19/7/11

Aaron L. Friedberg - Bá quyền với bản sắc Trung Quốc

Bá quyền với bản sắc Trung Quốc -


Tác giả: Aaron L. Friedberg
17/07/2011

Hoa Kỳ và nước Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc bị dính vào nhau trong một cuộc tranh chấp thầm lặng nhưng ngày càng mạnh mẽ nhằm giành quyền lực và ảnh hưởng, không chỉ ở châu Á mà còn khắp thế giới. Mặc dù những gì mà nhiều nhà bình luận nghiêm chỉnh và đầy thiện chí có vẻ tin, sự kình địch đang chớm nở giữa Mỹ và Trung Quốc không chỉ là hậu quả của những ngộ nhận hay chính sách sai lầm, đàng sau chúng là những lực phát xuất từ cấu trúc đang chuyển biến của hệ thống quốc tế và từ chính sự khác biệt của thể chế chính trị ở hai nước này.

Trong suốt lịch sử, quan hệ giữa các nước đang chế ngự và các nước đang vươn lên không bao giờ là dễ dàng - và thường là dữ dội. Những nước hiện là cường quốc thì có khuynh hướng xem mình là cảnh vệ một trật tự quốc tế mà họ đã có công sáng lập và nhờ nó mà họ đang tiếp tục hưởng lợi. Mặt khác, những cường quốc đang vươn lên thì cảm thấy bị kiềm hãm, thậm chí bị lừa bịp, bởi tình trạng hiện hữu; họ đấu tranh chống lại tình trạng ấy để giành lấy cái mà họ cho rằng đúng ra là của họ. Thực vậy, câu chuyện này, với những ngụ ý kiểu Shakespeare về trẻ và già, vững mạnh và suy tàn, là thứ chuyện cỗ xưa nhất trong lịch sử còn ghi lại của loài người. Ngay từ thế kỷ 5 trước công nguyên nhà sử học vĩ đại người Hy Lạp Thucydides bắt đầu nghiên cứu về cuộc chiến tranh Peloponnesia với nhận xét tưởng chừng như đơn giản rằng nguyên nhân sâu xa nhất, thực nhất, của chiến tranh này là "sự lớn lên của sức mạnh Athena và sự sợ hãi mà nó gây cho Sparta."

Sự thật rằng quan hệ Mỹ-Trung là quan hệ cạnh tranh thì chẳng có gì đáng ngạc nhiên. Song hai nước này không phải là hai cường quốc bất kỳ: Từ khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, Mỹ là nước giàu nhất và mạnh nhất thế giới; Trung Quốc, khác thế, là quốc gia mà khả năng là tăng lên nhanh nhất. Mỹ vẫn còn là "số một," nhưng Trung Quốc đang nhanh chóng thu ngắn khoảng cách giữa họ và Mỹ. Hậu quả của sự cạnh tranh này không thể là hệ trọng hơn, và đặc biệt là đầy tiềm năng đưa đến xung đột.

Ít nhất là dưới mắt các cường quốc hiện chế ngự, các nước đang lên có xu hướng là những kẻ gây rối. Khi khả năng của một nước gia tăng thì, nói chung, các lãnh đạo của nước ấy xác định lợi ích của họ một cách rộng rãi hơn, và muốn có ảnh hưởng nhiều hơn đối với những gì xảy ra xung quanh họ. Điều này có nghĩa là, thông thường, những nước đang lên không chỉ mưu đồ bảo vệ biên giới của họ mà còn muốn vượt ra ngoài biên giới ấy, có những biện pháp cần thiết để đảm bảo tiếp cận các thị trường, vật liệu và các đường giao thông, để bảo vệ công dân của họ đang làm việc xa nhà, bảo vệ các bạn bè và đồng minh nước ngoài của họ; để truyền bá các tôn giáo và ý thức hệ của họ; và để có những gì mà họ xem là quyền lợi chính đáng của họ trong những vấn đề khu vực và ở cả thế giới.

Khi các nước đang trổi lên bắt đầu mạnh dạn lên tiếng, họ thường cảm thấy phải thách thức các đường biên giới cố hữu, các thiết chế quốc tế và hệ thống tôn ti trật tự uy tín đã được sắp xếp khi họ còn tương đối yếu. Tương tự Nhật Bản cuối thế kỷ mười chín, hay Đức ở bước ngoặt sang thế kỷ hai mươi, các cường quốc mới nổi muốn tìm chỗ đứng dưới mặt trời. Tất nhiên điều này đặt họ đối đầu với các cường quốc hiện ngự trị - cái gọi là các nước status quo (đang có) - vốn là những nhà kiến trúc, những kẻ thừa hưởng chủ yếu, và những người bảo vệ chính của bất kỳ hệ thống quốc tế hiện hữu nào.

Những cọ sát phát sinh từ đó giữa các lợi ích của hai bên rất ít khi được giải quyết một cách hòa bình. Nhận thấy mối đe dọa đang lớn lên đối với vị thế của họ, các cường quốc hiện có ưu thế (hay một liên minh của các nước có địa vị ấy theo thực tế - status quo) đôi khi tấn công và hủy diệt một đối thủ trước khi đối thủ này có thể lớn lên và đủ mạnh để thành một nguy cơ. Vài cường quốc khác - mong tránh chiến tranh - đã theo một chính sách ngược lại: cố gắng xoa dịu những nước có khả năng thách thức mình, họ tìm cách thỏa mãn những đòi hỏi và tham vọng của nuớc ấy và tìm cách đưa các nước ấy vào trật tự quốc tế hiện hữu một cách hòa bình.
Ảnh minh họa: tinkinhte.com

Tuy nhiên, dù có chân thành đến mấy, những cố gắng này hầu như luôn luôn kết thúc trong thất bại. Đôi khi, lý do rõ ràng là vì những đòi hỏi của quốc gia đang lên. Như nước Đức của Adolf Hitler, một kẻ xâm lược có thể có những tham vọng quá lớn, đến mức các nước trong trật tự hiện hữu (status quo) không thể đáp ứng mà không thực tế trở thành kẻ phục tùng hay đưa dân tộc họ vào chỗ tự sát. Ngay khi những đòi hỏi của các nước đang lên là không quá lớn, các nước đang có ưu thế cũng thường rất khó chấp nhận nhượng bộ, do đó làm bừng thêm ngọn lửa oán giận và thất vọng của nước đang lên, hoặc quá hăm hở nhượng bộ, thì lại bồi dưỡng tham vọng của các nước này, khiến các đòi hỏi leo thang theo đường trôn ốc. Các chính sách nhượng bộ để xoa dịu mà thắng lợi có thể hiểu được về mặt lý thuyết, nhưng việc thực hiện chúng trong thực tế là rất khó khăn. Đó là lý do tại sao những thời kỳ chuyển tiếp ̶ khi một cường quốc đang lên bắt đầu vượt các nước trước kia là vượt trội ̶ đã luôn luôn được đánh dấu bằng chiến tranh.



Dù họ cẩn thận không nói thẳng, các nhà cầm quyền hiện nay của Trung Quốc có vẻ đang cố xây dựng quốc gia họ như cường quốc nổi trội ở Đông Á, và có lẽ cả châu Á nói chung. Mục đích là làm cho Trung Quốc thành nước mạnh nhất và có ảnh hưởng nhất trong vùng, một nước có khả năng ngăn chặn các cuộc tấn công và các mối đe dọa; giải quyết các tranh chấp lãnh thổ theo sở thích của Trung Quốc; ép buộc hoặc thuyết phục các nước khác chấp nhận những ý muốn của Trung Quốc trên những vấn đề từ thương mại và đầu tư đến liên minh và thỏa thuận căn cứ cho nước thứ ba, sự đối xử với Hoa kiều; và, ít nhất trong vài trường hợp, gây ảnh hưởng đến bản chất và thành phần chính phủ của các nước láng giềng. Bắc Kinh có thể không tìm cách chinh phục hay trực tiếp kiểm soát về mặt vật chất những nước xung quanh Trung Quốc, nhưng, chắc chắn là họ muốn thực hiện một dạng bá quyền khu vực, dù họ luôn luôn phủ nhận điều này.

Trung Quốc không là quốc gia duy nhất có những tham vọng như vậy. Xuyên suốt lịch sữ, bao giờ cũng có một tương quan chặt chẽ giữa một bên là sự tăng trưởng của cải nhanh chóng và sức mạnh tiềm năng của một nước, vùng địa lý của những quyền lợi của nước ấy, cường độ và sự đa dạng của những đe dọa đã biết đối với những lợi ích, và bên kia là mong muốn tăng cường các khả năng quân sự và dùng ảnh hưởng lớn hơn để bảo vệ chúng. Chính sự tăng trưởng có xu hướng khuyến khích bành trướng, mà bành trường thì sẽ dẫn đến mất an ninh, và mất an ninh thì càng tăng thêm ước muốn có nhiều quyền lực hơn nữa. Mẫu hình này được thiết lập rất rõ trong thời trung cổ. Khi nhìn lại các thế kỷ mười chín và hai mươi, Samuel Huntington thấy rằng

mọi cường quốc lớn khác, Anh và Pháp, Đức và Nhật, Mỹ và Liên xô, đã gắn liền với sự bành trướng, yêu sách ra bên ngoài, và chủ nghĩa đế quốc trùng khớp với hoặc tiếp ngay theo sau những năm công nghiệp hóa và tăng trưởng kinh tế nhanh chóng.

Đối với Trung Quốc, Huntington kết luận "không có lý do gì để nghĩ rằng việc có được sức mạnh quân sự và kinh tế không có những tác động tương tưˮ lên các chính sách của nước này.

Tất nhiên, cách hành xử trong quá khứ của các nước khác chỉ có tính gợi ý, khó là một chỉ dẫn chắc chắn đến tương lai. Chỉ vì các cường quốc khác đã cư xử cách nào đó không nhất thiết có nghĩa là Trung Quốc sẽ làm như vậy. Có lẽ, trong một thế giới mà thị trường là toàn cầu và có vũ khí hạt nhân, những nỗi lo sợ và tham vọng thúc đẩy các cường quốc nổi lên trước đây không còn mạnh mẽ như xưa. Có lẽ các lãnh đạo Trung Quốc đã học được từ lịch sử rằng những cường quốc mới nổi thường khuấy lên những bất mãn và chống đối.

Nhưng Trung Quốc không phải là một cường quốc mới nổi bất kỳ nào, và lịch sử của họ cho thêm một lý do để tin rằng họ sẽ tìm một hình thức ưu thắng nào đó trong khu vực. Trung Quốc là một dân tộc có một quá khứ lâu dài và tự hào như là một trung tâm chủ đạo của văn minh Đông Á. Gần đây hơn, quốc gia này cũng có một kinh nghiệm ít vẻ vang hơn về sự đô hộ và nhục nhã trong tay ngọai xâm. Như một số nhà sử học gần đây đã vạch rõ, Trung Quốc không chỉ "nổi lên" mà còn trở về cái địa vị vượt trội trong khu vực mà có thời nó đã giữ, điều mà các lãnh đạo và nhiều người trong nhân dân của họ vẫn nghĩ là đương nhiên và thích đáng. Cái mong muốn phục hồi hệ thống lấy Hán làm trung tâm có thể nhất quán với điều mà nhà báo Martin Jacques mô tả như

một giả định phổ biến về phần người Trung Quốc, rằng địa vị tự nhiên của họ nằm ở trung tâm Đông Á, rằng nền văn minh của họ không ai trong khu vực sánh nổi, và rằng cái địa vị xứng đáng của họ mà lịch sử ban cho, sẽ được khôi phục vào một thời điểm nào đó trong tương lai.

Học giả bảo thủ Diêm Học Thông (Yan Xuetong) đặt vấn đề một cách ngắn gọn: Nhân dân Trung Quốc tự hào về quá khứ vinh quang của đất nước mình và tin rằng việc Trung Quốc rơi khỏi địa vị ưu việt là "một sai lầm lịch sử mà họ nên sửa chữa." Nếu có điều gì là đúng thì đó chính là cái "thế kỷ nhục nhã" mà Trung Quốc bạc nhược và dễ bị tổn thương càng làm cho việc theo đuổi quyền lực của họ thêm cấp bách. Với một dân tộc có một lịch sử như của Trung Quốc, việc giành lại một địa vị quyền lực vô địch không được xem một cách đơn giản là vấn đề tự hào mà đúng hơn như một điều kiện tiên quyết thiết yếu để tiếp tục tăng trưởng, an ninh và, rất có thể, sự sống còn.



Những mẫu hình ngấm ngầm của chính trị quyền lực như thế đang đẩy Mỹ và Trung Quốc vào chỗ nghi kỵ và tranh đua, nếu không nhất thiết là đến xung đột công khai. Nhưng câu chuyện này không chỉ có thế. Không như khẳng định của một số người theo chủ nghĩa thực tế, các vấn đề tư tưởng hệ ít nhất cũng quan trọng như vấn đề quyền lực trong việc quyết định tiến trình của các quan hệ giữa các quốc gia. Sự kiện Mỹ là một nền dân chủ tự do trong khi Trung Quốc vẫn còn là một chế độ toàn trị là một sức đẩy thêm rất mạnh cho sự tranh đua, một chướng ngại cho những quan hệ ổn định và hợp tác, và tự nó là một nguồn gốc của thù địch và nghi ngờ lẫn nhau.

Quan hệ giữa các xã hội dân chủ và không dân chủ luôn được thực hiện trong cái mà nhà chính trị học Michael Doyle mô tả là một "bầu không khí hiềm nghi", phần nào vì "nhận thức của các nước tự do rằng các nước không tự do luôn ở trong một tình trạng xâm lược gây hấn chống lại chính nhân dân của họ." Các nước dân chủ, nói ngắn gọn, xem các nước không dân chủ là ít chính đáng hơn bởi lẽ những nước sau này không có sự đồng ý mà dân chúng của họ được tự do tỏ bày. Đơn giản là, trong thâm tâm, phần lớn các công dân ở những nước dân chủ không tin rằng tất cả mọi quốc gia đều được tạo ra một cách bình đẳng, hoặc là mọi quốc gia đều đáng đuợc kính trọng như nhau, bất kể quốc gia ấy được cai trị như thế nào.

Nhìn dưới ánh sáng này, những tranh cãi Mỹ - Trung Quốc về những vấn đề như kiểm duyệt và tự do tôn giáo không chỉ gây khó chịu ngoài mặt -- những khó chịu có thể hóa giải hoặc rũ bỏ. Trái lại, chúng là triệu chứng của những khó khăn sâu hơn. Đối với đa số người Mỹ, sự vi phạm nhân quyền của Trung Quốc không chỉ tự nó đã là sai trái, nó còn là dấu hiệu mạnh mẽ của bản chất tởm gớm về đạo đức của chế độ Bắc Kinh. Trong khi Mỹ có thể giao dịch với một chính phủ như vậy ít ra về một số vấn đề, khả năng có một quan hệ nồng ấm, tin cậy nhau, là xa vời, ấy là nói nhẹ nhất.

Các xã hội dân chủ cũng có xu hướng xem các xã hội không dân chủ là, tự căn bản, không đáng tin và có khuynh hướng, một cách nguy hiểm, xâm lăng các nước khác. Vì những hành động của các nước không dân chủ được che phủ trong bí mật, những mưu toan, và toàn bộ thực lực quân sự của những nước này rất khó được nhận biết. Trong những năm gần đây, các quan chức Mỹ đã thúc ép đối tác Trung Quốc của họ phải minh bạch hơn về các chương trình quốc phòng, nhưng ít có hy vọng những yêu cầu này sẽ được đáp ứng theo bất kỳ cách nào có ý nghĩa. Thậm chí, nếu Bắc Kinh bỗng nhiên công bố ồ ạt những thông tin và những con số, thì các nhà phân tích Mỹ cũng sẽ nhìn chúng với thái độ nghi ngờ sâu sắc, săm soi các dữ liệu ấy để tìm ra những dấu hiệu dối trá và đánh lạc hướng. Và họ làm thế là đúng; chính phủ Trung Quốc tập quyền và kiểm soát ngặt nghèo được đặt vào ưu thế tốt hơn nhiều để làm những âm mưu như vậy, so với đối tác Mỹ của nó, vốn phân quyền, công khai và hay để lộ bí mật.

Khả năng bảo mật của các chính quyền không dân chủ cũng cho phép các quốc gia này dễ sử dụng vũ lực mà không báo trước. Từ năm 1949, các nhà cầm quyền Trung Quốc đã bộc lộ một thiên hướng đặc biệt về tấn công bất ngờ và đánh lừa. (Hãy nghĩ đến việc Bắc Kinh lao vào Chiến tranh Triều Tiên tháng Chạp năm 1950, hay cuộc tấn công Ấn Độ của họ vào tháng Mười 1962.) Khuynh hướng này có thể đã bắt rễ sâu trong văn hóa chiến lược Trung Quốc từ thời Tôn Tử, nhưng nó cũng hoàn toàn nhất quán với tính cách của chính sách đối nội hiện nay của nước này. Thật ra, hầu hết các nhà phân tích Mỹ quan ngại về bản chất chuyên chế của chính phủ Trung Quốc nhiều hơn là về văn hóa của Trung Quốc. Nếu Trung Quốc là một xã hội dân chủ, có lẽ nền tảng văn hóa xã hội sâu xa của hành vi chiến lược và chính trị của nó có thể không khác nay là mấy, nhưng các nhà lập định kế hoạch của Mỹ có thể đỡ lo lắng hơn nhiều vì khả năng một nước Trung Quốc như thế có thể liều lĩnh thử một đòn tấn công như sét đánh trên các lực lượng và các căn cứ Mỹ ở tây Thái Bình Dương sẽ rất thấp hơn.

Những nỗi lo xâm lược như thế còn gia tăng bởi nhận định rằng chính cái lo lắng về sự thiếu tính chính đáng trong nội bộ có thể khiến các nước không dân chủ sẽ lái sự thất vọng và bất bình của dân chúng sang các kẻ thù bên ngoài. Chẳng hạn một số nhà quan sát phương Tây lo ngại rằng nếu nền kinh tế Trung Quốc suy sụp, nhà cầm quyền Trung Quốc có thể đổ lỗi cho nước ngoài, thậm chí ngụy tạo khủng hoảng với Đài Loan, Nhật Bản hoặc Mỹ để huy động dân của họ và chuyển sự tức giận của dân chúng sang một hướng khác. Dù chủ đích của Bắc Kinh thật sự là sao đi nữa, những cuộc đối đầu như thế có thể dễ dàng leo thang khỏi tầm kiểm soát. Chẳng phải là lãnh đạo các nuớc dân chủ không bao giờ bị cám dỗ phiêu lưu quân sự ở nuớc ngòai. Tuy nhiên, vì hậu quả đối với họ là thấp hơn nhiều (bị bỏ phiếu bất tín nhiệm chứ không phải bị lật đổ và vào tù, hoặc xấu hơn nữa), ít có khả năng là họ sẽ mạo hiểm đến mức cực độ để bám giữ quyền lực của mình.

Sự nghi kỵ giữa Washington và Bắc Kinh không phải một chiều - và với lý do dễ hiểu. Các nhà cầm quyền hiện nay của Trung Quốc không coi mình là lãnh đạo phong trào cách mạng thế giới như trước đây, nhưng họ vẫn tin rằng họ đang dính vào một cuộc đấu tranh ý thức hệ, mặc dù trong cuộc đấu tranh ấy, cho đến gần đây họ đã hầu như hoàn toàn ở thế tự vệ. Trong khi họ xem những tuyên bố của Washington rằng Mỹ quan ngại về nhân quyền và các quyền tự do cá nhân là khá mỉa mai và có tính cơ hội, các nhà lãnh đạo Trung Quốc không nghi ngờ gì rằng Mỹ được thực tình thúc đẩy bởi hùng khí ý thức hệ. Nhìn từ Bắc Kinh, Washington là một cường quốc nguy hiểm, thánh chiến, phóng khóang, hầu như có tính đế quốc, một quốc gia không nghỉ yên chừng nào mà nó chưa thể áp đặt các quan điểm và lối sống của nó lên toàn hành tinh. Ai chưa nắm được nhu cầu này của Mỹ chỉ cần đọc những diễn văn của các quan chức Mỹ với những lời hứa hẹn mở rộng tầm ảnh hưởng của dân chủ và tẩy sạch thế giới khỏi bạo quyền.

Thật ra, chính vì ý thức hệ mà Mỹ có khuynh huớng nghi ngờ và thù địch Trung Quốc nhiều hơn là chỉ vì các lý do chiến lược, ý thức hệ cũng có xu hướng làm tăng ở Washington ý muốn sẵn sàng trợ giúp các quốc gia dân chủ khác khi những quốc gia dân chủ này cảm thấy bị đe dọa bởi quyền lực Trung Quốc, ngay cả khi sự trợ giúp này không phải là những gì mà những tính toán chính trị thực dụng thuần túy về những lợi ích của nó có vẻ đòi hỏi. Chính vì lẽ đó, không thể giải thích được sự giúp đỡ kiên trì - thật ra là đang sâu đậm hơn - cho Đài Loan trong những năm 1990 nếu không tham chiếu sự kiện là hòn đảo này đã phát triển từ một thành trì chuyên chế của phe chống cộng thành một nền dân chủ tự do. Bỏ đi những liên hệ cuối cùng của Mỹ với Đài Loan sẽ gỡ bỏ nguồn gây xích mích chủ yếu với Trung Quốc và một nguyên nhân tiềm tàng của chiến tranh. Một động thái như thế thậm chí vẫn có thể hiểu được nếu Đài Loan vẫn còn hiện ra trong mắt nhiều người Mỹ -- như nó đã hiện ra trong những năm 1970 -- như một nền độc tài tham nhũng và trấn áp. Nhưng sự kiện là Đài Loan ngày nay được coi như nền dân chủ chân chính (nếu không hoàn thiện) sẽ khiến Washington rất khó có khi nào tự ý bỏ rơi nó.

Sau khi nhìn thấy cách Mỹ đánh quỵ Liên Xô bằng sự kết hợp giữa đối đầu bên ngòai và lật đổ bên trong, từ cuối Chiến tranh Lạnh các nhà chiến lược Trung Quốc đã sợ rằng Washington có ý định làm như thế với họ. Niềm tin này làm méo mó nhận thức của Bắc Kinh hầu như về mọi khía cạnh của chính sách Mỹ đối với Trung Quốc, từ nhiệt tình giao hảo kinh tế đến những cố gắng cổ vũ sự phát triển hệ thống pháp luật của Trung Quốc. Niềm tin ấy cũng định hướng sự đánh giá của lãnh đạo Trung Quốc về những hoạt động của Mỹ khắp châu Á, những họat động mà Bắc Kinh tin là nhằm bao vây Trung Quốc bằng những nước dân chủ ủng hộ Mỹ, và điều đó tiêm nhiễm vào các chính sách của Trung Quốc chống lại ảnh hưởng ấy.

Với sự nổi lên của Trung Quốc trên vũ đài thế giới, nước này trở thành nguồn cảm hứng và hỗ trợ vật chất cho các nhà độc tài đang bị khó khăn ở Trung Đông, châu Phi và châu Mỹ Latin, cũng như châu Á - những người cầm cự cuối cùng của các chế độ phản dân chủ, những người đã được cho là trên đường rơi vào đống rác của lịch sử sau khi Liên Xô sụp đổ. Người Mỹ có thể tin từ lâu rằng điều kiện cần của tăng trưởng là quyền tự do chọn lựa trong lãnh vực kinh tế (điều được giả định là sẽ tất yếu mở rộng tự do chính trị), nhưng, ít nhất là hiện tại, Trung Hoa lục địa đã pha trộn thành công một nền cai trị độc tài với kinh tế thị trường. Nếu nước này đi đến chỗ được coi như đưa ra một mô hình phát triển thay thế (cho mô hình của Mỹ -- Người dịch) thì sự tiếp tục tăng trưởng của Trung Quốc dưới sự cai trị chuyên chế có thể làm phức tạp và làm chậm lại những cố gắng từ lâu của Mỹ nhằm khuyến khích truyền bá các thiết chế chính trị tự do khắp thế giới.

Nỗi lo sợ rằng Mỹ mưu toan thay đổi chế độ cũng có một vai trò ngày càng quan trọng trong việc họach định chính sách của Trung Quốc đối với các nước ở những vùng khác trên thế giới. Nếu Mỹ có thể làm áp lực và có lẽ hạ bệ các lãnh đạo hiện nay ở Venezuela, Zimbabwe và Iran, nó có thể trở nên táo bạo hơn trong cố gắng làm cái gì đó tương tự với Trung Quốc. Bằng cách giúp cho những chế độ này sống còn, Bắc Kinh có được bạn bè và đồng minh cho những cuộc đấu tương lai, làm yếu đi cái nhận thức rằng dân chủ đang trên đường tiến tới và làm chệch một số năng lực phi thường của Mỹ khỏi chính Trung Quốc. Những cố gắng của Washington làm cô lập, ép buộc và có thể làm xói mòn những nhà nước chuyên chế "hoang đàng" (như Iran và Bắc Triều Tiên) đã bị làm cho phức tạp nếu không nói là thất bại, bởi sự sốt sắng của Bắc Kinh gắn kết với chúng. Đồng thời, tất nhiên, những hành động của Trung Quốc cũng làm gia tăng mối lo ngại ở Washington về những động cơ và những dự định của nó, bằng cách đó đổ thêm dầu vào ngọn lửa tranh đua.



Có thể là, trong vị trí địa chính trị của Bắc Kinh, bất kỳ một cường quốc nào đang trổi lên cũng muốn có ảnh hưởng đáng kể trong khu vực kế cận với nước ấy. Cũng có thể là, với lịch sử của họ, và cho dù họ được cai trị như thế nào, Trung Quốc cũng đặc biệt quan tâm đến việc tự khẳng định mình và việc được láng giềng thừa nhận là đứng đầu giữa những kẻ ngang hàng. Nhưng cuối cùng thì chính đặc điểm chính trị nội bộ Trung Quốc là yếu tố quyết định chính xác cách Trung Quốc định nghĩa những mục tiêu của họ đối với thế giới bên ngòai, và phương cách theo đuổi mục tiêu ấy của họ

Như Ross Terrill của Trung tâm Fairbank Đại học Harvard nhận xét, khi chúng ta nói về các ý định hay chiến lược "của Trung Quốc", sự thật là chúng ta đang nói về các mục tiêu và kế hoạch của các lãnh đạo chóp bu hiện nay của nước này mà, như ông mô tả, là "chín ông kỷ sư làm thành Ủy ban Thường vụ Bộ Chính trị Đảng Cộng Sản Trung Quốc." (Ross Terrill, "What does China Want?" Wilson Quarterly. Mùa thu 2005). Tất cả những gì chúng ta biết về những người này cho thấy rằng họ được thúc đẩy trên hết bởi niềm tin của họ về sự cần thiết duy trì sự cầm quyền của Đảng Cộng Sản Trung Quốc. Theo một nghĩa nào đó, điều này hoàn toàn là vì lợi ích của chính họ.

Những lãnh đạo hiện nay và gia đình họ được hưởng những đặc quyền và những cơ hội mà những người khác trong xã hội Trung Quốc không có được; những đặc quyền và cơ hội này xuất phát từ chính sự gần gủi của họ với cội nguồn của quyền lực chính trị. Sự kết thúc nhiều thập kỷ ngự trị của Đảng Cộng sản Trung Quốc sẽ có những hậu quả lập tức, đau đớn và có lẽ bi thảm đối với những người đang có địa vị chóp bu của hệ thống. Những ngôi sao đang lên hy vọng một ngày nào đó sẽ chiếm những vị trí này và ngay cả những quan chức nhỏ với những tham vọng khiêm tốn có lẽ cũng tính tóan như vậy. Sự hội tụ quyền lợi cá nhân và một cảm giác chung số phận đem đến cho nhà nước-đảng này một sự dính kết mà nó sẽ không có nếu tình thế là khác hơn. Các đảng viên biết rằng nếu họ không đoàn kết với nhau họ rất có thể gặp nguy hiểm riêng rẽ - và điều hiểu biết này thấm nhiễm cách suy nghĩ của họ đối với mọi vấn đề mà họ đương đầu.

Nhưng động cơ để Đảng Cộng Sản Trung Quốc tiếp tục nắm giữ quyền hành không chỉ có gốc rễ trong lợi ích bản thân. Giới lãnh đạo của Đảng thành thực tin rằng Đảng đã có những thành tựu vẻ vang trong quá khứ và ở sự cần thiết không thể thiếu được của Đảng trong tương lai. Dù gì thì chính Đảng Cộng sản Trung Quốc đã giải cứu Trung Quốc khỏi ngọai xâm, đã đưa nước này ra khỏi một thế kỷ bị áp bức và nhục nhã, nâng Trung Quốc lên hàng những đại cường trên thế giới. Trong con mắt của những lãnh đạo của nước này, và một bộ phận nhân dân Trung Quốc, những thành tựu này tự bản thân chúng đã cho Đảng Cộng Sản Trung Quốc thẩm quyền đạo đức duy nhất và chính đáng hóa sự cai trị của Đảng.

Nhìn về tương lai, các quan chức Đảng tin rằng chỉ có họ là đang đứng giữa một bên là tiếp tục ổn định, thịnh vượng, tiến bộ và vươn lên tầm vĩ đại không thể chặn lại, và một bên là quay lại với hỗn loạn và bạc nhược. Như một phân tích của hồ sơ cá nhân bí mật bị rò rỉ của "thế hệ thứ tư" các lãnh đạo Trung Quốc hiện nay (với Mao Trạch Đông, Đặng Tiểu Bình, và Giang Trạch Dân là ba thế hệ lãnh đạo đầu) của các nhà Trung Quốc học Andrew Nathan và Bruce Gilley cho thấy, về vấn đề này, không có dấu hiệu bất đồng hay nghi ngờ gì trong nội bộ Đảng. Chủ tịch Hồ Cẩm Đào, các đồng nhiệm của ông và những người có khả năng kế tục ông thấy rõ nhiều thách thức cả trong lẫn ngòai mà họ đang đối diện, nhưng họ tin rằng họ, và chỉ có họ, mới có thể tìm ra giải pháp cần thiết để giữ cho đất nước của họ tiến lên và làm cho quốc gia này giành lại được số phận của nó. Quả thật, họ tin rằng chính tầm cỡ và sự phức tạp của những vấn đề đang đối diện với Trung Quốc là lý do khiến sự tiếp tục cầm quyền của họ là tuyệt đối cần thiết.

Ước muốn của Đảng tiếp tục cầm quyền định hình mọi khía cạnh của chính sách quốc gia. Về mặt đối ngoại, điều ấy có nghĩa là mục đích tối hậu của Bắc Kinh là "làm cho thế giới an toàn cho chủ nghĩa chuyên chế" hay ít nhất để tiếp tục chế độ độc đảng ở Trung Quốc. Trong nhiều thập kỷ gần đây, sự tập trung chú ý vào an toàn của chế độ đã dẫn đến, trước hết, việc duy trì những điều kiện quốc tế cần thiết để tiếp tục tăng trưởng kinh tế. Khả năng của Đảng trong việc nhanh chóng nâng cao thu nhập và phúc lợi cá nhân là thành tựu thật nhất trong ba mươi năm qua và là nguồn gốc của những đòi hỏi mạnh nhất của Đảng rằng nhân dân Trung Quốc phải biết ơn và trung thành với Đảng. Đồng nghiệp Thomas Christensen của tôi ở Princeton lập luận rằng, tăng trưởng kinh tế "tạo ra sự thỏa mãn và xao lãng của dân chúng, và, do đó thu được sự ủng hộ trong nước đối với Đảng (hay ít nhất cũng làm giảm sự tích cực chống đối)" Tăng trưởng còn tạo ra thu nhập mà chính phủ có thể dùng để "mua chuộc đối lập và tài trợ cho những địa phương nghèo và các vùng dân tộc thiểu số để cố gắng ngăn ngừa những cuộc nổi dậy có bạo lực."

Với một nước Trung Quốc đang trở nên giàu và mạnh hơn, sự theo đuổi an ninh của quốc gia này cũng đã dẫn họ tìm cách tăng cường kiểm soát thế giới bên ngoài. Sự "đẩy ra ngoài" này có động lực cả công lẫn thủ. Là người cai quản sự vĩ đại của dân tộc, Đảng có trách nhiệm đưa Trung Quốc trở về địa vị đúng của nước này ở trung tâm châu Á. Sự tôn trọng rõ ràng của những nước khác đối với Trung Quốc là bằng chứng thành công của chế độ về mặt này và gia tăng tính chính đáng của chế độ đối với nhân dân Trung Quốc. Đặc biệt, nếu tăng trưởng kinh tế có thể vấp ngã, thì sự "đứng lên" trước kẻ thù truyền thống và giải quyết vấn đề Đài Loan và các cuộc tranh chấp khác theo quan điểm của Bắc Kinh dễ trở thành những phần quan trọng trong chiến lược của Đảng Cộng Sản Trung Quốc nhằm duy trì quyền lực của họ. Các lãnh đạo Trung Quốc tin rằng đất nước họ càng tỏ ra mạnh về mặt đối ngọai, thì chế độ của họ càng mạnh trong nước.

Ngược lại, nếu đối ngọai Trung Quốc có vẻ bạc nhược hoặc nhận thức phổ biến rằng nước này đã bị thua thiệt hay bị khinh bỉ, thì có thể là cực kỳ nguy hiểm đối với triển vọng tiếp tục cầm quyền của Đảng. Những lo lắng ngấm ngầm về tính chính đáng của Đảng khiến chế độ nhạy cảm hơn với sự khinh rẽ và thất bại, và càng khiến họ kiên quyết hơn trong việc ngăn chặn những thử thách và tránh thất bại. Sự bảo đảm tốt nhất chống lại những nguy cơ như thế đối với Trung Quốc là tích lũy một ưu thế sức mạnh áp đảo trong khu vực láng giềng của nuớc này.

Hơn nữa, sự cực kỳ nhạy cảm của Đảng Cộng Sản Trung Quốc đối với cái mà Đảng coi là "chủ nghĩa ly khai" là hậu quả trực tiếp của việc họ tin rằng họ phải duy trì kiểm soát tập trung ở mọi nơi mọi lúc. Vì thế, yêu sách tăng tự trị ở Tây Tạng và Tân Cương được xem như mối đe dọa "chết người" đối với sự thống nhất quốc gia và như vậy là đối với sự tiếp tục cầm quyền của Đảng. Chế độ này tin rằng nếu họ buông lơi dù chỉ một chút sự nắm chặt của họ thì cả nước sẽ vỡ tung. Các lãnh đạo Trung Quốc thấy cần phát triển đủ sức mạnh để ngăn chặn các nước láng giềng của họ cung cấp viện trợ và nhu yếu cho các nhóm ly khai và sẽ tạo ra những khả năng để can thiệp trực tiếp nhằm ngăn chặn chúng, nếu điều đó trở nên cần thiết.

Ngay khi Đảng mạnh hơn và, trong vài khía cạnh, tự tin hơn, họ vẫn tiếp tục lo sợ sự ô nhiễm tư tưởng. Các nước dễ bảo và đồng tâm nằm dọc theo biên giới của Trung Quốc có khả năng giúp Bắc Kinh đối phó với nguy cơ này rất nhiều hơn những quốc gia dân chủ phóng khoáng có quan hệ chặt chẽ với phương Tây. Mong muốn ngăn chặn "diễn biến hòa bình" trong nước cho chế độ một lý do thuyết phục hơn để muốn định hướng sự phát triển chính trị của các láng giềng của Trung Quốc.

Tóm lại: không phải những người cầm quyền hiện nay ở Trung Quốc mưu cầu ưu thế cho quốc gia của họ chỉ vì họ là lãnh đạo của một cường quốc đang lên, hay đơn giản vì họ là người Trung Quốc. Mong muốn thống trị và kiểm soát của họ, phần lớn, là một phó sản của loại hệ thống chính trị mà họ đang cầm đầu. Một Trung Quốc mạnh, dân chủ tự do, chắc chắn cũng sẽ tìm một vai trò lãnh đạo trong khu vực của nó và có lẽ một quyền phủ quyết trên thực tế đối với những sự phát triển mà quốc gia này cho là đi ngược những lợi ích của họ. Tuy nhiên, một chế độ (dân chủ tự do) như thế cũng sẽ ít sợ mất ổn định trong nưóc, ít cảm thấy bị đe dọa bởi sự hiện diện của các nước láng giềng dân chủ, và cũng có xu hướng tìm ủng hộ của dân chúng trong nước qua sự chế ngự và lệ thuộc của những nước khác.



Dù không phải ai cũng tin như thế, nhưng, cuối cùng, một nước Trung Quốc dân chủ hơn sẽ đem đến một môi trường hòa bình hơn, khó có chiến tranh hơn, ở châu Á. Theo quan điểm của nhiều người theo chủ nghĩa thực tế, những cải cách nội bộ sẽ chỉ làm cho Bắc Kinh phồn thịnh hơn, hùng cường hơn và vì vậy là một đối thủ cạnh tranh mạnh mẽ hơn mà không làm nước này chệch khỏi ý muốn thống trị Đông Á và giải quyết những tranh cãi với một số láng giềng của nó. Có một sự thật chắc chắn rằng ngay cả nếu trong dài hạn, Trung Quốc trở thành một nền dân chủ hòa bình và ổn định đi nữa thì cuộc chuyển đổi của nó cũng sẽ đầy chông gai. Việc mở cửa hệ thống chính trị của đất nước cho những bất đồng và tranh luận dễ đưa một yếu tố bất ổn vào chính sách đối ngoại của nó khi các tiếng nói khác được nghe và các lãnh đạo đầy tham vọng tranh giành nhau sự ủng hộ của dân chúng. Như một nhà quan sát, nhà kinh tế học David Hale buồn bã chỉ ra: "Một Trung Quốc chuyên chế có thể dễ dàng đoán trước. Một Trung Quốc mở cửa và dân chủ hơn có thể sinh ra những bất trắc mới trong cả chính sách đối nội và các quan hệ quốc tế."

Chủ nghĩa dân tộc, có lẽ dưới dạng độc hại và hung hăng nhất của nó, là một nhân tố có thể đóng vai trò nổi bật trong việc định hướng chính sách ngoại giao của một Trung Quốc (Middle Kingdom - vương quốc ở giữa) tự do hóa. Nhờ có sự lan tràn của mạng lưới Internet và nới lỏng kiềm chế trên ít nhất một số dạng biểu hiện chính trị của "lòng yêu nước", chế độ hiện nay đã thấy mình là đối tượng phê phán bất cứ khi nào nó giữ lập trường mà một số "cư dân mạng" cho là dễ dãi quá đáng đối với Nhật Bản, Đài Loan và Mỹ. Bắc Kinh lâu lâu lại tìm cách khuấy động tình cảm yêu nước, nhưng, sợ rằng cơn giận dữ đối với các nước ngoài cũng có thể dễ dàng quay trở lại chống lại đảng, chế độ cũng đã hết sức giữ gìn những cơn cuồng nhiệt của quần chúng trong vòng kiểm soát. Một chính phủ được bầu ra một cách dân chủ có thể ít rụt rè hơn nhiều. Nhà khoa học chính trị Fei Ling Wang cho rằng một chế độ hậu cộng sản thực tế sẽ mạnh hơn trong việc đòi chủ quyền đối với Đài Loan, Tây Tạng và Biển Nam Trung Quốc. Như ông giải thích:

Một chế độ ''dân chủ" ở Bắc Kinh, thoát khỏi những nỗi lo lắng làm suy nhược về sự sống còn của chính nó nhưng chắc chắn sẽ bị lôi kéo bởi những tình cảm của dân chúng, có thể làm cho cường quốc Trung Quốc đang lên thành một sức mạnh quả quyết, nôn nóng, tham chiến và hung hăng hơn, ít nhất trong thời kỳ bất ổn leo nhanh lên vị trí của một cường quốc đẳng cấp thế giới.

Điều cuối cùng là then chốt. Ngay cả những người tin tưởng nhất vào những tác động làm hòa dịu của quá trình dân chủ hóa cũng nhìn nhận khả năng của một cuộc chuyển đổi hỗn loạn. Trong tác phẩm Tương lai Dân chủ của Trung Quốc (China's Democratic Future), Bruce Gilley thừa nhận rằng các cuộc cách mạng dân chủ trong các nước khác thường dẫn đến bùng nổ các cuộc xâm lược nước ngoài, và ông nhận xét rằng từ đầu thế kỷ hai mươi, phong trào ủng hộ dân chủ ở Trung Quốc cũng có tính dân tộc chủ nghĩa cao độ. Dù có những tiền lệ này, Gilley tiên đoán rằng sau một quãng cách có lẽ một thập kỷ, một nước được chuyển đổi sẽ yên hàn đi vào những mối quan hệ hợp tác và ổn định hơn với Mỹ cũng như với các nước dân chủ láng giềng của nó.

Tất nhiên một kết quả như thế không hề là chắc chắn, và phụ thuộc vào những sự kiện và những tương tác khó biết trước và thậm chí khó kiểm soát. Nếu những va chạm ban đầu giữa một nền dân chủ non trẻ và những đối tác được thiết lập tốt hơn của nó bị xử lý tồi dẫn đến một cuộc xung đột vũ trang thật sự, lịch sử có thể xoay sang những hướng rất khác và ít hứa hẹn hơn nhiều [so với] nếu chúng được giải quyết thỏa đáng. Tuy nhiên, giả sử cuộc chuyển đổi có thể được dẫn hướng không gây ra thảm họa, có đầy đủ lý do để tin rằng các quan hệ sẽ được cải thiện với thời gian. Một người Trung Quốc ủng hộ cải cách chính trị, Liu Junning, đã tổng kết tóm tắt rõ ràng các viễn cảnh. Trong khi một nước Trung Quốc "dân tộc chủ nghĩa và độc tài" sẽ là một mối đe dọa đang hiện hình," thì một nước Trung Quốc dân chủ, tự do cuối cùng sẽ chứng tỏ là một "đối tác xây dựng."

Kỳ vọng này xuất phát không phải chỉ từ sự viễn mơ. Khi các giá trị và các thiết chế của dân chủ tự do có đuợccmột nền móng vững chắc, sẽ bắt đầu có cuộc tranh biện công khai và có ý nghĩa chính trị và cuộc tranh đua thật sự giữa các mục tiêu quốc gia và sự phân phối tài nguyên của đất nước. Các nhà lãnh đạo có tham vọng và những người tạo dư luận lưu tâm đến uy tín, danh dự, quyền lực và thanh toán nợ nần sẽ phải cạnh tranh với những người khác, nhấn mạnh đến tính ưu việt của sự ổn định quốc tế, hợp tác, hòa giải và thúc đẩy tăng tiến phúc lợi xã hội. Những yêu cầu của quân đội và những liên minh công nghiệp của nó sẽ có những đối trọng, ít nhất đến một mức độ nào đó, bởi các nhóm muốn chi tiêu nhiều hơn vào giáo dục y tế và chăm sóc người già. Phiên bản dân tộc chủ nghĩa thái quá và quyết đoán của lịch sử Trung Quốc và những nỗi bất bình của nó sẽ bị thách thức bởi những quan điểm thừa nhận sự có tội của chế độ cũ trong việc đàn áp các dân tộc thiểu số và từ chối tìm kiếm sự dàn xếp trên các vấn đề chủ quyền. Một giàn lãnh đạo bị ám ảnh với sự sống còn của chính nó và với những mối đe dọa từ các cường quốc bên ngoài sẽ được thay thế bởi một chính phủ vững vàng trong tính chính đáng của nó và không có lý do gì để sợ rằng các nền dân chủ trên thế giới đang tìm cách bao vây và lật đổ nó.

Một nước Trung Quốc dân chủ có thể sẽ thấy dễ dàng sống hòa thuận với Nhật Bản, Ấn Độ, và Nam Triều Tiên, cùng nhiều nước khác. Sự tin cậy và tôn trọng lẫn nhau cuối cùng lớn lên giữa các nước dân chủ và xua tan nỗi sợ rằng người ta sẽ dùng sức mạnh chống lại nhau, sẽ làm tăng lợi thế của việc đạt được những dàn xếp thông qua thương lượng đối với những tranh chấp về biên giới, biển đảo và các nguồn tài nguyên. Một chính phủ dân chủ ở Bắc Kinh cũng sẽ đồng ý với một cơ hội tốt hơn để đạt được một giải pháp hai bên cùng chấp nhận cho sự xa cách sáu mươi năm với Đài Loan. Trái với những nhà cầm quyền Đảng Cộng Sản Trung Quốc hiện nay, một chế độ ở lục địa được dân bầu sẽ có thấy các cuộc xung đột ít có lợi cho họ hơn, chế độ ấy sẽ có nhiều khả năng bày tỏ sự tôn trọng đối với một chính phủ dân chủ khác được ưa thích hơn, và chế độ ấy cũng sẽ hấp dẫn hơn đối với nhân dân Đài Loan như một đối tác trong một số kiểu bố trí liên bang có thể sẽ thỏa mãn những mong muốn và xoa dịu những nỗi sợ hãi của cả hai bên.

Chừng nào mà Trung Quốc còn được cai trị như hiện nay, thì sự lớn lên của sức mạnh của quốc gia này còn đặt một thách thức sâu xa lên các quyền lợi của Mỹ. Nếu Mỹ muốn ngăn chặn xâm lược, ngăn cản áp bức và duy trì một trật tự mở, đa phương, thì Washington và các nước bạn và đồng minh của Mỹ sẽ phải hành động tích cực hơn, và hợp tác chặt chẽ hơn, để duy trì sự cân bằng thuận lợi của sức mạnh trong khu vực. Trong dài hạn, Mỹ có thể học cách sống với một nước Trung Quốc dân chủ như một cường quốc vượt trội ở Đông Á, như nước Anh đã đi đến chấp nhận Mỹ như một cường quốc vượt trội ở Tây Bán cầu. Từ nay đến ngày đó, Washington và Bắc Kinh sẽ vẫn còn bị hãm trong một cuộc đấu tranh ngày càng mãnh liệt để giành ngôi bá chủ ở châu Á.

* Nguồn: National Interest
( Bản dịch của Tạp chí Thời Đại Mới)

VŨ KHOAN - “Cần có trái tim nóng và cái đầu lạnh” -

“Cần có trái tim nóng và cái đầu lạnh” -


Tác giả: VŨ KHOAN, Nguyên Bí thư Trung ương Đảng, nguyên Phó thủ tướng Chính phủ

Bài đã được xuất bản.: 19/07/2011


Các quốc gia tuy chia sẻ một số lợi ích chung song luôn có những lợi ích riêng, nhiều khi "vênh nhau", thậm chí trái chiều nhau, nên trong quan hệ quốc tế luôn diễn ra quá trình vừa hợp tác vừa đấu tranh nhưng không nhất thiết lúc nào cũng đưa tới xung đột quân sự. Quan hệ quốc tế của nước ta cũng không phải ngoại lệ. Vấn đề chỉ là xử lý thế nào cặp quan hệ đó cho có lợi nhất đối với đất nước.

Thế giới và khu vực bước vào thập kỷ thứ hai của thế kỷ XXI với biết bao phức tạp, rối ren. Sau những năm tháng tưởng như hưng thịnh vào đầu những năm 2000, tới cuối thập kỷ bỗng bùng phát cuộc khủng hoảng tài chính-tiền tệ và suy giảm kinh tế toàn cầu tồi tệ nhất trong 80 năm. Cho tới nay, kinh tế thế giới vẫn chưa vực dậy được. Một loạt nước châu Âu tưởng như rất giàu sang bỗng đứng trước nguy cơ vỡ nợ, thậm chí nước giàu nhất thế giới là Mỹ cũng thành "Chúa Chổm".

Sau sự lụn bại đó, kinh tế thế giới đang trải qua một cuộc đại phẫu: Từ cơ cấu sản xuất, tiêu dùng, tài chính-tiền tệ cho tới chính sách, cơ chế quản lý; sức mạnh các nền kinh tế và quan hệ kinh tế quốc tế đang được xếp sắp lại... Về chính trị-an ninh, thế giới đang chứng kiến hai cuộc chiến tranh nóng kéo dài ở I-rắc và Áp-ga-ni-xtan, sự xáo động xã hội dữ dội ở Trung Đông, Bắc Phi, không ít cuộc khủng bố, xung đột, căng thẳng về chủ quyền lãnh thổ và tài nguyên, kể cả trên Biển Đông; sức mạnh các quốc gia và bàn cờ quốc tế đang chuyển dịch mạnh.

Những diễn biến dồn dập về cường độ, rộng lớn về phạm vi, sâu sắc về ý nghĩa nói trên cho thấy cục diện thế giới ẩn chứa rất nhiều nhân tố bất định đòi hỏi mọi quốc gia, trong đó có nước ta, phải tỉnh táo nắm bắt, chọn lựa chính xác cách hành xử thích hợp.

Nhìn nhân tình thế thái mới, có lẽ nên ôn lại và vận dụng thật tốt những bài học của nền ngoại giao Hồ Chí Minh để ứng phó với cái "vạn biến" đang diễn ra.

Trong hơn 65 năm qua kể từ sau Cách mạng Tháng Tám, nước ta đã phải trải qua biết bao thử thách, biết bao thời khắc hiểm nguy: Nào là thù trong giặc ngoài khi nước Việt Nam độc lập còn trong trứng nước, nào là mấy cuộc kháng chiến chống ngoại xâm liên tiếp và kéo dài, nào là tình thế bị bao vây cô lập hơn một chục năm trời. Thế nhưng nhân dân ta đã vượt qua được tất thảy, trong đó có sự đóng góp không nhỏ của hoạt động ngoại giao. Ngày nay, lực và thế của nước ta đã khác hẳn trước, há nào không xây dựng và bảo vệ thành công đất nước? Ôn cựu, trước hết là ôn lại và củng cố niềm tin; không có nó thì chẳng làm nên điều gì!
Các Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN và 8 nước đối tác trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương bàn về vấn đề hòa bình trong khu vực, khi tham dự Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN mở rộng đầu tiên, được tổ chức tại Hà Nội tháng 10-2010. Ảnh tư liệu

Niềm tin ở đây không phải là mù quáng mà dựa trên những bài học của quá khứ, sự nhận diện một cách khoa học, tỉnh táo hiện tại và đoán định tương lai.

Trên chặng đường nào cũng vậy, điều then chốt là xác định cho trúng và kiên trì cái "bất biến", hay nói một cách khác là cái lợi ích chính yếu của đất nước. Ngày nay, phải chăng cái "bất biến" đối với nước ta là "lợi ích kép": Giữ vững độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, đồng thời duy trì sự ổn định chính trị-xã hội trong nước và môi trường quốc tế thuận lợi để tập trung vào nhiệm vụ trung tâm là phát triển kinh tế-xã hội. Hai vế đó gắn bó mật thiết với nhau, tác động qua lại và là tiền đề của nhau. Nói một cách hình tượng thì hai vế đó giống như hai cái cánh của một con chim; gẫy cánh nào chim cũng không bay nổi.

Đối với mọi quốc gia, lớn hay nhỏ, giàu hay nghèo, giữ vững độc lập, chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ luôn luôn là nghĩa vụ thiêng liêng; không bảo vệ được chúng thì khỏi nói đến chuyện phát triển. Ngược lại, không nỗ lực tạo dựng môi trường quốc tế thuận lợi nhất để phát triển đất nước, tăng cường sức mạnh tổng hợp của quốc gia thì cũng không lấy đâu ra "thực lực" và không thể tạo dựng được "vị thế" cần thiết để bảo vệ đất nước. Do đó bất luận thế nào, về phần mình, chúng ta cần chủ động "ứng vạn biến" để bảo vệ trọn vẹn cả hai vế. Đương nhiên, làm được như vậy không dễ vì có những nhân tố không tùy thuộc vào bản thân chúng ta. Nhưng càng khó chúng ta càng cần huy động nguồn trí tuệ và sự khôn khéo vốn có của trường phái ngoại giao Việt Nam mà Bác Hồ là một biểu tượng sáng ngời.

Khéo gì thì khéo vẫn phải có thực lực cả về vật chất lẫn tinh thần, hữu hình lẫn vô hình. Chỉ có vậy mới vận dụng được bài học kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Sức mạnh dân tộc, trước hết nằm ở sức mạnh kinh tế và quốc phòng-an ninh. Để củng cố sức mạnh ấy, đương nhiên Nhà nước gánh trách nhiệm lớn song rất cần sự đồng lòng, nhất trí và sự đóng góp thiết thực của mỗi người chúng ta bằng những hành động cụ thể. Lòng yêu nước lúc này cần được thể hiện không chỉ bằng những lời nói mà trước hết trong những việc làm góp phần làm cho dân giàu, nước mạnh.

Bên cạnh sức mạnh vật chất, dân tộc ta vốn có những sức mạnh vô hình, nhiều khi còn lớn hơn sức mạnh vật chất. Đó là sức mạnh chính nghĩa, truyền thống yêu nước và tinh thần đoàn kết dân tộc. Vốn bị áp bức, đè nén, xâm lược, bao vây, nghèo nàn, nhân dân ta luôn theo đuổi những mục tiêu chính đáng: Quyền được sống trong điều kiện độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, được an hưởng hòa bình, có được cuộc sống ấm no hạnh phúc, có quan hệ hợp tác hữu nghị với mọi dân tộc trên cơ sở bình đẳng, cùng có lợi dựa trên luật pháp quốc tế. Tính chính nghĩa của những mục tiêu theo đuổi tạo nên sức mạnh tinh thần, quy tụ ý chí toàn dân tộc, đồng thời tranh thủ được sự đồng tình của mọi người có lương tri trên thế giới.

Tinh thần yêu nước cháy bỏng và khối đoàn kết dân tộc được hun đúc qua hàng ngàn năm giữ nước, thường được thể hiện mạnh mẽ mỗi khi đất nước gặp khó khăn thử thách. Lúc này đây, truyền thống yêu nước và tinh thần đoàn kết toàn dân tộc cần được quy tụ vào việc bảo đảm cả hai nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Mọi hành vi, cho dù xuất phát từ những động cơ rất trong sáng, nhưng vô hình trung tạo ra sự phân tâm hoặc bất ổn xã hội, gây trở ngại cho việc củng cố tiềm lực, triển khai chính sách đối ngoại đa dạng hóa, đa phương hóa đều có thể làm cho sức mạnh dân tộc bị suy yếu, chỉ có lợi cho những người muốn thấy một nước Việt Nam yếu và chia rẽ. Đó là chưa kể một số kẻ mưu toan "đục nước béo cò", lợi dụng nhiệt huyết của các tầng lớp nhân dân để phục vụ cho những tính toán riêng của họ.

Nhân dân ta còn có một sức mạnh khác mà không phải dân tộc nào cũng có. Đó là mối cảm tình, sự tôn trọng của nhân dân thế giới do ý chí đấu tranh kiên cường, sự hy sinh lớn lao và những cống hiến quý báu vào sự nghiệp độc lập dân tộc trong quá khứ cũng như thái độ đầy trách nhiệm và những đóng góp tích cực cho hòa bình, hợp tác và phát triển hiện nay.

Hoạt động ngoại giao tích cực, chủ động, linh hoạt với tinh thần rộng mở và thái độ trách nhiệm cao, ra sức đóng góp cho sự nghiệp hòa bình, hợp tác phát triển chung của khu vực và thế giới, qua đó thu phục lòng người có thể tạo nên "sức mạnh mềm" có lợi cho việc củng cố thế và lực của đất nước. Thực tiễn lịch sử cho thấy, trong khi "lực" chưa mạnh đủ mức nhưng tạo được "thế" thuận lợi thì lực sẽ được nhân lên bội phần. Trước đây đã vậy, ngày nay không khác.

Trong hoàn cảnh hiện nay, sức mạnh thời đại thể hiện trong khát vọng của nhân dân thế giới về hòa bình và hợp tác để phát triển, về một trật tự chính trị và kinh tế quốc tế bình đẳng, cùng có lợi dựa trên những chuẩn mực của luật pháp quốc tế. Xu thế toàn cầu hóa tạo nên tính tùy thuộc lẫn nhau, lợi ích đan xen. Mọi quốc gia lớn nhỏ đều phải cân nhắc thiệt hơn trong sự hành xử của mình nếu đi ngược lại những chiều hướng đó.

Những ước nguyện chính đáng của nhân dân ta bắt gặp ý nguyện và xu thế chung của nhân loại tạo nên sức mạnh to lớn, giúp nhân dân ta vượt qua những khó khăn, thử thách mới.

Kiên trì, nhất quán theo đuổi đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ đi liền với chính sách đối ngoại rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa là một bài học lớn nữa đem lại thành công trên mặt trận ngoại giao. Thực tiễn mấy chục năm qua cho thấy, ta chỉ có thể thành công nếu kiên trì đường lối độc lập, tự chủ, ra sức huy động sức mạnh và trí tuệ của bản thân đi đôi với việc nỗ lực tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ quốc tế rộng rãi nhất có thể và thực thi một chính sách đối ngoại khôn khéo, tạo dựng thế đứng cơ động, linh hoạt, không để bị lợi dụng hoặc rơi vào thế cô lập.

Mặt khác, thực tiễn cũng cho thấy, mỗi quốc gia đều có lợi ích và tính toán riêng, do đó không phải một lần những vấn đề liên quan tới lợi ích của nước ta đã được đem ra xếp sắp, trao đổi trên bàn cờ quốc tế. Ngày nay, bài học này vẫn còn nguyên giá trị. Muốn tránh lặp lại tình trạng này, không có cách nào khác ngoài việc phát huy cao độ tinh thần tự lực tự cường, kiên định, nhất quán theo đuổi đường lối độc lập tự chủ và chính sách đa dạng hóa, đa phương hóa.

Các quốc gia tuy chia sẻ một số lợi ích chung song luôn có những lợi ích riêng, nhiều khi "vênh nhau", thậm chí trái chiều nhau, nên trong quan hệ quốc tế luôn diễn ra quá trình vừa hợp tác vừa đấu tranh nhưng không nhất thiết lúc nào cũng đưa tới xung đột quân sự. Quan hệ quốc tế của nước ta cũng không phải ngoại lệ. Vấn đề chỉ là xử lý thế nào cặp quan hệ đó cho có lợi nhất đối với đất nước. Kinh nghiệm thực tiễn cho thấy, muốn vậy cần tìm mọi cách hạn chế tới mức tối đa những mâu thuẫn, xung khắc, đối đầu, song song với những cố gắng không mệt mỏi thúc đẩy sự hợp tác với mọi quốc gia trong khi vẫn tự chủ, không rơi vào thế phụ thuộc. Nếu xảy ra khác biệt, xung đột lợi ích thì con đường tốt nhất là thông qua đối thoại, thương lượng để giải quyết; vấn đề gì liên quan tới hai nước thì thông qua kênh song phương, vấn đề liên quan tới nhiều bên thì thông qua kênh đa phương, kể cả các tổ chức khu vực và toàn cầu. Điều này cũng phù hợp với xu thế đa phương trong thế giới ngày nay.

Mặt khác cần kiên trì, khôn khéo đấu tranh bảo vệ những lợi ích chính đáng của mình, song cố tránh đi tới xung đột trực diện gây phương hại cho yêu cầu giữ vững môi trường quốc tế thuận lợi để phát triển và thế cơ động trong quan hệ quốc tế. Một nét đặc sắc không chỉ về ngoại giao mà cả trong truyền thống của dân tộc ta là tính nhân văn, luôn phân biệt rõ cái thiện, cái ác, luôn coi nhân dân các nước xâm lược nước ta là bạn, là đồng minh và rất xa lạ với những biểu hiện dân tộc hẹp hòi, kích động hằn thù mù quáng. Có thể nói, phương châm "thêm bạn bớt thù" của ông cha ta tiếp tục là một công cụ hữu hiệu trong quan hệ quốc tế ngày nay.

Nói tóm lại, tình hình càng phức tạp chúng ta càng cần phải vận dụng nhuần nhuyễn những truyền thống, những bài học lớn đã thu lượm được trong suốt chiều dài lịch sử từ ngày Nhà nước Việt Nam mới ra đời đến nay. Dũng khí cần song hành với mưu lược, nhiệt huyết cần đi đôi với sự tỉnh táo, có trái tim nóng chưa đủ mà cần có cái đầu lạnh.


© TUANVIETNAM.NET

17/7/11

Tran Ho Dung - Ước nguyện

Ước nguyện

Tranhodung

Tôi muốn
được làm một bông hoa dại ngoài đồng
để được mặc chiếc áo
“ rực rỡ hơn cả các sắc áo của vua Salomon “
( Hình như Chúa từng nói như thế )
khoe sắc dưới bầu trời xanh

Tôi muốn
được làm con chim cô đơn
Để được hót lên ( dù chỉ ) một lần
Được tự do nhìn ngắm bầu trời xanh
Rồi được chết
bởi gai nhọn của đóa hồng
( một cách tự nguyện , trong tự do và cô đơn )




Tôi muốn được làm người
Nói lên tiếng nói của mình
Trong thế kỉ hai mươi mốt này
Thế kỉ của một nền văn minh rực rỡ
Khi trí khôn loài người
Đã vượt qua tháp Ba-ben
tiến vào vũ trụ

( Nhưng lương tâm , lương tri
Đã bị đánh rơi dưới ngọn tháp
từ lâu )

Bông hoa dại
còn có chiếc áo đẹp ( Thượng đế ban cho )
Con chim
còn được hót ( dù chỉ một lần ) trong cô đơn và tự do

Còn tôi
Thằng người hèn mọn
Một tên nô lệ
của thời đại văn minh này
Hồn không áo
Và tiếng nói
Đã tắt nghẹn tự bao giờ
Vì ai đó
Đã bóp ngay cổ họng
Khi định hô lên hai tiếng : TỰ DO

Tôi ước
Mình được chết
Như thằng bạn
Ngày hôm qua

Vì khi nằm xuống
Người chết
KHÔNG CÒN SỢ HÃI

và được quyền nói !
( và dĩ nhiên đó là quyền được nói thật )


Tội nghiệp
cho người chết
KHI KHÔNG CÒN SỢ HÃI

khi được quyền nói
Thì không còn được nói

Tội nghiệp
cho người sống
Khi còn tiếng nói
Mà không nói được !

VÌ SỢ HÃI !


--------------------------------------------------------------
tranhodung .

Một ngày buồn hiu trên mặt đất
Saigon. 17/7/2011

16/7/11

Phỏng vấn Dịch Giả/ Nhà Thơ Dương Tường

Phỏng vấn Dịch Giả/ Nhà Thơ Dương Tường – Trước Sau Như Một

Lưu Diệu Vân


Tác giả của ba tập thơ, Đàn, 36 Bài Tình và Mea Culpa, và dịch giả của hơn 50 tác phẩm văn học kinh điển trên thế giới, trò chuyện riêng với độc giả về cuộc sống, hiện tại, tương lai, kỷ niệm, thi ca, và đàn bà.



Về cuộc sống …

Dịch giả, nhà thơ, nhà phê bình văn học, nhà báo, ông có vẻ là một người đầy đam mê. Ông còn có những đam mê đời thường nào khác không dính dáng đến nghệ thuật?

Sinh thời, Trần Dần thường bảo tôi: “Mày đúng là cái thằng tuần chay nào cũng có nước mắt.” Câu này có hai nghĩa. Thứ nhất: hễ có vụ việc nào dính dáng đến “an ninh văn hóa” là thể nào cũng có tên tôi trong danh sách bị gọi lên thẩm vấn. Hai là mê đủ thứ: thơ, văn, nhạc, họa, phim ảnh và đương nhiên là đàn bà. Ngoài ra, còn cả bóng đá nữa. Ở tuổi 75, tôi vẫn có thể xem bóng đá suốt đêm trên…tivi. Tôi hầu như không bỏ trận cầu nào phát trực tiếp trên tivi, đặc biệt là bóng đá Anh. Dưới mắt các nhà đạo đức, tôi là kẻ dễ giao động trước những cám dỗ, khéo rồi một lúc nào đó sẽ rơi vào vòng tay Satan mất.

75 tuổi và vẫn còn rất năng động trong đời sống thường nhật cũng như trong công việc sáng tác và dịch thuật, ông đón nhận thời gian hiện tại bằng tấm lòng như thế nào?

Bạn tôi, nhà thơ quá cố Đặng Đình Hưng, có câu: “Không ai làm gì được quyển lịch”. Một thái độ khách quan mà bình thản đối với thời gian. Cái bloc lịch nằm đó, anh có treo nó lên hay xếp xó, dù anh không thèm bóc hay bóc xoẹt một lúc cả chục tờ, thì ngày tháng vẫn cứ trôi đi theo cái nhịp bất di bất dịch của nó. Inexorable. Irrevocable. Một người bạn khác của tôi, nhà văn Châu Diên, cùng tuổi với tôi, thì lúc nào cũng tất bật làm việc, hối hả chạy đua với thời gian, như thể ngày mai mình sẽ chết và không kịp hoàn thành nốt những việc đang làm dở. Hình như tôi ở đâu đó giữa hai ông bạn này. Tôi bằng lòng với lượng thời gian còn lại của mình, coi đó là một ân sủng của trời đất. Dù không biết chắc mình còn được sống bao lâu, tôi vẫn coi mình là tỷ phú thời gian và xin tạ ơn trời đất về điều đó.

Còn thời gian đã qua thì sao? Ông có luyến tiếc nhiều về quá khứ không?


Thực lòng, tôi không hề luyến tiếc thời gian đã qua. Thậm chí tôi còn thấy mình may mắn hơn nhiều người bạn thân thiết đã ra đi sớm. Lưu Diệu Vân biết đấy, lớp chúng tôi là một thế hệ lỡ dở. A lost generation, có thể nói vậy. Chúng tôi có nhiều lầm lỡ – ai mà chả có lầm lỡ? – nhưng nhìn lại quá khứ, chúng tôi có thể tự hào là đã sống trung thực với mình. Nếu như có một phép mầu nào đó cho phép tôi sống lại những thời qua, ắt tôi vẫn sống đúng với lòng mình nguyên vẹn như xưa. Vậy thì hà cớ gì phải luyến tiếc?

Ông đã có được những gì và đã phải đánh đổi những gì khi ông luôn là người đi trước thời đại trong phong cách sáng tác cũng như trong phương cách sống?

Trước hết, tôi được sự an tĩnh tâm hồn, không vướng bận những luyến tiếc vô bổ, bởi đã sống và làm việc đúng như cần phải thế (như tôi đã nói ở trên), nói cách khác là đã dám là mình bất chấp tất cả. Và đó là điều quan trọng. Thứ nữa, những gì tôi đã làm (tuy chưa được bao nhiêu) đã ít nhiều đánh thức và khuấy động tinh thần cách tân khai phá ở một số không nhỏ trong thế hệ kế tiếp mình cả trong lĩnh vực văn học lẫn nghệ thuật. Như tôi đã nói ở trên, tôi thuộc một thế hệ lỡ dở và trong nhiều lần trả lời phỏng vấn trước đây, tôi đã nhấn mạnh rằng tôi chỉ còn tốt cho việc lót đường cho lớp trẻ. Những gì tôi đã làm không nằm ngoài chức năng lót đường đó và tôi bằng lòng về điều này bởi đó là một trong những nhân tố đem lại cho tôi niềm an ủi tinh thần nói trên. Tôi đã phải đánh đổi gì ư? Tin tôi hay không tin, nhưng thực sự tôi không cho rằng mình phải đánh đổi gì cả. Bởi tôi nghĩ định phận của những kẻ tự nguyện làm pioneer đương nhiên là phải đón nhận những thử thách gian lao, những ngộ nhận hiểu lầm, những chống đối và thậm chí cả những trấn áp…

Tựa đề của tập thơ mới nhất Mea Culpa, tiếng Latin, có nghĩa là lỗi tại tôi. Ông đã phạm những lỗi lầm nào trong đời? Ông muốn riêng gởi lời xưng tội đến ai?

Như tôi đã nói, ai chẳng lỗi lầm trong đời. Khi đối mặt với lương tâm, nhất là vào lúc xế chiều, người ta không khỏi cảm thấy ăn năn về những lỗi lầm đó. Tôi không phải là ngoại lệ. Như câu của Trần Dần mà tôi lấy làm đề từ, “tôi kiểm thảo bản thân cùng một thời đại buồn rầu.” Chẳng lẽ tín ngưỡng toàn vô vọng để rồi làm hỏng đời mình lại không phải là một trọng tội? Và lời xưng tội này, tôi gửi đến tất cả những ai rộng lòng nghe tôi, chứ không nhằm riêng một đối tượng cụ thể nào.

Tại sao ông tuyên bố rằng mình luôn “đứng về phe nước mắt”?

Vâng, bài thơ một câu Để ghi trên mộ chí sau này:
Tôi đứng về phe nước mắt
có thể coi như một tuyên ngôn của tôi. Đứng về phe những người bất hạnh, đơn côi, những người bị cuộc đời ruồng bỏ, đọa đầy, nói gọn lại, về phe những khổ đau của con người – đó là ứng xử suốt đời của tôi. My lifelong behavior. Tôi chưa bao giờ làm khác cả.



Về nghệ thuật sáng tác …

Ông từng phát biểu: “Nhà văn Việt Nam đương đại (…) ít chú ý luyện võ cho văn mình mà chủ yếu chỉ cốt lấy nội dung và tư tưởng chủ đề làm đầu….” Theo ông họ nên “luyện võ cho văn” bằng cách nào?

Bài “Luyện Võ Cho Văn” tôi viết đã gần hai mươi năm rồi, từ hồi “tiền-đổi mới”, khi mà không ít nhà văn Việt Nam còn sợ bị chụp cho cái mũ “hình thức chủ nghĩa”, chỉ chăm chăm phô diễn lập trường qua nội dung tư tưởng. Hồi đó, chưa xuất hiện những gương mặt đánh dấu bước ngoặt của văn học đổi mới như Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài… Từ đó đến nay, tình hình đã khác đi, khả quan hơn. Nhiều nhà văn đã có ý thức “luyện võ cho văn,” rèn tập bút pháp. Tuy nhiên, vẫn ít người có được chữ ký riêng hiển thị ở những cái mình viết ra, khiến cho người đọc chỉ lướt mắt qua đã nhận ra. Hiếm thấy ai có được hệ từ vựng (vocabulary) đặc trưng của mình (chẳng hạn, người ta nói chữ của Nguyễn Tuân). Nhà khoa học có phòng thí nghiệm. Nhà văn, người làm hóa học chữ (word chemistry), cũng cần có phòng thí nghiệm riêng để làm các thử nghiệm khác nhau với những con chữ của mình.

Giữa nội dung, bao gồm tư tưởng và xúc cảm, và nghệ thuật sắp đặt chữ nghĩa, cái nào quan trọng hơn trong một tác phẩm?

Nói chung, nội dung, bao gồm tư tưởng (tư tưởng triết học, tư tưởng chính trị, tư tưởng tôn giáo…) và cảm xúc thường là cốt lõi của một tác phẩm. Song hình thức, hay nói như Lưu Diệu Vân, nghệ thuật sắp đặt chữ nghĩa để chuyển tải nội dung đó, cũng rất quan trong. Trong một cuộc luận bàn về nội dung và hình thức với một số đồng nghiệp, tôi có tếu táo đưa ra một thí dụ như sau: giả sử một bữa tiệc toàn những sơn hào hải vị tuyệt trần thuộc loại “tiến vua”, nhưng thay vì bát đĩa, người ta “xẹc-via” cho anh trong những bô vệ sinh (dù là mới tinh, vừa xuất xưởng, chưa dùng bao giờ), liệu anh có thể ăn ngon miệng được không? Riêng trường hợp James Joyce, đặc biệt ở Ulysses, ngôi “đại giáo đường văn xuôi” của ông, và Finnegan’s Wake, nghệ thuật thao tác ngôn ngữ mới chính là phần chính yếu, vượt lên cả nội dung, chí ít là theo nhận định cá nhân của tôi. Hai tượng đài văn học này đã đánh dấu một bước ngoặt của tiểu thuyết thế giới.

Ông tự cho mình là người tiên phong hay là một môn đồ của thể thơ tân hình thức?

Về một mặt nào đó, tôi nghĩ mình ở trong số những người đi trước dò đường. Môn đồ của thể thơ tân hình thức ư? Tôi không muốn là môn đồ của bất cứ một ism nào. Tôi không nghĩ cách tốt nhất để một nghệ sĩ bắt đầu một tác phẩm là khuôn định trước cho nó phải theo một ism nào đó. Cái gì tôi làm ra trước hết phải là chính nó với tư cách là thực thể sáng tạo, rồi sau đó, xếp nó vào loại gì là việc của các nhà lý luận. Những cái tên do các nhà lý luận đặt cho các trường phái hay trào lưu nghệ thuật bao giờ cũng đến sau kết quả sáng tạo của các nghệ sĩ. Phải một vài năm sau sự xuất hiện của Các cô nàng ở Avignon (Les Demoiselles d’Avignon) của Picasso và Khỏa thân đứng (Nu debout) của Braque, hai tác phẩm được coi là những bức tranh lập thể đầu tiên, nhà phê bình nghệ thuật Louis Vauxcelles mới bịa ra từ “cubisme” khi thấy bức Những ngôi nhà ở Estraque (Les maisons d’Estaque) của Braque,“ làm bằng những khối vuông nhỏ (fait de petits cubes)”. Cũng chính ông Vauxcelles này đã thốt lên câu: “Donatello giữa bầy dã thú! (Donatello parmi les fauves!)” khi đến xem các tác phẩm của Matisse, Derain, Vlaminck, Marquet, Kandinski… tại Salon mùa thu năm 1905, mà thành tên cho trường phái dã thú (fauvisme).

Thơ có phải cũng chỉ là một trò chơi chữ nghĩa của trái tim? Ông cảm thấy trò chơi này là một phẩm chất sống tối cần thiết hay chỉ là một thú tiêu khiển có thể bị quên lãng bất cứ lúc nào?

Nếu coi nó như trò chơi chữ nghĩa của trái tim thì vâng, đó là một trò chơi nghiêm túc mà người chơi, thi sĩ, phải đánh cược cả cuộc đời mình vào đó.
Trong bảy bộ môn nghệ thuật truyền thống, địa vị của thơ nằm ở đâu trong sự nhận định riêng của ông?
Ngôi vị tối thượng.

Phần đông người viết sáng tác để truy cầu hạnh phúc, để lấp đầy khoảng trống, còn ông thì sao?

Với tôi, đó là lý do tồn tại, raison d’être.



Về nàng thơ …

Nàng thơ của Dương Tường có những nét đặc thù nào?

Tháng 11/1995, trong một buổi đọc thơ tại một trường trung học tại Boston, bang Massachusetts, có người hỏi tôi tại sao lại làm thơ bằng tiếng Anh. Tôi trả lời: “Nàng thơ của tôi nói ba thứ tiếng: Việt Nam, Pháp và Anh. Và tính nàng vốn thất thường (tôi dùng chữ whimsical). Có lúc nàng khăng khăng chỉ nói một trong ba ngôn ngữ ấy (chẳng hạn như khi tôi viết những bài thơ này, nàng không nói ngôn ngữ nào khác ngoài tiếng Anh), nên tôi đành phải tuân theo thôi.” Vậy đặc tính thứ nhất của nàng là: thất thường, do đó rất khó chiều. Đặc tính thứ hai là không thích lặp lại những gì đã làm, mà chỉ một mực theo ý mình, làm mới và khác những cái cũ. Đôi khi nàng cũng hóa thân vào một người đàn bà cụ thể nhưng không nhất thiết là “phải biết chơi dương cầm hay phải biết rơi lệ.”

Ông sống sao trong những tháng ngày nàng vắng mặt?

Thì tôi lại lao vào những đam mê khác (mà tôi đã “thú nhận” từ đầu) để lấp đầy khoảng trống vắng ấy.

Ông vẫn ngóng đợi sự trở về của nàng hay ông luôn mong chờ sự xuất hiện của một nàng thơ khác?

Tôi không thích chờ một cách thụ động. Nếu như nàng không trở lại, đó có nghĩa là tôi không còn khả năng để làm mới và khác như nàng đòi hỏi và khi đó thì đã quá muộn để mong chờ sự xuất hiện của một nàng thơ khác. Giờ đây, tôi cảm thấy mình như một mạch nước đã cạn và – tôi muốn nhắc lại – chỉ còn tốt để lót đường cho các bạn trẻ. Với tôi, dồn sức vào việc dịch những tinh hoa của thế giới cũng nhằm mục đích ấy.

Đàn bà có bị biến dạng nguyên bản chính khi vào trong thơ của Dương Tường không?

Biến dạng? Tôi không nghĩ thế. Hình bóng người đàn bà trong thơ Dương Tường thường là tổng hòa những nét riêng của nhiều chủ thể nên có khi nhiều người khác nhau nhận ra mình trong cùng một hình tượng.



Về kỷ niệm những con số trong lời thơ …

Tại sao “cài then ngang con số 7”?

Số 7 là con số bản mệnh của Dương Tường. Còn tại sao lại cài then ngang? Nhiều khi, có những chữ đến từ vô thức rồi chốt lại đấy, ngoài ý muốn của người làm thơ. Thì hãy coi đây là một kỷ niệm tuổi thơ hồn nhiên. Một cậu học sinh 14 -15 đến nhà một cô bạn gái cùng tuổi, gặp lúc cô đang tắm và cửa phòng tắm chỉ khép hờ, không cài then. Rồi gì nữa… nhưng thôi, lại xin cài then ngang cái bí mật nho nhỏ này.

Và câu truyện của “24 phím cầm chiều”?

24 là một con số tròn trặn, đẹp và buồn. Hình như các nhà soạn nhạc có một predilection đối với con số này. 24 préludes. 24 études. 24 variations. Ở Tình khúc 24 của Dương Tường, nó mang đậm dấu ấn của kỷ niệm: người đàn bà là nguồn cảm hứng của bài thơ năm ấy 24 tuổi.

Còn kỷ niệm của “32 lối chân đưa”?

Rất đơn giản: đây là ly rượu tự chúc (hay tự thán?) nhân sinh nhật lần thứ 32 của tôi.
ba mươi hai năm
ba mươi hai lối chân đưa
lầm
lũi
Một ly nhiều phần đắng hơn là êm dịu.

Rồi còn khoảnh khắc “tím mộng Scheherazade đêm 1002”?

Mỗi con số đều mang tính tượng trưng. Với Scheherazade, đêm ngàn-lẻ-hai là sự giải thoát và thư giãn sau khi, qua một ngàn lẻ một đêm, bằng trí tuệ và những truyện kể hút hồn của mình, đã hóa giải được lòng thù hận đàn bà của nhà vua Ba Tư Schahriar, là sự chinh phục và cuối cùng là niềm an tĩnh tâm hồn, peace of mind. Câu “tím mộng Scheherazade” bật ra từ cảm giác lung linh khi tôi nghe bản Scheherazade của Rimsky-Korsakov.



Về tương lai …


Ai đó đã nói “cách tốt nhất để đoán định tương là sáng chế ra nó.” Ông nghĩ sao và ông sáng chế tương lai của mình bằng cách nào?

Đó là một ý kiến chí lý. Và điều đó dường như phù hợp với thái độ sống của chính tôi. Suốt cuộc đời không mấy “xuôi chiều mát mái” của mình, tôi đã không thụ động đón nhận tương lai. Và cả giờ đây nữa, ở cái tuổi xế chiều, tôi vẫn muốn tự mình làm ra tương lai. Bằng cách nào ư? Vẫn một ứng xử nhất quán: đi đến cùng con đường mình đã chọn, bất chấp mọi thách thức.

Ông muốn mọi người nhớ đến ông như thế nào? Một nhà thơ độc nhất vô nhị? Một dịch giả thanh thế? Hay một người đàn ông luôn phấn đấu để hơn mình thêm một ít?


Như một người trước sau như một luôn giữ đúng cốt cách của mình.

Ông có thể chia sẻ một vài dự án tương lai của ông? Sẽ có thêm tập thơ thứ tư và những tác phẩm dịch thuật nữa chứ?


Tôi có một nguyên tắc nghiêm ngặt là không bao giờ công bố những dự án tương lai của mình.

2007
Lưu Diệu Vân

Source : DA MAU

101 TRUYỆN THIỀN (II )

101 TRUYỆN THIỀN

101 ZEN STORIES
transcribed by NYOGEN SENZAKI and PAUL REPS

Tâm Minh NGÔ TẰNG GIAO chuyển ngữ


----------------------------------------------------------------------------

-II-

* 51 *

BỘT ĐẬU NÀNH CHUA

Ông sư nấu ăn Dairyo, ở tại tu viện của Bankei, quyết định rằng ông sẽ chăm sóc kỹ lưỡng cho sức khỏe của vị thầy già nua của ông và chỉ dọn cho thầy món bột đậu nành tươi mà thôi, một thứ bột đậu nành trộn với lúa mì và men bia thường lên men. Bankei nhận thấy rằng mình được dọn cho ăn món bột đậu nành ngon hơn các môn sinh của mình bèn hỏi: "Ai là người nấu ăn ngày hôm nay?"

Dairyo được đưa đến trình diện thầy. Bankei hay biết rằng vì tuổi tác và thứ bậc của mình mà mình được dùng món bột đậu nành tươi mà thôi. Vì vậy ông nói với người nấu ăn: "Như thế là con cho rằng ta chẳng nên ăn chi hết." Nói vậy xong ông vào phòng ông và khóa cửa lại.

Dairyo, ngồi phía ngoài cửa, xin thầy mình tha lỗi. Bankei chẳng trả lời. Trong bảy ngày Dairyo ngồi ở bên ngoài và Bankei bên trong.

Sau chót, trong thế cùng, một đệ tử nói lớn tiếng với Bankei: "Thầy thì có thể không sao đâu, ông thầy già ơi, nhưng anh môn sinh trẻ này ở đây thì cần phải ăn chứ. Anh ấy không có thể tiếp tục nhịn ăn mãi đâu!"

Tới lúc đó thì Bankei mở cửa ra. Ông mỉm cười. Ông bảo Dairyo: "Ta muốn được ăn cùng món ăn giống như những đệ tử khác của ta. Khi con trở nên làm thầy ta không muốn con quên điều này."

*

* 52 *

ÁNH SÁNG CỦA CON CÓ THỂ TẮT

Một môn sinh Tendai, một trường phái triết học Phật giáo, đi tới thiền viện của Gasan làm một thiền sinh. Khi anh sắp rời đi vào một vài năm sau, Gasan báo cho anh biết trước rằng: "Nghiên cứu chân lý về lý thuyết chỉ ích lợi như là một phương cách thâu thập những tài liệu giảng pháp . Nhưng nên nhớ rằng trừ phi con thiền định kiên trì, nếu không thì ánh sáng chân lý của con có thể tắt đi mất."

*

* 53 *

NGƯỜI CHO NÊN CÁM ƠN

Khi Seisetsu làm thiền sư của Engaku ở vào thời Kamakura, thầy cần dùng những cơ sở lớn hơn, vì trong những nơi thầy đang giảng dạy quá đông người. Umezu Seibei, một thương gia ở Edo, quyết định hiến tặng năm trăm lượng vàng gọi là ryo cho việc xây dựng một ngôi trường rộng rãi hơn. Ông mang tiền này đến cho thầy.

Seisetsu nói: "Được lắm. Tôi sẽ nhận món tiền đó."

Umezu trao cho Seisetsu túi vàng, nhưng ông không hài lòng với thái độ của ông thầy. Một người có thể sống được suốt cả năm với ba lượng, và ông thương gia lại chẳng hề được cám ơn với năm trăm lượng.

"Trong túi này là năm trăm lượng," Umezu ám chỉ.

"Ông đã nói với tôi điều đó trước đây rồi," Seisetsu trả lời.

"Cho dù rằng tôi là một thương gia giàu có, năm trăm lượng là món tiền lớn đấy," Umezu nói.

"Ông muốn tôi cám ơn ông vì cái món tiền đó hay sao đây?" Seisetsu hỏi.

"Thầy nên làm như thế chứ," Umezu đáp lại.

"Tại sao tôi phải nói vậy nhỉ?" Seisetsu thắc mắc. "Người đem tặng nên cám ơn chứ."

*

* 54 *

DI NGÔN VÀ CHÚC THƯ CUỐI CÙNG

Ikkyu, một thiền sư nổi tiếng của thời đại Ashikaga, là con trai của hoàng đế. Khi ông còn rất nhỏ, mẹ ông đã rời bỏ cung điện và đi học Thiền trong một thiền viện. Cùng theo đường đó mà hoàng tử Ikkyu cũng đã trở thành một thiền sinh. Khi mẹ ông mất đi, bà để lại cho ông một bức thư. Bức thư viết:

Gởi Ikkyu:

Mẹ đã hoàn thành sự nghiệp của mẹ trong cõi đời này và bây giờ trở về nơi Bất Diệt. Mẹ cầu mong con trở thành một thiền sinh giỏi và ngộ ra được Phật tánh của con. Con sẽ biết được là mẹ ở trong địa ngục hoặc mẹ có luôn luôn kề bên con hay không.

Nếu con trở thành một kẻ nhận thức ra được rằng Đức Phật và người theo ngài là Bồ Đề Đạt Ma đều là những vị phục vụ của riêng con, con có thể ngưng chuyện học hỏi lại và làm việc cho nhân loại. Đức Phật đã thuyết pháp trong bốn mươi chín năm và trong suốt thời gian đó đã khám phá ra là không cần thiết phải nói một lời nào. Con phải biết là vì sao chứ. Nhưng nếu con không biết và tuy nhiên lại đang mong muốn được biết, thì hãy nên tránh suy tư một cách vô ích nhé.

Mẹ của con,
Không sinh, không tử.
Ngày đầu Tháng Chín.

Tái bút: Lời dạy của Đức Phật là chủ yếu nhắm vào mục đích giác ngộ những kẻ khác. Nếu con lệ thuộc vào bất cứ một phương thức nào của lời dạy đó, thì con chẳng là cái gì cả mà chỉ còn là một con côn trùng ngu dốt. Có đến 80.000 cuốn sách về Phật giáo và nếu con phải đọc tất cả kinh điển đó mà vẫn chưa nhận ra được bản tính của chính con, con sẽ không hiểu được ngay cả lá thư này. Đây là di ngôn và chúc thư của mẹ.

*

* 55 *

TRÀ SƯ VÀ KẺ ÁM SÁT

Taiko, một chiến sỹ sống ở Nhật Bản trước thời đại Tokugawa, học Cha-no-yu, nghi thức uống trà, với Sen no Rikyu, một vị thầy về sự diễn tả vẻ điềm tĩnh và thoả nguyện có tính cách thẩm mỹ đó.

Chiến sỹ phụ tá của Taiko tên là Kato lại suy diễn rằng lòng đam mê nghi thức uống trà của cấp trên của anh ta là một sự sao lãng công việc quốc gia, cho nên anh quyết định hạ sát Sen no Rikyu. Anh làm bộ như đến viếng thăm xã giao vị trà sư và được mời uống trà.

Vị trà sư, ông rất khéo léo trong môn nghệ thuật của mình, nhìn thoáng đã nhận ra ý định của anh chiến sỹ, vì vậy ông mời Kato bỏ kiếm ở bên ngoài trước khi bước vào phòng dự nghi lễ, giải thích rằng Cha-no-yu là biểu tượng cho chính sự bình an.

Kato không chịu nghe theo cách đó. "Tôi là một chiến sỹ," anh nói. "Tôi luôn luôn mang kiếm theo với tôi. Cha-no-yu hay không Cha-no-yu, tôi vẫn giữ kiếm."

"Cũng được thôi. Hãy mang kiếm của anh vào và dùng chút trà," Sen no Rikyu ưng thuận.

Cái ấm đang sôi trên lửa than. Thình lình Sen no Rikyu lật ấm nghiêng qua. Hơi nước cháy xèo bốc lên, tỏa ra đầy khắp cả căn phòng toàn khói và tro bụi. Anh chiến sỹ giật mình chạy ra ngoài.

Vị trà sư xin lỗi. "Đó là lỗi của tôi. Hãy vào trở lại và dùng chút trà. Tôi cầm kiếm của anh phủ tro bụi đây và tôi sẽ lau sạch nó rồi đưa lại cho anh."

Trong tình trạng khó khăn lúng túng này anh chiến sỹ nhận ra rằng anh không thể dễ mà hạ sát được vị trà sư, nên anh bỏ ý định.

*

* 56 *

CHÁNH ĐẠO

Ngay trước khi Ninakawa từ trần thiền sư Ikkyu đến thăm ông ta. "Tôi sẽ tiếp dẫn cho ông nhé?" Ikkyu hỏi.

Ninakawa trả lời: "Tôi đến đây một mình và tôi ra đi một mình. Ông có thể giúp đỡ được gì cho tôi đây?"

Ikkyu trả lời: "Nếu ông nghĩ rằng ông thực sự đến và đi, điều đó là vọng tưởng của ông. Để tôi chỉ cho ông thấy con đường trên đó không có đến và chẳng có đi."

Với những lời của mình, Ikkyu đã vạch ra cho thấy con đường sáng tỏ khiến Ninakawa mỉm cười và lìa đời.

*

* 57 *

CỬA THIÊN ĐƯỜNG

Một chàng lính tên là Nobushige tìm tới Hakuin và hỏi: "Thật sự là có một thiên đường và một địa ngục hay không?"

"Anh là ai?" Hakuin hỏi.

"Tôi là một hiệp sĩ," chàng chiến sĩ trả lời.

"Anh mà là lính à!" Hakuin kêu lên. "Loại giới chức nào mà lại nhờ anh làm kẻ hộ vệ cho mình? Mặt anh trông giống như mặt của một tên ăn mày."

Nobushige nổi cơn tức giận đến độ bắt đầu rút kiếm của chàng ta ra, nhưng Hakuin nói tiếp: "Vậy là anh có một thanh kiếm! Khí giới của anh có lẽ quá cùn lụt làm sao chém được đầu của ta."

Khi Nobushige rút kiếm của chàng Hakuin chỉ trích: "Cửa địa ngục mở ra đây này!"

Với những lời này chàng hiệp sĩ, nhận thức ra được phương pháp giáo huấn của thiền sư, tra kiếm vào trong bao và cúi chào.

"Cửa thiên đường mở ra đấy thôi," Hakuin nói.

*

* 58 *

BẮT GIỮ ÔNG PHẬT ĐÁ

Một người lái buôn mang năm mươi cuộn hàng bông gòn trên vai dừng chân lại nghỉ để tránh cái nóng ban ngày dưới một nơi cư trú ở đó có dựng một tượng Phật lớn bằng đá. Tại đó ông ta ngủ thiếp đi, và khi ông tỉnh giấc dậy thì hàng hóa của ông đã biến đi mất. Ông lập tức trình báo sự việc cho cảnh sát.

Một quan tòa tên là O-oka mở phiên tòa để cứu xét. "Ông Phật bằng đá đó có thể đã lấy trộm số hàng hóa," quan tòa kết luận. "Ông ta chính ra phải chăm lo cho hạnh phúc của người dân, nhưng ông đã không hoàn thành nhiệm vụ thánh thiện của ông. Hãy bắt giữ ông ấy."

Cảnh sát bắt giữ ông Phật bằng đá và khiêng tượng vào trong tòa án. Một đám đông huyên náo theo sau pho tượng, tò mò muốn hay biết xem loại phán quyết nào mà quan tòa sẽ tuyên xử.

Khi O-oka ra ngồi trên ghế thẩm phán, ông liền khiển trách đám thính giả ồn ào. "Các ngươi có quyền gì mà ra trước tòa án cười cợt và đùa bỡn như thế này? Các ngươi phạm tội khinh thường tòa án nên phải bị phạt tiền và tù giam."

Mọi người vội vàng xin lỗi. "Ta sẽ phải phạt các ngươi một khoản tiền," quan tòa nói, "nhưng ta sẽ khoan hồng khoản đó miễn là mỗi người trong đám các ngươi phải mang một cuộn bông gòn đến nạp tòa trong hạn ba ngày. Ai không thi hành lệnh này sẽ bị bắt giữ."

Một trong những cuộn hàng mà người dân mang tới liền ngay tức khắc được ông lái buôn nhận ra là của riêng ông, và do đó tên kẻ trộm đã bị khám phá ra một cách dễ dàng. Ông lái buôn thâu hồi lại hàng hóa của ông ta và các cuộn bông gòn được trả lại cho dân chúng.

*

* 59 *

NHỮNG CHIẾN SĨ NHÂN ĐẠO

Có lần một sư đoàn quân đội Nhật Bản tập trận giả và vài người trong đám sĩ quan thấy cần thiết phải đặt bộ tham mưu của họ trong thiền viện của Gasan.

Gasan bảo nhà bếp của ông: "Chỉ dọn cho các sĩ quan ăn cùng một món thanh đạm mà chúng ta ăn."

Điều này làm cho đám người trong quân đội nổi giận, vì họ thường được hưởng một sự đối đãi rất là tôn kính. Một người đến gặp Gasan và nói: "Ông nghĩ chúng tôi là ai? Chúng tôi là chiến sĩ, hy sinh mạng sống của chúng tôi cho đất nước chúng ta. Tại sao ông không đối xử với chúng tôi một cách tương xứng chứ?"

Gasan trả lời một cách nghiêm nghị: "Ông nghĩ chúng tôi là ai? Chúng tôi là những chiến sĩ nhân đạo, nhắm mục tiêu cứu vớt tất cả chúng sinh."

*

* 60 *

CON ĐƯỜNG HẦM

Zenkai, con trai của một hiệp sĩ, du hành tới Edo và ở đó trở thành người hầu cận của một viên chức cao cấp. Chàng yêu bà vợ của viên chức và chuyện này bị khám phá ra. Để tự vệ, chàng hạ sát viên chức. Rồi chàng trốn đi với người vợ.

Cả hai người về sau này trở thành những tên trộm cắp. Nhưng người đàn bà tham lam quá đáng khiến cho Zenkai trở nên khinh ghét. Cuối cùng, bỏ rơi bà ta, chàng du hành tới phương xa tận tỉnh Buzen, ở đó chàng trở nên một kẻ hành khất lang thang.

Để chuộc lại dĩ vãng của chàng, Zenkai quyết định thực hiện một vài hành vi tốt đẹp trong cuộc đời chàng. Biết được rằng có một con đường nguy hiểm băng qua một dốc núi đã gây ra chuyện chết chóc và thương tích cho nhiều người, chàng quyết chí đào một con đường hầm xuyên qua núi tại chỗ đó.

Đi xin ăn vào ban ngày, Zenkai làm việc đào hầm vào ban đêm. Khi ba mươi năm trời đã trôi qua, đường hầm dài 2,280 bộ, cao 20 bộ, và rộng 30 bộ.

Hai năm trước khi công việc hoàn tất, anh con trai viên chức bị chàng hạ sát trước đây, nay đã là một tay kiếm điêu luyện, kiếm được ra Zenkai và tìm tới để giết chàng hầu trả thù.

"Ta sẽ nộp mạng của ta cho anh một cách tự nguyện," Zenkai nói. "Chỉ xin để cho ta làm xong công trình này. Vào ngày mà công việc hoàn tất, lúc đó anh có thể giết ta."

Do đó người con chờ đợi đến ngày. Vài tháng đã qua đi và Zenkai tiếp tục đào. Anh con trai trở nên chán nản vì chẳng làm gì cả nên bắt đầu giúp để đào. Sau khi anh ta đã giúp được hơn một năm trời, anh trở nên khâm phục ý chí dũng mãnh và tư cách của Zenkai.

Cuối cùng đường hầm đã hoàn tất và mọi người có thể xử dụng được nó và qua lại an toàn.

"Bây giờ hãy chém đầu ta đi," Zenkai nói. "Công trình của ta đã xong rồi."

"Làm sao con lại có thể chém đầu của chính thầy mình được?" người thanh niên hỏi với lệ tràn trên mắt anh.

*

* 61 *

GUDO VÀ HOÀNG ĐẾ

Hoàng đế Goyozei đang học Thiền với Gudo. Hoàng đế hỏi: "Trong Thiền, chính tâm này là Phật. Vậy có đúng không?"

Gudo trả lời: "Nếu tôi nói đúng, thì ngài sẽ nghĩ rằng ngài hiểu mà không hiểu gì cả. Nếu tôi nói không, thì tôi lại nói ngược với một sự kiện mà nhiều người hiểu rất rõ."

Vào môt ngày khác hoàng đế hỏi Gudo: "Người giác ngộ đi về đâu khi người đó lìa đời?"

Gudo trả lời: "Tôi không biết."

"Tại sao thầy lại không biết?" hoàng đế hỏi.

"Bởi vì tôi chưa chết," Gudo trả lời.

Hoàng đế do dự hỏi thêm nữa về những điều mà tâm của ngài không thể hiểu được. Do đó Gudo đập trên sàn nhà bằng bàn tay của thầy như để làm cho hoàng đế thức tỉnh, và ngài giác ngộ!

Hoàng đế tôn kính Thiền và ông già Gudo hơn bao giờ hết sau khi ngài giác ngộ, và ngài còn cho phép Gudo đội mũ trong cung đình vào mùa đông. Khi Gudo ngoài tám mươi tuổi thầy hay ngủ thiếp đi vào giữa buổi thuyết giảng của thầy, và vị hoàng đế thường lặng lẽ lui vào một căn phòng khác để cho ông thầy kính yêu của ngài có thể hưởng sự nghỉ ngơi mà tấm thân già nua của thầy cần đến.

*

* 62 *

TRONG TAY ĐỊNH MỆNH

Một võ tướng vĩ đại của Nhật Bản tên là Nobunaga quyết định tấn công kẻ địch mặc dù ông chỉ có một phần mười số người so với phe đối nghịch. Ông biết rằng ông sẽ chiến thắng, nhưng lính của ông lại nghi ngờ.

Trên đường đi ông ngừng lại ở một ngôi đền thờ Shinto và nói với những người của ông rằng: "Sau khi ta vào thăm đền thờ ta sẽ gieo một đồng tiền. Nếu là hình vẽ cái đầu ngửa lên, chúng ta sẽ chiến thắng; nếu là hình cái đuôi, chúng ta sẽ thua. Định mệnh nắm giữ chúng ta trong tay của nàng."

Nobunaga bước vào đền thờ và yên lặng cầu nguyện. Ông bước tới và gieo một đồng tiền. Mặt vẽ cái đầu hiện ra. Quân lính của ông hăng hái chiến đấu rồi thắng trận chiến của họ một cách dễ dàng.

"Không ai có thể thay đổi được bàn tay của định mệnh," người hầu cận của ông nói với ông sau trận chiến.

"Thật ra không đúng," Nobunaga nói, đưa ra cho thấy một đồng tiền có hai phía giống nhau, với hình vẽ cái đầu ở cả hai mặt.

*

* 63 *

SÁT SINH

Gasan một hôm dạy dỗ những đệ tử của ông: "Những ai lên tiếng chống lại sự sát sinh và những ai muốn bảo tồn cuộc sống cho mọi sinh vật có tri giác đều đúng. Thật là tốt khi bảo vệ ngay cả các súc vật và các côn trùng. Thế nhưng còn những người giết thời giờ thì sao, những người đang tàn phá tài sản thì sao, và những người hủy hoại nền kinh tế chính trị? Chúng ta không nên bỏ qua cho những người này được. Hơn nữa, còn như người giảng pháp mà lại không hề giác ngộ thì sao? Người đó đang giết chết Phật giáo vậy."

*

* 64 *

MỒ HÔI KASAN

Kasan được mời hành lễ tại một đám tang của một vị lãnh chúa trong tỉnh.

Ông chưa hề gặp các vị lãnh chúa và các nhà quý tộc trước đó bao giờ cho nên ông bồn chồn. Khi nghi lễ khởi sự, Kasan đổ mồ hôi.

Sau đó, khi đã quay trở về rồi, ông triệu tập tất cả môn sinh của ông lại. Kasan thú nhận rằng ông chưa đủ khả năng để làm một ông thầy bởi vì ông khi tới với giới danh tiếng đã chẳng giữ nổi được cùng một tác phong như cái tác phong ông có khi ở trong chốn thiền viện vắng vẻ. Thế rồi Kasan từ chức và trở thành môn sinh của một ông thầy khác. Tám năm trời sau, đã được giác ngộ, ông quay trở về với các môn sinh trước đây của ông.

*

* 65 *

CHẾ NGỰ CON MA

Một cô vợ trẻ lâm bệnh và sắp qua đời. "Em yêu anh rất nhiều," nàng nói với chồng nàng, "Em không muốn rời xa anh. Đừng nên bỏ em để rồi đi tới với bất cứ người đàn bà nào khác nhé. Nếu anh làm như thế, em sẽ quay trở lại làm ma và quấy rối anh luôn mãi đấy."

Ít lâu sau cô vợ từ trần. Anh chồng tôn trọng ý muốn cuối cùng của nàng được ba tháng đầu, nhưng

rồi anh gặp một người phụ nữ khác và yêu cô này. Họ hứa hôn với nhau.

Lập tức ngay sau cuộc hứa hôn có một con ma hiện ra mỗi đêm với anh chàng, phiền trách anh ta không giữ lời hứa của anh. Con ma cũng rất tài tình. Nó nói với anh đúng ngay những chuyện gì đã diễn ra giữa chính anh và người yêu mới của anh. Cứ mỗi khi anh tặng hôn thê của anh một món quà, con ma cũng có thể tả thứ đó ra với từng chi tiết. Nàng còn nhắc lại được ngay cả cuộc nói chuyện, và điều đó quá quấy nhiễu anh chàng đến nỗi anh không thể nào ngủ được. Có người khuyên anh chàng nên mang việc của anh đến một thiền sư sống gần làng. Mãi về sau này, trong niềm thất vọng, anh chàng đáng thương mới đi tới thiền sư để nhờ giúp đỡ.

"Vợ trước của con biến thành một con ma và biết được mọi việc con làm," ông thiền sư bình luận. "Bất cứ chuyện gì con làm hay nói, bất cứ thứ gì con tặng cho người yêu của con chị ấy biết. Chị ấy phải là một con ma rất khôn ngoan. Thật ra con nên khâm phục một con ma như vậy. Lần sau chị ấy xuất hiện, hãy thương thuyết với chị ấy. Nói với chị rằng chị biết quá nhiều con không thể dấu chị điều gì được cả, và nếu chị trả lời con được một câu hỏi, con hứa hẹn sẽ tiêu hủy chuyện hứa hôn của con và ở độc thân."

"Câu gì mà con phải hỏi nàng?" chàng thăm dò.

Thiền sư đáp lời: "Hãy bốc một nắm nhiều hột đậu nành và hỏi chị ấy xem con nắm đúng bao nhiêu hột đậu nành trong tay con. Nếu chị ấy không nói cho con rõ được, thì con sẽ biết rằng chị ấy chỉ là một phần nhỏ của trí tưởng tượng của con và sẽ không còn quấy nhiễu con nữa đâu."

Đêm hôm sau, khi con ma xuất hiện anh chàng nịnh bợ nàng và bảo nàng rằng nàng biết tất cả mọi chuyện.

"Quả đúng vậy đó," con ma trả lời, "và ta biết anh đã đi thăm cái ông thiền sư đó ngày hôm nay."

"Và vì em biết quá nhiều," anh chàng yêu cầu, "hãy nói cho ta biết có bao nhiêu hạt đậu mà ta nắm trong bàn tay này!"

Chẳng còn có một con ma nào để mà trả lời câu hỏi nữa.

*

* 66 *

NHỮNG NGƯỜI CON CỦA ĐỨC HOÀNG ĐẾ

Yamaoka Tesshu là một phụ giáo của hoàng đế. Ông cũng còn là một bậc thầy về thuật đánh kiếm và một môn sinh học Thiền uyên thâm.

Nhà của ông là nơi trú ngụ của những kẻ lang thang vô nghề nghiệp. Ông chỉ có độc nhất một bộ quần áo, để giữ cho ông nghèo nàn mãi thôi.

Hoàng đế, nhận thấy quần áo của ông quá xác xơ, đã cho Yamaoka một ít tiền để mua vài bộ quần áo mới. Lần sau Yamaoka xuất hiện ông vẫn mặc y nguyên bộ đồ cũ.

"Quần áo mới đâu mất hết rồi, Yamaoka?" hoàng đế hỏi.

"Tôi đã mang quần áo cho những người con của đức hoàng đế rồi," Yamaoka giải thích.

*

* 67 *

CON ĐANG LÀM GÌ VẬY! THẦY ĐANG NÓI GÌ VẬY!

Trong thời đại mới rất nhiều chuyện vô ý nghĩa về những thiền sư và các đệ tử được người ta nói tới, và về chuyện thừa hưởng giáo lý của một ông thầy bởi các môn sinh được đặc biệt ưu đãi, khiến họ được phép tiếp tục truyền đạt chân lý tới những môn sinh của họ. Tất nhiên Thiền phải được truyền thụ theo cách thức này, từ tâm truyền qua tâm, và trong quá khứ cách phổ biến này đã được thật sự thực hiện. Sự yên lặng và đức khiêm tốn vượt trội hơn hẳn lời phát biểu và sự xác ngôn. Người được tiếp nhận một giáo lý như vậy thường giữ kín chuyện đó đến cả hai chục năm sau. Mãi cho đến lúc có một người khác vì nhu cầu riêng tư của cá nhân mình khám phá ra được rằng có vị thiền sư thật sự ở ngay cận bên mình thì mới hay biết rằng giáo lý đã được phổ biến đi, và rồi tùy trường hợp xảy ra hoàn toàn tự nhiên mà giáo pháp cứ như vậy được truyền tụng tiếp tục. Trong bất cứ hoàn cảnh nào thiền sư không bao giờ tự nhận rằng "Ta là kẻ nối nghiệp của người này người kia." Một lời tự nhận như thế chỉ chứng tỏ ra sự hoàn toàn trái ngược lại.

Thiền sư Mu-nan chỉ có một người kế vị. Tên của ông này là Shoju. Sau khi Shoju đã hoàn tất xong việc học thiền của ông, Mu-nan gọi ông vào trong phòng của ngài. "Thầy đã về già rồi," ngài nói, "và cho tới nay như ta được biết, Shoju, con là người độc nhất sẽ thực hiện giáo pháp này. Đây là một quyển sách. Sách đã được lưu truyền xuống từ thầy này tới thầy khác đến bảy đời rồi. Thầy cũng đã thêm vào nhiều điểm theo sự thông hiểu của thầy. Quyển sách rất quý giá, và ta trao sách lại cho con để tiêu biểu cho sự kế vị của con."

"Nếu quyển sách là một vật quan trọng đến thế thì tốt hơn là thầy nên giữ lấy," Shoju trả lời. "Con đã được thụ nhận Thiền không văn tự của thầy và con thỏa nguyện với chuyện đó như vậy rồi."

"Thầy biết điều đó," Mu-nan nói. "Dù như vậy, tác phẩm này đã được lưu truyền từ thầy này qua thầy khác tới bảy thế hệ rồi, cho nên con có thể giữ lấy sách như một vật tiêu biểu là đã được tiếp nhận giáo pháp. Này đây."

Cả hai người tình cờ đang nói chuyện trước một lò than hồng. Ngay khi Shoju cầm sách vào tay ông liền giúi sách vào trong đống than ngút lửa. Ông chẳng muốn lưu giữ làm gì.

Mu-nan, ngài chưa từng bao giờ nổi giận trước đây, quát lên: "Con đang làm gì vậy!"

Shoju hét lại: "Thầy đang nói gì vậy!"

*

* 68 *

MỘT NỐT NHẠC THIỀN

Sau khi Kakua thăm viếng hoàng đế thì ông ta biến mất và không một ai biết chuyện gì xảy đến cho ông cả. Ông là người Nhật Bản đầu tiên học Thiền ở Trung Hoa, nhưng bởi vì ông không hề tỏ lộ chút gì về Thiền, ngoại trừ một nốt nhạc, nên người đời không còn nhớ rằng ông đã đưa Thiền vào quê hương của ông.

Kakua đã thăm viếng Trung Hoa và thụ nhận được giáo lý đích thực. Ông không hề đi đây đi đó khi ông ở tại nơi này. Thiền định chuyên cần, ông sống ở một vùng xa xôi trên núi. Mỗi khi người ta tìm thấy ông và yêu cầu ông giảng dạy thì ông chỉ nói một vài lời và rồi di chuyển sang một vùng núi khác ở chỗ đó không dễ dàng mà kiếm ra ông.

Hoàng đế nghe nói về Kakua khi ông trở về tới Nhật Bản và yêu cầu ông thuyết giảng về Thiền cho hoàng đế và đám quần thần của ngài được thông hiểu.

Kakua đứng trước mặt hoàng đế trong yên lặng. Xong ông lấy một ống sáo từ trong vạt áo của ông ra và thổi lên một nốt ngắn. Cúi đầu chào một cách lễ phép, ông rút lui đi mất.

*

* 69 *

ĂN LỜI KHIỂN TRÁCH

Một hôm vì xảy ra nhiều tình huống bất thường làm chậm trễ việc sửa soạn bữa ăn tối cho một thiền sư Soto, là ông Fugai và các môn sinh của ông. Trong lúc vội vã người nấu ăn đi ra vườn với con dao lưỡi cong của y và cắt lấy những ngọn rau xanh, thái nhỏ rau ra với nhau, và nấu canh, không hay biết rằng trong lúc vội vã y đã cắt luôn một phần của một con rắn trong rau.

Đám môn sinh của Fugai cho rằng họ chưa bao giờ được thưởng thức món canh ngon như thế cả. Nhưng đến khi chính ông thầy thấy được cái đầu rắn trong bát của ông, ông liền cho gọi người nấu ăn đến. "Đây là cái gì vậy?" ông cầm cái đầu rắn giơ cao lên mà hỏi.

"Ô, thưa thầy, xin cám ơn thầy," anh chàng nấu ăn trả lời, cầm lấy miếng đó và ăn nó ngay tức khắc.

*

* 70 *

VẬT QUÝ BÁU NHẤT TRÊN THẾ GIAN.

Sozan, một thiền sư Trung Hoa, được một môn sinh hỏi: "Vật gì quý báu nhất trên thế gian?"

Ông thầy trả lời: "Đầu một con mèo chết."

"Tại sao đầu một con mèo chết lại là vật quý báu nhất trên thế gian?" thiền sinh thắc mắc.

Sozan đáp lại: "Vì lẽ không một ai có thể định giá cả cho cái đó được."

*

* 71 *

HỌC IM LẶNG

Những môn sinh của trường phái Tendai thường học trầm tư mặc tưởng trước khi Thiền du nhập vào Nhật Bản. Bốn người trong nhóm này là những người bạn thân thiết hứa hẹn với nhau giữ im lặng trong bảy ngày.

Vào ngày đầu tiên tất cả đều im lặng. Việc quán tưởng của họ đã khởi đầu một cách thuận lợi, nhưng khi đêm tới và những ngọn đèn dầu trở nên mờ dần đi thì một người trong nhóm môn sinh không chịu được nên kêu với một kẻ giúp việc: "Hãy điều chỉnh mấy cái đèn đó."

Môn sinh thứ nhì ngạc nhiên khi nghe người thứ nhất lên tiếng. "Chúng mình không được nói một lời nào đấy," anh khiển trách.

"Hai anh đều ngu ngốc. Tại sao các anh lại nói?" người thứ ba hỏi.

"Ta là người duy nhất không nói," môn sinh thứ tư kết thúc.

*

* 72 *

LÃNH CHÚA ĐẦN ĐỘN

Hai ông thiền sư, Daigu và Gudo, được mời đi thăm một lãnh chúa. Vừa đến nơi, Gudo nói với lãnh chúa: "Ngài khôn ngoan từ bản tính và có một năng khiếu bẩm sinh để học Thiền."

"Nói bậy bạ," Daigu lên tiếng. "Tại sao anh lại nịnh bợ con người đần độn này? Ông ta có thể là một lãnh chúa, nhưng ông ta đâu biết chút gì về Thiền."

Bởi thế, thay vì xây cất một tự viện cho Gudo, ông lãnh chúa lại xây cất tự viện đó cho Daigu và theo học Thiền với ông này.

*

* 73 *

MƯỜI NGƯỜI KẾ VỊ

Các thiền sinh thề thốt rằng dù cho họ có bị giết chết bởi thầy của họ, họ quyết tâm học Thiền. Thông thường thì họ cắt một ngón tay để lấy máu in dấu cho sự quyết chí của họ. Vào thời mà lời thề nguyện đã trở thành hoàn toàn là một hình thức, và vì lý do này mà môn sinh chết bởi tay của Ekido đã được làm để tỏ ra như là một người tử vì đạo.

Ekido trở nên một ông thầy nghiêm khắc. Các môn sinh của ông sợ ông. Một người trong bọn họ có phận sự túc trực, đánh chiêng loan báo giờ giấc trong ngày, lỡ quên đánh chiêng khi mắt của anh bị lôi cuốn bởi một cô gái đẹp đi ngang cổng tự viện.

Ngay lúc đó Ekido, ở trực tiếp ngay phía sau anh ta, đánh anh bằng một cây gậy và cú đập sửng sốt đã giết chết anh ta.

Người giám hộ của môn sinh, nghe được tin tức về tai nạn, đã đi thẳng đến Ekido. Không trách móc gì thiền sư, ông này lại ca tụng vị thầy về sự giáo huấn nghiêm khắc của thầy. Thái độ của Ekido vẫn tương tự như là lúc môn sinh kia vẫn hãy còn sống.

Sau khi chuyện này xảy ra, ông đã có thể đào tạo ra được dưới sự hướng dẫn của ông hơn mười người kế vị giác ngộ, một con số rất bất thường.

*

* 74 *

CẢI HÓA THỰC SỰ

Ryokan đã hiến cuộc đời của ông vào việc tu học Thiền. Một ngày ông nghe được rằng người cháu trai của ông, bất chấp những lời khuyên nhủ của thân nhân, đang tiêu phí tiền bạc của anh ta cho một kỹ nữ giang hồ thượng lưu. Bởi vì người cháu trai đã thế vào chỗ của Ryokan trong việc quản lý tài sản của gia đình và gia sản đang trong nguy cơ bị tiêu tan, các thân nhân mới yêu cầu Ryokan phải làm một cái gì về chuyện này.

Ryokan đã phải du hành một đoạn đường dài để tới thăm cháu trai của ông, mà ông đã không gặp mặt anh ta trong nhiều năm rồi. Người cháu trai tỏ ra vẻ mừng rỡ khi gặp lại chú anh và thỉnh mời ông lưu lại qua đêm.

Suốt đêm Ryokan ngồi thiền định. Vào lúc sắp ra đi vào buổi sáng ông nói với chàng trai trẻ: "Chú có lẽ đã về già rồi, tay chú run rẩy như vậy. Cháu có thể giúp chú cột dây đôi dép rơm của chú không?"

Người cháu trai sẵn lòng giúp ông liền. "Cám ơn cháu," Ryokan kết thúc, "cháu thấy đấy, người ta trở nên già nua hơn và yếu đuối dần đi theo từng ngày. Cháu hãy tự bảo trọng lấy bản thân nhé." Rồi Ryokan ra đi, không hề đề cập một lời nào về cô gái làm tiền hạng sang hay về những sự phàn nàn của các người họ hàng cả. Nhưng, kể từ sáng hôm đó trở đi, sự tiêu hoang phí của người cháu trai đã chấm dứt.

*

* 75 *

CƠN GIẬN DỮ

Một thiền sinh tìm tới với Bankei và than phiền: "Thưa thầy, con có khi giận dữ không kiềm chế nổi. Con có thể chữa trị nó bằng cách nào đây?"

"Con có một cái chi rất kỳ lạ vậy," Bankei trả lời. "Hãy cho ta xem con có cái gì thế."

"Ngay lúc này con không thể tỏ lộ cái đó ra cho thầy thấy được," người kia trả lời.

"Khi nào thì con có thể tỏ lộ cái đó cho ta?" Bankei hỏi.

"Nó xảy đến thật bất ngờ," anh môn sinh trả lời.

"Vậy thì," Bankei kết luận, "nó không phải là bản tánh thực sự của riêng con. Nếu nó là bản tánh thực sự thì con đã có thể tỏ lộ nó cho ta thấy bất cứ lúc nào rồi. Khi con mới được sinh ra đời con đã không có nó, và cha mẹ con đã không trao nó cho con. Hãy suy nghĩ lại chuyện đó đi."

*

* 76 *

TÂM ĐÁ

Hogen, một thiền sư Trung Hoa, sống đơn độc trong một ngôi chùa nhỏ ở vùng quê. Một hôm có bốn nhà sư du hành xuất hiện và họ xin phép được nhóm lửa trong sân của ông để sưởi ấm.

Trong khi họ đang nhóm lửa, Hogen nghe thấy họ tranh luận về chủ quan và khách quan. Ông tham dự với họ và nói: "Có một tảng đá lớn. Các ông quán sát xem nó là ở trong hay ở ngoài tâm của các ông?"

Một trong những nhà sư trả lời: "Theo quan điểm Phật giáo thì mọi sự vật đều là đối thể hóa của tâm, cho nên tôi có thể nói rằng tảng đá ở trong tâm tôi."

"Cái đầu của ông chắc phải cảm thấy rất là nặng," Hogen nhận xét, "nếu ông đang mang theo mãi một tảng đá như vậy trong tâm của ông."

*

* 77 *

KHÔNG DÍNH BỤI

Zengetsu, một thiền sư Trung Hoa vào đời nhà Đường, đã viết lời chỉ dạy sau đây cho những môn sinh của ông:

Sống trong cõi trần gian nhưng giữ để không bị dính mắc vào bụi bặm của trần gian là con đường của một thiền sinh đích thật.

Khi được chứng kiến hành vi tốt đẹp của một người khác, hãy tự khuyến khích mình noi theo gương người đó. Nghe được về hành vi lỗi lầm của một người khác, hãy tự khuyên nhủ mình không nên bắt chước làm theo chuyện đó.

Dù cho một mình trong một căn phòng tối, hãy coi như con đang đối diện một vị khách quý. Hãy bộc lộ những cảm nghĩ của con, nhưng đừng nên vượt quá cái bản tính chân thật của con.

Sự nghèo khó là châu báu của con. Đừng bao giờ đánh đổi nó lấy một cuộc sống dễ dãi.

Một người có thể tỏ ra là một kẻ ngu dại nhưng tuy nhiên không hẳn là một kẻ như vậy. Người đó có thể chỉ đang phòng giữ sự khôn ngoan của mình một cách cẩn thận.

Những đức hạnh là thành quả của kỷ luật tự giác và không rơi rớt xuống từ bầu trời của chúng như là mưa rơi hay tuyết đổ.

Sự khiêm tốn là nền móng của mọi đức hạnh. Hãy để cho những người sống quanh con phát giác ra con trước khi con tự làm cho họ biết tới mình.

Một tấm lòng cao quý không bao giờ tự phô ra trước. Những lời của nó như ngọc báu hiếm hoi, ít khi được phô trương ra và có một giá trị lớn lao.

Đối với một môn sinh chân thật, mỗi ngày là một ngày may mắn. Thời gian trôi qua nhưng người đó không bao giờ lê lết theo phía sau. Chẳng có sự vinh quang hay điều sỉ nhục nào có thể làm người đó động tâm.

Hãy tự khiển trách mình, đừng bao giờ trách móc một người khác. Đừng tranh cãi về cái đúng hay cái sai.

Một số điều, mặc dù đúng, đã bị coi như là sai từ bao nhiêu thế hệ rồi. Bởi vì giá trị của cái đúng có thể sau nhiều thế kỷ mới được thừa nhận, cho nên không cần thiết gì mà phải khao khát một sự đánh giá ngay tức thời.

Hãy sống với nguyên nhân và dành lại thành quả cho luật vĩ đại của vũ trụ. Hãy trải qua mỗi ngày trong sự suy tư an bình.

*

* 78 *

SỰ PHÁT ĐẠT THỰC SỰ

Một ông nhà giàu thỉnh cầu Sengai viết cho một đôi điều về sự phát đạt liên tục của gia đình ông ta để cái đó có thể được trân trọng lưu giữ lại từ thế hệ này tới thế hệ khác.

Sengai lấy một tờ giấy lớn và viết: "Cha chết, con chết, cháu chết."

Ông nhà giàu nổi giận. "Tôi xin nhờ ông viết đôi điều cho nền hạnh phúc của gia đình tôi! Sao ông lại bày trò giễu cợt như thế này?"

"Nào có ý khôi hài chi đâu," Sengai giải thích. "Nếu trước khi chính ông chết mà con trai của ông đã chết rồi, điều đó sẽ làm ông đau khổ rất nhiều. Nếu cháu trai của ông mà qua đời trước con trai ông, cả hai cha con ông sẽ tan nát cõi lòng? Nếu gia đình ông, thế hệ này kế tiếp tới thế hệ khác, đều qua đời theo cái thứ tự mà tôi đã vừa kể ra, thì đó sẽ là cái tiến trình cuộc sống tự nhiên. Tôi gọi điều này là sự phát đạt thực sự."

*

* 79 *

LƯ ĐỂ ĐỐT HƯƠNG

Một người đàn bà ở Nagasaki tên là Kame là một trong số ít người làm ra những cái lư để đốt hương ở Nhật Bản. Một cái lư để đốt như thế là một tác phẩm nghệ thuật chỉ được dùng trong một trà thất hay trước một bàn thờ gia đình.

Ông bố của bà trước thời bà cũng là một nghệ nhân như vậy. Kame thích uống rượu. Bà cũng hút thuốc và thường luôn giao du với đàn ông. Mỗi khi bà kiếm ra được chút ít tiền bà liền mở tiệc mời các nghệ sĩ, thi sĩ, thợ mộc, công nhân, những ông có năng khiếu hoặc ưa tiêu khiển. Khi họ tụ họp lại bà tường trình về những mẫu hình của bà.

Kame quá mức chậm chạp trong việc sáng tạo, nhưng khi tác phẩm của bà hoàn thành thì nó luôn luôn là một kiệt tác. Những cái lư hương của bà được trân trọng giữ gìn trong những gia đình mà những nữ chủ nhân không bao giờ uống rượu, hút thuốc hay giao du một cách tự do với đàn ông

Thị trưởng của Nagasaki có lần yêu cầu Kame vẽ mẫu hình một cái lư hương cho ông. Bà trì hoãn làm chuyện đó đến gần nửa năm trời trôi qua. Vào lúc đó thì ông thị trưởng, nay đã được thăng chức lên một nhiệm sở ở một thành phố xa xôi khác, đến viếng thăm bà. Ông ta thúc hối Kame khởi sự làm cái lư hương của ông.

Sau cùng có được hứng cảm, Kame đã làm ra cái lư hương. Sau khi lư hương được hoàn tất bà đặt nó lên một cái bàn. Bà ngắm nhìn nó thật lâu và thận trọng. Bà hút thuốc và uống rượu trước cái lư cứ như nó là người bạn của riêng bà. Suốt cả ngày bà quan sát nó.

Cuối cùng, cầm một cái búa lên, Kame đập nát nó ra từng mảnh vụn. Bà thấy nó không phải là một tác phẩm sáng tạo hoàn hảo mà tâm trí bà mong muốn.

*

* 80 *

PHÉP LẠ THỰC SỰ

Khi Bankei đang thuyết pháp ở chùa Ryumon, một tu sĩ Shinshu, vốn tin vào sự cứu độ qua việc chú niệm danh hiệu của đức Phật A Di Đà, ganh tị với đám thính giả đông đảo của ông và muốn tranh luận với ông.

Bankei đang nói chuyện nửa chừng thì tu sĩ kia xuất hiện, nhưng ông ấy gây náo động đến nỗi Bankei phải ngưng bài thuyết pháp để hỏi về chuyện ồn ào.

"Tổ sáng lập của phái chúng tôi," tu sĩ khoe khoang, "có những năng lực kỳ diệu như là ngài cầm một cây bút lông trong tay ngài ở một bên bờ sông, người hầu cận của ngài giơ lên một tấm giấy ở phía bờ sông bên kia, và ông thầy đã viết thánh danh A Di Đà qua không khí. Ông có thể làm được một việc thần diệu như thế không?"

Bankei trả lời nhẹ nhàng: "Có lẽ con cáo của ông có thể biểu diễn được cái trò tiểu xảo đó, nhưng đấy không phải là cung cách của Thiền. Phép lạ của ta là khi nào ta cảm thấy đói thì ta ăn, và khi nào ta cảm thấy khát ta uống."

*

* 81 *

HÃY NGỦ ĐI

Gasan đang ngồi cạnh giường của Tekisui ba ngày trước khi thầy của ông qua đời. Tekisui trước đó đã chọn ông là người kế vị.

Một ngôi chùa mới đây vừa bị cháy và Gasan bận lo xây cất lại kiến trúc. Tekisui hỏi ông: "Con sẽ làm gì sau khi ngôi chùa được xây cất lại?"

"Khi thầy qua khỏi cơn bệnh chúng con muốn thầy nói chuyện ở đó," Gasan nói.

"Giả dụ như ta không sống được đến lúc đó?"

"Thì chúng con sẽ thỉnh một người khác," Gasan trả lời.

"Giả sử các con không thể tìm được ai cả?" Tekisui hỏi tiếp.

Gasan trả lời lớn tiếng: "Thầy đừng hỏi những câu điên khùng như vậy nữa. Hãy ngủ đi."

*

* 82 *

KHÔNG CÓ GÌ HIỆN HỮU

Yamaoka Tesshu, khi còn là một thiền sinh trẻ, đi thăm viếng hết thầy này đến thầy nọ. Ông đến thăm Dokuon ở Shokoku.

Muốn tỏ lộ sự chứng ngộ của mình, ông nói: "Tâm, Phật, và chúng sinh nói cho cùng chẳng hề hiện hữu. Bản chất thực sự của mọi hiện tướng là không. Không có thực chứng, không có si mê, không có hiền triết, không có phàm tục. Không có ban phát và không có gì để thụ nhận."

Dokuon, đang hút thuốc một cách yên lặng, không hề nói gì cả. Bỗng nhiên ông đập mạnh vào Yamaoka bằng cái ống điếu trúc của ông. Chuyện đó làm cho chàng trẻ tuổi rất giận dữ.

"Nếu không có gì hiện hữu," Dokuon hỏi, "vậy thì cơn giận này từ đâu đến?"

*

* 83 *

KHÔNG LÀM, KHÔNG ĂN

Hyakujo, Thiền sư Trung Hoa, thường hay lao động cùng với các môn sinh của ông dù đã ở vào tuổi tám mươi, thu vén vườn tược, quét dọn đất đai, và cắt tỉa cây cối.

Các môn sinh cảm thấy phiền não khi thấy ông thầy già làm lụng cực nhọc như vậy, nhưng họ biết rằng thầy sẽ không nghe theo lời khuyên của họ mà ngưng lại, vì thế nên họ dấu dụng cụ của thầy đi luôn.

Ngày hôm đó thầy không ăn. Ngày hôm sau thầy không ăn, và ngày kế tiếp cũng vậy. "Thầy có thể giận lẫy vì chúng mình dấu dụng cụ của thầy," đám môn sinh phỏng đoán, "chúng mình nên để dụng cụ lại chỗ cũ thì hơn."

Cái ngày mà họ mang trả lại dụng cụ, thầy làm việc và ăn tương tự như trước. Vào buổi tối, thầy dạy họ: "Không làm, không ăn."

*

* 84 *

BẠN THẬT SỰ

Thời xưa ở Trung Hoa có hai người bạn, một người chơi đàn rất điêu luyện và một người nghe rất sành điệu.

Khi một người đàn hay hát về núi non, người kia sẽ nói: "Tôi có thể nhìn thấy núi non ở trước mặt chúng ta."

Khi một người đàn về nước, người nghe sẽ reo lên: "Đây là suối nước chảy!"

Nhưng rồi người nghe bị bệnh và từ trần. Người bạn còn lại cắt đứt dây của cây đàn của mình và không bao giờ chơi đàn lại nữa. Kể từ thời đó, việc cắt đứt dây đàn luôn luôn là một biểu hiện của tình bạn thân thiết.

*

* 85 *

THỜI PHẢI CHẾT

Ikkyu, ông thiền sư, ngay lúc còn là một đứa bé trai, đã rất thông minh. Thầy của ông có một cái tách uống trà quý báu, một món đồ cổ hiếm có. Ikkyu lỡ tay đánh vỡ cái tách này và vô cùng lo lắng. Nghe thấy tiếng bước chân thầy ông, ông dấu các mảnh vỡ của cái tách vào phía sau ông. Khi thầy xuất hiện, Ikkyu hỏi: "Tại sao người ta phải chết?"

"Đây là lẽ tự nhiên," ông già giải thích. "Mọi vật đều phải chết vì đã sống lâu rồi."

Ikkyu, liền đưa cái tách bị bể ra, nói thêm: "Đã tới thời cái tách của thầy phải chết rồi."

*

* 86 *

ÔNG PHẬT SỐNG VÀ NGƯỜI THỢ ĐÓNG THÙNG

Các thiền sư hay chỉ dẫn cho từng cá nhân trong một căn phòng cô tịch. Không ai được vào khi thầy và môn sinh đang ở cùng nhau.

Mokurai, thiền sư ở chùa Kennin tại Kyoto, thường ưa thích chuyện trò với các nhà buôn và nhà báo cũng như với các môn sinh của ông. Một người thợ đóng thùng nọ gần như thất học. Ông ta hay hỏi Mokurai những câu điên rồ, uống nước trà, rồi bỏ đi.

Một hôm khi người thợ đóng thùng ở đó Mokurai muốn chỉ dẫn riêng tư cho một đệ tử, cho nên ông yêu cầu người thợ đóng thùng đợi ở một căn phòng khác.

"Tôi biết ông là một vị Phật sống," ông thợ phản đối. "Ngay cả các tượng Phật bằng đá trong chùa cũng không bao giờ từ chối nhiều người cùng đến trước mặt các pho tượng đó. Thế thì tại sao tôi lại bị đuổi ra?"

Mokurai đã phải đi ra bên ngoài để gặp các đệ tử của ông.

*

* 87 *

BA HẠNG ĐỆ TỬ

Một thiền sư tên là Gettan, sống vào cuối thời đại Tokugawa. Ông thường nói: "Có ba hạng đệ tử: những người phổ biến Thiền cho những người khác, những người bảo quản chùa chiền và đền thờ, và rồi còn có những bị gạo và những giá treo áo."

Gasan phát biểu cùng một ý tương tự. Khi ông còn đang theo học với Tekisui, thầy của ông rất nghiêm khắc. Đôi khi thầy còn đánh cả ông nữa. Các môn sinh khác không chịu đựng nổi cách thức giáo huấn đó và bỏ cuộc. Gasan ở lại, nói: "Một đệ tử hèn kém thì sử dụng thế lực của thầy. Một đệ tử khá tốt thì ngưỡng mộ từ tâm của thầy. Môt đệ tử giỏi giang thì trở nên mạnh mẽ dưới kỷ luật của một ông thầy."

*

* 88 *

LÀM SAO VIẾT MỘT BÀI THƠ CHỮ HÁN

Người ta hỏi một thi sĩ Nhật Bản nổi danh là làm thế nào để sáng tác ra một bài thơ chữ Hán.

"Một bài thơ chữ Hán thông thường có bốn câu," ông ta giảng giải. "Câu đầu tiên bao hàm phần khởi nhập; câu thứ nhì là sự chuyển tiếp của phần đó, câu thứ ba chuyển từ đề mục này và bắt đầu một ý mới và câu thứ tư kết hợp ba câu đầu lại với nhau. Một bài ca dân gian Nhật Bản đã minh họa điều này:

Hai cô con gái của một thương gia bán lụa sống ở Kyoto.
Cô chị hai mươi tuổi, Cô em, mười tám.
Một chàng lính có thể giết người bằng lưỡi kiếm của chàng ta,
Nhưng các cô gái này giết đàn ông bằng đôi mắt các nàng."

*

* 89*

ĐỐI THOẠI THIỀN

Các thiền sư huấn luyện cho các môn sinh trẻ tuổi của họ tự mình phát biểu ý tưởng. Hai thiền viện mỗi nơi có một chú bé được bảo trợ. Một chú, đi lấy rau mỗi sáng, thường gặp chú nọ trên đường.

"Anh đi đâu đấy?" chú nọ hỏi.

"Tôi đi đến bất cứ nơi nào mà bàn chân tôi đi tới," chú kia trả lời.

Câu trả lời này làm chú thứ nhất lúng túng, chú bèn đến thầy mình nhờ giúp đỡ. "Sáng mai," ông thầy bảo chú, "khi con gặp anh bạn nhỏ đó, hãy hỏi anh ta câu tương tự. Anh ta sẽ trả lời cho con theo cách như cũ, và rồi con hỏi anh ta: "Giả dụ như anh không có chân, vậy thì anh sẽ đi tới đâu? Như thế sẽ làm anh ta kẹt ngay."

Hai chú nhỏ lại gặp nhau vào buổi sáng hôm sau.

"Anh đi đâu đấy?" chú thứ nhất hỏi.

"Tôi đi đến bất cứ nơi nào mà gió thổi," chú kia trả lời.

Câu trả lời này lại làm cho chú trước bối rối, chú ôm mối thất bại về tìm gặp thầy chú.

"Hãy hỏi anh ta rằng anh sẽ đi tới đâu nếu không có gió," ông thầy gợi ý.

Ngày hôm sau hai chú nhỏ gặp gỡ nhau một lần thứ ba.

"Anh đi đâu đấy?" chú thứ nhất hỏi.

"Tôi đi ra chợ mua rau," chú kia trả lời.

*

* 90 *

CÁI GÕ CUỐI CÙNG

Tangen theo học với Sengai từ thuở nhỏ. Khi ông hai mươi tuổi ông muốn rời xa thầy của ông và tìm thăm các thiền sư khác để học hỏi đối chiếu, nhưng Sengai không cho phép chuyện đó. Mỗi lần Tangen gợi ý ra chuyện này, Sengai lại gõ cho ông một cái lên đầu.

Cuối cùng Tangen nhờ một sư huynh tìm cách thuyết phục hộ để xin phép Sengai. Người sư huynh đã thực hiện điều đó và rồi báo lại cho Tangen: "Đã dàn xếp xong xuôi. Ta đã bố trí để chú có thể khởi sự cuộc hành hương của chú ngay."

Tangen đi tới gặp Sengai để cám ơn thầy vì thầy đã cho phép. Vị thầy trả lời bằng cách tặng cho ông một cái gõ nữa.

Khi Tangen tường thuật lại chuyện này cho sư huynh của ông thì người này nói: "Chuyện gì vậy này? Thầy Sengai không có quyền đã cho phép rồi lại đổi ý. Ta sẽ nói với thầy như vậy." Và sư huynh đi gặp thầy.

"Thầy không hủy bỏ việc thầy cho phép," Sengai nói. "Thầy chỉ muốn cho anh chàng một cái gõ cuối cùng lên đầu, để khi anh ta trở về anh sẽ giác ngộ ra và thầy không còn có thể khiển trách gì anh ta nữa."

*

* 91 *

MÙI CỦA LƯỠI KIẾM BANZO

Matajuro Yagyu là con trai của một tay kiếm nổi danh. Cha chàng, tin rằng tài nghệ của con mình quá tầm thường khó mong đạt được đến mức làm thầy, đã ruồng bỏ chàng.

Vì thế Matajuro đến núi Futara và ở tại nơi đó đã tìm thấy tay kiếm lừng danh Banzo. Nhưng Banzo xác nhận lời nhận xét của người cha. "Anh muốn học kiếm thuật dưới sự chỉ dẫn của ta à?" Banzo hỏi. "Anh không có đủ các điều kiện cần thiết đâu."

"Nhưng nếu con tập luyện chuyên cần, con phải mất bao nhiêu năm để có thể trở thành một bậc thầy?" chàng thanh niên nài nỉ.

"Cả quãng đời còn lại của anh," Banzo trả lời.

"Con không thể chờ đợi lâu như thế" Matajuro giải thích. "Con sẵn lòng trải qua bất kỳ sự gian khổ nào nếu thầy nhận dạy con. Nếu con trở thành người giúp việc tận tâm cho thầy, thì phải học mất bao lâu?"

"Ô! có thể mười năm," Banzo nói khoan dung.

"Cha của con sắp già rồi, và chẳng bao lâu con phải chăm sóc ông ấy," Matajuro nói tiếp. "Nếu con tập luyện nỗ lực hơn nữa, thì con sẽ mất bao lâu?"

"Ô, có thể ba mươi năm," Banzo nói.

"Sao lại như thế?" Matajuro hỏi. "Thoạt tiên thầy nói là mười và nay lại là ba mươi năm. Con sẽ chịu đựng mọi sự thử thách gay go để quán triệt môn nghệ thuật này trong thời gian ngắn nhất!"

"Được thôi." Banzo nói, "trong trường hợp đó anh sẽ phải ở lại với ta trong bảy mươi năm. Một người nôn nóng muốn đạt kết quả như anh ít khi mà học hỏi cho nhanh chóng được."

"Rất tốt," chàng thanh niên tuyên bố, sau cùng chàng hiểu ra rằng mình bị khiển trách vì thiếu kiên nhẫn, "Con đồng ý."

Matajuro được bảo cho biết là đừng bao giờ nói về kiếm thuật và đừng bao giờ đụng đến một thanh kiếm. Chàng ta nấu ăn cho thầy của chàng, rửa chén đĩa, làm giường cho thầy, dọn dẹp cái sân, chăm sóc khu vườn, tất cả mọi việc mà không có một lời nói nào về kiếm thuật cả.

Ba năm đã trôi qua. Matajuro vẫn cố gắng sức làm lụng. Nghĩ đến tương lai của mình, chàng buồn. Ngay cả chàng cũng chưa bắt đầu học môn nghệ thuật mà chàng đã hiến dâng cuộc đời mình cho nó.

Nhưng một ngày Banzo bò tới sau lưng chàng và đánh cho chàng một cú đau kinh khủng bằng một thanh kiếm gỗ.

Ngày hôm sau, trong lúc Matajuro đang nấu cơm, Banzo lại nhảy vọt đến chàng một cách bất ngờ.

Sau đó, ngày và đêm, Matajuro phải tự phòng vệ mình để tránh những cú tấn công bất thình lình. Không một giây phút nào trôi qua trong bất kỳ một ngày nào mà chàng lại không phải nghĩ tới mùi của thanh kiếm Banzo.

Chàng học hỏi thật nhanh, chàng mang lại những nụ cười tới khuôn mặt ông thầy của chàng. Matajuro trở thành tay kiếm vĩ đại nhất trong nước.

*

* 92 *

THIỀN THANH CỜI LỬA

Hakuin thường kể cho các môn sinh của ông về một bà già có một quán trà, ca tụng bà là thấu hiểu được Thiền. Các môn sinh không tin những gì ông đã nói với họ và muốn đi đến quán trà để tự họ tìm hiểu.

Mỗi khi bà thấy họ tới là bà đã có thể nói được ngay rằng họ tới vì trà hay vì muốn tìm biết về sự am hiểu Thiền của bà. Trong trường hợp đầu, bà đối đãi với họ lịch sự. Trong trường hợp sau, bà ra dấu cho các môn sinh đến phía sau tấm bình phong của bà. Ngay lúc họ vừa tuân theo, bà liền đánh họ với một cái thanh cời lửa.

Chín trong mười người của họ không thể thoát khỏi cú đập của bà.

*

* 93 *

THIỀN CỦA NGƯỜI KỂ CHUYỆN

Encho là một người kể chuyện nổi tiếng. Những chuyện về tình yêu của ông làm rung động trái tim những người nghe ông. Khi ông thuật lại một câu chuyện chiến tranh, thì dường như những người nghe tưởng chính họ đang ở ngoài chiến trường.

Một ngày Encho gặp gỡ Yamaoka Tesshu, một cư sĩ nhưng hầu như đã đạt tới trình độ thầy về Thiền. "Tôi biết," Yamaoka nói, "ông là người kể chuyện hay nhất trong nước ta và ông làm cho thiên hạ khóc hay cười theo ý muốn. Hãy kể cho tôi nghe cái chuyện ưa thích của tôi là chuyện Cậu Bé Trái Đào. Khi tôi còn là một đứa bé tôi thường ngủ bên cạnh mẹ tôi, và bà thường kể chuyện cổ tích này. Giữa câu chuyện thì tôi đã ngủ thiếp đi rồi. Hãy kể chuyện đó cho tôi giống y như mẹ tôi đã kể vậy."

Encho không dám thử làm chuyện này. Ông xin có thời gian để xem xét. Vài tháng sau ông đến gặp Yamaoka và nói: "Làm ơn cho tôi cơ hội kể chuyện cho ông."

"Ngày khác đi," Yamaoka trả lời.

Encho thất vọng rất nhiều. Ông nghiên cứu sâu xa thêm và lại thử kể. Yamaoka bác bỏ ông nhiều lần. Khi Encho bắt đầu lên tiếng thì Yamaoka chận ông lại, nói: "Ông chưa giống mẹ tôi."

Encho phải mất đến năm năm mới có thể kể cho Yamaoka câu chuyện cổ tích như mẹ của ông này đã từng kể chuyện đó cho ông ta trước đây.

Bằng phương cách này, Yamaoka đã truyền thụ Thiền cho Encho.

*

* 94 *

DẠO CHƠI NỬA ĐÊM

Nhiều môn sinh đang học thiền định với thiền sư Sengai. Một người trong nhóm họ thường hay thức dậy vào ban đêm, leo vượt qua tường thiền viện, và đi ra phố dạo chơi.

Sengai, khi kiểm tra khu phòng ngủ, một đêm thấy môn sinh này vắng mặt và cũng khám phá ra cái ghế đẩu cao mà anh chàng này dùng để trèo tường. Sengai dời cái ghế đẩu đi và đứng vào đó thay chỗ cái ghế.

Khi anh chàng đi hoang trở về, không hay biết rằng Sengai là cái ghế đẩu, anh chàng đặt chân mình lên đầu ông thầy và nhảy xuống mặt đất. Khám phá ra được điều mà anh chàng đã làm, anh ta thất kinh.

Sengai nói: "Trời thường lạnh buốt vào buổi sáng sớm. Hãy cẩn thận đừng để bị cảm lạnh nhé con."

Chàng môn sinh không bao giờ đi ra ngoài vào ban đêm nữa.

*

* 95 *

MỘT BỨC THƯ CHO NGƯỜI HẤP HỐI

Bassui viết bức thư sau cho một trong những đệ tử của ông sắp lìa đời:

"Thực chất của tâm con không hề được sinh ra, cho nên nó không bao giờ bị diệt đi. Nó không phải là một hiện thực, nó có thể bị tiêu hủy. Nó chẳng là hư không, nó chỉ là một khoảng trống. Nó không có sắc cũng chẳng có hình. Nó không hưởng thụ lạc thú và không hứng chịu khổ đau.

"Thầy biết rằng con đau bệnh rất nặng. Như một thiền sinh giỏi, con đang đương đầu với chứng bệnh đó một cách quả cảm. Con có thể không biết chính xác là ai đang đau khổ, nhưng con hãy tự hỏi con: Thực chất của tâm này là cái gì? Hãy chỉ suy tưởng đến điều này thôi. Con sẽ không cần nữa. Chớ ham muốn chi hết. Giây phút cuối cùng của con nó vô hạn, giống như một bông tuyết tan trong không trung tinh khiết."

*

* 96 *

MỘT GIỌT NƯỚC

Một thiền sư tên là Gisan bảo một môn sinh trẻ mang đến cho ông một thùng nước để hòa lạnh nước tắm.

Môn sinh mang nước đến và, sau khi hòa lạnh nước tắm, anh đổ ra đất chút nước còn sót lại.

"Con khờ dại quá!" ông thầy mắng anh ta. "Tại sao con đã không tưới chút nước còn thừa vào cây cối? Con có quyền gì mà lãng phí ngay cả một giọt nước trong thiền viện này?"

Môn sinh trẻ giác ngộ Thiền ngay trong lúc ấy. Anh đổi danh tánh của anh thành Tekisui, nghĩa là một giọt nước.

*

* 97 *

DẠY ĐIỀU TỐI THƯỢNG

Thời xa xưa ở Nhật Bản, người ta thường dùng những lồng đèn bằng tre dán giấy với những ngọn nến ở bên trong. Một chàng mù, đến thăm bạn vào một đêm, được biếu cho một cây đèn lồng để mang về nhà với chàng.

"Tôi không cần một cây đèn lồng," chàng ta nói. "Bóng tối hay ánh sáng đối với tôi đều giống nhau cả."

"Tôi biết anh không cần một cái đèn lồng để soi đường." người bạn trả lời, "nhưng nếu anh không có một cái thì một người khác nào đó có thể đụng vào anh. Bởi thế anh nên cầm lấy nó đi."

Chàng mù ra đi với cây đèn lồng và đi chẳng bao xa đã có người chạy đụng ngay vào chàng ta. "Đi đâu phải coi chừng chứ!" chàng la lớn tiếng với người lạ. "Anh không thấy cây đèn lồng này sao?"

"Đèn của anh đã tắt ngóm hết rồi, anh bạn ạ!" người lạ trả lời.

*

* 98 *

KHÔNG VƯỚNG MẮC

Kitano Gempo, tu viện trưởng của tu viện Eihei, được chín mươi hai tuổi khi ông qua đời vào năm 1933. Ông đã cố gắng giữ gìn suốt cuộc đời của ông để không bị vướng mắc vào một thứ gì cả. Khi còn là một kẻ khất thực lang thang ở vào tuổi hai mươi ông bất ngờ gặp gỡ một du khách hút thuốc lá. Vì cùng đi với nhau xuống một con đường núi, họ ngừng lại dưới một bóng cây để nghỉ. Du khách mời Kitano hút thuốc, ông nhận vì lúc đó ông đang rất đói bụng.

"Hút thuốc thế này thật là thú vị," ông nhận xét. Người kia cho ông một ống điếu và thuốc lá dư rồi họ chia tay nhau.

Kitano cảm nghĩ: "Những thứ thích thú như thế này có thể gây phiền nhiễu cho việc thiền định. Trước khi chuyện này đi quá trớn, ta nên ngưng lại ngay bây giờ." Rồi ông liền quẳng đồ hút thuốc đi.

Khi ông được hai mươi ba tuổi, ông nghiên cứu Kinh Dịch, học thuyết sâu xa nhất về vũ trụ. Lúc đó là mùa đông và ông cần một ít quần áo dày. Ông viết thư cho thầy của ông ở cách xa hằng trăm dặm, nói cho thầy rõ về nhu cầu của ông, và đưa lá thư cho một du khách nhờ chuyển giao. Cả mùa đông hầu như sắp trôi qua mà chẳng thấy thư trả lời hay áo quần gửi tới. Do đó Kitano liền nhờ đến sự tiên đoán của Kinh Dịch, trong đó cũng dạy thuật bói toán, để xem bức thư của ông có bị thất lạc hay không. Ông thấy rằng quả đúng là thất lạc. Một bức thư do thầy ông gửi tới sau đó không thấy đề cập gì đến quần áo cả.

"Nếu ta mà tiên đoán chính xác được mọi chuyện như vậy bằng Kinh Dịch, ta có thể sẽ lơ là việc thiền định của ta," Kitano nghĩ vậy. Do đó ông liền từ bỏ môn học kỳ diệu này và không bao giờ lại trông cậy vào những quyền lực của nó nữa.

Khi ông được hai mươi tám tuổi, ông học lối viết thư họa và thi phú Trung Hoa. Ông trở thành điêu luyện trong những môn nghệ thuật này đến nỗi thầy ông còn phải ca ngợi ông. Kitano ngẫm nghĩ: "Nếu ta không ngừng ngay lúc này, thì ta sẽ thành một thi sĩ, mà không thành một thiền sư." Bởi thế ông chẳng bao giờ viết một bài thơ nào khác nữa.

*

* 99 *

DẤM CỦA TOSUI

Tosui là vị thiền sư đã từ bỏ lối câu nệ hình thức của các thiền viện để sống dưới một cây cầu với những người ăn xin. Khi ông đã quá già nua, một người bạn giúp đỡ ông kiếm sống mà khỏi phải đi ăn xin. Ông ta chỉ bày cho Tosui cách làm sao gom cơm lại để chế ra dấm bằng cơm đó, và Tosui đã làm việc này cho đến khi ông qua đời.

Trong khi Tosui làm dấm, một người trong đám ăn xin cho ông một bức tranh Phật. Tosui treo nó lên trên vách căn chòi của ông và đặt một tấm bảng bên cạnh đó. Tấm bảng viết:

"Thưa Ông Phật A Di Đà: Căn phòng nhỏ này thật quả chật hẹp. Tôi có thể để ông lưu lại tạm bợ thôi. Nhưng đừng nghĩ rằng tôi đang thỉnh cầu ông hộ trì cho tôi được tái sinh vào cõi cực lạc của ông đâu."

*

* 100 *

THIỀN VIỆN YÊN LẶNG

Shoichi là vị thiền sư chỉ có một mắt, rạng ngời giác ngộ. Ông dạy các đệ tử của ông ở thiền viện Tofuku.

Ngày và đêm cả ngôi thiền viện đứng im lặng. Không có một tiếng động nào cả.

Ngay cả việc tụng kinh cũng bị bãi bỏ bởi ông thầy. Các môn sinh của ông chẳng làm gì cả ngoài việc thiền định.

Khi ông thầy qua đời, một người hàng xóm già nua nghe thấy tiếng chuông vang lên và tiếng tụng kinh. Lúc bấy giờ bà lão biết ngay rằng Shoichi đã ra đi.

*

* 101 *

THIỀN CỦA PHẬT

Đức Phật nói: "Ta coi các ngôi vị của các vua chúa và các nhà cầm quyền chỉ như những hạt bụi. Ta coi các kho tàng vàng bạc và châu ngọc như gạch và sỏi đá. Ta coi các xiêm y bằng lụa là đẹp đẽ nhất chỉ như giẻ rách. Ta nhìn thấy vô số thế giới của vũ trụ như những hạt trái cây nhỏ bé, và chiếc hồ lớn nhất ở Ấn Độ tựa như một giọt dầu trên bàn chân ta. Ta nhận thấy các giáo điều của thế gian đều như những cảnh hư ảo của các nhà ảo thuật. Ta suy nghiệm ra quan niệm tối cao của sự giải thoát như gấm thêu vàng trong một giấc mộng, và nhìn thánh đạo của các bậc đã giác ngộ như những bông hoa hiện ra trong mắt người ta. Ta thấy thiền định như một cột trụ của núi non, cõi Niết bàn như là một cơn ác mộng lúc ban ngày. Ta xem sự phán đoán về đúng và sai như vũ khúc uốn luợn của một con rồng, và sự tăng hay giảm của các lòng tin chỉ như vết tích sót lại của bốn mùa."

* HẾT *
-----------------------------

* Sách ấn tống để biếu, không bán.
* Dịch giả không giữ bản quyền.
* Hoan nghênh tái bản hoặc phổ biến dưới bất kỳ hình thức nào khác.