30/6/11

Trần Hồ Dũng - TIỄN BIỆT

TIỄN BIỆT

Trần Hồ Dũng

“ Viếng bạn Trần Hữu Minh ( cựu HS KTĐN 1972-1975 )”


Kìa em xiêm áo lê thê
Khăn tang quấn vội
mắt tê tái nhìn
Ta đi vào cõi tử sinh
Lòng còn u uất
con mình còn thơ

Chia ly nào có ai ngờ
Thôi em ở lại,
hẹn hờ kiếp sau
Ta nằm yên đó
hồn đau
Nghe buồn theo tiếng kinh trầm trầm sa

Xin chào nhau giữa ta bà
Cảm ơn bè bạn từng là “ áo xanh” ̣
Áo xưa , dù đã phai màu
Nhưng tình xưa vẫn chưa nhàu bể dâu

Đội trời mây trắng trên đầu
Từ trong di ảnh ta chào biệt nhau
Hình như có tiếng kinh cầu
Tiễn ta về chốn không sầu hợp-tan
Xin chào một cõi nhân gian !

THD. Sài Gòn, 29/6/2011

28/6/11

Biển Đông và chuyện “con ếch chịu nóng” -

Biển Đông và chuyện “con ếch chịu nóng” -
Tác giả: Tô Văn Trường
Bài đã được xuất bản.: 28/06/2011


Cứ ngồi yên, và bị cảm giác cũng như thói quen cũ chi phối, chúng ta sẽ cảm thấy không có đe dọa (hoặc đe dọa quá nhỏ) thì đến một lúc nào đó sẽ vô cùng thiệt thòi, trở tay không kịp.

Đất nước đang đứng trước những thử thách cam go: lạm phát, giá cả tăng cao, chủ quyền biển đảo bị xâm phạm nghiêm trọng. Nổi cộm nhất hiện nay là mối quan hệ với nước Trung Quốc khổng lồ đã có rất nhiều điều phải nghĩ, phải nói, trong đó nổi cộm là vấn đề biển Đông.

Nhìn chung, nhân dân ta chưa được tiếp cận đầy đủ với các nguồn thông tin để đánh giá phân tích có được thái độ rõ ràng, do đó dư luận dường như tập trung vào tranh chấp chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa. Trong khi, mưu đồ và thủ đoạn, hành động nguy hiểm nhất, trái thực tế, lẽ phải và pháp lý nhất, xâm phạm đến lợi ích của nhiều quốc gia dân tộc nhất, đồng thời thiết cốt nhất đối với thủ phạm, và vì thế là chỗ yếu kém nhất của thủ phạm, chính là đường đứt khúc 9 đoạn, hay còn gọi là đường lưỡi bò bao trùm 3/4 diện tích Biển Đông mà Trung Quốc đang tuyên bố chủ quyền.

Chính đường lưỡi bò của Trung Quốc, chứ không chỉ sự giành giật chủ quyền hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, mới thực sự phi lý, thâm hiểm, mục đích chiếm toàn bộ biển Đông , nhốt nước ta và một số nước Đông Nam Á vào một cái rọ. Bởi thế, Việt Nam cần chủ động, khôn ngoan xây dựng chiến lược và sách lược phù hợp, phối hợp chặt chẽ với các nước Đông Nam Á có cùng chung trách nhiệm và quyền lợi đấu tranh một cách bài bản, hiệu quả với Trung Quốc cả trước mắt lẫn lâu dài.



Biển Đông đang "nổi sóng".

Đến nay, chúng ta đã tìm thấy bằng chứng rằng cách đây 30 năm, Trung Quốc đã âm thầm và có âm mưu chiếm biển Đông, đưa ra cả yêu sách "Đường đứt đoạn 9 khúc" vào các bài báo khoa học, có nghĩa là họ đã đi trước nhiều bước hơn chúng ta tưởng.

Qua các bài báo xuất bản ra thế giới chúng ta thấy rằng các tác giả Trung Quốc đã sử dụng bản đồ nước họ với đường lưỡi bò vô lý, ngay cả khi tính minh họa cho nghiên cứu không liên quan, ví dụ như khu vực nghiên cứu chỉ là các thành phố lục địa. Nhiều nhà khoa học Trung Quốc đã lập bản đồ quốc gia với "đường lưỡi bò" chiếm hầu hết biển Đông và công bố trên các tạp chí quốc tế từ cách đây 30 năm. Mặc dù trong các công bố khoa học này, họ chỉ đưa "hình lưỡi bò" một cách "lập lờ", không đưa bất cứ chú thích cụ thể nào về đường chữ U trong bản đồ là đường gì, nhưng ảnh hưởng của nó đến cộng đồng quốc tế vẫn rất lớn vì được đăng trên các các tạp chí khoa học uy tín trên thế giới. Trong khi đó, các bài báo của các nhà khoa học Việt Nam được công bố trên các tạp chí khoa học trên thế giới đã vừa ít, thậm chí lại vừa sai.

Có ý kiến cho rằng nếu chúng ta cứ ngồi yên, và bị cảm giác cũng như thói quen cũ chi phối, chúng ta sẽ cảm thấy không có đe dọa (hoặc đe dọa quá nhỏ) thì đến một lúc nào đó sẽ vô cùng thiệt thòi, trở tay không kịp, sẽ lại phải chấp nhận những việc mà trước đó nhiều năm chúng ta không thể chấp nhận.

Nhiều người còn nhớ phương Tây có câu chuyện ngụ ngôn “con ếch chịu nóng”. Nếu thả con ếch vào chậu nước sôi thì nó nhảy ra ngay, còn nếu thả nó vào chậu nước lạnh rồi đun nóng từ từ thì nó sẽ không nhảy ra mà chịu nóng cho đến khi bị luộc chín. Điều đó có nghĩa là sự mất cảnh giác, ngộ nhận, tự ru ngủ, quen dần với mọi đe dọa thật là nguy hiểm, nó dẫn người ta tới chỗ bị bất ngờ và tất nhiên là thất bại.

Có người còn vạch rõ tư duy về biển Đông của Trung Quốc giống như hình ảnh của con cá mập khi đã xác định được con mồi của nó quyết đuổi đến cùng để thỏa mãn cơn đói.

Sau khi nhận được hàng chục phản ứng của các nhà khoa học Việt Nam ở trong và ngoài nước về việc các bài báo của các nhà khoa học Trung Quốc có cả hình “lưỡi bò” phi lý, không theo luật quốc tế, ban biên tập tạp chí khoa học quản lý chất thải ở Ý hứa sẽ cho chỉnh sửa lại trong số xuất bản sắp đến.

Tuy nhiên, có tạp chí khoa học quốc tế như “Biến đổi khí hậu” cho biết GS Xuemei Shao Viện hàn lâm khoa học Trung Quốc là tác giả bài báo có hình lưỡi bò phản hồi là sẽ không chỉnh sửa vì đó là do yêu cầu của chính phủ Trung Quốc!? Qua đó, càng thấy rõ chính phủ Trung Quốc đã yêu cầu các nhà khoa học Trung Quốc sửa bản đồ, và chèn đường lưỡi bò vào trong bản đồ, bóp méo sự thật, đánh lừa dư luận thế giới để thực hiện âm mưu chiếm toàn bộ biển Đông.

Trong cuộc đấu tranh này, giới trí thức Việt Nam càng cần nêu cao ý thức, trách nhiệm của mình trước đất nước và dân tộc, đóng vai trò như những nhà ngoại giao kênh hai, "ngoại giao nhân dân" kịp thời thông tin chính xác ra thế giới, để bạn bè, quốc tế hiểu rõ thiện chí của Việt Nam, mưu đồ, thủ đoạn của Trung Quốc, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ quốc tế sâu rộng đối với dân tộc ta.

Chúng ta cần thông tin đầy đủ và rộng rãi hơn tới cộng đồng khoa học Việt Nam cả trong và ngoài nứớc và bạn bè ở các nước, đặc biệt là các nước Đông Nam Á về việc nhiều Tạp chí khoa học quốc tế đã vô tình đăng bài của các tác giả Trung Quốc có hình vẽ đường lưỡi bò ở biển Đông. Động viên cộng đồng khoa học Việt Nam gửi ý kiến tới Ban biên tập các Tạp chi khoa học có sai sót yêu cầu sửa chữa, hiệu đính, như đã làm có kết quả với Tạp chí của Hội địa lý Hoa Kỳ và Tạp chí khoa học Quản lý chất thải rắn của Ý.

Đối với Trung Quốc, đừng gộp người dân Trung Quốc và nhà cầm quyền Trung Quốc làm một. Nên nói về lợi ích chung chính đáng (hòa bình, ổn định, hữu nghị, thịnh vượng) của dân Việt Nam và dân Trung Quốc.

Cuộc sống thay đổi từng ngày, thế giới phẳng thay đổi từng giờ, trí thức là những người được học nhiều, biết rộng, biết vượt lên chính mình để không bị rơi vào trường hợp mà Shakespeare đã từng trách khéo: “càng thông minh hiểu biết nhiều càng hèn nhát”!

Thời gian vừa qua, cộng đồng trí thức Việt Nam ở trong và ngoài nước đã rất tích cực bám sát, phát hiện, phản ứng nhanh, hiệu quả trước việc một số Tạp chí khoa học quốc tế đưa thông tin sai lệch về vấn đề chủ quyền ở biển Đông. Giới trí thức Việt Nam chắc chắn cũng thấy rõ hơn bao giờ hết sứ mạng xã hội của mình, để tiếp nối ý nguyện của nhà thơ - nhà báo liệt sỹ Lê Anh Xuân là góp phần tạo nên một "Dáng đứng Việt Nam" trường tồn vững chắc bên biển Đông đầy sóng gió.

------------------------------
Source : tuanvietnam

Khi người Việt Nam xây phố dành riêng cho người Hoa? -

Khi người Việt Nam xây phố dành riêng cho người Hoa? -
Tác giả: Trần Minh Quân

29/06/2011
Nếu việc này cũng là tiền đề cho các địa phương khác đang có ý định "dời đô" noi theo thì rất nhiều khả năng sẽ tồn tại những khu phố người Hoa khác do chính Việt Nam xây dựng nên?


"Xuất khẩu" lao động phổ thông giá rẻ

Người Trung Quốc (người Hoa) di cư vào làm ăn, sinh sống tại Việt Nam từ rất lâu đời. Lần đầu tiên người Hoa di cư vào Việt Nam được ghi nhận là từ thế kỷ thứ 3 trước Công nguyên. Trong suốt 2 thiên niên kỷ tiếp sau đó, nhiều làn sóng người Hoa di cư sang Việt Nam với nhiều nguyên nhân, từ quan, lính, tội phạm ... đến những người phải trốn chạy khỏi các cuộc nội chiến triền miên ở Trung Quốc.

Sau những biến cố lịch sử, người Trung Quốc di cư đến Việt Nam ngày càng đông. Họ cư trú tập trung ở những nơi có điều kiện buôn bán và dần dần hình thành nhiều khu phố người Hoa. Đó là đô thị thương mại Vân Đồn thế kỷ 15, đô thị phố Hiến thế kỷ 16, đô thị Hội An thế kỷ 17 và đậm nét nhất phải kể đến là khu Sài Gòn - Chợ Lớn thế kỷ 18, 19.

Ngày nay, làn sóng di cư người Trung Quốc sang Việt Nam vẫn không ngừng gia tăng. Không giống như trước đây, người Trung Quốc đang di cư sang Việt Nam bằng nhiều con đường khác nhau nhưng chủ yếu là lao động phổ thông từ các gói thầu EPC. Theo thống kê không chính thức của các cơ quan báo chí thì hiện có khoảng 90% gói thầu EPC đang được các nhà thầu Trung Quốc thực hiện, trong đó, ngoài các nguyên vật liệu, thiết bị cần thiết thì ngay cả lực lượng lao động phổ thông cũng được các nhà thầu này "xuất khẩu" sang Việt Nam.

Hiện chưa có con số thống kê chính thức nhưng có thể nói số lượng người Trung Quốc nói riêng và người gốc Hoa nói chung đang hiện diện trên đất nước Việt Nam là rất lớn. Có lẽ, trong tất cả các sắc dân nước ngoài đang sống trên lãnh thổ Việt Nam thì người Hoa là cộng đồng dân cư nước ngoài có số lượng đông nhất.

Liệu đây có phải là một quyết định quá "ưu ái" cho cộng đồng người Hoa nơi đây nói riêng và các địa phương khác nói chung?

Công bằng mà nói thì người Hoa cũng đã ít nhiều góp phần vào sự phát triển kinh tế và làm tăng tính đa dạng của bản sắc văn hóa Việt Nam. Tuy nhiên, với sự xuất hiện ồ ạt những đối tượng lao động nhập cư đến từ Trung Quốc đang gây nên những mối lo ngại về an ninh trật tự nơi người Trung Quốc cư ngụ đông như đã từng xảy ra ở Ninh Bình và đang góp phần đẩy người lao động Việt Nam đến chỗ thiếu công ăn việc làm.

Trước đây, chính phủ Trung Quốc đã thành công trong việc "xuất khẩu" nông dân sang châu Phi thì một lần nữa họ lại rất thành công trong việc "xuất khẩu" lao động phổ thông giá rẻ sang các nước mà các nhà thầu mang quốc tịch Trung Quốc đang chiếm nhiều ưu thế như Việt Nam.

Khác với các quốc gia ở châu Phi, Việt Nam là một quốc gia với đặc điểm đất chật, người đông và nền kinh tế chủ yếu vẫn dựa vào nông nghiệp. Hiện nay, nhiều khu đất canh tác truyền thống thuộc dạng "bờ xôi, ruộng mật" đang dần nhường chỗ cho các dự án khác như khu công nghiệp, sân golf, ... Người Việt Nam đang đối diện với nguy cơ thiếu đất canh tác và đất ở nghiêm trọng. Nếu phải gồng mình chia sẻ tài nguyên đất đai vốn dĩ hạn hẹp với người dân nhập cư ồ ạt đến từ Trung Quốc thì không biết trong vài chục năm nữa, người dân Việt Nam sẽ đi về đâu?

Do điều kiện lịch sử, xã hội, cũng là một sự giao lưu tự nhiên, và do đặc điểm dân số quá đông của Trung Quốc, mà đến ngày nay, tại hầu hết các quốc gia và vùng lãnh thổ trên trái đất đều có sự hiện diện của cộng đồng người Hoa làm ăn, sinh sống. Tại đây, họ đều để lại những dấu ấn đậm nét Trung Hoa. Đó là những khu phố người Hoa không lẫn vào đâu được đang nằm rải rác khắp thế giới.

Tuy nhiên, một điều dễ nhận thấy là những khu phố người Hoa này đều do chính những người Hoa di cư đến tự thành lập và xây dựng nên. Sự có mặt và thành công của họ cũng chính là góp phần vào sự thịnh vượng của các quốc gia và vùng lãnh thổ mà họ đang sinh sống.


PHOTO
( Khu Đông Đô Đại Phố đang được triển khai đầu tư xây dựng ngay giữa trung tâm Thành Phố Mới ở Bình Dương )


Quyết định "ưu ái" cho cộng đồng người Hoa?

Trước những điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên đất đai đang rất hạn chế như đã nói đối với Việt Nam và lịch sử hình thành của những khu phố người Hoa trên khắp thế giới, thì việc xây dựng một khu phố mới toanh đặc biệt chỉ dành cho người Hoa như khu Đông Đô Đại Phố đang được triển khai đầu tư xây dựng ngay giữa trung tâm Thành Phố Mới ở Bình Dương, thực sự đang gây nên nhiều quan ngại. Khu phố này do chính Công ty Becamex IJC tỉnh Bình Dương làm chủ đầu tư.

Nhiều người sẽ đặt ra những nghi vấn rằng tại sao phải xây dựng một khu phố người Hoa mà không phải của một dân tộc nào khác ở ngay trung tâm đô thị được giới thiệu là trung tâm hành chính trong tương lai của một tỉnh? Tại sao không để một khu phố rất đặc trưng như vậy hình thành theo quy luật sinh tồn như vốn có của nó từ hàng nghìn năm nay trên khắp thế giới? Liệu người Việt Nam có bị bắt buộc phải không được bén mảng đến đây (trên chính đất nước Việt Nam) như tại một Casino quốc tế ở Đà Nẵng, hay một sân gofl ở ngay địa đầu Móng Cái?

Trong những năm qua, tại một số tỉnh thành phía Nam như Bình Dương, Đồng Nai, Tây Ninh bỗng đều đang có ý định "dời đô". Trong đó Bình Dương là một tỉnh đi đầu trong việc xây dựng một thành phố mới, là bước đệm cho việc di dời các cơ quan hành chính chủ chốt của tỉnh về thành phố này. Điều đáng nói là ngay sau khi đầu tư xây dựng một số cơ sở hạ tầng như đường sá, cầu cống, ... thì Bình Dương cho tiến hành ngay dự án dành riêng cho người Hoa? Liệu đây có phải là một quyết định quá "ưu ái" cho cộng đồng người Hoa nơi đây nói riêng và các địa phương khác nói chung?

Nếu việc này cũng là tiền đề cho các địa phương khác đang có ý định "dời đô" noi theo thì rất nhiều khả năng sẽ tồn tại những khu phố người Hoa khác do chính Việt Nam xây dựng nên? Khi đó, liệu người Việt Nam có bị đẩy lùi ra khỏi khu trung tâm của những thành phố mới trong tương lai? Và, khi bắt tay xây dựng những khu phố "dành riêng" khác tương tự liệu các nhà đầu tư Việt Nam có khi nào nghĩ đến trong một tương lai không xa, người Việt Nam sẽ không còn được làm chủ trên chính mảnh đất của mình?

SOURCE : TUANVIETNAM.NET

Louisa Lim - Khi kỷ nguyên “ẩn mình chờ thời” của Trung Quốc chấm dứt

Khi kỷ nguyên “ẩn mình chờ thời” của Trung Quốc chấm dứt -
Tác giả: Louisa Lim
Bài đã được xuất bản.: 28/06/2011

Tại căn cứ quân sự đảo Stonecutters ở Hong Kong, những người lính Trung Quốc nguỵ trang, lăn lộn diễn tập. Có những lời tán thưởng vang lên từ đám đông xem họ trình diễn. "Chúng tôi đã làm rất nhiều việc để xây dựng hình ảnh của mình ở Hong Kong”, Dư Tân, người vừa giúp du khách leo lên một chiếc tàu chiến vừa nói. “Tôi nghĩ mọi người không nên sợ hãi, bởi vì sau tất cả, chúng tôi ở đây để bảo vệ đất nước”.

Bấy lâu nay, Bắc Kinh luôn khẳng định rằng, quân đội của họ trước tiên là để phòng thủ, nhằm mục tiêu bảo vệ chủ quyền lãnh thổ của Trung Quốc. Tuy vậy, tốc độ phát triển quân sự của Trung Quốc đang làm các nước láng giềng và cả Mỹ bất an.

Quan chức quốc phòng Trung Quốc nhấn mạnh, quân đội nước này (gọi tắt là PLA) còn tụt hậu sau quân đội Mỹ nhiều thập niên, khi họ gắng biện minh cho 20 năm gia tăng ngân sách quân sự gần như luôn ở mức hai con số. Rất nhiều người Trung Quốc cũng đồng tình như thế, ví dụ như Lai Pau Mok. "So với Mỹ, còn con đường rất dài phía trước", ông nói. Như nhiều người Trung Quốc khác, ông tin là một quân đội mạnh là điều cần thiết để đối trọng với Mỹ. "Nếu quân đội của chúng tôi đủ mạnh, sẽ không có chiến tranh. Nếu quân đội của chúng tôi không đủ mạnh, chiến tranh sẽ tới".

Qua rồi lúc "ẩn mình chờ thời"?

Khi Hong Kong trở về Trung Quốc năm 1997, rất nhiều cư dân Hong Kong đã lo lắng khi binh lính Trung Quốc ầm ầm qua biên giới. Nhưng tình hình bây giờ khác hẳn. "Trung Quốc ngày càng trở nên mạnh hơn. Tất cả mọi người đều thấy tự hào với thực tế này", một người khác trong đám đông nói.

Thật vậy, những vũ khí quân sự mới của Bắc Kinh đã khiến giới tình báo quốc phòng Mỹ cảm thấy bất ngờ, như ông chủ Lầu Năm Góc Robert Gates công khai thừa nhận trong tháng 1. Trung Quốc đã tiến hành bay thử loại máy bay tàng hình mới đầu tiên J-20 đúng vào lúc ông Gates thăm Bắc Kinh hồi tháng 1. Và giờ đây, Trung Quốc đã gần như hoàn thành con tàu sân bay đầu tiên mang tên Varyag - con tàu được nâng cấp sau khi mua từ Ukraine.

Tuần trước, Tổng tham mưu trưởng PLA Trần Bỉnh Đức lần đầu tiên đã chính thức xác nhận về sự tồn tại của con tàu nay. Ông nói: "Tàu sân bay giờ đây đang được xây dựng, và chưa hoàn tất".

"Họ thay đổi tàu Varyag từng ngày, từng giờ", Andrei Chang, chuyên gia nghiên cứu quốc phòng châu Á nói. "Chúng ta đã chứng kiến họ lắp đặt hệ thống điện tử, ăng ten radio - tất cả mọi thứ đã được thực hiện".

Ông tin là, con tàu chủ yếu sử dụng cho mục tiêu huấn luyện trong khi Trung Quốc nỗ lực chuẩn bị xây dựng tàu sân bay của chính họ. Hạm đội tàu sân bay Trung Quốc cuối cùng có thể thay đổi cán cân sức mạnh quân sự, đe doạ ưu thế Mỹ ở Thái Bình Dương.



Một cuộc thăm dò tại Trung Quốc hồi tháng 5 cho thấy, phần lớn dân nước này ủng hộ việc có tàu sân bay, với 81,3% người được hỏi tin là, tàu sân bay sẽ là cột trụ cho sức mạnh quân sự tổng thể của Trung Quốc" và 50,9% người nói rằng, nó sẽ là đối trọng với Mỹ.

Tuy nhiên, theo Chang, đây chỉ là m ột thứ vũ khí trong cả kho vũ khí của Trung Quốc. "So với Nga và Mỹ, chỉ có Trung Quốc đồng thời xây dựng cả tàu sân bay, tàu ngầm trang bị tên lửa đạn đạo chiến lược, máy bay tàng hình, tàu ngầm hạt nhân tấn công, vệ tinh GPS, tất cả mọi thứ cùng một lúc", Chang nói.

Tốc độ gia tăng quân sự cùng với sự phát triển mạnh mẽ của chủ nghĩa dân tộc, sự tự tin có thể là dấu chấm hết cho một kỷ nguyên "ẩn mình và chờ thời" mà các nhà lãnh đạo Trung Quốc trước đây chủ trương theo đuổi. Bắc Kinh đã thể hiện sự quả quyết mới, công khai các cuộc tập trận quân sự và đưa ra quan điểm cứng rắn hơn, thậm chí là gây hấn ở biển Hoa Đông và Biển Đông.

Trong bối cảnh gia tăng căng thẳng với Việt Nam và Philippines quanh vấn đề chủ quyền Biển Đông, Bắc Kinh đã tiến hành các cuộc diễn tập phòng thủ hàng hải, đổ bộ bãi biển và điều động một trong các tàu tuần tra hàng hải lớn nhất của mình tới Biển Đông. Và cách nhìn của dân Trung Quốc dường như còn cứng rắn hơn thế; cho dù Bắc Kinh cam kết không sử dụng vũ lực, nhưng kết quả một cuộc thăm dò cho thấy, 82,9% người Trung Quốc được hỏi đề nghị Trung Quốc nên sử dụng các hành động quân sự để giải quyết tranh chấp ở Biển Đông.

Nhưng có một số người tin rằng, tham vọng quân sự của Trung Quốc không còn là điều mới mẻ. "Giấc mơ quân sự của Trung Quốc là xây dựng một quốc gia mạnh nhất thế giới, số 1 trong sức mạnh quân sự", Đại tá Lưu Minh Phúc nói trong cuộc phỏng vấn đăng trên trang web Tạp chí Người quan sát Quốc phòng như vậy. Cuốn sách của ông "Giấc mơ Trun Quốc" được dạy trong các trường quân sự Trung Quốc.

Tuy nhiên, ông bác bỏ rằng, quân đội Trung Quốc là mối đe doạ. "Chúng tôi quá yếu và không an toàn", Lưu nói. "Mỹ tiến hành các cuộc tập trận quân sự ngay cửa ngõ của chúng tôi và sử dụng các tàu sân bay để phô trương sức mạnh quân sự. Từng người Trung Quốc đều có thể cảm nhận mối đe doạ quân sự từ Mỹ. Ngăn chặn Mỹ là động lực lớn nhất đằng sau sự phát triển quân sự của Trung Quốc".

Thời thế đổi thay

Nhiều người trong giới quân sự Trung Quốc đã cố gắng giảm nhẹ ý tưởng về một "mối nguy Trung Quốc" khi khẳng định rằng, mục tiêu của Trung Quốc không phải là bành trướng. "Chúng tôi chỉ muốn một điều: Đừng gây hại cho các lợi ích của chúng tôi", vị tướng về hưu Hứa Quảng Ngọc nói. Nhưng điều cần chú ý ở đây là, các lợi ích của Trung Quốc đang mở rộng với tốc độ chóng mặt, bao gồm nhiều tuyến đường hàng hải, các kênh cung cấp dầu khí và số lượng ngày càng lớn công dân Trung Quốc ở nước ngoài.

"Mỹ phải chấp nhận rằng, tình thế đang thay đổi. Khi Trung Quốc trở nên hùng mạnh hơn, chúng tôi sẽ bắt đầu bày tỏ ý kiến, quan điểm về các nhu cầu hàng hải của mình, và về bất kỳ cuộc xung đột nào liên quan tới các lãnh thổ xung quanh", ông Hứa quả quyết. Ông mô tả lập trường an ninh của Trung Quốc là "chủ động phòng thủ" và nói, Bắc Kinh không có ý định thiết lập các căn cứ quân sự ở nước ngoài hay thế chân Mỹ trở thành một "cảnh sát toàn cầu".

Tuy nhiên, có nhiều tiếng nói hiếu chiến hơn, thậm chí trở nên lớn tiếng hơn trong cuộc tranh cãi về sự mở rộng quân sự của Trung Quốc. Thời báo Hoàn cầu - tờ báo chính thống mang đậm chủ nghĩa dân tộc của Trung Quốc, gần đây đăng tải bài xã luận thúc giục Trung Quốc lập căn cứ quân sự ở nước ngoài.

"Nếu thế giới thực sự muốn Trung Quốc có trách nhiệm hơn trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương và khắp thế giới, họ nên để Trung Quốc tham gia hợp tác quân sự quốc tế và hiểu rõ nhu cầu của Trung Quốc trong việc xây dựng căn cứ quân sự ở nước ngoài", bài xã luận viết. "Nó sẽ không chỉ làm cho thế giới của chúng ta an toàn hơn, mà còn có thể bảo vệ các tuyến đường thương mại khỏi hải tặc và khủng bố. Lo lắng về hành động quân sự ở nước ngoài của Trung Quốc sẽ chỉ cô lập Trung Quốc với phần còn lại của thế giới".

Có lẽ với hy vọng xoa dịu những căng thẳng, gần đây Trung Quốc đã cử ban nhạc quân đội (tháp tùng một vị tướng chỉ huy) tới Mỹ và có buổi biểu diễn cùng với ban nhạc quân đội Mỹ. Về mặt tuyên bố công khai, cuộc hội đàm của các nhà lãnh đạo quân sự hai bên được cho là hợp tác, hữu nghị. Nhưng nhiều người e ngại rằng, tốc độ hiện đại hoá quân sự nhanh chóng của Trung Quốc lại thể hiện bằng thứ ngôn ngữ khác.

Thuỵ Phương (Theo NPR)

Source : TUAN VN

Dan Blumenthal - Mạng lưới quân sự châu Á

Mạng lưới quân sự châu Á -
Tác giả: Dan Blumenthal

29/06/2011

Giờ đây người ta đã hiểu ra rằng Châu Á sẽ trở thành trung tâm địa- chính trị trong thế kỷ 21 và cuộc chạy đua mới nảy sinh giữa Hoa kỳ và TQ về an ninh sẽ định hình tương lai của khu vực , rồi qua đó định hình cả tương lai Thế giới. Cho dù có như vậy hay không thì Hoa kỳ vẫn có thể nhìn lại để hài lòng về chính sách ở Châu Á sau Thế chiến II của mình.

Trong một khoảng thời gian tương đối ngắn, đa số các quốc gia Á châu đã thoát nghèo và trở nên thịnh vượng, xã hội từ chỗ hỗn loạn, dễ tổn thương đã trở nên tương đối có trật tự và ổn định về an ninh. Hơn thế nữa, các quốc gia đó đã đạt được các mục tiêu trên trong khi theo đuổi một thứ chủ nghĩa tư bản dân chủ. Chính sách của Hoa kỳ đã góp phần tạo nên những thành quả đó xét trên 3 phương diện: Sức mạnh được phô diễn của Mỹ là tấm lá chắn bảo vệ những thay đổi đó; Mô hình phát triển kinh tế và quy chuẩn Mỹ sau Thế chiến II đã tạo cảm hứng cho các quốc gia đó; Và khi cần thiết Tổng thống Mỹ đã thúc đẩy những người bạn Châu Á đi theo những định hướng đúng đắn.

Cùng thời gian đó, một cách mỉa mai, chính sách của Hoa kỳ đã làm nảy sinh ra những thách thức mới cho chính mình. Có lẽ kẻ được hưởng lợi nhiều nhất từ chính sách của Hoa kỳ trong suốt nhiều năm kể từ khi chiến tranh Triều tiên kết thúc chính là TQ. Quốc gia này đã đắc lợi từ việc hình thành hệ thống kinh tế quốc tế do Mỹ chủ xướng và đặc biệt là sự thành công của chính sách ngăn chặn Liên Xô cũng như chủ trương của Hoa kỳ tiếp tục duy trì ưu thế quân sự của mình ngay cả khi Liên Xô đã sụp đổ. Thế nhưng TQ không như với các quốc gia Châu Á khác, đã không hề chấp nhận cái phần "dân chủ" trong tổng thể "CNTB dân chủ" và kết quả là con đường hiện đại hóa theo kiểu lai ghép có thể gây nguy hại cho tương lai hòa bình ở Châu Á về lâu dài nếu các nhà lãnh đạo TQ cố gắng sử dụng thế lực mới nổi của mình để thay đổi các trật tự địa- chính trị vốn đã hình thành.

Mục tiêu tham vọng của Trung Quốc chính là các đồng minh Châu Á của Mỹ vì lẽ định hướng tương lai của các quốc gia này sẽ có tầm ảnh hưởng không chỉ khu vực mà còn mang tính toàn cầu. Trong khi Hoa kỳ muốn tiếp tục một trật tự thương mại cởi mở và hòa bình ở khu vực, phát triển dân chủ và không phổ biến vũ khí hạt nhân thì chính phủ TQ lại có những ưu tiên khác.

Trước hết , TQ muốn có một Châu Á an toàn dưới sự lãnh đạo liên tục của mình. Điều này có nghĩa là phải tăng cường sức mạnh quân sự để gây áp lực chính trị lên xu hướng mở rộng tự do. Công thức này rõ ràng đã hoạt động khi TQ đã trỗi dậy mạnh mẽ hơn thì lời kêu gọi cải cách chính trị của Phương Tây đã bị phớt lờ. TQ còn sử dụng quân đội để làm thất bại mọi mối đe dọa đòi ly khai trong nước hoặc từ phía Đài Loan. ĐCS hay quân giải phóng nhân dân (ngày càng tỏ ra cứng rắn hơn trong việc chia sẻ quyền ra quyết định của chính quyền Bắc kinh) đang tìm kiếm nhiều hơn quyền kiểm soát các vùng biển ngoại vi , cụ thể như Đông hải, Hoàng hải và Biển Nam Trung hoa.

Điều này đang diễn ra vì 3 lý do sau đây: Thứ nhất, Bắc kinh tin tưởng vững chắc rằng quyền lực mạnh hơn sẽ cho phép phủ quyết bất kỳ ai hoạt động gần bờ biển của mình. Thứ hai, TQ muốn sử dụng sức mạnh như công cụ đòn bẩy để giải quyết những tranh chấp lãnh thổ kéo dài với Nhật, Đài Loan và nhiều quốc gia ASEAN theo điều khoản riêng của mình đặt ra. Và cuối cùng, Bắc kinh muốn thể hiện quyền lực xa hơn trên biển nơi mà có phần lớn sự giao thương của họ đi qua. Những ước nguyện đó đã thách thức quyền lợi hợp pháp của các đồng minh Hoa kỳ ở Châu Á và đặt ra câu hỏi về độ tin cậy những cam kết của Mỹ đối với các đồng minh này.

Điều đó không báo hiệu một cuộc chiến tranh lạnh mới sẽ xảy ra . Đó chỉ là một phép ẩn dụ để hiểu một thực tế mới hình thành mà thôi. Trong trường hợp này mức độ hội nhập kinh tế, thương mại gia tăng sẽ diễn ra đồng thời với quá trình chạy đua vũ trang khẩn trương không chỉ giữa TQ và Mỹ mà còn giữa các quốc gia trong khu vực . Để duy trì trật tự ở Châu Á chính phủ Mỹ sẽ tìm cách củng cố khả năng ngăn chặn xung đột, tái cam kết trách nhiệm bảo vệ đồng minh và khi cần thiết phải kiểm soát các tuyến đường hàng hải huyết mạch của hệ thống thương mại quốc tế.

Trái lại, TQ tìm mọi phương tiện để ép buộc và hăm dọa các láng giềng đồng thời thể hiện sức mạnh trên những vùng biển lân cận trong khi vẫn cố gắng phá hoại ngầm nhằm làm xói mòn lòng tin của các đồng minh Hoa kỳ vào khả năng Washington bảo vệ họ.

TQ còn đóng một vai trò khó xác định trong những thách thức đối với Mỹ ở khu vực Đông Bắc Á và Đông Nam Á. Một nhà nước Bắc Triều tiên không ổn định, được trang bị vũ khí hạt nhân có thể đe dọa cả Nam Hàn và Nhật bản với sức tàn phá chưa thể tính được, và nếu vào một ngày nào đó chế độ này sụp đổ thì chưa một ai có thể suy đoán được TQ sẽ phản ứng ra sao. Cuối cùng , các đối tác ASEAN - những quốc gia đang phải đối mặt với sự đe dọa của phong trào ly khai và thánh chiến Hồi giáo (Jihad) giờ đây còn thêm một gánh nặng là đấu tranh với những yêu sách của TQ về hành lang trên biển Đông Nam Á dẫn ra tới tận Ấn độ dương .

Washington thích ứng khá chậm chạp trước thực trạng này và đã đến lúc cần khẩn cấp suy tính và thiết lập lại hệ thống đồng minh của Hoa kỳ ở Châu Á . Hệ thống hình thành trong chiến tranh lạnh nhằm đáp ứng những mục tiêu lúc đó rõ ràng là không thể phục vụ được các mục đích hiện nay cũng như trong tương lai.

Ba đời Tổng thống trong một giai đoạn 20 năm chỉ điều chỉnh bên lề chiến lược của Hoa kỳ trước thực tế mới ở Á Châu. Trong một Châu Á- Thái bình dương đang chuyển biến nhanh chóng thì những thay đổi khiêm tốn của Hoa kỳ cũng tương đương với sự thất bại. Và sự thất bại đó cũng là điều dễ hiểu. Tất nhiên không có gì lại có thể nuôi dưỡng thất bại dễ hơn là chính thành công. Nhưng một khi đã thừa nhận điều đó thì cũng có thể hiểu rằng tình trạng này sẽ không thể kéo dài lâu hơn nữa.

Mục đích của tôi ở đây là phác thảo ra một cách sơ bộ mô hình an ninh ở Châu Á trong thời kỳ chiến tranh lạnh - hay còn gọi là mô hình " TRỤC BÁNH XE VÀ NAN HOA" đồng thời chỉ ra mô hình phù hợp để thay thế nó theo kiểu " ĐIỂM ĐỐI ĐIỂM".

Những nét phác thảo chủ yếu liên quan đến các vấn đề an ninh. Một điều chắc chắn là vấn đề đồng minh có tầm quan trọng hơn việc hoạch định một kế hoach quân sự rất nhiều, tuy vậy việc hoạch định lại là nền tảng của mọi cơ cấu đồng minh, bởi lẽ, nếu thất bại trong việc đặt nền móng thì chắc chắn sẽ dẫn đến sụp đổ mọi nỗ lực ban đầu.

Ảnh minh họa: AP

CHIẾN LƯỢC AN NINH VÀ HỆ THỐNG ĐỒNG MINH

Mô hình an ninh cũ (đã từng thành công) ở Châu Á như đã nêu trên, ban đầu dựa trên nguyên tắc của hệ thống "trục bánh xe và nan hoa" gồm các đồng minh Nhật bản, Nam Hàn, Australia, Thailand và Philppines. Washington còn có một đội ngũ các đối tác an ninh gần gũi tuy không là đồng minh như Đài Loan, Singapore và đôi khi cả Indonesia.

Ngoại trừ Australia có riêng hệ thống quân sự tầm cỡ quốc tế , các đồng minh khác trao đổi với Hoa kỳ theo cách giống nhau, đó là: đảm đương vai trò cung cấp cơ sở hậu cần, bến cảng cùng các dịch vụ hỗ trợ sự có mặt của quân đội Hoa kỳ ở nước họ. Một vài quốc gia đồng minh gửi quân hỗ trợ Hoa kỳ trong một số cuộc xung đột chẳng hạn như Afganistan, Iraq hay chiến tranh Việt nam trước kia. Để đổi lại, Hoa kỳ đảm nhận nhiệm vụ bảo vệ các đồng minh này.

Nhờ có sự trao đổi đó quân đội Mỹ có thể kịp thời phản ứng đối với các cuộc khủng hoảng từ những căn cứ tiền tiêu và tiếp viện cho các đơn vị trên đất liền ở Châu Á từ Thái bình dương. Có lẽ điều quan trọng nhất đó là chính sách của Hoa kỳ đảm bảo rằng nếu các quốc gia đồng minh bị đe dọa hoặc bị tấn công bởi vũ khí hạt nhân thì Washington sẽ thay mặt họ để đáp trả lại đích đáng. Chiến lược đồng minh sau Thế chiến II không chỉ đóng góp cho hòa bình, ổn định và tăng trưởng ở Á Châu mà nó còn ngăn chặn Nhật bản và những nước khác trang bị vũ khí hạt nhân.

Trong một vài trường hợp, chẳng hạn như Australia và Singapore là các đối tác độc lập của Hoa kỳ có thể tự bảo vệ mà không cần giúp đỡ nên cũng góp phần cho nền an ninh chung của khu vực. Đối với những trường hợp các đồng minh có tiềm năng như Nam Hàn , Nhật bản và Australia chính phủ Mỹ đã đàm phán bố trí một số sư đoàn nhân viên quốc phòng số lượng hạn chế.

Trong khi Washington đảm nhận việc ngăn ngừa tấn công chủ yếu thì Nhật bản tiến hành các hoạt động trình độ cao đối với hạm đội tàu ngầm trong suốt thời chiến tranh lạnh còn Nam Hàn nhận gánh vác trọng trách phòng thủ chống xâm lược bằng bộ binh. Australiacó thể tự phòng thủ và đã tham gia can thiệp vào một số hoạt động ở Nam Thái bình dương để đảm bảo sự ổn định vùng lãnh hải ngoại vi của mình.

Tuy nhiên tồn tại những mối quan hệ đối tác của Hoa kỳ ở Châu Á mang tính một chiều , đó là trường hợp của Đài Loan - chủ yếu là mua sắm, trang bị vũ khí Mỹ , trong khi đó Indonesia lại rất không kiên định trong việc xác lập bất cứ một kiểu mẫu hợp tác quân sự nào, và kể từ năm 1992, quân đội Mỹ đã rút khỏi căn cứ hải quân ở vịnh Subic cũng như căn cứ không quân Clark thì quan hệ đồng minh với Manila đã bị hạ xuống mức chỉ còn là hoạt động hỗ trợ chống khủng bố khá khiêm tốn.

Các đối tác mới tiềm năng như Ấn độ và Việt nam đang còn chờ sau cánh gà sân khấu nhưng ngay chính họ và cả Washington đều không xác định được tiêu điểm để tập trung mọi nỗ lực chiến lược vào đó. Các mối quan hệ đồng minh của Hoa kỳ như vậy chỉ là một tập hợp không đồng đều giữa sự hợp tác ở cấp độ cao với tiềm năng còn đang ẩn giấu và không có quy định rõ ràng về việc bên nào sẽ làm gì trong bối cảnh mang tính ngẫu nhiên.

Trong khi mô hình "trục bánh xe và nan hoa" được định hình một cách thực dụng bởi tính linh hoạt , đa mục tiêu nên đã cho phép Hoa kỳ (với vai trò "trục bánh xe") và các đồng minh (là các "nan hoa") phản ứng khá mềm dẻo và nhạy bén thì sự thách thức ngày nay mà TQ đang đặt ra lại làm cho tính phân công rõ ràng, minh bạch mang một tầm quan trọng đặc biệt.

Ngày nay, từng đồng minh một đều nêu lên sự cần thiết phải ràng buộc lẫn nhau trong một mạng lưới tập thể có thể giúp họ cùng hành động kịp thời , ngay cả khi không cần có Hoa kỳ.

Nhu cầu về tốc độ và sự rõ ràng trong trường hợp này phát sinh từ sức mạnh về không quân và tên lửa ghê gớm của quân Giải phóng nhân dân TQ cũng như các lực lượng hải quân trên mặt nước và tàu ngầm, cùng năng lực tác chiến gây chết người của các phương tiện điện tử, thông tin. Tất cả những yếu tố đó đang đe dọa khả năng đáp trả kịp thời của Mỹ từ các căn cứ tiền tiêu được tiếp viện bởi những cơ sở trên biển và trên không trung thuộc Bộ chỉ huy quân sự Thái bình dương.

Tên lửa và phi cơ TQ ngày nay có khả năng với tới những căn cứ đóng quân tiền đồn của Mỹ trong khu vực, hải quân TQ có thể ngắm bắn các tàu chiến Hoa kỳ trên mặt nước trong khi còn đang tiếp cận quân cảng của đồng minh. Vì lẽ lực lượng tàu ngầm của TQ đã được triển khai trong vùng Thái bình dương và năng lực tấn công chính xác ở tầm xa của họ được cải thiện nên khả năng điều hành và "quản lý đến từng con sóng" của Washington như Dean Rusk (nguyên Bộ trưởng quốc phòng Hoa kỳ dưới thời John Kennerdy và Lincon Johnson - ND) đã có lần nêu lên sẽ không còn là hiện thực nữa.

Sự đáp trả mang tính biểu tượng của Hoa kỳ đối với khủng hoảng ở Châu Á giờ đây trong trí nhớ của người dân khu vực chỉ còn là việc điều tàu chiến từ Yokosuka Nhật bản tới hải phận gần Đài Loan năm 1996 nhằm làm dịu cơn nổi giận bùng lên sau khi TQ thử tên lửa ở đó. Còn rất nhiều những ví dụ khác minh chứng cho đường lối của Hoa kỳ đối với vấn đề an ninh ở Châu Á, chẳng hạn như các cuộc tập trận gần đây trên biển Hoàng hải nhằm ngăn chặn sự xâm lược của Bắc Triều Tiên.

Quả thực là cựu giám đốc cơ quan tình báo quốc gia Dennis .C.Blair từng nhận xét rằng quân đội Hoa kỳ đã kiên định triển khai sức mạnh ở Châu Á, đó là chiến đấu ở Triều tiên hay Việt nam, khôi phục lại sự có mặt của đội tàu chiến ở Ấn độ dương , ngăn chặn đảo chính ở Philippines, triển khai hoạt động nhận đạo rộng lớn ở Indonesia hay tiến hành hàng loạt các cuộc tập trận hàng năm "làm cho quân đội Mỹ trở thành một bộ phận của của cơ cấu địa- chính trị khu vực" ( 1 ).

Tuy nhiên ngày nay chúng ta buộc phải ít tự tin hơn năm 1996 khi xảy ra vụ việc ở eo biển Đài Loan bởi vì TQ không chỉ có thể tiêu diệt phần lớn quân đội Đài Loan trước khi Washington kịp đáp trả mà họ còn có thể ngắm bắn các cảng của Nhật và các tàu của Mỹ trên đường tới bảo vệ hòn đảo này. Nhờ sự gia tăng lực lượng hơn trước kia nhiều nên TQ sẽ không dễ gì cho Mỹ sử dụng các vị trí tiền tiêu để tấn công mà không bị đánh trả đồng thời cản phá việc tiếp viện từ Thái bình dương. Hoạt động quân sự của Mỹ ở Châu Á giờ đây mang tính rủi ro cao hơn đối với các lực lượng của chính họ và cả các quốc gia hỗ trợ cho sức mạnh Hoa kỳ.

Sự việc còn tồi tệ hơn vì TQ đã có uy thế của các vũ khí quy ước đủ để đánh đòn phủ đầu và đã bố trí chúng dọc bờ biển duyên hải (điều này có nghĩa là TQ có khả năng tấn công phủ đầu cả Mỹ và các đồng minh trong khu vực), hơn nữa mối hiểm nguy của vũ khí hạt nhân cũng sẽ leo thang.

Tất cả các đồng minh của Hoa kỳ đều nhận thức rõ sự thay đổi này thế nhưng chưa có cuộc đối thoại liên minh chiến lược nào được tiến hành nhằm đưa ra một kế hoạch phối hợp hành động tập thể. Trái lại , từng quốc gia đồng minh lại tự mình bắt đầu một chương trình hiện đại hóa quân đội . Đa số các quốc gia này tiến hành hiện đại hóa đội tàu ngầm và khả năng chống tàu ngầm, trang bị khu trục hạm có hệ thống bảo vệ Aegis chống trả lại tối đa sự tấn công của tên lửa và máy bay, cải thiện năng lực điều hành tác chiến, điều khiển, liên lạc, vũ khí tin học, giám sát và do thám ( C4ISR ) , đồng thời mua thêm máy bay tiêm kích, tàu chiến cũng như tên lửa chống hạm.

Tuy nhiên có một nhận thức mang tính quy ước rằng các đồng minh sẽ không muốn phải lựa chọn giữa Hoa kỳ hoặc TQ mà rõ ràng họ đã có giải pháp : đó là phải tự cân bằng với sức mạnh đang lên của Trung hoa.

Trong bối cảnh đó Washington cần phải ủng hộ những định hướng của đồng minh đồng thời cần gắn kết chúng lại . Không có một đồng minh riêng rẽ nào đủ tiềm lực để hoàn thành tất cả những nhiệm vụ chiến lược đang đặt ra trước khu vực. Và , trong lúc Mỹ hoan nghênh quá trình hiện đại hóa quân đội của các quốc gia đồng minh thì vẫn cần phải ngăn chặn việc phổ biến vũ khí hạt nhân và tăng cường năng lực cạnh tranh của mình ở khu vực.

Để thực hiện cả hai chiến lược đó Washington vẫn phải là người gìn giữ an ninh khu vực , do vậy Hoa kỳ cần nhận được sự hợp tác nhiều hơn trước kia.

Một tin tốt lành là trong 10 năm tới đa số các quốc gia đồng minh sẽ được trang bị nhiều thiết bị tương thích trong vận hành với khí tài của quân đội Mỹ. Đó là điểm khởi đầu tốt đẹp để hình thành nên một liên minh nhiều bên gắn kết với nhau hơn. Đa số các bạn bè của Hoa kỳ sẽ có máy bay chiến đấu thế hệ 5 chẳng hạn như F-35 hoặc thế hệ 4 như F- 16 và F- 18 , tàu ngầm Diesel và khu trục hạm có trang bị hệ thống phòng thủ Aegis.

Tin không vui là thói quen hợp tác hãy còn rất khiêm tốn, di sản của sự nghi kỵ giữa một số quốc gia đồng minh của Hoa kỳ hãy còn đáng kể và mối hiềm khích có liên quan tới vấn đề chủ quyền phát sinh hàng trăm năm trước từ thời thực dân để lại vẫn sẽ là vấn đề gay gắt trong một liên minh nhiều bên. Hơn nữa, bản thân Washington còn đang gắn bó sâu sắc với mô hình đồng minh hiện nay. Cuối cùng thì sau những sự phản đối om xòm và vận động nỗ lực TQ đã ra điều kiện cho khu vực về việc dành quyền ưu tiên phản đối mọi đề nghị tiến tới một sự gia tăng gắn kết liên minh.

Quả là khó khăn để khắc phục những cản trở này nhưng tương lai của Châu Á đòi hỏi phải phấn đấu nhiều hơn để vượt lên. Khái niệm về một chiến lược được chia xẻ nhắm tới hành động liên minh gắn kết sẽ làm gia tăng độ rủi ro đối với bất kỳ kẻ xâm lược nào nếu chúng xuất hiện.

Mục tiêu của đồng minh là cho kẻ xâm lược biết rằng nếu tấn công vào một thành viên của liên minh sẽ đánh thức sự tức giận của mọi thành viên còn lại. Cách tiếp cận này sẽ củng cố đáng kể sự ổn định khu vực.

Hơn nữa có những lý do vững chắc xét về phương diện hoạt động thực tế ủng hộ một liên minh gắn kết chặt chẽ hơn : chẳng hạn như không thể bảo vệ Nam Hàn hay Đài Loan nếu như không có hỗ trợ từ phia Nhật bản , hoặc như để bảo đảm hành lang an toàn đi từ Thái bình dương sang Ấn độ dương không thể không có sự hỗ trợ từ phía Singapore, Ấn độ, Indonesia và Australia. Và trên hết, không còn cái thời mà Washington đóng vai trò gìn giữ hòa bình mà không cần sự hỗ trợ từ phía các đồng minh của mình. Không thể có tự do hành động trên Thái bình dương hay vùng biển Châu Á , đã đến lúc cần tới nhiều hơn sự trợ giúp từ các đồng minh nhằm ngăn chặn các cuộc xung đột và đáp trả chúng kịp thời .

Còn tiếp....

TS. Phạm Gia Minh dịch từ American Interests" số tháng 5-6 /2011

SOURCE : TUANVIETNAM.NET

Đào Trinh Nhất - Thế lực Khách trú và vấn đề di dân vào Nam Kỳ (Kỳ 2)

Thế lực Khách trú và vấn đề di dân vào Nam Kỳ (Kỳ 2) .

Đào Trinh Nhất .

.



THẾ LỰC CÁC CHÚ TRONG NAM KỲ

Người Tầu sang Nam kỳ từ bao giờ? Quốc triều ta ngày trước chiêu tập dân Tầu và xử trí họ khôn khéo là thế nào? Người Minh hương.

Người Tầu có thế lực to lớn vững bền ở xứ Nam kỳ ta như ngày nay, vốn không phải họ gây dựng trong vòng maáy chục năm nay là được, thực có công phu tích lũy đã hai ba thế kỷ nay rồi.

Nước ta, từ khi có lịch sử là giao th iệp người với người Tầu, vậy sự giao thiệp ấy, từ đời cận cổ giở lên thế nào ta không cần xét đến, vì không quan hệ gì đến đầu bài cuốn sách này cho lắm, ta chỉ nói chắc rằng: người Tầu bắt đầu sang Nam kỳ là vào khoảng thế kỷ thứ 17 mà thôi.

Chắc thế, năm 1680 vào giữa đời vua Huy Tôn nhà Lê, và chúa Hiền nhà Nguyễn, nhà Minh bên Tầu bị Mãn Thanh cướp ngôi, có một bọn quan minh, là bọn Dương Ngạn Địch (Chữ Hán)năm người, không chịu thần phục nhà Thanh, mới đem đồ đảng 7,000 người và 50 chiếc thuyền sang tình nguyện làm dân Annam. Chúa Hiền nhân muốn khai khẩn đất Chân Lạp (tức là Nam kỳ ngày nay) bấy giờ còn là Chân Lạp, bên họ cho vào ở đất Đông Phố (tức Gia Định bây giờ). Bọn Dương Ngạn Định mới chia nhau ra ở tản tác hai tỉnh Biên Hòa và Mỹ Tho, khẩn điền lập ấy, cày cấy làm ăn, ấy người Tầu di cư sang Nam kỳ chuyến ấy là chuyến đầu tiên vậy.

Về sau đến năm 1715 (vào đời vua Dụ Tôn nhà Lê và Chúa Nguyễn Phúc Chu) có một người khách Quảng đông, tên là Mạc Cửu (TQ) sang chiếm đất Hà Tiên của nước Cao Miên, rồi chiêu mộ những lưu dân mở mang cày cấy,và đem đất ấy xin thần phục chúa Nguyễn, chúa phong cho làm chức tổng binh.

Số người Tầu sang làm ăn bên nước ta không mấy người đem vợ theo, sang bên này mới lấy vợ Annam là thường, triều đình ta muốn lợi dụng cái tình thế ấy, để cho tăng dân số nước mình lên, bèn định lệ rằng: hễ người nào do bố khách mẹ Annam đẻ ra, thì tức là dân Annam, bắt tụ họp ra làng riêng gọi là “Minh hương”, nghĩa hễ làng của người nhà Minh. Bất cứ dân lai khách ở chỗ nào, cũng có thể lập thành làng Minh hương.

Năm Minh Mệnh thứ 10 (1829) định lệ rằng: người Tầu nào sang làm ăn bên nước Nam được phép lấy dân Annam nhưng nếu đem vợ Annam về Tầu thì phải xử tội rất nặng, đem con lai về cũng vậy, mà cạo đầu cho con mà để bím thì cũng phải tội, nghĩa là Triều đình buộc ngặt rằng, người Tầu lấy vợ Annam đẻ con, con ấy tức là dân Annam, để lợi sự đông dân lên cho nước vậy, y phục luật pháp và đóng thuế má, cũng là được thi cử làm quan, y như người Annam cả.

Xét lại, cái chính sách của Triều đình ta ngay xưa đối với dân Hoa kiều như thế, thật là chính sách hay lắm: một là không cho họ theo chế độ nào riêng, thì quyền cai trị hoàn toàn ở mình; hai là đặt ra bang, thì dễ phần kiểm dốc, ba là đặt ra Minh hương thì lợi cho dân số của mình, cái chính sách ấy vì hay như thế, nên người Pháp sang bảo hộ ta, vẫn noi theo đại cương ấy để đối với Hoa kiều, tuy có thay đổi ít nhiều, là bởi tùy thời bắt buộc, như là đánh thuế đinh người Tầu rõ nặng, và buộc người Tầu đi tỉnh nọ sang tỉnh kia, phải có thông hành hộ chiếu v.v… thì sự ấy cũng thường không cần nói đến, vì cuốn sách này không có ý biên chép những luật lệ của Nhà nước đối với dân Hoa kiều, mà chỉ có ý phô trương cái thế lực Hoa kiều ngày nay ở Nam kỳ to lớn thế nào, là để tìm cách kháng mà thôi.

Đoạn này mà nói đến những thể lệ của Quốc triều ta định ra để cai trị dân Hoa kiều, là cốt chứng tỏ rằng: nước ta ngày trước tuy ngoại giao có kém hèn, nhưng đến phương pháp nội trị thì cũng là khôn khéo và chu đáo lắm vậy.

II

Dân số người tầu trong Nam kỳ, Năm bang Hoa kiều, đại khái cái nghề của mỗi bang, nghia đoàn thể của họ, việc tập lãnh sự, cái vấn đề “lấy khách” ở trong nước ta.

Dân Tầu ở Châu á không khác gì dân Do Thái ở Châu Âu, hễ gầm giời này, chỗ nào có thể kiếm ăn được, là thấy có gót chân họ, một người Hoa kiều ở Nam dương quần đảo nói rằng : “Người đời chỉ nói phàm chỗ có ánh sáng mặt trời chiếu đến, không chỗ nào không có ngọn cờ nước anh, ta cho rằng phàm chỗ có nước bể chảy đến, không chỗ nào không có người Hoa kiều”(1). Thật ra thì cái gót chân người Tầu, chẳng những thấy những chỗ có nước bể chảy đến mà thôi, tức chí hoang các như Tây Bá Lợi Á, xa sôi như mấy nước Nga, nước Áo ở giữa Châu Âu cũng tìm thấy họ, có người nói: Hoa kiều rải rác ra các địa vực, rộng bằng người Anh, sức giầu có bằng người Do Thái, chịu khó như người Ấn Độ, nhanh nhẹn như người Nhật Bản, đến như cái số kiều dân của họ ở đâu cũng dòng, thì không kiều dân nào bì kịp được.

Họ đến một chỗ nào, chẳng phải tranh thành cướp đất gì của người ta, nhưng khiến chỗ ấy cũng bị cái vạ như là tranh thành cướp đất, nghĩa là đến đâu phần nhiều là do nắm được thế lực đồng tiền, chiếm được cái chủ quyền kinh tế của người ta vậy.

Chính nước ta, mà thứ nhất là xứ Nam kỳ, bị phải cái vạ này.

Có vào đến xứ Nam kỳ, mới biết người Tầu ở trong nước mình là đông, mà cơ sở của họ là lớn. Bước lên thành phố Sài Gòn, đi quanh những phố chợ mới, chợ cũ là những phố rộng lớn và rộn rịp bằng mấy hàng Ngang, hàng Buồm ở ngoài mình, đã thấy lúc nhúc những các thú, tính phỏng chừng cũng 3 hay 4 vạn người rồi, tuy vậy cũng còn là ít đi gần 6km nữa vào đến chợ lớn (người Tầu gọi là Đê Ngạn) là một thành phố toàn các chú cả, chưa kể đến nội dung ra thế nào, nhưng mới trông bề ngoài đủ khiến cho mình ghê sợ, xa xa đã trông thấy ống khói nhà máy nọ nhà máy kia, tua tủa lên ngang trời như hàng rào, nào tầu, be, nge, nốc, dậu tri trít ở mặt nước như mắc lưới, đã đủ giật mình về cái cảnh tượng ấy rồi, lại vào đến phố, thì phố xá rộng rãi, nhà cửa nguy nga, hết đường nọ đến đường kia, qua phố này sang phố khác, không phố nào không nhà hai ba tầng, không nhà nào không buôn bán lớn, thôi thì hiệu to hiệu lớn các chú, vác gạo kéo xe các chú, chú hãng chủ nhà máy các chú, mà cho đến vót đũa đan rổ gánh nước bán hoa quả cũng các chú, nói tóm lại việc gì làm mà nảy ra to từng hàng vạn, nhỏ đến đồng xu, thì cũng mấy chú mấy thím “thiên triều” làm hết. Thành phố chợ lớn đất rộng hơn một nghìn mẫu, thì các chú ở quá ba phần tư dân số 13 vạn người, thì phần các chú già một nửa (7 vạn người trên bộ và hơn 1 vạn người ở dưới nước) kể cái hình thế thành phố thì không rộng rãi đẹp đẽ như sai gòn, như Hà Nội, như Hải Phòng nhưng kể đến các nơi công nghiệp buôn bán nước ta thì chợ lớn có thể hoạt động vào bậc nhất này.

Còn như số các chú, rải rác ra làm ăn buôn bán ở lục tỉnh cũng dòng hết sức, từ chỗ thị thành dưới thuyền trên bến cho đến thôn quê đầu xóm cuối làng, không có chỗ nào là không thấy các chú, hoặc cửa hàng, cửa hiệu, hoặc bán thịt bán rau, hoặc nghề kia nghề nọ, các chú làm không sót một thứ gì cả, các chú ở dòng đúc nhất là mấy tỉnh Sóc Trăng, Back Liêu và Cần Thơ và mấy tỉnh trù phú nhất Nam kỳ.

Trong khoảng 12 năm nay, họ sang mới lại cũng nhiều. Cứ kể từ năm 1912 cho đến 1922 trong 11 năm giời, số người Tầu trên 17 tuổi mỗi năm vào Nam kỳ như sau này:

1912……………………………………13.201

1913………………………………........13.624

1914…………………………………….10.143

1915…………………………………….10.118

1916…………………………………….9.998

1917………………………………….....14.473

1918…………………………………….15.884

1919…………………………………….16.058

1920……………………………………..17.078

1921……………………………………..17.062

1922……………………………………...19.505

Thế thì ra cứ kể trung bình mỗi năm là 14.368 người Tầu sang ta, ấy là chưa nói đến đàn bà con trẻ. Hễ mỗi chuyến tầu ở Hương Cảng và Thượng Hải sang là có đến hàng trăm chú thím vào cửa Sài Gòn, mà tháng nào cũng có vài trục chuyến tầu như thế, Nhà nước phải đặt ở Sài Gòn một sở gọi là sở “Tân đảo” (Service de Hmmigration), chỉ chuyên trông nom về người Hòa kiều mà thôi. Đến như cái tổng số dân Hoa kiều ở Nam kỳ bao nhiêu, thì thấy mỗi chỗ nói một khác, nhưng xem cái tình hình trên kia thì đại ước cũng đến 20 vạn người mới phải.

Trong số 20 vạn đó, thì người Quảng Đông là đông nhất cả, thứ đến người Phúc Kiến, thứ đến người Triều Châu v.v… mà cũng ở dưới cái chế độ “tùy tiếng chia bang, mỗi tỉnh lập bang” là cái chế độ của ta ngày xưa lập ra, và tác giả đã nói ở đoạn trước.

Hoa kiều chia ra làm 5 bang như sau:

1. Bang Quảng Đông (TQ)

2. Bang Phúc Kiến (TQ)

3. Bang Triều Châu (TQ)

4. Bang Hà Cá (TQ)

5. Bang Hải Nam (TQ)

Bang Quảng Đông là những người Tầu ở Quảng Đông, và người ở phía Bắc phía Tây tỉnh ấy, một mình bang này đã hơn 8 vạn người, chưa kể đến đàn bà và con trẻ.

Người Quảng Đông giỏi buôn bán và công nghệ lắm. Ở Chợ lớn họ có hai máy gạo to. Nội các hiệu to bán tơ lụa, các nhà máy cưa, các xưởng củi, các nhà làm gạch, làm đồ sứ, các lò vôi, các xưởng đóng thuyền trong thành phố này đều là tay người Quảng Đông chiếm độc quyền cả, họ lại có nhiều nhà buôn chuyên nghề đem vật sản trong Nam kỳ như là da, sừng trâu, bong gòn vân vân… xuất cảng ra bán ở ngoại quốc. Họ lại có nhiều xưởng đóng tầu nho nhỏ ở Chợ Lớn nữa, mà phần nhiều những tầu con chạy quanh Cửu Long Giang ở Nam kỳ, là của người Quảng Đông cả. Đến như làm nghề thẩu khoán, bán các đồ gỗ, làm thợ nê, thợ mộc, thợ may, thợ đóng giầy tây, các hàng thịt, các hàng cơm tây, cũng là người Quảng Đông làm hết.

Bang Phúc Kiến là những người Tầu ở phía Tây nam Áo Môn dân số của họ ở Nam kỳ cũng đến 5,6 vạn người. Người bang này cũng giỏi nghề buôn bán lắm, ở hai thành phố Sài Gòn và Chợ Lớn họ có rất nhiều hiệu to, và hầu hết các nhà máy gạo ở Chợ Lớn nghề buôn bán gạo trong Nam kỳ là vào tay họ làm cả. Còn thì phần nhiều buôn bán tạp hóa, bán rượu, bán đồ sắt và làm mại biện (compradore) ta vẫn gọi là chu mại bản cho các hiệu buôn tây và các cửa hàng khách, cho nên trong bảng này, ta ít thấy có người đi làm thợ, hay hoặc đi ở, mà có dễ toàn thể là làm nghề buôn bán.

Bang Triều Châu có người cũng đến 5,6 vạn là người Tầu ở gần cửa bể sán đầu (Swatow). Sán đầu cũng thuộc về tỉnh Quảng Đông, nhưng mà người Triều Châu lập thành ra bang riêng, là vì tiếng nói Triều Châu và Quảng Đông khác nhau. Người Triều Châu cũng buôn bán, nhưng so với hai bang trên còn kém xa, mà số đông có ý chịu khó làm những tiện nghệ như là làm bạn thuyền, và làm culi khuôn vác hàng hóa lên tầu ở cửa bể Sài Gòn, cho nên ở Sài Gòn họ đã có hai ba nhà chuiyên bao những hạng culi khuôn vác lúc nào cũng sẵn sang mấy trăm ngươi. Khách Triều Châu nấu nướng đồ ăn rất khéo cho nên cái nghề làm tiệm, cao lẩu của họ cũng phát đạt lắm.

Trong Nam kỳ, người Triều Châu ở các tỉnh Cần Thơ, Sóc Trăng, Trà Vinh, Bạch Giá, Bắc Liêu đông, và cũng có cày cấy ít nhiều. Hai tỉnh Bạc Liêu và Rạch Giá có tới 13.865 người Minh Hương, toàn là con cháu Triều Châu vậy.

Đến bang Hà Cá, thì chỉ có 1 vạn rưỡi hay 2 vạn người là cùng, toàn là dân Tầu phía bắc tỉnh Quảng Đông, họ cũng có nhiều nhà buôn ở Sài Gòn và Chợ Lớn, song cũng tầm thường không đáng kể gì. Trong bang này, ta cũng thấy có một đôi người làm nghề thầu khoán, và có một vài chiếc tầu thủy chạy nữa. Người Hà Cá chuyên làm những nghề thợ rèn, thọe đá, làm máy, đóng giầy khách và làm bánhm những tiệm bán chè tầu, và những hàng bán rau cỏ, thì cũng phần đông là người Hà cá hết cả.

Sau hết đến bang Hải Nam, là những người Tầu ở cù lao Hải Nam gần vũng bể Bắc kỳ ta. Bang này ít người nhất, chỉ có chừng ngót một vạn người, mà buôn bán ở Sài Gòn và Chợ Lớn rất ít, phần đông họ làm nghề đánh cá, và làm thuê cho những trại trồng hồ, tiêu ở mạn Hà tiên và Phú Quốc cả, còn những người ở châu thành Sài Gòn và Chợ Lớn thì thường làm bồi cho các nhà tây, hay nấu bếp cho các nhà hàng cơm để kiếm ăn soàng soàng mà thôi.

Đại khái nghề nghiệp của 5 bang Hoa kiều ở trong Nam kỳ như thế.

Ta vẫn chịu Hoa kiều ăn ở với nhau, rất là thân ái liên lạc, cái nghĩa đoàn thể của họ rõ rệt lắm, sự đó tuy cũng có sẵn bởi tính tự nhiên, và trong chỗ trường hợp có lợi hại quan hệ với nhau, nên không thể không được, nhưng cũng do cái chế độ lập ra bang, khiến cho họ dễ cấu kết với nhau, mà Chính phủ cũng dễ sai khiến vậy.

Bang, vì tổ chức có nhiều cơ quan ở trong, cho nên có lợi cho Hoa kiều được nhiều mặt lắm, vừa là gia đình, vừa là hương tộc, vừa là hội liên hiệp, vừa là thương mại, vừa là tòa án, vừa là ông chủ ngân hàng, vừa là quan lãnh sứ, vừa là hội cứu tế của họ nữa. Danh hiệu tuy có một nhưng thể chất ở trong thì chia ra vô cùng tận. Mỗi ban họp riêng để bàn việc lợi hại của mình mỗi bang có một quỹ riêng có nhiều tiền; mỗi bang có một người lãnh tự, tức là bang trưởng. Những người ra làm bang trưởng bao giờ cũng là người có tuổi, giầu có, và đã từng lịch duyệt lắm. Họ bầu bang trưởng, tuy cũng có bỏ vé, nhưng chẳng qua là chiếu lệ đấy thôi, chớ kỳ thực họ đã cử một người nào ra với Chính phủ, là dùng cách đồng thanh tuyên cử, một điều đó đủ chứng tỏ rằng họ dễ bảo nhau.

Kỷ luật trong bang rất nghiêm, đừng có tội giết người hay là tội gì thì mới phải phiền đến các quan và tòa án can thiệp vào, còn thì họ điều đình hoặc tài phán lấy với nhau cả. Thường khi người trong bang có phạm lỗi gì, thì những người có chức sự họp lại để xử đoán, hoặc tha hoặc phạt, cứ chiếu theo ý kiến của phần đa số mà làm. Họ có đủ cả nhà thương, nhà đẻ, vòi rồng để chữa cháy, đặt tuần để gác đêm, nhất thiết sự gì cần dùng cho họ, thì đều có đủ, như thế chưa chắc không phải do nghĩa đoàn thể mà ra.

Thứ nhất là cái nghĩa tương tư, tương trợ của họ lại càng nặng lắm, cho nên mỗi khi có chú nào ở bên tầu che dù đeo gói mới sang, là nhập ngay vào bang, lấy chỗ làm gia đình, làm hương tộc cho mình, và bang giúp vốn và chỉ đường làm ăn, lại trông nom cho mình trong mọi công việc, nếu ốm thì bang nuôi nấng thuốc thang, muốn về nước mà không tiền thì bang cấp cho, nếu chết mà không có gì, thì bang tống táng cho rồi sau lại đưa hài cốt về Tầu, bang lại giúp đỡ cho nhà cửa, và chu cấp cho con cái đi học nữa.

Vì bang đối với người trong bang chu đáo như thế, cho nên người trong bang đối với người trong bang phải phục lòng lắm. Hễ ai ra ý bướng bỉnh, không theo mệnh lệnh của Bang thì bang có cách đàn áp, hoặc phạt tiền hoặc đuổi ra. Tuy vậy, không mấy khi ta thấy trong bang họ xẩy ra những sự như thế, vì người Tầu đi làm ăn nơi xa, không biết ở một mình, bởi thế, họ lấy bang là cần dùng cho họ, mệnh lệnh gì của bang là phải tuân theo răm rắp. Chỗ này ta thấy nhiều chứng cớ lắm, xa thì như năm 1908, các bang Hoa kiều, thứ nhất là bang Quảng Đông, nhất định để chế hàng Nhật, y như họ để chế dầu hỏa của Hoa kỳ năm 1905, mà yết thị rằng; nếu ai còn mua đồ hàng Nhật nữa, thì phải phạt 50 đồng. Quả một độ không có người tầu nào dùng đồ Nhật. Gần thì cách độ 5, 6 năm có phường xiếc Ý đại lợi (Italic) vào làm ở Sài Gòn, ra Hải Phòng, Hà Nội cũng không có một người Tầu nào xem. Hai việc ấy đủ chứng tỏ cái nghĩa đoàn thể của người Tầu là đầy là nặng lắm, không trách có nhiều người Pháp đã nghĩ mà phải lo rằng, hoặc người Tầu tự họ tham lam, hay bị ai sui khiến mà phản nước Pháp ở đất nước Nam này, thì tính làm sao? Nhưng nghiệm ra cái mục đích của người Tầu sang làm ăn ở đây là chỉ cốt kiếm ăn hay làm giầu chớ không có một điều sa vọng gì khác (cái vấn đề này đoạn cuối sẽ nói kỹ hơn), vả chăng cũng không làm Chính phủ phải lo, nên chính phủ cũng phải chịu rằng: nếu không có cái chế độ lập ra bang, thì sực cai trị người Hoa kiều ở đây cũng là khó khăn lắm.

Người Tầu ngụ ở ta rất nhiều, quyền lợi của họ cũng lớn, mà thường thì gặp sự gì ức uất, không có người bảo hộ cho, nên chí việc lập lãnh sự ở đây cũng là một điều của người Tầu vẫn yêu cầu mãi.

Chính phép chung của vạn quốc, hễ dân một nước đến làm ăn buôn bán ở một nước nào, thì chính phủ phải có đại biểu người chính phủ sang ở nước ấy, để bảo hộ cho dân mình, người ấy tức là lãnh sự. Không thí dụ đâu xa, ta thấy ngay ở trong nước mình, hai hải cảng thành phố Sài Gòn và Hải Phòng có bao năm người Nhật, người Mỹ ở mà cũng có lãnh sự Nhật, lãnh sự Mỹ đến trú v.v… thế mà dân Hoa kỳ ở đây hàng mấy trục vạn người sao không có được một ông lãnh sự! Về việc này, tác giả thường hỏi ý kiến một vài người Hoa kiều thì họ nói rằng: “Chính phủ nước tôi, vẫn nhắc và yêu cầu việc ấy mãi mà người pháp không nghe. Mỗi lần yêu cầu xin đặt lãnh sự, thì các nhà quan Pháp lại đòi mấy nhà phú thương chúng tôi đến mà bảo rằng: “Nếu quả chính phủ Tầu thật muốn phải lãnh sự đến đây, chính phủ pháp chỉ có việc chiếu lệ như những chỗ khác có lãnh sự mà làm, thì người Tầu không được có của bất động sản như là nhà cửa đất cát nữa, nhất thiết những quyền lợi ấy, mà xưa nay người Hoa kiều có, thì bây giờ phải thủ tiêu đi hết.”. Thế là người Pháp cố ý không muốn cho nước chúng toi đặt lãnh sự vậy”.

Quả có đạt lãnh sự, thì Hoa kiều cũng có thiệt thòi về quyền lợi bất động sản và nhiều quyền lợi khác nữa thật, nhưng quỹ của nhà nước cũng rỗng đi mấy chục triệu đồng bạc mỗi năm, thì lại là một sự thiệt thòi hơn nữa. Vả chăng nói cho cùng thì cũng là cái phương diện ngoại giao của người Tầu còn lép vế quá, thò ra giao thiệp ở đâu, là thất bại ở đó, chưa kể đến những việc năm canh tí, việc 21 điều, việc Giao châu, là những việc to, thế nước Tầu yếu thì thất bại đã đành, nhưng ngay đến những việc ngoại giao nho nhỏ, cũng chẳng làm nổi. Ta xem ngay như người Tầu kiều ở bên Xiêm, đông đúc gấp mấy bên ta, phồn thịnh gấp mấy bên ta, mà chính phủ xiêm vẫn bắt buộc người Tầu hễ đã vào nước Xiêm, là phải theo phong tục và luật pháp Xiêm, lấy vợ Xiêm đẻ con thì phải nhập tịch dân Xiêm hết, thuế má thì đánh rõ nặng, người Tầu Kiều cư ở đấy vẫn yêu cầu dặt lãnh sự mãi, mà chính phủ Xiêm nhất định không nghe, mới rồi lại còn đặt lệ mới bắt con cái người Tầu phải học chữ Xiêm nữa, bọn kiều dân đánh giây thép về xin chính phủ Bắc kinh can thiệp, và xin phải lãnh sự sang để bảo hộ cho, nhưng chắc chính phủ Bắc kinh cũng không biết xử trí ra sao, vì cũng vô lực. Không nói chắc ai cũng biết rằng chính phủ Xiêm mà không cho Hoa kiều bên ấy có lãnh sự, nghĩa là để mình được tự do đánh thuế nặng nề, thì sổ chi tiêu nhà nước được rộng, bắt buộc rằng người Tầu lấy vợ Xiêm đẻ con tất phải nhập tịch Xiêm, thì số dân trong nước càng thêm đông, vì cái lợi quyền cho dân nước mình. Nên chính phủ Xiêm từ chối cho đặt lãnh sự Tầu là thế, đường đường một nước Tầu, yêu cầu nước Xiêm việc ấy còn không đắt, phương chi yêu cầu việc ấy với chính phủ Pháp ở đây mà được hay sao?

Kết thúc đoạn này, ta nên xem xét về cái vấn đề “lấy khách” đôi tí, để cho biết cái chế độ Minh hương ngày nay khác với chế độ Minh hương ngày xưa.

Cái chế độ Minh hương của ta ngày xưa thế nào, mà tác giả đã nói trong đoạn trước thật là một cái chế độ hay; ấy ta cho bao nhiêu người Tầu vào doanh nghiệp trong nước ta, thì chỉ có cái lợi Minh hương là cái lợi cho ta vậy. Ta xem trong Nam kỳ, tỉnh Bắc Liêu và một phần tỉnh Sóc Trăng, người ở đấy nguyên lý giòng dõi người Triều Châu ngày xưa cả. Dân cư ven bờ bể vùng Xiêm la, khoảng giữa tỉnh Rạch Giá, tỉnh Hà Tiên thì cũng là con cháu bọn nông dân Hải Nam ngày trước. Lại những người mình ở mấy tỉnh Châu Đốc, Hà Tiên, Long Xuyên phần nhiều là nhận tổ tích ở những bọn người Tầu theo Mạc Cửu sang ta hồi thế kỷ thứ 18. Xem thế thì phía tây Nam kỳ mà có cái vẻ sinh tụ như bây giờ, chưa chắc phải nhờ cái chế độ Minh hương, nghĩa là bắt con người Tầu, đẻ ra bởi mẹ Annam, thì tất là dân Annam vậy.

Cái chế độ ấy ngày nay, dưới quyền bảo hộ người Pháp, thì không thế nữa. Người Tầu lấy vợ Annam, đẻ con ra thì có quyền tự do muốn cho nó theo quốc tịch mình hay quốc tịch mẹ cũng được, tuy ở sức đóng thuế được đàng nào thì theo đnàg ấy, đến như lễ nghĩa y phục thì cũng được tùy ý, không phải bắt buộc gì, bởi thế ta thấy người mình lấy khách, may ai bợ được chú tài hay chủ hiệu giầu có phong lưu, đẻ con “ả beng” ra, thì là “các chú”, sau này lớn, mấy trục bạc các chú cũng nộp thuế cho nó được, lại còn có thể đem về bên Tầu nữa, còn các chú nào lấy phải người nghèo nàn khổ sở, thì con đẻ ra mới chịu vào tịch Minh hương, chịu khó làm “ố nàm” vậy, nhưng được điều phải đóng thuế nhẹ thôi. Xem cái hiện trạng này thì phần như ở trên nhiều, mà phần như ở dưới ít, vì các chú lấy sự cho con vào tịch Minh hương là nhục cho mình, là một sự bất đắc dĩ lắm, thành ra các chú sang bên này, vơ vét tiền của ta chẳng nói làm gì, lại còn lợi dụng đàn bà ta để lấy con, đến khi nặng túi bố giắt con về, để người mẹ bơ vơ ở bên này, đàn bà lấy khách ở nước mình gặp nhiều cảnh đáng thương, ta đã từng thấy lắm, vậy thì không phải các chú khôn mà ta dại, các chú lợi mà ta thiệt lắm ư?

Trong Nam kỳ đông người Tầu thế, trừ ra mấy người giầu có mới đuề huề vợ con từ Tầu sang, còn thì toàn hạng giai trẻ sang làm ăn rồi mới lấy vợ bên này, cho nên chị em trong Nam kỳ ta lấy khách nhiều lắm, thế mà kể đến người Minh hương rất ít, tổng số chỉ có độ 5 vạn người, mà số 5 vạn ấy phần nhiều là cha truyền con nối, là người Minh hương từ những đời nào, chứ không phải mới đây mà được như thế, bây giờ thì ả beng phần rất đông theo quốc tịch của bố cả, trong hơn 20 vạn Hoa kiều, ta nên nhận biết rằng có đến 5,6 vạn ả beng như thế vậy. Nếu 5,6 vạn ấy bắt phải là Annam, thì ấy là cái lợi khách của ta, nhưng 5,6 vạn ấy vẫn là người Tầu hết, ta lấy khách chỉ là “đẻ con thuê” hay sao?

Bởi vậy, có người bàn rằng: “Nhà nước ta lại nên thi hành cái chế độ Minh hương của nước Annam ngày trước, bắt rằng những đứa con đẻ ra do bố khách mẹ Annam, thì không được nhận là quốc tịch mình mà đem về Tầu tất phải nuôi theo lễ nghĩa y phục Annam, phải chân chính là người dân Annam mới được. Làm thế, tuy so với quốc tế công pháp bây giờ có trái, nghĩa là đứa con bao giờ cũng phải theo quốc tịch cha, nhưng giá mà Nhà nước lấy lẽ rằng: Bảo hộ xứ này thì cũng phải giữ lại những chế độ cũ của xứ này ít nhiều thì tưởng không ai cho là không phải, mà người Tầu cũng không nói vào đâu được. Ví bằng bảo thứ nhất mà đã vội biến hóa người Tầu ra Annam ngay là cấp tốc quá, thì đời thứ hai, phải bắt là người Annam cũng được.”






----------------------------------------------------------------------------