi. Ông ra đi, để lại phía sau mình một thế giới thơ riêng biệt : thế giới thơ Hoàng Cầm. Vâng, một nhà thơ lớn có thể làm nên một thế giới thơ cho riêng mình, một thế giới của những điều bé nhỏ, yêu thương, xa xót, hy vọng và thất vọng.



Hoàng Cầm là điển hình của một nhà thơ thu hút được tinh hoa của một vùng đất đai văn hoá, của lịch sử và bên lề lịch sử. Thuận Thành, Kinh Bắc, Bắc Ninh, quan họ, yếm thắm, lụa đào, “ váy Đình Bảng buông chùng cửa võng ”, đồng chiều, cuống rạ, lá diêu bông, con chào mào, cây ổi, “ con chim cu về gù rặng tre ”… và những gì nữa với sông Đuống “ nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kỳ ”, với những được mất của kiếp người trước đôi mắt mở to ngơ ngác của “ Ta con bê lạc dáng chiều xanh / đi mãi tìm sim chẳng chín ”. Ngay trong những bài thơ hừng hực khí thế chiến đấu như Bên kia sông Đuống người ta vẫn tìm thấy những “ Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong ”, vẫn nghe rạo rực với “ Đám cưới chuột đang tưng bừng rộn rã ”, vẫn mê mải với “ Những nàng môi cắn chỉ quết trầu ”… Cả một vùng làng quê Kinh Bắc hiện lên thắm thiết trong thơ Hoàng Cầm. Không có người yêu nước nào không bắt đầu bằng tình yêu quê hương mình. Hoàng Cầm đã yêu tới những con chuồn chuồn châu chấu nhỏ bé ở ven đê làng mình mà yêu nghiêng con sông Đuống, mà yêu lên đất nước từ những năm khói lửa chiến tranh tới những năm tháng day dứt khổ nghèo chia ly bất hạnh. Thơ Hoàng Cầm là một giọng thơ rất khẽ nhẹ, phải tinh ý lắm mới nghe ra những gì nhà thơ phải nén chặt lại cho mình :

“ Cúi lạy mẹ con trở về Kinh Bắc
Chiều xưa giẻ quạt voi lồng
Thân cau cụt vẫy đuôi mèo trắng mốc
Chuồn chuồn khiêng nắng sang sông ”

(Đêm thổ)

và :

“ Ta ru em
lớn lên em đừng tìm mẹ phía cơn mưa ”

(Về với ta)

Tôi nhớ, hồi nhỏ, khi mới tập kết ra Bắc, có một buổi chiều tôi thằng bé 8 tuổi đã chạy về phía cơn mưa để tìm mẹ mình. Một cảm giác bơ vơ trong câu thơ không dễ gì hiểu ngay được, nhưng khi đọc lên nó dựng trước mình một thế giới hiện hữu và một thế giới khuất lấp. Đó có thể coi là một thế giới ẩn bên trong một thế giới của thơ Hoàng Cầm. Những câu thơ vừa muốn thổ lộ vừa muốn che giấu, và có lẽ càng thổ lộ thì lại càng hun hút những nỗi niềm mà ta chỉ cảm được một cách không rõ ràng.


Có một điều khiến tôi lạ lùng, là thơ Hoàng Cầm và thơ Quang Dũng luôn nhắc nhở về một quê hương trong mù sương nào đó, luôn u ẩn một nỗi hoài nhớ nào đó không thể gọi tên. Phải chăng, tự xa xưa, xứ Đoài của Quang Dũng và Kinh Bắc của Hoàng Cầm từng là nơi những người lính và những nghệ sĩ Chàm lưu lạc đã chọn làm quê hương thứ hai ? Trong thơ Quang Dũng rắn rỏi một nỗi niềm chiến sĩ, còn trong thơ Hoàng Cầm tha thướt những nét hoa văn những dải lụa đào nghệ sĩ. Họ như từ quá khứ đến với ta, họ vừa thân thuộc vừa xa lạ, vừa đắm đuối yêu thương vừa không tương hợp với thế giới này. Tất cả những mâu thuẫn ấy đã hiện rõ trong thơ Hoàng Cầm. Và chính nó đã làm nên sự khác biệt của thơ ông :

“ Ta con chim cu về gù rặng tre
đưa nắng ấu thơ về sân đất trắng
đưa mây lành những phương trời lạ
về tụ nóc cây rơm ”

(Về với ta)

Những câu thơ hơn cả cô đơn, nó là nỗi bơ vơ của một kiếp người :



“ Ngày Chị bảo Em quên
Tranh tố nữ long hồ gián nhất
mất chân đi
má đội tổ tò vò

Cuốn chiếu xa rồi
thơ thẩn vách chiêm bao ”

(Nước sông Thương)

Có người nói thơ Hoàng Cầm như những lẩm nhẩm bùa chú, lại như một nghi lễ thờ cúng, nó kính cẩn mà hoang sơ. Với một thế giới thơ như thế, người ta chỉ nên chấp nhận chứ không cần giải mã. Và theo tôi, cách đọc thơ Hoàng Cầm là bất chợt đọc một đoạn thơ nào đó trong một bài thơ nào đó của ông. Rồi ngớt. Rồi lại đọc ở một lúc khác. Đó là cách đọc những cơn mưa rào, là sự đồng cảm tự nhiên và thốt nhiên với chính thế giới mà mình đang sống cùng với thế giới mà mình chưa biết nhưng có thể sống. Thơ Hoàng Cầm kết nối được những thế giới khác nhau như thế để cho ta cảm giác vừa mơ hồ vừa rõ rệt về một giấc mơ.

“ Bắn nát chiều mai ráng đỏ
Châu chấu ma vờn cổ yếm xây

Không gặp người quen
Hờ
Ngõ cũ ”

(Đêm thổ)

Những ai đã một lần lỡ hẹn, những ai đã cầm được giấc mơ trong tay rồi bỗng giấc mơ tan biến sẽ dễ dàng đọc những câu thơ này. Những câu thơ thuần Việt, Việt từ trong máu huyết của từ ngữ, của âm điệu, của bóng hình.

Xin vĩnh biệt Hoàng Cầm thi sĩ. Ông ra đi, nhưng Thơ ông còn ở lại. Còn nguyên một thế giới thơ Hoàng Cầm. Một thế giới trong một thế giới.

Chiều 6/5/2010

Thanh Thảo






Tiểu sử - Tác phẩm



Nhà thơ Hoàng Cầm đã từ trần lúc 9g12 ngày 6.5.2010 tại bệnh viện Hữu Nghị, Hà Nội, thọ 89 tuổi. Tên thật là Bùi Tằng Việt, sinh ngày 22 tháng 2 năm 1922 tại xã Phúc Tằng, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang.




Ông quê ở xã Song Hồ, huyện Thuận Thành, Bắc Ninh, xuất thân trong một gia đình nhà nho. Thân sinh dạy chữ nho, làm nghề thuốc bắc tại Bắc Giang, đặt tên cho con bằng cách ghép hai địa danh quê hương (Phúc Tằng và Việt Yên). Bùi Tằng Việt học tiểu học rồi lên trung học ở Bắc Giang, Bắc Ninh. Năm 1938, ra Hà Nội học trường Thăng Long. Năm 1940, đỗ tú tài toàn phần và bước vào nghề văn, dịch sách cho Tân Dân Xã của Vũ Đình Long. Lấy bút danh là Hoàng Cầm (tên một rễ cây, vàng đắng, dùng làm thuốc bắc). Làm thơ từ thuở lên tám, sáng tác kịch Hận Nam Quan năm 15 tuổi, kịch thơ Kiều Loan năm 20 tuổi.

Từ năm 1944, Hoàng Cầm tham gia Thanh niên Cứu Quốc (Việt Minh). Cách mạng tháng Tám bùng nổ, cùng Hoàng Tích Chù thành lập đoàn kịch Đông Phương. Ba tuần lễ trước ngày Toàn quốc kháng chiến, vở kịch thơ Kiều Loan trình diễn lần đầu tại Nhà hát lớn Hà Nội.


Năm 1947, Hoàng Cầm gia nhập Vệ Quốc Đoàn. Từ 1948 đến 1952, thành lập Đội văn nghệ tuyên truyền đầu tiên của Quân đội Nhân dân. Năm 1952, tướng Nguyễn Chí Thanh (phụ trách Tổng cục chính trị QĐNDVN) giao Hoàng Cầm nhiệm vụ phụ trách Đoàn văn công Tổng cục chính trị. Hoàng Cầm lãnh đạo đoàn này cho đến năm 1955. Những năm này là thời kỳ Quân đội Nhân dân chịu ảnh hưởng nặng nề của chủ nghĩa Mao (với các cuộc chỉnh huấn, thanh lọc...). Bản thân tướng Thanh là một khối mâu thuẫn lớn : đầu óc mao-ít nặng nề (theo thông tin chúng tôi đã kiểm chứng, 11 năm sau thất bại của cuộc cải cách ruộng đất ở miền Bắc, năm 1967 (trước khi đột tử), ông còn định cải cách ruộng đất ở miền Nam), nhưng lại là người gần gũi nông dân, thấm nhuần văn hóa nông dân ; nên năm 1954, trong cuộc Liên hoan mừng chiến thắng Điện Biên Phủ, Hoàng Cầm đưa tiết mục quan họ "Yêu nhau cởi áo cho nhau" vào chương trình, bị "đả đảo" là "đồi truỵ", thì Nguyễn Chí Thanh là người cương quyết bênh vực và bảo vệ nhà thơ.

Năm 1955, cùng Trần Dần, Lê Đạt, Tử Phác, Hoàng Cầm đòi cải tổ chính sách văn nghệ trong quân đội, rồi xin phục viên, chuyển sang Hội Văn Nghệ. Tết 1956, cũng Lê Đạt xuất bản Giai phẩm mùa Xuân. Tháng 10-1956, tham gia xuất bản tạp chí Nhân Văn, viết bài nổi tiếng trên số 1 : Con người Trần Dần. Tháng 4.1957, Hội nhà văn Việt Nam thành lập, ông được bầu vào ban chấp hành. Nhưng năm sau, phong trào Nhân văn Giai phẩm bị đàn áp thẳng tay. Hoàng Cầm và các văn nghệ sĩ như Trần Dần, Lê Đạt, Tử Phác, Đặng Đình Hưng, Phùng Quán... tuy không bị kết án tù (như Nguyễn Hữu Đang), đã bị "rút thẻ hội viên 3 năm" (trên thực tế, bị khai trừ cho đến sau đổi mới, năm 1988) và nghiêm trọng hơn, không được xuất bản (khi họ dịch thuê hay viết chui, phải dùng bút danh mới, hay mượn bút danh của bạn bè).

Điều mỉa mai là trong "vụ" Nhân văn Giai phẩm, Hoàng Cầm không bị tù đày, nhưng đến năm 1982 (dưới thời Lê Đức Thọ) ông bị giam 18 tháng vì bị nghi là tìm cách gửi tập thơ Về Kinh Bắc ra nước ngoài (nhà thơ Hoàng Hưng bị giam ba năm cũng vì tàng trữ tập thơ này và bị nghi là tổ chức gửi tập thơ cho một Việt kiều). Mỉa mai hơn nữa : năm 2007, Về Kinh Bắc sẽ được Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật. Song, cho đến ngày Hoàng Cầm trút hơt thở cuối cùng, Đảng cộng sản Việt Nam và Nhà nước CHXHCNVN chưa hề có một lời xin lỗi nhà thơ và các bạn của ông.



Tác phẩm chính :

• Hận Nam Quan (kịch thơ, xuất bản năm 1942);
• Kiều Loan (kịch thơ, 1945)
• Ông cụ Liên (kịch nói, 1952);
• Đêm Lào Cai (kịch nói 3 hồi, 1957);
• Tiếng hát quan họ (trường ca, in chung trong tập Cửa Biển, 1956)
• Mưa Thuận Thành (tập thơ, 1987)
• Men đá vàng (truyện thơ, 1989)
• Bên kia sông Đuống (tập thơ chọn lọc, 1993)
• Lá diêu bông (tập thơ chọn lọc, 1993)
• Về Kinh Bắc (tập thơ, 1994)
• 99 tình khúc (tập thơ tình, 1955)

Nguyễn Trọng Tạo - Ấn Tượng Hoàng Cầm

Ấn Tượng Hoàng Cầm


Nguyễn Trọng Tạo

Quả là thơ Hoàng Cầm có một ma lực kỳ lạ ở sự cách tân, ở hồn cốt văn hóa làng quê Việt. Có lẽ vì thế mà Trần Dần gọi Hoàng Cầm là “nhà tân cổ điển”.



Không hiểu sao trong tâm thức thơ ca của tôi luôn ám ảnh bởi Hàn Mặc Tử và Hoàng Cầm, dù thơ của hai thi sỹ này rất khác nhau về hồn thơ và giọng điệu. Hàn Mặc Tử thăng hoa cõi trần vào cõi mơ: Thơ có tích và chiêm bao có tuổi, Hoàng Cầm lại phất cánh diều thơ từ trầm tích của văn hóa Kinh Bắc Giải yếm lòng trai mải phất cờ; Hàn Mặc Tử mất năm 28 tuổi (1940) cũng là lúc Hoàng Cầm 18 tuổi xuất hiện trong làng thơ và tới những năm tuổi bảy mươi vẫn còn sung bút. Tôi nhớ hồi nhỏ đã từng chép tay hàng chục bài thơ của Hàn Mặc Tử, và sau chiến tranh trở về Hà Nội (1976), tôi lại mải miết chép vào sổ tay tập thơ VỀ KINH BẮC từ bản thảo của Hoàng Cầm, bởi thơ ông rất lôi hút những nhà thơ trẻ chúng tôi lúc bấy giờ. Quả là thơ Hoàng Cầm có một ma lực kỳ lạ ở sự cách tân, ở hồn cốt văn hóa làng quê Việt. Có lẽ vì thế mà Trần Dần gọi Hoàng Cầm là “nhà tân cổ điển”.

Thực ra, thế hệ chúng tôi lớn lên sau vụ Nhân văn - Giai phẩm ít được đọc Hoàng Cầm dù trước cách mạng 1945 ông đã đóng góp không nhỏ cho kịch thơ với hai vở Hận Nam Quan và Kiều Loan cùng với những bài thơ kháng chiến, tiêu biểu là Bên kia sông Đuống nổi tiếng và trường ca Tiếng hát Quan họ. Thơ của ông đẹp một vẻ đẹp thướt tha mà lại dạt dào, hào sảng:

Sông Đuống trôi đi
Một dòng lấp lánh
Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kỳ

Những hình ảnh thân thương gần gũi của quê làng vào thơ ông bỗng trở nên sang trọng lạ lùng.

Những cô hàng xén răng đen
Cười như mùa thu toả nắng

Nói như nhà thơ Nguyễn Thụy Kha thì thơ Hoàng Cầm “trầm đầy một nỗi phương Đông”. Đúng như vậy, cái “nỗi phương Đông” luôn “trầm đầy” chính là nhờ ông đã nhập hoà hồn thơ mình vào chiều sâu văn hóa Việt để rồi hiện ra trên trang giấy với dáng vẻ năng động của thơ mới trong sự luân chuyển về hiện đại.

30 năm vắng bóng trên thi đàn (1958-1988) lại chính là thời gian mà Hoàng Cầm đã tạo nên sự đột khởi trong nghiệp thơ của ông bằng tập VỀ KINH BẮC và nhiều tập thơ lẻ như MEN ĐÁ VÀNG, MƯA THUẬN THÀNH, 99 BÀI TÌNH, v..v... Nhiều bài thơ trong những tập thơ này, mà đặc biệt là tập VỀ KINH BẮC đã trở thành “ngôn truyền” trong công chúng với những Lá Diêu Bông, Quả Vườn Ổi, Cây Tam Cúc, Cỏ Bồng Thi... Theo Hoàng Cầm thì VỀ KINH BẮC chính là tập thơ cột sống của đời ông. Đây là một tập thơ mà tinh túy của văn hoá Quan họ - Kinh Bắc đã được chưng cất, kết đọng lại. Ông chia tập thơ thành các “nhịp” với những đêm Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ như nén lại để rồi làm thăng hoa thơ Việt trong một không gian, thời gian thực ảo biến hoá khôn lường. Đọc thơ ông, ta gặp một con người Việt nguyên khôi qua hơi thở của lục bát, ngũ ngôn và nhịp tự do tài tình lướt qua khuôn phép. Chính vì thế mà thơ ông không cũ đi trong cổ điển, và cũng không quá xa lạ trong hiện đại. Nhiều câu thơ của ông đầy tài hoa, quyến rũ, khiến người đã "phải lòng" rồi thì không thể nào dứt ra được nữa:

- Vắt áo nghe thầm tiêng vải kêu
- Một con mèo mướp ruỗi chân chiều
- Ta con bê vàng lạc dáng chiều xanh
đi mãi tìm sim chẳng chín
- Ta con chào mào khát nước
về vườn xưa hạt nhãn đã đâm mầm
- Ta con chim cu về gù rặng tre
mang nắng ấu thơ về sân đất trắng
- Chị gánh gạo về nhà phú hộ
nứt vai thành sẹo lá lan đao
..........

Mảng thơ tình của Hoàng Cầm lại là một đóng góp đáng kể về cảm giác tình yêu trong thơ ta. Đấy là một cảm giác si mê hưng phấn trong ái tình, mà có người nhầm tưởng là kích động nhục cảm. Ví dụ những câu thơ rất gợi này:

Chân em dài đi không biết mỏi
Má hồng em lại nổi
đồng mùa nước lụt mênh mông
Lưng thon thon cắm sào em đợi
Đào giếng sâu rồi
đừng lấp vội đầu xanh

Những chân dài, má hồng, lưng thon khiến ta nhớ tới "trường túc", "hồng nhan", "chiết yêu" trong quan niệm tính dục của người Tàu, nhưng khi những chi tiết ấy vào thơ Hoàng Cầm nó đã được Việt hóa một cách thần tình, khiến cho câu thơ trở nên lung linh tơ lụa bọc che những ẩn dụ xa xăm.

Thực ra, nhục cảm trong thơ tình Hoàng Cầm luôn đa nghĩa, mà cuối cùng hướng về cái đẹp e ấp luôn có nguy cơ biến mất. Trong đời thực, Hoàng Cầm là một người đa cảm và cũng đa tình lắm. Da trắng, môi son vẫn còn phảng phất trên gương mặt chữ điền dưới mái đầu bạc trắng như cước. Cho dù khi đã gần tuổi 80, ông vẫn thường khát khao một mối tình chân thành, đắm đuối. Có lẽ nhờ thế mà trái tim trong thơ ông vẫn rộn ràng những điệu nhạc xa xăm:

Ai bảy mươi tươi ròn
Nằm mơ đưa võng mẹ
Ru say dòng mẫu hệ
Vòng tay quê bế bồng

hoặc:

Em ơi! Em ơi!
Tóc xanh bạc óng
Như hai con sóng
Dễ gì chẻ đôi...

Ngoài tình yêu và thơ ca, Hoàng Cầm cũng là người còn nhiều đam mê khác. Mươi năm lại đây, nhiều bài phê bình, tiểu luận và hồi ký của ông thường làm giật mình người đọc về một trí tuệ và khả năng sung mãn trong sáng tạo. Có thể nói ông là một người thẩm thấu văn chương rất tài tình, tinh tế và nhạy cảm. Không chỉ chia sẻ với các nhà văn nhà thơ cùng thời, mà ông rất gần gũi với cả những thế hệ sau. Ông viết phê bình, giới thiệu thơ của nhiều nhà thơ chống Mỹ với lòng ưu ái và nể trọng. Những bài viết gom nhặt cái hay cái đẹp như vậy bao giờ cũng chân tình và hứng thú. Khi không còn sức để đọc nhiều nữa, ông vẫn dành thời gian đọc những người trẻ, chỉ bảo và cổ súy họ. Có lẽ nhờ thế mà sáng tác của Hoàng Cầm không bị già cỗi, không bị tụt hậu như một số người cao tuổỉ khác. Gần đây ông cho in tập VĂN XUÔI HOÀNG CẦM khoảng 500 trang đã cung cấp cho bạn đọc nhiều điều lý thú bất ngờ. Văn xuôi của ông bộc lộ một bề dày văn hóa cùng những trải nghiệm về đời, về nghề vô cùng sâu sắc và bay bổng. Có cảm giác dòng sông tâm hồn ông lúc nào cũng đầy ắp những con sóng dạt dào trẻ trung và ngọt mát.

Từ đầu những năm 90 của thế kỷ trước, Hoàng Cầm vẫn khao khát được chung tay với Hội Nhà văn ra một tờ báo THƠ để thúc đẩy thơ ca ngày càng đạt tới những thành công mới và đáp ứng nhu cầu của công chúng yêu thơ. Đọc những lời tâm sự của ông trên báo, càng thấy khát vọng ấy của ông nhức nhối đến chừng nào: “Thơ là một mặt vô cùng trọng yếu của đời sống tinh thần dân tộc ta, thì lại không có một tờ báo dẫu chỉ là hai trang thôi! Lấy đâu ra sức mạnh đẩy thơ lên tới mức hiện đại hóa văn chương và nghệ thuật cho kịp với các trào lưu thế giới?”...

Những khao khát của Hoàng Cầm là khao khát nghiêm cẩn. Cũng chính những khát vọng ấy đã giúp ông vượt qua bao trắc trở thị phi bi kịch không đáng có trên con đường văn học. Và giờ đây, khát vọng vẫn nâng đỡ cho ông chống chọi với bệnh tật hiểm nghèo, với gánh nặng tuổi tác, giành lại những phút giây sáng tạo cuối cùng. Hôm qua, tới thăm ông tại nhà riêng, tôi thấy ông nằm trong căn phòng kính tận tầng 4 căn nhà 43 Lý Quốc Sư. Hai năm nay ông đã nằm như vậy sau một cú ngã cầu thang gãy xương đùi. Ông “nằm nghiêng nghiêng” trường kỳ như vậy không biết sẽ đến bao giờ. Năm nay ông đã 86 tuổi. Tôi nói rằng, ông xứng đáng giải thưởng Hồ Chí Minh. Ông cười nói: Giải thưởng Nhà Nước cũng là vinh dự lắm rồi. Được Nhà Nước tặng giải thưởng này, cũng có nghĩa là mình đã được “phục hồi” thật sự, phục hồi công khai. Mà lại có tiền để chữa bệnh, để sống thêm những ngày cuối cùng. Ông khoe với tôi mấy bài thơ mới mà ông vẫn còn tiếp tục sửa chữa. Nhìn ông tóc bạc, da trắng, môi son và cặp mắt ánh lên những tia sáng đắm đuối, tôi như thấy cả thời tuổi trẻ của ông vẫn còn song hành cùng ông trên con đường văn chương đầy mê đắm.

Hà Nội, 8.2004 – 2.2007

NGUYỄN TRỌNG TẠO

Hoàng Cầm - Tôi đã viết Về Kinh Bắc trong tâm trạng nào?

(Cập nhật : 26/04/2011 )

Tôi đã viết Về Kinh Bắc
trong tâm trạng nào?


Hoàng Cầm







Đó là vào năm 1959. Vụ Nhân văn - Giai phẩm đã qua đi như một trận gió mạnh. Sau, dĩ nhiên có một vài cây đổ, lá rụng đầy đường, có những túp nhà tốc mái, có những bức tường siêu vẹo. Xong, trời lại xanh và đường phố lại rộn rịp nếp sống thường ngày. Tôi, lẽ đương nhiên phải chịu kỷ luật, một thời gian ba năm sẽ không được phép xuất bản, ấn hành bất cứ một sản phẩm nào của ngòi bút. Và cũng chỉ có thế, còn đời sống vật chất không có gì thay đổi lắm. Vẫn có lương hàng tháng, còn tuỳ ý mình, thích thì tìm một nơi nào đấy, lao động chân tay có thêm tiền bồi dưỡng, cũng vui, và chính cái việc tôi sinh hoạt, sống ba cùng với nông dân, công nhân đã giúp tôi hiểu thêm về những số phận người.

Phải nói thật một điều, thường người ta khó tin, là hồi đó tôi không mang trong lòng – dầu chỉ một ly – nỗi oán hận, nỗi buồn phiền, hoặc trách móc hờn giận gì ai. Đôi lúc, chỉ nghĩ về chính số phận mình, có chút cay đắng, có sầu tư. Nhưng vì đã mang lấy nghiệp vào thân như Nguyễn Du nói cái nghiệp thơ đầy đau khổ, oan trái, nhưng cũng nhiều hào quang toả ra từ tâm linh đã đem đến cho mình không ít giờ phút say sưa, ngay trong cuộc sống bình nhật cũng không ít hạnh ngộ đẹp, tôi được gặp nhiều người nam, người nữ rất trong sáng, yêu thương mình hết lòng. Dân tộc là thế đấy, thưa các bạn.

Vậy thì vào mùa thu rồi sang mùa rét 1959 ấy, ít khi tôi ra khỏi nhà. Ngày hai bữa cơm nghèo, mấy tấm áo quần đã sờn rách, một lũ con nhỏ dại lau nhau đi học, chơi đùa, đau ốm, tất cả tôi trao cái gánh nặng cuộc đời ấy cho người vợ rất giỏi chịu đựng kham khổ, người vợ thật hiền, thảo, thật thương yêu chồng con (mà rồi đây, trong tập hồi ký một đời, tôi sẽ viết một chương riêng để đền đáp cái nghĩa lớn lao ấy cho người vợ đã giúp tôi đẩy chiếc xe thơ Về Kinh Bắc đi trọn đoạn đường thiên mệnh của nó).

Vâng, đúng là năm Kỷ Hợi 1959, từ khi chiếc lá bàng trước cửa nhà rụng xuống báo tin thu (lá bàng chứ không phải lá ngô đồng), hồn tôi cứ chìm dần, chìm sâu, chìm và lắng thật sâu vào vùng quê tôi ngày xưa, thời tôi còn nhỏ dại, với biết bao bóng dáng, đường nét, màu sắc, hương vị đã quá xa, đã không còn nữa. Ngày tháng qua, bao người đã qua, đã xa, đã “ đi đâu, về đâu ? ”, tôi không thể biết, nhưng cả một thời từ khi vào tuổi nhận biết được cõi đời này (lên năm) đến khi rời quê ra Hà Nội học tiếp rồi vào hẳn thế giới văn thơ (1938) nghĩa là cái khoảng thời gian 12 năm thơ trẻ ấy của tôi thì sống lại, và ngày đêm thầm thì nói chuyện với tôi về quê hương, về tình yêu, với những nỗi buồn, niềm cô đơn, nỗi xa cách, nỗi ly biệt cứ tầng tầng, lớp lớp úp xuống hồn tôi như một đại dương trập trùng sóng gió, miên man xanh một màu huyền-diệu-dĩ-vãng rồi xẻ ngang, vạch chéo, vút cao, xoáy sâu không biết bao nhiêu những nét rung động, có khi võ vàng, gày mảnh, có khi tươi tắn, ngỡ ngàng, lúc như ai oán, lúc như mơ mộng, nhưng vui ít, buồn nhiều, cái đau của những thuyền tình không đến bến, những nguyện ước không thành, những mộng đẹp tan vỡ, những men say nửa chừng, những con mắt mỹ nhân đã khép, những tiếng hát người yêu đã tắt những làn da mịn màng người gái quê Kinh Bắc đã nhăn nheo, những sợi tóc xưa óng ả nay đã úa bạc. Tất cả... tất cả... tôi bơi, chìm trong tất cả da thịt quê hương, hồn phách quê hương. Quê hương Kinh Bắc !

Và lời mở đầu cho tập thơ là một lời cầu khẩn từ đáy tâm linh thơ dại : Cúi lạy mẹ, con trở về Kinh Bắc.

Nói đến quê hương, phải bắt đầu bằng Người Mẹ. Mẹ là incarnation, là hiện thân trọn vẹn nhất, sinh động nhất của quê hương. Huống chi mẹ tôi xưa vốn là một cô gái quê Kinh Bắc có nhan sắc, óng ả, kiều diễm, có đôi mắt “ lúng liếng ” thật tình tứ, đôi mắt rất quan họ, có dáng đi thanh tao, đài các, uyển chuyển và khi mẹ tôi mặc chiếc váy lụa kiểu Đình Bảng. mép váy buông chùng cửa võng xuống đến mu bàn chân, ai trông thẩy phía trước mặt đều tưởng như người con gái này đang đi trên sóng rập rờn, nhất là khi người nữ biết cách mặc cho đúng mốt Đình Bảng, nghĩa là biết chếp nếp thế nào đó để ở phía dưới càng có nhiều pli càng đẹp. Cô nào giỏi chếp nếp thì từ mép váy lên, có đến 4 plis. Nói rằng cô gái đang đi trên sóng, là một cách nói chuẩn xác.

Hơn nữa, mẹ tôi lúc chưa đi lấy chồng, nghĩa là chưa làm vợ người đàn ông sau này là cha tôi, đã nổi tiếng khắp vùng Tiên Du, Thuận Thành (hai huyện ở tả ngạn và hữu ngạn Sông Đưống, thuộc tỉnh Bắc Ninh, bây giờ là Hà Bắc) nổi tiếng là cô thiếu nữ hát quan họ rất hay, năm nào cũng được các lão làng Bựu Xim (tên làng quê gốc của mẹ tôi) khen, thưởng cho cả phường hát ấy một tấm lụa điều và một bánh pháo đại quang toàn hồng. Lấy chồng rồi, mẹ tôi vẫn theo các chị em đi hát. Tháng tám âm lịch thì tập luyện, sáng tạo ra những làn điệu mới, lời hát mới để đến ngày 13 tháng giêng sang năm, thì dự giải hát thi ở cửa đình làng Bựu [ Làng này, thế kỷ 18, là nơi sinh ra người con gái tài sắc tuyệt vời Trần Thị Tần (1740-1778) để đến tuổi 18 thì đi làm vợ thứ ba, người vợ yêu bậc nhất của quan Đại tư đồ Bình nam Tả tướng quân (ngang với tể tướng) tên là Nguyễn Nghiễm, Xuân Quận công, và để sau sinh ra một đại thi hào cho đất nước : Nguyễn Du ]. Mẹ tôi ( 1891-1961) là con gái làng Bựu, đương nhiên được hưởng, được kế thừa tinh hoa của nghệ thuật hát quan họ. Đó là nghệ thuật hát thơ. Các bạn xem kỹ những lời của quan họ xưa, sẽ thấy đó là những bài thơ, những câu thơ (cốt lõi là thể thơ lục bát) trữ tình, mang đầy sức quyến luyến, yêu thương, nhớ nhung, đằm thắm và da diết đến mức có thể làm say cả gỗ đá.

Lại cũng vì mẹ tôi cứ say mê với nghệ thuật hát mà thuở tôi chưa ra đời, giữa đôi vợ chồng trẻ (là bố mẹ tôi sau này) đã nảy sinh ra một bi kịch kéo dài đằng đẵng 12 năm. Năm 17 tuổi mẹ tôi về Thuận Thành, làng Hồ, làm vợ bố tôi, mà tại 1 sao tôi là con đầu lòng, mãi đến năm mẹ đã 31 tuổi, mới được xổ ra cõi đời này ? Thuở bé, tôi thường nghe các chú, các bác bên ngoại, bên nội kể chuyện một cách khái quát (không có 1 chi tiết) rằng “ bố mẹ thày chê nhau lâu lắm, đến hơn mười 1 năm đấy ”.

Tôi nghe thế thôi, biết hỏi ai ? Ai kể chi tiết gì đâu về cái chuyện đôi vợ chồng ấy chê nhau đến hơn mười năm ? Bố tôi nguyên là một nhà nho (1886-1959), ba lần thi trường Nam Định không đậu nổi ở cái cấp hạng bét là tam trường, sau rồi bất đắc chí, bỏ làng đi dạy học lang thang, rồi làm thầy lang cũng lại lang thang chữa bệnh khắp các huyện trong hai tỉnh Bắc Ninh, Bắc Giang, rồi đâu như cũng là người yêu nước có khí tiết, đã tham gia các phong trào Đông kinh nghĩa thục, Đông du, rồi Việt Nam Quốc dân đảng của Nguyễn Thái Học. Tôi còn nhớ hồi mới lên 6 tuổi, tôi thường phải đun nước điếu đóm hầu trà để bố tôi tiếp bạn thân là ông Xứ Nhu (Nguyễn Khắc Nhu). Năm tôi lên bảy (1929), bố tôi đã bị viên tri huyện Việt Yên đem lính đến khám nhà rồi tống giam bố tôi ở thị xã Phủ Lạng Thương đến gần một năm mới được tha về (có lẽ là ông bị tình nghi, đế quốc Pháp đã dẹp tan Việt Nam Quốc dân đảng, bố tôi không có chứng cớ gì cụ thể để chúng buộc tội). Từ đó thì bố mẹ tôi sống yên phận, bố bốc thuốc nam thuốc bắc chữa bệnh, mẹ trĩu nặng hai hồ hàng xén đi các chợ làng chợ huyện, một cô hàng xén răng đen, cười như mùa thu toả nắng, chăm chút nuôi con ăn học bằng cách thắt lưng buộc bụng. Nhờ vậy tôi mới có điều kiện học được đến hết bậc trung học ở Hà Nội.

Vậy là trong người tôi hoà trộn hai dòng máu. Dòng máu của nghệ thuật quan họ, dân ca với dòng máu yêu nước, hào hùng và khí tiết, và cả hai dòng đều rất mực sắt son, thuỷ chung như nhất.



Thế nhưng, không hiểu sao, tôi sớm có cái buồn cô đơn ngay từ những năm lên sáu, lên bảy tuổi. Bẩm sinh chăng ? Hay chính là nỗi buồn của người con gái tài sắc lấy chồng từ năm mười bảy tuổi mà phải sống cô đơn đến hơn mười năm ? Tôi lớn lên, chính mình được nghe mẹ kể : lúc mẹ trở dạ sinh ra tôi, thì gian nhà tre, mái rơm vách đất tiều tuỵ ấy rất trống vắng. Bố mẹ đẻ thì ở xa. Mẹ chồng goá bụa, già nua cũng ở xa. Chồng, tuy mới làm lành với vợ được hơn một năm, rồi người vợ ba mươi tuổi kia lúc có thai cũng vẫn sống nhiều tháng ngày cô đơn, lạnh lẽo vì chồng cứ đi... đi đâu ? dạy học, hay làm thày thuốc rong, hay hội kín hội hở gì mà đi luôn thế, đến lúc vợ đẻ cũng không có mặt ở nhà ? Đến lúc đau quá, người thiếu phụ ấy kêu thét lên thì bên láng giềng mới có một bà chạy sang đỡ thằng bé ra đời, cắt rốn của nó bằng con dao bổ cau rồi tắm rửa, tã lót cho nó, cũng may mà nó lại sống, chỉ phải cái tội là sau thấy tiếng oa oa đầu tiên thì nó im bặt, không khóc nữa. Chào đời mà không khóc cho thật to, thật dài hơi vào à ? thằng cu này gan nhỉ, hay là ai bắt mất vía để nó nghẹn không khóc lên được nhiều ? Bà hàng xóm vừa bế tôi, vừa thắp hương lên cái bàn thờ phía đầu giường, khấn vái bốn phương. Lúc đó đã gần nửa đêm 12 tháng giêng Nhâm Tuất (1922), chỉ còn một lát nữa là sang ngày hội Lim, hội quan họ, ngày mà nhiều năm về trước mẹ tôi súng sính áo the đen tứ thân, khăn vuông mỏ quạ, vành khăn nhiễu tam giang, váy lụa Đình Bảng, đi dép da trâu mũi cong, thắt lưng hoa đào hoa lý, cùng với bốn năm chị em phường hát, đi ra đình từ sớm để rồi hát chúc, hát thi... Còn ngay lúc sắp nửa đêm ấy, vào cái giờ tôi bật từ bụng mẹ ra cõi nhân gian rất đẹp mà cũng rất rắc rối lắm chuyện này, thì ở đình làng, cách nửa chừng non cây số, như văng vẳng vẫn còn tiếng trống chầu của đêm hát chèo. Mẹ tôi kề vậy nên tôi nhớ cả cái vùng Kinh Bắc cách đây sáu bảy mươi năm, các thôn làng thường mở hội suốt tháng giêng, tháng hai. Hội to thì kéo dài năm ngày, hội nhỏ nhất cũng phải một ngày một đêm mới rã đám. Những lời mẹ kể tôi nghe từ năm lên sáu về cảnh nhà cảnh xóm, cảnh thôn xã, cảnh phố huyện phố phủ, cảnh chợ núi chợ sông, rồi đến chuyện người, ông bà, họ hàng nội ngoại, người xóm thượng, xóm hạ, người quê gốc, người ngụ cư, người cấy cày, người chợ búa, người làm quan, người đi lính, người “ làm thày, làm thợ với làm thuê ”, người dân giàu nghèo, sang hèn, quen thân hay sơ, nhiều lắm, mẹ tôi kể nhiều lắm mà hồn tôi từ thuở bốn năm tuổi cho đến khi biết đến cái cầu Long Biên, và phường phố đô thành, hồn tôi đúng là một trang giấy mỏng mảnh, trắng nõn, tinh khiết mẹ kể chuyện nào là cũng in đậm ngay vào hồn tôi chuyện ấy để rồi giá tôi được sống đến mười mươi chăng nữa sẽ chẳng có một cái gì có thể xoá đi được dẫu chỉ là một nét mong manh, một màu thoáng nhạt, một hương vị thoảng qua... Vậy nên, cả tập thơ Về Kinh Bắc tôi viết từ mùa thu 1959 đến cuối xuân 1960, là quê hương tôi, cảnh ngộ gia đình tôi, số phận mỗi người thân yêu, nhất là số phận những người gái quê Kinh Bắc đã hiện lên thành 47 bài thơ gắn bó hữu cơ với nhau trong một thể một khối n-phương thống nhất, chia làm 8 nhịp mở đầu là cúi lạy mẹ, con trở về Kinh Bắc và sau bảng mục lục là hai dòng tạm kết thúc một chuyến về thăm quê xưa, VỀ KINH BẮC

Bốn bảy bài thơ đi tám nhịp
Tuần du chưa vợi khối ân tình


Quả vườn ổi


Nằm trên bãi cát thư tâm
Sông nước sinh thuyền Em đẩy tới
Có gió có buồm có dòng có lái
Trách gì ai xô giạt đến bờ hoang


Em mười hai tuổi tìm theo Chị
Qua cầu bà Sấm bến cô Mưa
Đi...

ngày tháng lụi
tìm không thấy
Dải yếm lòng trai mải phất cờ

Cách nhau ba bước vào vườn ổi
Chị xoạc cành ngang
Em gốc cây
– Xin Chị một quả chín!
– Quả chín quá tầm tay!
– Xin Chị một quả ương!
– Quả ương chim khoét thủng!

Lẽo đẽo Em đi vườn mai sau
Cúi nhặt chiều mưa dăm quả rụng.

Vâng, một cuộc tuần du, đi từ người mẹ ngược về những sự tích huyền sử, dã sử, về những chuyện tình huyền thoại đến cả những chuyện thực đã diễn ra hôm qua và hôm nay. Gọi là chuyện, nhưng thơ lại là kết tinh. Trong viên ngọc kết tinh của muôn vàn nỗi niềm, cảnh sắc, hương vị, âm thanh, tiết tấu của cuộc sống vừa là xa xưa, vừa là đương đại, lúc huyền ảo, lúc hiện thực, như mê mà tỉnh, như ngủ mà thức, hư hư thực thực ấy, thì hình ảnh mẹ tôi bàng bạc bao phủ cả tập thơ, rồi đến một cậu bé con cầm chiếc lá Diêu bông trong tay đi xuyên thời gian xuyên suốt vùng quê đa tình, diễm ảo, và bên cạnh cậu bé con ấy là một người gái quê cũng đa tình, diễm ảo, như cánh mây trắng mỏng cứ vần vụ, như chạy như bay, lại như đậu tà tà trên lá cỏ, trên cánh hoa, lúc cao thì cao vút không ai níu được vạt áo, lúc thấp thì lại rành rành trước mặt như một cành cây, một chiếc lá bình thường. Hai nhân vật EM và CHỊ này choán hết cả một nhịp – nhịp năm – của bản đại hợp xướng Về Kinh Bắc trong khi cái giờ tôi ra đời thì tác giả đẩy xuống cuối nhịp bảy, sửa soạn cho nhịp cuối cùng của tập thơ. Đó là một khúc thơ có tên là Luân hồi (mà tôi trân trọng đề nghị tạp chí Diễn Đàn đăng theo bài viết này cùng với một số bài khác trích từ tập Về Kinh Bắc, để độc giả có thể tạm thời hình dung được một tác phẩm mà tôi coi là xương sống của tổng thể thơ ca của mình).

Nói chung, hầu hết những bài thơ được độc giả ưa thích trong nhiều năm của tôi, bao giờ cũng bắt đầu một cách vi diệu là từ ngoài tôi, vẳng lên đôi ba câu nghe rất rành rẽ, giọng phụ nữ lảnh lót mà rất xa, như hát mà như đọc. Như một tia nước trong vắt phun lên từ ruột đất khi chúng ta thăm dò mạch nước ngầm để đào giếng, khi đã có đôi ba câu vẳng lên bên tai, tôi ghi ngay, bắt lấy ngay và từ đó là tình cảm, suy tư cuồn cuộn trong người, tôi thường tiếp được mạch ban đầu ấy và nối luôn các đợt sóng tuôn trào cho đến khi thấy trong người yên ắng, nhẹ nhõm là bài thơ cũng hoàn tất. Ví dụ như bài thơ dài Bên kia sông Đuống (tôi đã viết rất tỉ mỉ, thuật lại những trạng thái của tâm tư mình trước lúc bật ra thơ, bài viết ấy đã đăng trên tuần báo Văn Nghệ, số kỷ niệm 35 năm thành lập Hội nhà văn Việt Nam, tháng 5.1992) tôi đang ở trong trại thái bồn chồn, thao thức, tâm tư rối bời sau khi nghe báo cáo về quê hương mình bị giặc xâm lược kéo lên tàn phá, giết chóc, tôi chưa định viết gì, lúc quá nửa đêm vắng lặng, bỗng văng vẳng bên tai ba câu:

Em ơi buồn làm chi
Anh đưa em về Sông Đuống
Ngày xưa... cát trắng phẳng lỳ

tôi bèn chộp lấy, ghi ngay và cứ thế cảm xúc trào ra một mạch dài, viết rất nhanh, sợ không theo kịp những thanh âm, làn điệu đang cuồn cuộn dâng lên trong lòng mình. Cho đến gần sáng thì xong bài thơ, một trong những bài được các bạn già, trẻ, nam, nữ yêu mến đã gần nửa thế kỷ. Những bài thơ như vậy, thường là không theo một ý nghĩ nào định trước, tác giả giống như một cậu học trò viết chính tả, lúc đầu là có tiếng đọc rành rọt bên tai, sau là viết theo tiếng đọc âm thầm từ trong tâm can mình, ở những trường hợp ấy, tôi không hề cấu tứ nghĩ ngợi gì về câu, chữ, không theo một luật lệ nào gọi là thi pháp hoặc tu từ, hoặc chịu sự ràng buộc nào của phép tắc về thanh điệu, ngữ điệu gì gì hết. Tôi chỉ tuân theo nhịp rung động của toàn thân, cả hồn và thể chất, khí chất.

Đặc biệt, riêng, riêng có bài Lá diêu bông duy nhất một bài này là những lời vẳng bên tai, từ đầu chí cuối, quá nửa đêm mùa rét 1959, trên giường ngủ, trong ánh sáng lờ mờ của ngọn đèn ngủ 6 W, bên cạnh người vợ đang ngủ ngon và các con các giường bên cũng đang ngủ say. Tôi không gây một tiếng động khả dĩ làm mất giấc ngủ của những người thân. Đêm nào, khi lên giường nằm, tôi cũng đã để sẵn một tập giấy trắng và cái bút chì. Nếu ngủ được thì càng tốt, nhưng thường về đêm, tôi cứ hay bị thao thức, trằn trọc vô cớ. Chẳng có chuyện gì phải lo nghĩ, chẳng có ý định gì trong đầu mà sao về quá nửa đêm một mùa rét ấy, tôi vẫn không ngủ được. Bốn bề yên tĩnh. Nhà tôi ở vào một phố nhỏ, lại lùi tít vào phía trong, nên tiếng xe cộ thưa thớt cũng không bận tai. Im lặng. Chợt bên tai vẳng lên một giọng nữ rất nhỏ nhẹ mà rành rọt, đọc chậm rãi, có tiết điệu, nghe như từ thời nào xa xưa vẳng đến, có lẽ từ tiền kiếp vọng về

Váy Đình Bảng buông chùng cửa võng...

Tôi xoay người trong chăn về phía bên trái và ghi ngay. Giọng nữ vẫn đọc, không vội vàng mà cũng không quá chậm, và tôi ghi lia lịa trong bóng tối mờ. Đến lúc giọng nữ im hẳn, lòng tôi nhẹ bỗng hẳn, một lát sau tôi ngủ thiếp đi. Sớm hôm sau nhìn lại thì có chỗ rõ, đọc được, nhiều chỗ dòng nọ đè lên dòng kia, chữ nọ như xoá mất chữ khác. Phải mất gần tiếng đồng hồ, tôi mới tách được ra theo thứ tự đúng như những lời người nữ kỳ diệu nào đó đã đọc cho tôi viết nửa đêm hôm qua. Bài Lá diêu bông ra đời như vậy, nói có người không tin, nhưng tôi nghĩ bây giờ khoa tâm thần học, vô thức luận, tâm linh học có thể lý giải được hiện tượng đó một cách rất khoa học.



Vậy nên, cái lá diêu bông là cái lá gì: ở đâu, nào tôi có biết. Thần linh đọc diêu bông, tôi chép diêu bông, thế thôi. Nhưng nó có nguồn gốc của nó chứ. Năm 12 tuổi, tôi say mê một người gái láng giềng hơn tôi những tám tuổi. Và cũng từ năm lên tám, tôi đi trọ học trên thị xã Phủ Lạng Thương, chiều thứ bảy, mươi phút xe lửa lại đưa tôi về nhà, ở cái phố ga xép Như Thiết, tên chữ nhà ga đề là Núi Tiết, thực tên là Thiết Sơn, một tổng thuộc huyện Việt Yên. Phố ga ấy cách Hà Nội 44 km. Còn 6 km nữa thì qua cầu Sông Thương (con sông Thương nước chảy đôi dòng), tới ga Phủ Lạng Thương. Đường số 1 chạy qua trước cửa nhà, sau lưng là đường hoả xa Hà Nội - Lạng Sơn. Nhà tôi có tủ thuốc bắc của ông bố, có đôi bồ hàng xén của bà mẹ. Một chiều thứ bảy, khoảng hơn 4 giờ, tôi về nhà thấy một cô gái đang mua gì của mẹ tôi. Khi cô ấy ngửng đầu lên, nhìn ra đường, thì cậu bé lên 8 choáng người, như sau này người ta thường gọi là bị coup de foudre. Người gái đẹp đến mê hồn. Rồi thứ bảy sau, về nhà, tôi trao bức thư tỏ tình đầu tiên viết bằng thơ lục bát, dài hơn một trang giấy kẻ học sinh trên có vẽ hoa vẽ bướm, một vài ngọn núi, một dòng sông với chữ viết đậm, mực tím, nắn nót : Em gửi chị Vinh của em. Ấy sở dĩ mới bé tí đã làm đuợc một trang thơ lục bát vì ở trên nhà trọ, chỗ thân tình với bố tôi, chủ nhà chính là ông xếp ga cái ga xép Núi Tiết ấy, gia đình ông trên tỉnh đông con, làm nghề xay hàng sáo, đêm nào cũng xay lúa giã gạo rồi dần sàng quạt xảy đến khuya. Tôi học bài, làm bài xong, tuy buồn ngủ, các anh các chị cứ bắt xuống nhà ngang, từ 9 giờ tối, đêm nào cũng phải dọc đủ các thứ chuyện dân gian, in khổ nhỏ, bán rẻ từ 2 xu đến 1 hào, đủ các loại truyện, thể thơ lục bát, từ Trê Cóc đến Truyện Kiều, từ Nhị Độ Mai đến Hoa Tiên, rồi Hoàng Trừu, Thạch Sanh, Phạm Công Cúc Hoa, Tống Trân Cúc Hoa... Vì thực ra, ngay từ bé, tôi sớm có giọng hát hay, ngâm thơ cũng hấp dẫn người nghe lắm. Đọc hết lượt, phải đọc lại. Thể thơ lục bát thấm vào người từ nhỏ, mình lại bẩm sinh yêu thích thơ ca, nên tôi có viết bức thư tình gửi người gái Kinh Bắc, người Chị làm em say mê ngơ ngẩn suốt năm năm ấy, mà thư tình lại viết bằng thơ lục bát thì hẳn không phải là điều gì đáng ngạc nhiên phải không, thưa các bạn. Tôi mê say Chị, Chị đi đâu Em theo đấy chỉ biết gọi Chị ơi, chứ còn biết nói gì hơn. Người gái tuyệt sắc ấy, con một nhà nho chẳng may chết sớm, ba mẹ 1 con, mẹ goá con côi, đèo bòng nhau lên cái phố xép này mở ngôi hàng bán kẹo bánh, nước chè tươi nước vối, cả bánh đa bánh đúc, bánh mật bánh khoai. Chị Vinh võ vẽ chữ nho, đọc thông quốc ngữ, người quê gốc cũng Tiêu Du, nên hát quan họ thì làm mê người ta ngang với nhan sắc của Chị. Chị cũng thừa biết thằng bé con này (tên khai sinh là Bùi Tằng Việt, chỉ giản đơn là vì tôi ra đời ở thôn Phúc Tằng, huyện Việt Yên, Bắc Giang, nơi bố tôi ở nhờ để gõ đầu trẻ), biết thằng bé con này nó mê đắm mình, nên Chị cứ hay trêu đùa, lắm lúc tôi phát khóc, nhưng cũng nhiều giờ phút tôi có một hạnh phúc không gì so sánh kịp là được Chị Vinh cho ngồi sát bên chị, chầu rìa những cuộc chơi tam cúc ngày Tết, ngày xuân hay ngày hội. Chị thường hay nhờ những đêm trăng sáng vào mùa hè, mùa thu, tổ chức những đám thanh niên tụ tập ở cái bãi sau ga, hát ví, hát trống quân, hát ống, hát giao duyên vấn đáp, đặc biệt là về môn quan họ thì Chị là bà Chúa của dân ca ! Giọng ngọt, say như mật ong, đôi mắt đen thăm thẳm với hàng mi cong và dài, má luôn luôn ửng đỏ, môi luôn luôn đã hồng nay thường nay cắn chỉ quết trầu, răng đen dưng dức hạt na. Chị Vinh ơi, viết đến đây, em vẫn bồi hồi nhớ từng sợi tóc Chị dán trên vừng trán, từng con mắt Chị lúng liếng tình tứ, từng giọng hát, từng lời nói, từng miệng cười, em còn ngửi thấy hương tóc ấm của Chị thoảng mùi hương nhu mới gội buổi chiều mà nếu chị buông tóc dài quá đầu gối để hong khô thì cả suối tóc ấy làm thành thế giới mê say của riêng em từ độ ấy đến ngày nay, dẫu tóc em đã trắng tiết, em vẫn có thể vẽ đúng chân dung chị tuyệt vời nếu có người chỉ dẫn cho em đôi điều cơ bản về nghệ thuật hội hoạ. Ảnh Chị in màu trong hồn em, không một nhà khoa học nào có thể làm ra cho em những tấm ảnh như em đang có, vẫn còn đầy đủ và tươi tắn, nguyên vẹn từ sáu chục năm xưa đấy, Chị ơi !



Lá Diêu Bông



Váy Đình Bảng buông chùng cửa võng
Chị thơ thẩn đi tìm
Đồng chiều
cuống rạ

Chị bảo
– Đứa nào tìm được lá Diêu Bông
Từ nay ta gọi là chồng

Hai ngày Em tìm thấy lá
Chị chau mày
– Đâu phải lá Diêu Bông!

Mùa đông sau Em tìm thấy lá
Chị lắc đầu
trông nắng vãn bên sông

Ngày cưới Chị
Em tìm thấy lá
Xoè tay phủ mặt Chị không nhìn

Từ thuở ấy
Em cầm chiếc lá
đi đầu non cuối bể
Gió quê vi vút gọi
Diêu Bông hời!
... ới Diêu Bông!...


Rét 1959

Tình của Em với người Chị ấy, sơ lược là thế. Tôi sẽ viết tỉ mỉ hơn nhiều trong tập hồi ký sau này, để những bạn như anh Phạm Duy hiểu kỹ về tôi hơn, tránh được những điều bình luận sai lạc. Trong tập Về Kinh Bắc, thì hai nhân vật Chị và Em ấy đã xuyên qua năm tháng và không gian, qua gió mưa và nắng đẹp, qua biết bao hình thức của tâm tư, của số phận, mà trội lên vẫn là cái sầu đơn phương, cứ vương vấn mãi cho tôi nhớ mãi đến hết một kiếp này, biết đâu còn xót xa yêu thương vào tận kiếp sau... kiếp sau nữa...

Vậy thì chỉ mới sau vụ Nhân văn - Giai phẩm có một thời gian ngắn, thơ của tôi đã lùi về quá khứ, chẳng biết có phải ẩn dụ ẩn diếc gì chăng, chỉ có điều là qua 47 bài, tôi không một phút nào nghĩ đến thời cuộc, chính trị và xã hội trước mắt. Tôi chìm vào một quê hương xa, có thực mà như ảo ảnh, là ảo ảnh mà tưởng như gần gũi đâu đây, cứ chập chờn năm tháng và bảng lảng không gian, xanh mơ mong manh màu kỷ niệm pha chút tím của tiếc hận, chút hồng của tuổi thơ, chút biêng biếc thắm của say mê, não nùng, của thương cảm không có bến buông neo, và nhìn chung chỉ thấy con mắt của thời gian không hề suy suyển đến một sợi mi cong... Như gần đây tôi đã phải thốt ra : “ Mắt thời gian càng miên man xanh ”.

Rồi CHỊ EM đi VỀ KlNH BẮC, lúc thì đố Lá diêu bông, lúc vào Vườn ổi, lúc Đánh tam cúc, lúc lên Ngọn sông Thương, lên tít Ngọn Kỳ Cùng, lúc Đếm sao, Đếm nắng, Đếm giờ, Em cứ THEO ĐUỔI Chị qua hội hè rồi qua cả những tàn tạ của cảnh vật và lòng người, cho đến mùa rét năm 1934. Cái Lá diêu bông bắt nguồn từ buổi chiều năm ấy. Hình như vào dịp nghỉ lễ Thiên chúa Giáng sinh, những bốn năm ngày liền, tôi về nhà, nghĩa là cứ nghỉ học là tôi về ngay nhà với niềm say mê đơn phương, một chuyện tình có Chị có Em mà tôi vẫn chỉ là một khối cô đơn lẽo đẽo bụi hồng. Tôi đã 12 tuổi và Chị Vinh đã 20. Và chiều mùa đông ấy, nắng hanh vàng rộm. Trời xanh trong màn sương cực mỏng, không một gợn mây. Heo may se se lạnh. Chị mặc váy kiều Đình Bảng, áo cánh lụa mỡ gà đã cũ, có mảnh vá trên vai, ngoài bó chèn lưng ong bằng cái gi-lê tím, sờn rách, chiếc yếm màu cánh sen đã nhạt, dây thắt lưng hoa đào, chị thoăn thoắt đi ra ngoài cánh đồng, mùa ấy lúa đã gặt hết, cả cánh đồng rộng đầu cái phố ga xép ấy chỉ còn trơ những cuống rạ tít tắp đến chân dãy núi Neo. Cậu bé em 12 tuổi, vốn dĩ lúc nào cũng trông ngóng, ngó nhìn, chờ đợi Chị, thấy Chị đã bỏ cửa hàng chiều vắng khách, mặc cho đứa em trai lên sáu ngồi xua ruồi hoặc ăn vụng cái kẹo vừng, rồi thấy chị nhanh bước ra cánh đồng, đương nhiên là cậu em theo ngay, và bất kỳ đi theo chị ở đâu, đến đâu, cũng chỉ cách sau lưng Chị có ba bước. Chị đi trên bờ ruộng, cứ vạch từng búi cây búi cỏ đầu bờ hoặc từng đám cây hoang dại trên mấy cái gò nhỏ giữa đồng và cứ cúi tìm... tìm... em chả biết Chị tìm gì vậy. Em cứ theo sau, không hỏi, không nói, trống ngực cứ thì thùng từng phút giây theo đuổi, miệt mài lâng lâng say. Lâu lắm, bỗng chị đứng thẳng người, quay mặt nhìn em, rồi nói, như một lời trách, như lời quở mắng, lại như một lời mình nói với chính mình (gần 60 năm rồi, hôm nay tôi còn nhớ như in từng lời trong bộ não đã hơi say say, trong tấm lòng may thay vẫn là tấm lòng 12 tuổi) : “ Ơ hay ! sao mày cứ theo tao lẵng nhẵng mãi thế nhỉ ? ” . Máu em dồn lên nóng ran khắp người, hẳn là cậu em đang đỏ mặt, môi em run run, không nói lại với Chị được lời. Hình như em thoáng thấy chị mỉm cười, rồi Chị lại bước sang bờ ruộng khác, vẫn tìm... tìm mãi. Nắng đã sẫm dần. Mãi sau, em mới bạo dạn hỏi :

– Chị Vinh ơi ! Chị đi tìm cái gì thế ?

Chị Vinh quay phắt lại, hình như má Chị hồng hơn lúc nãy. Chị nhìn thẳng, nhìn xoáy vào mắt em và gần 60 năm rồi tôi vẫn nhớ như vẽ cái miệng tươi của Chị đậm nét một nụ cười trêu cợt rất kiêu xa. Chị nói, cũng một giọng bỡn cợt, như thách đố, như đùa vui trêu ghẹo :

– Chị (các bạn chú ý giùm tôi cách thay đổi chủ từ trong câu nói này của Chị) Chị đi tìm cái lá... ấy đấy, đứa nào tìm được cái lá... ấy (Chị càng cười càng rõ vẻ trêu cợt) ta gọi làm chồng !

Các bạn ơi, nghe vậy, tim tôi như lặng đi. ngừng lại vài giây, rồi đập rất mạnh, người tôi nóng ran lên trong buổi xế chiều càng lạnh. Lúc đó, Chị nói tên một cái lá có lẽ có thật, chỉ mấy năm sau thì tôi quên bẵng, thôi thì tôi cứ gọi cho nó có tên như Chị đã gọi tên, lá thanh thảo hay đài bi chẳng hạn, hoặc gọi là lá tai voi, lá mắt nai gì đó, xin thú thật với các bạn là ít lâu sau buổi chiều mùa rét ấy, tôi không nào nữa. Nhưng ngay lúc bấy giờ, sau cơn nóng bừng, toàn thân ấm áp vào tận đáy thẳm tâm hồn ấy, tuy mới 12 tuổi, tôi cũng đã nghĩ ngay ra rằng cái lá ấy rất hiếm, ở những vùng nào nhiều đồi núi, khe suối cơ, may ra mới tìm được, mà tìm lá ấy chắc là để chữa khỏi một cái bệnh gì hiểm nghèo nguy kịch hoặc có khi lại lấy lá vò nát ra, hay giã kỹ lấy nước xoa lên khắp mặt sẽ làm cho da dẻ tươi hồng, mịn màng lên. Nhưng hẳn là khó tìm lắm lắm, chả thế mà chị đi hết bờ này bãi nọ, gần cả một buổi chiều, có thấy được đâu ! Cái lá oái oăm thế, Chị mới trêu đùa thằng bé mà Chị biết là nó đang say mê mình, nó “ phải lòng ” mình từ năm năm nay rồi, còn gì ! “ Đứa nào tìm được, ta gọi là chồng ! ” Chị Vinh ơi, bây giờ Chị ở cõi nào, nếu còn sống, Chị cũng đã gần tám mươi đấy chứ, sao hôm nay, em đã ngoài 70, lúc em viết những trang nhớ lại này, em hoàn toàn vẫn là em 12 tuổi đang theo Chị và Chị vẫn đang tuổi hai mươi, ngoài cánh đồng chiều làng Như Thiết ấy, Chị vẫn trẻ đẹp diệu kỳ, Chị ơi !

Chiều ấy, trời sẩm tối rồi, Chị lại cho em được cầm tay Chị. Chị em thơ thẩn dan tay ra về... mà nào đâu chiếc lá ? Hết phép nghỉ, tôi lại lên thị xã ở trọ, ngày hai buổi đến trường, cặp sách trong tay, hình ảnh Chị trước mắt, lời nói trêu đùa của Chị không lúc nào không réo gọi trong tấm lòng cô đơn trống trải của cậu con trai sớm đã si tình.

Chiều thứ bảy sau, khi tôi xuống tàu, vào phố xép đi về nhà, nhìn sang nhà chị Vinh thấy cánh liếp đóng im ỉm. Tôi như lạc mất trí, chạy vội vào nhà, cũng không kịp chào mẹ tôi đang ngồi khâu vá trên cái chõng tre, mà hỏi ngay :

– Mẹ ơi, sao bên nhà chị Vinh lại đóng kín cửa thế hở mẹ ?

Mẹ tôi kéo tay tôi ngồi sát bên, nói rất nhỏ, mà hình như trong giọng nói của mẹ tôi, có cái gì như nước mắt nghẹn lại :

– Nó đi lấy chồng rồi, con ạ.

Tôi bỗng khóc oà lên, khóc như có một thế giới nào vừa nổ vỡ tung ra trong vũ trụ. Tôi gục đầu vào lòng mẹ, khóc mãi, lòng mẹ tôi đấy mà sao tôi lại khóc như đứa trẻ lên ba, mẹ đang bế đi chơi, đến một cánh đồng chiều vắng, bỗng dưng mẹ biến đi đâu mất, để đứa bé bơ vơ giữa mênh mông trời đất cô quạnh và xa lạ, lạnh lẽo thế ! Mà nó khóc !

Tôi chỉ kể với các bạn đến đây thôi, còn cuộc đời người Chị ấy về sau, tôi chỉ xin tóm gọn bằng bốn chữ đã quá cũ kỹ, nghe như sáo mòn, nhưng tôi không thể dùng được những từ nào khác ngoài bốn chữ ấy : Hồng nhan bạc mệnh...





Luân hồi



Con đấy ư
Con đã về Kinh Bắc
Những cỏ BồngThi
với dế đầu si
Những lá Diêu Bông
với đôi xe hồng
luân lưu thụ thai qua chín đời
đằng đẵng
đến khi con lọt lòng
Cây đu đủ sau nhà vừa bấm ngọn
đội mũ niêu đen
đi trong đêm mưa dầm

Mẹ đau trở dạ
Sinh con ra
Tiếng tù và xé canh ba
báo hiệu một cơn giông nín lặng
Trống liên hồi ra đi
ngăn trận bão mênh mông
trong giọt lệ cuối hàng mi

Con đấy ư
mười ngày không khóc
mười thày lang dờ dẫm
ven giường ẩm ướt

Mười đêm
Tiếng trống chèo vuốt ngực Châu Long
Bước sắp qua cầu nghẹn tiếng.

Trở lại mùa rét năm 1959, nghĩa là đúng một phần tư thế kỷ đã qua sau cái buổi chiều mùa đông có Chị có Em trên cánh đồng quê, Chị đi tìm lá rồi... Chị đố lá “ Đứa nào tìm được... ta gọi là chồng... ”. Và bài thơ Lá diêu bông đã ra đời trong đêm khuya, như tôi đã kể ở trên, bài thơ duy nhất trong đời làm thơ của tôi do thần linh giọng nữ cao đọc từ đầu đến cuối cho tôi chép như viết chính tả. Còn một số bài khác như Cây tam cúc, Quả vườn ổi, Cỏ bồng thi, Bên kia sông Đuống, Chùa Hương, Về với ta...., những bài cũng được nhiều bạn đọc ưa thích trong nhiều năm thì bao giờ cũng ra đời trong đêm và vài ba câu đầu bao giờ cũng không phải của tôi nghĩ ra, mà đúng thật là những lời văng vẳng bên tai như có một giọng nữ đang hát, hay đang đọc có nhịp điệu, có tiết tấu, mà tôi cứ xin gọi là lời của thần linh đọc cho mình chép lại được. Nếu chợt nghe mà lười biếng, hoặc chủ quan nghĩ rằng để đến sáng mai sẽ ghi lại ra giấy thì chỉ một phút sau, muốn nhớ lại, không tài nào nhớ nổi một chữ, đừng nói là cả ba bốn dòng... Trong đời làm thơ của tôi, thời còn trai trẻ, tôi đã mất khá nhiều những câu thơ "xuất thần" bất chợt trong đêm khuya, lúc chưa ngủ được, nên từ hồi đầu kháng chiến chống Pháp, tôi đã rút kinh nghiệm, cứ đến giờ (thường là gần nửa đêm) lên giường ngủ, bao giờ tôi cũng để bên phía tay trái mình một tập giấy trắng và tay phải cầm cái bút chì học sinh (bây giờ đã có bút bi thay cái bút chì). Hễ không ngủ được, tâm tư lan man đâu đâu, gì gì đó, mà bỗng nghe vẳng một câu dẫu chỉ là một câu bâng quơ, tôi phải ghi ngay lập tức. Lười một tí thôi là mất đứt. Mà thường lại là những câu thơ rất có sức gợi cảm. Dẫu tiếng văng vẳng đã tắt, mà còn gợi cảm, thì cảm xúc bật trào ra ngay, tôi viết tiếp bằng cảm xúc của mình. Y như đã có tia nước phun lên thì phải tiếp tục đào đất chắc chắn là sẽ có được cái giếng đầy nước. Lúc đó thì cả ba loại thơ (như các nhà phê bình văn học Trung Quốc đã đúc kết thành lý luận về thơ) là ngôn thi, tâm thi và thân thi đều có thể xuất hiện trên trang viết. Và cũng lúc đó thì có ba cái thức đều phải vận động, phải làm việc cho thơ. Đó là ý thức, tiềm thức và vô thức. Cũng đủ cả một cặp : trí thức và tâm thức nữa. Ở tôi thì luôn luôn cái tâm thức làm việc nhiều hơn trí thức, nhất là với toàn tập Về Kinh Bắc, tôi đã huy động tất cả các lực của mình : cả thể lực, trí lực, tâm lực và đương nhiên, ở tôi, thần lực thường tự động làm bật ra rất nhiều những lời thơ, lắm khi tưởng như vô nghĩa, mà ngay chính bản thân tôi cũng không hiểu những từ ngữ mình viết ra mang ý nghĩa gì cụ thể. Ai hỏi tôi Lá diêu bông, cỏ bồng thi là lá gì, cỏ gì, ở đâu ? tôi chịu không giải thích được. Ngay cả nhiều sinh viên Khoa văn ở Hà Nội cũng đã hỏi tôi : "miếu Hai Cô" là ở đâu ? Hai Cô nào ? Tại sao lại thờ ? hoặc Cầu bà Sấm là trên con sông nào, bến cô Mưa là ở khúc nào của con sông nào, tôi cũng chịu không có lời giải đáp. Vì thế sau, khi tôi đọc Hợp Lưu, thấy anh bạn Phạm Duy bình luận và giải thích mấy bài thơ của tôi mà bạn đem phổ nhạc, nếu tôi có vừa buồn cười, vừa buồn bực, mong anh Phạm Duy và các bạn đọc cũng thể tình cho. Và việc tôi phải viết bài (đăng Hợp Lưu số 7) cũng là chỉ vì cái pureté de l’Art, mong được các bạn dung thứ. Còn hiểu về tôi thế nào, xin tuỳ quyền các bạn.

Tôi nghĩ rằng, trong lĩnh vực thơ ca, những khúc hát hay, những bài thơ, những câu thơ hay thường rất khó giảng được hết cái hay của nó. Vì ngoài ý nghĩa cụ thể của từng câu, từng chữ, thơ lại còn nhạc điệu, mà theo tôi hiểu, nhạc điệu trong một bài thơ lại chính là chiếc xe chở cái hồn của bài thơ đi để nhập, để hoà với hồn người đọc. Và người xưa cũng đã nói từ lâu đến “ thi tại ngôn ngoại ”. Thơ đã có ý, là dễ hiểu. Nhưng thơ lại còn cái tứ. Cái tứ ở đâu ra ? Từ chữ, từ âm vận, rồi âm điệu. Cái tứ của thơ, phải đọc được ngoài lời. Có nhiều bài thơ loang một tứ rất lạ, rất khó giảng, khó bình, mà nhiều khi chỉ cảm thấy được thôi.

Tôi mong sẽ đến một ngày, lập thơ Về Kinh Bắc của tôi có duyên may đến được với các bạn ở xa tổ quốc. Còn hiện nay, dẫu sao, cũng đã có dăm ba bài khá tiêu biểu tạm thời đến làm quen với các bạn ở xa. Tôi thật tình không mong muốn được nhiều người xưng tụng, hoan hô đề làm "vinh danh" một thi nhân, lại càng không bao giờ muốn tranh cãi, lý luận ồn ào trên văn đàn. Tôi chỉ hy vọng, rất chân thành, được gặp những tâm hồn bầu bạn, có độ lượng để bao dung, có tấm lòng thân ái để thông cảm, có tri thức đủ để hiểu thấu đáo tác phẩm và tác giả, hiểu cả điểm mạnh và điểm yếu của một người suốt đời lấy THƠ làm cứu cánh, làm mục đích, làm lẽ sống, chứ thơ không phải là phương tiện để cho mình đạt tới những gì gì đó mà hồn mình không chấp nhận, ví dụ như danh và lợi, sự bon chen, sự cầu cạnh, sự thù hận v.v... là những cái rất xa lạ với tôi, có lẽ xa lạ với cả THƠ đích thực nữa. Phần nhiều những bài thơ tôi viết từ 1940 đến nay, không có cái mà bạn Phạm Duy gọi là ẩn dụ. Còn như, lúc cần, tôi đã viết những bài thơ với những ý nghĩ thẳng thắn, đấu tranh trực diện như hầu hết các kịch thơ viết trong thời kỳ Pháp Nhật thống trị nước ta, và như một ít bài viết trong thời kỳ Nhân văn - Giai phẩm, chẳng hạn như bài thơ Em bé lên sáu tuổi mà chính bạn Phạm Duy cũng đã biết và đã đọc, đã tỏ ý khen ngợi, hoặc như bài ký Con người Trần Dần viết về một giai đoạn đấu tranh rất phức tạp cho một nền Văn nghệ mới. Tôi đã viết thẳng thắn và trung thực. Vậy thôi. Sau đó, tôi rút lui, trở về với tâm tư riêng, thế giới riêng của mình như đã nói ở trên, về với quê hương xưa, vùng Kinh Bắc xa xưa mà vẫn gần gũi, về với những người đã khuất bóng ở nhân gian nhưng mãi mãi hiện diện trong tâm hồn tôi. Và tập thơ Về Kinh Bắc đã ra đời như thế, để làm cột xương sống cho toàn bộ thi phẩm của tôi, kể từ những năm 40 của thế kỷ này. Tôi viết sơ lược những nét chính yếu của đời thơ Hoàng Cầm, chắc hẳn chưa thoả mãn được yêu cầu của các bạn ở xa, mong các bạn lượng thứ và thể tình. Chỉ dám xin hẹn một mai toàn tập Về Kinh Bắc và cuốn hồi ký Nhớ lại một đời Thơ có cơ duyên tốt lành đến được với các bạn, thì chắc chắn tôi sẽ được trò chuyện với các bạn đầy đủ hơn, và tình sâu nghĩa nặng của tôi với quê hương Việt Nam, tổ quốc chúng ta, sẽ hiện lên rõ ràng hơn, sâu sắc hơn và đằm thắm hơn nhiều mấy trang rất sơ sài này. Xin cảm ơn tất cả bạn đọc.


Hà Nội những ngày cuối năm Nhâm Thân 1992

Hoàng Cầm

Đặng Tiến - Men đá vàng

Men đá vàng


Đặng Tiến
Cập nhật : 07/05/2010


Tiếng hát quan họ, ngoài giá trị tâm cảm, nhất định phải có giá trị phản kháng. Về tâm cảm, Hoàng Cầm sinh ra trong một gia đình quan họ, lớn lên trên quê hương quan họ, tập thơ ca ngợi một khía cạnh đặc sắc trong một vùng văn hoá. Nhưng tiếng hát còn là hình tượng: nó biểu dương cho nền văn nghệ tự do, bình đẳng, độc lập trước chế độ xã hội phong kiến. Thời điểm đầu 1955, Hoàng Cầm đòi quyền độc lập đó, trong một “đề nghị chính sách văn nghệ”2 và tố giác thứ văn chương cung đình



Thơ Hoàng Cầm, Truyền Thống và Hiện Đại (IV)


Men đá vàng




Đặng Tiến



Một lời quan họ bay lên dốc


Năm 1956, Hoàng Cầm sáng tác và in tập thơ Tiếng hát quan họ. Thời gian này, anh phụ trách bài vở cho Giai phẩm Mùa Xuân, đã tìm ra và tự ý cho đăng bài thơ Nhất định thắng của Trần Dần, ngòi thuốc nổ vụ án Nhân văn - Giai phẩm về sau. Trần Dần bị bắt, Hoàng Cầm viết hồi ký Con người Trần Dần để bênh bạn, đăng trên báo Nhân văn số 1 giữa tháng 9.1956. Bài báo khá dài, phản ánh không khí văn nghệ, chính trị thời đó, đã được Georges Boudarel dịch trọn vẹn ra tiếng Pháp1. Sau đó, Hoàng Cầm còn có bài thơ Em bé lên sáu tuổi (1956) và vở kịch thơ Tiếng hát (1957) nổi tiếng vì tính cách phản kháng.

Nhắc lại chuyện cũ để tìm hiểu động cơ của tác giả khi làm tập thơ Tiếng hát quan họ, lấy một chủ đề cũ để làm một tập thơ mới, trong không khí đấu tranh chính trị thời đó. Về hai tập Giai phẩm, Hoàng Cầm đã “tự hào”: “ Tuy chưa phải là những sáng tác xuất sắc, nhưng ít ra nó cũng nêu được một vấn đề gì. Có vấn đề xã hội trong thơ Văn Cao, có vấn đề chống công thức trong thơ Lê Đạt (...) Bài thơ Nhất định thắng của Trần Dần ít ra nó cũng khác với lối làm thơ một chiều...” 2. Thế còn Hoàng Cầm, người đã có tập thơ in chung với Văn Cao, Lê Đạt, Trần Dần? Tiếng hát quan họ, ngoài giá trị tâm cảm, nhất định phải có giá trị phản kháng.

Về tâm cảm, Hoàng Cầm sinh ra trong một gia đình quan họ, lớn lên trên quê hương quan họ, tập thơ ca ngợi một khía cạnh đặc sắc trong một vùng văn hoá. Nhưng tiếng hát còn là hình tượng: nó biểu dương cho nền văn nghệ tự do, bình đẳng, độc lập trước chế độ xã hội phong kiến. Thời điểm đầu 1955, Hoàng Cầm đòi quyền độc lập đó, trong một “đề nghị chính sách văn nghệ”2 và tố giác thứ văn chương cung đình

Vịnh người đi cày bằng đá
Không nói năng gì sau đuôi trâu

Bên kia sông Đuống, tr. 107

Đây là một khuynh hướng quan trọng trong thơ Hoàng Cầm, chúng tôi chưa đào sâu, không phải là vì không thấy hay né tránh, nhưng vì khuôn khổ và tính cách của bài viết. Tôi sẽ trở lại vào một dịp khác.

Tiếng hát quan họ nêu lên vai trò, tính cách của văn nghệ trong cuộc sống. Trước hết, nó nhận làm một thành phần nhỏ của cuộc đời:

Chép hết bài ca chưa hiểu hết lòng người
Dựng được bài ca chưa xây dựng cuộc đời

Bên kia sông Đuống, tr. 117

Nhưng nghệ thuật làm cho cuộc sống cao lên, rộng ra và đẹp hơn:

Tiếng hát quan họ
Và trai gái quê tôi trẻ đẹp vô cùng
Nhảy khỏi vòng nia
Nhảy sang vòng nong
Từ hòn đá ném ao vòng tròn rộng mãi
(...) Vòng nhỏ
Vòng to
Đến vòng nào nữa
Chân mây mở rộng từng mùa

Bên kia sông Đuống , tr. 118

Cuộc đời là những vòng tục luỵ, có hình thể quy định như những vòng nong, vòng nia hay vô định và bất tận như khi ta ném hòn đá xuống ao. Nghệ thuật giúp con người nới rộng những vòng nghiệp chướng. Vòng nong, vòng nia là hình ảnh của nông thôn mà nhà thơ đã tích luỹ; động tác nhảy khỏi, nhảy sang nhắc lại cảnh múa sạp của dân tộc Tây Bắc mà Hoàng Cầm đã dày công nghiên cứu và cải biên thành nghệ thuật trình diễn chuyên nghiệp, thời anh chỉ huy Đoàn văn công Tổng cục chính trị. “ Tôi đã nâng số lượng sạp từ 2 lên 8 cây, từ 2 diễn viên gõ sạp lên 8 và từng đoạn luân phiên với diễn viên múa, vào nhảy để 8 anh chị em khác ra ngồi gõ. Sau chiến thắng Na Sản Tây Bắc 1953, tôi lại bổ sung (...) Toàn bộ tiết mục đã trở thành một khúc vũ hội tưng bừng (...) Múa quạt ở vùng xuôi hoà với múa xoè ở Tây Bắc, lượn của Đông Bắc quyện cả với múa nón của Trung Du (...) không nét nào trùng lặp với nét nào, các đường cong, nghiêng, thẳng của hình thể, phải đi đúng khuôn nhịp, không một đường uốn lượn nào được phép trật nửa bước ra ngoài”3.

Nghệ thuật ở đây tạo điều kiện cho con người nhảy khỏi vòng nia, nhảy sang vòng nong của cuộc sống. Quan họ cũng vậy thôi, là một nét đẹp xưa, quyến rũ và mong manh:

Mẹ kể chuyện ngày xưa xa lắm
Tháng tám ao hồ mát lặng
Làng quê còn níu lại hương sen
Hai mươi gái trai
Thả một con thuyền
Song song mười đôi
Mắt nhìn trong mắt
Nón nghiêng tăm tắp
Ngày mai ai chắc được gần ai

Bấy nhiêu con mắt
Cùng hát một câu
Nghe giọng biết người chung thuỷ

Bên kia sông Đuống, tr. 98

Quan họ, trước tiên, là tình bạn. Có gì đẹp bằng tình bạn thuỷ chung? Đôi bạn quan họ không được kết hợp với nhau. Năm mười năm sau khi đi lấy chồng xa, cô gái vẫn nhớ giọng, người gầy như nhánh mai:

Rồi chị Tư tay bồng tay bế
Mỗi năm một lần về quê hương
Đến thăm anh Năm so giọng cũ
Hát hết tuần trăng không hết thương

Bên kia sông Đuống, tr. 103

Đẹp bao nhiêu những con người chung tình với một giọng hát, ngọn gió qua cầu:

Mẹ xưa dối bà, con nay dối mẹ
Tình không dối được nhịp cầu

Bên kia sông Đuống, tr. 100

Làm thơ, rất khó mà nói dối được lâu. Cuộc đời ở đâu, thời nào cũng vậy, đan kết những tranh chấp, bon chen. Tiếng hát quan họ giải thoát: so lời sánh giọng, người hát không nề hà hai chữ được thua:

Hát thi ba mươi sáu giọng bổng trầm
Tìm những anh chàng hát thua
(...) Chúng ta sẽ ướm làm chồng

Ngày hội năm sau
Anh sẽ bắc giàn hoa lý
mời em về ngồi nghỉ
Khi nào em hát thua anh

Bên kia sông Đuống, tr. 99

Nghệ thuật, trong một giây lát nào đó, giải phóng con người nhọc nhằn và nhục nhằn, ra khỏi xã hội phong kiến đen ngòm:

Trai gái trong xã
Rút ống chân khỏi mực đen ngòm
Chạy ra bến sông khoả ánh trăng mát rợi
Tiếng hát cất lên nhuộm mùi hoa bưởi

Bên kia sông Đuống , tr. 109

Câu thơ Hoàng Cầm không hiện thực, không đúng với thực tế quan họ và xã hội. Không ai thoát thân chạy ra bờ sông mà hát. Hát quan họ phải có nơi, có lúc, vào đám, vào hội theo nghi thức, theo lề lối, áo khăn, lời thưa tiếng gửi; làm gì có chuyện hát ào ào chân khoả ánh trăng. Nhưng câu thơ đúng với biểu tượng văn nghệ: nhiệm vụ văn nghệ là giải phóng con người ra khỏi áp bức của những chế độ hay những hoàn cảnh, thực tại éo le. Trong chừng mực nào đó, quan họ giải phóng giai cấp: cô gái quan họ dù có lúc trở thành Ỷ Lan phu nhân hay Bà chúa Chè thì bản thân quan họ vẫn khẳng định “Tiếng hát không biết đi võng đào” và công phá những thành luỹ của phong kiến

Tiếng hát chiều nay đá lắng tai nghe
Muốn cựa mình đổ xuống
Nghiến vụn toà lầu ngất ngưỡng
Xây nên trăm bực gập ghềnh
Để em có đường lên núi tìm anh

Bên kia sông Đuống, tr. 114

Vẫn là cái nhìn lý tưởng hoá. Tách rời ra khỏi xã hội, trong khuôn khổ những hội hè, tiếng hát quan họ giải phóng con người về nhiều mặt – kể cả giai cấp. Những liền anh liền chị là những nông dân hay thị dân nghèo kết nghĩa bằng nghệ thuật, không phân biệt địa vị. Giới khoa bảng, quan lại và tư sản không tham dự vào những sinh hoạt dân dã bình đẳng và phi giai cấp ấy. Người hát kết bạn, luyện giọng, tổ chức, sáng tác, trình diễn, thưởng thức và phê phán, làm thành một xã hội khép, với những lề lối, quy luật, tư duy, rung cảm riêng: quan họ là một ốc đảo giữa xã hội nông nghiệp phong kiến, và tồn tại lâu dài, phần nào, nhờ thoả hiệp. Hoàng Cầm cũng thừa nhận điều đó khi anh tố cáo gay gắt xã hội phong kiến qua cụ tiên chỉ gian xảo và tàn ác.

Văn nghệ quan họ có giá trị nhất định và giới hạn nhất định. Nếu xem thơ Hoàng Cầm là niềm u hoài, vọng lại một nền văn hoá đã vang bóng, thì chúng ta có được nhiều bài thơ hay, giữ lại và truyền đi những tình hay ý đẹp về quê hương, đất nước. Nếu xem Tiếng hát quan họ như một hoài bão, thậm chí một thông điệp văn nghệ, thì chúng ta cần cập nhật hoá nó, bằng nhiều tác phẩm khác. Thời điểm gian nan 1956 tại Hà Nội, Hoàng Cầm làm được những bài thơ như vậy là đầy sĩ khí. Tôi không tiện nói nhiều về khuynh hướng phản kháng trong Tiếng hát quan họ vì không hạp với nội dung bài này. Từ ấy đến gần đây, dù bị cô lập và cấm đoán in ấn, anh vẫn âm thầm sáng tác và tạo được tác phẩm giá trị, làm giàu làm có cho dòng thơ Việt giữa hai bờ truyền thống và hiện đại. Bằng tác phẩm và bằng cả cuộc đời, tác giả Bên kia sông Đuống đã đóng góp vào cuộc đấu tranh giải phóng văn nghệ, mãi cho đến lúc “ngọn lửa reo mòn tuổi tác”.

Men đá vàng: những mảnh đời rạn vỡ

Men đá vàng là tập thơ có sắc thái và địa vị riêng biệt trong tác phẩm Hoàng Cầm. Truyện thơ về người thợ gốm Bát Tràng làm năm 1973 in 1988, gồm phần dẫn nhập bằng văn xuôi thi vị, 13 trang và bốn chương thơ tự do, diễn tả tâm tình bốn nhân vật, ba người thợ gốm: cô gái Phong Kiều, người chồng, người cha và một người bạn đục đá. Truyện kể: người chồng mê chơi đi hoang, người vợ chờ mong hoá đá; chồng về hối hận khóc than, nước mắt thấm vào thân đá, bột đá hoà lệ thành men đá vàng, người cha nghệ sĩ tạo hình nung lửa tạo nên men gốm, trên đó cô gái Phong Kiều hồi sinh dưới hình tượng nghệ thuật: “ Từ chiếc bình men rạn nổi hình con phượng muôn màu ngậm mặt trăng nghiêng, cô gái Phong Kiều vươn vai đứng dậy (...) Trong bản tình ca hoà tấu tuyệt diệu của âm thanh, màu sắc, đường nét núi sông cây cỏ, Phong Kiều múa rẻo bàn tay làm hoa mưa hoa nắng. Cụ Hồng Châu đắm nhìn công trình sáng tạo tuyệt vời của con người Việt Nam và của chính mình” (tr. 20-21).

Dụng tâm tác giả khá rõ: một mặt ca ngợi nghệ thuật làm gốm lâu đời của quê anh, qua đó, anh nêu lên quá trình gian khổ của lao động nghệ thuật. Mặt khác, anh muốn dựa vào hư cấu đậm màu huyền thoại để thí nghiệm một ngôn ngữ thi ca mới, bằng cú pháp, nhịp điệu và hình ảnh khác lạ. Khi dồn hết tâm can vào việc kiến tạo ngôn ngữ, Hoàng Cầm cũng đã giãi bày nhiều tình cảm riêng tư: Men đá vàng có lẽ là tác phẩm Hoàng Cầm mang nhiều ẩn ức và u uẩn nhất.

Trong việc suy nghĩ, biên khảo về thơ trước đây, trong một thời gian dài, đã xa, tôi có chịu ảnh hưởng nhà bác học Gaston Bachelard, về những mạch thơ tuôn ra từ thể chất, từ không gian, từ tứ tượng trong vũ trụ quan phương Tây: đất, nước, lửa và không khí. Khi đọc thơ Hoàng Cầm về nghề gốm, tự nhiên, tôi nhớ lại Bachelard: gốm là hợp thể giữa đất và nước, thành hình trong ngọn lửa bừng trong không khí. Bachelard lại có những trang tuyệt vời về ngọn lửa tình và lửa dục4 thêm vào những suy nghĩ sâu sắc, độc đáo về thao tác quấy bột, gột hồ, nhào bột dậy men5. Gốm, từ vô thể biến thể thành hình thể, từ chất liệu vô tri hoá thân trong ngọn lửa, trở thành đường nét, màu sắc mang tâm tình, suy tư, mơ ước của con người. Đẹp quá. Tôi mang ngọn lửa trần gian soi vào thi phẩm Men đá vàng.

Tôi cũng có ít hành trang khác. Trong Về Kinh Bắc, Hoàng Cầm đã có những chùm thơ về ngũ hành: kim, mộc, thuỷ, hoả, thổ. Lại có chùm thơ về thực vật: Cỏ, Cây, Lá, Quả, về không gian: Gió, Nước, Khói, Sương, chứng tỏ có lúc nào đó, nhà thơ đã suy nghĩ về chất liệu, tư duy từ chất liệu. Trong cội nguồn thi hứng của anh, phải chăng đã có những giấc mơ thành hình từ thể chất, như Bachelard đã nói?

Và khi chọn nghề gốm để biểu trưng cho nghệ thuật, phải chăng lúc đầu – hay trong tiềm năng – Hoàng Cầm muốn tìm về những chất liệu sơ khai và “ ánh lửa sơ sinh” để nhào nặn nên một tác phẩm mới? Nghề gốm Bát Tràng là cơ hội lý tưởng, là truyền thống của quê hương mà anh thuộc lòng ngõ ngách. Nghề gốm đòi hỏi cần lao, kỹ thuật, nghệ thuật và may mắn, vì những thành quả bất ngờ gợi nên cõi huyền bí của thiên nhiên, chiều sâu tạo vật. Hòn đất vươn lên theo ngọn lửa, hoá thân thành chim muông, hoa lá, những rồng chìm phượng nổi, “màu son của đất pha ánh biếc của nước non (...) màu vàng của ngô lúa pha ánh hồng của những rạng đông huyền thoại” (tr. 18). Có cả tình yêu và tình dục bập bùng trong ánh lửa. Cô gái Phong Kiều, hình ảnh hoang tưởng của Nàng Thơ, âu yếm với ba người đàn ông cùng một lúc, cầm tay người chồng đã “ngày đêm canh sức lửa”, kề vai người bạn thợ đá, “ôm cả hai vai anh, run rẩy đặt môi hôn lên vầng trán”, và “đằ m thắm nở nụ cười quyến rũ” (tr .21) với chàng tuổi trẻ ái mộ nàng trên con đường đi tìm tình yêu và nghệ thuật.

Muốn đạt tới kết quả đó, bàn tay thao tác đã tư duy. Trí tuệ có khi chỉ nối dài tư duy của bàn tay. Nhào nặn thể chất, rung cảm bằng thể chất, bàn tay tiếp xúc, khám phá, mơ mộng và sáng tạo ngoài sự tham dự của trí tuệ. Đây là bài học của người thợ gốm “mười ngón tay chai tạc vó ngựa vàng cố lý”.

Một tiểu phẩm thủ công, khi vươn đến nghệ thuật, cũng đòi hỏi tâm huyết:

Xuống đất quánh ngà ngà pha lệ đỏ
Buồng gan hồng thạch
Dạ kim cương
(...) Nghe
lửa réo lò hồng
em níu vai anh mê ly
từng li ti mi li đất chín

Men đá vàng, tr. 32-34

Đến lúc người cha nghệ sĩ tạo hình truyền lệnh:

Men màu đâu ? Lên ngôi!
Men nâu lên
nình nịch vóc lực điền
vuông ngô lúa
tròn ao cá chép
vuông mùa xanh
tròn tiếp mùa vàng
(...) Men rạn lên ngôi
tia máu đan mành che bão táp
Nẻo người đi chằng chịt mấy muôn năm
ngang dọc nước sông Hồng

Men đá vàng , tr. 46-48

Từ chuyện gốm Bát Tràng, Hoàng Cầm đã sa đà vào phong cảnh đất nước quê hương, qua địa lý, lịch sử, cho Văn Lang, Hồng Bàng, lớp lớp cánh cung căng mùa dân tộc hát, tiếng trống đồng Ngọc Lũ vang đến Sao Đẩu Sao Ngưu... Nhưng anh mỗi lúc một xa chủ đề trung tâm, là... cái lò nung gốm.

Truyện người thợ gốm lẽ ra sẽ giản dị là chuyện hai bàn tay tạo tác, đào luyện, nhào nặn, nung đúc một chất liệu dẻo dai, gắn bó, bền chắc keo sơn, thành những đồ sành đồ sứ men ngọc men nâu nổi tiếng từ thời Trần thời Lý. Nhưng người đọc không thấy được sự hình thành của nghệ thuật qua những tác phẩm vững chãi, rắn rỏi với thời gian, mà chỉ thấy sau nhiều đợt hô phong hoán vũ, những chia ly, tan tác, chủ yếu là tâm sự Hoàng Cầm, người cha xa con, người chồng ân hận, người bạn hồi tâm. Những tình cảm đó đáng kính đáng trọng, lời thơ tế nhị hơn những bài tâm sự sau này trong tập Lá diêu bông (1993), nhưng vẫn làm loãng men đá vàng trong chủ đề. Hoàng Cầm yếu đuối, lạc đường vào tâm sự và lỗi hẹn với Đá Vàng; anh làm lỡ cuộc tình bỏng rát giữa lửa hồng và đất mịn.

Điều còn lại trong Men đá vàng sẽ là niềm nhớ mong da diết của người cha:

Thương con đứng thương
để vàng m en gọi ngồi th ương
Con hỡi Phong Kiều về đó
Men màu mơ giọt đỏ đọng lòng tay
rớm máu mẹ cha sinh
Thương con chín thương
đá vàng men gợi mười thương
Con hỡi Phong Kiều về đó

Men đá vàng , tr. 50

Hay bản tình ca tha thiết của người yêu:

Đá hãy lên men
Nổi khúc tiêu bồng cánh nhạn
Em nhớ thương ai
Ta làm mưa đưa trầm ngải
Trải ngàn xanh về hàn đắp hồn đau
Sớm đã da non hồng phấn dậy thì
Em xót thương ai
Ta làm ánh chớp (...)
dìu sợi tóc mai về thềm mai lất phất
Em mong chờ ai
Ta làm rơm ổ
Chiều thu ru lá đỏ ấm vai gầy

Men đá vàng , tr. 60

Men đá vàng mong được hiểu theo nghĩa thứ hai: lớp men nhớ nhung tráng lên kỷ niệm đau thương những cuộc đời tan tác, hơi men đắng cay bốc lên từ cảnh đá nát vàng phai, bình tan gương vỡ. Men đá vàng khô se manh áo tân hôn cuối giường em gửi lại (tr. 39). Tác phẩm là những mảnh tan vỡ của ngôn từ, rạn nứt từ cuộc đời ngang trái.


Đặng Tiến

Noël 1993




1 Georges BOUDAREL, Cent Fleurs écloses dans la nuit du Vietnam, nxb. Jacques Bertoin, Paris 1991, tr. 26 đến 46.

2 Hoàng Cầm, Con người Trần Dần, Nhân Văn số 1, từ 10 đến 20 tháng 9.1956, Hà Nội, tr. 2 và 4.

3 Hoàng Cầm, Tử Phác với điệu Múa Sạp, Tạp chí Âm nhạc, Hà Nội số 4-1993 Xuân 1993.

4 Gaston BACHELARD, La psychanalyse du feu, Gallimard, Paris 1949, chương 4.

5 Gaston BACHELARD, L’eau et les rêves, Essai sur l’Imagination de la matière, José Corti, Paris 1964, tr. 142-154.