24/7/11

PHAN MỘNG HOÀN - HOÀNG HÔN THÔN VỸ

PHAN MỘNG HOÀN



HOÀNG HÔN THÔN VỸ




Huyên vẫy tay chào tạm biệt mấy mẹ con Trâm, thủng thẳng bước vô hành lang dẫn vào lòng chiếc phản lực cơ Korea Airline. Anh đã lấy một tháng nghỉ phép thường niên về thăm cha mẹ già. Năm nay các cụ vừa tròn 80. Vợ chồng anh sẽ về Huế để tổ chức mừng lễ thượng thọ Bát tuần cho song thân. Chuyến đi dự định từ lâu nhưng phút chót anh đi một mình vì vợ anh bận lo việc con gái lớn của họ sẽ sinh con so nay mai, nên bà ngoại Trâm phải ở lại săn sóc cho yên tâm. Gia đình Huyên định cư ở Cali từ mười mấy năm qua, đời sống đã vào khuôn nếp. Con cái họ đều thành đạt, vợ chồng Huyên sống hạnh phúc.

Một mình trên chuyến bay đường dài trở về quê hương, Huyên mơ màng tưởng đến phút giây gặp lại nơi chôn nhau cắt rốn, nơi mình đã lớn lên, trở thành chàng học sinh Quốc Học nhiều mộng tưởng. Huyên lơ mơ nghĩ tới thời tuổi trẻ của mình, với những mối tình lãng mạn thoáng qua. Anh mỉm cười nhớ lại lúc tóc còn xanh và lòng nao nao tưởng đến tình yêu đầu đời với Uyển Nhi, hoa khôi thôn Vỹ ngày ấy. Biết bao trái tim đã thổn thức vì nàng nhưng có lẽ Huyên là người duy nhất lọt vào mắt xanh mỹ nhân. Thiếu nữ với cái tên họ dài lê thê của dòng họ Hoàng phái, Công Tằng Tôn Nữ Uyển Nhi. Nàng có đôi mắt xênh xếch đen láy, đôi lông mày cong như khéo vẽ, nét mũi thanh tú dọc dừa và nhất là miệng cười e ấp.

Uyển Nhi không dám cười lớn vì muốn dấu chiếc răng khểnh mọc cời tinh nghịch nơi khóe miệng tươi... Có lẽ mình sẽ ghé tạt về Vỹ Dạ:

...Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên

Vườn ai mướt quá xanh như ngọc

Lá trúc che ngang mặt chữ điền...

Làm chi mình cũng ghé qua nhà nàng. Nơi có khóm tre xanh mát mà cơn gió hè khẽ ru êm cành mềm oặt làm đổ xuống những giọt nắng lung linh thêu hoa trên con đường nhựa đen êm ả. Anh nhớ nhà nàng với cái cổng gạch đồ sộ có khắc chạm những hình long ly kiểu cách hóa rất mỹ thuật. Rồi nhớ đến hai vòng tường cao chạy dài bao quanh ngôi phủ cổ kính. Giờ đây trải qua bao năm tháng hẳn đã rêu phong? Huyên làm sao quên được cây hoa giấy nép cuối tường đông, nở đầy những bông tím rưng rức mà cành ẻo lả vươn lên như muốn chồm ra khỏi khuôn tường vời vợi ngăn cách khuê phòng các nàng Tôn Nữ với thế giới bên ngoài. Huyên nhớ mỗi lần tới đó, gió hè thoang thoảng đưa hương cau tinh khiết cuối vườn đã làm ngây ngất lòng trí anh. Huyên mường tượng thấy lại dàn tre lênh khênh che rợp những ngọn trầu cay lá dày. Gần đó là vồng đất sum xuê trồng rau lang bò sát đất với những dải lá xanh mởn mơ. Huyên sẽ sống lại thời lui tới ngôi nhà từ đường cổ kính ấy. Bao nhiêu kỷ niệm trở về khiến anh chìm đắm vào giấc mơ hồi hương đầy hạnh ngộ.



Chuyến bay kéo dài tưởng vô tận cuối cùng phải ngưng, thả Huyên xuống phi trường Tân Sơn Nhất giữa khuya đèn mờ leo lét và không khí oi bức ngột ngạt. Sáng sớm hôm sau anh vội vã chuyển qua đường bay thẳng ra miền Trung. Huyên muốn tận dụng từng thời khắc để sống với nơi chốn thân thương thời trai trẻ. Phi trường Phú Bài đang được tân trang nên máy bay nội địa thả anh xuống Ðà Nẵng. Từ đó anh theo xe ca vượt đèo Hải Vân thẳng ra Huế. Sương sớm mát lạnh và mây trắng la đà trên đèo cao làm dịu tình cảm nôn nóng của người xa xứ nay quay về chốn cũ. Bờ biển xa xa sóng đuà bọt tung trắng xóa. Tháp nhà thờ xóm đạo Lăng Cô xam xám vươn cao giữa chốn cây cỏ xanh mơ.

Huyên cảm thấy thời gian như ngưng đọng, anh vẫn là chàng trai Huế với trái tim bồng bột nhịp đập si mê. Thuở ấy anh phải vào học tận Sài Gòn, vì Huế chưa mở trường Ðại học. Ngày lễ lại ngong ngóng quay về thăm nhà. Quốc lộ số 1 kéo dài quanh co qua những thôn làng nhỏ bé hiền hòa. Bây giờ bụi đường bốc cao mù mịt, bôi xóa mọi cảnh vật không cho Huyên thấy cảnh trí dọc ven lộ chỉ là những xóm nghèo xơ xác. Anh lim dim nhớ tiếc tuổi trẻ khờ khạo, với mộng tưởng chất ngất nên nhiều khi đã làm anh sống xa rời thực tế. Cho nên đó cũng là một trong những nguyên nhân khiến tình họ không bền. Hai người tha thiết yêu nhau, tuy không thề non hẹn biển, người con gái hiền lành ấy luôn tin tưởng vào người yêu nhưng đâu dám hối thúc chuyện cưới xin. Chàng trai trẻ thì ham công danh cũng coi nhẹ việc hôn nhân ràng buộc.

Thế rồi, họ xa nhau. Con gái Huế vốn sống nhiều lý trí và ưa nghĩ ngợi xa xôi. Uyển Nhi chờ đợi mãi vẫn không thấy người yêu mở lời đòi hỏi cưới xin gì mình. Trong khi gia đình cô nhiều chị em gái, cha mẹ muốn cô mở hàng mau mắn để bầy em êm dầm mát mái thành gia thất tốt đẹp. Uyển Nhi im lìm không bằng lòng một ai. Cô quyết chờ đợi chàng. Về sau không biết vì lý do chi đã khiến họ xa nhau. Các em đều có gia đình êm ấm, riêng cô vẫn nhẫn nhục cảnh phòng đơn gối chiếc. Trong lúc ở Sàigòn, Huyên sống đời sinh viên xa nhà, bạn gái rủ rê hời hợt. Tin ấy bay về Huế khiến Uyển Nhi phiền muộn. Cô khép lại cõi lòng chỉ dành riêng cho một người. Những cánh thư dần thưa thớt cho họ có cớ chia tay. Nhưng đường đời muôn nẻo, Huyên lấy vợ. Cô gái là một sinh viên Văn khoa xinh tươi, người miền Nam tính tình xuề xòa dễ chịu, đã cho anh đàn con ngoan, gia đình anh coi như êm đềm hạnh phúc. Thời gian qua với bao dâu biển. Cuối cùng Huyên cùng gia đình trôi dạt đến Hoa Kỳ. Anh vượt biên trước rồi bảo lãnh cho vợ con. Cảnh đời họ yên ổn. Phần Uyển Nhi sống âm thầm hiếu thảo với cha mẹ, quên mình, chỉ biết nhớ nhung người xưa cùng kỷ niệm cũ. Huế trải qua lắm tang thương, cô héo hon trong hoàng hôn cuộc đời. Cho tới khi miền Nam mất vì quê hương thống nhất, tin tức về cố nhân càng mịt mờ, nhưng mãi lòng cô vẫn chôn chặt cuối hồn hình ảnh người yêu một đời.



Khi về tới Kim Long, quê nội của anh, Huyên vui mừng vì thấy song thân vẫn khang kiện. Nhà vườn nguyên vẹn, cây trái vẫn tốt tươi. Mặc dầu các cụ cũng đã trôi qua lắm nỗi lo âu từ hồi đất nước bị giải phóng. Nhưng nhờ con cái lưu lạc nước ngoài đã thường xuyên tìm hết mọi cách liên lạc để đền đáp công đức sinh thành nên hai cụ vẫn sống vững chãi giữa một Huế ngày càng nghèo khó.

Huyên đã vạch định chương trình mừng lễ Thượng Thọ trong vòng gia tộc. Nhưng anh không thực hiện được dự định vì song thân anh không muốn bị chính quyền dòm ngó rầy rà và các cụ cũng không vui chi khi thấy xóm làng quanh quất, dân chúng vẫn sống cảnh thiếu thốn cùng cực. Sau khi lo xong việc trên đầu trên cổ cùng chu đáo chuyện sưả sang mồ mả tổ tiên; hết tuần lễ thứ hai khi về với quê hương, Huyên mới lang thang đạp xe đạp đi thăm Huế của riêng mình lúc còn tuổi học trò.

Huế mùa hè, nắng chang chang, nhạc ve ra rả gợi anh nhớ tuổi học trò nao nức vào mùa thi. Huyên một mình tìm thăm các ngỏ ngách thuở đi học. Hàng phượng ven sông Hương lá xanh mướt đong đưa những cành mềm mại nặng trĩu những bông hoa đỏ thắm, vui như nắng hạ. Anh tìm tới sân trường Quốc Học vắng vẻ, nhìn đâu đâu Huyên cũng thấy ghi đầy vết tích của tuổi hồn nhiên, khi tóc xanh ngày hai buổi đến trường. Trên lầu cao, những khuôn cửa lớp đóng im lìm. Gió lao xao và tiếng chim sẻ ríu rít trên mái ngói nâu buồn, khiến lòng Huyên ngẩn ngơ nhớ tiếc mông lung. Anh lửng thửng tìm qua thăm trường hàng xóm. Ngôi trường con gái tường quét vôi hồng thoáng sắc tím nhạt ấy...Ngày xưa biết bao lần Huyên đến đó đợi chờ người yêu bãi học về. Dù anh chỉ dám lẻo đẻo theo sau nàng xa xa mà sao không thấy chán. Lối về thôn Vỹ, bánh xe anh lăn mòn qua bao mùa nắng mưa không hề mỏi mệt. Bây giờ về lại Huế, nơi nơi đều gợi nhớ những hình ảnh dễ thương của ngày mới yêu lần đầu.

Qua hôm sau, Huyên ngập ngừng đạp xe đạp hướng về Vỹ Dạ. Ngang qua Ðập Ðá mát rượi vì hơi nước tỏa lên từ Hương Giang mênh mông. Anh ngắm những con đò xuôi ngược qua lại trên mặt nước gờn gợn sóng. Bên kia bờ ấy, phố xá nhộn nhịp bán buôn. Nhưng như anh đã thấy hôm trở lại Huế ngày đầu tiên, đại lộ Trần Hưng Ðạo sao buồn hiu trơ trụi. Anh nghĩ có lẽ vì thiếu bóng cây xanh. Hàng quán trông nghèo nàn thảm hại. Huyên không tìm đâu ra cảnh tươi vui của thời mình làm học trò. Hay có lẽ vì qua bao năm tháng chiến tranh đã làm cho Huế thanh lịch hóa nên bơ phờ. Nhất là sau 75, người dân Cố đô càng thêm trầm mặc. Hình như những người cũ cùng thế hệ của Huyên đã bỏ Huế mà đi xa. Chẳng thế, những lần bên ấy tổ chức ngày Hội Huế, anh đã gặp khá nhiều bạn bè, bà con cùng thế hệ. Cho nên khi quay trở về đây Huyên chưa hề chạm mặt ai gọi là quen biết.

Ðường xa, trưa buồn lóa nắng. Huyên hoảng hốt tưởng mình đã lạc lối bởi vì hai bên đường trống trơn. Anh tìm mãi vẫn không thấy đâu bụi tre cao ngất đan kín những cành lá xanh đậm. Anh ngậm ngùi nhấn pédale ngơ ngác kiếm tìm hình bóng cũ:

...Mơ khách đường xa khách đường xa

Áo ai trắng quá nhìn không ra

Ở đây sương khói mờ nhân ảnh...

Con đường lạ hoắc và gập ghềnh sỏi đá, ven lộ thì lở lói đến xót xa. Trơ ra trước mắt anh, những khuôn nhà trơ trẻn, không cho Huyên mường tượng nụ cười xinh e ấp các cô tôn nữ sau hàng chè tàu xanh um. Tất cả phơi bày lộ liễu cảnh tàn phai đang cố vá víu bằng những mái nhà lợp ngói đỏ đơn điệu cùng mấy mảng tường vôi thấp xủn, nhếch nhác nghèo nàn. Vỹ Dạ nên thơ đã biến mất tăm dạng. Huyên buồn rầu trước cảnh trí đổi thay đến tàn nhẫn ấy. Chân anh rời rạc quay mải miết những vòng pédale chán nản và lòng anh tái tê một nỗi mất mát không tên.

Như ngày xưa Huyên chỉ cần khoảng chừng mươi lăm phút đạp xe từ Ðập Ðá về là đã tới nhà Uyển Nhi. Nhưng nay dù đã qua gần nửa tiếng đồng hồ rồi, Huyên cố tìm kiếm vẫn không thấy đâu. Anh làm sao quên được cổng Tam quan của ngôi phủ nhà nàng, sừng sững nằm ven lộ với lối kiến trúc cầu kỳ. Mãi khi xe Huyên lạc xuống gần tới chợ Hương Mỹ, anh mới giật mình, ghé lại chiếc quán nước bên đường hỏi thăm người chủ quán trọng tuổi. Ông cụ cho hay ngôi phủ đó khách đã đi qua hơn cây số rồi. Ông ta nói, cổng xưa ấy nay phần lớn đã hư hao vì thời Huế bị bên kia pháo kích trước 75, nếu khách không thật chú ý sẽ khó lòng nhận ra.

Hơn tiếng đồng hồ sau Huyên ngỡ ngàng tìm ra được nhà cố nhân. Trưa đã xế bóng nên cái oi bức nơi đây đã giảm đi nhiều. Cổng Tam quan đồ sộ ngày xưa ấy nay chỉ còn trơ lại một mảng gạch đá rêu phong. Còn dãy tường cao nối tiếp bao quanh ngôi phủ thì biến đâu mất. Tít trên cao ngoằn ngoèo hàng trăm chiếc rể đa xám nâu đang bò xuống lượn quanh mấy viên gạch nằm lồi lõm cheo leo. Ðứng ngắm nghiá hồi lâu, Huyên quyết chắc đây là dấu tích cũ. Rồi anh dắt xe đạp men theo con đường đất đỏ len lỏi giưã hai hàng chè tàu mọc cao quá đầu người. Và mãi phía trong xa giữa khu vườn rậm rạp những luống rau đậu xanh um, anh thấy thấp thoáng một ngôi nhà nhỏ lợp tôn, xây bằng táp lô xám bẩn. Ngoài ra, cơ ngơi lộng lẫy của tòa phủ đệ nguy nga thuở ấy thì Huyên không sao tìm ra dấu vết. Bỗng từ trong ngách cửa một chú Vện xồ ra đón khách. Con chó uể oải suả mấy tiếng cho có lệ rồi ngoe nguẩy đuôi rảo cẳng theo sau khách lạ. Anh cong ngón tay gõ lên liếp cửa đóng sơ sài bằng mấy mảnh gỗ tạp và chờ đợi. Chặp sau có tiếng chân ai chạy ra. Cửa mở, anh thấy một thiếu nữ chừng mười lăm, mười sáu tuổi hiện ra ngơ ngác nhìn khách. Cô bé có nước da trắng hồng, đôi mắt đen láy xênh xếch sao anh cảm thấy quen quen như đã từng gặp thấy đâu rồi. Cô gái nhỏ nhìn khách chăm chăm một lúc mới lên tiếng, giọng cô bé trong trẻo:

-Thưa chú, chú muốn hỏi ai?

Huyên nói:

-Cháu có biết gia đình bà Uyển Nhi trước ở đây, chừ có còn hay đã dọn đi đâu rồi không?

Thiếu nữ lắc đầu tỏ ý không biết. Cô ta ngẫm nghĩ một lúc rồi trả lời:

-Có lẽ cô của cháu biết. Chú chờ đây một chút đợi cháu vào hỏi.

Cô gái quay lưng đi chứ không lịch sự mời khách vào nhà. Chặp sau Huyên lại nghe tiếng cô ta chạy trở ra. Lần này cô bé mở rộng cả hai cánh cửa ọp ẹp và mời Huyên:

-Cô của cháu mời chú vô nhà uống nước ạ.

Giữa trưa mà phòng khách tối mờ mờ. Một tấm màn vải in hoa đã cũ nhưng sạch sẻ ngăn hai căn nhà. Huyên đứng tần ngần bên chiếc trường kỷ bóng lộn kê cạnh cái bàn gỗ vuông đóng thô sơ. Anh nhìn quanh, ngắm hàng cột đen mun chống mái rường có khắc chạm công phu nhiều họa tiết diễn tả về bốn muà xuân hạ thu đông. Anh nhận thấy như cột chống và rui mèn lấy từ chỗ khác lắp vào ngôi nhà mái tôn và tường trát vôi thô ráp này. Rồi Huyên chợt bàng hoàng khi nghe vang lên một giọng nói êm ái, âm thanh trong trẻo ấy anh làm sao có thể quên được:

-Hạ Huyền, cháu vô bắt ấm nước sôi pha trà đi!

Huyên như muốn lảo đảo vì tưởng mình đang sống lại ngày xa xưa. Uyển Nhi xinh tươi của anh sẽ hiện ra trong giây lát. Anh hồi hộp quá sức nên đã quay đầu hướng ra ngoài sân. Nắng ngoài ấy lấp lánh reo vui. Tiếng chim ríu rít trên mái nhà rộn ràng như tiếng trái tim Huyên lúc đó. Và anh nghe tiếng nàng dịu dàng hỏi:

-Dạ xin vô phép hỏi, thưa ông là ai? Và quen biết như thế nào với bà Uyển Nhi?

Huyên quay lại và tim anh nhói buốt. Có phải đây là người xưa anh hằng tưởng nhớ? Người đàn bà luống tuổi gầy yếu, mái tóc búi lỏng sau gáy màu xám bạc và khuôn mặt khắc khổ in đậm nét thời gian. Dáng dấp đài các anh đã từng gặp trong quá khứ, vô lẽ là người này sao?! Thấy khách im lặng, bà già lại ân cần lên tiếng:

-Dạ thưa...cháu Huyền vào nói là ông muốn biết tin tức về bà Uyển Nhi phải không ạ?

Huyên sững sờ trước thực tế phũ phàng. Bà cụ là người ấy, là em đó sao? Là Uyển Nhi mơ mộng của hơn ba mươi năm về trước mà tôi hằng thương nhớ? Tôi không tin đâu. Anh bật hỏi ngu ngơ:

-Thưa tôi từ xa về thăm Huế, và tôi muốn gặp lại Uyển Nhi. Chúng tôi ngày xưa là bạn bè thân thiết.

Bà già có vẻ hoảng hốt, lùi lại sau một bước, một tay đưa lên trước ngực áo. Chiếc áo màu lam buồn như tuổi già của bà.

-Dạ, mấy năm trước Uyển Nhi còn ở đây. Nhưng...lâu rồi, bà ta đã chuyển đi tỉnh khác ở với gia đình người cháu.

Chủ nhân nghe như có tiếng thở ra nhẹ nhàng của ông khách. Thật vậy, Huyên tươi tỉnh hẵn người sau khi nghe bà già phá tan bầu không khí ảm đạm vì anh đã dám ngộ nhận bà ta là cố nhân của mình. Huyên lại mơ mộng về người thương nhất đời của anh. Huyên hỏi, giọng chìm xuống như một lời tâm sự:

-Ngày xưa, cô Uyển Nhi với tôi rất thân. Về sau chúng tôi chia tay vì cô ấy hiểu lầm tôi. Có một thời chúng tôi sống xa cách nhau quá. Còn xứ Huế này thì ưa gây chuyện bất hạnh cho những người còn quá trẻ như chúng tôi thuở đó... Thưa bà, bà có thể cho tôi xin địa chỉ của Uyển Nhi?

Huyên ngừng lại rồi nói thêm:

-Xin bà tha lỗi, tôi quen nết gọi tên cô ấy. Dạ thưa, còn về bà Uyển Nhi, gia đình bây giờ chắc hẵn cũng con cháu nội ngoại đầy đàn?

Cô cháu gái dễ thương vừa lúc ấy từ phiá sau bếp bưng ra một khay trà thơm ngát hương sen. Bà cô ra dấu cho cháu đặt khay lên chiếc bàn gỗ ngăn cách giữa chủ và khách. Bà cẩn thận sưả lại ấm chén, rót trà vào hai tách sứ men xinh xinh rồi nhỏ nhẹ mời Huyên:

-Huế mùa hè oi bức, gia đình chúng tôi neo đơn nên chỉ có tách trà mời ông giải khát.

Khách đang mải ngắm nghía quanh quất nên lơ đãng cám ơn bà ta. Huyên cầm tách trà khẻ hớp giọng rồi đứng lên đi dãn chân. Năm nay anh cũng đã suýt soát lục tuần, mặc dầu trông bề ngoài dáng dấp Huyên tưởng chừng khoảng năm mươi trở lại. Anh đi đứng tự nhiên như người thân trong gia đình. Rồi anh chợt thầm thì như chỉ nói cho một mình mình nghe:

-Ngày xưa ở đây vui lắm, cảnh đẹp người đông mà nhất là ai cũng xinh tươi. Phủ này nổi tiếng vì có cô tiểu thư hoa khôi một thời!

Bà chủ lớn tuổi có vẻ tôn trọng sự hồi tưởng của khách nên chỉ lắng nghe mà không hề lên tiếng. Huyên im lặng trầm ngâm bên chén trà thơm. Anh đăm đăm ngó ra ngoài vườn như thử cố tìm lại cảnh xưa. Ngoài ấy nắng reo vui đuổi gió trưa hè chập chờn trong bụi miá trồng cuối sân. Huyên mường tượng âm thanh tiếng ai cười nói lao xao làm trái tim anh tràn ngập nỗi nhớ thương...

-Dạ thưa ông, ông có phải là... ông Tường Huyên?

Anh giật mình quay ngoắt lại nhìn sững vào mặt chủ nhân, hỏi:

-Vâng, Huyên là tôi, nhưng thưa tại sao bà lại biết?

Rồi Huyên chăm chú vào người đối diện. Anh xúc động vì trong phút giây, lớp khói sương mơ hồ của thời hiện tại chợt tan biến đi và trước mắt Huyên là chân dung của nàng hiển hiện. Người đàn bà mà mái tóc điểm bạc thoạt tiên hóa trang thành luống tuổi, nay ánh mắt dịu dàng long lanh niềm hạnh ngộ. Thoáng chút sắc hồng ửng lên gò má và làn môi khắc khổ chợt nhạt nhòa để hiện ra nét cười bẻn lẻn. Huyên thảng thốt kêu lên:

-Uyển Nhi! Phải là Uyển Nhi của Huyên đó không?

Người đàn bà nhè nhẹ gật đầu:

-Dạ, chắc là anh đã thất vọng vì tôi quá đổi thay, phải rưá không anh Huyên?

Giọng cô ấy vẫn thanh thoát, âm thanh nao nức dễ thương như ngày nào hai người còn là của nhau. Huyên đứng lên bước gần tới người xưa, vươn hai tay ra nắm chặt lấy đôi bàn tay nhỏ nhắn của Uyển Nhi. Ðôi tay nàng tuy vẫn còn mềm mại và mát rượi, nhưng làn da mất hết vẻ mịn màng. Nhưng Huyên không để ý tới vì lòng anh đang ngất ngây niềm thương yêu ngày trước.

Hai người ngồi trân ra nhìn nhau. Thời gian như lắng đọng. Ba mươi năm họ mất nhau nay tìm lại được. Mải Huyên mới lên tiếng trước:

-Lâu quá rồi xa Huế-e tới hơn ba chục năm?

Uyển Nhi sửa lại:

-Ba mươi năm và sáu tháng lẻ mười ngày Huyên đã rời Huế và bỏ đi!

Huyên nhìn sững vào mắt nàng. Anh thẫn thờ vì cô đã đếm từng tháng đợi năm chờ. Trong khi ấy anh mải vui đường xa xứ lạ. Có nhớ người xưa chỉ là một nỗi nhớ mơ màng trong tâm tưởng. Huyên hỏi bạn:

-Cũng tại vì mình về sau không hề được thư Huế gửi vào. Hồi đó bạn đã giận tôi vì nghe lời người ta bày đặt thêm bớt đủ điều. Còn tôi thì mô có làm chi nên tội. Suốt một đời tôi chỉ thương nhớ một người. Uyển Nhi, bạn có tin lời tôi nói không?

Huyên nghe tiếng cô ấy thở dài. Hai người lại im lặng nhìn nhau. Anh cảm thương, ngắm dáng vẻ ưu tư của nàng. Nhìn mái tóc ngày xưa êm mơ như suối huyền nay đổi ra màu hoa râm. Nhưng trừ mái tóc ra đã khiến cho nàng chịu ảnh hưởng rõ rệt của thời gian, anh nhận thấy bạn mình không đến nổi tàn tạ. Duy làn da hơi xanh, và đôi môi nhạt có lẽ vì không tha thiết gì đến việc điểm tô. Riêng ánh mắt nàng thì vẫn trong sáng khi nhìn lại anh.

Huyên liên tưởng đến những người cùng trang lưá với anh bên ấy. Nhất là phía nữ. Các bà các cô tha hồ mượn màu son phấn đánh lưà thời gian. Thật vậy, nhiều bà ngoài sáu mươi thoạt trông qua cứ ngỡ là tứ tuần. Lắm bà mất công tới thẫm mỹ viện tân trang lại mặt mũi theo một kiểu diễm kiều nào đó. Cho nên trong một sớm một chiều, từ chiếc mũi Á đông khiêm tốn hoá ra mũi dọc dưà thanh tú. Mắt sụp mí vì tuổi đời bỗng trở nên sâu thẳm với bóng mi đậm huyền hoặc tưởng làm say đắm lòng người. Có bà mon men bảy mươi còn vui vẻ lên xe hoa, mà chàng rể tóc vàng mắt biếc kém nàng mươi tuổi vẫn hào hứng đưa người đẹp ngao du khắp các danh lam thắng cảnh xứ người. Huyên ngậm ngùi thương bạn. Anh tự nhiên sinh ra ngạo đời, sinh ra triết lý vụn từ lúc nào. Rồi anh thấy hình như cái đẹp tâm hồn mới là cái đáng trân qúy nhất. Từ suy nghĩ ấy dù cho cố nhân có tàn phai nhan sắc anh vẫn tìm thấy nơi nàng những dáng dấp thân thương ngày cũ. Trước mắt Huyên cô ấy hiển hiện một Uyển Nhi hiền thục và duyên dáng, thuở nào từng làm tim anh bồi hồi rung cảm. Hai người hàn huyên tâm sự cho tới lúc nắng đã tắt hẵn ngoài kia, Huyên mới bịn rịn đứng lên từ giã bạn. Anh hẹn hôm sau sẽ trở lại. Còn người đẹp thôn Vỹ ân cần dặn dò anh, nhớ nhịn bụng để cho cô được mời anh cùng ăn bửa cơm hội ngộ. Uyển Nhi nói:

-Chúng ta vẫn coi nhau là bạn thân phải không? Anh Huyên, anh chịu khó tạm xa một ngày phù hoa của đời sống Mỹ nghe! Vì mình sẽ cho bạn thưởng thức hương vị đơn sơ của quê nghèo.

Khi chia tay nhau, tối hôm đó cả hai người bạn cũ đều thao thức và trăn trở vì nhớ lại một thời êm đẹp đã qua từ thuở nào xa lăng lắc.



Khi Huyên tới, vườn xưa còn đẫm sương mai, cỏ cây trong vườn tươi mát.Anh thủng thẳng dạo bước quanh sân, ngắm trời mây mà lòng lâng lâng vui thú. Chủ nhân và cô cháu gái hình như không có nhà và con Vện bữa ni thân thiện nguẫy đuôi ra đón anh.

Từ lúc mờ sáng anh đã rời nhà ở Kim Long. Và như một người rảnh rổi nhất ở bên kia Ðại dương, Huyên diện bộ đồ ngắn gọn vào, chân đi đôi addidas cũ quen mang, rồi cao hứng chạy bộ một vòng thăm thú Huế khi ngày mới lên. Anh chạy nhẹ nhàng. Chân nhịp đều đặn qua cầu Bạch Hổ, rồi nóng máy xuôi về dọc Hữu ngạn sông Hương, rẽ qua cầu Trường Tiền.

Trong buổi sáng tỉnh lặng của Huế hiền hòa, mấy o gánh gánh bún kĩu kịt tò mò lén nhìn Huyên tủm tỉm cười. Anh nhớ ngày xưa mẹ anh thường kêu gánh bún bò An Cựu vào cho cả nhà điểm tâm. Hồi đó nhà cha mẹ Huyên còn ở phiá trong Thành nội, nhà ông bà nội Huyên thì ở tuốt trên Kim Long như bây giờ. Anh nhớ bún bò nấu kiểu An Cựu khi nào cũng có thêm miếng huyết heo luộc chín. Tô bún thơm cay và giá thiệt bình dân ngày ấy, cho chàng trai mới lớn ăn no nê tận tình. Rau sống xắt rối ăn kèm theo bún là bắp chuối sứ chát chát ngọt ngọt nhưng ăn hoài sao không thấy chán. Bữa ni ăn, ngày mai vắng đã thấy thèm. Vưà nhớ kỷ niệm xưa, chân Huyên dẻo dai chạy rẽ về hướng chợ Ðông Ba.

Huyên dừng lại nơi dãy hàng hoa, lựa mua một bó hoa khổng lồ đủ loại. Thược dược tím thẫm, hoa cúc màu vàng anh, mồng gà tươi thắm thêm mấy bông hồng cánh còn e ấp hàm tiếu và long lanh những hạt sương. Mùa hè nên hoa sen tươi đẹp, thơm ngát. Anh nhờ cô bán hàng lựa cho anh những đóa sen hồng và sen trắng đẹp nhất. Cô hàng hớn hở vì được ông khách Việt kiều rộng rãi mở hàng. Bao nhiêu là hoa nên Huyên không cách chi ôm cho xuễ. Anh dặn người xích lô trẻ chờ đó vì anh còn mua sắm nưã.Chú chàng sẽ bao thầu chở giúp anh tất cả về nhà Kim Long. Huyên ghé vào sạp vải phiá trong chợ chọn mua tặng bạn mấy xấp luạ ngoại quốc óng ả màu sắc trang nhã. Anh không quên quà cho cô cháu nhỏ Hạ Huyền một lô trâm cài lượt dắt xinh xinh. Toàn những món mấy cô con gái cưng của anh bên ấy vẫn ưa dùng. Thì ra bây giờ bên ni hàng của Mỹ bày bán ê hề, đâu có thua chi bên nớ. Cô hàng hoa tế nhị khi anh trở ra đã từ lúc nào mua dùm ông khách sộp hai cái độc bình bằng gốm Biên Hòa trông thật mỹ thuật. Cô ta góp ý:

-Cháu tính hoa nhiều như ri sợ nhà người quen của chú không đủ bình để cặm.

Huyên gục gặt đầu cám ơn cô bé đã chu đáo lo giúp mình. Huyên dặn cô hàng gói riêng mấy chục hoa sen vào trong lá sen, vì anh sẽ nhờ bạn đem hoa sen lên chùa cúng Phật.

Sáng sớm mát trời bà con đang còn rảnh rổi việc mua bán nên xúm quanh chuyện trò thân mật với người khách Việt kiều bình dân vui tính. Huyên đãi cà phê cho cả chục chàng trai bạn chú xích lô đợi chở hoa của mình. Anh còn hào phóng mua mấy gói thuốc lá ngoại cho họ đưa thơm, chia vui niềm hạnh phúc hồi hương của anh. Riêng cô hàng hoa và mấy bà bán hàng quanh đó Huyên không quên mời họ cùng ăn với anh làm sao cho sạch bách gánh bún bò An Cựu. Bởi vì o gánh bún hồi nãy anh gặp trên cầu đang dừng chân dòm anh tỏ ý được anh mở hàng may xưa

Một buổi sáng ngập tràn hạnh phúc cho Huyên khi trở về với Huế thân yêu.



Huyên đi lui đi tới trong vườn ngắm nghiá mấy vồng rau đậu xanh tươi được trồng ngay ngắn lớp lang. Anh săm soi dòm những cây ổi rậm lá, thấy thấp thoáng giữa đám lá cành đã có những trái ổi xá lị trắng bóng sắp hái ăn được. Huyên không ngờ ngôi phủ ngày nay tuy vắng lầu các phòng ốc với tòa ngang dãy dọc, nhưng thay vào đó là vườn cây trái chăm nom cẩn thận. Giưã lúc ấy thì hai cô cháu Uyển Nhi trở về. Hai người hai chiếc xe đạp chở đầy giỏ trước giỏ sau ăm ắp đồ đoàn. Một mệ gà mái tơ đang thò cổ ra khỏi giỏ mây ngơ ngác dòm Huyên. Anh nghĩ, tội nghiệp vì chàng mà trưa nay nó được hóa kiếp. Chủ khách chào nhau thân thiết như họ chưa hề xa nhau ngày nào.

Huyên nhìn bạn, hôm nay trẻ trung hẵn ra. Trong chiếc áo ngắn màu dâu hồng nhạt mặc trên chiếc quần lụa đen, bạn anh tươi tắn chứ không ủ ê như ngày hôm qua. Chiếc nón lá che khuất mái tóc điểm bạc và nắng ban mai lồng qua lớp lá mỏng đã khéo làm ửng hồng hai má nàng. Huyên chợt thấy rộn ràng lòng thương mến.

Chú xích lô đem vô bao nhiêu là hoa tươi làm chủ nhà phải ngạc nhiên. Huyên đã đưa địa chỉ ở đây và hẹn chú ta chở thẳng hoa tới nhà Vỹ Dạ, còn anh đạp xe đạp tới nhà Uyển Nhi. Anh cám ơn và thưởng cho người xích lô trẻ hai trăm ngàn đồng, tức chưa tới 20 đô la. Chú tài xế xe ba bánh có vẻ thư sinh ấy mừng rỡ, với một cuốc xe nhẹ nhàng như sáng nay, chú đã kiếm được gần cả tháng lao động. Bởi vì ở cái xứ Huế nghèo nàn này, dân chúng quen tiết kiệm nên hiếm ai đi xích lô, để khỏi lãng phí tiền bạc vốn càng lúc càng khó kiếm.

Trong lúc Uyển Nhi lo làm cơm đãi khách trong bếp, Huyên ra vườn phụ cô cháu nhỏ kiếm củi. Hạ Huyền ôm mấy ôm bẹ dưà đã phơi khô từ lâu vô cho bác Huyên chẻ ra thành từng thanh nhỏ. Nhà nghèo muốn khỏi tốn tiền mua củi, dân chúng thường tận dụng cành khô lá khô lượm trong vườn rồi chất để dành sẵn mà chụm bếp quanh năm. Hai bác cháu vưà làm việc vưà trò chuyện tương đắc. Huyên kể cho cô cháu nghe về tình bạn thân của chàng với người cô của Hạ Huyền. Cô bé cho anh hay cha của cô ta là em trai út trong gia đình. Ông là cựu sĩ quan ngụy nhưng tù chưa tới ba năm nên không được đi Mỹ theo diện H.O. Hiện nay ông vào làm phụ thợ hồ trong Ðà Nẵng, còn mẹ cô cũng theo vào trong đó với hai đứa em nhỏ. Cô bé chép miệng than:

-Ði tù về cực bắt chết mà ba mẹ cháu còn ưng sinh thêm hai em bé nữa đó bác!

Huyên cười an ủi:

-Lo chi cháu, trời sinh voi trời sinh cỏ. Mọi sự rồi cũng tốt đẹp cả thôi.

Chàng hỏi thêm:

-Rưá là cô Uyển Nhi nuôi cháu ngoài ni. Hai cô cháu sinh sống bằng cách chi?

Hạ Huyền thủng thẳng kể, vì người cô trước đây là cán sự điều dưỡng Nhà nước ngụy, nên sau 75 Cách mạng sa thải không cho làm công chức, bà phải làm y tá chui ở nhà.

Ðang nói cô bé chợt cao hứng vô chi tiết thú vị:

-Họ là Bác sĩ mà lạ ghê, mổ ai chết nấy bác ơi! Bà con quanh xóm mỗi lần đau ốm đều tìm tới cô bác sĩ vườn của con thầu láng!

Nói xong cô bé cười trun mũi ngó thiệt dễ thương. Huyên lại hỏi:

-Còn cháu, khi mô thì lấy chồng đây?

Thiếu nữ trợn tròn mắt nhìn ông bác;

-Không bao giờ! Cháu ghét chuyện nớ lắm...

Rồi cô bé ghé sát tai Huyên thì thầm có vẻ bí mật:

-Cháu noi gương cô Uyển Nhi thù đàn ông đó bác ơi!

Cô ta cười phá lên làm Huyên đang nghe nghiêm trang cũng phải tức cười theo. Chàng lại hỏi:

-Răng cháu biết cô của cháu thù đàn ông?

Hạ Huyền ngó thẳng mặt ông bác và láu lỉnh trả lời gọn một câu:

-Dạ, là do ảnh hưởng của ông Tường Huyên ạ!

Huyên im lặng, chàng thẫn thờ nhìn về phiá ngôi nhà nhỏ giờ này chợt thấy một cụm khói đang tỏa lên ẻo lả từ ống khói nhà bếp. Lát sau Huyên thở dài đứng lên nói với cháu:

-Củi chừng nớ chắc đủ dùng rồi cháu hí?

-Dạ, bác lao động tốt như ri, cả tháng sau nhà ni củi dư sức xài!

Hai bác cháu sau đó ôm một mớ củi vào cho nhà bếp. Người cô đang lui cui nấu nướng. Hai má đỏ bừng vì bếp lưã. Huyên ngó thấy và sững sờ. Hình ảnh sao quá thân thương của một mái ấm gia đình hạnh phúc. Sau hơn ba mươi năm rời Huế mà đi biền biệt, trái tim Huyên nhói buốt vì mình đã dại dột đánh mất một quãng đời vô cùng trân qúy.

Ba người ngồi quanh chiếc bàn gỗ tạp đựng đầy thức ăn nóng sốt. Bình hoa rực rỡ bày chính giưã bàn nên ra vẻ một bữa tiệc sang trọng. Huyên vưà hít hà vưà ngắm nghiá những đĩa tô đựng bao nhiêu là món ăn chàng biết trước sẽ rất ngon lành. Bạn anh lên tiếng mời:

-Bác Huyên cầm đũa dùng cho cô cháu tui ăn theo kẻo nguội lạnh.

Khách ngẫng đầu nhìn bạn rồi trịnh trọng nói:

-Cám ơn bạn, đã cho mình bữa cơm hội ngộ này. Sau hơn ba mươi năm chia tay, tạ ơn Trời Phật chúng ta vẫn còn sống an lành để chừ gặp lại nhau...

Cô gái nhỏ ngước mắt nhìn quanh. Ông khách nói nửa chừng thì ngưng có lẽ vì nghẹn ngào. Còn người cô đang quay mặt ra đằng sau. Cô bé thấy bà chớp mắt nhiều lần, chắc để ngăn mấy giọt lệ mừng tủi?

Hạ Huyền phá tan bầu không khí cảm động, lên tiếng:

-Cháu mời bác Huyên, mời cô thời cơm, cho cháu thời theo vì cháu đói quá rồi đây nì!

Uyển Nhi vờ trừng mắt như muốn mắng đưá cháu vô phép. Bà co ngón tay gõ nhẹ lên đầu con bé:

-Thì ăn đi, con gái con gung chi mà hư quá!

Thiếu nữ nhìn bác khách mời lần nưã:

-Bác ăn đĩa gỏi ni trước, gỏi ngó sen Tịnh Tâm chua chua ngọt ngọt. Tiếp theo là gà tơ xé phay, thịt mềm thơm vị rau răm cay; tiếp nữa là canh mướp đắng, đặc biệt cô con mừng bác nếm vị cay đắng cuộc đời nì...Bánh cuốn quê hương nhân ngũ vị.

-Thôi đủ rồi bé, mi lắc xắc quá!

Người cô cắt ngang lời rao hàng của đưá cháu gái xí xọn. Bà nhẹ nhàng nói với bạn:

-Anh Huyên dùng thử coi có vưà miệng không. Bạn đi xa tới xứ văn minh giàu có nhứt thế giới, sợ ăn món ăn Huế quê mùa không còn hợp vị.

Huyên buồn bã không nhìn ai đáp:

-Mình cảm thấy no nê, vì không ngờ còn trở lại Huế như hôm ni...Thôi, mọi người cùng ăn một lần đi!

Khách cầm đũa gắp miếng bánh cuốn trắng trong, ở trên mặt là một con tôm chua xinh xẻo ướt rượt màu cam hồng, bên dưới lát ba chỉ mỏng dính, lấp ló cọng rau muống xanh, dúm bún trắng, mẫu khoai lang vàng ngậy. Anh cẩn thận chấm miếng bánh vào chén nước tương sánh nâu óng vàng có rãi đậu phụng bùi, chưa ăn Huyên đã ngây say hương vị đậm đà. Huyên nói:

-Nội cái bánh cuốn đơn sơ ni đủ cô đọng cả trời xứ Huế trong đó.

Hạ Huyền nhìn bác có ý thắc mắc. Huyên nghiêng đầu trả lời cô bé:

-Theo bác, người Huế mình tham lam lắm. Rau muống xanh nhiều chất đạm, hiền, khoai lang dẻo bùi nhiều bột. Thịt ba chỉ xắt thiệt mỏng, dân Huế đi xa nói, chỉ về đây mình mới thưởng thức miếng thịt heo không ngán. Heo cỏ nên da mỏng, mỡ béo chỉ bám chút xíu làm duyên, còn mùi vị thì thơm thơm quyện với sợi bún nhỏ rí. Như rưá có phải miếng bánh cuốn ni bao gồm vưà hương sắc thiên nhiên vưà đầy đủ chất bổ. Cháu nghe bác lý sự như rưá có đúng không nà?

Hạ Huyền ngẩn ngơ vì lời giải thích của ông bác có lý ghê. Cô săm soi ngắm nghiá miếng bánh vừa gục gặc đầu tỏ ý khâm phục lời của người khách Việt kiều. Mới trưa hôm qua ông ta còn xa lạ mà nay cô thấy thân thuộc như thuở mô tới chừ. Cô lén nghĩ thầm, hèn chi cô hai mình không tương tư một đời ông bác! Cô liếc qua người cô, Uyển Nhi không nói không rằng, mặt mũi vẫn lạnh tanh. Cô bé bắt chước khách cũng phân tích thầm trong bụng. Bà cô mình đang sóng gió nổi lên trong lòng mà bên ngoài là hỏa diệm sơn thời lắng đọng. Con gái Huế mà! Thiếu nữ mới qua tuổi trăng rằm nhưng đã được nuôi dưỡng trong hoàn cảnh trầm mặc. Núi sông ấy un đúc từ khi nào con người Huế thâm trầm.

Ba người ăn uống mãi cả tiếng đồng hồ vẫn chưa xong. Trong lúc hai bác cháu thành một cặp tri kỷ đối thoại tương đắc về ẩm thực; Uyển Nhi chỉ lắng nghe tưởng như lơ đãng mà thật ra tự thâm tâm xao động những buồn vui khó tả.

Mãi đến xế trưa họ mới dùng qua món tráng miệng. Trái cây Huế chín tới, nhà vườn mới hái xuống đem bán, nên mua về ăn ngọt hết sức. Muà hè nên Huyên được nếm nhãn lồng Nguyệt Biều, hột nhỏ rức mà cơm dày nhai dòn tan. Anh còn được ăn mãng cầu gai nữa. Lâu quá rồi Huyên toàn ăn loại mãng cầu dai trong Nam, múi nhiều hột ít nhưng làm sao bì được với mãng cầu gai của Huế. Trái lớn vì được ‘dú’ trên cành, đợi cho gai nở toàn diện nhà vườn mới hái xuống. Mãng cầu gai chín, vỏ ửng hồng xen giữa sắc lục non, cầm trong tay thấy nặng và mềm. Mỗi trái to có khi cầm tràn lòng bàn tay người lớn.

Ăn uống xong xuôi, Huyên dành phần rửa chén, nhưng hai cô cháu Hạ Huyền đều bất bình. Vì làm sao họ lại chịu để cho người đàn ông làm công việc bếp núc nhỏ nhen như thế, mặc dầu khách nói bên Mỹ là bình đẳng, anh chuyên giữ công tác nhẹ nhàng này, vì nấu nướng là phần của mẹ con Trâm cáng đáng rồi!

Buổi chiều nắng dịu xuống, Huyên theo chân bé Hạ Huyền ra bến sông sau vườn chơi. Thiếu nữ lo rửa chén bát, còn khách thì ngắm cảnh. Huyên chợt thấy lòng xao xuyến vì trước mắt anh lau lách đìu hiu ven sông nào khác chi thuở ấy. Cách một dòng nước lặng lờ, bên kia là cồn đất đỏ, rợp rờn những bụi miá có thân đỏ au, xa xa hàng bắp đã trổ cờ trắng xóa đang phất phơ theo gió...Anh nhớ thuở đó có lần đã bơi qua bên kia cồn với người anh Uyển Nhi. Hai người hái trộm bắp đem về nhà luộc ăn tươi. Bắp vưà hái xuống ăn liền nên ngon ơi là ngon. Mẹ của nàng còn mua thêm bắp non về xát mỏng nấu chè cho cả bầy trẻ háu ăn. Nhớ lại những kỷ niệm ấy khiến lòng anh ngậm ngùi. Anh định bụng thế nào cũng rũ cô ấy đi thăm mộ những người thân đã nằm xuống vĩnh viễn.



Huyên quay về nhà tìm bạn để chuyện trò thêm vì anh chưa hỏi chi nhiều về Huế. Vưà lúc anh thấy Uyển Nhi đang đứng trong lùm mía gần nhà nàng, có lẽ cô muốn đốn mía vào đãi khách. Huyên bước vào rồi dành lấy cây rựa trên tay nàng. Huyên nói:

-Ăn mía bữa ni lại nhớ đến lần uống nước mía ép trên quán nhà ga. Nhi còn nhớ không? Hôm đó hai đưá mình đều không ai đem tiền theo mà vì khát quá nên cứ vào uống rồi tính sau...

Nhi cười khúc khích tiếp nối kỷ niệm:

-May mà quán họ cho tụi mình uống thiếu tiền, nhưng cũng không lạ chi vì anh là dân quen ăn chịu mà!

Hai người hồn nhiên nói cười, vui vẻ như ngày nào cuộc đời chưa hề xảy ra sóng gió. Thuở vẫn hẹn hò nhau, chàng chở nàng khắp nơi khắp chốn, như thử một lời đính ước, một sự bạch hóa với cả xứ Huế khó tánh ngày đó.

Hai người đốn luôn chục cây mía, vưà ăn vưà để dành bán cho bạn hàng quen tới tận nhà mua về róc vỏ đem đi bán lẻ. Từ nhiều năm nay, bạn của anh đã kiếm thêm tiền chợ bằng cách trồng rau đậu trái trăng trong vườn. Nhờ Uyển Nhi lam lũ chịu khó tưới bón hôm sớm nên hoa màu tốt tươi, cọng với tiền hành nghề bác sĩ vườn-chui nên hai cô cháu nàng cũng đủ sống đạm bạc rau cháo qua ngày.

Huyên giúp bạn quét dọn lại sân vườn, sau khi họ đã đốn hết phần tư bụi mía. Có một lúc anh ngẫng đầu lên, chợt nhìn thấy Uyển Nhi hai má đỏ bừng vì lao động tốt, nên trông đáng yêu quá. Huyên thấy vài cọng lá khô bám trên vai áo nàng, anh bước tới gần và đưa tay phủi cho sạch. Uyển Nhi khẽ rùng mình vì sự đụng chạm ấy. Huyên cũng xúc động và không cưỡng được tình cảm trào dâng, anh ôm vai Uyển Nhi vào sát ngực áo mình, khẽ hôn một bên gò má nóng bỏng của nàng. Nụ hôn nhẹ như gió thoảng nhưng tưởng chừng muốn đốt cháy cả người cô. Uyển Nhi run lẩy bẩy và hai tay tự nhiên níu chặt lấy vai áo Huyên. Trái tim cô đập rộn ràng không khác chi ngày ấy cách nay hơn ba mươi mấy năm, lần đầu tiên được người yêu tỏ tình và tiếp theo là nụ hôn vụng về lên má lên môi như hôm nay.

Bỗng từ phiá sau nương vang vang giọng hát tươi trẻ của Hạ Huyền. Uyển Nhi như bừng tỉnh, vội vùng ra khỏi vòng tay xiết chặt của chàng rồi cô bỏ chạy vô nhà khiến Huyên ngơ ngác nhìn với theo. Lát sau anh cũng theo vào. Nhi đang im lặng thu xếp vào tủ chè mớ chén bát Hạ Huyền vưà rửa xong đem lên từ bến sông sau nhà. Huyên bứt rứt, anh cảm thấy có lỗi vì mình đã khuấy động cuộc sống yên tỉnh của cố nhân. Nhìn nét mặt dàu dàu của bạn, anh hối hận vô cùng. Huyên đã tự dặn lòng mình, khi tới đây phải giữ cho tình cảm họ được trong sáng. Anh rất quý trọng Uyển Nhi, người bạn gái một đời vì anh mà giữ gìn trinh trắng. Vậy mà nay anh đã mềm lòng lôi cuốn nàng vào sóng gió. Vẫn biết đó chỉ là một nụ hôn nhẹ, một vòng tay ôm chưa thiệt sự khít khao. Phần anh, Huyên không một chút mặc cảm tội lỗi với Trâm. Bên ấy, bạn bè nam nữ lâu ngày gặp nhau, ôm nhau, hôn nhẹ mừng rỡ là chuyện thường. Nhưng mà về phiá nàng, chắc chắn Uyển Nhi xao động ghê lắm.

Hai người lại ngồi đối diện nơi bàn tròn nhưng không ai nói lời nào. Mãi Huyên lên tiếng trước:

-Xin lỗi bạn... suốt đời Huyên, Nhi là người Huyên thương quý nhất nên...

Uyển Nhi ngắt lời anh:

-Thôi anh, anh đừng nói chi hết. Do lỗi tôi, vì anh là đàn ông tình cảm khi mô cũng rộng rãi. Nhưng còn gia đình anh, chị Trâm và các cháu ngoan bên ấy. Tôi nghĩ chúng mình nên dừng lại. Kiếp này vô duyên, xin hẹn kiếp sau.

Huyên nhìn thẳng vào khuôn mặt tái xanh của Uyển Nhi, xúc động nói:

-Cám ơn Nhi, Huyên sẽ nghe theo lời bạn.

Vưà lúc đó Hạ Huyền bước ra xin phép cô và bác khách, được tới chơi nhà bạn chặp tối mới về. Huyên nhân dịp chào từ giã cháu gái dễ thương, tặng gói quà xinh xinh làm kỷ niệm cho Hạ Huyền. Huyên nói lớn:

-Cháu ở lại mạnh giỏi nghe. Ngày mai bác trở vô Sàigòn để về Mỹ, không biết tới khi mô thì gặp lại cháu.

Thiếu nữ đứng sững giữa nhà, la lên:

-Răng lạ rưá bác? Còn chuyện cả nhà mình sẽ đi núi thăm mộ ông bà nội, thăm lăng tẩm, thăm chùa... như bác đã hưá rồi mà!

Huyên không nhìn ai, chàng nói như phân bua:

-A, tại vì chừ bác sực nhớ ra đã lỡ có một cái hẹn business quan trọng trong Sàigòn, nên phải bay vô gấp để giải quyết với người ta. Thôi cháu à, quả đất tròn, bác cháu mình chi cũng còn lúc tái ngộ mà!

Nói xong Huyên đứng lên dang rộng hai cánh tay ôm cô cháu bé bỏng vào lòng. Chàng hôn lên mái tóc đen mượt thơm mùi bồ kết của Hạ Huyền. Anh chợt nhớ tới mấy đưá con gái cưng của mình, nước mắt Huyên bỗng rưng rưng tưởng chừng như mình sắp phải xa lià nó, cũng là đưá con ruột thịt của mình, mãi mãi. Thiếu nữ cũng mủi lòng. Hạ Huyền đỏ hoe hai mắt, cô rúc mãi vào lòng bác. Cô mới quen với ông bác, vưà thấy thân thương ghê lắm, thì nay bắt phải chia tay biểu sao không buồn. Cô ngước lên nhìn bác vưà tấm tức nói:

-Cháu biết bác về bên nớ là quên hết bên ni ngay mà!

Huyên trả lời cô bé nưả đùa nửa thật:

-Không bao giờ! Bác sẽ trở lại sống với Huế, mươi năm nưã khi về hưu. Nhưng cháu có nuôi bác già khi nớ không nà?

Thiếu nữ nước mắt lưng tròng nhưng miệng cười toe, nó hí hửng:

-Cháu hưá, sẽ cố sức học cho thiệt giỏi, nay mai đất nước giàu có, Huế hết nghèo khổ, bác về, cháu sẽ phụng dưỡng bác. Ô kê!?

Hai bác cháu cùng phá ra cười làm không khí trở nên vui tươi. Và họ cảm thấy cuộc đời sao vẫn còn hạnh phúc. Trong lúc đó, người cô cố làm vẻ tươi tỉnh nhìn hai bác cháu nói:

-Thôi bé đi mô thì nhớ mau về kẻo tối. Còn bác Huyên cũng sửa soạn thôi, đường từ đây lên Kim Long còn xa lắm...

Hạ Huyền ái ngại nhìn cô nó, thiếu nữ cảm thương người cô hết sức. Thế là mai bà sẽ giã biệt cố nhân, trở lại cảnh đời cô đơn như trước. Nó nghĩ thầm, mình là cô, chắc mình chết mất. Nhưng coi bộ cô vẫn tỉnh khô vô sự rứa hè?! Không lẽ khi người ta già rồi người ta trở nên khô khan tình cảm? Thiếu nữ đưa mắt tò mò lén quan sát hai người lớn. Ông bác đang dòm quanh nhà, chắc là để ghi khắc cảnh cũ người xưa vào trong tim. Cô bé còn thoáng bắt gặp nét nhìn đăm đắm của người cô theo dõi người bạn cũ. Hạ Huyền trầm ngâm thương cảm họ ghê. Nó lắc đầu rồi buộc miệng, răng đời chi mà lắm khổ lụy!

Trời sụp tối lúc nào không hay. Huyên bịn rịn đứng lên chào từ giã bạn lần nưã để lên đường. Giữa nhà một bóng đèn điện vàng vọt không đủ xua tan ánh chiều chập choạng tím sẫm đang lan tràn cả không gian một khối buồn sầu đến muốn khóc. Tối ám và câm nín như cuộc đời hiu hắt của Uyển Nhi. Hai người bắt tay nhau lần cuối. Bàn tay người đàn bà nhỏ nhoi đến tội nghiệp. Huyên vội vàng lên xe, cúi đầu đạp nhanh ra khỏi con ngõ hẹp. Uyển Nhi thẫn thờ quay bước trở vào căn nhà nhỏ quen thuộc, đưa tay khép chặt hai cánh cửa ọp ẹp.

Về đêm trời mát dịu, ngọn gió từ mé sông sau vườn xô lên thổi xào xạc đám tóc lá bụi mía trồng gần nhà. Người đàn bà cô đơn nghiêng vai quay hướng về phiá xôn xao cỏ cây ấy. Bà khẽ đưa bàn tay cô đơn sờ lên má lên môi mình... Hình như môi má bà còn ấm vì một nụ hôn.



San Jose, chớm lạnh mùa Halloween 1997



________________



*Ghi chú: Nơi chốn, tên tuổi trong truyện chỉ là giả tưởng-

Mọi sự trùng hợp xin xem là ngẫu nhiên



Excerpt from :

Hoàng hôn thôn Vỹ

Author : Phan Mộng Hoàn

PHAN MỘNG HOÀN - CHÍP CHI

CHÍP CHI

( Trong Hoàng hôn thôn Vỹ )


Riêng tặng các em Hồng Đức thương yêu của tôi.

Để tưởng nhớ Kim Hương đã ra đi





Hảo lấy chồng khá muộn màng. Trong khi bạn bè ai cũng con cái lớn khôn, có người sắp làm sui gia, nay mai lên chức bà. Chồng Hảo hiền lành, khỏe mạnh, thương yêu chìu chuộng vợ hết mực, nên gia đạo hạnh phúc. Khi Hảo về với Tom mọi sự trong ngoài phủ phê không thiếu thức gì.



Thỉnh thoảng Hảo mời các bạn đến nhà mình chơi, cùng nhau trỗ tài nấu nướng vài món ăn quê hương. Tom bận rộn đốt lò than ngoài sân làm BBQ, cho các ông chồng của những người bạn vợ nhắm rượu mạnh tán gẫu chuyện thời sự với mình. Trong bếp lũ bạn gái của Hảo tha hồ quậy, thi đua la hét nói cười như thử bầy bồ chao. Con cái của họ đều đã lớn hiếm khi theo chân bố mẹ, như lúc còn thơ dại, vì nay chúng còn lưá bạn trẻ sinh hoạt thích thú hơn. Chíp chi là con cưng của Tom Hảo thì khác, bao giờ cũng chỉ quanh quẩn trong nhà như 10 năm trước đây khi Tom chưa rước Hảo về làm vợ. Cậu bé ưa diện bộ cánh áo màu cỏ non pha thoáng chút phấn hồng. Mặt mũi cậu trái lại nghiêm trang, tính nết điềm đạm. Lúc nào tới nhà Hảo, Hạt Cát để ý thấy Chíp chi thích đủng đỉnh dạo bước như triết gia, đang trầm tư đeo đuổi ý tưởng xa xôi nào. Các bạn me Hảo lâu dần quen thân Chíp Chi, dì nào cũng đòi chụp hình riêng âu yếm với chú bé. Album của Hảo gắn đầy ảnh Chíp Chi nghiêng đầu cọ má các bạn lém lỉnh của mình. Cô nào cô nấy cố sức cho duyên dáng hơn bên cạnh Chíp Chi xinh trai. Nhìn đôi mắt long lanh biêng biếc ẩn sắc nâu nhạt của Chíp Chi, ánh nhìn trong sáng làm sao, khiến bạn Hằng Nga xinh đẹp cảm thấy thẹn thuà. Còn Trâm Anh kìa, cô ta ghé môi hôn mái tóc mượt của chú chàng ngó âu yếm chưa. Hồng Yến thì tròn mắt nghênh với vẻ nhu mì của nó. Minh Hà thon thả như con gái thì điệu ơi là điệu. Công chuá Nancy Lào uốn éo tấm thân cho bé bỏng cạnh hoàng tử nhỏ. Nàng Phương Anh xem ra đã nổi hứng dệt bao nhiêu vần thơ, trong hình cô ta mơ màng nhìn chàng trai nhỏ xinh. Riêng Hạt Cát chơi trội hơn, nâng Chíp Chi lên vai áo thêu ren loà xoà của cô ấy…Tôi ham kể mà quên giới thiệu rõ ràng con người của hoàng tử bé nhà Tom. Chíp Chi thực ra là …con chim nhỏ dòng họ Két. Tom cách đây 12 năm qua công tác ở xứ Hạ Uy Di, anh đã mua Chíp Chi về bầu bạn với mình. Tom độc thân nên từ lúc có con chim nhỏ khiến đời sống chàng trở nên hạnh phúc.



So với con người, Chíp Chi năm nay vào tuổi tri thiên mệnh, nên không lạ chi dáng vẻ ung dung chững chạc của nó. Hắn ta tỏ ra là anh hai của các cô bạn me Hảo còn xứng. Chíp Chi ưa đậu trên chao đèn pha lê treo giữa phòng khách. Cái đầu tròn xinh nghiêng ngó xuống những phụ nữ Á đông cở tuổi mình, nghĩ bụng sao họ còn lanh chanh như lũ trẻ thơ thế nhỉ, e rằng đang vào tuổi hồi xuân? Chú nhếch mép cười thương hại nhân thế trớ trêu. Hai bố con khắn khít như hình với bóng mỗi khi Tom có mặt ở nhà. Chíp chi liệng nhanh khi thoáng bóng Tom, ghé hai chân mảnh khảnh bám lên cổ áo bố rồi leo thoăn thoắt lên mái tóc đang thưa dần từ mấy năm nay của ông. Hắn đoán là từ lúc me Hảo xuất hiện. Ừ cũng phải thôi, vì làm sao khỏi ưu tư khi có nữ nhân trong nhà. Bao nhiêu điều phải lo toan mà! Vườn địa đàng há không xáo trộn từ lúc người đẹp Eva xuất hiện sao, nàng ta nhởn nhơ nũng nịu với chàng nguyên tổ của người ta đến nghiêng ngữa quả đất tội nghiệp.



Hạt Cát thích cùng bạn bè đến chơi nhà Hảo mỗi khi cô có dịp ghé tới thung lũng hoa vàng. Mục tiêu hấp dẫn là thăm… chim anh Tom. Có ai nghiêm chỉnh không rú lên cười khi gọi đùa thế. Cả bọn huyên náo chòng ghẹo, rượt bắt nhau thật hồn nhiên quanh khắp mảnh sân trồng đủ thứ hoa tươi cỏ lạ, đôi khi xéo lên luống hoa forget-me-not bé xinh tím rưng rức, những cánh mong manh ẩn mình dưới đám cỏ rậm. Nhưng không có ai dám hung hăng chạy nhảy trong nhà. Lý do trong ấy, nếu không cẩn thận sẽ dẫm đạp thằng con cưng của vợ chồng Tom, lỡ dại xảy ra tai nạn thì chỉ có nước bán đứt Cali mà trốn mất tăm dạng. Chíp Chi nhỏ bằng bàn tay, khi đi cao chỉ vừa ngón tay giữă của Hạt Cát. Cô ta đưa ngón tay miêu tả cho tôi như thế. Chàng trai lang thang bất kỳ xó xỉnh nào, tuổi đã lớn nó lười bay liệng, chỉ đủng đỉnh từng bước ra dáng trầm tư măc tưởng.



Đầu tháng 5 Cali nắng ấm, bổng thấy cô bạn nghệ sĩ từ xứ Úc xa xôi bất ngờ hiện ra, ghé tai vài cô bạn nói nhỏ, tụi mình tới nhà Hảo thăm chim anh Tom. Bạn bè thường nghe thế là ré lên cười khoái chí nhưng nay trông cô ta bản mặt dàu dàu thế kia nên họ chỉ im lặng hưởng ứng. Nhàn ‘cột nơ’ liền đem theo gói quà xinh xinh cho Chíp Chi. Cái túi vàng chanh thắt nơ màu diêm duá chưa, trong ấy chứa đầy nhóc những hạt kê thơm bùi, chắc chàng ta sẽ thích phải biết. Chíp Chi lịch sự chào các bạn me Hảo, gãi nhẹ cái mỏ cong cong vàng cứng vào mấy ngón tay Nancy. Dì ấy thiệt lắm chuyện lần nào tới cũng quà cáp linh tinh, tấm lòng dễ khiến người ta thương cảm. Cậu ta quan sát bầy bạn mẹ lần này thiếu mặt nhiều cô. Chíp chi nghiêng tai nghe họ lao xao mách khẽ, dì TA vương trọng bệnh. Hèn chi cậu thấy các bà bạn ‘không chịu già’ của me Hảo nét mặt ai cũng đăm chiêu thế nào. Dì Hạt Cát lí lắc nhất giờ quầng mắt đen thâm vì mất ngủ, đã qua nhiều đêm cô hoảng hốt tưởng tượng đến ngày chia xa biền biệt với bạn chí thân. Trông me Hảo phờ phạc quá, dang tay ôm các bạn vào lòng vì chợt thương cô bạn nhí nhảnh tươi xinh rồi đây sẽ bỏ bầy ra đi.



Tom ngồi yên lặng trong phòng khách. Chíp Chi sà xuống trên vai bố, rúc nhẹ cái mỏ cứng vào vành tai hồng hào của Tom cố ghẹo cho ông già cười. Bố hình như không để ý, im lìm suy tưởng chuyện gì. Chíp Chi liền nhớ ông Trần, chồng của dì Trâm Anh. Làm sao ông ta chịu đựng nổi gánh đau đớn đang đè nặng trĩu xuống thân xác trẻ trung của người bạn đời không lâu lắc chi sẽ hao mòn rũ liệt. Còn nhớ lần trước cặp dễ thương này đã chụp hình chung với cậu bé, hai người nâng Chíp Chi trìu mến còn chụm đầu vào nhau âu yếm. Nó lắc lắc đầu buồn bã. Cuộc đời vô thường, tất cả là phù du và mộng ảo. Nó lầm lũi bước lắc lư, tấm thân bé bỏng ngày thường giờ càng nhỏ nhoi hơn. Nơi góc tường treo chiếc lồng son chơ vơ, chốn nghỉ ngơi của nó. Chíp Chi chỉ thủng thẳng tìm về lúc căn nhà hoàn toàn yên lắng và bố mẹ đã vào phòng riêng của hai người. Nắng trong veo như mật ong rải xuống cảnh vật, ngoài vườn cây cối xanh tươi hớn hở là thế mà sao quanh chú bé không ai buồn nói cười. Đúng là ‘người buồn cảnh có vui đâu bao giờ’.



Chíp chi sinh trưởng từ miền hải đảo Hawai, bao quanh là trời mây bát ngát, bốn mùa biển xanh sóng biếc dập dồn. Hồi trai trẻ, chú sống với ông già hát dạo. Ông lão chết vợ từ lâu, ông ở vậy không tục huyền. Bà vợ gốc Trung hoa hiền lành, chăm chút hầu hạ ông rặt theo kiểu Á đông. Tara tên người nghệ sĩ dân bản xứ. Lúc qua Honolulu, Tom lần kia dạo phố vẩn vơ. Rồi anh đứng như chôn chân trước bức tranh sống động. Chân dung lão già ngồi dạo đàn dưới gốc dừa đẹp như tranh VanGogh. Khuôn mặt dài phong sương. Làn da vàng nghệ sậm nâu, từng lớp da cồm cộm chạy dài từ trán bao quanh xuống cằm. Đôi mắt lim dim, lấp lánh những tia riễu cợt. Tara chơi Tây Ban Cầm điêu luyện. Đôi cánh tay nổi gân xanh cuồn cuộn, đưa đẫy không biết mệt cây đàn bóng lộn. Những ngón tay múa lượn dẻo dai. Tiếng đàn ngân nga ảo não, đôi khi nấc lên xót xa, lúc thì dạt dào âm thanh của sóng biển mời gọi. Có lúc chuyển giọng reo vui, tiếng dây sắt ríu rít yêu đời… Khách tạt ngang lắng nghe từng đám, lại lãng đi, trước đó không quên ném vào chiếc mũ rơm vài đôla thưởng người nghệ sĩ tài hoa. Mũ rơm qua dăm tiếng đồng hồ coi bộ khẳm tiền, Tara không hề liếc nhìn. Tom dừng chân lại từ mấy giờ qua lắng tai thưởng thức, thỉnh thoảng bóng một chiếc lá màu lục non ửng hồng rơi nhẹ trên vai áo Tara, đó là con két tinh ranh, chú chim nhỏ lãnh phần kiểm mớ tiền khách tặng nghệ sĩ. Nó đậu xuống chiếc nón rơm chúi mỏ đếm tiền trông ngộ nghĩnh quá khiến mấy cô khách trẻ nổi hứng cho thêm đồng bạc xanh xếp gọn vào tận mỏ Chíp Chi.



Tom chờ ông già ngừng tay guitare dùng bữa ăn lunch, ghé ngồi gần để hỏi chuyện. Chíp Chi nghểnh mái đầu mượt lông tơ, đôi mắt tròn long lanh nhìn chủ. Tara cúi lượm chiếc mũ đầy tiền lên. Ông cẩn thận xếp những tờ giấy bạc, vuốt chúng thẳng nếp rồi bỏ vào túi áo trong đang mặc. Tara tâm sự với Tom, đánh đàn cố để dành có cái ăn vào muà vắng khách. Lão tâm sự, từ ngày bà vợ qua đời lão sống hẩm hút thiệt buồn nản, lo nhất là khi mình ra đi Chíp Chi sẽ mồ côi tội nghiệp. Tara thở dài, đưa tay vuốt nhẹ Chíp Chi. Con chim rúc mỏ vào bàn tay người cha già đang buồn bã, rỉa nhẹ từng ngón tay thuôn dài của người nhạc sĩ như cố ý ca ngợi bố già. Tom gợi ý, nếu Tara tin tưởng vào ông, Tom sẽ thay thế lão nuôi dưỡng chú bé. Ông lão ngần ngừ. Tom nói, anh còn ở lại đây tuần lễ, nếu đồng ý ngày cuối trước lúc rời hải đảo Tom sẽ đón Chíp Chi về Cali với mình.



Người chơi đàn ghi ta dạo thẩn thờ bước, bàn tay gầy cầm chặt quai chiếc lồng son nhốt con chim nhỏ đưa tiễn Tom ra cuối đoạn đường ông ta quen lui tới kiếm ăn. Trên taxi ra phi trường về lại Cali, Tom trân trọng nhận đứa con thân yêu của ông lão nghệ sĩ gửi gắm. Xe chạy rồi, chàng ngoái đầu lui nhìn, ngậm ngùi trông dáng cam phận của Tara. Cái mũ rơm chụp sâu xuống che khuất mái tóc điểm sương của người bạn tri âm. Tom chợt nghe tiếng hót thất thanh của Chíp Chi nấc lên…







Ngoài ấy nắng ấm. Tiếng chim vang lừng chào đón mùa xuân đã về từ hơn tháng nay. Tít trên cánh quạt trần nhà phòng khách, Chíp Chi nghiêng đầu nhìn ra kính cửa sổ trong suốt. Chú rạo rực khi thấy những cành tầm xuân vươn vai, ửng đầy sắc tím ngọt nồng. Chú bâng khuâng tưởng tiếc quê hương đã rời xa…Nơi miền hải đảo quanh năm ấm áp, bố Tara giờ này ra sao nhỉ, còn đi đánh đàn dạo không? Bố có lẽ già lắm và ắt hẵn có lúc nhớ đến thằng con bất hiếu này. Mỗi khi trời nắng và gió lao xao rung cành lá ngoài vườn là chú da diết nhớ nhà hơn lúc nào. Lâu rồi chú nghe me Hảo bàn với mấy bà bạn rũ nhau mùa nghỉ năm nay sẽ cùng đi tắm biển Honolulu. Chú tin là Tom thế nào chẳng ghé thăm bố Tara. Chụp hình chung cả nhà vây quanh ông lão nghệ sĩ đang chơi ghi ta, đem về khoe cho chú ngắm đỡ nhớ.



Làm sao chú quên được nơi ấy. Những trưa hè nắng lồng lộng, Tara tạm ngưng kiếm ăn và dắt chú dạo chơi một vòng thư dãn. Chíp chi ngất ngưởng trên vai bố, chú rúc mỏ vào mớ tóc dày của ông. Bóng cây Mưa hoa vàng đổ xuống lung linh nhảy nhót khắp nơi, chấp chới đậu sáng ngời trên tóc tai của bố con chú. Chíp chi nghiêng ngó nhìn. Phố xá linh động hơn vì giờ này các cô gái trẻ măng trong mảnh áo nghèo sặc sở đang tung tăng dạo bước. Có xứ sở nào dễ thương và hấp dẫn như Hawai không nhỉ? Tắm biển xong là các nàng mỹ nhân ngư cứ tự nhiên như thế trong hai mảnh vải đơn sơ. Các cô thoải mái dạo phố, đong đưa khoe tấm thân tuyệt vời duyên dáng của họ trước mắt nhìn của thiên hạ. Những hạt cát còn bám trên da thịt ửng màu nắng biển mạnh khoẻ của các cô nàng nữa kià. Trời trên cao trong xanh, ngoài xa khơi biển dâng màu tím huyền hoặc. Gió và nắng lao xao ca ngợi thiên nhiên huy hoàng.





Hảo vừa ra vườn hái vô một mớ nhánh lá học trò xanh tươi, lát nữa cô sẽ cắm vào chiếc bình pha lê, xen giữa những bông hoa lys trắng muốt, thêm vài cọng xanh mềm mại sao cho ẻo lả tạo nên đường nét lãng mạn. Rồi Hảo vô ý quên mất chuyện khép chặt cánh cửa lớn ra vào phòng khách. Chíp chi liền đáp xuống nền gạch hoa và lách vội người ra khỏi cửa để thoát ra sân trước. Chú nhớ Tara nên muốn khoảnh khắc sống lại không gian chất ngất nắng, lắng nghe lời gió thì thầm và cất giọng theo tiếng chim ríu rít như thuở nào bên trời xa xôi ấy…Chú sảng khoái hít sâu vào lồng ngực làn không khí trong lành. Chú thầm trách tại sao mấy lâu nay mình đã dại dột đánh mất niềm hạnh phúc dễ nắm bắt được trong tầm tay, sao mãi nhốt thân hoài trong chốn tù hãm như thế kia nhỉ?

Từng đợt gió từ đâu thổi tới, xô đuổi bóng lá hoa chập chờn hư ảo trên nền sân lát đá cẩm thạch. Bầu trời xanh bao la vài cụm mây trắng lững lờ trôi, gợi chú nỗi nhớ không nguôi về quê nhà biền biệt. Chíp chi ngẫng người ra lặng khóc. Những giọt nước mắt tưởng khô cạn từ hôm giã từ cha già thân yêu, nay ứa ra. Chú cúi đầu thổn thức. Bổng một bóng đen ập tới bên mình khiến Chíp chi hoảng hốt. Ngó trật lại, chú nhận ra đó là mụ mèo nhung đen nhà hàng xóm. Bằng phản ứng nhanh như cắt, con nhim nhỏ đập cánh bay vút lên, níu móng vuốt cặp chân mảnh khảnh của mình bám chặt vào cành cây phượng tím. Chú chưa kịp hoàn hồn đã thấy mụ Katty nanh ác rướn mình sãi đôi giò dài thận trọng bò lên thân cây Chíp chi vừa đậu tới… Chú ngó quanh định kêu cứu nhưng nào thấy bóng người thân. Tom giờ này đang bận ở sở làm, Hảo thì mải mê cắm hoa trong phòng khách nhỏ tít đằng sau bếp. Tình trạng này may ra chỉ có thân tự giải cứu thân mà thôi. Chú nghĩ thầm như thế và liền lập tức đập cánh lao xuống bụi cỏ lông chồn mọc ngay cửa ra vào. Con mèo đen bất ngờ trước động tác liều mạng của kẻ thù loắt choắt từ lâu nó đã rình rập quyết vồ cho được để nhai sống nuốt tươi. Mụ quay ngoắt mình lại và chồm chí tử vào bụi lông chồn đang rung động không ngớt. Mèo đen nắm chắc phần thắng, vì nó đinh ninh tên tiểu tử hẵn còn run sợ núp dưới đám cỏ lau này. Nhưng ngay giữa cái chớp mắt sinh tử ấy, Chíp chi đã vụt lạng người tới chân khe cánh cửa lớn để lọt nhanh vào phòng khách. Soạt một tiếng như trời gầm bóng mụ mèo hung dữ đâm sầm vô khung cửa sắt. Con mèo mun hằng ngày ăn uống no say phè phởn nên to cở con chó con thử hỏi làm sao mụ ta có thể nhào vô được khe hở bé chỉ vừa khít với thân hình nhỏ nhoi của Chíp chi?

Từ sau nhà Hảo chợt nghe có tiếng cửa đóng mạnh vẳng xuống, cô liền rảo chân lên phòng khách lớn. Hảo thấy lồng chim đang chao động và lạ chưa giờ này sao thằng con cưng lại chịu khó khép mình ở trong đó. Hảo ghé tới thăm chừng. Chíp chi lông lá xác xơ, dáng lảo đảo và ánh mắt thất thần nhìn cô chằm chặp. Hảo đưa mấy ngón tay ra cho con chim nhỏ nhảy lên, nhưng nó lùi lại run rẩy. Cô ngập ngừng một lúc rồi đưa tay khẽ nhấc Chíp chi lên. Chim nhỏ khụy xuống nằm im trong lòng tay me Hảo. Cô âu yếm nói chuyện với chú, hỏi han có chuyện chi xảy ra đã làm thằng con khác lạ? Chú két ngơ ngác ngó thẳng ra ngoài cửa lớn, Hảo nhìn theo hướng nó nhìn. Ngoài ấy chỉ thấy Katty hiền lành đang nằm dài ra trên sân đá sưởi nắng. Katty có bộ lông đen như nhung là mèo cưng quý của nhà bác Cave người láng giềng. Tom vẫn thích nựng nịu vuốt ve Katty, ông vốn quen thân nó đã hơn mươi năm nay. Hảo tiến sát gần cửa lớn, cô nhìn ra thoáng thấy vài cái lá hồng lục vương bên bụi cỏ lông chồn sao trông quen quen. Hảo ngó kỷ hơn, hình như đó là lông cánh của Chíp Chi rơi rải rác, Cô bất giác rùng mình. Hảo quan sát con chim két, nó vẫn còn run rẩy và nằm dí sát lòng bàn tay mình. Hảo đưa bàn tay rảnh vuốt ve Chíp chi nâng nó đứng dậy nhưng nó lại khuỵ xuống. Hảo hết hồn chợt thấy cẳng chân nó có vết sướt và rỉ máu đỏ. Cô nhìn gần hơn, thấy hình như một chân trái con chim nhỏ bị gảy. Hảo hoảng hốt nhấc điện thoại báo tin dữ cho Tom.



Tom vội vã rời xe đi nhanh vào nhà. Ông cúi đầu nhìn cẳng chân Chíp chi. Ông nâng nhẹ nó rời khỏi tay vợ rồi sau đó thả nó xuống trên nền nhà. Tom lùi xa một chút và huýt gió gọi nó đi tới gần mình. Chú két cố gắng bước, từng bước chân ngập ngừng và thì thọt tiến đến bố Tom. Ông thảng thốt kêu lên:

- Phải đưa con đến Dr. Chang ngay.

Chang là vị bác sĩ thú y bạn thân của Tom. Ông bác sĩ thú y gốc Taiwan mỉm cười hiền hậu xoa nắn đôi cẳng chân bé xíu bị thương của con chim két, Chang an ủi song thân Chíp chi:

-Vài hôm xương chân sẽ liền, nó sẽ sống lâu mạnh khỏe với ông bà.

Rồi ông đơn giản lấy ra một khúc tăm mảnh, dùng kéo cắt miếng băng dính nhỏ xinh cho vừa với kích cẳng chim. Chang tự tay mình nhẹ nhàng và tỉ mỉ quấn băng dính quanh cọng tăm bó sát chỗ bị gãy của chân Chíp chi. Ba người nhà Tom cám ơn và chào từ giã vị lương y ra về vui vẻ. Cô y tá trân trọng trao cho bà Tom tấm biên nhận trả tiền bác sĩ. Hảo sửng sốt đọc thấy: 80 đôla.

Cô lẩm bẩm một mình:

-Mắc quá! Biết rứa mình tự làm cũng được!

Hảo nhớ ngày xưa ở quê Kim Long, Hảo với lũ bạn nhóc trong xóm nghịch tinh chơi đùa, mấy thằng ranh con từng chữa lành cho chân cẳng con chim rột rột chúng bắt được từ trên tổ cao…cũng khác chi đốc tơ Chang làm với Chíp chi, ui cha dễ òm! Vậy mà tại răng mình không nhớ ra hè?





Phan Mộng Hoàn

Viết tại Burbank, tháng 5/2006 ấm áp



---------------------------------------

Hoàng hôn thôn Vỹ
Author : Phan Mộng Hoàn

23/7/11

PHAN MỘNG HOÀN -BÔNG HỒNG CHO AI

PHAN MỘNG HOÀN



BÔNG HỒNG CHO AI

( Truyện ngắn trong HOÀNG HÔN THÔN VỸ )



Giữa tháng 11 dương lịch trời mát mẻ dễ chịu. Hàng phượng vỹ dọc theo bờ sông Hương xanh mướt. Những cây phượng cổ thụ đứng bên nhau trong kia sân trường Đồng Khánh, thân cong queo màu nâu sậm, cành mang đầy trái già khẽ đong đưa theo gió chiều dạt dào vừa xô lên từ mé sông. Quỳnh lang thang mãi, bước loanh quanh theo dãy tường rêu phong ủ dột, suy tưởng vu vơ. Lần nào về tới Huế là chi anh cũng tìm đến thăm trường xưa.

Hôm nay nhằm ngày Chuá nhật nên cổng lớn đóng im ỉm. Anh lách người qua cánh cửa phụ để vào. Sân trường vắng tanh. Quỳnh đi thẳng đến cột cờ giữa sân, ngồi xuống bậc thềm cao nhất. Anh ngó mông bao quát khắp nơi. Bụi mimosa mọc trước văn phòng Giám thị um tùm xanh đậm, không thấy đâu những nụ vàng tròn xinh. Có lẽ mùa thu nên hoa trốn biệt? Đám cỏ dại mọc cao quá đầu người ở cuối sân dãy lớp gần préau. Khuất xa hơn, thấy lấp ló những bông lau trắng ngã nghiêng. Hành lang rẽ lên nhà chơi buồn bã, Quỳnh nghĩ có lẽ vì vắng bóng học trò. Ngày xưa anh nhớ nơi ấy có treo cái trống đại. Có lần Quỳnh đã cùng mấy tên bạn rắn mắt thách nhau đánh trống sớm hơn giờ bãi học một khắc đồng hồ. Kết quả nhà trường phát giác trò tinh nghịch ấy nên cả bọn bị phạt cấm túc ngày cuối tuần. Quỳnh hồi tưởng và cười ra tiếng một mình. Thời niên thiếu hồn nhiên sao mà hạnh phúc!

Chiều xuống đậm, ngày mau tối, anh uể oải rời trường. Người gác cổng lầm lì khoá hai vòng khoá cánh cửa gỗ màu nâu bạc thếch và tiễn khách. Quỳnh tần ngần rời bước tưởng như vừa đánh mất cả thời tuổi trẻ mới tìm lại được. Ngày ấy, một nửa trường con gái dành cho bên Khải Định mượn học tạm dãy lớp tay phải nằm sát đường Nguyễn Trường Tộ. Đó là tên con đường tình sử phân chia hai ngôi trường nam nữ lớn nhất cố đô. Lớp Quỳnh gồm có mươi nữ sinh học chung. Các cô để tóc dài cặp gọn sau tấm lưng thon. Cô nào cũng xinh tươi. Riêng anh từ lâu để ý người thiếu nữ có khuôn mặt bầu bĩnh, lúm đồng tiền tròn hoay một bên má. Mắt cô đen lánh xênh xếch dáng thuyền. Nhất là miệng cười mím chỉ vì cố che chiếc răng khểnh. Gần 40 năm trôi qua...nay không biết đám bạn ngày xưa ai còn ai mất?

Về thăm Huế lần này, Quỳnh đã liên lạc được mấy người bạn thiết cốt, Nguyễn Minh Thế, Bảo Lâm và Trần Văn Triết. Các bạn gái thì chưa tìm ra ai. Anh định sẽ cùng các bạn họp mặt cuối tuần này.

Quỳnh nhận thấy bầy bạn cũ nay ai trông cũng khác xưa. Anh may nhờ ra nước ngoài nên trông còn gọn gàng trẻ trung, mái tóc muối tiêu thưa thớt nhưng khéo săn sóc ngó vẫn chững chạc. Lâm lí lắc ngày xưa thì gầy nhom, da co lại màu tái sậm trông giống hệt tên “Tôn Ngộ Không” già! Nguyễn Minh Thế thư sinh trắng trẻo thuở nào chừ vác cái bụng Đổng Trác, cặp kính lão gọng nhựa nâu to sù sụ che đôi mắt vẫn lim dim riễu cợt như thời trai trẻ. Triết gia của lớp B1 vẫn là anh chàng lơ đãng nhìn trời mây không khác chi ngày ấy. Họ nhâm nhi chai rượu mạnh Quỳnh đã chịu khó mang từ bên kia về. Cả bọn nhậu lai rai, chuyện vãn hồi chặp trưa cho tới chiều mà chưa thấy chán. Thời gian trôi chầm chậm. Bóng tối thập thò ngoài khuôn vườn ngôi Từ đường nhà Quỳnh. Khu vườn được rào kín bằng hàng rào chè tàu cắt xén cẩn thận. Thế lè nhè lên tiếng:

-Thúy Vân của thằng Quỳnh chừ ra răng rứa mi?

Anh ngẫng mặt ra và nghĩ thầm, không biết mỹ nhân B1 nay ở đâu kià? Cô nàng là hoa khôi của cả Khải Định, nên lớp Quỳnh hãnh diện ghê lắm vì cô nàng. Diệm Thúy tức Thúy Vân lớp Quỳnh, vì nàng có“khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang” thêm dáng dấp ẻo lả thướt tha, đã khiến bao chàng trai hằm hè nhau chiếm đoạt tình cảm. Cuối cùng Quỳnh được lọt mắt xanh. Anh học giỏi, con nhà giàu lại đẹp trai, nên đã “ắt có và đủ” điều kiện để chiếm lĩnh trái tim người đẹp. Học cùng lớp từ lúc ngồi đệ tứ mà mãi năm sắp thi Tú tài Toàn phần hai người mới dám ra mặt cặp kè với thiên hạ. Những chiều xuân mát mẻ họ thường rủ nhau đạp xe lên ngắm mặt trời lặn trên Đồi Vọng Cảnh. Dòng sông Hương trải dài và uốn khúc mềm mại như một dải luạ óng ả. Làn nước trong xanh phản chiếu ánh mặt trời lấp lánh, pha thành sắc tím biếc lung linh. Gió chiều lồng lộng, thổi tung mái tóc nàng thơm mùi chùm kết quẹt khẽ lên má anh. Quỳnh làm sao quên được kỷ niệm tuyệt vời ấy. Những trưa hè nóng nực đôi bạn lại tìm lên Lăng Tự Đức, vừa ôn bài vừa hóng mát. Trước Thủy tạ Khiêm Lăng, hoa sen nở trắng xóa, điểm xuyết những đoá sen hồng thắm, hương tỏa nồng nàn. Hương hoa tung lên thơm ngát khiến đôi bạn ngây ngất như tình yêu thắm thiết của họ. Mùa thi năm ấy Quỳnh chiếm bảng vàng, hạng ưu. Người yêu không may thi rớt. Luôn hai kỳ thi, tên Tôn Nữ Diệm Thúy vắng bặt. Về sau, Quỳnh từ giã Huế vào thủ đô học ngành Y khoa. Từ đó đôi bạn xa nhau.

Tại sao nhỉ? Tại sao hai đứa lại chia tay? Quỳnh nghĩ ngợi mông lung. Anh buột miệng hỏi trống không:

-Diệm Thúy bây giờ ở đâu?

Không một ai lên tiếng. Mãi mới nghe Thế chua chát trả lời;

-Nghe đâu người ta trôi dạt vào Tourane sau khi tên Sở Khanh mô đó xa chạy cao bay!

Quỳnh tái mặt. Anh hỏi bạn nhỏ giọng:

-Cô ấy bây giờ ra sao?

-Có trời đất biết!

Con khỉ già cay độc trả lời. Một khoảng im lặng kéo dài như bóng tối đang chiếm hẳn không gian u uẩn. Buổi họp mặt bỗng mất vui. Mấy người bạn cũ không hẹn cùng đứng lên từ giã ra về. Anh ngồi sửng và không dưng nuối tiếc. Một thoáng hối hận vương vào tim khiến anh ray rứt. Quỳnh nhớ rõ từng nét một ngày ấy...

Sáng hôm trường yết bảng kết quả kỳ thi Tú tài Toàn phần. Anh và đám bạn trai thân thiết xúm xít bên gốc phượng già chờ tin. Rồi loa phóng thanh dóng dã hô tên người trúng tuyển kèm với thứ hạng. Tên Nguyễn Thế Quỳnh vang lên, ưu hạng! Bảo Lâm-Bình thứ. Nguyễn Minh Thế- hạng Thứ, Triết -Thứ. Bốn chàng Ngự Lâm pháo thủ ôm choàng nhau la hét ồn ào. Và dù sau đó dù lắng tai, họ cũng không nghe loa đọc đến tên Hoa khôi trường Khải Định. Hôm đó, Quỳnh nhớ rõ bọn anh còn nán lại trường chờ xem danh sách thí sinh trúng tuyển dán lên bảng thông cáo rõ ràng mới rủ nhau đi khao thưởng.

Thoạt tiên ở quán Chè Ga mỗi tên một ly chè đậu xanh đánh ngọt bùi to tổ bố, do Tôn Ngộ Không bao, rồi hăng máu kéo về Thượng Tứ vô tiệm Lạc Thành kéo ghế, lần này là Quỳnh hào hoa đãi. Sau đó còn lang thang thêm vài quán nữa cả bọn mới chịu rả đám. Say men chiến thắng suốt cả tuần lễ, Quỳnh vẫn chần chừ không dám ghé nhà bạn gái. Anh tế nhị sợ chạm phải nỗi đau của người không may mắn. “Tiếu tợ thư sinh lạc đệ thì”, huống chi với người đẹp mau nước mắt của anh! Ngày thường chỉ cần sơ ý mếch lòng là nàng đã tấm tức khóc dỗ hoài không chịu nín! Cho nên anh ngán hết sức phải đối diện nàng. Mấy tuần lễ sau đó, Quỳnh phải vào Sài Gòn. Ba má anh muốn con trai qúy của mình chuẩn bị kỹ càng cho kỳ thi vào trường Y khoa, chắc chắn là nhiều cam go gấp bội phần so với lần thi Tú tài đôi. Thời gian trôi đi cùng với cảnh đời liên tiếp xảy ra với bao biến cố dồn dập. Và thế là họ xa nhau hẳn. Cho đến bây giờ quay lại cố hương sau gần 40 mươi năm chia biệt, Quỳnh ngậm ngùi tưởng đến người xưa, một thời anh từng yêu dấu.

Quỳnh ngập ngừng trước cổng nhà cố nhân. Ngôi nhà cổ kính giờ ủ dột buồn bã, ẩn sau tấm bình phong đồ sộ che chắn khuôn viên kín đáo ngày xưa có cô Tôn Nữ xinh đẹp. Anh nhìn cây cổ thụ dềnh dàng che bóng mát cả con đường chạy ngang trước nhà người yêu. Anh nhớ ngày ấy mỗi lần đến đây đón nàng, Diệm Thúy thường nhờ anh trèo lên cây Ngọc lan ấy hái cho cô mấy chùm hoa trắng muốt. Những cánh Ngọc lan thơm ngát e ấp, có lần anh đã dắt lên mái tóc nàng. Bông hoa trắng xinh nổi bật hơn trên nền đen huyền ảo mớ tóc nàng Tôn Nữ yêu kiều. Hồi ức ấy khiến tim Quỳnh nhói buốt. Anh ray rứt vì tuổi trẻ của anh sao hời hợt đến thế. Chút phù vinh của mảnh bằng nhỏ ngày ấy sao đã vội khiến tình họ chia lìa! Sao mình lại có thể tệ hại đến thế nhỉ? Anh âm thầm tự trách móc và càng chua xót nhớ đến thuở tóc xanh khờ dại đã không dưng đánh mất người bạn gái đáng yêu.

Một cậu con trai mặt mũi sáng sũa ra đón Quỳnh khi nghe tiếng chuông gọi cửa. Cậu bé trả lời anh, chủ nhân bây giờ là người từ ngoài Bắc vào và gia đình người chủ trước đây nghe nói đã dời đi tỉnh khác từ lâu, trước thời 75. Quỳnh dò hỏi thêm cũng không được chút tin tức gì. Qua mấy hôm sau, tình cờ anh gặp người bạn gái học cùng lớp khi dạo phố Trần Hưng Đạo. Uyển Chi là bạn thân của Diệm Thúy. Người bạn này giờ đã là một bà già thiệt sự, tóc muối tiêu búi thành búi tó sau ót. Chị cho biết Diệm Thúy về sau là giáo viên Tiểu học, đã lập gia đình muộn với một bạn đồng nghiệp cùng trường. Họ có hai con với nhau, gần đây lại nghe nói người chồng của bạn ấy đã qua đời vì bạo bệnh. Sau biến cố Mậu Thân cả nhà hoảng loạn dời vào Đà Nẵng, nhà cũ giao cho người bà con trông nom, cuối cùng thì bán đứt cho người bà con khác gốc gác lớn ngoài kia vào. Bà bạn già ân cần cho anh chi tiết, nhà của Diệm Thúy bây giờ nghe đâu ở gần Sân Vận động thành phố.

Quỳnh nấn ná vài hôm ở Huế. Một mình thuê chiếc xe đạp lang thang lên thăm Đồi Vọng Cảnh bát ngát trời mây. Thăm lại Khiêm Lăng nhiều kỷ niệm khó quên với cố nhân. Muà Thu trời xứ Huế thổn thức mưa rơi. Từng giọt mưa thánh thót thấm ướt mái tóc Quỳnh. Mưa ướt nhòe trên trán anh, làm mắt anh như hoen lệ. Hay là anh đã khóc nhớ tuổi xanh, thương tiếc mối tình thơ dại đã vuột mất từ ngày bảng vàng yết tên anh? Mưa lướt thướt bay trên sân chầu Đại nội, chốn Hoàng Cung thênh thang vắng người. Anh đã trầm ngâm ngồi ngắm mưa bay và tưởng tiếc quá khứ hồn nhiên tuổi học trò, có lẽ đẹp nhất một đời người. Mưa Huế đầu mùa nhẹ nhàng hôn lên môi má người xưa đã trở về. Mưa thì thầm an ủi anh, ngày đã qua đi, đời sẽ trôi theo năm tháng còn lại, tiếc nuối và thương nhớ không nguôi chẳng ích lợi gì.



Qua tuần lễ cuối còn ở lại quê hương, Quỳnh tìm vô xứ Quảng.

Cùng chiều tối ngày 20 tháng 11. Ở góc con đường rẽ vào sân vận động thành phố, hình như thấp thoáng bóng một người đàn bà luống tuổi, nhẫn nại ngồi bán những bông hồng đỏ thắm cuối cùng. Từ trưa, đám học trò nhỏ lau nhau thỉnh thoảng ghé qua đây mua một bông hồng đem tặng cô giáo. Bông hồng bọc kín trong giấy bóng trong trẻo, bông hồng tươi đẹp hơn, long lanh vì mấy giọt nước mưa tình cờ rớt xuống đọng lại, như khóc thương cho cô giáo cô đơn, nay đã về hưu, sống âm thầm bên dòng đời náo nức.



Không một bông hồng nào dành cho cô.





Phan Mộng Hoàn

Viết sau khi về thăm Huế mùa mưa tháng 11-năm 2002

Phan Mộng Hoàn - BÓNG CHIỀU

BÓNG CHIỀU

( Truyện ngắn trích trong tác phẩm Hoàng hôn thôn Vỹ )






Thanh dạo bước mãi khúc đường nhỏ vắng vẻ. Con hẻm quen thuộc này ngày xưa anh vẫn lui tới hàng ngày. Đường vào Thành nội loanh quanh qua những xóm nhà ngói, bây giờ mái ngói nâu đã hoá ra màu xám buồn nên ngó càng ủ ê hơn. Dạo ấy anh đạp xe đạp như một quán tính. Lảo đảo lượn lờ vài khúc quanh nơi mấy gốc đa cổ thụ, rễ nổi lên chằng chịt khắp mặt đường, bò ngoằn ngoèo như thân rắn mốc thếch. Bánh xe chồm lên hụp xuống nhiều đợt như thế là tới. Nhà người ta nằm khuất sau hai hàng dâm bụt rậm rạp uốn nửa vòng tròn, dày những lá xanh đen, thỉnh thoảng nở ra trên đó dăm bông hoa đỏ chói, nhụy vàng hoe lí lắc mọc vươn ra lộ liễu. Mảnh sân lát gạch vuông đỏ óng hồi trước nay đổi màu bẩn thỉu, xỉn lại và nứt nẻ. Thanh chưa vào trong đó, anh còn đứng ngoài lộ, nhìn vào quan sát cảnh cũ và không thấy dáng ai. Đang là mùa đông bên kia, anh về nước sau đêm thức trắng cùng vợ con đón chào năm thứ nhất của đệ tam thiên niên kỷ. Sáng tinh mơ, Tâm đưa anh ra phi trường khi Los Angeles còn mờ sương và tiết trời êm ả mát lạnh. Vợ anh người Bắc kỳ 54, sống ở Nam lâu ngày từ lúc gia đình chị mới di cư. Bản tính vốn hiền lành, chị hiếm khi thắc mắc về mớ dĩ vãng mù sương của người chồng thích làm thơ. Suốt một đời chỉ biết loay hoay lo cho chồng con, chu đáo và yên lặng. Nếp nhà của họ không gợn sóng có lẽ nhờ Tâm vô tư hay đúng ra là nép mình hy sinh. Cuộc sống là thế. Thanh lẩm bẩm triết lý vụn một mình, trong hai người phải có một kẻ chịu nhún nhường thua thiệt, thế là đời êm. Khi quay về cố hương, anh gom cả tâm tình mong sẽ sống trọn vẹn với tình cảm thời trai trẻ. Và thuở ấy sóng gió biết chừng nào. Bao nhiên bài thơ của anh đã vương vất những bóng hình kiều diễm của Huế. Hồn anh trào dâng để ngợi ca dáng dấp yểu điệu nàng Quỳnh Uyển, làn tóc mơ mòng của người đẹp Yên Chi, nét môi nũng nịu cô nàng Xuân Miên và những mắt nhìn long lanh hàng chục giai nhân khác...Huế của anh là tất cả núi sông linh động ấy.

Cho tới buổi chiều thứ ba khi về Huế, anh quả quyết bước vào ngỏ ngôi nhà số 13 đường Âm Hồn. Thanh nhẹ gót điểm chân lên bậc tam cấp và đưa tay gõ lên cánh cửa gỗ lớn có lát kính, màu gỗ sơn loang lỗ, lớp sơn bong ra từng mảng. Dán mắt nhìn qua khuôn kính ố vàng anh ngó thấy sâu bên trong thấp thoáng những đồ đạc bằng gỗ âm u phủ lớp bụi mờ. Hình như không gian cũng già nua theo năm tháng. Bởi vì ngày ấy, căn nhà thênh thang, cửa nẻo luôn mở toang cho nắng sáng lòa tràn lấp vui tươi. Sập gụ nâu bóng lộn, trường kỷ chạm trổ hoa lá cầu kỳ, trên hàng cột gỗ lim đen ngời những câu đối hoành phi mạ vàng lấp lánh. Giữa phòng khách là bàn thờ tổ tiên đồ sộ chưng hoa tươi hái quanh vườn, cùng trái trăng mòng mọng thay đổi theo từng mùa. Thanh ngập ngừng gọi cửa lần thứ hai. Mãi mới nghe có tiếng người sai bảo. Rồi một chú bé trai loắt choắt từ đâu phía sau, nơi nhà ngang vụt chạy lên tiến ra mở cửa. Nó trố cặp mắt đen tròn như hai hòn bi nhìn khách. Anh hỏi:

-Đây có phải là nhà cụ Hường Phạm không?

Thằng bé lắc đầu thưa:

-Dạ con không biết, để con vào hỏi ngoại.

Thanh chờ. Anh quay ra ngắm vườn. Hàng nhãn phía sau xa nay già nua, cây nào cũng nổi lên những cục u và lá thưa thớt. Xa hơn ngăn cách với nhà hàng xóm là lũy tre xanh ngắt, cành mềm mại đong đưa theo gió chiều. Gần hơn, mấy cây mãng cầu ra lộc non trong veo lá xanh như ngọc. Giữa vườn nơi chiếc bể cạn bề thế, những cọng súng mảnh mai mọc vươn lên khỏi mặt nước lặng lờ, đang tươi cười nở những cánh hoa tím hồng. Thanh ngắm nghía những gộp đá xám sù sì xếp khéo léo thành hòn giả sơn gập ghềnh. Đây là chiếc cầu xinh xinh bắt qua con suối rì rào, kia là dáng trầm tư ông Lã Vọng đang ngồi câu cá. Cây tùng vặn vẹo đứng cạnh tháp chùa rêu phong có mái cong vút, anh như nghe vẳng lên mơ hồ hồi chuông đồng vọng. Thiên nhiên thu nhỏ này khiến anh mềm lòng. Hình như thời gian ngưng đọng nơi đây, anh ngẩn người nhớ tiếc mông lung.

Chú bé lon ton trở ra vòng tay lễ phép mời anh vào nhà. Trong nhà tối om dù chiều chưa tới. Thanh lần mò bước quanh theo lũ ghế bàn im lìm nơi phòng khách. Tuy không thấy chủ nhân đâu nhưng anh chợt nghe một giọng phụ nữ trầm đục khẽ khàng lên tiếng:

-Xin mời ông ngồi ạ. Dạ thưa, có phải ông muốn hỏi thăm cụ Hường? Nhưng thật không may, ông cụ chúng tôi đã mất từ mười năm trước!

Thanh quay đầu tìm kiếm. Một người đàn bà luống tuổi đang ngồi khum khum lưng trên bộ ngựa đặt cuối phòng. Anh thấy lập loè đốm lửa đỏ giữa lòng bà ta. Nhìn kỹ thì ra là than hồng đang âm ỉ cháy của chiếc lồng ấp. Huế mùa rét người già quen sưởi ấm bằng kiểu cách này. Nhìn cái lồng ấp Thanh chợt nhớ hồi còn bé tí, mỗi lần tay chân lạnh buốt vì hàng giờ mải mê chơi ngoài sân lạnh, anh lại chạy vào nhà để rúc vào lòng mẹ đòi hơi ấm. Me luôn ủ một trách lồng ấp ấm ơi là ấm, lớp than hồng tươi vui đỏ rực phủ hờ dưới làn tro xám nhạt. Thanh đã tinh nghịch lấy que củi khươi lên hòn lửa nhỏ xíu, rồi chúi mũi vào hít hà khoái trí. Nhiều bữa tóc tai Thanh khét lẹt vì bắt lửa mà cu cậu vẫn không chừa. Me mỉm cười âu yếm xoa bù mớ tóc tơ mềm mại của thằng con trai út cưng nhất nhà. Thanh ngửi mê mùi thơm và hơi ấm tỏa ra từ lớp áo len của me, vừa vòi vĩnh me cho bắp rang nhấm nháp. Thanh miên man nhớ về tuổi thơ dại... Chiếc lồng ấp là một cái nồi bằng đất sét nung già lửa, khi me vừa mới mua từ chợ Đông Ba về, Thanh nhớ nó có màu gạch cam tươi rói, chứa trong một cái giỏ đan bằng những thanh nan vót êm từ cật tre, xếp theo hình lưới xeo xéo và khuôn vừa khít cái nồi đất dáng bầu bầu. Lồng tre uốn thắt ở đáy nồi nhưng xòe ra vững chãi phía dưới chân đế. Me vẫn sai Thanh vào bếp tìm gắp những cục than đỏ rực bỏ vào nồi của lồng ấp. Cậu bé luôn đổ tro cũ đi và cẩn thận thay vào một lớp tro than mới khác, màu xám mịn. Sau đó gắp than chín đỏ vào, xong đâu đấy phải nhớ rải thêm lên trên mặt lượt tro mỏng để giữ cho lửa lâu tàn . Mùa đông xứ Huế lạnh căm nhưng tuyệt vời vì có chiếc lồng ấp, vì chảo bắp rang nóng hổi chờ đợi... Trời mưa trời gió tơi bời ngoài kia, trong nhà mình vẫn vui đùa sung sướng bên cạnh ba me và anh chị.

Thanh đến gần bộ phản. Và anh bước lùi lại. Trước mắt Thanh là bà cụ Thượng hay sao? Nhưng anh nhớ rõ mẹ của người ấy đã qua đời lâu rồi trước khi bọn Thanh leo lên bậc đại học mà! Thanh nghiêng mình tới cố nhìn cho rõ hơn. Anh thưa:

-Tôi là Thanh, Lê Kiêm Thanh từ xa về đây muốn hỏi thăm người thân nhà cụ Thượng Phạm ạ.

Chiếc lồng ấp bị đẫy ra xa, người đàn bà luống tuổi ngồi thẳng lưng dậy, ngẩng mặt nhìn chăm chăm vào ông khách. Anh sững sờ vì bà ta là người ấy. Thụy Mai của anh ngày xưa là đây, nhưng thoạt nhìn anh đã không thể nhận ra nàng. Vẻ ủ dột đan lên khuôn mặt thanh tú cô ấy những sợi chỉ mảnh hằn sâu quanh môi, nét trẻ trung không còn đâu nữa. Làn môi mọng chín đã bao lần anh tham lam tìm kiếm hương vị ngọt ngào nay khô héo. Thanh lắc lắc đầu, như cố xua đi nỗi đau vừa ập đến khiến nhói tim. Thanh hỏi:

-Thụy ... À... thưa bà, thưa chị, đã lâu quá bạn bè không gặp nhau. Chị và gia đình vẫn bình an ạ?

Bà già hay đúng hơn là Thụy Mai vội vàng rời khỏi bộ ngựa, rời chiếc lồng ấp, nhẹ nhàng bước ra chỗ đặt trường kỷ tiếp khách. Cô không trả lời câu thăm hỏi của khách, chỉ nói trống không:

-Đã hơn ba mươi năm ông mới về lại đây?

Thanh khe khẽ gật đầu. Không chờ bạn mời anh tự ngồi xuống chiếc đôn nhỏ đối diện người bạn gái cũ. Thanh nhìn quanh như để trấn tỉnh, anh thấy đồ đạc chưng trong phòng không thêm bớt chi nhiều, vẫn quen thuộc như xưa. Có khác chăng chỉ là người. Cụ Hường Phạm, chủ nhân đã khuất núi. Thanh đứng lên bước tới trước bàn thờ tổ tiên nhà nàng, thắp nén nhang mặc niệm. Qua làn khói hương ẻo lã, anh mơ hồ thấy lại hình ảnh phương phi của vị cử nhân cuối triều Nguyễn. Vị Hường lô này vốn là công chức hưu trí nhưng ngay sau đó phụ trách chứng chỉ Lịch Sử Triết Đông Phương ở Văn Khoa Huế. Anh là môn sinh tâm đắc của vị thầy khả kính họ Phạm. Lê Kim Thanh còn may mắn được cụ kết làm bạn vong niên. Hôm đầu tiên tìm đến nhà thầy để xin tra cứu tài liệu cho bài khảo luận về Văn học Nhà Trần; tủ sách Việt Hán của Giáo sư Phạm nổi tiếng với những sách qúy hiếm mà đôi khi ngay cả nơi Thư Viện lớn của Viện Đại học cũng không tìm thấy; Anh làm sao quên được “coup de foudre” hôm ấy.

Sau khóm tỉ muội trồng gần bễ cạn thấp thoáng dáng một thiếu nữ áo lụa vàng mơ, cô đang nghiêng đầu ngắm những nụ hoa trắng xinh vừa hé nở. Thanh không thấy rõ mặt nàng, nhưng đoán chắc là đẹp. Bởi vì mái tóc thề đen như mun nửa thả che chiếc lưng thon nửa hững hờ buông trước ngực khẻ gợn nét thanh xuân. Chừng ấy thôi đã khiến anh ngẩn ngơ hồn. Giữa lúc đó một con chó vện hung hăng từ đâu xông tới nhe nanh múa vút và gầm gừ trước chân Thanh. Anh hơi ơn ớn chú khuyển, kêu cứu người nhà nhốt chó. Cô gái rời khóm tỷ muội vội vàng chạy đến. Cô ta vòng tay ôm cổ con chó đang lồng lên xông vào đòi cắn khách. Tiếng cô suỵt suỵt con vện nghe vui tai. Rồi cô ngước mắt lên nhìn anh. Thanh chới với trước ánh mắt đen láy của thiếu nữ. Hương Giang khi nổi sóng e cũng không làm anh chao đảo như lúc nàng đăm đăm nhìn mình lúc ấy. Thanh khe khẽ chào. Anh hỏi:

-Giáo sư có ở nhà không ạ. Thưa chị, tôi là học trò của thầy, giáo sư có hẹn với tôi hôm nay đến lấy bài.

Cô gái mỉm cười. Thanh lần nữa xao xuyến. Trên đôi má phinh phính lúm xuống hai hạt gạo tròn xinh. Và nàng thỏ thẻ:

-Ba bận lên viện họp bất ngờ bữa ni. Nhưng ba dặn có anh sinh viên mô tới thì nói họ chờ ba về. Rứa ông là người nớ?

Thanh gật đầu. Cô gái đứng dậy nới tay giữ chó. Chú vện lại gầm gừ chưa chịu thân thiện với khách. Cô chủ liền mắng:

-Vện, im không! người quen mà!

Rồi cô lôi Vằn đi vừa quay lại nhìn anh, đưa tay chỉ vào nhà lớn:

-Mời ông, vô nhà ngồi chơi, chờ thầy về.

Thanh không vào nhà, đứng yên một chỗ nhìn theo “người đẹp và ác thú” đang tung tăng về cuối vườn cây. Anh thấy cô cúi xuống thầm thì với Vằn một lúc, sau đó cô cầm cây sào tre chọc chọc lên khóm cây ổi, có lẽ để tìm quả đãi khách (?) Anh cười thầm một mình. Thanh thấy trái tim mình đập rộn ràng. Thanh ngó trời, hôm nay sao xanh thế, mây trắng vờn bay, tiếng chim sẻ ríu rít khắp vườn. Thiếu nữ lát sau quay lại, hai tay ôm đầy một ôm cành ổi lẫn mươi trái ổi rám hồng. Cô tròn mắt vì thấy ông khách chưa chịu vô nhà. Cô lên tiếng:

-Xin lỗi ông, tôi quên đưa ông vào thư viện của thầy. Ba biểu, các ông khách trẻ là học trò phải đưa họ vào thư viện.

Nói xong cô ta xăm xăm dẫn lối. Thanh lần bước theo sau. Nhìn dáng thiếu nữ uyển chuyển. Hai bàn tay nàng bận ôm mớ trái trăng vòng ra đằng trước ngực. Mái tóc xõa xuống quá nửa lưng khẻ lệch một bên vì cô ta đi mà nghiêng nghiêng cái đầu nhỏ. Thanh mãi ngắm nàng nên suýt đâm sầm vào cô gái khi người đẹp chợt dừng lại bất ngờ nơi ngưỡng cửa phòng đọc sách. Thư viện tuy nhỏ nhưng quanh bốn bề là những kệ gỗ cao xếp đầy ắp những sách là sách. Không đợi mời, Thanh sà ngay vào ngăn bên trái đưa tay sờ gáy hàng sách cũ kỹ bìa được đóng bằng tay, kết bằng chỉ ngó thiệt công phu và quý giá hết sức. Thiếu nữ lặng lẽ rút lui như tôn trọng khách mê sách. Cô là con gái của vị thâm nho, nên cô từng hiểu rằng “Thư trung hữu mỹ nhân”.

Khi anh đang chăm chú đọc những trang chi chít của tập Văn học Thiền Tông, cô bé lỉnh kỉnh đem vào một tách trà nóng, cô đặt lên chiếc bàn nhỏ nơi góc phòng rồi quay ra ngay. Thanh chưa kịp cám ơn thì người đẹp đã mất dạng. Hương sen thoang thoảng bay lên, Thanh hớp chút nước trà thanh mà tưởng chừng như đang hít sâu vào buồng phổi hương sắc nàng. Sau đó anh tiếp tục làm việc quên cả thời gian. Mãi cho tới lúc mặt trời đứng bóng giáo sư Phạm mới trở về. Hai thầy trò bàn luận sôi nổi về chuyện gì trên trường đến quá giờ cơm trưa. Thiếu nữ xuất hiện mời:

-Thưa ba dùng cơm, và thưa ông...

Cô gái lễ phép quay qua người sinh viên:

-Vì không biết có khách để chuẩn bị nên cơm canh đơn sơ, xin lỗi ạ.

Cô ta tủm tỉm cười với giáo sư. Thanh luýnh quýnh vội đứng lên:

-Xin phép thầy cho con về. Con vô ý quá đã quấy rầy thầy và chị làm trễ giờ ăn, xin lỗi...

Vị giáo sư già phì cười trước vẻ bối rối ấy. Ông nói:

-Cậu ở lại dùng cơm mắm cơm ruốc với thầy cho có bạn nghe!

Thanh đỏ mặt vì cô gái cứ đứng đó nhìn như đợi anh trả lời để dọn ra bữa ăn. Anh gật đầu vừa lí nhí không rõ lời gì trong mồm. Thiếu nữ dăm phút sau lại quay vào phòng đọc sách, cô thưa là cơm canh đã sẵn sàng. Sau đó ba người ngồi xuống quanh cái bàn gỗ trắc đặt nơi phòng khách, trên đó bày một mâm mạ bạc có sắp mấy món rau dưa và thố cơm trắng đang bốc khói thơm mùi lá dứa đến gợi thèm. Anh cầm đũa và nâng chén:

-Xin mời thầy thời cơm.

Rồi hướng về cô gái, mặt Thanh đỏ bừng:

-Mời chị.

Cô bé cười khì đáp lễ:

-Không dám ạ! mời ...em!

Thầy Phạm trừng mắt mắng đứa con lí lắc:

-Thụy Mai không được giỡn hỗn! Nói năng cho đàng hoàng coi!

Thiếu nữ lý sự:

-Thì tại anh kêu con bằng chị mà!

Thanh lại đỏ mặt, nghĩ thầm con gái chi mà hung hăng...Anh cười nhẹ trả miếng:

-Cũng tại chị xưng tôi là ông.

-Rứa ông mấy tuổi rồi? Tui nghĩ là dám thua tui lắm?

Thầy Phạm tức cười trước hai người trẻ thoạt chưa quen đã gây gỗ, ông làm hòa:

-Cho hai người kết làm anh em là yên nhà lợi nước. Con Mai ban C, vài năm nữa lên Văn Khoa, ba nghĩ con là hàng em út của cậu Thanh, còn Thanh sang năm nữa mới ra trường, thôi thầy cho con làm sư huynh của Thụy Mai. Răng như rứa được chưa quý vị?

Họ như thế đã là tình thân sau buổi cơm được vị giáo sư già tuyên bố cho hai người kết làm anh em. Thời gian qua và tình cảm của Thanh-Mai càng đậm đà gắn bó. Khi Thụy Mai qua trường Quốc Học vào lớp đệ nhất cũng vừa lúc Thanh tốt nghiệp đại học. Anh nhận được sự vụ lệnh vào Quảng Nam phụ trách môn Triết lớp đệ nhất trường Trần Qúy Cáp. Hôm đưa tiễn Thanh lên sân ga xuôi vào xứ Quảng, Thụy Mai buồn rưng rưng nước mắt. Thế là từ đây cô không còn được nũng nịu với sư huynh, người anh kết nghiã luôn chìu chuộng cô. Dù không ai nói ra lời thệ ước, nhưng mỗi người đều thầm biết họ đã là của nhau. Một ngày không xa sẽ kết duyên giai ngẫu.

Dù hai người cách biệt nhau hơn trăm cây số ngàn đường chim bay, qua một con đèo bạt ngàn cỏ lau ngát xanh, qua ven bờ biển xôn xao sóng gió, nhưng tình họ vẫn gần trong gang tấc. Những lá thư xanh ngày càng đượm nồng và chất ngất niềm thương nỗi nhớ. Mỗi kỳ nghỉ lễ, Thanh vội vàng quay về Huế sống với ba me. Hằng ngày anh lui tới nhà giáo sư Phạm, để hàn huyên với vị tôn sư khả kính, nay mai sẽ là nhạc phụ, nhất là được quấn quýt bên người yêu xinh tươi. Gia đình đôi bên tuy chưa chính thức tổ chức lễ nghi đính ước, nhưng đã dự tính khi Thụy Mai tròn tuổi hai mươi vào sinh nhật lần tới. Tuy nhiên làng trên xóm dưới, họ hàng hai người đã mặc nhiên công nhận Thanh-Mai đã là của nhau.

Huế cỗ kính khắt khe đối với thứ tình cảm ngoài vòng lễ giáo, lại tỏ ra bao dung khi chứng kiến những đôi lứa yêu nhau trong sự bảo bọc của gia đình. Tình yêu của Thanh-Mai vì thế đã nở rộ như hoa mai ngày Tết, tươi thắm như sắc phượng mùa hè. Cố đô với biết bao phong cảnh hữu tình cho hai người tha hồ tìm đến để thề non hẹn biển. Những vòng nan hoa xe đạp loang loáng đưa đôi bạn rong chơi từ miền cát biển trắng xóa Thuận An, đến rừng thông Thiên An rạt rào mà yên tĩnh. Chùa chiền trầm mặc khi tìm đến làm cho tình họ thêm sâu lắng, lăng tẩm uy nghi giữa chốn núi non càng khiến tuổi trẻ của hai người nên thơ hơn...Đâu đâu cũng lưu dấu chân kỷ niệm khó phai của đôi lứa. Thời gian qua đi càng đong đầy tình cảm hai người. Cho nên sự xa cách người yêu khi Thanh quay về với nhiệm sở đã thôi thúc anh mong sớm đến ngày đám cưới để được chung sống không đứt đoạn với vị hôn thê đáng yêu.

Nhưng đến Tết năm sau không may mẹ của Thanh bất ngờ qua đời vì bệnh tim. Bởi chịu đại tang nên hai người không thể kết hôn như dự định vào mùa hè. Theo tục lệ nếu không cư tang ba năm, ít ra họ cũng phải đợi hết giỗ đầu. Cùng năm ấy, vào mùa thi Thanh được giao trọng trách làm Phó Chủ Khảo kỳ thi Tú Tài I ở Đà Nẵng, nên anh không trở lại Huế nghỉ hè suốt ba tháng như mọi năm. Sau đó thư từ cũng thưa thớt gửi về. Phần Thụy Mai, cô đang ráo riết lo chuẩn bị cho kỳ thi vào Sư Phạm Anh Văn, nên hằng tuần cô chỉ viết một thư ngắn cho chàng. Cô không cảm thấy việc nhận thư ngày một ít đi hoặc nếu không thì những lá thư xanh từ Hội An gửi ra cho cô hình như quá ngắn ngủi.

Mùa thu đến, Văn khoa Huế rộn rịp khai giảng, trường Sư phạm đón thêm cô sinh viên xinh tươi vào học. Thụy Mai yêu kiều nhưng đằm thắm thùy mị hơn bao giờ, đã khiến cho trái tim các chàng trai Văn khoa “Morin” thổn thức, muốn được làm quen, và tình nguyện đón đưa nàng. Nhưng thiếu nữ có vẻ xa vắng, hững hờ. Ánh mắt trong trẻo đôi khi thoáng chút đăm chiêu. Cô thích tìm ra bao lơn đứng một mình nhìn mông lung về phiá chân trời. Vệt núi Kim Phụng tím thẩm hơn trong ráng chiều lồng lộng, rọi xuống mặt nước Hương Giang gờn gợn sóng nhưng sao cô thấy im sửng và câm nín như lòng mình lúc ấy. Đã hai tháng qua Thụy Mai không có thư. Nhưng cô tự ái không viết gửi vào cho “ai” dù thời gian lúc này không còn bận rộn như trước kia nữa. Thụy Mai chờ đợi.

Mùa đông đến với gió lạnh căm căm. Trong khi hầu hết những bạn bè Văn Khoa của Mai nô nức tập dượt văn nghệ. Năm nay họ sẽ tham gia vào tổ chức ba đêm đại hội mừng Tết của toàn liên khoa đại học Huế. Thụy Mai dửng dưng, cô cảm thấy mình già nua giữa đám bạn bè trẻ trung. Cô sẽ tròn tuổi hăm mốt vào đầu mùa hè sắp tới, nhưng nay sao cuộc đời đã u ám? Chiều hôm qua, giáo sư Phạm tự dưng hỏi thăm con gái, bạn trai của cô năm nay có về quê ăn Tết không? Thụy Mai im lặng không biết trả lời sao với cha già. Mai bỏ đi ra vườn. Ngoài ấy, những cọng súng khô héo nằm gục xuống quăn queo từ lâu trong bể cạn. Khóm Tỷ muội không ra hoa và hiu hắt cành gầy. Cây ổi thì xơ xác lá. Xa xa rặng tre đứng buồn hiu. Không gian như lây vẻ phiền muộn cùng thiếu nữ. Giáo sư Phạm tinh ý nhận xét hai người trẻ thân yêu của ông hình như có sự gì không ổn đã xảy ra. Hè, vắng mặt cậu ta. Thư từ lại không có một chữ gửi thăm ai. Con gái cưng của ông trước kia yêu đời nhí nhảnh bao nhiêu nay âm thầm một bóng đi về. Không khí trong nhà trở nên ảm đạm. Giáo sư im lặng đợi chờ, nhưng mỗi ngày qua đi ông chỉ nhìn thấy vẻ ủ dột của Thụy Mai. Cứ thế mà dòng thời gian lặng lẽ trôi. Hè lại tới, Thụy Mai xin phép cha già vào Đà Nẵng ở chơi với người bạn gái đồng môn chừng tuần lễ. Bích Trâm là cô bạn Mai mới kết thân từ hồi hai người cùng đậu vào Sư phạm Anh văn. Quê ngoại Trâm ở đâu trong Hội An, ba má có cửa tiệm tạp hóa tại Chợ Hàn. Mai từ lâu ước ao du ngoạn cảnh chùa Non Nước, nổi tiếng với “Ngũ Phụng Tề Phi”. Luôn dịp sẽ thăm thú phố cổ Hội An. Từ thâm tâm Thụy Mai muốn tự tay “giải phẫu” cuộc tình của mình xem hư thực ra sao để đối phó. Phố Hội cũng là nơi chàng đang trú ngụ!

Đà Nẵng oi bức quá, chiều hôm đầu tiên tới đây, Trâm rũ Mai qua Sơn Chà tắm biển. Con gái Huế thường mắc cỡ đâu dám phơi bày thân hình lộ liễu trước mắt thiên hạ, nên Mai theo bạn sang đó chỉ để lang thang trên bờ ngắm cảnh hoàng hôn. Mây trời lớp lớp dồn dập từ núi xa kéo về, xây trùng điệp những thành quách hùng vỹ. Ánh mặt trời sắp giãy chết chiếu lộng lẫy muôn sắc huy hoàng, Mai muốn khóc trước cảnh thiên nhiên rực rỡ này. Sóng biển ầm ì, gió biển rạt rào thổi, Mai nép mình dưới gốc thùy dương nhìn đăm đăm ra khơi, nơi ấy một bóng hải âu đang soãi cánh, in lên nền trời nét buồn cô đơn. Bích Trâm ái ngại vì cảm thấy bạn mình hình như có tâm sự gì u uẩn. Nhưng cô không dám hỏi han. Trâm hiểu người Huế thường kín đáo. Và Trâm chỉ còn biết chờ đợi bạn chia xẻ tâm tình mà thôi.

Qua buổi sáng ngày thứ ba ở Đà Nẵng, đôi bạn rủ nhau đi ăn điểm tâm ở quán bánh bèo chén nổi tiếng góc trường Nam Tiểu học. Trong lúc Mai còn ngơ ngác tìm chỗ ngồi vì Bích Trâm bận ríu rít tay bắt mặt mừng với mấy cô bạn xứ Quảng. Nghe họ líu lo chuyện trò Mai không khỏi bật cười. Ở Huế, Bích Trâm ít át bao nhiêu thì nay rộn ràng liếng thoắng nói cười không dứt miệng. Trâm vẫn bị bạn bè tinh quái ngoài ấy chọc quê nhại theo giọng của cô nàng, nên Trâm đã quen im lặng, chỉ chúm chím cười nụ cho yên thân. Mai dành được một chiếc bàn còn trống. Từ góc này cô kín đáo quan sát mọi người trong quán, còn có thể ngắm cảnh vật ngoài cửa sổ. Một lúc sau Bích Trâm tìm đến với Mai, cô kéo theo chùm bạn ồn ào của mình. Ba người con gái trông mặt mày sáng sủa dễ coi. Họ nhìn Mai chằm chằm, có lẽ muốn phân tích phong cách con người cố đô, bạn của bạn họ. Mai đoán Bích Trâm chắc chắn đã ba hoa chích chòe quá lố về mình. Nếu không tại sao người ta lại săm soi nhìn ngắm Mai còn hơn xem xét trước khi mua một món hàng như thế. Trâm giới thiệu hai phe qua loa:

-Thụy Mai, bạn chí thân của tao ở ngoãi!

-Yến, Lan, Tuyết kết nghĩa với mình từ hồi Tiểu học lên hết Trung Học ở Faifo.

Mai nghiêng đầu duyên dáng chào và nói nhỏ:

-Mình nghe Trâm nhắc các chị mãi, nay mới hân hạnh được làm quen.

Thoáng thấy Trâm tròn mắt, vì hắn nghĩ thầm có khi nào mình nói chi với Mai về lũ bạn qủy sứ này đâu. Yến, cô gái đậm người, tóc cặp đuôi, thả dài lê thê. Cô ta có khuôn mặt tròn, làn da rám nắng màu bánh mật. Yến cười toe, láu táu nói một hồi:

-Chị là Thụy Mai, hoa khôi trường Văn Khoa phải không? Con Trâm khoe bạn bè ở Huế không hà! Phiá tụi tui thì tưởng hắn ra Huế học, tương lai là cô giáo đệ nhị cấp, quên hết trơn bạn bè, mô có thèm chơi với tụi này nữa!

Mai cười hiền lành và ân cần mời họ ra thăm Huế, Mai khoe nhà cô rộng rãi có thể tiếp đãi các bạn của Bích Trâm, vì nay tất cả sẽ là bạn Mai. Mọi người sau đó chia tay vui vẻ.

Trâm chưa cầm đũa ăn, nhìn Mai hoài rồi bật nói:

-Phải công nhận người Huế khéo léo quá chừng. Tụi nớ, hồi nãy nói chuyện ngoài sân có vẻ gờm Mai ghê lắm. Vậy mà chừ đã bị bạn “mua chuộc”.

Thấy Mai nhướng mày có vẻ thắc mắc, Trâm nói huỵch toẹt:

-Con Lan vừa méc với Trâm, ở Trần Qúy Cáp có ông Giáo sư Triết trẻ măng, người Huế cuả bạn, hấp dẫn lắm. Về dạy hai năm nay, y đã gây nên sóng gió và các “vòng tay học trò” đang săn đuổi anh thầy như điên!

Thụy Mai chợt thấy buốt tim, cô im lặng lắng nghe lời Trâm, cô ta hăng máu kể lể về thời sự nóng hổi ở Quảng Nam:

-Tụi nó phê bình dân Huế của bồ, xin lỗi nghe Thụy Mai, đàn ông Huế thì đễu cáng, con gái Huế ưa kiểu cách, yểu điệu thục nữ, làm ra vẻ qúy tộc... nhưng dù chi đi nữa cũng không địch nổi dân Faifo! Nhỏ Thúy, em con Lan đây nè, hiện đeo dính ông thầy. Nghe nói y đã có vợ sắp cưới, cô ta đẹp nữa kìa, thuộc cỡ hoa khôi lận đó, nhưng nay hình như xảy ra “accident” gì gì đó, húy tiếu lắm...nên coi bộ thầy giáo mình tắt thở tới nơi rồi!

Bích Trâm đang nói thì ngừng ngang, vì cô chợt thấy bạn mình tái xanh mặt mày như thể bị trúng gió. Trâm hốt hoảng vừa lục ví tìm lọ dầu Nhị Thiên đường vừa kêu bạn:

-Mai! có sao không? Ngồi yên Trâm xức dầu cho. Mai đừng làm mình sợ hỉ! Khỏe một chút là tụi mình về nghe.

Mai thương bạn, vì mình mà Trâm quýnh quáng cả lên. Trâm đón xích lô đưa bạn về nhà cho Mai nằm nghỉ. Tự dưng đang khoẻ mạnh Mai sinh ra yếu đuối như con cua lột thế kia làm sao Trâm không lo. Cô nhớ khi tiễn chân hai đứa ở bến xe An Lợi, ông cụ của Mai đã dặn Trâm phải ngó chừng con gái ông. “Từ lúc me nó mất, con Mai chưa hề xa nhà. Nó yếu đuối kiều nhược lắm!”

Mai kêu nhớ nhà, cô muốn rút ngắn chuyến du lịch này, nhưng trước lúc quay về Huế, Mai yêu cầu bạn cho mình sang viếng chùa Non Nước.

Hai người hai chiếc xe đạp, từ sáng sớm thong dong hướng về cầu De Lattres. Sông Hàn cuồn cuộn chảy dưới chân Mai. Dòng sông hung hãn xoáy quanh những trụ cầu thành những đám nước bọt ngầu lên trắng xóa, chứ không êm ả như sông Hương của cô. Ban mai nên trời mùa hè vẫn mát mẻ dễ chịu, lòng cô dịu xuống nỗi buồn bực không dưng dấy lên từ trưa hôm qua. Mai thầm trách mình, chưa chi đã nghĩ ngợi tào lao. Vô lẽ chỉ có người ấy là Giáo sư Triết. Vô lẽ không còn kẻ thứ hai nào khác nữa sao? Nhưng mà... mới về đó hai niên khóa, lại là người Huế, trẻ trung! Đầu óc Mai cứ thế mà xoay lung tung. Suy đoán, buộc tội rồi bênh vực. Bích Trâm nhìn bạn thẫn thờ mà càng thương Mai hơn. Người con gái Huế đáng yêu này trước đây, khi chưa vào thăm Đà Nẵng, lúc nào cũng liếng thoắng nói cười với mình, nay im lìm khép kín. Trâm không sao đoán ra nguyên cớ từ đâu.

Con đường lên núi với hàng trăm bậc đá xanh uốn éo quanh quất dẫn họ lên tới chùa trên. Hai người vừa leo lên núi vừa thở hổn hển. Gió núi mát lạnh. Mây trời trắng như bông bưởi sà xuống thấp, quanh Mai là hoa cỏ dại nở đầy những chùm tím phơn phớt. Cánh hoa mong manh nhụy đen thẫm. Những bông hoa xinh tươi bé bỏng nép mình bên gộp đá chênh vênh. Nắng hôn lên thêu những đốm long lanh cho loài hoa mộc mạc thêm nét kiều mị. Mai bâng khuâng nghĩ ngợi. Dưới kia cõi đời xao động những tranh chấp nhỏ nhen. Trên cao này mình bỗng thấy phiêu diêu vui thú, lòng nhẹ lâng lâng.

Khi từ Động Gió chui trở ra ngoài sân chùa nắng lóa, Mai chợt nhìn thấy trên vách đá dựng sừng sững mấy hàng chữ viết bằng sơn trắng. Nét bút nguệch ngoạc trông quen quen:

Tên em giấc ngủ ngoan hiền,

Nghìn sau mãi nhớ ưu phiền mình tôi...

MT



Cô tò mò đọc thấy gần đó những chữ ghi tắt quấn quýt vào nhau, thth, th2 Hè 62, rãi rắc khắp nơi và đều được lồng cẩn thận trong khuôn hình trái tim tròn trĩnh!

Họ là ai nhỉ? Lên đây thề non hẹn nước!









Đoạn kết



Năm 2000... Tách trà ướp sen nguội ngắt, hai tượng đá diện đối diện im lắng. Tiếng con tắc kè già cỗi lâu lâu chắt lưỡi từ trên kia rường nhà âm u vọng xuống âm thanh khàn đục nghe đến não nề. Ngọn đèn vàng vọt bật lên giữa phòng khách từ bao giờ. Thanh ngập ngừng đứng lên từ giã chủ nhân. Thụy Mai chợt tỉnh cơn mộng mị của gần 40 năm về trước. Cô khách sáo mời người bạn cũ ngày mai trở lại dùng bữa cơm hội ngộ. Ông khách bỗng tỉnh như sáo, vui vẻ nhận lời, xin hẹn hôm sau nữa sẽ cùng lên núi Ngự Bình thăm mộ thầy cũ.

Hai chiếc xích lô thong thả nối đuôi nhau chạy dọc theo bờ sông An Cựu. Con đường nhỏ gập ghềnh, nhiều đọan bị tróc lở nên xe chạy mà dằn xóc khách tưng bừng. Trưa Huế bát ngát xanh vì hàng cây phượng vỹ ven sông đong đưa những tàng lá che rợp bóng mát. Những đốm lửa đỏ rực, hoa phượng hớn hở cười vui trong nắng. Gió xôn xao kêu gọi lũ ve ngân nga điệp khúc hè về. Thanh nghiêng đầu vui thú ngắm đôi bướm chập chờn lượn bên bụi dâm bụt có mấy đóa hoa hé nụ đỏ thắm. Anh quay đầu nhìn những dây tơ hồng mảnh mai vương vất trên hàng rào chè tàu cắt vuông vắn của nhà ai bên kia đường. Trước hiên có chiếc bể cạn rêu phong, những gộp đá xếp hình non bộ ủ dột dưới nắng hè chói chang. Mái ngói buồn hiu giữa trưa hè yên lắng.

Khi xe chở Thanh rẻ trái để sắp sửa quẹo vô con đường dẫn lên dốc Nam Giao, anh ra hiệu cho chú xích lô trẻ dừng bên đường. Rồi anh bước xuống vẫy tay cho chiếc xe theo sau ngừng. Anh dúi vào tay anh xe xích lô ốm yếu một nắm bạc, tiền công hậu hĩ cho chuyến xe đi suốt hôm nay. Người phụ nữ luống tuổi, trông trẻ trung duyên dáng trong chiếc áo phin mỏng phơn phớt sắc lụa hồng, nổi bật trên chiếc quần xa tanh đen mượt. Thụy Mai ngơ ngác rời khỏi xe mình, ngập ngừng chờ đợi dưới gốc cây me cổ thụ mọc vươn lên từ mé sông. Thanh bước đến kề nàng, nói khẽ với Thụy Mai, chỉ cần một chiếc xe là đủ. Anh ngắm nghía Thụy Mai, cô ngó trẻ ra e đến chục tuổi. Chiếc nón lá mỏng tanh, in hai câu thơ lồng trong nắng khiến cho xinh tươi nhan sắc thuở ấy.

Thanh biểu chú xích lô đưa Thụy Mai đi trước, nhớ chờ anh ở đoạn đường ít dốc nhất. Còn Thanh bước nhanh một mình trên con đường Nam Giao thơ mộng, khi nắng trưa chưa “thắp nến lên hai hàng cây”. Anh dừng chân nơi một quán tranh nhỏ có bầy bán nhiều thứ trái cây muà hè. Anh mua hai chùm vải thiều đỏ thắm, mua mấy chùm nhãn lồng trái tròn cỡ ngón chân cái, rồi vội rảo chân theo bóng chiếc xe chở nàng đã mất hút trong tầm mắt. Anh bước gấp nhanh nhẹn như một chàng trai sung sức. Họ gặp nhau ở ngả ba Đàn Nam Giao.

Đám xe thồ, vừa xe đạp vừa xe gắn máy, đậu kín góc đường tranh nhau xông tới mời mọc Thanh. Nhưng anh lắc đầu, ra dấu cho Thụy Mai rời khỏi xích lô mà cô đang ngồi. Còn Thanh vội leo lên chiếc xe nãy giờ vẫn lẻo đẻo theo sau anh, và ngồi lùi sâu sát vào lưng ghế. Anh đưa mắt ngầm tỏ ý cho cô cùng chung chuyến xe với mình. Sợ thiên ha chung quanh dòm ngó, cô mắc cỡ đỏ bừng mặt bước lên theo. Nhưng cô chỉ ngồi ghé tận ngoài mép nệm xe. Chú xích lô rướn người cho xe chuyển bánh đi. Thụy Mai chúi xuống vì tư thế ngồi thiếu cân bằng. Thanh nhanh tay ôm ngang eo cô, lôi sát vào với mình. Thụy Mai run lẩy bẩy trước sự đụng chạm vô tình ấy. Thanh tỉnh táo như không có chuyện chi. Da thịt cô ấy nóng hổi còn hơn người bị sốt. Anh nghiêm mặt, nhưng trong bụng vui vẻ hết sức. Chiếc xe có trớn lao đi, đổ xuôi xuống con lộ nhỏ rợp bóng tre im mát.

Trưa hôm ấy thật tuyệt vời đối với anh khi được gần gũi với cố nhân, nhưng vô cùng khó chịu về phía Thụy Mai. Cô ngồi không yên, cứ trăn trở khiến cho Thanh cuối cùng chịu thua vì thấy tội nghiệp nàng. Cô ta suốt một đời phòng the lẻ bóng, biểu làm sao quen nổi với cảnh thân mật này. Thanh nói chú xích lô ghé vô quán nhỏ anh vừa thấy hiện ra bên đường, nơi có mấy bộ bàn ghế bằng gỗ tạp đặt giữa sân đất nện phẳng phiu.

Quán tranh núp dưới bóng một cây phượng vàng cổ thụ, lá xanh mơn mởn, những chùm hoa gầy guộc rung rinh cười trong nắng. Thụy Mai nhìn những nụ hoa vàng mơ đang vươn cành phượng mà nắng trưa thêu những đốm long lanh cho sắc vàng rực rỡ hơn bao giờ. Thanh nhìn theo hướng mắt nàng. Anh nói, ở bên mình, cả hai lọai hoa phượng, vàng hay đỏ đều mất hút, chỉ có phượng tím đẹp nhưng buồn lắm. Nếu muốn ngắm phượng đỏ, thì bay qua Honolulu. Miền biển này ấm áp nên phượng vỹ ra hoa đỏ thắm lộng lẫy, đẹp như phượng vỹ ngày xưa của Huế. Mai chợt thắc mắc:

-Rứa anh thấy chừ Huế hoa phượng buồn lắm sao?

Thanh trầm ngâm một lúc rồi nói:

-Không buồn nhưng khép kín hết sức. Ở xứ Hạ Uy Di, hoa phượng tươi cười cởi mở như tuổi đôi mươi!

Thanh nói vừa đăm đăm nhìn bạn. Thụy Mai đỏ bừng hai má. Cô ngó lơ chỗ khác, lên tiếng gọi với vào trong xin cho nước uống. Một bà lão tóc bạc phơ, chắc là chủ quán, thủng thẳng đem ra hai chai nước khoáng. Bây giờ ở đâu người ta cũng uống thứ nước này. Thanh hỏi quán có bia không? Bà già đem ra một chai bia Larue , có vẽ hình đầu cọp nhe nanh cười, đem thêm hai chiếc ly cao với xô nước đá. Anh xích lô ngồi ở góc xa góp chuyện, uống bia cần có đồ nhắm. Thanh cười lớn với anh bạn trẻ, rồi gọi thêm cho cậu ta chai bia con cọp, gọi thêm mấy con khô mực nướng. Anh hỏi:

-Chạy xe có sợ uống bia không?

-Da không, ăn thua chi bác, phải hơn chục chai may ra!

Buổi trưa ngọai ô êm đềm. Tiếng ve rang rang trên ngàn cây, làm Thanh ngây ngây lòng trí. Trong hơi men dâng lên, anh thì thầm nói:

-Bạn có buồn giận tôi không? Ngày xưa, tôi gây ra lầm lỗi nhiều với Huế. Tôi khiến cho thầy thất vọng... Thụy Mai, anh xin em tha thứ cho anh.

Thụy Mai im lặng, cau mày, trái tim thắt lại. Cô tưởng vết thương cũ khép kín, thành sẹo. Không ngờ nó càng làm cô đau đớn, phiền muộn hơn. Thanh cúi đầu tiếp tục nói như độc thoại:

-Tai sao hồi ấy tôi điên khùng đến thế, ngu muội như một lọai người kém hiểu biết nhất. Tôi tin ngay những lời láo khoét bịa đặt của người ta. Tất cả góp sức phá hỏng đời tôi. Không, hủy hoại đời chúng mình! nhất là với em! Nhưng tại sao hồi đó, khi tôi tìm về thăm thầy, thăm em, em tìm mọi cách xa lánh tôi? Bao năm bỏ Huế đi, tôi khắc khoải buồn nhớ tuổi trẻ, tôi ghét hận chính mình. Về sau...

Thụy Mai nhìn người yêu cũ. Tội nghiệp anh, mãi gần 40 năm sau anh mới “xưng tội”. Cô nhẹ nhàng hỏi:

-Về sau anh đã lập gia đình với người ta và sống cho đến bây giờ?

Thanh chợt ngẩng đầu lên, nghiêm khắc nhìn thẳng vào mặt nàng:

-Làm sao cô có thể tưởng rằng tôi điên đến độ phải lấy “họ”?

Thụy Mai nhướng mày như muốn hiểu rõ hơn sự tình. Thanh buồn rầu thở dài:

-Về sau, tôi xin chuyển vào Nam. Vì tôi không thể sống nổi với những con người cùng nơi chốn tráo trở, lừa lọc mình. Mười năm sau tôi gặp nhà tôi bây giờ. Cô ấy người Bắc kỳ di cư, sống ở Nam từ thuở bé, nên hiền ngoan, đơn giản. Chúng tôi có với nhau 3 đứa con, hai trai một gái. Đứa con gái tên Thụy Miên lấy chồng hai năm trước, qua năm sau cho chúng tôi con bé cháu ngọai, nó dễ thương lắm.

Kể đến đây Mai thấy mặt Thanh tươi tắn, anh nhìn đăm đăm về phía xa, nụ cười đậu mãi trên môi. Tim cô nhói buốt. Anh ấy đã có một tổ ấm, mình thật sự không có chỗ đứng nào trong lòng Thanh.

Chặp sau, Thanh như tỉnh mộng, cơn mộng dữ của gần 40 năm qua. Anh ngồi thẳng người, rút ví đưa cho cố nhân xem mấy tấm hình nhỏ. Thụy Mai cầm lấy, cô ngắm thấy trong tấm hình, một cô bé con mũm mĩm, xinh như búp bê, tóc nó loăn xoăn ngộ nghĩnh. Một chiếc hình chụp con bé tròn quay được ông ngọai nâng niu bế, bên Thanh, người phụ nữ tươi cười phúc hậu. Trông họ đẹp đôi lắm. Thụy Mai nén thở dài. Cô nói nhẹ như hơi thở:

-Chúc mừng anh hạnh phúc.

Thanh nhìn Thụy Mai trìu mến, phân bua:

-Có lẽ chúng mình không có duyên phận. Nhưng Mai cứ tin rằng, trong tôi không bao giờ phai mờ kỷ niệm đẹp của Huế, của chúng ta thuở ấy...



Buổi chiều hôm đó đôi bạn còn tìm lên thăm phần mộ thầy Phạm, chôn cất gần chùa Từ Hiếu. Ngôi mộ nằm dưới rặng thông xanh trên một ngọn đồi nhỏ. Trong khi Thụy Mai lo sắp hoa trái để cúng, anh dạo một vòng ngắm nhìn phong cảnh chung quanh. Chiều nay Thanh thấy lòng mình thanh thản. Khi anh quay trở về, Mai đang sì sụp lễ thầy. Anh đứng kề bên Mai, lòng không chút bợn nhơ. Họ là anh em kết nghĩa, từng thương mến quý trọng nhau. Nay anh tìm về, chuyện buồn xưa dứt bỏ...Qua làn nhang khói nghi ngút bay lên, Thanh mơ hồ tưởng thấy hình bóng người thầy cũ hiện về. Anh thầm thì cầu nguyện xin thầy luôn phù hộ cho người con gái yêu của thầy, giờ đơn chiếc sống một mình nơi chốn quê hương yêu dấu, luôn được bình an.

Trên đường quay về thành phố, chiếc xích lô băng băng chạy. Hai anh em ngồi gần nhau chuyện trò vui vẻ. Nhạc ve râm rang, gió chiều vi vu thổi, hoàng hôn dần xuống đẹp hơn bao giờ. Hoa phượng mỉm cười lấp ló trong đám lá xanh tươi.





Phan Mộng Hoàn

Viết xong khi vừa thăm Huế về. Hè 2001





____________________________________________





Đọc truyện ngắn “Bóng chiều” của Phan Mộng Hoàn



Nhà văn Phan Mộng Hoàn viết như vẽ tranh, gợi cho độc giả những hình ảnh kiều diễm với màu sắc rực rỡ long lanh của thiên nhiên sinh động, tỉnh vật nổi bật đặc trưng. Đọc truyện nầy, tôi có cảm tưởng như sống lại trên đất Huế, vào những ngày tháng an bình êm ấm cũ, của nhiều thập niên xa xưa trước.

Chuyện tình nhẹ nhàng, e ấp, lãng mạn mang nhiều “chất Huế”, đưa độc giả vào thương nhớ miên man của thời trái tim non nớt vừa mới biết xao xuyến đập nhịp yêu đương.

Chỉ cần đọc vài trang, độc giả cũng có thể đoán trước nhà văn nầy đã từng là giáo sư dạy văn chương của một thời.



Tràm Cà Mau





Hoàng hôn thôn Vỹ

Phan Mộng Hoàn