Quà Giáng Sinh
Mục sư Lữ Thành Kiến
24.12.2009 .
LTS: Đây là bài giảng Giáng Sinh mà Mục Sư Lữ Thành Kiến (tức nhà thơ Trần Nguyên Đán) đã giảng vào ngày Chúa Nhật (ngày 20 tháng 12) tại một Hội Thánh Báp Tít ở thành phố Atlanta và sẽ giảng cho Hội Thánh nhà ở Fort Worth, Dallas tối ngày 24 tháng 12. Vì tin rằng chủ trương Da Màu là văn chương không biên giới, Mục Sư đưa ý kiến rằng bài giảng “cũng là một thể loại mới cống hiến cho văn chương Da Màu, góp phần làm cho văn chưong Da Màu đa dạng hơn. Lâu lâu cũng nên cho độc giả Da Màu biết các ông Mục sư… giảng gì trong nhà thờ Tin lành.”
Nên bây giờ còn có ba điều này: đức tin, hy vọng, tình yêu thương. Nhưng điều trọng hơn trong ba điều đó là tình yêu thương. I Cô rinh tô 13:13
Biểu tượng của Ba Món Quà trong Thiên Chúa Giáo: Thánh Giá (Đức Tin), Mỏ Neo (Hy Vọng), và Trái Tim (Tình Yêu)
Giảng cho Giáng Sinh không dễ, vì người ta nghe quá nhiều rồi. Nhất là giảng cho một cử tọa không mấy ai đọc và tin Kinh Thánh. Thôi hãy nói một điều gì đó làm cho người ta vui và thích. Tôi nghĩ rằng sẽ đem đến đây cái gì mà người ta vui và thích.
Thích, nhưng thích cái gì? Tôi lại suy nghĩ, người ta thích cái gì trong đêm Giáng Sinh? Tôi đoán chắc người ta thích quà, người ta có thể không thích cái này cái kia, nhưng chắc không có ai không thích quà. Nếu người ta không thích quà, chắc mấy cửa hiệu của Mỹ phải khai bankrupcy hết. Cho nên tôi quyết định đem quà đến tặng cho mọi người.
Quà thì tốt, nhưng quà gì. Điều đó cũng làm tôi suy nghĩ. Cái gì ở Mỹ cũng dư thừa, nhất là hai món ăn mặc, ăn cả năm đủ thứ món, ăn nữa làm mập thêm. Còn mặc, áo quần chất đầy trong tủ, đủ mầu đủ kiểu. Cái gì vừa ngon vừa bổ vừa rẻ. Không có cái nào như vậy. Bổ và ngon thì nó phải mắc, làm sao rẻ được. Tôi sẽ kể một câu chuyện quà giáng sinh mà tôi rất thích. Một đứa bé muốn tặng quà giáng sinh cho những người thân, nhưng không có tiền, bèn nghĩ ra một cách. Nó lấy kéo cắt những cái thiệp màu mè rất đẹp và ghi vào đó những lời hứa. Với ba nó thì nó hứa suốt năm sẽ pha nước chanh cho Ba khi Ba đi làm về. Với mẹ nó hứa sẽ rửa chén sau khi ăn một năm. Với em gái nó hứa sẽ chỉ giúp Toán cho em mà không la mắng trọn năm….. Những người nhận được quà của nó đều rất vui vẻ, đó là món quà họ thích. Mà cũng tốt cho đứa bé, trong suốt năm, nó là một đứa con ngoan, một người chị tốt, học trò tốt, cháu nội tốt. Món quà tốt cho cả hai bên.
Tôi sẽ mang đến đây những món quà ngon bổ, mắc, rất mắc nhưng rất đặc biệt là hoàn toàn free. Nghe đến đây sẽ có người nghi ngờ. Có cái gì free là tốt? Mà cũng đâu có cái gì free? Người Mỹ hay nói free cái này cái kia nhưng thật ra chẳng có cái gì free. Quý vị nói đúng đấy. Gọi điện thoại số 1800 người ta nói free thật ra không phải, người gọi free thôi chứ người nhận phải trả tiền, chúng ta thấy có những cái bì thư gửi kèm cho mình không phải dán tem, thật ra người nhận phải trả.
Tôi có ba món quà đem từ Texas đến tặng cho quý vị. Ba món quà này là ba món quà rất giá trị, giá trị nhất, giá trị lớn đến nỗi Kinh Thánh đã nhắc đến trong một câu: Nên bây giờ còn có ba điều này: đức tin, hy vọng, tình yêu. Nhưng điều quan trọng hơn là tình yêu. Khi Chúa Jesus giáng sinh xuống trần gian Ngài đã mang đến cho thế gian ba món quà vô giá này. Điều kỳ diệu nhất của ba món quà này là free. Cho không.
MÓN QUÀ SỐ 1: NIỀM TIN
Đây là món quà thứ nhất có tên niềm tin, có thể gọi là đức tin. Chữ này là một chữ không lạ gì với con người. Từ trong nguyên tri, sự hiểu biết ban đầu của con người, thì thế giới có một cái gì khác hơn chỉ là con người, cái khác đó là một thế lực vô hình. Người ta tin rằng ngoài con người hữu hình còn có một ảnh hưởng vô hình nữa, là thần linh, là ma quỷ, những đấng này có quyền năng lớn hơn con người, có thể chi phối con người, trừng phạt con người, hành hạ con người. Ngày xưa khi con người chưa sống đông đúc có đoàn thể như hôm nay, còn sống riêng lẻ trong các bộ tộc, trong rừng núi, người ta rất sợ hãi thiên nhiên, và bất cứ một tác động nào của thiên nhiên cũng là một cái gì đó rất thiêng liêng phải tôn thờ, người ta thờ rất nhiều thần, thần sấm thần sét thần mưa thần gió, thần núi thần sông thần biển, thờ các vị này, như Việt Nam có tục thờ hà bá, là thần sông, bên Tàu ngày xưa còn có lệ mỗi năm phải đem một người con gái còn trinh tiết đến làm lễ tế hà bá rồi xô xuống sông. Người dân quê Việt Nam còn có thần cây đa, có miếu thờ thần cây đa, thậm chí cây cối cũng trở thành thần. Người ta tin rằng hễ người chết là thiêng liêng, dù có thể là lúc còn sống chẳng ai coi ra gì, như tại một làng kia có đền thờ thần ăn trộm (có thật), chẳng qua là vì có một tên ăn trộm bị dân làng đánh chết, mà lại chết vào giờ thiêng, nên thành thần, không biết ông thần này có dạy lại nghề ăn trộm không. Cũng như vậy, cha mẹ khi còn sống bị con cái hất hủi, đưa vô nhà dưỡng lão cả mấy tháng không thèm ghé thăm nhưng khi cha mẹ qua đời thì làm giỗ to, khi cần làm ăn buôn bán thì vái cha mẹ sống khôn thác thiêng về phù hộ cho con buôn may bán đắt. Người ta thậm chí thờ những con vật, Ấn độ thờ bò cái, Việt Nam làm nghề chài lưới còn có thờ cá voi nữa. Người ta tin những chuyện không ai biết như coi bói. Bà thầy phán tốt thì về ăn ngon ngủ yên bà thầy phán xấu thì về mất ăn mất ngủ, nhiều khi thầy lợi dụng thân chủ yếu bóng vía phải làm cái này cái kia, bỏ tiền ra cúng bái cho thầy này nọ thì tai qua nạn khỏi. Ngay cả những người này cũng có biết gì về chính họ trong tương lai đâu, phải vậy không? Niềm tin phát triển đến độ thành mê tín, cất nhà phải coi ngày tháng tốt, cưới cũng coi ngày tháng tốt (bên Mỹ không có ngày nào tốt cho đám cưới hơn là ngày thứ bảy), nhiều người bây giờ còn tin việc xuất hành đầu năm ra ngõ gặp gái là xui, các vị đàn ông trên 40 rồi ra ngõ gặp gái trở thành hên đấy, cầu cho có mà gặp, không gặp lại kêu xui, cũng tùy người thôi. Nếu người ta không tin những điều này nữa thì các thầy bói, thầy cúng thầy địa lý… thảy đều bị laid off hết (tôi xin lỗi nếu ở đây có người làm nghề đó) Ngày xưa chính người dân Việt Nam mình cũng cười cợt những điều này kia mà: hòn đất mà biết nói năng, thì thầy địa lý hàm răng chẳng còn (bị vả miệng rụng răng) Một thầy bói phán: nhà cô không giàu thì nghèo, ba mươi tết có thịt treo trong nhà, nhà cô có mẹ có cha, mẹ cô đàn bà cha cô đàn ông, số cô có vợ có chồng sanh con đầu lòng chẳng gái thì trai. Toàn nói chuyện huề vốn.
Trong khi đó có một điều đáng tin, thì người ta lại không tin. Đêm 24/12 hàng năm đã trở thành một đêm vĩ đại nhất trên toàn thế giới, không phải chỉ tại Mỹ là quốc gia theo Chúa, ngay cả các nước vô thần cộng sản, hãy xem, ngày nay Trung Quốc tổ chức lễ Giáng Sinh còn lớn hơn nhiều quốc gia theo Chúa khác. Còn Việt Nam, có vô thần không, không, ngày nay Giáng Sinh đã trở thành một lễ hội lớn. Các quốc gia theo Hồi giáo, thậm chí những quốc gia mà người ta khi nghe đều lắc đầu sợ hãi như Iran, Iraq, Afganistan, Indonesia cũng đều tổ chức Giáng Sinh rầm rộ. Mà Giáng Sinh là cái gì, nói đơn giản, đó là ngày sinh ra đời của một người có tên là Jesus. Kinh Thánh ghi lại sự kiện Giáng Sinh của Ngài.
Chúa Jesus nói rằng Ngài là đường đi chân lý và sự sống… Ba chữ này là một bản tóm tắt nói lên hết ý nghĩa của sự giáng sinh của Chúa. Chúa là chân lý, chân lý là một điều xác thực hoàn toàn đúng đắn. Chúa Jesus đã đem đến cho con người một chân lý hoàn toàn đúng đắn để người ta có thể dựa vào chân lý đó để sống. Ngài là đường đi, được hiểu nhiều nghĩa, một nghĩa là con đường mà chúng ta phải đi mỗi ngày, phải đi cho đúng, là một mục đích con người cần có, để khỏi đi lạc, sự sống có nghĩa là trong Chúa có một sự sống ý nghĩa, sống thật, sống khỏe, sống vui, sống đời đời.
Không ai trên cuộc đời này sống mà không có một niềm tin nào cả. Dù cho người ta nói mình không tin cái gì, người ta vẫn có cái để tin, chẳng hạn như người cộng sản nói là họ vô thần, không tin thần thánh, thì chính họ cũng có thần thánh để tôn thờ đó thôi, chính là những lãnh tụ mà họ tôn thờ, những lãnh tụ này khi còn thời thì được tung hô, khi hết thời thì bị hạ bệ, như Lê nin của Nga bây giờ đã bị người ta đem ra khỏi lăng mộ mà chôn cách bình thường, còn Saddam Hussen một thời … Vấn đề là người ta có tin đúng hay không.
Đời sống con người thật ra có mục đích rõ ràng mà Trời đã định, nhưng chẳng mấy ai chịu nghe lời Trời dạy để sống cho đúng. Con người sống như kiểu sống qua ngày, survive, sống sót, ăn, rồi ngủ, ngủ dậy thì ăn, rồi đi làm, gọi là đi cày (tại vì khổ quá, người ta cũng biết là khổ). Mua nhà cho lớn trả không nổi bị kéo, mua xe cho xịn tối ngày cứ trùm mền chiếc xe không dám lái, có tiền không dám xài cất dưới gối bị ăn trộm nó lấy mất hết. Già sanh bệnh bị con hất hủi thì than thân trách phận, nói chung là khổ. Bởi vì chúng ta không có mục đích sống rõ ràng, không biết sống đúng mục đích rõ ràng. Tôi muốn tặng cho quý vị món quà niềm tin này, tin vào Chúa Jesus, đời sống quý vị sẽ có mục đích rõ ràng, sống đúng sống vui sống khoẻ sống ý nghĩa.
Chúa Jesus có thể đáp ứng tất cả những nhu cầu đó của con người. Điều kiện để nhận món quà này rất đơn giản, nhận biết mình có nhu cầu, cần nhu cầu, và chỉ có Chúa Jesus mới giải quyết được những nhu cầu đó, bằng đức tin, tiếp nhận Chúa làm Chúa của mình, bằng cách cầu nguyện mời Ngài vào lòng, như lời Ngài nói: ai tin ta thì ta sẽ ban cho quyền phép trở nên con cái của Đức Chúa Trời
MÓN QUÀ SỐ 2: HY VỌNG
Món quà số 2 có tên là Hy Vọng. Người ta định nghĩa chữ Hy Vọng một cách văn chương là: Hy Vọng là điều giúp chúng ta không chết khi chúng ta Tuyệt Vọng. Hy Vọng giúp chúng ta sống vui vẻ hơn là khi chúng ta không có một hy vọng nào cả. Đây là một ly nước. Quý vị thấy ly nước này thế nào. Người sẽ nói có nửa ly nước thôi sao, người sẽ nói ồ có được nửa ly nước rồi. Hai lời nói rất khác nhau. Người nói câu thứ nhất cho thấy là một người thất vọng, tôi muốn một ly đầy, mà chỉ có nửa ly thôi hả. Người thứ hai là một người hy vọng, tôi chỉ mong có nước uống, nửa ly nước là tốt, có còn hơn không. Hai lời nói này cũng sẽ ảnh hưởng trên cách sống của người đó, một người quạu quọ không bằng lòng, một người vui vẻ cởi mở hài lòng. Khuôn mặt hai người cũng khác nhau. Một khuôn mặt nhăn nhó dĩ nhiên là xấu, một khuôn mặt tươi cười dĩ nhiên là đẹp. Cười là đẹp. Nhăn là xấu, đó là quan niệm của tôi. Không ai muốn mình nhăn, không ai thích mình xấu, ai cũng muốn mình vui, ai cũng muốn mình đẹp, dù là đẹp lão. Người Việt Nam có một chữ rất hay là còn nước còn tát.
Cách đây khoảng 30 năm, khi những người dân Việt Nam lìa bỏ quê hương trên những chiếc tàu, thậm chí những chiếc ghe mong manh chỉ dùng để đánh cá ven biển, chưa bao giờ ra khơi xa, nhiều người kể lại họ đã lênh đênh trên biển nhiều ngày, thậm chí cả tháng, hầu như hoàn toàn tuyệt vọng, nhưng người lái tàu vẫn bám víu hy vọng, cầu nguyện một Đấng tối cao giúp đỡ, cố gắng hết sức mình giữ con thuyền cho đến khi cập đất liền hay gặp tàu vớt. Tình trạng vượt biên cũng chia lìa gia đình, chồng vợ, cha mẹ, con cái, nhưng họ nuôi một hy vọng là ngày nào đó sẽ đoàn tụ. Hy vọng đó giúp họ sống chờ đợi.
Những người đau yếu bệnh tật nặng nề, có khi nằm trong nhà thương, bác sĩ y tá mỗi ngày đến thuốc men, nhưng cũng có khi nói những lời an ủi khích lệ giúp cho bệnh nhân có hy vọng chờ đợi, chẳng hạn những câu nói you will be all right, you will be fine thật ra nhiều khi chỉ là lời nói an ủi, nhưng ít ra cũng nhen nhúm chút hy vọng nào đó cho bệnh nhân để họ còn chiến đấu với căn bệnh. Buông xuôi là chết sớm. Tôi có đọc một câu chuyện cảm động đã lâu rồi nhưng muốn kể lại cho quý vị nghe. Có hai bệnh nhân bệnh nặng nằm chung nhau trong một phòng bệnh viện, nặng đến nỗi không di chuyển được, chỉ nằm thôi, người nằm gần cửa sổ, người kia không, ngăn cách nhau bởi một tấm màn. Mỗi buổi sáng, người nằm gần cửa sổ hay kể cho người kia nghe về những gì ông ta thấy được qua khung cửa sổ, nào là trời mây, chim bay, cây cối, con người qua lại. Những chuyện kể rất sinh động, vui thú làm cho hai bệnh nhân thấy phấn khởi vui vẻ hơn, thấy đời đáng sống hơn, và cố gắng chống chọi với căn bệnh nan y của mình. Ngày kia người bệnh nhân nằm gần cửa sổ qua đời. Người kia cảm thấy rất buồn, ông xin y tá cho ông di chuyển qua cái giường người kia nằm, gần cửa sổ, có một bức màn. Ngay buổi sáng đầu tiên, người bệnh háo hức yêu cầu y tá vén bức màn cửa sổ ra để có thể nhìn thấy mọi vật bên ngoài. Người y tá ngạc nhiên nói: đâu có cửa sổ nào đâu, chỉ là một bức vách kín mít thôi mà. Thì ra….
Trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta đối đầu với biết bao lo lắng. Nhất là trong thời kỳ kinh tế suy sụp hiện nay, nhiều người bị mất việc làm, mất việc làm kéo theo việc mất nhà, việc mất nhà có thể kéo theo việc mất vợ. Mất nhiều điều quan trọng trong cuộc đời mình. Nhiều người mất nhiều quá chịu không nổi thì tự tử luôn. Từ lúc kinh tế suy sụp đến giờ có nhiều người tự tử rồi. Mọi người nhìn cuộc sống bằng đôi mắt bi quan, lo lắng, hay than thở (vừa quạt than vừa thở nghe ngột ngạt quá), đem những cái mỏ than ở Việt Nam qua đến Mỹ, mặt lúc nào cũng buồn, mặt buồn quá thì ảnh hưởng bao tử bên trong, bệnh bao tử là bệnh của sự lo âu quá đáng. Bệnh bao tử nếu để lâu không chữa sẽ bị loét. từ loét đến ung thư là rất gần. Chỉ vì kinh tế suy sụp mà tôi bị ung thư bao tử chăng. Có ai trong quý vị đến đây hôm nay mà vẫn cảm thấy lo lắng, bi quan, mặt mũi u sầu chăng. Đừng lo, tôi sẽ tặng cho quý vị một món quà, một loại thuốc chữa bệnh lo lắng đau bao tử, món quà tên là Hy Vọng.
Thật ra món quà này không phải của tôi, của một người nhờ tôi mang đến, người đó tên là Jesus, đã giáng sinh cách đây hơn 2000 năm, và đã đem Hy Vọng đến cho hàng tỉ người trên thế giới giúp họ sống khỏe sống vui sống mạnh dù ở trong bất cứ hoàn cảnh nào. Khi Chúa Jesus giáng sinh, các thiên sứ đã làm hai điều, thứ nhất là nói với những người chăn chiên: này ta báo cho các ngươi một tin lành, sẽ là một sự vui mừng lớn cho muôn dân, ấy là hôm nay tại thành Đa vít đã sanh cho các ngươi một Đấng Cứu Thế, là Christ, là Chúa. Điều thứ hai là hát, bài hát mà ngày nay ai cũng biết: vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho người thành tâm. Sự giáng sinh của Chúa Jesus đã đem lại cho con người một niềm hy vọng lớn lao, đó là sự bình an. Chính Chúa Jesus sau này đã xác nhận lại lời hát đó bằng câu nói: ta để sự bình an lại cho các ngươi, ta ban sự bình an ta cho các ngươi, ta ban cho các ngươi sự bình an chẳng phải như thế gian cho, lòng các ngươi chớ bối rối và đừng sợ hãi. Sự bình an ta như Chúa nói đó là một sự bình an vượt qua những hoàn cảnh khó khăn, ngay trong lúc bệnh tật, kinh tế suy sụp, mất nhà cửa, không tiền ăn, vẫn bình an. Quý vị có tin là có môt sự bình an thật sự giống như thế không. Sự bình an ấy có thật, là món quà này, có ai muốn nhận không?
MÓN QUÀ SỐ 3: TÌNH YÊU
Hai món quà đó là quá …đã rồi, phải không, nhưng Kinh Thánh nói rằng nếu đem so với món quà này thì vẫn còn thua, món thứ ba này là gì mà quan trọng dữ vậy. Vì nó quá quan trọng nên sẽ xuất hiện sau cùng: món quà đó có tên là Tình Yêu. Nói đến quà này thì chắc là không ai phản đối cả, đúng không? Vì có ai dám nói rằng mình chưa bao giờ yêu và sẽ không bao giờ yêu. Yêu là một nhu cầu lớn lao của nhân loại, thiếu cái gì thì được, thiếu yêu là không được. Biết yêu là khổ, nhưng không yêu là lỗ mà, chẳng ai muốn khổ, nhưng cũng chẳng ai muốn lỗ.
Đứa bé mới sinh ra đã có nhu cầu về yêu thương, nó la khóc, nó quậy quọ, nó này nọ, vì nó muốn được người khác quan tâm, nhất là cha mẹ ông bà, gia đình. Lớn hơn nữa thì có nhu cầu yêu thương…người khác phái, người dưng khác họ đem lòng nhớ thương, yêu nhau đến nỗi cởi áo, cởi nón, cởi nhẫn cho nhau, rồi về nhà dối mẹ qua cầu đánh rơi hay là gió bay, nói dối cỡ đó mà cha mẹ vẫn tin hay sao? Yêu nhau mà được đáp trả thì vui vẻ, hạnh phúc, yêu đơn phương thì vò võ héo sầu, bệnh tương tư, gọi là bệnh silent killer, giết người không gươm dao, nhớ có bài hát cô hàng cà phê, anh chàng lãng tử yêu một cô bán hàng cà phê, yêu cô mà cô cứ dửng dưng, yêu đến nỗi bệnh nặng, gần chết, nằm nhà mong mỏi cô đến thăm, khi anh gần chết thì cô mới sực nhớ ra (đoảng chưa) đem thuốc đến cho anh và lúc đó cô mới biết yêu anh. Bài hát có lời như vầy: thương thay lữ khách bên đàng, anh mua chuốc lấy ưu phiền, ngờ đâu con người biết bao hiên ngang, lim dim khóe mắt hoe vàng, anh đi sắp đến thiên đàng (gần chết), vừa lúc cô nàng biết yêu. Khổ thật.
Dẫu vậy, anh chàng này vẫn còn số hên, vì rốt cuộc cũng lấy được người mình yêu qua bao nhiêu gian khổ. Biết bao nhiêu người muốn yêu, mà không được yêu, thèm có một người yêu mà không bao giờ có, như Susan Boyle, người phụ nữ 47 tuổi nổi tiếng có giọng hát hay nhưng có một khuôn mặt và thân hình không đẹp, tâm sự: chưa có ai hôn, nghe buồn quá, bây giờ cô nổi tiếng rồi, nhiều tiền rồi, bán mấy trăm ngàn CD thì có cả khối chàng xông vào xin hôn mà không biết nàng có chịu không. Nhiều mục tìm bạn bốn phương mở ra cũng với nhu cầu tìm người yêu, đặt tên như vậy cho … tế nhị một chút, chứ chẳng lẽ nói Tìm Người Yêu, hay Tìm Chồng, Tìm Vợ một cách trắng trợn hay sao. Ngay cả trong Chúa cũng mở mục Tìm Bạn Trong Chúa để giúp giải quyết tình trạng hàng tồn kho quá lâu. Cha mẹ già cần tình yêu trong nursing home, người homeless cần một tình yêu, một mái ấm trong đêm giá lạnh. Nhiều người bị lường gạt tình yêu, như các chàng chắt mót tiền bạc về Việt Nam lấy vợ, đem qua Mỹ rồi hát bài Lầm một cách đau khổ bởi vì có một số nàng kết hôn diện này khi qua đến nơi, hiểu biết chút ít rồi, hội nhập chút ít rồi, thì say good bye anh chồng đáng thương, gọi chính xác là bị vợ bỏ. Nói chung, người ta vui vì yêu cũng nhiều, mà đau khổ vì yêu cũng nhiều. Dạng đau khổ nhiều hơn dạng vui. Có mấy thi sĩ nhạc sĩ sáng tác các bài hát bài thơ vui vẻ đâu, toàn là bài buồn, đau khổ, thất tình, than thở, trách móc, giết người ở ngoài không được, bèn đành giết người trong mộng thôi.
Bạn ơi, cho dù bạn đang vui hay đang buồn vì yêu, hay là bạn không có ai yêu thì cũng nên nghe tin hấp dẫn này, có một người yêu bạn. I am sure. Người này có một tình yêu rất rộng rãi, trái tim rất lớn, yêu cả thế giới, như chính người đó tự nói: vì Đức Chúa Trời yêu thương thế gian đến nỗi đã ban con Một của Ngài, hầu cho hễ ai tin con ấy không bị hư mất mà được sự sống đời đời. Giăng (John) 3:16. Nhưng không phải vì yêu quá nhiều như vậy mà không thể yêu riêng tư đâu. Ngài nói với một nhóm người: Như Cha đã yêu thương ta thể nào, ta cũng yêu thương các ngươi thể ấy. Hãy cứ ở trong sự yêu thương ta. Giăng 15:9. Ngài cũng nói với một người: ngươi yêu ta chăng. Giăng 21:16. Ngài không chỉ yêu những người giàu có, hay có địa vị trong xã hội, Ngài còn yêu những người tội lỗi, những thành phần bị xã hội ruồng bỏ, lãng quên: ta muốn sự thương xót, nhưng chẳng muốn của lễ. Vì ta đến đây không phải để kêu kẻ công bình, song kêu kẻ có tội. Mathiơ 9:13. Bạn có thể tin rằng Chúa Jesus yêu cả thế giới (một tình yêu đại đồng) nhưng Ngài cũng yêu bạn (một tình yêu cá nhân, riêng tư, không kém phần tha thiết đâu).
Chúng ta, tất cả mọi người đều ở trong danh sách “kẻ có tội” đó, và đều được yêu. Yêu như nhau, yêu đầy đủ, yêu chu đáo, hoàn toàn công bình, không hề thiên vị. Yêu vô bờ bến, yêu không thể tả nổi, yêu đến nỗi chấp nhận hy sinh bản thân, một “bản thân” quý trọng hơn hết các “bản thân” khác trong cuộc đời, sự hy sinh đó là gì: điều răn của ta đây này, các ngươi hãy yêu nhau, cũng như ta đã yêu các ngươi. Chẳng có sự yêu thương nào lớn hơn là vì bạn hữu mà phó sự sống mình. Phó sự sống bằng cách để người ta đóng đinh mình trên cây thập tự, một hình phạt không chỉ đau đớn về thể xác mà còn sỉ nhục về tinh thần. Kinh Thánh nói rằng Chúa Jesus đã chịu chết như vậy, để thay thế cho tội lỗi của con người, và nếu ai bằng lòng tin Ngài, đến với Ngài, thì sẽ được tha thứ tội lỗi, không còn bị hình phạt nữa, mà được yêu thương.
Khi bạn đến với Chúa Jesus, bạn sẽ được cứu. Có nhiều chữ cứu, người ta hay nói cứu đói, cứu nạn, cứu trợ, cứu cấp, đều là những sự cứu về thể xác, người ta đói thì cứu gọi là cứu đói người ta gặp nạn thì cứu gọi là cứu nạn, người ta cần dùng thì cứu gọi là cứu trợ, còn cứu cấp thì nghĩa là cứu gấp (cứu cấp tốc), đưa ai vô phòng cứu cấp thì có nghĩa là người này đang nguy hiểm cần cứu gấp lên, cứu cấp tiếng Mỹ gọi là emergency, ai cũng biết, chưa vô phòng emergency nhưng cũng nhiều khi nghe xe emergency chạy hú còi inh ỏi ngoài đường, suy ra cho cùng thì cũng chỉ là những nhu cầu trong cuộc đời. Còn một sự cứu nữa mà ít ai biết, đó là cứu rỗi. Cứu rỗi là gì, Lu ca 2: 21b chép: vì chính con trai ấy sẽ cứu dân mình ra khỏi tội. Chúng ta ai cũng biết điều này, ít nhất là biết rằng con người có hai phần thể xác và linh hồn. Điều này thì không phải con người ta tự biết, mà Chúa nói, Chúa kể lại câu chuyện đó trong Kinh Thánh sách Sáng thế 2:7: Giê hô va Đức Chúa Trời bèn lấy bụi đất nắn nên hình người, hà sinh khí vào lỗ mũi, thì người trở nên một loài sanh linh. Thấy chưa, cái phần bụi đất nắn nên hình người đó là cái thân thể này đây, còn cái phần hà sinh khí vào lỗ mũi chính là cái linh hồn. Con người ta tồn tại là nhờ có hai phần đó dính liền nhau, không có một trong hai thì không thể có con người, nếu có hồn mà không có xác thì gọi là ma, có xác mà không có hồn thì gọi là thây ma. Nếu thể xác ai ngồi trong nhà thờ mà hồn bay ra ngoài shopping center thì gọi là thây ma (hic).
Thể xác là cái phần chúng ta thấy đây, học môn cách trí ngày xưa thầy dạy thân thể người ta có 3 phần đầu mình và tay chân, là cái phần chúng ta đi đứng nằm ngồi ăn nói mà chúng ta làm đủ cách cho nó đẹp: tập thể dục, giải phẫu thẩm mỹ, uống thuốc eo thon (vì cái eo nay đã thành eo ơi rồi). Ai khen mình trẻ mình đẹp (khen lịch sự thôi) thì dù có ghét cách mấy cũng thấy thương, cái thể xác mà chúng ta lo ngày lo đêm lo cuống cuồng lo nhảy dựng lên, làm sao ngày phải có ba bữa, có cái nhà để tấm thân nương náu, có cái xe để đôi chân bớt mỏi, có cái điện thoại để nói cho bớt …stress, rồi nhu cầu sinh sản tăng trưởng thêm ra, nói gần chưa đủ phải nói xa, nói xa tận Việt Nam, điện thoại nhà gọi hoài bị cằn nhằn phải có cell phone, cell phone gọi direct rất tốn tiền, thì mua thẻ, có thẻ V247, thẻ 3 miền, thẻ ông địa, đủ thứ thẻ, hết tiền mua mấy thẻ này thì cà thẻ credit card, hết cà thẻ thì cà răng (nhịn đói) nói chung chúng ta cung phụng lo lắng cho cái thân thể này nhiều lắm. Lo cho một cái này nhiều thì quên mất cái kia, Chúa có nói vậy. Kinh Thánh sách Mat 6:24 chép: chẳng ai được làm tôi hai chủ, vì sẽ ghét người này mà yêu người kia. Có người nói làm trai hai vợ phải thương cho đồng, làm sao thương cho đồng được, thế nào cũng thương người này nhiều người kia ít, như Gia cốp có hai vợ là Lê a và Ra chên, thương bà Ra chên hơn. Nữ sĩ Hồ Xuân Hương của Việt Nam làm thơ chém cha cái kiếp lấy chồng chung, kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng. Không thể nào công bằng được. Khi chúng ta lo cho thể xác nhiều quá, chúng ta sẽ bỏ quên linh hồn mình. Như vậy là không công bình, người Mỹ gọi là unfair.
Nhưng thật ra, unfair cũng không phải là điều quan trọng. Cuộc sống này có quá nhiều thứ unfair, thêm một cái unfair nữa cũng chẳng sao. Vấn đề là, một ngày nào đó, ngày ấy sẽ đến, chắc chắn đến, đó là ngày chúng ta đứng trước tòa án trắng của Thiên Chúa, Chúa sẽ chỉ hỏi một câu mà thôi, và câu trả lời quyết định sự đời đời của mình: ngươi có tin ta không?
Tôi khuyên bạn nên tin, tin bằng cách đến nhận 3 món quà Giáng Sinh hôm nay, nhận Chúa Jesus làm Chúa của đời sống mình. Merry Christmas bạn. Đây là quà của bạn.
Mục sư Lữ Thành Kiến
■Quà Giáng Sinh - 24.12.2009
24/12/09
9/11/09
Về Tính Vũ Đoán trong Viết, Đọc, và Thẩm Thức Văn Chương
Về Tính Vũ Đoán trong Viết, Đọc, và Thẩm Thức Văn Chương
Bùi Vĩnh Phúc
18.08.2009
Literary fiction commits a double arbitrariness: that of invention itself and the arbitrariness with which it imitates what is essentially arbitrary: reality.
(Văn chương phạm vào hai lần vũ đoán: một là cái vũ đoán của tự thân sự sáng tạo, và hai là cái vũ đoán của sự mô phỏng một thứ mà chính nó, tự bản chất, cũng là một sự vũ đoán: hiện thực)
Añicos/ Bits (Những mảnh vụn) / Juan Calzadilla
Thế giới là một văn bản. Chúng ta đang sống trong một thế giới của những ký hiệu, và ký hiệu với trùng trùng lớp lớp nghĩa của chúng đang vây quanh con người mỗi ngày, hay đúng hơn, từng giây từng phút, đòi hỏi được giải mã, khám phá.
Thế giới ngập chìm trong đại dương của những ký hiệu. Con người, trong mỗi xã hội, mỗi quốc gia, được điều kiện hoá để bơi lội hoặc trôi nổi trên đại dương của những lớp sóng ký hiệu đó. Có những con người, để tìm một ốc đảo cho riêng mình sau những giờ phút trôi nổi bập bềnh trên những làn sóng của ký hiệu mỗi ngày, đã tìm cách trú thân trong những cuốn sách. Nhiều người tưởng, như thế, họ tìm được những phút giây an toàn cho mình, sau cuộc vật lộn, trôi nổi trên những con sóng của ký hiệu cuộc đời kia. Nhưng thật ra, hy vọng đó nhiều khi chỉ là một ảo tưởng. Mở một trang sách, bước vào thế giới của chữ nghĩa, con người đã đẩy cửa để bước vào một thế giới khác, cũng đầy ắp những ký hiệu. Những ký hiệu trong sách cũng đòi hỏi phải được giải mã, lột vỏ. Có thế, chúng mới có thể dâng hiến cho người đọc cái tinh chất của chúng, cái chất ngọt, cay, đắng, chát, mặn mà, thơm tho, nồng đượm, hay cái cảm giác thô ráp, mềm mại, sắc lẻm, xù xì… của cuộc đời. Tìm đến những ốc đảo ấy, mỗi người sẽ chỉ còn có chính mình. Họ mang theo cùng với mình tất cả những gì làm nên con người họ, tất cả những gì cấu thành cái thế giới tinh thần của họ: kinh nghiệm sống, những điều trải qua trong đời, giáo dục, sở thích, những ham muốn từ thấp nhất đến cao nhất, thậm chí những dục vọng, những mộng tưởng, lý tưởng của cả một đời. Tất cả những hành trang vô hình đó họ đặt bên cạnh mình khi ngồi trước trang sách. Cuốn sách, bấy giờ, là một văn bản tràn ứ những ký hiệu. Chúng tràn lênh ra, bập bềnh như trên một mặt sóng. Chúng như những làn nước, những lớp nước, chỉ chực tràn ra khỏi trang sách trước mặt người đọc. Có khi chúng lại là những tiếng chim, tiếng gió rượt đuổi nhau trong một cánh rừng đầy nắng lá, hay chúng là những âm thanh, những bóng dáng chập chờn của cuộc đời lúc xa lúc gần, lúc rõ nét khi nhoà nhạt, thức ngủ trong chính chúng ta, trong những thời gian và không gian mà chúng ta không thể luôn luôn gọi tên hay định tính.
Tất cả hiện ra từ trang sách, tất cả bùng lên từ văn bản.
Đó là văn chương. Và, có lẽ, để nói về văn chương, những lời lẽ có thể mang ít nhiều dấu vết văn chương như một, hai đoạn văn trên cũng là tạm đủ. Chúng ta phải đi vào hiện thực “xám” của lý thuyết (”tất cả mọi lý thuyết thì đều màu xám, còn cây đời thì mãi mãi xanh tươi”) để có thể cảm nhận, nắm bắt được rõ hơn những điều mà chúng ta muốn nói.
Julia Kristéva, người đã giới thiệu những ý tưởng về liên văn bản (intertextuality) của Bakhtin đến với thế giới Tây phương, đã cho thấy văn bản là một thế giới được cấu trúc hoá. Nó là một hiện trường, nơi xảy ra những sự gặp gỡ, đối thoại, hoặc va đập của những hình ảnh, tư tưởng, văn hoá, hay, nói tóm lại, của những thế giới khác nhau. Trong một văn bản, có nhiều dấu ấn của các văn bản khác. Những văn bản này có thể xa rời nhau trong cả không gian lẫn thời gian. Chúng đan xen chồng chéo và tạo nên những hàm nghĩa, liên nghĩa trên văn bản gốc. Những văn bản này nằm chìm, lẩn và khuất sâu dưới lớp chữ của văn bản gốc mà mỗi người đọc, với kinh nghiệm, sự giáo dục và những phẩm chất riêng làm thành con người tinh thần của mình, tự phát hiện ra. Có thể nói văn bản là một nguồn nghĩa vô tận. (1) Nghĩa của một từ luôn mời gọi, liên kết với những nghĩa khác, và luôn chờ để được đánh thức dậy trong cái đọc của mỗi con người khác nhau. Nghĩa của chữ, như thế, luôn biến hoá, mở rộng. Nó luôn ở trong thế tiềm năng và có thế triển khai vô giới hạn. Những hàm nghĩa, liên nghĩa luôn nằm trong thể tiềm tại để chờ được khai mở. Như thế, một văn bản có thể đem lại nhiều ý nghĩa khác nhau cho những con người khác nhau. Mỗi văn bản là một liên văn bản. Từ một văn bản văn học, người ta có thể nhìn ra nhiều tác phẩm khác nhau. Và chính là vì tính chất này mà một tác phẩm văn học trở nên có chiều sâu, có sức hút của nó. Những cách nhìn khác nhau, những cái thấy khác nhau, những cách giải mã khác nhau, tất cả làm nên độ lấp lánh của một tác phẩm.
Ở một góc cạnh khác, theo Serge Dubrowski, cấu trúc của một tác phẩm không phải là một cái gì có tính ổn định, nhất thành bất biến. Mà nó là một thế giới mở. Một tác phẩm văn học có thể mang trong mình nhiều lớp nghĩa, và nghĩa của nó không bao giờ có tính chung kết, dứt khoát. Nó thay đổi tuỳ theo cái nhìn, góc nhìn của ngưởi đọc, sự quan sát và thái độ quan sát nó của người ấy. (2) Cấu trúc là cấu trúc đối với một con người đặc thù nào đó. Cái cấu trúc ấy sẽ thay đổi không chỉ từ cá nhân này sang cá nhân khác, mà còn từ những lần đọc này sang lần đọc khác của cùng một con người qua thời gian. Bởi vậy, ý nghĩa của tác phẩm cũng có thể thay đổi theo những tâm cảnh, tâm thế khác nhau, những sự “rót vào” khác nhau của mỗi người đọc hay mỗi lần đọc. Ý nghĩa của tác phẩm, bấy giờ, được dựa trên một phương trình mà tất cả những gì người đọc mang vào trang sách cùng với mình khi đọc trở nên những biến số không thể không được tính đến. “Ý nghĩa của tác phẩm”, như thế, trở nên một hàm số, thay đổi với những biến số mà người đọc mang vào cùng với cá tính riêng và tất cả những gì làm nên con người hắn. Tình hình này làm ta liên tưởng đến cái nhìn của cơ học lượng tử đối với các vật thể, đúng hơn là các chất thể (particles), được khảo sát. Người ta không thể bỏ qua cái thái độ của người làm công việc khảo sát, thí nghiệm đó, cũng như không thể bỏ qua những thiết bị mà ông ta dùng để đo lường. Những điều ấy có thể làm thay đổi kết quả của thí nghiệm. Nói rộng ra, tất cả mọi sự xảy ra trong thế giới hiện tượng này đều như thế. Cái nhìn tạo ra thế giới. Hay, đúng hơn, chính cái tâm ý của ta đã tạo ra thế giới này. Đây không còn phải là vấn đề tâm lý hay triết lý nữa, cho dù Duy Thức luận của Phật giáo, nhìn một cách chung, cũng đưa ra một kết luận như thế. Đọc những quyển sách như The Tao of Physics của Fritjof Capra, hay The Holographic Universe của Michael Talbot, trình bày cái nhìn của nhiều nhà vật lý lý thuyết, vật lý lượng tử cũng như của một vài nhà khoa học nghiên cứu về thần kinh, về não bộ nổi tiếng, như David Bohm (London U.) và Karl Pribam (Stanford U.), khiến ta phải giật mình khi thấy rằng cả thế giới, và, rộng hơn, cả vũ trụ này, trong quan sát và nghiên cứu của họ, cũng giống như một quyển sách, chỉ là những văn bản mở, để con người “rót” cái nội dung riêng tư của nó vào, làm nên cái lấp lánh của những “văn bản” khác nhau. (3)
Nói như L. Wittgenstein (với mệnh đề nổi tiếng, xuất hiện trong câu đầu tiên của tiểu luận triết học Tractatus Logico-Philosophicus của ông), “The world is all that is the case”. Tất cả mọi sự đều diễn ra trong thế gian. Phải, thế gian, như thế, là nơi dung chứa mọi hoàn cảnh, nơi diễn ra đủ sự. (4) Và “sự” đây là “sự kiện/dữ kiện” (facts) chứ không phải là “sự vật” (things). (5) Nhìn ở một góc độ nào đó, và chỉ giới hạn trong việc xét văn bản, phán đoán này có những chỗ gần gũi với xác quyết của những nhà nghiên cứu văn bản theo tinh thần của chủ nghĩa hình thức Nga, hay của cấu trúc luận, nhìn văn bản như một cấu trúc mang tính tự trị. Và cả J. Derrida nữa, mà tên tuổi được gắn liền với Giải cấu trúc luận về sau, cũng thế, khi nói rằng không có gì ở ngoài văn bản. Tất cả mọi sự là ở bên trong.
Văn bản là một thế giới, và trong thế giới đó, chữ nghĩa (là những yếu tố cấu thành nó) cứ trượt đi. Nó được xây dựng bởi một lớp ngôn từ động. Chữ và nghĩa, các nghĩa tố, trượt vào nhau cũng như trượt qua nhau (glissement), để lại những dấu mờ, những ký hiệu của ký hiệu, như những tinh vân, khi sáng khi tối trước mắt con người. Nghĩa vẫy gọi nghĩa, nghĩa liên kết và rủ rê nhau. Ký hiệu tạo ra ký hiệu, và những ký hiệu mới được tạo ra đó lại sinh sản ra những ký hiệu khác. Đọc là đi vào trung tâm của những vòng tròn tạo nghĩa. Đọc là một “thực hành tạo nghĩa” (pratique signifiante), nói như J. Kristéva. Tất cả những ký hiệu, và những dấu mờ của chúng, dệt nên một tấm thảm bay với những hàm nghĩa, liên nghĩa, nghĩa sáng nghĩa tối, nghĩa mờ nghĩa đục, nghĩa nhoè nghĩa nét, đan kết, xoắn bện vào nhau. Một tấm thảm kỳ diệu. Tấm thảm này có thể nâng con người lên và chở nó đi khắp mọi nơi.
Cũng có thể nhìn văn bản như một ống kính vạn hoa (kaleidoscope). Tất cả những ký hiệu, như đã nói, trượt vào nhau, trượt qua nhau, và làm thành sự khác biệt. Những kết hợp khác nhau đó làm nên thế giới. Mỗi lần ống kính xoay, lại một thế giới khác hiện ra. Và mỗi người chúng ta đều có những cách xoay ống kính riêng của mình.
Một điều cũng nên nhắc lai ở đây là tính vũ đoán của ký hiệu (ngôn ngữ). Như F. de Saussure đã phân tích, giữa sự vật được phản ánh (như con ngựa, cái cây, v.v.) với cái-biểu-đạt (là mặt chữ, vỏ tiếng hay vỏ ngữ âm) và cái-được-biểu-đạt (tức khái niệm được phản ánh bên trong những chữ “con ngựa” hay “cái cây”, v.v.) không hề có một quan hệ hữu cơ nào. Đó chỉ là một sự vũ đoán, chấp định. Một quy ước của một tập thể người. (6) Và chính là từ sự chấp định này, ký hiệu (ngôn ngữ) nói chung và văn bản văn học nói riêng, mang tính đa nghĩa, mơ hồ và nhập nhằng trong cái nghĩa tích cực của nó. Sở dĩ thế là vì, như đã nói, với sự khám phá và phân tích của Saussure và nhiều nhà ký hiệu học sau này, trong cùng một vỏ tiếng, vỏ âm thanh (envelope sonore), con người có thể lồng ghép, đắp đổi nhiều nội dung có liên hệ xa gần với nhau. Những nghĩa xuất phát từ những chi, những nhánh chính, và những nghĩa từ những chi, những nhánh phụ. Trường nghĩa cứ thế mà sinh sôi nẩy nở. Các nghĩa trượt lên nhau, trượt vào nhau và trượt qua nhau đã làm thành một trường nghĩa rộng lớn. Nghĩa tạo ra nghĩa, từ những liên nghĩa, hàm nghĩa, nghĩa ẩn, nghĩa chìm, và dấu vết của chúng, sau khi bị vượt qua, vẫn còn tiếp tục nằm ở đấy, làm đầy cái không gian ngữ nghĩa. Và cái chu trình ấy có thể tiếp diễn một cách vô tận.
Sử dụng những con chữ như một thứ khế ước xã hội, các nhà văn nhà thơ phải tuân thủ những luật tắc của chữ viết, của văn phạm. Nhưng, dựa trên chính những quy tắc ấy, kẻ sáng tạo lại có thể tự do hư cấu trong thế giới của mình bằng cách mở rộng phạm vi ngữ nghĩa của các ký hiệu hắn dùng, nhất là trong thơ. Bằng cách sử dụng và lồng ghép hai trục chọn lựa và kết hợp khi hành từ và bố trí câu như một chiếc đũa thần (7), con người có thể sáng tạo ra nhiều thế giới kỳ diệu, với cá tính và qua hư cấu chủ quan, vũ đoán riêng của mình.
Giống như trong sáng tác, phê bình cũng là một hoạt động hoàn toàn mang tính chủ quan, vũ đoán, thậm chí hư cấu. Đúng, hiểu theo một nghĩa nào đó, phê bình cũng là một dạng sáng tạo dựa trên hư cấu. Và nó rất chủ quan, vũ đoán. (8) Nhưng cũng chính tính chất chủ quan, vũ đoán và hư cấu này đã làm nên điều kỳ diệu mà chữ viết của con người đã làm được. Là vất đẩy người đọc vào một (hay những) thế giới mới, không hề mòn. Nó mở ra những thế giới. Với cá tính, kiến thức, bản lĩnh, và, thậm chí, sự mơ mộng riêng của mình, và, dĩ nhiên, cũng với việc phải tuân thủ một số quy luật nội tại của việc đọc văn bản, mỗi người đọc, người phê bình, có thể mở ra những thế giới khác lạ khi tiếp cận với văn bản. Phê bình và đọc văn đúng nghĩa không bao giờ mở ra những thế giới phẳng, như cái thế giới hiện tại mà con người đang sống, trong quan niệm của Thomas Friedman. Mà, với những hàm nghĩa và liên nghĩa, nó mở ra những thế giới “cong”, đầy sức sống. Những thế giới này, nói một cách hình tượng, lồng vào nhau, chập vào nhau, và trao đổi chất cho nhau. Đọc một văn bản văn học, để biến nó thành một tác phẩm, có lẽ điều người đọc cần làm không phải chỉ là dùng lý trí, mà là dùng, nhiều hơn, sự liên tưởng và trí tưởng tượng của mình.
Hãy thử đọc một vài câu thơ của Trần Dạ Từ:
Thuở làm thơ yêu em
Trời mưa chưa ướt áo
Hoa cúc vàng bên thềm
Gió may lưng bờ dậu
Chiều sương dầy bốn phía
Lòng anh mấy ngã ba
Tiếng đời đi rất nhẹ
Nhịp sầu lên thiết tha
Thuở làm thơ yêu em
Cả dòng sông thương nhớ
Cả vai cầu tay nghiêng
Tương tư trời thành phố (…)
(Thuở làm thơ yêu em, 1962)
Những câu thơ thật đẹp. Và Cung Tiến đã đưa những câu thơ như lụa phất ấy vào nhạc của mình. Thuở làm thơ yêu em. Một thuở. Chắc chắn cái thuở ấy đã qua. Ta không cần tìm biết hệ quả của những hành động chàng tuổi trẻ đã làm trong thuở ấy. Điều đó không cần thiết. Chỉ biết rằng đã có một thuở trong đời. Tình yêu. Trời mưa. Hoa cúc. Mầu vàng hoa. Gió may. Bờ dậu. Những ký hiệu và những hình ảnh lồng vào nhau. Những con âm vang lên trong đầu. Chúng nhân nhau lên trong trí và trong tâm hồn của mỗi người đọc thơ, vì những hình ảnh, những ám gợi về tình yêu, về những cơn mưa, v.v., trong mỗi con người là khác nhau và gắn bó với nhiều ấn tượng. Chúng tạo ra hàng loạt các trường nghĩa. Từ những kinh nghiệm, xúc cảm, và những liên tưởng rất vũ đoán của mỗi ngưởi đọc, một con âm hoặc một con chữ có thể lôi cuốn nhau và tạo thành một cơn lũ. Nếu có thể cộng hết lại những hình ảnh, ấn tượng, rung động của tất cả mọi người trong thế gian này khi đọc một câu thơ hay một bài thơ của một thi sĩ bất kỳ nào đó, ta sẽ có cả một thế giới. Vậy thì, với bao nhiêu bài thơ, câu thơ mà con người có trong cuộc đời này (chưa nói đến những câu văn hoặc những tác phẩm dài hơi khác), chúng ta có bao nhiêu thế giới?
Trong bốn câu thơ đầu, dù sao đi nữa, có lẽ trong trí óc của một người Việt như tôi, những ấn tượng mang lại có nhiều âm hao, ám ảnh Việt Nam. Vì những hoa cúc, gió may và bờ dậu chăng? Có lẽ. Những hình ảnh ấy rung lên, lấp loá, chập vào những hình ảnh khác trong tôi. Hãy chỉ thử đưa ra một vài trong bao nhiêu ấn tượng nở bùng lên trong đầu. Hoa cúc, làm tôi nhớ đến một câu thơ của Nguyên Sa, Áo nàng vàng, anh về yêu hoa cúc. Chỉ là nhớ đến, không cần biết hoa cúc trong câu thơ của ai nở trước. Gió may, tôi nhớ quá đôi mắt của người con gái trong thơ Quang Dũng, Mắt kia em có sầu cô quạnh / Khi chớm may về một sớm mai. Và gần hơn nữa là cái gió heo may đã về, chiều tím loang vỉa hè của Trịnh Công Sơn. Còn bờ dậu? Nó làm tôi nhớ đến Nhà nàng ở cạnh nhà tôi / Cách nhau cái dậu mồng tơi xanh rờn của Nguyễn Bính. Bờ dậu, thậm chí còn làm tôi nhớ đến những câu thơ Đứng im ngoài hàng dậu / Em mỉm nụ nhiệm mầu / Lặng nhìn em kinh ngạc / Vừa thoáng nghe em hát / Lời ca em thiên thâu / Ta sụp lạy cúi đầu (Thược Dược, Quách Thoại). Một đoá hoa nở bên bờ dậu đấy. Bao nhiêu là hình ảnh thật Việt Nam!
Sang bốn câu thơ kế, hình ảnh Việt Nam chắc vẫn còn đấy. Nhưng chúng không còn đậm đặc như trong bốn câu thơ đầu nữa, với những hình ảnh có chút chênh chao ngả nhẹ theo nhịp ngữ pháp tây phương, cộng với những thủ pháp nhân hoá và ẩn dụ được dựng lên trong từng câu thơ. Đến đoạn ba, tự nhiên ta thấy như được dẫn vào một khung trời “lạ hoá” với những đường nét không gian không còn hoàn toàn mang tính điển hình của một khung cảnh Việt Nam. A, thế nào là Việt Nam? Rất khó nói, có lẽ là do cách đọc, cách cảm cùng với kinh nghiệm đọc và rung động của từng người. Riêng tôi, cả đoạn thơ này tự nhiên nhắc tôi nhiều đến những khung trời Paris của Jaques Prévert. Riêng câu Cả vai cầu tay nghiêng thì lại làm tôi đặc biệt nhớ đến Appolinaire trong bài Le Pont Mirabeau. Trong bài này, thi sĩ đã tả hai người nam và nữ, hai kẻ yêu nhau, trong một tư thế thật đẹp, giống như trong một số bức tranh vẽ tình nhân của Chagall:
Les mains dans les mains restons face à face
Tandis que sous
Le pont de nos bras passe
Des éternels regards l’onde si lasse…
(Tay nắm lấy tay và mặt nhìn mặt
Trong lúc đó dưới
Cầu của những cánh tay đôi ta lướt chảy
Dòng nước mệt mỏi của những thoáng nhìn thiên thu…)
Những liên tưởng đã dẫn tôi đi xa như thế, để tôi nhìn thấy trong Cả vai cầu tay nghiêng những hình ảnh còn in đậm trong lòng tôi của Le pont de nos bras, và cả một khung trời thương yêu của Appolinaire có dòng sông Seine chảy qua. Tất cả các liên tưởng đều là vũ đoán. Và sự vũ đoán đó đã làm cho bài thơ, đối với tôi, có thêm chiều dày và lấp lánh hơn.
Đọc là liên tưởng và thực hiện những hành động vũ đoán như thế. Nhưng viết thì cũng không khác. Khi chúng ta viết, dù thơ hay văn (nhưng đặc biệt là thơ), sự chọn lựa, kết hợp các từ ngữ cũng chính là một hành động rất vũ đoán. Nhất là khi ta, một cách vô tình hay hữu ý, sử dụng những biện pháp chuyển nghĩa (trope) như ẩn dụ, hoán dụ, so sánh, nhân hoá, v.v. Khi một người Việt Nam nào đó, trong xa xưa, đã sáng tạo ra câu Lòng em như quán bán hàng / Còn anh là khách qua đàng trú chân, hay câu Em như cái giếng giữa đàng / Người khôn rửa mặt, kẻ phàm rửa chân, thì quả là người đó đã rất vũ đoán để đem so sánh tâm hồn hay thân phận của một con người (đặc biệt lại là một người con gái) với một túp hàng quán, hay như một cái giếng. Thế nhưng, chính cái vũ đoán đó đã để lại cho chúng ta những câu ca dao tuyệt vời như thế cho đến bây giờ. Nó làm cho những hình ảnh ấy sống mãi. Cũng thế, trong vở chèo Thị Kính, tác giả đã cho Thị Mầu “chào hàng”/”nhá hàng” với anh Nô bằng một câu chòng ghẹo táo bạo, Gió xuân đánh tốc dải yếm đào / Anh trông thấy oản sao không vào thắp hương. Tác giả của câu chèo tinh quái và kinh khủng này đã đặt vào miệng Thị Mầu một ẩn dụ thật … trẻ không tha, già không thương (hay Phật không tha, Chúa không thương ?-vì “oản” là để cúng Phật, và câu hát bóng gió đầy tính… trêu hoa ghẹo nguyệt kia, “gọi mời thắp hương” kia, lại được thốt ra trong khung cảnh nghiêm trang nơi cửa thiền. Mà chính là vì ả Thị Mầu đang ve vẩy ở nơi đấy nên mới có cớ giục mời người ta vào thắp hương như thế!). Một sự nhìn ngắm, liên kết để rồi so sánh đến vậy, không gì khác, chính là một sự vũ đoán, ập vào nhau những hình ảnh, những khái niệm đáng lẽ là rất xa nhau. Nó làm bật ra những tia lửa của sự sáng tạo. Đúng là có những cái vũ đoán chết người, nhưng chúng đã khắc nét vào văn chương như thế.
Trở lại với chuyện đọc văn. Khi đọc À l’ombre des jeunes filles en fleurs (Dưới bóng những cô gái đương hoa) của Marcel Proust, trong bộ À la Recherche du Temps Perdu (Đi Tìm Thời Gian Đã Mất), Bernard Raffalli (9) đã nghĩ đến những bông hồng nở vội của Ronsard (Mignonne / Allons voir si la rose / Qui se matin avait déclose / … Vivez, si m’en croyez, n’attendez à demain / Ceuillez dès aujourd’hui les roses de la vie–Em ơi, ta hãy ra xem / Đoá hồng đã nở bên thềm hay chưa / … Hái đi, đừng để quá mùa / Hoa hồng cuộc sống chẳng chờ đến mai). Cùng lúc, ông cũng nghĩ đến những bông hoa ác, những bông hoa tội lỗi (Les Fleurs du Mal) của Baudelaire, cùng với cái mùi của dục tính và sự tàn rữa; đồng thời, ông cũng nhớ đến cả những cô gái lửa (Les Filles du Feu) của Nerval. Một sự liên tưởng nhìn thoáng qua tưởng là vũ đoán, nhưng hẳn nhiên là nó có nguồn gốc từ kinh nghiệm đọc, mơ mộng, và phân tích của Raffalli. Trong tác phẩm của Proust, hình ảnh những cô gái đẹp tươi, đương trong lứa tuổi hoa niên ấy, được liên kết với nhiều hình ảnh của những khóm hoa, những bụi hoa, tươi sáng có, mà tàn rữa cũng có. Và những người con gái đương hoa kia, với những mối tình, những ham muốn bị kìm nén của họ, như những đoá hồng toả ra một mùi hương thương nhớ, phả khắp những trang sách. Kinh nghiệm đọc và những liên tưởng của nhà phê bình đã đem lại hạnh phúc cho người đọc ông. Chúng cũng làm dày thêm sự hiểu biết và làm phong phú tâm hồn người đọc.
Cũng thế, trong Poésie et Profondeur (Thi ca và Độ sâu), Jean Pierre Richard đã phát hiện ra rằng cả Baudelaire, Gérard de Nerval, Arthur Rimbaud và Paul Verlaine đều bị ám ảnh bởi độ sâu. Rimbaud thì muốn lấp bằng độ sâu, và nếu không thực hiện được, ông tìm cách thoát ra khỏi nó. Nerval thì muốn giảm bớt độ sâu bằng nỗ lực mô tả những gì nổi lên, những sự vật nổi lềnh bềnh trên mặt nước. Verlaine, yếu đuối hơn, luôn bị sự ám ảnh kinh hoàng của những độ sâu vô tận, những lỗ hổng không đáy. Còn Baudelaire thì, cho dù có hãi sợ, có hoang mang choáng váng trước cái hút xoáy của những độ sâu, vẫn muốn đâm đầu lao mình xuống tận đáy vực. (10) Phải có một liên tưởng bén nhậy, cộng với một sự vũ đoán nhất định, cùng với một năng khiếu phân tích tâm lý đến một độ nào đó thì người ta mới có thể đưa ra những so sánh và nối kết như thế. Và thao tác của Pierre Richard có thể đã là, đầu tiên, ông nhìn thấy hình ảnh độ sâu nơi một nhà thơ nào đó trong bốn nhà thơ vừa kể, cùng với phản ứng và cơ chế tâm lý của nhà thơ ấy. Từ đó, ông đã liên tưởng đến những nhà thơ còn lại mà, qua thơ ca của họ, ông cũng đã bắt gặp những độ sâu, với những phẩm chất khác. Rồi, có thể bằng một phương pháp gần gũi với phương pháp xếp chồng những văn bản của bốn nhà thơ này lên nhau, ông đi sâu vào tìm hiểu kỹ hơn tính cách và phong cách của từng nhà thơ. Tất cả đều bắt nguồn từ liên tưởng, từ sự nối kết các (liên) văn bản của nhà phê bình.
Khi nghe những câu hát này trong bài Đêm của Trịnh Công Sơn:
Đêm xanh hay đêm đỏ
Đêm hồng đêm mong manh
Đêm đêm rừng nuôi gió
Đêm hồng má thị thành
Đêm ôm vai em nhỏ
Giấc ngủ như chiêm bao
Đêm thơm từng chiếc lá
Cho tình bay lên cao
Đêm sâu không xa lạ
Kéo gần đêm thiên thu
Đêm xin thành nỗi nhớ
Đêm đợi đoá hẹn hò
Đêm yên như phố cổ
Chút tình riêng xôn xao
Đêm xa gần môi má
Có dài không đêm thâu (…)
tự nhiên tôi nhớ đến bài Đêm Trăng của Đoàn Thị Lam Luyến:
Đêm dài như châu chấu
Của tuổi thơ chín mười
Đồng trưa mưa rào tạnh
Theo đàn châu chấu bơi
Đêm dài như xác pháo
Xé tan tuổi đôi mươi
Chưa tiêu gì ra món
Đã hết veo cuộc đời
Đêm dài… đêm cành đa
Như kiến leo cành cộc
Leo vào rồi leo ra
Đâu biết mình trùng lặp
Hai bài thơ, nếu có thể nói như thế, có nhiều nét khác nhau, cho dù chúng đều lấy đêm làm xuất phát điểm. Ta sẽ không phân tích dài dòng vào chi tiết để thấy rõ những sự khác biệt đó. Có lẽ chỉ nên nói là, dù có dùng các con âm Việt, chữ nghĩa Việt, các tác giả đã sử dụng những chất liệu ngôn ngữ khác nhau để làm ra những sản phẩm khác xa nhau. Cho dù chúng đều gắn bó với những thủ pháp chuyển nghĩa giống nhau như ẩn dụ, hoán dụ, so sánh, nhân hoá, v.v., hai bài thơ đã tạo nên hai khí quyển khác biệt. Chúng như hai khối tinh vân tự xoay vần theo quỹ đạo của riêng mình. Bài thơ của TCS có mật độ dày hơn của những biện pháp tu từ ập vào nhau, như trong những hình ảnh đêm đêm rừng nuôi gió, đêm đợi đoá hẹn hò. Bài thơ đưa ra cái nhìn từ xa đến gần, rồi lại từ gần ra xa, và từ ngoài vào trong, rồi từ trong ra ngoài, về mặt không gian; và từ điểm quy chiếu của hiện tại, kéo dài cho nó chạm vào cõi xa thẳm của thiên thu, rồi lại thu kéo về cõi người bé nhỏ, xét về mặt thời gian. Còn bài thơ của ĐTLL thì lại bắt vào những hình ảnh liên văn bản trong những câu như Đêm dài… đêm cành đa, như kiến leo cành cộc. Câu thơ làm ta nhớ đến câu ca dao tuổi nhỏ Con kiến mày leo cành đa. Leo phải cành cộc leo ra leo vào. Con kiến mày leo cành đào. Leo phải cành cộc leo vào leo ra… Nó tạo nên một cảm thức quẩn quanh, bít bùng, không lối thoát. Những câu thơ soi chiếu vào hạnh phúc tuổi thơ và thân phận mình hiện tại. Hình ảnh châu chấu, được lặp đi lặp lại hai lần, gắn với một cái gì sinh động, hớn hở. Một mầu xanh như ngọc của thân mình những con châu chấu được đưa vào cận ảnh dưới ánh mắt tuổi thơ. Chân chúng búng tanh tách, và chúng bơi trên mặt nước. Điều đó gắn với cái hồn nhiên, sinh động của tuổi nhỏ. Rồi những mảnh pháo hồng nổ tan tác. Rộn rã đấy, nhưng rồi vụt biến nhanh. Cuộc đời trôi qua vội vã, rồi vỡ vụn như những xác pháo. Để, cuối cùng, cái còn lại chỉ là sự nhỏ nhoi, quanh đi quẩn lại của những lối mòn… Ngoải ra, thủ pháp so sánh trong Đêm Trăng lại là một cái gì mang tính rất biểu kiến. Dạng thức thì là so sánh, Đêm dài như châu chấu, Đêm dài như xác pháo, nhưng bản chất thì lại là ẩn dụ lồng vào hoán dụ (bởi lẽ, đêm không thể nào dài như… châu chấu hay xác pháo được). Hai bài thơ đưa ra những khắc khoải riêng, những tâm sự đặc thù, theo những hướng khác nhau, và tạo ra những không gian, thời gian khác biệt. Vậy mà nó lại thu hút nhau, ập vào nhau trong cảm thức của một người đọc. Đọc hay nghe riêng biệt bài hát của TCS và bài thơ của ĐTLL, chắc chắn là mỗi người đọc khác lại thấy nẩy nở ra trong lòng mình những liên tưởng khác biệt, những ám gợi, những hình ảnh không trùng hợp với cách liên tưởng, cách đọc của tác giả bài viết này. Đó chính là do kinh nghiệm sống và đọc, do cơ chế tâm lý riêng của mỗi người khi tiếp cận với tác phẩm.
Liên tưởng có khi được giải thích, có khi không, nhưng chắc chắn là chúng có những gốc rễ của mình. Bởi vậy, khi nói phê bình là một hành động chủ quan và vũ đoán, thì chủ quan là đúng, còn vũ đoán chỉ là một cách nói có phần cường điệu. Bởi đó không hề là một thái độ tuỳ tiện. Nó có gốc rễ, và gốc rễ ấy nằm trong “vùng giao”, vùng chồng lấp lên nhau của liên tưởng và sáng tạo. Và thái độ đó thích hợp với một định nghĩa của “vũ đoán”, là “dựa trên, hoặc tuỳ thuộc vào, sự thẩm định hay chọn lựa mang tính cá nhân” (based on or subject to individual judgment or preference—www.thefreedictionary.com). Và, đúng thế, người tiếp cận văn bản, tuỳ vào độ mở của văn bản mà hắn đang khảo sát, phải có những nỗ lực riêng của mình để bóc, tách những lớp nghĩa, cũng như nối kết những ấn tượng, những hình ảnh mà tác giả đã đưa vào tác phẩm một cách hữu thức hoặc vô thức. Có thế, hắn mới cảm nhận được những hạnh phúc của sự đọc.
Đọc là một hành trình thám mã. Là một quá trình tìm nghĩa và tạo nghĩa. Qua liên tưởng, qua chọn lựa, qua kết hợp. Cũng giống như khi chúng ta viết. Chỉ có điều là khi viết, hai thao tác chọn lựa và kết hợp được thực hiện một cách có vẻ có ý thức hơn. Và có thời gian hơn. Còn trong khi đọc, tất cả những điều này xảy ra rất nhanh. Người đọc không kịp trở tay. Những hình ảnh và ấn tượng tóm lấy ta và vứt đẩy ta vào một cơn cuồng lũ của nghĩa, liên nghĩa và hàm nghĩa. Hai loạt nghĩa sau là những cái không hề có mặt trên văn bản. Theo Pierre Macherey, cái đặc thù của văn học là nó luôn hàm chứa trong nó một cái vắng mặt. Văn bản là cái được nói ra, nhưng trong cái được nói ra đó có hàm chứa những cái không được nói ra. Cái nói ra dựa vào cái không được nói ra. Có một sự chồng lên nhau giữa cái được nói ra và cái ẩn kín bên trong, cái lùi khuất khỏi tiền trường sân khấu. Đó là cái không được phát ngôn, tức sự im lặng. (11) Văn bản là một không gian, một hiện trường được tổ chức theo các quy luật ngôn ngữ. Nó che đậy ở bên dưới nó những cái vắng mặt, những kho tàng được chôn giấu, ẩn kín. Bởi vậy, đọc hay phê bình văn học là đi tìm cái bị che giấu kia, đi tìm cái vắng mặt, cái không hề hiện diện tại hiện trường.
Như đã nói, ký hiệu ngôn ngữ, nói chung, mang tính vũ đoán. Đọc, phê bình, tìm cách mở một văn bản, cũng hàm chứa tính chất đó, nhưng ở một cấp độ khác. Những cái được nói, được viết ra và những cái ở đằng sau, ở bên trong, ở hậu trường, giằng co, đòi được khám phá, bộc lộ. Chính điều đó khiến cho tác phẩm trở nên mơ hồ, “nhập nhằng”, đa nghĩa. Chúng tạo nên một độ căng, do sự giằng kéo của các ý nghĩa, liên nghĩa, và hàm nghĩa, mà người đọc phải tìm cách giải quyết. Tạo được một tác phẩm đầy tính “khiêu gợi” như thế, trong chừng mực nào đó, với ý thức của mình, kẻ sáng tạo làm nổi rõ dấu ấn sáng tạo của hắn. Tôi nói “trong chừng mực nào đó, với ý thức của mình”, vì không phải lúc nào tác giả cũng kiểm soát được những điều mình viết ra. Rất nhiều khi, chữ, nghĩa, và các hình ảnh, ý tưởng trong một văn bản vượt ra khỏi ý thức của người viết. Đọc được, hay, đúng hơn, đọc thấy, những điều ẩn kín, những điều không nói ra trong văn bản, những vết tích của vô thức, những liên tưởng bất ngờ làm bật sáng văn bản, những ngã rẽ lối quành của nghĩa, cũng khẳng định bản lĩnh của người đọc, người phê bình. Đó là sự xâm nhập văn bản và bóc nó ra, coi nó như một dạng scriptible (khả tác). Là không nhìn nó một cách hời hợt như một dạng lisible (khả độc). (12) Một tác phẩm thật sự luôn ở trạng thái tiềm thế. Nó luôn có thể được soi rọi, nhìn ngắm và phân tích lại, để cung hiến cho người đọc những cách nhìn mới, những ý nghĩa mới.
Như thế, theo tôi, đọc là sự phân vân (của chủ thể đọc) giữa những hình ảnh, những ấn tượng, là sự phân vân (của hắn) giữa ý tưởng này và ý tưởng nọ, giữa liên tưởng này và liên tưởng kia. Là sự gặp gỡ của chủ thể đọc với các nghĩa trong văn bản, để rồi phải quyết định trước sự giằng kéo của các nghĩa tố khác nhau. Từ đó, người đọc có thể nhìn thấy một thế giới đa nghĩa, nhiều chiều cạnh, một thế giới lấp lánh nhiều mầu sắc. Đó không còn là một thế giới bị mòn đi trong cái nhìn trượt theo quán tính của cuộc sống thường ngày. Đọc là đồng sáng tạo chính là ở trong tinh thần đó.
Khi đọc, có nghĩa là khi làm những “thực hành tạo nghĩa”, có lẽ cũng không nên quá hăng hái để vội quyết đoán là tác giả đã thiếu sót vì đã không trình bày được điều này hay điều kia (nhất là khi chúng khá hiển nhiên), như chúng đáng lý phải được trình bày như vậy. Dù là đọc một bài thơ, một truyện ngắn, một cuốn tiểu thuyết, hay một tác phẩm phê bình. Tất cả đều là những văn bản văn học. Có thể có một lý do nào đó đã khiến tác giả không viết chúng ra, hoặc là đã giữ chúng lại để trình bày trong một dịp khác thích hợp hơn. Trường hợp Tolstoi có thể là một thí dụ đáng nghĩ. Sau khi Chiến Tranh và Hoà Bình được xuất bản, “báo chí cấp tiến đương thời đã trách cứ Tolstoi là trong tác phẩm đồ sộ ấy thiếu hẳn dấu vết của hiện thực thảm khốc của chế độ nông nô, một đặc trưng nổi bật của thời đại…”. Tuy nhiên, tìm hiểu sâu thêm qua việc nghiên cứu các bản nháp của tác phẩm, người ta thấy rằng, trong những dị bản đầu tiên, Tolstoi đã mô tả chi tiết các khía cạnh tiêu cực, đen tối, phản ánh những khổ đau của tầng lớp nông nô. Đó là những mô tả hết sức hiện thực cuộc sống khổ đau của những lớp người nghèo khó, của những con người thấp cổ bé miệng, cho dù họ là nông nô hay binh lính. Những mô tả này cho thấy mâu thuẫn khe khắt giữa những tầng lớp trên, như địa chủ và sĩ quan, với những tầng lớp dưới, như nông nô và binh lính đói rét. Dù sao, những mô tả này không thấy xuất hiện trong văn bản cuối cùng được phát hành. Những nhà nghiên cứu Tolstoi đã cho rằng, “cảm hứng chủ đạo của Chiến Tranh và Hoà Bình (…) là niềm tin say đắm của tác giả vào tư tưởng mà ông cho rằng thời đại mà ông miêu tả là thời đại nảy nở cao nhất của đạo đức nhân dân, là thời kỳ phục hưng của toàn dân Nga, đã đưa họ tới chiến công cứu nước.” Chính cái cảm hứng chủ đạo này, cuối cùng, đã khiến Tolstoi phải hy sinh những mô tả về những phương diện khổ đau của nông nô, để tập trung nhấn mạnh vào lòng dũng cảm, ý chí và sức mạnh của nhân dân trong chiến tranh vệ quốc. (13) Để đạt hiệu ứng tối đa nhất trong việc trình bày đề tài của mình, Tolstoi đã phải chọn lựa. Và hy sinh.
Một người đọc có ý thức và có sự cẩn trọng có lẽ cũng nên chú ý đến những cái vắng mặt khá hiển nhiên trong một văn bản văn học, để thử lý giải những sự vắng mặt đó, trước khi lên tiếng phản đối hay đưa ra phán quyết của mình. Đúng như Macherey đã nói: một tác phẩm không bao giờ thổ lộ được hết tất cả những gì tác giả muốn nói, bởi vì “để nói ra một điều gì đó thì có những điều khác đã không được nói ra, hoặc không nên nói ra.” (11)
Trong kinh nghiệm cá nhân, về phương diện này, tôi cũng đã rất ngạc nhiên và khá bất ngờ khi thấy trong tập Những Bài Ca Không Năm Tháng, tuyển hơn 120 ca khúc của mình, được xuất bản mấy năm trước khi anh mất, Trịnh Công Sơn đã không đưa vào những ca khúc phản chiến một thời đã làm nên tên tuổi anh. Có lẽ đã có một suy nghĩ đắn đo nào đó, có một ý nghĩa quyết định, đã khiến anh không đưa chúng vào tuyển tập đánh dấu một đời sáng tác này của mình. Tôi bỡ ngỡ, nhưng thấy không nhất thiết phải lý giải điều đó. Cho dù, hình như, con người dễ dàng đưa ra một phán đoán về một hành vi của người khác, hơn là về hành vi của chính mình. Bất cứ phán đoán nào trong vấn đề này cũng đều có thể là một phán đoán mang tính đơn giản và dễ dãi. Và quyết định đó, có tính cách hết sức cá nhân của người nhạc sĩ, cũng không làm mất đi giá trị và những dấu ấn lửa mà loạt tác phẩm này đã tạo ra trên lương tâm, trên tâm thức con người, Việt Nam cũng như toàn thế giới. Khi viết chuyên luận về Trịnh Công Sơn (14), lúc đầu, tôi cũng đã đi vào phân tích sâu khía cạnh phản chiến của những loạt ca khúc như Ca Khúc Da Vàng, Kinh Việt Nam, v.v. Nhưng sau đó, tôi đã bỏ đi tất cả, chỉ còn giữ lại một phần ngắn trong chương hai, Dẫn Vào Những Ám Ảnh Nghệ Thuật, phần Ám Ảnh Chiến Tranh. Tôi muốn tập trung vào những chủ tố về Thân Phận Con Người (nói chung–không phải chỉ về thân phận con người Việt Nam, đóng khung trong một cuộc chiến), Tình Yêu và Nỗi Cô Đơn trong sáng tác của TCS. Và tôi đã làm điều ấy với một chủ ý văn chương và tránh đi sâu vào những phân tích lý thuyết. Những chủ tố ấy được nhấn mạnh, trình bầy chỗ đậm, chỗ lợt trong suốt chuyên luận. Tôi đã giải quyết sự giằng co và độ căng giữa những chủ tố quan trọng, xét về mặt đối tượng nghiên cứu của mình, bằng cách nhấn kỹ một vài nhịp khúc này và buông lơi một vài nhịp khúc khác. Âu đó cũng là một chọn lựa vũ đoán trong quá trình xây dựng văn bản.
*
Viết, Đọc, Thẩm Thức văn bản văn học để biến nó thành tác phẩm, ít nhất cho chính mình, có những quy luật chung mà người viết, người đọc phải tuân thủ. Nhưng từ những cái chung đó, mỗi người lại có những bước đi riêng trong hành trình lập mã và thám mã của mình. Tất cả những cái riêng đó đều có thể đem lại một độ dày thêm cho văn bản, một ánh sáng mới cho tác phẩm mà mình xây dựng hoặc tiếp cận. Địa lý của văn học nói riêng, và nghệ thuật nói chung, từ đó, được mở rộng thêm. Và con đường đi vào tác phẩm, như thế, không phải là một con đường mòn, một con đường một chiều. Nó có thể, qua cách viết, cách đọc, cách thẩm thức, lý giải rất chủ quan, mang tính vũ đoán của mỗi cá nhân người viết hay người đọc, biến thành một thế giới.
Viết và đọc đều là những nỗ lực rất riêng tư, chủ quan, vũ đoán và mang đầy tính hư cấu. Phê bình, một bước nhảy của cái đọc thông thường, cũng vậy. Nó mang đầy nét hư cấu, chủ quan. Nó cho thấy bản lĩnh hay tài hoa của mỗi người.
Hãy biến những con đường mòn thành một thế giới. Hãy cứ, bằng những nỗ lực rất riêng tư và chủ quan của mình, nới giãn cái biên độ của thế giới ấy ra. Để nó làm thành vũ trụ.
Kẻ viết hay người đọc nào lại không thiết tha muốn hướng về cái vũ trụ ấy.
Bùi Vĩnh Phúc
Tustin Ranch, Calif.
12. VIII. 2009
_________________________________
(1) Xem Julia Kristéva, Recherches pour une sémanalyse, Paris: Seuil, 1969
(2) Xem Serge Doubrowsky, Pourquoi la nouvelle critique?, Paris: Mercure de France, 1966
(3) Đây chỉ là một so sánh hết sức đơn giản, vắn gọn của tác giả bài này về những lý thuyết khá phức tạp được một số nhà vật lý lượng tử và nhà khoa học nghiên cứu về thần kinh đưa ra. Thật sự, qua nghiên cứu, họ nhìn thế giới, đúng hơn cả vũ trụ này, như một hình ảnh hologram, do chính tâm và ý của con người phóng chiếu ra.
(4) “World”, ở đây, có thể dịch là thế giới, hay thế gian. Tôi thích từ “thế gian”, cho dù “thế gian” hay “thế giới” thì đều chỉ thẳng vào cái cõi thế này. Sự chọn lựa có lẽ là do liên tưởng. Khi chọn “gian”, có lẽ vô thức đã nhắc tôi nhớ đến những câu như “Thi thị khả giải bất khả giải chi gian” (Thơ nằm trong khoảng có thể giải thích và không thể giải thích được), và “Duy giang thượng chi thanh phong, dữ sơn gian chi minh nguyệt” (Chỉ có gió mát ở trên sông cùng với trăng sáng ở sườn núi–Tô Thức, Tiền Xích Bích Phú). “Gian”, so với “giới”, gợi ra ấn tượng về một không gian có tính giới hạn rõ rệt, cụ thể. Nó lại mang tính “thơ mộng” vì một, hai liên tưởng như trên. Đó là một chọn lựa mang tính vũ đoán trong vấn đề đọc, hay dịch.
(5) Facts, sự kiện (có những chỗ được hiểu như “dữ kiện”), là những phát biểu đúng về sự vật (things). “Ghế” là một sự vật; còn mệnh đề “Cái ghế này mầu đỏ” thì đó là (hay không là) một sự kiện. “Thế gian” như chúng ta biết, theo Wittgenstein, chẳng qua chỉ là hoàn cảnh, chỉ giản dị là một tập hợp của những sự kiện được biết–đó chính là “what is the case”–, hơn là những sự vật tách biệt khỏi những gì mà chúng ta có thể nói về chúng. Chính ngôn ngữ đã xây dựng nên cảm thức của chúng ta về thế giới, về mọi thứ bao quanh chúng ta, cũng như về kinh nghiệm của chúng ta đối với chúng.
(6) Roman Jakobson và những người trong nhóm Chủ nghĩa Tượng trưng về Âm (Sound Symbolism), ngược lại, đã cho rằng quan hệ giữa cái-biểu-đạt (CBĐ) và cái-được-biểu-đạt (CĐBĐ) là thiết yếu, không hề có tính vũ đoán. Luận điểm của nhóm này, đặc biệt của R. Jakobson, có những nét độc đáo. Một khía cạnh của chủ nghĩa tượng trưng về âm, đã khiến Jakobson quan tâm đặc biệt, liên hệ đến các nguyên âm mang mầu sắc (”coloured vowels”). Hiện tượng này chưa được tất cả các nhà ngôn ngữ công nhận, và vẫn còn đang được tiếp tục tranh luận, nghiên cứu (inconclusive and under investigation), cho dù Jakobson đã thử áp dụng nó vào việc bình thơ Mallarmé và đưa ra được một số phát hiện độc đáo. (6 bis) Việc ông cùng với Claude Lévi-Strauss cùng đọc chung bài thơ Les Chats (Mèo) của Baudelaire cũng vậy. (Dù sao, nên xem thêm luận văn Describing Poetic Structures: Two approaches to Baudelaire’s “Les Chats” của Michael Riffaterre, nhà phê bình nổi tiếng Mỹ, giáo sư đại học Columbia, tác giả của Semiotics of Poetry (Ký hiệu học về Thơ), phản bác Jakobson và Lévi-Strauss). Tuy nhiên, trong việc đọc thơ, nếu biết sử dụng một cách hợp lý những hệ luận của cả hai quan điểm này, về sự liên hệ giữa CBĐ và CĐBĐ, người ta dễ bắt được ý nghĩa và những nhịp đập quan trọng của trái tim thơ. Trong vai trò một nhà ngôn ngữ và một nhà thi pháp, Jakobson đã có nhiều đóng góp đáng kể; nhưng có lẽ một trong những đóng góp nổi bật của ông là, từ sự mở rộng về quan hệ liên tưởng và quan hệ ngữ đoạn của Saussure, phát hiện về hai trục lựa chọn và kết hợp trong thao tác hoạt động của ngôn ngữ, đặc biệt trong việc sáng tạo và đọc thơ.
(6 bis) Xem Arby Ted Siraki, Problems of a Linguistic Problem: On Roman Jakobson’s Coloured Vowels, Berlin: Springer Netherland (Neophilologus, tập 93, số 1, Jan. 2009)
(7) Thường, đối với thơ, người ta áp dụng trục chọn lựa (gắn liền với ẩn dụ) nhiều; với văn, trục kết hợp (gắn liền với hoán dụ). Nhưng, cả trong văn lẫn trong thơ, khả năng lồng ghép nhuần nhuyễn hai trục và hai thủ pháp này vào nhau để đưa đến những kết quả thẩm mỹ thích đáng là một nghệ thuật. Nó là một dấu chỉ rõ nét của sự sáng tạo.
(8) Ở đây, chúng ta chỉ tạm nói gọn về vấn đề đọc và phê bình như một quá trình tạo nghĩa, trong đó tính chất vũ đoán của ký hiệu đưa đến những liên nghĩa, hàm nghĩa, đã làm đổ xô lên văn bản một trường nghĩa, có thể nói là vô tận, với những liên văn bản mà người đọc, người phê bình có thể tìm ra trên bản gốc. Chúng ta không đi vào những khía cạnh đặc thù của những lý thuyết về đọc văn bản, như thuyết Hồi ứng của người đọc (Reader Response), hay thuyết Giải cấu trúc (Deconstruction) chẳng hạn. Những vấn đề đó cần được trình bày trong những bài khác.
(9) Xem Bernard Raffalli, Le Manuscrit de “À l’Ombre des Jeunes Filles en Fleurs”, Paris: Laffont, 1998.
(10) Xem Jean Pierre Richard, Poésie et Profondeur, Paris: Seuil, 1955.
(11) Xem Pierre Macherey, Pour une théorie de production littéraire, Paris: Maspéro, 1966
(12) Đây là những từ do Roland Barthes sáng tạo ra. Văn học theo dạng lisible, khả độc, là loại văn học dễ dãi, không đòi hỏi sự đóng góp của người đọc trong việc tạo nghĩa cho văn bản. Nó là loại văn học biến người đọc thành một con người thụ động và lười lĩnh. Nó tách người đọc ra khỏi người viết. Văn học theo dạng scriptible, khả tác, trái lại, là loại văn học đòi hỏi người đọc phải góp sức tạo nghĩa cho văn bản. Nó bắt người đọc phải động não để làm việc và tạo thói quen cho hắn tìm kiếm cái không nói ra trong văn bản. Đọc, với loại văn bản này, là một quá trình tạo nghĩa.
(13) Xem Trần Đình Sử, Văn Học và Thời Gian, Hà Nội: Nxb Văn Học, 2000.
(14) Bùi Vĩnh Phúc, Trịnh Công Sơn / Ngôn Ngữ và Những Ám Ảnh Nghệ Thuật, California: Văn Mới, 2005. Tái bản lần thứ nhất tại Việt Nam, bản có bổ sung: Nhà xuất bản Văn Hoá Sài Gòn, 2008.
Bùi Vĩnh Phúc
___________________________________________________________________________________
3 bình luận »
Lam Truong Phong viết:
“Tình hình này làm ta liên tưởng đến cái nhìn của cơ học lượng tử đối với các vật thể, đúng hơn là các chất thể (particles), được khảo sát. Người ta không thể bỏ qua cái thái độ của người làm công việc khảo sát, thí nghiệm đó, cũng như không thể bỏ qua những thiết bị mà ông ta dùng để đo lường. Những điều ấy có thể làm thay đổi kết quả của thí nghiệm ”
Ông BVP làm tôi hoang mang vô cùng. Bởi vì nếu thế tất cả những lý thuyết vật lý cơ học lượng tử được công nhận có giá trị sẽ bị thử thách vì những kết quả thí nghiệm để củng cố những lý thuyết này có thể bị thay đổi bởi hai lý do: 1) thái độ cũa người làm công việc khảo sát, thí nghiệm đó. Và 2) thiết bị dùng để đo lường. Thái độ của người nghiên cứu lúc nào cũng thay đổi tùy lúc đâu phải lúc nào cũng y hệt như nhaụ bởi vì là con người chứ có phải máy móc gì đâu!!! Thiết bị dùng để đo lường thì có thể kiểm soát mức độ chính xác và điều chỉnh lại Như thế thì lý thuyết của người nghiên cứu vật lý cơ học lượng tử cứ phải thay đổi xoành xoạch luôn luôn theo sự thay đổi thái độ của người làm công việc khảo sát, thí nghiệm?
.- 20.08.2009 vào lúc 7:05 pm
BBT Da Màu viết:
Độc giả Lam Truong Phong và bạn đọc vui lòng đọc phản hồi của tác giả Bùi Vĩnh Phúc ở đây:
http://damau.org/archives/8278
BBT Da Màu
.- 21.08.2009 vào lúc 10:50 pm
mot nguoi dien viết:
Mở đầu bài tiểu luận có viết:
(Văn chương phạm vào hai lần vũ đoán: một là cái vũ đoán của tự thân sự sáng tạo, và hai là cái vũ đoán của sự mô phỏng một thứ mà chính nó, tự bản chất, cũng là một sự vũ đoán: hiện thực)
Nhưng tôi xin bổ sung thêm: Còn cái vũ đoán của những người phát hiện ra hai sự vũ đoán trên của văn chương, tức là vũ đoán về những cái vũ đoán thì tại sao không phát hiện ra? Vậy vũ đoán cuối cùng là gì? Nếu cứ qui hồi như thế thì sẽ đến đâu?
Nó chỉ cho thấy bản thân sự sáng tạo hay hiện thực chẳng liên quan gì đến những phát biểu về nó, tức là công việc tìm cách phát biểu về nó là một cái đuôi ảo tưởng. Chỉ có một cách duy nhất là im lặng và nhìn vào nó. Mọi ý tưởng (ý niệm) về nó đều là sự tự đánh lừa mà thôi. Ngay cả cơ học lượng tử cũng phải tựa trên những định đề chứa đầy ảo tưởng về cấu trúc thế giới, tức là mọi phát biểu tựa trên nó cũng là tựa trên các định đề. Chúng ta không chịu thừa nhận cái sát sườn mênh mông của đời sống con người mà cứ đi theo đuổi những phát biểu lý thuyết và hệ thống chỉ rặt toàn tựa lên nhau (sự việc có nhiều người ủng hộ hay phản đối nó cũng chỉ toàn mang lại các ảo tưởng). Sáng tạo thì không tựa trên cái gì cả, nó chỉ vay mượn, phi sáng tạo thì vay mượn nhưng không có gì để trả nợ.
.- 03.11.2009 vào lúc 11:43 pm
Bùi Vĩnh Phúc
18.08.2009
Literary fiction commits a double arbitrariness: that of invention itself and the arbitrariness with which it imitates what is essentially arbitrary: reality.
(Văn chương phạm vào hai lần vũ đoán: một là cái vũ đoán của tự thân sự sáng tạo, và hai là cái vũ đoán của sự mô phỏng một thứ mà chính nó, tự bản chất, cũng là một sự vũ đoán: hiện thực)
Añicos/ Bits (Những mảnh vụn) / Juan Calzadilla
Thế giới là một văn bản. Chúng ta đang sống trong một thế giới của những ký hiệu, và ký hiệu với trùng trùng lớp lớp nghĩa của chúng đang vây quanh con người mỗi ngày, hay đúng hơn, từng giây từng phút, đòi hỏi được giải mã, khám phá.
Thế giới ngập chìm trong đại dương của những ký hiệu. Con người, trong mỗi xã hội, mỗi quốc gia, được điều kiện hoá để bơi lội hoặc trôi nổi trên đại dương của những lớp sóng ký hiệu đó. Có những con người, để tìm một ốc đảo cho riêng mình sau những giờ phút trôi nổi bập bềnh trên những làn sóng của ký hiệu mỗi ngày, đã tìm cách trú thân trong những cuốn sách. Nhiều người tưởng, như thế, họ tìm được những phút giây an toàn cho mình, sau cuộc vật lộn, trôi nổi trên những con sóng của ký hiệu cuộc đời kia. Nhưng thật ra, hy vọng đó nhiều khi chỉ là một ảo tưởng. Mở một trang sách, bước vào thế giới của chữ nghĩa, con người đã đẩy cửa để bước vào một thế giới khác, cũng đầy ắp những ký hiệu. Những ký hiệu trong sách cũng đòi hỏi phải được giải mã, lột vỏ. Có thế, chúng mới có thể dâng hiến cho người đọc cái tinh chất của chúng, cái chất ngọt, cay, đắng, chát, mặn mà, thơm tho, nồng đượm, hay cái cảm giác thô ráp, mềm mại, sắc lẻm, xù xì… của cuộc đời. Tìm đến những ốc đảo ấy, mỗi người sẽ chỉ còn có chính mình. Họ mang theo cùng với mình tất cả những gì làm nên con người họ, tất cả những gì cấu thành cái thế giới tinh thần của họ: kinh nghiệm sống, những điều trải qua trong đời, giáo dục, sở thích, những ham muốn từ thấp nhất đến cao nhất, thậm chí những dục vọng, những mộng tưởng, lý tưởng của cả một đời. Tất cả những hành trang vô hình đó họ đặt bên cạnh mình khi ngồi trước trang sách. Cuốn sách, bấy giờ, là một văn bản tràn ứ những ký hiệu. Chúng tràn lênh ra, bập bềnh như trên một mặt sóng. Chúng như những làn nước, những lớp nước, chỉ chực tràn ra khỏi trang sách trước mặt người đọc. Có khi chúng lại là những tiếng chim, tiếng gió rượt đuổi nhau trong một cánh rừng đầy nắng lá, hay chúng là những âm thanh, những bóng dáng chập chờn của cuộc đời lúc xa lúc gần, lúc rõ nét khi nhoà nhạt, thức ngủ trong chính chúng ta, trong những thời gian và không gian mà chúng ta không thể luôn luôn gọi tên hay định tính.
Tất cả hiện ra từ trang sách, tất cả bùng lên từ văn bản.
Đó là văn chương. Và, có lẽ, để nói về văn chương, những lời lẽ có thể mang ít nhiều dấu vết văn chương như một, hai đoạn văn trên cũng là tạm đủ. Chúng ta phải đi vào hiện thực “xám” của lý thuyết (”tất cả mọi lý thuyết thì đều màu xám, còn cây đời thì mãi mãi xanh tươi”) để có thể cảm nhận, nắm bắt được rõ hơn những điều mà chúng ta muốn nói.
Julia Kristéva, người đã giới thiệu những ý tưởng về liên văn bản (intertextuality) của Bakhtin đến với thế giới Tây phương, đã cho thấy văn bản là một thế giới được cấu trúc hoá. Nó là một hiện trường, nơi xảy ra những sự gặp gỡ, đối thoại, hoặc va đập của những hình ảnh, tư tưởng, văn hoá, hay, nói tóm lại, của những thế giới khác nhau. Trong một văn bản, có nhiều dấu ấn của các văn bản khác. Những văn bản này có thể xa rời nhau trong cả không gian lẫn thời gian. Chúng đan xen chồng chéo và tạo nên những hàm nghĩa, liên nghĩa trên văn bản gốc. Những văn bản này nằm chìm, lẩn và khuất sâu dưới lớp chữ của văn bản gốc mà mỗi người đọc, với kinh nghiệm, sự giáo dục và những phẩm chất riêng làm thành con người tinh thần của mình, tự phát hiện ra. Có thể nói văn bản là một nguồn nghĩa vô tận. (1) Nghĩa của một từ luôn mời gọi, liên kết với những nghĩa khác, và luôn chờ để được đánh thức dậy trong cái đọc của mỗi con người khác nhau. Nghĩa của chữ, như thế, luôn biến hoá, mở rộng. Nó luôn ở trong thế tiềm năng và có thế triển khai vô giới hạn. Những hàm nghĩa, liên nghĩa luôn nằm trong thể tiềm tại để chờ được khai mở. Như thế, một văn bản có thể đem lại nhiều ý nghĩa khác nhau cho những con người khác nhau. Mỗi văn bản là một liên văn bản. Từ một văn bản văn học, người ta có thể nhìn ra nhiều tác phẩm khác nhau. Và chính là vì tính chất này mà một tác phẩm văn học trở nên có chiều sâu, có sức hút của nó. Những cách nhìn khác nhau, những cái thấy khác nhau, những cách giải mã khác nhau, tất cả làm nên độ lấp lánh của một tác phẩm.
Ở một góc cạnh khác, theo Serge Dubrowski, cấu trúc của một tác phẩm không phải là một cái gì có tính ổn định, nhất thành bất biến. Mà nó là một thế giới mở. Một tác phẩm văn học có thể mang trong mình nhiều lớp nghĩa, và nghĩa của nó không bao giờ có tính chung kết, dứt khoát. Nó thay đổi tuỳ theo cái nhìn, góc nhìn của ngưởi đọc, sự quan sát và thái độ quan sát nó của người ấy. (2) Cấu trúc là cấu trúc đối với một con người đặc thù nào đó. Cái cấu trúc ấy sẽ thay đổi không chỉ từ cá nhân này sang cá nhân khác, mà còn từ những lần đọc này sang lần đọc khác của cùng một con người qua thời gian. Bởi vậy, ý nghĩa của tác phẩm cũng có thể thay đổi theo những tâm cảnh, tâm thế khác nhau, những sự “rót vào” khác nhau của mỗi người đọc hay mỗi lần đọc. Ý nghĩa của tác phẩm, bấy giờ, được dựa trên một phương trình mà tất cả những gì người đọc mang vào trang sách cùng với mình khi đọc trở nên những biến số không thể không được tính đến. “Ý nghĩa của tác phẩm”, như thế, trở nên một hàm số, thay đổi với những biến số mà người đọc mang vào cùng với cá tính riêng và tất cả những gì làm nên con người hắn. Tình hình này làm ta liên tưởng đến cái nhìn của cơ học lượng tử đối với các vật thể, đúng hơn là các chất thể (particles), được khảo sát. Người ta không thể bỏ qua cái thái độ của người làm công việc khảo sát, thí nghiệm đó, cũng như không thể bỏ qua những thiết bị mà ông ta dùng để đo lường. Những điều ấy có thể làm thay đổi kết quả của thí nghiệm. Nói rộng ra, tất cả mọi sự xảy ra trong thế giới hiện tượng này đều như thế. Cái nhìn tạo ra thế giới. Hay, đúng hơn, chính cái tâm ý của ta đã tạo ra thế giới này. Đây không còn phải là vấn đề tâm lý hay triết lý nữa, cho dù Duy Thức luận của Phật giáo, nhìn một cách chung, cũng đưa ra một kết luận như thế. Đọc những quyển sách như The Tao of Physics của Fritjof Capra, hay The Holographic Universe của Michael Talbot, trình bày cái nhìn của nhiều nhà vật lý lý thuyết, vật lý lượng tử cũng như của một vài nhà khoa học nghiên cứu về thần kinh, về não bộ nổi tiếng, như David Bohm (London U.) và Karl Pribam (Stanford U.), khiến ta phải giật mình khi thấy rằng cả thế giới, và, rộng hơn, cả vũ trụ này, trong quan sát và nghiên cứu của họ, cũng giống như một quyển sách, chỉ là những văn bản mở, để con người “rót” cái nội dung riêng tư của nó vào, làm nên cái lấp lánh của những “văn bản” khác nhau. (3)
Nói như L. Wittgenstein (với mệnh đề nổi tiếng, xuất hiện trong câu đầu tiên của tiểu luận triết học Tractatus Logico-Philosophicus của ông), “The world is all that is the case”. Tất cả mọi sự đều diễn ra trong thế gian. Phải, thế gian, như thế, là nơi dung chứa mọi hoàn cảnh, nơi diễn ra đủ sự. (4) Và “sự” đây là “sự kiện/dữ kiện” (facts) chứ không phải là “sự vật” (things). (5) Nhìn ở một góc độ nào đó, và chỉ giới hạn trong việc xét văn bản, phán đoán này có những chỗ gần gũi với xác quyết của những nhà nghiên cứu văn bản theo tinh thần của chủ nghĩa hình thức Nga, hay của cấu trúc luận, nhìn văn bản như một cấu trúc mang tính tự trị. Và cả J. Derrida nữa, mà tên tuổi được gắn liền với Giải cấu trúc luận về sau, cũng thế, khi nói rằng không có gì ở ngoài văn bản. Tất cả mọi sự là ở bên trong.
Văn bản là một thế giới, và trong thế giới đó, chữ nghĩa (là những yếu tố cấu thành nó) cứ trượt đi. Nó được xây dựng bởi một lớp ngôn từ động. Chữ và nghĩa, các nghĩa tố, trượt vào nhau cũng như trượt qua nhau (glissement), để lại những dấu mờ, những ký hiệu của ký hiệu, như những tinh vân, khi sáng khi tối trước mắt con người. Nghĩa vẫy gọi nghĩa, nghĩa liên kết và rủ rê nhau. Ký hiệu tạo ra ký hiệu, và những ký hiệu mới được tạo ra đó lại sinh sản ra những ký hiệu khác. Đọc là đi vào trung tâm của những vòng tròn tạo nghĩa. Đọc là một “thực hành tạo nghĩa” (pratique signifiante), nói như J. Kristéva. Tất cả những ký hiệu, và những dấu mờ của chúng, dệt nên một tấm thảm bay với những hàm nghĩa, liên nghĩa, nghĩa sáng nghĩa tối, nghĩa mờ nghĩa đục, nghĩa nhoè nghĩa nét, đan kết, xoắn bện vào nhau. Một tấm thảm kỳ diệu. Tấm thảm này có thể nâng con người lên và chở nó đi khắp mọi nơi.
Cũng có thể nhìn văn bản như một ống kính vạn hoa (kaleidoscope). Tất cả những ký hiệu, như đã nói, trượt vào nhau, trượt qua nhau, và làm thành sự khác biệt. Những kết hợp khác nhau đó làm nên thế giới. Mỗi lần ống kính xoay, lại một thế giới khác hiện ra. Và mỗi người chúng ta đều có những cách xoay ống kính riêng của mình.
Một điều cũng nên nhắc lai ở đây là tính vũ đoán của ký hiệu (ngôn ngữ). Như F. de Saussure đã phân tích, giữa sự vật được phản ánh (như con ngựa, cái cây, v.v.) với cái-biểu-đạt (là mặt chữ, vỏ tiếng hay vỏ ngữ âm) và cái-được-biểu-đạt (tức khái niệm được phản ánh bên trong những chữ “con ngựa” hay “cái cây”, v.v.) không hề có một quan hệ hữu cơ nào. Đó chỉ là một sự vũ đoán, chấp định. Một quy ước của một tập thể người. (6) Và chính là từ sự chấp định này, ký hiệu (ngôn ngữ) nói chung và văn bản văn học nói riêng, mang tính đa nghĩa, mơ hồ và nhập nhằng trong cái nghĩa tích cực của nó. Sở dĩ thế là vì, như đã nói, với sự khám phá và phân tích của Saussure và nhiều nhà ký hiệu học sau này, trong cùng một vỏ tiếng, vỏ âm thanh (envelope sonore), con người có thể lồng ghép, đắp đổi nhiều nội dung có liên hệ xa gần với nhau. Những nghĩa xuất phát từ những chi, những nhánh chính, và những nghĩa từ những chi, những nhánh phụ. Trường nghĩa cứ thế mà sinh sôi nẩy nở. Các nghĩa trượt lên nhau, trượt vào nhau và trượt qua nhau đã làm thành một trường nghĩa rộng lớn. Nghĩa tạo ra nghĩa, từ những liên nghĩa, hàm nghĩa, nghĩa ẩn, nghĩa chìm, và dấu vết của chúng, sau khi bị vượt qua, vẫn còn tiếp tục nằm ở đấy, làm đầy cái không gian ngữ nghĩa. Và cái chu trình ấy có thể tiếp diễn một cách vô tận.
Sử dụng những con chữ như một thứ khế ước xã hội, các nhà văn nhà thơ phải tuân thủ những luật tắc của chữ viết, của văn phạm. Nhưng, dựa trên chính những quy tắc ấy, kẻ sáng tạo lại có thể tự do hư cấu trong thế giới của mình bằng cách mở rộng phạm vi ngữ nghĩa của các ký hiệu hắn dùng, nhất là trong thơ. Bằng cách sử dụng và lồng ghép hai trục chọn lựa và kết hợp khi hành từ và bố trí câu như một chiếc đũa thần (7), con người có thể sáng tạo ra nhiều thế giới kỳ diệu, với cá tính và qua hư cấu chủ quan, vũ đoán riêng của mình.
Giống như trong sáng tác, phê bình cũng là một hoạt động hoàn toàn mang tính chủ quan, vũ đoán, thậm chí hư cấu. Đúng, hiểu theo một nghĩa nào đó, phê bình cũng là một dạng sáng tạo dựa trên hư cấu. Và nó rất chủ quan, vũ đoán. (8) Nhưng cũng chính tính chất chủ quan, vũ đoán và hư cấu này đã làm nên điều kỳ diệu mà chữ viết của con người đã làm được. Là vất đẩy người đọc vào một (hay những) thế giới mới, không hề mòn. Nó mở ra những thế giới. Với cá tính, kiến thức, bản lĩnh, và, thậm chí, sự mơ mộng riêng của mình, và, dĩ nhiên, cũng với việc phải tuân thủ một số quy luật nội tại của việc đọc văn bản, mỗi người đọc, người phê bình, có thể mở ra những thế giới khác lạ khi tiếp cận với văn bản. Phê bình và đọc văn đúng nghĩa không bao giờ mở ra những thế giới phẳng, như cái thế giới hiện tại mà con người đang sống, trong quan niệm của Thomas Friedman. Mà, với những hàm nghĩa và liên nghĩa, nó mở ra những thế giới “cong”, đầy sức sống. Những thế giới này, nói một cách hình tượng, lồng vào nhau, chập vào nhau, và trao đổi chất cho nhau. Đọc một văn bản văn học, để biến nó thành một tác phẩm, có lẽ điều người đọc cần làm không phải chỉ là dùng lý trí, mà là dùng, nhiều hơn, sự liên tưởng và trí tưởng tượng của mình.
Hãy thử đọc một vài câu thơ của Trần Dạ Từ:
Thuở làm thơ yêu em
Trời mưa chưa ướt áo
Hoa cúc vàng bên thềm
Gió may lưng bờ dậu
Chiều sương dầy bốn phía
Lòng anh mấy ngã ba
Tiếng đời đi rất nhẹ
Nhịp sầu lên thiết tha
Thuở làm thơ yêu em
Cả dòng sông thương nhớ
Cả vai cầu tay nghiêng
Tương tư trời thành phố (…)
(Thuở làm thơ yêu em, 1962)
Những câu thơ thật đẹp. Và Cung Tiến đã đưa những câu thơ như lụa phất ấy vào nhạc của mình. Thuở làm thơ yêu em. Một thuở. Chắc chắn cái thuở ấy đã qua. Ta không cần tìm biết hệ quả của những hành động chàng tuổi trẻ đã làm trong thuở ấy. Điều đó không cần thiết. Chỉ biết rằng đã có một thuở trong đời. Tình yêu. Trời mưa. Hoa cúc. Mầu vàng hoa. Gió may. Bờ dậu. Những ký hiệu và những hình ảnh lồng vào nhau. Những con âm vang lên trong đầu. Chúng nhân nhau lên trong trí và trong tâm hồn của mỗi người đọc thơ, vì những hình ảnh, những ám gợi về tình yêu, về những cơn mưa, v.v., trong mỗi con người là khác nhau và gắn bó với nhiều ấn tượng. Chúng tạo ra hàng loạt các trường nghĩa. Từ những kinh nghiệm, xúc cảm, và những liên tưởng rất vũ đoán của mỗi ngưởi đọc, một con âm hoặc một con chữ có thể lôi cuốn nhau và tạo thành một cơn lũ. Nếu có thể cộng hết lại những hình ảnh, ấn tượng, rung động của tất cả mọi người trong thế gian này khi đọc một câu thơ hay một bài thơ của một thi sĩ bất kỳ nào đó, ta sẽ có cả một thế giới. Vậy thì, với bao nhiêu bài thơ, câu thơ mà con người có trong cuộc đời này (chưa nói đến những câu văn hoặc những tác phẩm dài hơi khác), chúng ta có bao nhiêu thế giới?
Trong bốn câu thơ đầu, dù sao đi nữa, có lẽ trong trí óc của một người Việt như tôi, những ấn tượng mang lại có nhiều âm hao, ám ảnh Việt Nam. Vì những hoa cúc, gió may và bờ dậu chăng? Có lẽ. Những hình ảnh ấy rung lên, lấp loá, chập vào những hình ảnh khác trong tôi. Hãy chỉ thử đưa ra một vài trong bao nhiêu ấn tượng nở bùng lên trong đầu. Hoa cúc, làm tôi nhớ đến một câu thơ của Nguyên Sa, Áo nàng vàng, anh về yêu hoa cúc. Chỉ là nhớ đến, không cần biết hoa cúc trong câu thơ của ai nở trước. Gió may, tôi nhớ quá đôi mắt của người con gái trong thơ Quang Dũng, Mắt kia em có sầu cô quạnh / Khi chớm may về một sớm mai. Và gần hơn nữa là cái gió heo may đã về, chiều tím loang vỉa hè của Trịnh Công Sơn. Còn bờ dậu? Nó làm tôi nhớ đến Nhà nàng ở cạnh nhà tôi / Cách nhau cái dậu mồng tơi xanh rờn của Nguyễn Bính. Bờ dậu, thậm chí còn làm tôi nhớ đến những câu thơ Đứng im ngoài hàng dậu / Em mỉm nụ nhiệm mầu / Lặng nhìn em kinh ngạc / Vừa thoáng nghe em hát / Lời ca em thiên thâu / Ta sụp lạy cúi đầu (Thược Dược, Quách Thoại). Một đoá hoa nở bên bờ dậu đấy. Bao nhiêu là hình ảnh thật Việt Nam!
Sang bốn câu thơ kế, hình ảnh Việt Nam chắc vẫn còn đấy. Nhưng chúng không còn đậm đặc như trong bốn câu thơ đầu nữa, với những hình ảnh có chút chênh chao ngả nhẹ theo nhịp ngữ pháp tây phương, cộng với những thủ pháp nhân hoá và ẩn dụ được dựng lên trong từng câu thơ. Đến đoạn ba, tự nhiên ta thấy như được dẫn vào một khung trời “lạ hoá” với những đường nét không gian không còn hoàn toàn mang tính điển hình của một khung cảnh Việt Nam. A, thế nào là Việt Nam? Rất khó nói, có lẽ là do cách đọc, cách cảm cùng với kinh nghiệm đọc và rung động của từng người. Riêng tôi, cả đoạn thơ này tự nhiên nhắc tôi nhiều đến những khung trời Paris của Jaques Prévert. Riêng câu Cả vai cầu tay nghiêng thì lại làm tôi đặc biệt nhớ đến Appolinaire trong bài Le Pont Mirabeau. Trong bài này, thi sĩ đã tả hai người nam và nữ, hai kẻ yêu nhau, trong một tư thế thật đẹp, giống như trong một số bức tranh vẽ tình nhân của Chagall:
Les mains dans les mains restons face à face
Tandis que sous
Le pont de nos bras passe
Des éternels regards l’onde si lasse…
(Tay nắm lấy tay và mặt nhìn mặt
Trong lúc đó dưới
Cầu của những cánh tay đôi ta lướt chảy
Dòng nước mệt mỏi của những thoáng nhìn thiên thu…)
Những liên tưởng đã dẫn tôi đi xa như thế, để tôi nhìn thấy trong Cả vai cầu tay nghiêng những hình ảnh còn in đậm trong lòng tôi của Le pont de nos bras, và cả một khung trời thương yêu của Appolinaire có dòng sông Seine chảy qua. Tất cả các liên tưởng đều là vũ đoán. Và sự vũ đoán đó đã làm cho bài thơ, đối với tôi, có thêm chiều dày và lấp lánh hơn.
Đọc là liên tưởng và thực hiện những hành động vũ đoán như thế. Nhưng viết thì cũng không khác. Khi chúng ta viết, dù thơ hay văn (nhưng đặc biệt là thơ), sự chọn lựa, kết hợp các từ ngữ cũng chính là một hành động rất vũ đoán. Nhất là khi ta, một cách vô tình hay hữu ý, sử dụng những biện pháp chuyển nghĩa (trope) như ẩn dụ, hoán dụ, so sánh, nhân hoá, v.v. Khi một người Việt Nam nào đó, trong xa xưa, đã sáng tạo ra câu Lòng em như quán bán hàng / Còn anh là khách qua đàng trú chân, hay câu Em như cái giếng giữa đàng / Người khôn rửa mặt, kẻ phàm rửa chân, thì quả là người đó đã rất vũ đoán để đem so sánh tâm hồn hay thân phận của một con người (đặc biệt lại là một người con gái) với một túp hàng quán, hay như một cái giếng. Thế nhưng, chính cái vũ đoán đó đã để lại cho chúng ta những câu ca dao tuyệt vời như thế cho đến bây giờ. Nó làm cho những hình ảnh ấy sống mãi. Cũng thế, trong vở chèo Thị Kính, tác giả đã cho Thị Mầu “chào hàng”/”nhá hàng” với anh Nô bằng một câu chòng ghẹo táo bạo, Gió xuân đánh tốc dải yếm đào / Anh trông thấy oản sao không vào thắp hương. Tác giả của câu chèo tinh quái và kinh khủng này đã đặt vào miệng Thị Mầu một ẩn dụ thật … trẻ không tha, già không thương (hay Phật không tha, Chúa không thương ?-vì “oản” là để cúng Phật, và câu hát bóng gió đầy tính… trêu hoa ghẹo nguyệt kia, “gọi mời thắp hương” kia, lại được thốt ra trong khung cảnh nghiêm trang nơi cửa thiền. Mà chính là vì ả Thị Mầu đang ve vẩy ở nơi đấy nên mới có cớ giục mời người ta vào thắp hương như thế!). Một sự nhìn ngắm, liên kết để rồi so sánh đến vậy, không gì khác, chính là một sự vũ đoán, ập vào nhau những hình ảnh, những khái niệm đáng lẽ là rất xa nhau. Nó làm bật ra những tia lửa của sự sáng tạo. Đúng là có những cái vũ đoán chết người, nhưng chúng đã khắc nét vào văn chương như thế.
Trở lại với chuyện đọc văn. Khi đọc À l’ombre des jeunes filles en fleurs (Dưới bóng những cô gái đương hoa) của Marcel Proust, trong bộ À la Recherche du Temps Perdu (Đi Tìm Thời Gian Đã Mất), Bernard Raffalli (9) đã nghĩ đến những bông hồng nở vội của Ronsard (Mignonne / Allons voir si la rose / Qui se matin avait déclose / … Vivez, si m’en croyez, n’attendez à demain / Ceuillez dès aujourd’hui les roses de la vie–Em ơi, ta hãy ra xem / Đoá hồng đã nở bên thềm hay chưa / … Hái đi, đừng để quá mùa / Hoa hồng cuộc sống chẳng chờ đến mai). Cùng lúc, ông cũng nghĩ đến những bông hoa ác, những bông hoa tội lỗi (Les Fleurs du Mal) của Baudelaire, cùng với cái mùi của dục tính và sự tàn rữa; đồng thời, ông cũng nhớ đến cả những cô gái lửa (Les Filles du Feu) của Nerval. Một sự liên tưởng nhìn thoáng qua tưởng là vũ đoán, nhưng hẳn nhiên là nó có nguồn gốc từ kinh nghiệm đọc, mơ mộng, và phân tích của Raffalli. Trong tác phẩm của Proust, hình ảnh những cô gái đẹp tươi, đương trong lứa tuổi hoa niên ấy, được liên kết với nhiều hình ảnh của những khóm hoa, những bụi hoa, tươi sáng có, mà tàn rữa cũng có. Và những người con gái đương hoa kia, với những mối tình, những ham muốn bị kìm nén của họ, như những đoá hồng toả ra một mùi hương thương nhớ, phả khắp những trang sách. Kinh nghiệm đọc và những liên tưởng của nhà phê bình đã đem lại hạnh phúc cho người đọc ông. Chúng cũng làm dày thêm sự hiểu biết và làm phong phú tâm hồn người đọc.
Cũng thế, trong Poésie et Profondeur (Thi ca và Độ sâu), Jean Pierre Richard đã phát hiện ra rằng cả Baudelaire, Gérard de Nerval, Arthur Rimbaud và Paul Verlaine đều bị ám ảnh bởi độ sâu. Rimbaud thì muốn lấp bằng độ sâu, và nếu không thực hiện được, ông tìm cách thoát ra khỏi nó. Nerval thì muốn giảm bớt độ sâu bằng nỗ lực mô tả những gì nổi lên, những sự vật nổi lềnh bềnh trên mặt nước. Verlaine, yếu đuối hơn, luôn bị sự ám ảnh kinh hoàng của những độ sâu vô tận, những lỗ hổng không đáy. Còn Baudelaire thì, cho dù có hãi sợ, có hoang mang choáng váng trước cái hút xoáy của những độ sâu, vẫn muốn đâm đầu lao mình xuống tận đáy vực. (10) Phải có một liên tưởng bén nhậy, cộng với một sự vũ đoán nhất định, cùng với một năng khiếu phân tích tâm lý đến một độ nào đó thì người ta mới có thể đưa ra những so sánh và nối kết như thế. Và thao tác của Pierre Richard có thể đã là, đầu tiên, ông nhìn thấy hình ảnh độ sâu nơi một nhà thơ nào đó trong bốn nhà thơ vừa kể, cùng với phản ứng và cơ chế tâm lý của nhà thơ ấy. Từ đó, ông đã liên tưởng đến những nhà thơ còn lại mà, qua thơ ca của họ, ông cũng đã bắt gặp những độ sâu, với những phẩm chất khác. Rồi, có thể bằng một phương pháp gần gũi với phương pháp xếp chồng những văn bản của bốn nhà thơ này lên nhau, ông đi sâu vào tìm hiểu kỹ hơn tính cách và phong cách của từng nhà thơ. Tất cả đều bắt nguồn từ liên tưởng, từ sự nối kết các (liên) văn bản của nhà phê bình.
Khi nghe những câu hát này trong bài Đêm của Trịnh Công Sơn:
Đêm xanh hay đêm đỏ
Đêm hồng đêm mong manh
Đêm đêm rừng nuôi gió
Đêm hồng má thị thành
Đêm ôm vai em nhỏ
Giấc ngủ như chiêm bao
Đêm thơm từng chiếc lá
Cho tình bay lên cao
Đêm sâu không xa lạ
Kéo gần đêm thiên thu
Đêm xin thành nỗi nhớ
Đêm đợi đoá hẹn hò
Đêm yên như phố cổ
Chút tình riêng xôn xao
Đêm xa gần môi má
Có dài không đêm thâu (…)
tự nhiên tôi nhớ đến bài Đêm Trăng của Đoàn Thị Lam Luyến:
Đêm dài như châu chấu
Của tuổi thơ chín mười
Đồng trưa mưa rào tạnh
Theo đàn châu chấu bơi
Đêm dài như xác pháo
Xé tan tuổi đôi mươi
Chưa tiêu gì ra món
Đã hết veo cuộc đời
Đêm dài… đêm cành đa
Như kiến leo cành cộc
Leo vào rồi leo ra
Đâu biết mình trùng lặp
Hai bài thơ, nếu có thể nói như thế, có nhiều nét khác nhau, cho dù chúng đều lấy đêm làm xuất phát điểm. Ta sẽ không phân tích dài dòng vào chi tiết để thấy rõ những sự khác biệt đó. Có lẽ chỉ nên nói là, dù có dùng các con âm Việt, chữ nghĩa Việt, các tác giả đã sử dụng những chất liệu ngôn ngữ khác nhau để làm ra những sản phẩm khác xa nhau. Cho dù chúng đều gắn bó với những thủ pháp chuyển nghĩa giống nhau như ẩn dụ, hoán dụ, so sánh, nhân hoá, v.v., hai bài thơ đã tạo nên hai khí quyển khác biệt. Chúng như hai khối tinh vân tự xoay vần theo quỹ đạo của riêng mình. Bài thơ của TCS có mật độ dày hơn của những biện pháp tu từ ập vào nhau, như trong những hình ảnh đêm đêm rừng nuôi gió, đêm đợi đoá hẹn hò. Bài thơ đưa ra cái nhìn từ xa đến gần, rồi lại từ gần ra xa, và từ ngoài vào trong, rồi từ trong ra ngoài, về mặt không gian; và từ điểm quy chiếu của hiện tại, kéo dài cho nó chạm vào cõi xa thẳm của thiên thu, rồi lại thu kéo về cõi người bé nhỏ, xét về mặt thời gian. Còn bài thơ của ĐTLL thì lại bắt vào những hình ảnh liên văn bản trong những câu như Đêm dài… đêm cành đa, như kiến leo cành cộc. Câu thơ làm ta nhớ đến câu ca dao tuổi nhỏ Con kiến mày leo cành đa. Leo phải cành cộc leo ra leo vào. Con kiến mày leo cành đào. Leo phải cành cộc leo vào leo ra… Nó tạo nên một cảm thức quẩn quanh, bít bùng, không lối thoát. Những câu thơ soi chiếu vào hạnh phúc tuổi thơ và thân phận mình hiện tại. Hình ảnh châu chấu, được lặp đi lặp lại hai lần, gắn với một cái gì sinh động, hớn hở. Một mầu xanh như ngọc của thân mình những con châu chấu được đưa vào cận ảnh dưới ánh mắt tuổi thơ. Chân chúng búng tanh tách, và chúng bơi trên mặt nước. Điều đó gắn với cái hồn nhiên, sinh động của tuổi nhỏ. Rồi những mảnh pháo hồng nổ tan tác. Rộn rã đấy, nhưng rồi vụt biến nhanh. Cuộc đời trôi qua vội vã, rồi vỡ vụn như những xác pháo. Để, cuối cùng, cái còn lại chỉ là sự nhỏ nhoi, quanh đi quẩn lại của những lối mòn… Ngoải ra, thủ pháp so sánh trong Đêm Trăng lại là một cái gì mang tính rất biểu kiến. Dạng thức thì là so sánh, Đêm dài như châu chấu, Đêm dài như xác pháo, nhưng bản chất thì lại là ẩn dụ lồng vào hoán dụ (bởi lẽ, đêm không thể nào dài như… châu chấu hay xác pháo được). Hai bài thơ đưa ra những khắc khoải riêng, những tâm sự đặc thù, theo những hướng khác nhau, và tạo ra những không gian, thời gian khác biệt. Vậy mà nó lại thu hút nhau, ập vào nhau trong cảm thức của một người đọc. Đọc hay nghe riêng biệt bài hát của TCS và bài thơ của ĐTLL, chắc chắn là mỗi người đọc khác lại thấy nẩy nở ra trong lòng mình những liên tưởng khác biệt, những ám gợi, những hình ảnh không trùng hợp với cách liên tưởng, cách đọc của tác giả bài viết này. Đó chính là do kinh nghiệm sống và đọc, do cơ chế tâm lý riêng của mỗi người khi tiếp cận với tác phẩm.
Liên tưởng có khi được giải thích, có khi không, nhưng chắc chắn là chúng có những gốc rễ của mình. Bởi vậy, khi nói phê bình là một hành động chủ quan và vũ đoán, thì chủ quan là đúng, còn vũ đoán chỉ là một cách nói có phần cường điệu. Bởi đó không hề là một thái độ tuỳ tiện. Nó có gốc rễ, và gốc rễ ấy nằm trong “vùng giao”, vùng chồng lấp lên nhau của liên tưởng và sáng tạo. Và thái độ đó thích hợp với một định nghĩa của “vũ đoán”, là “dựa trên, hoặc tuỳ thuộc vào, sự thẩm định hay chọn lựa mang tính cá nhân” (based on or subject to individual judgment or preference—www.thefreedictionary.com). Và, đúng thế, người tiếp cận văn bản, tuỳ vào độ mở của văn bản mà hắn đang khảo sát, phải có những nỗ lực riêng của mình để bóc, tách những lớp nghĩa, cũng như nối kết những ấn tượng, những hình ảnh mà tác giả đã đưa vào tác phẩm một cách hữu thức hoặc vô thức. Có thế, hắn mới cảm nhận được những hạnh phúc của sự đọc.
Đọc là một hành trình thám mã. Là một quá trình tìm nghĩa và tạo nghĩa. Qua liên tưởng, qua chọn lựa, qua kết hợp. Cũng giống như khi chúng ta viết. Chỉ có điều là khi viết, hai thao tác chọn lựa và kết hợp được thực hiện một cách có vẻ có ý thức hơn. Và có thời gian hơn. Còn trong khi đọc, tất cả những điều này xảy ra rất nhanh. Người đọc không kịp trở tay. Những hình ảnh và ấn tượng tóm lấy ta và vứt đẩy ta vào một cơn cuồng lũ của nghĩa, liên nghĩa và hàm nghĩa. Hai loạt nghĩa sau là những cái không hề có mặt trên văn bản. Theo Pierre Macherey, cái đặc thù của văn học là nó luôn hàm chứa trong nó một cái vắng mặt. Văn bản là cái được nói ra, nhưng trong cái được nói ra đó có hàm chứa những cái không được nói ra. Cái nói ra dựa vào cái không được nói ra. Có một sự chồng lên nhau giữa cái được nói ra và cái ẩn kín bên trong, cái lùi khuất khỏi tiền trường sân khấu. Đó là cái không được phát ngôn, tức sự im lặng. (11) Văn bản là một không gian, một hiện trường được tổ chức theo các quy luật ngôn ngữ. Nó che đậy ở bên dưới nó những cái vắng mặt, những kho tàng được chôn giấu, ẩn kín. Bởi vậy, đọc hay phê bình văn học là đi tìm cái bị che giấu kia, đi tìm cái vắng mặt, cái không hề hiện diện tại hiện trường.
Như đã nói, ký hiệu ngôn ngữ, nói chung, mang tính vũ đoán. Đọc, phê bình, tìm cách mở một văn bản, cũng hàm chứa tính chất đó, nhưng ở một cấp độ khác. Những cái được nói, được viết ra và những cái ở đằng sau, ở bên trong, ở hậu trường, giằng co, đòi được khám phá, bộc lộ. Chính điều đó khiến cho tác phẩm trở nên mơ hồ, “nhập nhằng”, đa nghĩa. Chúng tạo nên một độ căng, do sự giằng kéo của các ý nghĩa, liên nghĩa, và hàm nghĩa, mà người đọc phải tìm cách giải quyết. Tạo được một tác phẩm đầy tính “khiêu gợi” như thế, trong chừng mực nào đó, với ý thức của mình, kẻ sáng tạo làm nổi rõ dấu ấn sáng tạo của hắn. Tôi nói “trong chừng mực nào đó, với ý thức của mình”, vì không phải lúc nào tác giả cũng kiểm soát được những điều mình viết ra. Rất nhiều khi, chữ, nghĩa, và các hình ảnh, ý tưởng trong một văn bản vượt ra khỏi ý thức của người viết. Đọc được, hay, đúng hơn, đọc thấy, những điều ẩn kín, những điều không nói ra trong văn bản, những vết tích của vô thức, những liên tưởng bất ngờ làm bật sáng văn bản, những ngã rẽ lối quành của nghĩa, cũng khẳng định bản lĩnh của người đọc, người phê bình. Đó là sự xâm nhập văn bản và bóc nó ra, coi nó như một dạng scriptible (khả tác). Là không nhìn nó một cách hời hợt như một dạng lisible (khả độc). (12) Một tác phẩm thật sự luôn ở trạng thái tiềm thế. Nó luôn có thể được soi rọi, nhìn ngắm và phân tích lại, để cung hiến cho người đọc những cách nhìn mới, những ý nghĩa mới.
Như thế, theo tôi, đọc là sự phân vân (của chủ thể đọc) giữa những hình ảnh, những ấn tượng, là sự phân vân (của hắn) giữa ý tưởng này và ý tưởng nọ, giữa liên tưởng này và liên tưởng kia. Là sự gặp gỡ của chủ thể đọc với các nghĩa trong văn bản, để rồi phải quyết định trước sự giằng kéo của các nghĩa tố khác nhau. Từ đó, người đọc có thể nhìn thấy một thế giới đa nghĩa, nhiều chiều cạnh, một thế giới lấp lánh nhiều mầu sắc. Đó không còn là một thế giới bị mòn đi trong cái nhìn trượt theo quán tính của cuộc sống thường ngày. Đọc là đồng sáng tạo chính là ở trong tinh thần đó.
Khi đọc, có nghĩa là khi làm những “thực hành tạo nghĩa”, có lẽ cũng không nên quá hăng hái để vội quyết đoán là tác giả đã thiếu sót vì đã không trình bày được điều này hay điều kia (nhất là khi chúng khá hiển nhiên), như chúng đáng lý phải được trình bày như vậy. Dù là đọc một bài thơ, một truyện ngắn, một cuốn tiểu thuyết, hay một tác phẩm phê bình. Tất cả đều là những văn bản văn học. Có thể có một lý do nào đó đã khiến tác giả không viết chúng ra, hoặc là đã giữ chúng lại để trình bày trong một dịp khác thích hợp hơn. Trường hợp Tolstoi có thể là một thí dụ đáng nghĩ. Sau khi Chiến Tranh và Hoà Bình được xuất bản, “báo chí cấp tiến đương thời đã trách cứ Tolstoi là trong tác phẩm đồ sộ ấy thiếu hẳn dấu vết của hiện thực thảm khốc của chế độ nông nô, một đặc trưng nổi bật của thời đại…”. Tuy nhiên, tìm hiểu sâu thêm qua việc nghiên cứu các bản nháp của tác phẩm, người ta thấy rằng, trong những dị bản đầu tiên, Tolstoi đã mô tả chi tiết các khía cạnh tiêu cực, đen tối, phản ánh những khổ đau của tầng lớp nông nô. Đó là những mô tả hết sức hiện thực cuộc sống khổ đau của những lớp người nghèo khó, của những con người thấp cổ bé miệng, cho dù họ là nông nô hay binh lính. Những mô tả này cho thấy mâu thuẫn khe khắt giữa những tầng lớp trên, như địa chủ và sĩ quan, với những tầng lớp dưới, như nông nô và binh lính đói rét. Dù sao, những mô tả này không thấy xuất hiện trong văn bản cuối cùng được phát hành. Những nhà nghiên cứu Tolstoi đã cho rằng, “cảm hứng chủ đạo của Chiến Tranh và Hoà Bình (…) là niềm tin say đắm của tác giả vào tư tưởng mà ông cho rằng thời đại mà ông miêu tả là thời đại nảy nở cao nhất của đạo đức nhân dân, là thời kỳ phục hưng của toàn dân Nga, đã đưa họ tới chiến công cứu nước.” Chính cái cảm hứng chủ đạo này, cuối cùng, đã khiến Tolstoi phải hy sinh những mô tả về những phương diện khổ đau của nông nô, để tập trung nhấn mạnh vào lòng dũng cảm, ý chí và sức mạnh của nhân dân trong chiến tranh vệ quốc. (13) Để đạt hiệu ứng tối đa nhất trong việc trình bày đề tài của mình, Tolstoi đã phải chọn lựa. Và hy sinh.
Một người đọc có ý thức và có sự cẩn trọng có lẽ cũng nên chú ý đến những cái vắng mặt khá hiển nhiên trong một văn bản văn học, để thử lý giải những sự vắng mặt đó, trước khi lên tiếng phản đối hay đưa ra phán quyết của mình. Đúng như Macherey đã nói: một tác phẩm không bao giờ thổ lộ được hết tất cả những gì tác giả muốn nói, bởi vì “để nói ra một điều gì đó thì có những điều khác đã không được nói ra, hoặc không nên nói ra.” (11)
Trong kinh nghiệm cá nhân, về phương diện này, tôi cũng đã rất ngạc nhiên và khá bất ngờ khi thấy trong tập Những Bài Ca Không Năm Tháng, tuyển hơn 120 ca khúc của mình, được xuất bản mấy năm trước khi anh mất, Trịnh Công Sơn đã không đưa vào những ca khúc phản chiến một thời đã làm nên tên tuổi anh. Có lẽ đã có một suy nghĩ đắn đo nào đó, có một ý nghĩa quyết định, đã khiến anh không đưa chúng vào tuyển tập đánh dấu một đời sáng tác này của mình. Tôi bỡ ngỡ, nhưng thấy không nhất thiết phải lý giải điều đó. Cho dù, hình như, con người dễ dàng đưa ra một phán đoán về một hành vi của người khác, hơn là về hành vi của chính mình. Bất cứ phán đoán nào trong vấn đề này cũng đều có thể là một phán đoán mang tính đơn giản và dễ dãi. Và quyết định đó, có tính cách hết sức cá nhân của người nhạc sĩ, cũng không làm mất đi giá trị và những dấu ấn lửa mà loạt tác phẩm này đã tạo ra trên lương tâm, trên tâm thức con người, Việt Nam cũng như toàn thế giới. Khi viết chuyên luận về Trịnh Công Sơn (14), lúc đầu, tôi cũng đã đi vào phân tích sâu khía cạnh phản chiến của những loạt ca khúc như Ca Khúc Da Vàng, Kinh Việt Nam, v.v. Nhưng sau đó, tôi đã bỏ đi tất cả, chỉ còn giữ lại một phần ngắn trong chương hai, Dẫn Vào Những Ám Ảnh Nghệ Thuật, phần Ám Ảnh Chiến Tranh. Tôi muốn tập trung vào những chủ tố về Thân Phận Con Người (nói chung–không phải chỉ về thân phận con người Việt Nam, đóng khung trong một cuộc chiến), Tình Yêu và Nỗi Cô Đơn trong sáng tác của TCS. Và tôi đã làm điều ấy với một chủ ý văn chương và tránh đi sâu vào những phân tích lý thuyết. Những chủ tố ấy được nhấn mạnh, trình bầy chỗ đậm, chỗ lợt trong suốt chuyên luận. Tôi đã giải quyết sự giằng co và độ căng giữa những chủ tố quan trọng, xét về mặt đối tượng nghiên cứu của mình, bằng cách nhấn kỹ một vài nhịp khúc này và buông lơi một vài nhịp khúc khác. Âu đó cũng là một chọn lựa vũ đoán trong quá trình xây dựng văn bản.
*
Viết, Đọc, Thẩm Thức văn bản văn học để biến nó thành tác phẩm, ít nhất cho chính mình, có những quy luật chung mà người viết, người đọc phải tuân thủ. Nhưng từ những cái chung đó, mỗi người lại có những bước đi riêng trong hành trình lập mã và thám mã của mình. Tất cả những cái riêng đó đều có thể đem lại một độ dày thêm cho văn bản, một ánh sáng mới cho tác phẩm mà mình xây dựng hoặc tiếp cận. Địa lý của văn học nói riêng, và nghệ thuật nói chung, từ đó, được mở rộng thêm. Và con đường đi vào tác phẩm, như thế, không phải là một con đường mòn, một con đường một chiều. Nó có thể, qua cách viết, cách đọc, cách thẩm thức, lý giải rất chủ quan, mang tính vũ đoán của mỗi cá nhân người viết hay người đọc, biến thành một thế giới.
Viết và đọc đều là những nỗ lực rất riêng tư, chủ quan, vũ đoán và mang đầy tính hư cấu. Phê bình, một bước nhảy của cái đọc thông thường, cũng vậy. Nó mang đầy nét hư cấu, chủ quan. Nó cho thấy bản lĩnh hay tài hoa của mỗi người.
Hãy biến những con đường mòn thành một thế giới. Hãy cứ, bằng những nỗ lực rất riêng tư và chủ quan của mình, nới giãn cái biên độ của thế giới ấy ra. Để nó làm thành vũ trụ.
Kẻ viết hay người đọc nào lại không thiết tha muốn hướng về cái vũ trụ ấy.
Bùi Vĩnh Phúc
Tustin Ranch, Calif.
12. VIII. 2009
_________________________________
(1) Xem Julia Kristéva, Recherches pour une sémanalyse, Paris: Seuil, 1969
(2) Xem Serge Doubrowsky, Pourquoi la nouvelle critique?, Paris: Mercure de France, 1966
(3) Đây chỉ là một so sánh hết sức đơn giản, vắn gọn của tác giả bài này về những lý thuyết khá phức tạp được một số nhà vật lý lượng tử và nhà khoa học nghiên cứu về thần kinh đưa ra. Thật sự, qua nghiên cứu, họ nhìn thế giới, đúng hơn cả vũ trụ này, như một hình ảnh hologram, do chính tâm và ý của con người phóng chiếu ra.
(4) “World”, ở đây, có thể dịch là thế giới, hay thế gian. Tôi thích từ “thế gian”, cho dù “thế gian” hay “thế giới” thì đều chỉ thẳng vào cái cõi thế này. Sự chọn lựa có lẽ là do liên tưởng. Khi chọn “gian”, có lẽ vô thức đã nhắc tôi nhớ đến những câu như “Thi thị khả giải bất khả giải chi gian” (Thơ nằm trong khoảng có thể giải thích và không thể giải thích được), và “Duy giang thượng chi thanh phong, dữ sơn gian chi minh nguyệt” (Chỉ có gió mát ở trên sông cùng với trăng sáng ở sườn núi–Tô Thức, Tiền Xích Bích Phú). “Gian”, so với “giới”, gợi ra ấn tượng về một không gian có tính giới hạn rõ rệt, cụ thể. Nó lại mang tính “thơ mộng” vì một, hai liên tưởng như trên. Đó là một chọn lựa mang tính vũ đoán trong vấn đề đọc, hay dịch.
(5) Facts, sự kiện (có những chỗ được hiểu như “dữ kiện”), là những phát biểu đúng về sự vật (things). “Ghế” là một sự vật; còn mệnh đề “Cái ghế này mầu đỏ” thì đó là (hay không là) một sự kiện. “Thế gian” như chúng ta biết, theo Wittgenstein, chẳng qua chỉ là hoàn cảnh, chỉ giản dị là một tập hợp của những sự kiện được biết–đó chính là “what is the case”–, hơn là những sự vật tách biệt khỏi những gì mà chúng ta có thể nói về chúng. Chính ngôn ngữ đã xây dựng nên cảm thức của chúng ta về thế giới, về mọi thứ bao quanh chúng ta, cũng như về kinh nghiệm của chúng ta đối với chúng.
(6) Roman Jakobson và những người trong nhóm Chủ nghĩa Tượng trưng về Âm (Sound Symbolism), ngược lại, đã cho rằng quan hệ giữa cái-biểu-đạt (CBĐ) và cái-được-biểu-đạt (CĐBĐ) là thiết yếu, không hề có tính vũ đoán. Luận điểm của nhóm này, đặc biệt của R. Jakobson, có những nét độc đáo. Một khía cạnh của chủ nghĩa tượng trưng về âm, đã khiến Jakobson quan tâm đặc biệt, liên hệ đến các nguyên âm mang mầu sắc (”coloured vowels”). Hiện tượng này chưa được tất cả các nhà ngôn ngữ công nhận, và vẫn còn đang được tiếp tục tranh luận, nghiên cứu (inconclusive and under investigation), cho dù Jakobson đã thử áp dụng nó vào việc bình thơ Mallarmé và đưa ra được một số phát hiện độc đáo. (6 bis) Việc ông cùng với Claude Lévi-Strauss cùng đọc chung bài thơ Les Chats (Mèo) của Baudelaire cũng vậy. (Dù sao, nên xem thêm luận văn Describing Poetic Structures: Two approaches to Baudelaire’s “Les Chats” của Michael Riffaterre, nhà phê bình nổi tiếng Mỹ, giáo sư đại học Columbia, tác giả của Semiotics of Poetry (Ký hiệu học về Thơ), phản bác Jakobson và Lévi-Strauss). Tuy nhiên, trong việc đọc thơ, nếu biết sử dụng một cách hợp lý những hệ luận của cả hai quan điểm này, về sự liên hệ giữa CBĐ và CĐBĐ, người ta dễ bắt được ý nghĩa và những nhịp đập quan trọng của trái tim thơ. Trong vai trò một nhà ngôn ngữ và một nhà thi pháp, Jakobson đã có nhiều đóng góp đáng kể; nhưng có lẽ một trong những đóng góp nổi bật của ông là, từ sự mở rộng về quan hệ liên tưởng và quan hệ ngữ đoạn của Saussure, phát hiện về hai trục lựa chọn và kết hợp trong thao tác hoạt động của ngôn ngữ, đặc biệt trong việc sáng tạo và đọc thơ.
(6 bis) Xem Arby Ted Siraki, Problems of a Linguistic Problem: On Roman Jakobson’s Coloured Vowels, Berlin: Springer Netherland (Neophilologus, tập 93, số 1, Jan. 2009)
(7) Thường, đối với thơ, người ta áp dụng trục chọn lựa (gắn liền với ẩn dụ) nhiều; với văn, trục kết hợp (gắn liền với hoán dụ). Nhưng, cả trong văn lẫn trong thơ, khả năng lồng ghép nhuần nhuyễn hai trục và hai thủ pháp này vào nhau để đưa đến những kết quả thẩm mỹ thích đáng là một nghệ thuật. Nó là một dấu chỉ rõ nét của sự sáng tạo.
(8) Ở đây, chúng ta chỉ tạm nói gọn về vấn đề đọc và phê bình như một quá trình tạo nghĩa, trong đó tính chất vũ đoán của ký hiệu đưa đến những liên nghĩa, hàm nghĩa, đã làm đổ xô lên văn bản một trường nghĩa, có thể nói là vô tận, với những liên văn bản mà người đọc, người phê bình có thể tìm ra trên bản gốc. Chúng ta không đi vào những khía cạnh đặc thù của những lý thuyết về đọc văn bản, như thuyết Hồi ứng của người đọc (Reader Response), hay thuyết Giải cấu trúc (Deconstruction) chẳng hạn. Những vấn đề đó cần được trình bày trong những bài khác.
(9) Xem Bernard Raffalli, Le Manuscrit de “À l’Ombre des Jeunes Filles en Fleurs”, Paris: Laffont, 1998.
(10) Xem Jean Pierre Richard, Poésie et Profondeur, Paris: Seuil, 1955.
(11) Xem Pierre Macherey, Pour une théorie de production littéraire, Paris: Maspéro, 1966
(12) Đây là những từ do Roland Barthes sáng tạo ra. Văn học theo dạng lisible, khả độc, là loại văn học dễ dãi, không đòi hỏi sự đóng góp của người đọc trong việc tạo nghĩa cho văn bản. Nó là loại văn học biến người đọc thành một con người thụ động và lười lĩnh. Nó tách người đọc ra khỏi người viết. Văn học theo dạng scriptible, khả tác, trái lại, là loại văn học đòi hỏi người đọc phải góp sức tạo nghĩa cho văn bản. Nó bắt người đọc phải động não để làm việc và tạo thói quen cho hắn tìm kiếm cái không nói ra trong văn bản. Đọc, với loại văn bản này, là một quá trình tạo nghĩa.
(13) Xem Trần Đình Sử, Văn Học và Thời Gian, Hà Nội: Nxb Văn Học, 2000.
(14) Bùi Vĩnh Phúc, Trịnh Công Sơn / Ngôn Ngữ và Những Ám Ảnh Nghệ Thuật, California: Văn Mới, 2005. Tái bản lần thứ nhất tại Việt Nam, bản có bổ sung: Nhà xuất bản Văn Hoá Sài Gòn, 2008.
Bùi Vĩnh Phúc
___________________________________________________________________________________
3 bình luận »
Lam Truong Phong viết:
“Tình hình này làm ta liên tưởng đến cái nhìn của cơ học lượng tử đối với các vật thể, đúng hơn là các chất thể (particles), được khảo sát. Người ta không thể bỏ qua cái thái độ của người làm công việc khảo sát, thí nghiệm đó, cũng như không thể bỏ qua những thiết bị mà ông ta dùng để đo lường. Những điều ấy có thể làm thay đổi kết quả của thí nghiệm ”
Ông BVP làm tôi hoang mang vô cùng. Bởi vì nếu thế tất cả những lý thuyết vật lý cơ học lượng tử được công nhận có giá trị sẽ bị thử thách vì những kết quả thí nghiệm để củng cố những lý thuyết này có thể bị thay đổi bởi hai lý do: 1) thái độ cũa người làm công việc khảo sát, thí nghiệm đó. Và 2) thiết bị dùng để đo lường. Thái độ của người nghiên cứu lúc nào cũng thay đổi tùy lúc đâu phải lúc nào cũng y hệt như nhaụ bởi vì là con người chứ có phải máy móc gì đâu!!! Thiết bị dùng để đo lường thì có thể kiểm soát mức độ chính xác và điều chỉnh lại Như thế thì lý thuyết của người nghiên cứu vật lý cơ học lượng tử cứ phải thay đổi xoành xoạch luôn luôn theo sự thay đổi thái độ của người làm công việc khảo sát, thí nghiệm?
.- 20.08.2009 vào lúc 7:05 pm
BBT Da Màu viết:
Độc giả Lam Truong Phong và bạn đọc vui lòng đọc phản hồi của tác giả Bùi Vĩnh Phúc ở đây:
http://damau.org/archives/8278
BBT Da Màu
.- 21.08.2009 vào lúc 10:50 pm
mot nguoi dien viết:
Mở đầu bài tiểu luận có viết:
(Văn chương phạm vào hai lần vũ đoán: một là cái vũ đoán của tự thân sự sáng tạo, và hai là cái vũ đoán của sự mô phỏng một thứ mà chính nó, tự bản chất, cũng là một sự vũ đoán: hiện thực)
Nhưng tôi xin bổ sung thêm: Còn cái vũ đoán của những người phát hiện ra hai sự vũ đoán trên của văn chương, tức là vũ đoán về những cái vũ đoán thì tại sao không phát hiện ra? Vậy vũ đoán cuối cùng là gì? Nếu cứ qui hồi như thế thì sẽ đến đâu?
Nó chỉ cho thấy bản thân sự sáng tạo hay hiện thực chẳng liên quan gì đến những phát biểu về nó, tức là công việc tìm cách phát biểu về nó là một cái đuôi ảo tưởng. Chỉ có một cách duy nhất là im lặng và nhìn vào nó. Mọi ý tưởng (ý niệm) về nó đều là sự tự đánh lừa mà thôi. Ngay cả cơ học lượng tử cũng phải tựa trên những định đề chứa đầy ảo tưởng về cấu trúc thế giới, tức là mọi phát biểu tựa trên nó cũng là tựa trên các định đề. Chúng ta không chịu thừa nhận cái sát sườn mênh mông của đời sống con người mà cứ đi theo đuổi những phát biểu lý thuyết và hệ thống chỉ rặt toàn tựa lên nhau (sự việc có nhiều người ủng hộ hay phản đối nó cũng chỉ toàn mang lại các ảo tưởng). Sáng tạo thì không tựa trên cái gì cả, nó chỉ vay mượn, phi sáng tạo thì vay mượn nhưng không có gì để trả nợ.
.- 03.11.2009 vào lúc 11:43 pm
Bùi Vĩnh Phúc : Thuật Ngôn Ngữ Trong Ca Từ của Trịnh Công Sơn
Thuật Ngôn Ngữ Trong Ca Từ của Trịnh Công Sơn
Bùi Vĩnh Phúc
Không ai nghe nhạc Trịnh Công Sơn mà lại không thấy những nét kỳ ảo trong ngôn ngữ của người nhạc sĩ . Những nét kỳ ảo trong thế giới của anh đã khiến cho cái thế giới ấy trở nên, có khi, đẹp đẽ, lung linh nhiều mầu sắc, có khi, nhòe nhạt thấp thoáng những nét nghệ thuật hơn. Nó là một thế giới tuy không xa nhưng cũng không thật gần với cuộc đời này, giống như chút tình mà Trịnh Công Sơn đã nhắc đến trong một câu hát của bài Như Một Lời Chia Tay, “Tình không xa nhưng không thật gần”. Trong một câu hát khác của bài Đời Cho Ta Thế, anh viết, “Không xa bờ và cũng không xa mịt mù (…) / Không xa trời và cũng không xa phận người”.
Đúng như thế, trong thế giới của anh, ngôn ngữ làm ra tất cả. Chính ngôn ngữ đã tạo ra một thế giới mới, trong đó, anh và bạn bè bằng hữu cũng như những người con gái đáng yêu trong cuộc sống anh hay trong cuộc đời này đã đi lại, nói cười và tan đi như bóng nắng chết trên sông dài, hay như khói trời tan loãng trong mênh mông phù du hư ảnh. Đó là một thế giới có thật hay là một thế giới chỉ có trong tưởng tượng? Có lẽ là cả hai. Có lẽ thế giới này đã xâm thực, chiếm lĩnh và hòa tan làm một cùng thế giới kia. Chính vì thế mà thế giới của Trịnh Công Sơn trở nên nhòe nhạt, lung linh hư ảo. Nó là một thế giới “lai”: lai giữa hiện thực và mộng tưởng, lai giữa hiện tại chớp mắt và thiên thu mịt mù, lai giữa hồng và xám, giữa xanh và đỏ, giữa trắng và đen, giữa vàng và tím, lai giữa “một phố hồng một phố hư không” và “giữa tường trắng lặng câm” u tối.
Ngôn ngữ sinh ra thế giới. “Ngôn ngữ là căn nhà của hiện hữu”, là “chỗ An cư của Tính thể”, nói như Heidegger. Câu nói này càng đúng hơn nữa với Trịnh Công Sơn. Người ta thường cho rằng những lời ca của anh là thơ. Thì đúng là như vậy. Chúng là những lời thơ thả bay cho gió cuốn. Chúng là những hình ảnh, những biểu tượng bất chợt. Như những hình ảnh bất chợt hiện ra lạ lùng, kỳ bí và đầy hư ảo trong những giấc mơ của ta. Chúng bay rải rác và rồi đột nhiên xếp lại thành những bức tranh lạ lùng mang đầy tính huyền ảo. Đó là những lời thơ của một người thường thấy mình mộng du ngay trong đời sống, và thấy đời sống trở về trong những giấc mộng của mình. Đó là những câu thơ nhặt được trong đời. Hay trong mơ. Có khi Trịnh Công Sơn xếp đặt nó theo một thứ vần điệu nào đó dễ nhận ra, qua những hình thức của thi ca mà chúng ta đã quen biết; có những khi, chúng giống như những câu thơ tự do, những câu thơ dài ngắn không đều, như những mảnh giấy mà trẻ con xé nghịch thả bay cùng trời đất. Có lẽ đa số những câu hát của anh nằm trong dạng thức đó. Những câu thơ tự do, như những mảnh giấy nhỏ nhiều màu sắc thả bay trong trời. Nhưng, bây giờ, ta hãy thử xét một số bài hát được Trịnh Công Sơn viết dưới dạng quen thuộc của những bài thơ (hoặc một phần lớn của bài hát được viết như thế). Những bài thơ mà khi được đặt trên khuông nhạc của anh, ít người nhớ lại là, tự khởi đầu, chúng đã ra đời như những bài thơ toàn vẹn.
Những Bài Thơ
* Thơ 4 chữ:
Cũng Sẽ Chìm Trôi (*)
Nhật nguyệt trên cao
Ta ngồi dưới thấp
Một dòng trong veo
Sao lòng còn đục
Bầy vạc bay qua
Kêu mòn tịch lặng
Đường đời không xa
Sao chồn gối chân (…)
(*) Bài này chia làm 2 đoạn, mỗi đoạn 8 câu.
Tuổi Đá Buồn
(…)
Trời còn làm mưa
Mưa rơi thênh thang
Từng gót chân trần
Em quên em quên
Ôi miền giáo đường
Ngày chủ nhật buồn
Còn ai còn ai
Đóa hoa hồng __
Tàn hôn lên môi
Em gầy ngón dài
Lời ru miệt mài (…)
* Thơ 5 chữ:
Nguyệt Ca
Từ khi trăng là nguyệt
Đèn thắp sáng trong tôi
Từ khi trăng là nguyệt
Em mang tim bối rối (…)
Vì Tôi Cần Thấy Em Yêu Đời
Tôi xin làm mưa bay
Trong vườn em mùa hạ
Tôi xin làm chút gió
Mát thêm những bờ vai (…)
Tôi xin làm sao đêm
Hay làm cây đèn nhỏ
Em bên đèn sẽ nhớ
Nắng trên những đường quen
Tôi xin làm mây êm
Trôi vào trang nhật ký
Hay tôi làm mực hồng
Chờ em giữa trang thư (…)
* Thơ 7 Chữ:
Em Đi Bỏ Lại Con Đường
(…)
Bỏ mặc mưa về bỏ chiều phai
Bỏ mặc hư vô bỏ ngậm ngùi
Bỏ đêm chưa qua ngày chưa tới
Bỏ mặc tay buồn không bàn tay (…)
Bỏ tôi hoang vu và nhỏ bé
Bỏ mặc tôi ngồi giữa đời tôi
Hai Mươi Mùa Nắng Lạ
(…)
Em hai mươi tuổi như bài thơ
Sài Gòn nắng mưa em chợt đến
Làm lời mộng mị giữa thiên thu
Em hai mươi tuổi em đâu ngờ
Năm xưa vui buồn chút phù du
Sài Gòn xua tan nghìn dấu lệ
Cho em bây giờ mắt tình đưa
* Thơ Tám chữ:
Một Cõi Đi Về
Bao nhiêu năm rồi còn mãi ra đi
Đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt
Trên hai vai ta đôi vầng nhật nguyệt
Rọi suốt trăm năm một cõi đi về (…)
* Thơ Lục Bát:
Mưa Mùa Hạ
(…)
Mưa như từng giọt rượu hờ
Đêm trong thành phố ai chờ chờ ai
Mưa thưa tựa áo lụa trời
Ôm quanh da thịt chân người người qua
Lời Ở Phố Về (*)
Đêm xưa ra phố với người
Giờ đây xuống phố với ngày vô vi (…)
Hôm nay ra phố với người
Chợt trong phố xá những lời phân ưu (…)
Bên kia sông nước vô bờ
Hồng nhan em có bao giờ bâng khuâng
Nụ cười trong gió mong manh
Một trời riêng đó bước chân ta về.
(*) Bài này chia làm 2 đoạn đối xứng nhau, mỗi đoạn 12 câu lục bát.
* Một Trường Hợp Đặc Biệt: Đoá Hoa Vô Thường
Bài Đóa Hoa Vô Thường là một khúc ca thiền, một giao hưởng thơ (symphonic poem), thay đổi với nhiều giọng điệu. Chính vì thế, ở đây, ta có thể tìm thấy Trịnh Công Sơn đã không những công phu với từng phần, từng đoạn nhạc để diễn tả những ý tình khác nhau qua những khúc thức đầy những nhịp điệu tiết tấu biến đổi, mà anh còn dụng công rất nhiều trong những thể thơ khác nhau, dành cho những phần nhạc khác nhau ấy, để diễn tả những cảm xúc chảy suốt khúc giao hưởng này. Ta thấy dòng thơ 4 chữ làm thành những bước đi thong dong khởi đầu của khúc nhạc:
Tìm em tôi tìm
Mình hạc xương mai
Tìm trên non ngàn
Một cành hoa khôi
Nụ cười mong manh
Một hồn yếu đuối
Một bờ môi thơm
Một hồn giấy mới…
Khi tìm thấy em, đưa tình về, nhịp hớn hở và dìu dặt tha thiết của lục bát:
Từ nay tôi đã có người
Có em đi đứng bên đời líu lo (…)
Từ em tôi đã đắp bồi
Có tôi trong dáng em ngồi trước sân (…)
Từ nay anh đã có nàng
Biết ơn sông núi đáp đền tiếng ca
Mùa xuân trên những mái nhà
Có con chim hót tên là ái ân.
Sau đó, lại chuyển sang thể thơ 4 chữ để diễn tả tâm trạng bốn mùa yêu nhau. Rồi giọng thơ trở nên hiu hắt khi cuộc tình bước sang một giai đoạn chuyển tiếp khác. Bây giờ là thơ 6 chữ:
Một chiều em đứng cuối sông
Gió mùa thu rất ân cần
Chở lời kinh đến núi non
Những lời tình em trối trăn
Một thời yêu dấu đã qua
Gót hồng em muốn quay về
Dù trần gian có xót xa
Cũng đành về với quê nhà.
Sau đó, nhạc chuyển sang dồn dập và mênh mông, thơ 5 chữ:
Từ đó trong vườn khuya
Ôi áo xưa em là
Một chút mây phù du
Đã thoáng qua đời ta….
Khi khúc giao hưởng mềm và êm dịu trở lại để kết thúc, lời thơ 5 chữ lại trở về cho đến hết bài.
Đóa Hoa Vô Thường là một tác phẩm mà Trịnh Công Sơn đã để nhiều công phu trong đó. Ở đây, ta chỉ tạm nói qua về các thể thơ mà anh đã đưa vào tác phẩm đẹp đẽ này.
Những Hình Ảnh Tỉnh Lược (Ellipsis)
Một nét thú vị trong ngôn ngữ của Trịnh Công Sơn là những nét tỉnh lược trong ca từ của anh. Ngôn ngữ thơ là một loại ngôn ngữ đặc thù. Nó không nhất thiết phải tuân thủ những quy luật của ngữ pháp văn xuôi. Dù sao, những sự lệch biến này, nếu đẩy tới một độ nào đó, và nếu xuất hiện liên tục ở một tần số nào đó, có thể làm cho câu thơ và làm cho nhà thơ trở nên bí hiểm. Nhà thơ, như thế, sẽ trở nên khó hiểu và có khả năng tự làm cho mình xa rời người thưởng ngoạn. Một nhà thơ giỏi, nếu không đưa ra hẳn được một cách nhìn mới, một lối diễn tả mới, hay không phải là người thích làm cách mạng trong thi ca bằng ngôn ngữ sáng tạo của mình, có thể vẫn là một người dùng chữ nghĩa dung dị, nhưng sự dung dị đó vẫn tỏa ra những nét mới. Ngôn ngữ Trịnh Công Sơn dung dị, nhưng được làm mới bằng nhiều cách. Có thể nói là chúng ta đã tìm hiểu phong cách ngôn ngữ nghệ thuật của anh qua suốt chuyên luận này trong tất cả những phân tích về những ám ảnh cũng như về thời gian và không gian nghệ thuật của Trịnh Công Sơn. Tất cả những ám ảnh cũng như những xây dựng thời gian và không gian trong thế giới anh đều đã được thực hiện bằng chất liệu ngôn ngữ. Dù sao, trong phần này, cũng như trong một số lý giải tiếp theo sau, chúng ta sẽ thử nhìn kỹ hơn nữa phong cách nghệ thuật xét trên mặt ngôn ngữ của anh.
Trong nghệ thuật tỉnh lược, những hình ảnh (cũng có nghĩa là những từ ngữ) trong câu bị cắt đi mất một vài thành phần, có khi chúng còn bị sắp xếp theo một trật tự không bình thường nữa, khiến cho câu văn và hình ảnh mất đi tính mòn, và trở nên mới, nhờ sự lắp ghép lại trong chính trí tưởng tượng của người thưởng ngoạn. Biện pháp này thành công nhờ gắn chặt với những thao tác nghệ thuật được tiến hành dưới sự soi chiếu của tâm lý hoàn hình Gestalt, vốn đã nằm sẵn trong bản năng của người thưởng ngoạn, cho dù người này có biết hay không biết điều ấy.
* Em đi về cầu mưa ướt áo
Đường phượng bay mù không lối vào
Hàng cây lá xanh gần với nhau
(Mưa Hồng) (1)
Câu đầu, “Em đi về cầu mưa ướt áo”, có ý nghĩa như thế nào? Ngữ pháp, ở đây, bị cắt bỏ đến mức tối đa. Mọi hình ảnh trở nên rất mơ hồ, giống như bị nhòa nhạt trong mưa. Có thể dựng nên hình ảnh em đi qua cầu, trời mưa và gió bay rào rạt, em một tay che đầu một tay giữ áo để gió và mưa khỏi đánh tốc vạt áo lên. Dáng em bước vội vã nhưng cơn mưa vẫn nhanh hơn. Hình ảnh em, và mưa, và cây cầu, trở nên nhoà nhạt. Có thể cho cơn mưa đổ xuống nhẹ hơn, và những giọt mưa bám vương vào áo em chỉ đủ làm ướt hờ một bờ vai hồng và một tà áo trắng. Vân vân. Người thưởng ngoạn, chạm vào sự tỉnh lược này, có tự do, ở một mức độ nào đó, để hoàn tất và làm rõ hình ảnh em đi qua cầu trong cơn mưa. Hình ảnh cắt thiếu nét này đẹp. Vì nét cắt khéo. Và cũng vì nó được đóng khung trong một bối cảnh thật đẹp và thơ.
* Hồ Tây chiều thu
Mặt nước vàng lay bờ xa mời gọi
Màu sương thương nhớ
Bầy sâm cầm nhỏ vỗ cánh mặt trời
(Nhớ Mùa Thu Hà Nội)
“Vỗ cánh mặt trời” là thế nào? Hình như tác giả đã cắt đi một nét chính yếu giữa động tác “vỗ cánh” của bầy chim sâm cầm và hình ảnh “mặt trời”. Có thể là bầy chim vỗ cánh bay về hướng mặt trời. Có thể là vỗ cánh bay dưới bóng mặt trời. Có thể là bầy chim vỗ cánh bay đi trong ánh mặt trời đang xuống loang đỏ mặt nước của Hồ Tây buổi chiều thu. Đó có thể là một vài lý giải của người thưởng ngoạn để làm cho bức tranh có đầy đủ nét hơn. Nhưng, thật sự, đủ nét để làm gì? Bức ảnh thiếu nét như thế lại hay. Vì nó tạo nên một hiệu ứng nhòe. Khiến cho buổi chiều ấy như thấm đẫm một màu sương. Nếu bức ảnh đầy đủ mọi nét, “màu sương thương nhớ” kia sẽ không còn chỗ để phát huy hết tác dụng của nó nữa.
* Trời còn làm mưa mưa rơi thênh thang
Từng gót chân trần em quên em quên
Ôi miền giáo đường
Ngày chủ nhật buồn còn ai còn ai
Đóa hoa hồng tàn hôn lên môi
Em gầy ngón dài lời ru miệt mài…
(Tuổi Đá Buồn)
Một hình ảnh thiếu nét: đóa hoa hồng tàn hôn lên môi. Người thiếu nữ đưa đóa hoa hồng, mãi bị vùi quên trong tay, bây giờ đã tàn đã héo, lên môi hôn? Hình ảnh có pha chút xót xa. Trời mưa. Những gót chân trần. Một ngày chủ nhật. Nỗi buồn. Ngọn tháp giáo đường trơ vơ. Một đóa hồng tàn. Một người con gái mong manh. Và những tiếng ru. Tất cả những hình ảnh đó gọi về một cái gì mong manh, buồn bã. Tất cả mọi nét đều hầu như tĩnh lặng. Kể cả cơn mưa cũng rất tĩnh lặng trong buổi chiều buồn. Chỉ có những gót chân bước đi. Và, đặc biệt, động tác đưa đóa hồng tàn lên môi hôn. Đóa hoa hồng tàn hôn lên môi: đâu là chủ từ của động từ “hôn”? Người con gái hôn đóa hoa, hay chính đóa hoa là chủ thể của nụ hôn ấy? Nó hôn lên đôi môi ướt lạnh, nhòe nhạt và buồn đau của người con gái đang buông những gót chân trần trong mưa kia. Tôi nghĩ là Trịnh Công Sơn đã để một nét thiếu tuyệt đẹp trong bức tranh mưa của mình.
Chúng ta có thể tiếp tục thử phân tích như thế với những câu “Cây sang thu lá úa rơi mù” trong bài Tạ Ơn, “Mưa phố vai mưa mềm” trong bài Mưa Mùa Hạ… Tất cả những nét thiếu trong những câu như thế của Trịnh Công Sơn là những nét thiếu rất nghệ thuật. Thiếu mà lại tràn đầy. Vì nó kích thích trí tưởng tượng của ta. Nó bắt ta phải, bằng vào kinh nghiệm và những cảm thức thẩm mỹ của mình, bổ túc cho bức tranh được hoàn chỉnh và có ý nghĩa hơn. Nói Trịnh Công Sơn là người có tài sai sử ngôn ngữ cũng là ở những chỗ như thế.
Những Câu Bỏ Lửng
Trịnh Công Sơn cũng có những lúc sử dụng những câu bỏ lửng, chưa toàn vẹn ý ở một mức độ nào đó. Có thể những câu loại này không hẳn là hay hoặc thật hay, nhưng chắc chắn chúng tạo nên một nét lạ. Và trong nghệ thuật, ai là người tránh khỏi sức hấp dẫn của những điều lạ, nếu ta đủ lòng tin rằng mình là người có khả năng để tạo ra chúng.
Chúng ta thử xem những câu dưới đây:
* Có chút bồi hồi trong phút chia ly
Có những mặt người không yêu là vì
Có những cuộc đời hết sức ngây ngô ….
Câu hai, “không yêu là vì”. Là vì sao? Không thấy Trịnh Công Sơn trả lời. Có lẽ cũng giống như trong tiếng Mỹ, nhiều khi để trả lời một câu hỏi, người ta không thể cho biết đích xác lý do của hành động mà câu hỏi đã đặt ra. Người ta, bởi thế, chỉ trả lời, “Because…”, hay là “Just because…” Ta không thể hiểu rõ là “because what ?”, “because” cái gì.
* Từ khi em là nguyệt
cho tôi bóng mát thật là.
“Bóng mát thật là mát”, hay là “bóng mát thật là hạnh phúc”… Chúng ta không rõ. Trịnh Công Sơn chỉ nói lửng lơ như vậy thôi. Cho tôi bóng mát thật là.
* Người tình kia mất con đường về
Và trời kia mất em từ độ.
Từ độ nào? Chúng ta có thể hỏi. Nhưng người nhạc sĩ chỉ nói vậy. Là đủ. Nếu người thưởng ngoạn muốn hiểu là “từ độ ấy” thì chắc cũng đúng. Nhưng hình như người nhạc sĩ như muốn hỏi rằng, “Nói ra quá rõ như thế để làm gì?”
Trong những lời ca của Trịnh Công Sơn, người ta còn có thể tìm ra nhiều câu bỏ lửng theo cung cách như vậy. Chẳng hạn:
* Trăm năm ở đậu ngàn năm
Đêm tối ở trọ chung quanh nỗi buồn
Ngàn năm (í a)
Buồn như (í a).
* Chiều trên quê hương tôi / có bao nhiêu điều đã trôi qua
Có riêng em cuộc đời vẫn nhớ
Nét quê hương nghìn năm vẫn là.
* Trời còn làm mưa mưa rơi thênh thang
Từng gót chân trần em quên em quên
Ôi miền giáo đường ngày chủ nhật buồn…
* Tìm em tôi tìm
Nhủ lòng tôi ơi
Tìm đêm chưa từng
Tìm ngày tinh khôi
Tìm chim trong đàn ngậm hạt sương bay
Tìm lại trên sông những dấu hài
* Có điều gì gần như niềm tuyệt vọng
Trong xuân thì hay bóng trăm năm
Bỗng một hôm qua phố hoang tàn
Tôi quen như tôi đã có lần.
Cách nói bỏ lửng như thế, trong những câu tôi vừa thử nêu ra, có đặc sắc hay không là tùy nơi cảm quan của người thưởng ngoạn. Nhưng có một điều chắc chắn là nó lạ. Nó làm cho người nhạc sĩ đứng tách ra. Và nó làm cho chúng ta nhớ anh. Và, đó cũng là một phong cách nghệ thuật.
Những Cách Nói Lạ
Ngoài lối nói tỉnh lược, cắt bỏ nét trong câu trong hình, ngoài lối nói bỏ lửng, cắt bỏ một nét cuối câu, Trịnh Công Sơn còn có một phong cách sử dụng từ rất lạ, biến chúng thành một nét riêng của anh, không nhòe lẫn với bất cứ ai.
Trước hết là từ “hư hao”. Từ này, trong cuộc sống văn xuôi, có một nghĩa thật tầm thường. Nó đi quá gần đời sống. Nó gần với câu văn nói và không mang một nét thơ nào cả, chẳng hạn khi người ta nói về đồ đạc hay nhà cửa hư hao. Trong Trịnh Công Sơn, anh cho nó những thuộc tính, những phẩm tính mới:
Ngọn gió hư hao thổi suốt chiêm bao
Rồi tình trong im tiếng
Rồi tình ngoài hư hao
Về đây thân xác hư hao
Đêm đêm nằm nghe lá
than van chút niềm đau ngọt ngào.
“Hư hao”, từ đó, đã đi vào thi ca.
Thứ nhì là trạng từ “vừa”. Ý nghĩa bình thường của nó là “đủ”, “không thừa, không thiếu”, như trong “cầu dừa (vừa) đủ xài (xoài)”. Ở Trịnh Công Sơn, nó được lắp ghép một cách đặc biệt vào những tính từ thường không gắn bó với nó, như:
Một lời tình cuối vu vơ
Một ngày tình xót xa vừa,
hay tất cả gắn bó với nhau trong một thi ảnh lạ:
Chìm dưới cơn mưa
Một ngàn năm trước
Mây qua mây qua
Môi em hồng nhạt
Chìm dưới cơn mưa
Một ngàn năm nữa
Mây qua mây qua
Môi em hồng vừa.
Có khi anh cho trạng từ “vừa” này bám vào một danh từ, khiến cho nó được dùng như một tính từ:
Ngàn mây xám chiều nay về đây treo lững lờ
Và tiếng hát về ru mình trong giấc ngủ vừa.
“Vừa”, như thế, mang một nét mới của Trịnh Công Sơn.
Ngoài những từ vừa kể, Trịnh Công Sơn còn nhiều cách nói khác làm cho người nghe khó quên anh. Những cách nói đó bao gồm những từ ngữ không nằm trong cách lắp ghép bình thường của mọi người. Có thể kể:
Từ nay tôi đã có tình
Có em yêu dấu lẫy lừng nói thưa
Miệng môi kia ốm o lời thề
Trái tim cho ta nơi về nương náu
Được quên rất nhiều ngày tháng tiêu điều
Một ngày đã có em xa nơi này
Một ngày với vắng tôi
Nào dễ chóng phai trong lòng nỗi nhớ
Ngày tháng trôi qua cơn đau mịt mù…
Những cách nói như thế, những cách dùng chữ như thế, góp phần làm cho thế giới của Trịnh Công Sơn tách xa khỏi cuộc sống bình thường một chút nữa. Chúng tạo nên một độ chênh để người thưởng ngoạn nhận rõ hơn đó là thế giới của Trịnh Công Sơn. Từ đó, con người tác giả cũng hiện ra dưới mắt họ trong một góc độ đặc biệt hơn.
Cuộc Hôn Phối Của Những Hình Ảnh:
Những Biện Pháp Tu Từ
Qua suốt bài này, chúng ta thấy rõ rằng ngôn ngữ của Trịnh Công Sơn bao gồm đa số những từ, những chữ bình thường, nhưng cách anh sử dụng chúng, cách anh tạo ra những hình ảnh nơi chúng, thì quả là khác thường. Những hình ảnh của anh khác thường, như đã nói, có lẽ vì chúng “không xa nhưng không thật gần” đời sống. Hình ảnh “Trời ươm nắng cho mây hồng” chẳng hạn, là một hình ảnh lạ, và đẹp. Đó chỉ là một trong rất nhiều những hình ảnh mà Trịnh Công Sơn đã đưa vào thế giới của mình, và làm cho thế giới của anh trở nên mới và lạ hẳn. Một quy luật của sự sáng tạo thi ca là làm “lạ hóa” (defamiliarization) những cảnh, những vật bình thường, cho chúng một khuôn mặt và một vóc dáng khác. Đặt chúng vào trong những không gian mới. Dìm chúng vào một bầu khí quyển mới. Trịnh Công Sơn thường xuyên làm được điều đó, và làm một cách tài hoa, trong việc viết những ca từ của mình. Ngoài việc tạo ra những hình ảnh mới, Trịnh Công Sơn còn tạo được sự khác thường nơi thế giới mình bằng cách sắp đặt các ý tưởng, các hình ảnh bên nhau một cách bất ngờ, không theo sự mong đợi của người nghe anh. Cái tài của anh là tạo ra những cuộc hôn phối kỳ lạ của chữ nghĩa, của hình ảnh. Những cuộc hôn phối ấy thường được thực hiện bằng những biện pháp tu từ (figures of speech). Và có lẽ Trịnh Công Sơn là một trong ít người tài hoa đã thực hiện một cách tốt đẹp và ban phép lành cho những cuộc hôn phối này, khiến, nhiều lúc, người xem tưởng như chứng kiến một phép lạ. Đó là những phép lạ ngôn ngữ. Và, để nhắc lại, ngôn ngữ cũng là một vật liệu để sáng tạo ra trần gian này.
Sau đây, chúng ta hãy thử xét một số biện pháp tu từ mà Trịnh Công Sơn thường dùng. Qua đó, chúng ta cũng gặp gỡ lại một số những hình ảnh mang đầy tính “hiện thực kỳ ảo” trong thế giới ý tưởng của người nhạc sĩ. Trong một số trường hợp, những hình ảnh của Trịnh Công Sơn bao gồm những biện pháp tu từ có tính chập đôi hay trùng phức; qua đó, chúng mang trong mình một lúc hai hoặc ba biện pháp chập lại. Trong trường hợp ấy, hình ảnh thường trở nên có chiều sâu hơn và đưa đến, cùng lúc, nhiều sự liên tưởng.
Một vài thí dụ: Trong bài Thương Một Người, câu “Từng đêm qua ngõ tối / Bàn chân âm thầm nói” có thể được hiểu như một hình ảnh với những biện pháp tu từ có tính trùng phức. Ở một mức độ thấp và đơn giản nhất, có thể xem đây là biện pháp nhân hóa: tác giả gán cho bàn chân một thuộc tính của người, là “nói”. Cao hơn nữa, có thể xem nó là ẩn dụ: bàn chân tượng trưng cho người con gái; một người con gái âm thầm đi về trong đêm. Bàn chân âm thầm ấy nói lên những tâm sự buồn và u uẩn. Cao hơn nữa, có thể xem nó là hoán dụ: lấy bàn chân, là một phần của con người, để chỉ toàn thể con người: người con gái với bước chân âm thầm đi trong đêm tối, tấm lòng ôm giấu một nỗi buồn riêng tư, không muốn ngỏ cùng ai.
Trong bài Ru Ta Ngậm Ngùi, câu “Có sợi tóc nào bay / Trong trí nhớ nhỏ
nhoi” cũng có thể đã mang trong nó một hình ảnh có tính trùng phức. Sợi tóc có thể là một ẩn dụ chỉ người con gái, một bóng dáng thân yêu đã khuất xa trong cuộc đời người nhạc sĩ. Nó cũng có thể mang tính hoán dụ: tác giả dùng một sợi tóc để chỉ cả một mái tóc, và dùng một mái tóc—một phần của con người—để chỉ cả một con người. Người con gái ấy đã có thể trở về trong tâm trí tác giả, trước hết, qua hình ảnh một sợi tóc. Một sợi tóc bay ngang một vành môi hồng ướt chẳng hạn. Điều ấy đáng nhớ lắm chứ!
Một số hình ảnh được liệt kê dưới đây đã rơi vào những trường hợp trùng phức như thế. Thật sự, chúng có thể được xét cùng một lúc như những biện pháp tu từ khác nhau.
* Nhân hóa (Personification):
Một biện pháp tu từ gán cho thú vật, những ý tưởng, những sự trừu tượng, và những đồ vật vô tri giác cái dạng thể, tính cách hay những cảm giác của con người; hoặc là gán cho loài vật hay những thứ gì đó được tưởng tượng ra những nét thông minh hoặc những đặc tính và cảm xúc của con người.
Khi tình đã vội quên
Tim lăn trên đường mòn
Trên giọt máu cuồng điên
Con chim đứng lặng câm
Con gió ở trọ bao la đất trời
(…) Mây kia ở đậu từng không
Mưa nắng ở trọ bên trong mắt người
(…) Trăm năm ở đậu nghìn năm
Đêm tối ở trọ chung quanh nỗi buồn
Biển sóng biển sóng đừng xô tôi
Đừng xô tôi ngã giữa tim người
Biển sóng biển sóng đừng âm u
Đừng nuôi trong ấy trái tim thù
Tình khâu môi cười
Tình thắp cơn sầu
Tình dìu qua hố sâu, tình vời lên núi cao
Rồi trong cơn yêu dấu tình đày tình xa nhau
Từng đêm qua ngõ tối
Bàn chân âm thầm nói
Trời làm cơn mưa xanh dưới những hàng me
Bao đường phố em qua nắng lên đứng chờ
Bống nhảy lên bờ bống đi chơi phố
Nắng vàng ủng hộ cho bống căn nhà
Một dòng sông chở ngày hấp hối
Ngày thu đông phố xưa nằm bệnh
Đàn chim non réo bên vườn hoang
Người ra đi bến sông nằm lạnh
Này nhân gian có nghe đời nghiêng
Lời cỏ cây hát trên da người
Xuân đến bên kia đồi trời mở ra cánh én
Em đến bên tôi ngồi đời mở ra cuộc tình
Đàn chim non lần hạt
Cho câu kinh bước tới
Chiều đã đi vào vườn mắt em
Ngàn cây thắp nến lên hai hàng…
Đời vẽ tôi tên mục đồng
Rồi vẽ thêm con ngựa hồng
Từ đó lên đường rong chơi…
Đời vẽ tóc em thật dài
Rồi vẽ môi thơm nụ cười
Từ đó thiên hạ vui tươi…
* So sánh (Simile):
Biện pháp tu từ trong đó sự tương tự hoặc giống nhau giữa hai đối tượng được trực tiếp trưng ra. Giữa hai đối tượng được so sánh thường có một liên từ so sánh như như, tựa để nối kết chúng. Trong biện pháp này, hai đối tượng được so sánh, trong bản chất, thường thuộc những thể loại rất khác nhau, trong những phạm trù khác nhau, nhưng lại có một điểm hay một khía cạnh nào đó bất ngờ đem lại một sự liên tưởng khiến chúng trở nên giống nhau.
Mặt trời như trái cây tuyệt vọng
Rơi trong đêm rơi trong đời nàng
Đời sao im vắng
Như đồng lúa gặt xong
Như rừng núi bỏ hoang
Đời sẽ buồn như một vết thương
Tình sẽ buồn như là nấm hoang
Đôi khi thấy trăm vết thương rồi như đá ngây ngô
Tôi như ngọn đèn từng đêm vơi cạn
lửa lên thắp một niềm riêng
Tôi như nụ hồng nhiều khi ưu phiền
nhìn tôi rã cánh một lần
Đâu ngờ tình như lá úa
khiến tôi chia lìa từng giấc mơ
Những bước chân mềm mại đã đi vào đời người
như từng viên đá cuội rớt vào lòng biển khơi
Từng người tình bỏ ta đi như những dòng sông nhỏ
(…) Tình ta như núi rừng cúi đầu
Tình yêu như trái phá con tim mù lòa
Tình yêu như nỗi chết, cơn đau thật dài
Tình yêu như vết cháy trên da thịt người
Tình xa như trời,
tình gần như khói mây,
tình trầm như bóng cây,
tình reo vui như nắng
tình buồn làm cơn say
Tình yêu như trái chín trên cây rụng rời
Hồn mình như vá khâu,
buồn mình như lũng sâu
Bờ vai như giấy mới
Mình như đá, đá lăn vết lăn buồn
Như trùng dương đêm mắt thâm còn nghe ngóng
Có người lòng như khăn mới thêu
Có người lòng như nắng qua đèo
Dù ta như con đường dài vắng người
Nhìn người đi như mây vô danh
Mưa như từng giọt rượu hờ
Đóa hoa vàng mỏng manh cuối trời
Như một lời chia tay
Thằng bé xinh xinh ra đồng giữa ngọ
Miệng môi hồng đỏ như đóa hoa vông…
* Ẩn dụ (Metaphor):
Biện pháp tu từ đưa ra một sự so sánh ngầm qua đó một đối tượng được đưa ra so sánh một cách đầy bất ngờ, qua những hình ảnh mang đầy nét tưởng tượng, với một đối tượng khác. Đối tượng thứ nhất được gán cho một hay nhiều đặc tính của đối tượng thứ hai; hoặc đối tượng đầu được gán cho những đặc tính mang nét xúc cảm hay tưởng tượng có liên hệ với đối tượng thứ hai. Cũng giống như trong so sánh, hai đối tượng được đề cập thường là khác xa nhau trong bản chất hoặc trong phạm trù suy niệm, thế nhưng, một nét bất ngờ nào đó, từ tia lửa nhận thức loé lên trong tâm hồn và cái nhìn của con người sáng tạo, hai đối tượng được đem lại đặt gần bên nhau, và nét giống nhau giữa chúng được bật lên. Cái thú vị của ẩn dụ nằm ở chỗ đây là một sự so sánh ngầm. Sẽ không có một liên từ so sánh nào được sử dụng để nối kết hai đối tượng lại. Có khi, sự nối kết này lại được thể hiện thẳng băng và bất ngờ qua hệ từ là. Trong những trường hợp khác, người thưởng ngoạn, với sự tưởng tượng nhanh nhạy của mình, phải tự làm công việc liên kết hai đối tượng được so sánh lại. Sự thú vị được tạo ra cũng từ đó.
Ngoài phố mùa đông
Đôi môi em là đốm lửa hồng
(Từng người tình bỏ ta đi như những dòng sông nhỏ)
Ôi những dòng sông nhỏ lời hẹn thề là những cơn mưa
Đôi khi trên mái tình ta nghe những giọt mưa
Nhìn lại mình đời đã xanh rêu
Từng bước em là từng mũi đinh cuồng điên
Tình khâu môi cười
Có con đò chở mưa nắng đi
Cuộc đời cho tôi cho tôi trái cấm trên đôi môi em
Cuộc đời cho thêm cho em có cánh bay đi vội vàng
Môi em hồng như lá hư không
Lòng ta trăm con hạc gầy vút bay
Dù trong ta đêm thì thầm tiếng buồn
Em là phấn thơm cho rừng chút hương
Là lời hát ca cho trần gian
Có sợi tóc nào bay
Trong trí nhớ nhỏ nhoi
Con sông là thuyền, mây xa là buồm
Dòng nước mắt sẽ bay trong trời
Làm cơn mưa rớt trên chăn gối
Có còn trong em những đêm gió lộng
Có còn trong em những cây nến hồng
Tên em là vết thương khô
Từng câu nói là từng cánh buồm giong cuối trời
Chiều nay em ra phố về, thấy đời mình là những chuyến xe
(…) Thấy đời mình là những đám đông
(…) Thấy đời mình là những quán không
(…) Thấy đời mình là con nước trôi
Môi nào hãy còn thơm
Cho ta phơi cuộc tình
Đời ta có khi là đốm lửa
Một hôm nhóm trong vườn khuya…
* Hoán dụ (Metonymy / Synecdoche):
Biện pháp tu từ dùng sự thay thế. Nó sử dụng một từ mang chứa một hình ảnh nào đó gần gũi với hình ảnh được nghĩ đến trong tâm hồn và đầu óc kẻ sáng tạo để đưa đến một sự nhận thức gián tiếp về hình ảnh đó. Chẳng hạn, khi nói, “Ngươi sẽ phải đổ mồ hôi ra mới có tấm bánh mà ăn”, thì “mồ hôi” ở đây chỉ “sự lao động cực nhọc”. Hay khi dùng hình ảnh “ngai vàng” hoặc “bệ rồng” để chỉ “nhà vua”. Nó cũng là biện pháp lấy một phần để chỉ toàn phần, hay, đôi khi, ngược lại, lấy toàn phần để chỉ một phần. “Đó là một tay thợ lành nghề”, “Nếu anh không làm rõ mọi chuyện, đừng vác mặt đến gặp tôi nữa”, hay “Cả thành phố đổ xuống đường đi đưa tiễn người nhạc sĩ tài hoa”… là những thí dụ cho biện pháp này. Để tạo sự thích đáng và mang lại hiệu ứng thẩm mỹ cần thiết, phần được chọn để thay thế cho tổng thể sẽ phải là một phần quan trọng của tổng thể đó và phần được chọn ra để thay thế ấy thường phải là phần có liên hệ trực tiếp đến cái toàn phần kia.
Một cuộc tình nhỏ bé
Bên đôi môi hồng đào
Có sợi tóc nào bay
Trong trí nhớ nhỏ nhoi
Những bước chân mềm mại
Đã đi vào đời người
Tôi tìm thấy tôi theo từng gót xa
(…) Hãy còn bước đi cho bình minh lên sớm
Cho đời chút ơn biết tà áo nọ
Bước chân em xin về mau
Từng đêm qua ngõ tối
Bàn chân âm thầm nói
Bàn tay chăn gió mưa sang
Tay hư vô đốt nến
Chiều chơi vơi lên cao
Tay hư vô che giấu
Chiều qua truông mây sâu
Bàn tay nghe ngóng tin sang
Vì một bàn tay không ngần ngại
Tặng hết cho tôi một phố chờ
Mùa thu mưa bay cho tay mềm
(…) Bàn tay xôn xao đón ưu phiền
Nghe bao nỗi đau trên một bàn tay
Một chiều tay người đã thả mây bay cho đường dài…
* Câu Hỏi Tu Từ (Rhetorical question):
Biện pháp tu từ dùng một (hay những) câu hỏi để nhấn mạnh một ý tưởng hay một tình cảm nào đó. Đây không phải là một câu nghi vấn đòi hỏi hoặc cần đến một câu trả lời. Câu hỏi tu từ thường được dùng để thuyết phục hoặc để tạo ấn tượng về mặt hùng biện. Nguyên lý chính cho sự sử dụng câu hỏi tu từ là, vì câu trả lời đã quá hiển nhiên và thường câu hỏi chỉ có một lời đáp duy nhất khả hữu và thích đáng, nên, để tạo ấn tượng sâu lắng hơn trong tâm hồn người nghe, người đặt câu hỏi tìm đến biện pháp tu từ này hơn là đưa ra một lời tuyên bố bình thường hay một câu xác định trực tiếp. (2)
Làm sao em biết bia đá không đau?
Đường nào quạnh hiu tôi đã đi qua?
Đường nào dìu tôi đi đến cơn say?
Nắng vàng, em đi đâu mà vội mà vội ?
Nắng vàng, nắng vàng ơi!
Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi
Để một mai vươn hình hài lớn dậy?
(…) Ôi, cát bụi mệt nhoài.
Tiếng động nào gõ nhịp không nguôi?
(…) Vết mực nào xóa bỏ không hay?
Người đâu mất người?
(…) Điệu kèn ai buốt trong tôi?
Còn bao lâu cho thiên thu xuống trên thân này?
Còn bao lâu cho mây đen tan trên hồn người?
Còn bao lâu tôi xa em xa anh xa tôi?
Một dòng (í a) trong veo.
Sao lòng (í a) còn đục?
Đường đời (í a) không xa.
Sao chồn (í a) gối chân?
Sầu thôi xuống đầy.
Làm sao em nhớ?
Không có em, còn tôi với ai?
(…) Không có em, buồn vui với ai?
(…) Ai đã chia người mãi xa người?
Ai giết đi tình đang lứa đôi?
Tuổi nào ngơ ngác tìm tiếng gió heo may?
Tuổi nào lang thang thành phố tóc mây cài?
Tuổi nào ngồi khóc tình đã nghìn thu?
Tuổi nào mơ kết mây trong sương mù?
Sau một lần đến bên người
Khép lại tấm lòng nghìn năm nhớ ai?
Anh đi đâu, về đâu?
Có nhớ trong em từng ngày yêu dấu?
Có biết trong em tình mãi bền lâu?
Trong em mặt trời khô héo?
Trong em ngày ấy vực sâu một đời?
Trời đất kia có hay ta về?
(…) Này nhân gian, có nghe đời nghiêng?
Cuộc đời đó có bao lâu mà hững hờ?
Nhớ gì mà nắng vàng cánh rừng?
Thương ai mà sương khuya vội vàng buông?
Nơi em về ngày vui không em?
Nơi em về trời xanh không em?
Ta nghe nghìn giọt lệ
Rớt xuống thành hồ nước long lanh.
Qua một số hình ảnh được lấy ra trong thế giới của Trịnh Công Sơn như đã trình bày ở trên, ta thấy là Trịnh Công Sơn, để xây dựng những hình ảnh và cả một thế giới của mình, đã sử dụng rất nhiều những biện pháp tu từ. Tất cả làm cho những hình ảnh của anh long lanh, lấp lánh, lung linh, hay tạo ra những hiệu ứng nhoè hư hư thực thực. Chúng là những nét nhoè nghệ thuật một cách cố ý. Những biện pháp này, được sử dụng với phong thái riêng của Trịnh Công Sơn, đã biến thế giới của anh thành một thế giới đặc thù, không thể nhầm lẫn với bất kỳ sáng tạo của bất kỳ một nghệ sĩ nào khác. Ngoài những biện pháp tu từ vừa kể, chắc chắn Trịnh Công Sơn còn sử dụng thêm những biện pháp khác. Nhưng, một là vì chúng khá phổ biến, như cách nói cường điệu hóa của thi ca và văn chương (mà chúng ta cũng thấy trong ca từ của anh), hay cách sử dụng biện pháp trùng lặp (điệp từ, điệp ngữ, v.v…) để tạo sự nhấn mạnh, hay đối xứng (mà ta sẽ xét tiếp theo phần này); hai là vì chúng không xảy ra thường xuyên ở một tần số nào đó, như cách sử dụng biện pháp đảo trang, uyển ngữ, v.v…, nên tôi không liệt kê chúng hết cả ra đây. Dù sao, trong những biện pháp mà Trịnh Công Sơn đã sử dụng, hoán dụ có lẽ là một biện pháp mang một vài hình ảnh đặc biệt mà chúng ta nên nói thêm.
Có thể nói, ngoài một vài trường hợp rõ rệt, hầu như tất cả những hình ảnh về bàn tay mà Trịnh Công Sơn đưa vào trong thế giới của mình đều là những bàn tay lạ. Những bàn tay mở ra và đưa đón giữa trời. Những bàn tay tách khỏi chủ thể, hoặc nếu có gắn bó với một chủ thể nào đó thì đó là một chủ thể giấu mặt, có tính rất phiếm chỉ. Chẳng hạn như, “tay hư vô đốt nến”, “bàn tay chăn gió mưa sang”, “bàn tay nghe ngóng tin sang”, “nghe bao nỗi đau trên một bàn tay”, “tay người đã thả mây bay cho đường dài”, vân vân. Tôi tạm xếp loại chúng vào biện pháp hoán dụ, vì nếu lý luận cho đến rốt ráo thì những bàn tay đó đều dẫn đến, và đại diện cho, một chủ thể nào đó. Hoặc một chủ thể có tính vô hình, như hư vô, như trời đất, hoặc một thực thể có tính hữu hình, như tôi, như em, như người, những tôi, em, người rất phiếm định vì sự vắng mặt hay giấu mặt của nó. Nhưng, thật ra, chúng có nên được xếp vào hình loại “hoán dụ” hay không, hay là nên xem chúng như những ẩn dụ mang một khuôn mặt lạ. Hay chúng là những hình loại trùng phức, vừa hoán dụ vừa ẩn dụ. Đấy là một trong những nét “hiện thực kỳ ảo” trong thế giới Trịnh Công Sơn.
Những Nét Đối Xứng
Trong thế giới và trong những thi ảnh của Trịnh Công Sơn, người ta thường thấy một sự hài hòa mang đậm nét mỹ học được thực hiện bằng biện pháp đối xứng. Đối xứng thật ra đã là một quy luật về mỹ học từ thời xa xưa, khi con người hiểu rằng chính đối xứng đã tạo ra sự cân bằng hòa đối, nâng cao khoái cảm thẩm mỹ nơi con người. Luật đối xứng, trong thời hiện đại và hậu hiện đại, với sự soi chiếu của những tương quan văn hóa mới, những nền mỹ học mới, có thể đang gặp một số những thử thách, trên nhiều lĩnh vực nghệ thuật. Dù sao, có thể nó sẽ chấp nhận một cuộc sống chung, trong một mức độ và trong một tương quan nào đó, với luật bất cân xứng, để tạo nên một thế giới đa dạng và nhiều màu sắc hơn. Nhưng chắc chắn nó sẽ không thể bị loại bỏ khỏi mắt nhìn nghệ thuật của con người. Bởi lẽ, tất cả thiên nhiên và vũ trụ này, thật sự, đã được tạo dựng ra trong sự đối xứng đó. (3)
Ta hãy thử xét thế giới của Trịnh Công Sơn qua cấu trúc đối xứng này trong nhiều mức độ khác nhau. Cấu trúc đối xứng này cũng có thể là song song hay thuận nghịch. Trước hết là những hình ảnh đối xứng trong một câu:
Đây là đối xứng mùa màng:
Yêu đầy mùa nắng / mùa mưa
Còn đây là đối xứng tình cảm. Con người được treo giữa hai đầu cân lên xuống, giữa đớn đau chảy máu và hạnh phúc hoan lạc:
Mỗi vết thương lành / một nỗi vui
Đối xứng về thời gian, thời gian vật lý hay thời gian tâm tưởng:
Ngày nào vừa đến đã xa muôn trùng…
Đôi khi thấy trên lá khô một dòng suối
Đối xứng không gian, xa và gần, thân thuộc và lạ mặt:
Không xa bờ và cũng không xa mịt mù /
Không xa cửa nhà và cũng không xa ngục tù…
Những ý tưởng và hình ảnh đối xứng dưới đây được diễn ra trong một cặp song song.
Đây là đối xứng yêu:
Tôi đã yêu em bao ngày nắng / Tôi đã yêu em bao ngày mưa… //
Một người về đỉnh cao / Một người về vực sâu… //
Còn đây là đối xứng nhìn:
(Con mắt còn lại nhìn một thành hai)
Nhìn em yêu thương / Nhìn em thú dữ //
(Con mắt còn lại nhìn cuộc đời tôi)
Nhìn tôi lên cao / Nhìn tôi xuống thấp //
(Con mắt còn lại nhìn đời là không)
Nhìn em hư vô / Nhìn em bóng nắng
Sau đây là đối xứng trong từng cặp ý tưởng.
Đối xứng đi/về, bao la/gần gũi:
Người ngỡ đã xa xưa nhưng người bỗng lại về /
Tình ngỡ sóng xa đưa nhưng còn quá bao la
Đối xứng những giá trị con người, những giá trị trần gian:
Đường máu xương chờ lau hết dấu vinh quang
Đối xứng mất/còn, xa vắng/thiết tha. Có phải đó cũng là đối xứng yêu?
Tình trong hai tay / một hôm biến mất
Con mắt còn lại là đêm tối tăm / con mắt còn lại là đêm nồng nàn //
(Lòng ta có khi tựa như vắng ai)
Nhiều khi đã vui cười / Nhiều khi đứng riêng ngoài //
Nhiều khi muốn đi về con phố xa /
Nhiều khi muốn quay về ngồi yên dưới mái nhà
Đối xứng biển:
Tình yêu như biển, biển rộng hai vai /
Tình yêu như biển, biển hẹp tay người
Đối xứng gió/lá, nắng/mưa. Đối xứng tôi:
Đôi khi thấy trong gió bay lời em nói /
Đôi khi thấy trên lá cây ngày em đã xa tôi //
Đôi khi nắng qua phố xưa làm tôi nhớ /
Đôi khi có mưa giữa khuya hồn tôi bỗng vu vơ
Đối xứng hạnh phúc/khổ đau như hệ quả của “một ngày tình cờ biết em”. Cuộc tiếp cận với khổ đau của người nhạc sĩ giữa trần gian này đôi khi đã được thực hiện thông qua hình ảnh và trái tim của một người nữ:
Đời vẽ tóc em thật dài /
Rồi vẽ môi thơm nụ cười
Từ đó thiên hạ vui tươi //
Đời vẽ tim em lạ kỳ /
Tình có trong em nhiều mùa
Từ đó thiên hạ quá ưu tư…
Một dạng đối xứng khác là đối xứng trong kết hợp hai câu với nhau. Hai câu đối nhau, đã đành; nhưng những ý tưởng và hình ảnh trong từng câu một cũng đối nhau.
Đối xứng khô/mát, sáng/tối, trong/mờ:
Đôi khi thấy trên lá khô một dòng suối /
Đôi khi nhớ trong mắt em một bóng tối nhỏ nhoi…
Đối xứng đời và đối xứng tình. Đối xứng ấm và đối xứng lạnh:
Không xa tình và cũng không xa thù hận /
Không xa nồng nàn và cũng không xa lạnh lùng
Cũng có khi là đối xứng trong kết hợp bốn câu hai vế (mỗi vế hai câu). Hai vế đối nhau, và các phần tử trong mỗi vế cũng đối nhau. Các ý tưởng và hình ảnh trong mỗi câu của từng vế cũng đối nhau.
Đối xứng trăm năm và hạnh ngộ. Lạnh lùng và thiết tha. Tàn tạ và rực rỡ:
Đã có nghìn trùng trên môi người tình /
Đã giấu nụ tàn bên trong nụ hồng //
Có chớm lạnh lùng trên môi nồng nàn /
Có thoáng gập ghềnh trên con đường mòn //
Có khi là sự đối xứng liên tục trong một kết hợp chuỗi. Chuỗi đó là một chuỗi tình:
Tình xa như trời / tình gần như khói mây / tình trầm như bóng cây / tình reo vui như nắng / tình buồn làm cơn say
Tình thắp cơn sầu / Tình dìu qua hố sâu / tình vời lên núi cao / rồi trong cơn yêu dấu tình đầy tình xa nhau
Có khi là đối xứng trong cấu trúc của cả một bài. Vì vấn đề mỹ thuật, tôi không thể chép cả bài ra đây, nhưng Tình Sầu (xin xem toàn bài trong phần Phụ Lục) là một trong những bài hát được cấu trúc chủ yếu trên nét đẹp cân đối một cách hết sức thơ mộng của Trịnh Công Sơn. Cả bài, ngoài một đoạn giữa gồm có năm câu hát ngắn, coi như một thứ coda, được dùng để nối kết trong sự trở đi trở về của nó với cấu trúc của toàn bài, Cuộc tình lên cao vút / như chim mỏi cánh rồi / như chim xa lìa trời / như chim xa lìa bầy / như chim bỏ đường bay, tất cả phần còn lại được xây dựng trên tám đoạn ngắn để diễn tả cuộc tình sầu. Cấu trúc của tám đoạn đó là một cấu trúc đối xứng. Đối xứng về câu, đối xứng về ý, đối xứng về hình. Đối xứng hình ảnh trong một câu hát: tình gần như khói / mây; vội vàng / nhưng chóng quên // rộn ràng / nhưng biến nhanh… Đối xứng trong hai câu song song: hình hài xưa đã thay / mặn nồng xưa cũng phai // hồn mình như vá khâu / buồn mình như lũng sâu // nghìn trùng như vết sương / lạnh lùng như dấu chim… Đối xứng trong một chuỗi: Tình xa như trời / tình gần như khói mây… // Tình thắp cơn sầu / tình dìu qua hố sâu… (hai đoạn này đã dẫn ở trên). Tóm lại, Tình Sầu mang trong nó một cấu trúc đối xứng, ở nhiều cấp độ, trên một quy mô lớn là một bài hát hoàn chỉnh. Đây cũng là một trong những bài hát của Trịnh Công Sơn mà những biện pháp tu từ được sử dụng đến mức tối đa.
Chúng ta hãy hát lại Tình Sầu, cũng như những bài Quét Lá Mùa Xuân, Đời Cho Ta Thế, Rồi Như Đá Ngây Ngô, Tôi Ru Em Ngủ…, ta sẽ thấy cấu trúc đối xứng đã được Trịnh Công Sơn sử dụng một cách nhuần nhuyễn, thật thơ và đẹp như thế nào. Chính nó, cái cấu trúc ấy, đã là một hòa điệu đầy nét thẩm mỹ trong cái nghe, cái nhìn, cái cảm của con người. Cùng với những hình ảnh lạ và đẹp của người nhạc sĩ, nó mang chúng ta vào một thế giới không mòn, với những cánh cửa mãi mở ra, tiếp tục dẫn chúng ta đi tới. Trịnh Công Sơn đã nhìn ra những nét sống muôn đời của thiên nhiên ấy và ôm lấy chúng trong cuộc hành trình mình. Mâu/thuẫn, trắng/đen, khóc/cười, buồn/vui, xa/gần, ấm/lạnh, v.v…, tất cả những điều ấy là cuộc đời. Là con người. Là điều kiện của cuộc sống con người. La condition humaine, nói như Malraux. Tất cả nằm lẫn trong nhau, nằm trong lòng nhau. Tất cả đều sinh ra nhau. Nếu đã hát Có điều gì gần như niềm tuyệt vọng / rơi rất gần rơi xuống trong tôi, thì cũng hãy hát Đừng tuyệt vọng, tôi ơi, đừng tuyệt vọng. Nếu đã hát Đã giấu nụ tàn bên trong nụ hồng và Đóa hoa hồng vùi quên trong tay, thì cũng hãy hát Quỳnh thơm hay môi em thơm và Cuộc đời cho tôi trái cấm trên đôi môi em. Bởi lẽ, em là tôi và tôi cũng là em. Và tất cả cuộc đời này là những điều đắp đổi, gắn bó, nằm trong lòng nhau và xoay chuyển bốn mùa.
bùi vĩnh phúc
(trích trong Trịnh Công Sơn / Ngôn Ngữ & Những Ám Ảnh Nghệ Thuật, California: Văn Mới, 2005/Sài gòn: Văn hoá Sài Gòn, 2008—sắp xếp lại và bổ sung cho bản đăng trên Da Màu, 4/2009)
_____________________
Chú thích:
(1) Tựa đề bài hát là “Mưa hồng”. Có lẽ trên cuộc đời này, Trịnh Công Sơn là người duy nhất giữ
được mầu nắng hồng trong mây và giữ được mầu mưa hồng trong nắng. Thật ra, khoảng gần năm trăm năm trước, Thang Hiển Tổ, một kịch tác gia vĩ đại của Trung Quốc thế kỷ XVI, đã nói đến hình ảnh mưa hồng (“hồng vũ hạ”). Ông bảo là “đi vào tình yêu giống như đi dưới mưa hồng”. Cách ví von thật đẹp. Nhưng có lẽ cái mưa hồng mà Thang Hiển Tổ thấy ở đây là cái mưa trong tâm lý nhiều hơn. Khi đang yêu, con người thấy thế giới chung quanh toàn một mầu hồng, “la vie en rose”. Cái thú vị là sao Thang Hiển Tổ không nói đến “cái hồng” nào khác giữa cuộc đời này dưới mắt những người đang yêu, mà lại nói đến “mưa hồng”. Và Trịnh Công Sơn, người nhìn thấy “mưa hồng”, có thật đã nhìn thấy cái mầu hồng ấy một cách “vật lý”, từ nắng, từ mây, đến cơn mưa đổ chụp lên thành phố khi hai người yêu vừa nắm tay nhau vừa chạy trốn cơn mưa? Hay đã nhìn thấy mầu mưa bay chéo trong ánh phượng? “Em đi về cầu mưa ướt áo / Đường phượng bay mù không lối vào / Hàng cây lá xanh gần với nhau”? Bâng khuâng, ta tự hỏi, “Ngày xưa, bên Tàu, thời Thang Hiển Tổ, không biết có những cây hoa phượng hay không?” (cho dù, một cách ý thức, ta biết rằng cây hoa phượng, còn được gọi là cây hoa soan Tây, do người Pháp đem vào Việt Nam. Nó có tên khoa học là “Delonix regia”, gốc ở Madagascar; còn được gọi là “flamboyant flower” hay “Royal Poinciana” trong tiếng Anh, để nhớ vị thống đốc Pháp, Phillipe de Longviliers de Poincy, người đã có công đem nó vào châu Mỹ, qua ngả Caribbean, vào thế kỷ XVII.)
(2) Thế giới của Trịnh Công Sơn là một thế giới thơ, không phải là thế giới của văn xuôi hay của cuộc sống đời thường; bởi thế, gần như bất cứ câu hỏi nào mà Trịnh Công Sơn đặt ra trong thế giới của mình cũng là một câu hỏi tu từ. Nó là một câu hỏi để nhấn mạnh tâm ý của tác giả. Nó không cần một câu trả lời theo thể điệu bình thường của cuộc sống văn xuôi.
(3) Xem Heinz R. Pagels, Perfect Symmetry / The Search for the Beginning of Time. New York: Simon and Schuster, 1985.
Bùi Vĩnh Phúc
Bùi Vĩnh Phúc
Không ai nghe nhạc Trịnh Công Sơn mà lại không thấy những nét kỳ ảo trong ngôn ngữ của người nhạc sĩ . Những nét kỳ ảo trong thế giới của anh đã khiến cho cái thế giới ấy trở nên, có khi, đẹp đẽ, lung linh nhiều mầu sắc, có khi, nhòe nhạt thấp thoáng những nét nghệ thuật hơn. Nó là một thế giới tuy không xa nhưng cũng không thật gần với cuộc đời này, giống như chút tình mà Trịnh Công Sơn đã nhắc đến trong một câu hát của bài Như Một Lời Chia Tay, “Tình không xa nhưng không thật gần”. Trong một câu hát khác của bài Đời Cho Ta Thế, anh viết, “Không xa bờ và cũng không xa mịt mù (…) / Không xa trời và cũng không xa phận người”.
Đúng như thế, trong thế giới của anh, ngôn ngữ làm ra tất cả. Chính ngôn ngữ đã tạo ra một thế giới mới, trong đó, anh và bạn bè bằng hữu cũng như những người con gái đáng yêu trong cuộc sống anh hay trong cuộc đời này đã đi lại, nói cười và tan đi như bóng nắng chết trên sông dài, hay như khói trời tan loãng trong mênh mông phù du hư ảnh. Đó là một thế giới có thật hay là một thế giới chỉ có trong tưởng tượng? Có lẽ là cả hai. Có lẽ thế giới này đã xâm thực, chiếm lĩnh và hòa tan làm một cùng thế giới kia. Chính vì thế mà thế giới của Trịnh Công Sơn trở nên nhòe nhạt, lung linh hư ảo. Nó là một thế giới “lai”: lai giữa hiện thực và mộng tưởng, lai giữa hiện tại chớp mắt và thiên thu mịt mù, lai giữa hồng và xám, giữa xanh và đỏ, giữa trắng và đen, giữa vàng và tím, lai giữa “một phố hồng một phố hư không” và “giữa tường trắng lặng câm” u tối.
Ngôn ngữ sinh ra thế giới. “Ngôn ngữ là căn nhà của hiện hữu”, là “chỗ An cư của Tính thể”, nói như Heidegger. Câu nói này càng đúng hơn nữa với Trịnh Công Sơn. Người ta thường cho rằng những lời ca của anh là thơ. Thì đúng là như vậy. Chúng là những lời thơ thả bay cho gió cuốn. Chúng là những hình ảnh, những biểu tượng bất chợt. Như những hình ảnh bất chợt hiện ra lạ lùng, kỳ bí và đầy hư ảo trong những giấc mơ của ta. Chúng bay rải rác và rồi đột nhiên xếp lại thành những bức tranh lạ lùng mang đầy tính huyền ảo. Đó là những lời thơ của một người thường thấy mình mộng du ngay trong đời sống, và thấy đời sống trở về trong những giấc mộng của mình. Đó là những câu thơ nhặt được trong đời. Hay trong mơ. Có khi Trịnh Công Sơn xếp đặt nó theo một thứ vần điệu nào đó dễ nhận ra, qua những hình thức của thi ca mà chúng ta đã quen biết; có những khi, chúng giống như những câu thơ tự do, những câu thơ dài ngắn không đều, như những mảnh giấy mà trẻ con xé nghịch thả bay cùng trời đất. Có lẽ đa số những câu hát của anh nằm trong dạng thức đó. Những câu thơ tự do, như những mảnh giấy nhỏ nhiều màu sắc thả bay trong trời. Nhưng, bây giờ, ta hãy thử xét một số bài hát được Trịnh Công Sơn viết dưới dạng quen thuộc của những bài thơ (hoặc một phần lớn của bài hát được viết như thế). Những bài thơ mà khi được đặt trên khuông nhạc của anh, ít người nhớ lại là, tự khởi đầu, chúng đã ra đời như những bài thơ toàn vẹn.
Những Bài Thơ
* Thơ 4 chữ:
Cũng Sẽ Chìm Trôi (*)
Nhật nguyệt trên cao
Ta ngồi dưới thấp
Một dòng trong veo
Sao lòng còn đục
Bầy vạc bay qua
Kêu mòn tịch lặng
Đường đời không xa
Sao chồn gối chân (…)
(*) Bài này chia làm 2 đoạn, mỗi đoạn 8 câu.
Tuổi Đá Buồn
(…)
Trời còn làm mưa
Mưa rơi thênh thang
Từng gót chân trần
Em quên em quên
Ôi miền giáo đường
Ngày chủ nhật buồn
Còn ai còn ai
Đóa hoa hồng __
Tàn hôn lên môi
Em gầy ngón dài
Lời ru miệt mài (…)
* Thơ 5 chữ:
Nguyệt Ca
Từ khi trăng là nguyệt
Đèn thắp sáng trong tôi
Từ khi trăng là nguyệt
Em mang tim bối rối (…)
Vì Tôi Cần Thấy Em Yêu Đời
Tôi xin làm mưa bay
Trong vườn em mùa hạ
Tôi xin làm chút gió
Mát thêm những bờ vai (…)
Tôi xin làm sao đêm
Hay làm cây đèn nhỏ
Em bên đèn sẽ nhớ
Nắng trên những đường quen
Tôi xin làm mây êm
Trôi vào trang nhật ký
Hay tôi làm mực hồng
Chờ em giữa trang thư (…)
* Thơ 7 Chữ:
Em Đi Bỏ Lại Con Đường
(…)
Bỏ mặc mưa về bỏ chiều phai
Bỏ mặc hư vô bỏ ngậm ngùi
Bỏ đêm chưa qua ngày chưa tới
Bỏ mặc tay buồn không bàn tay (…)
Bỏ tôi hoang vu và nhỏ bé
Bỏ mặc tôi ngồi giữa đời tôi
Hai Mươi Mùa Nắng Lạ
(…)
Em hai mươi tuổi như bài thơ
Sài Gòn nắng mưa em chợt đến
Làm lời mộng mị giữa thiên thu
Em hai mươi tuổi em đâu ngờ
Năm xưa vui buồn chút phù du
Sài Gòn xua tan nghìn dấu lệ
Cho em bây giờ mắt tình đưa
* Thơ Tám chữ:
Một Cõi Đi Về
Bao nhiêu năm rồi còn mãi ra đi
Đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt
Trên hai vai ta đôi vầng nhật nguyệt
Rọi suốt trăm năm một cõi đi về (…)
* Thơ Lục Bát:
Mưa Mùa Hạ
(…)
Mưa như từng giọt rượu hờ
Đêm trong thành phố ai chờ chờ ai
Mưa thưa tựa áo lụa trời
Ôm quanh da thịt chân người người qua
Lời Ở Phố Về (*)
Đêm xưa ra phố với người
Giờ đây xuống phố với ngày vô vi (…)
Hôm nay ra phố với người
Chợt trong phố xá những lời phân ưu (…)
Bên kia sông nước vô bờ
Hồng nhan em có bao giờ bâng khuâng
Nụ cười trong gió mong manh
Một trời riêng đó bước chân ta về.
(*) Bài này chia làm 2 đoạn đối xứng nhau, mỗi đoạn 12 câu lục bát.
* Một Trường Hợp Đặc Biệt: Đoá Hoa Vô Thường
Bài Đóa Hoa Vô Thường là một khúc ca thiền, một giao hưởng thơ (symphonic poem), thay đổi với nhiều giọng điệu. Chính vì thế, ở đây, ta có thể tìm thấy Trịnh Công Sơn đã không những công phu với từng phần, từng đoạn nhạc để diễn tả những ý tình khác nhau qua những khúc thức đầy những nhịp điệu tiết tấu biến đổi, mà anh còn dụng công rất nhiều trong những thể thơ khác nhau, dành cho những phần nhạc khác nhau ấy, để diễn tả những cảm xúc chảy suốt khúc giao hưởng này. Ta thấy dòng thơ 4 chữ làm thành những bước đi thong dong khởi đầu của khúc nhạc:
Tìm em tôi tìm
Mình hạc xương mai
Tìm trên non ngàn
Một cành hoa khôi
Nụ cười mong manh
Một hồn yếu đuối
Một bờ môi thơm
Một hồn giấy mới…
Khi tìm thấy em, đưa tình về, nhịp hớn hở và dìu dặt tha thiết của lục bát:
Từ nay tôi đã có người
Có em đi đứng bên đời líu lo (…)
Từ em tôi đã đắp bồi
Có tôi trong dáng em ngồi trước sân (…)
Từ nay anh đã có nàng
Biết ơn sông núi đáp đền tiếng ca
Mùa xuân trên những mái nhà
Có con chim hót tên là ái ân.
Sau đó, lại chuyển sang thể thơ 4 chữ để diễn tả tâm trạng bốn mùa yêu nhau. Rồi giọng thơ trở nên hiu hắt khi cuộc tình bước sang một giai đoạn chuyển tiếp khác. Bây giờ là thơ 6 chữ:
Một chiều em đứng cuối sông
Gió mùa thu rất ân cần
Chở lời kinh đến núi non
Những lời tình em trối trăn
Một thời yêu dấu đã qua
Gót hồng em muốn quay về
Dù trần gian có xót xa
Cũng đành về với quê nhà.
Sau đó, nhạc chuyển sang dồn dập và mênh mông, thơ 5 chữ:
Từ đó trong vườn khuya
Ôi áo xưa em là
Một chút mây phù du
Đã thoáng qua đời ta….
Khi khúc giao hưởng mềm và êm dịu trở lại để kết thúc, lời thơ 5 chữ lại trở về cho đến hết bài.
Đóa Hoa Vô Thường là một tác phẩm mà Trịnh Công Sơn đã để nhiều công phu trong đó. Ở đây, ta chỉ tạm nói qua về các thể thơ mà anh đã đưa vào tác phẩm đẹp đẽ này.
Những Hình Ảnh Tỉnh Lược (Ellipsis)
Một nét thú vị trong ngôn ngữ của Trịnh Công Sơn là những nét tỉnh lược trong ca từ của anh. Ngôn ngữ thơ là một loại ngôn ngữ đặc thù. Nó không nhất thiết phải tuân thủ những quy luật của ngữ pháp văn xuôi. Dù sao, những sự lệch biến này, nếu đẩy tới một độ nào đó, và nếu xuất hiện liên tục ở một tần số nào đó, có thể làm cho câu thơ và làm cho nhà thơ trở nên bí hiểm. Nhà thơ, như thế, sẽ trở nên khó hiểu và có khả năng tự làm cho mình xa rời người thưởng ngoạn. Một nhà thơ giỏi, nếu không đưa ra hẳn được một cách nhìn mới, một lối diễn tả mới, hay không phải là người thích làm cách mạng trong thi ca bằng ngôn ngữ sáng tạo của mình, có thể vẫn là một người dùng chữ nghĩa dung dị, nhưng sự dung dị đó vẫn tỏa ra những nét mới. Ngôn ngữ Trịnh Công Sơn dung dị, nhưng được làm mới bằng nhiều cách. Có thể nói là chúng ta đã tìm hiểu phong cách ngôn ngữ nghệ thuật của anh qua suốt chuyên luận này trong tất cả những phân tích về những ám ảnh cũng như về thời gian và không gian nghệ thuật của Trịnh Công Sơn. Tất cả những ám ảnh cũng như những xây dựng thời gian và không gian trong thế giới anh đều đã được thực hiện bằng chất liệu ngôn ngữ. Dù sao, trong phần này, cũng như trong một số lý giải tiếp theo sau, chúng ta sẽ thử nhìn kỹ hơn nữa phong cách nghệ thuật xét trên mặt ngôn ngữ của anh.
Trong nghệ thuật tỉnh lược, những hình ảnh (cũng có nghĩa là những từ ngữ) trong câu bị cắt đi mất một vài thành phần, có khi chúng còn bị sắp xếp theo một trật tự không bình thường nữa, khiến cho câu văn và hình ảnh mất đi tính mòn, và trở nên mới, nhờ sự lắp ghép lại trong chính trí tưởng tượng của người thưởng ngoạn. Biện pháp này thành công nhờ gắn chặt với những thao tác nghệ thuật được tiến hành dưới sự soi chiếu của tâm lý hoàn hình Gestalt, vốn đã nằm sẵn trong bản năng của người thưởng ngoạn, cho dù người này có biết hay không biết điều ấy.
* Em đi về cầu mưa ướt áo
Đường phượng bay mù không lối vào
Hàng cây lá xanh gần với nhau
(Mưa Hồng) (1)
Câu đầu, “Em đi về cầu mưa ướt áo”, có ý nghĩa như thế nào? Ngữ pháp, ở đây, bị cắt bỏ đến mức tối đa. Mọi hình ảnh trở nên rất mơ hồ, giống như bị nhòa nhạt trong mưa. Có thể dựng nên hình ảnh em đi qua cầu, trời mưa và gió bay rào rạt, em một tay che đầu một tay giữ áo để gió và mưa khỏi đánh tốc vạt áo lên. Dáng em bước vội vã nhưng cơn mưa vẫn nhanh hơn. Hình ảnh em, và mưa, và cây cầu, trở nên nhoà nhạt. Có thể cho cơn mưa đổ xuống nhẹ hơn, và những giọt mưa bám vương vào áo em chỉ đủ làm ướt hờ một bờ vai hồng và một tà áo trắng. Vân vân. Người thưởng ngoạn, chạm vào sự tỉnh lược này, có tự do, ở một mức độ nào đó, để hoàn tất và làm rõ hình ảnh em đi qua cầu trong cơn mưa. Hình ảnh cắt thiếu nét này đẹp. Vì nét cắt khéo. Và cũng vì nó được đóng khung trong một bối cảnh thật đẹp và thơ.
* Hồ Tây chiều thu
Mặt nước vàng lay bờ xa mời gọi
Màu sương thương nhớ
Bầy sâm cầm nhỏ vỗ cánh mặt trời
(Nhớ Mùa Thu Hà Nội)
“Vỗ cánh mặt trời” là thế nào? Hình như tác giả đã cắt đi một nét chính yếu giữa động tác “vỗ cánh” của bầy chim sâm cầm và hình ảnh “mặt trời”. Có thể là bầy chim vỗ cánh bay về hướng mặt trời. Có thể là vỗ cánh bay dưới bóng mặt trời. Có thể là bầy chim vỗ cánh bay đi trong ánh mặt trời đang xuống loang đỏ mặt nước của Hồ Tây buổi chiều thu. Đó có thể là một vài lý giải của người thưởng ngoạn để làm cho bức tranh có đầy đủ nét hơn. Nhưng, thật sự, đủ nét để làm gì? Bức ảnh thiếu nét như thế lại hay. Vì nó tạo nên một hiệu ứng nhòe. Khiến cho buổi chiều ấy như thấm đẫm một màu sương. Nếu bức ảnh đầy đủ mọi nét, “màu sương thương nhớ” kia sẽ không còn chỗ để phát huy hết tác dụng của nó nữa.
* Trời còn làm mưa mưa rơi thênh thang
Từng gót chân trần em quên em quên
Ôi miền giáo đường
Ngày chủ nhật buồn còn ai còn ai
Đóa hoa hồng tàn hôn lên môi
Em gầy ngón dài lời ru miệt mài…
(Tuổi Đá Buồn)
Một hình ảnh thiếu nét: đóa hoa hồng tàn hôn lên môi. Người thiếu nữ đưa đóa hoa hồng, mãi bị vùi quên trong tay, bây giờ đã tàn đã héo, lên môi hôn? Hình ảnh có pha chút xót xa. Trời mưa. Những gót chân trần. Một ngày chủ nhật. Nỗi buồn. Ngọn tháp giáo đường trơ vơ. Một đóa hồng tàn. Một người con gái mong manh. Và những tiếng ru. Tất cả những hình ảnh đó gọi về một cái gì mong manh, buồn bã. Tất cả mọi nét đều hầu như tĩnh lặng. Kể cả cơn mưa cũng rất tĩnh lặng trong buổi chiều buồn. Chỉ có những gót chân bước đi. Và, đặc biệt, động tác đưa đóa hồng tàn lên môi hôn. Đóa hoa hồng tàn hôn lên môi: đâu là chủ từ của động từ “hôn”? Người con gái hôn đóa hoa, hay chính đóa hoa là chủ thể của nụ hôn ấy? Nó hôn lên đôi môi ướt lạnh, nhòe nhạt và buồn đau của người con gái đang buông những gót chân trần trong mưa kia. Tôi nghĩ là Trịnh Công Sơn đã để một nét thiếu tuyệt đẹp trong bức tranh mưa của mình.
Chúng ta có thể tiếp tục thử phân tích như thế với những câu “Cây sang thu lá úa rơi mù” trong bài Tạ Ơn, “Mưa phố vai mưa mềm” trong bài Mưa Mùa Hạ… Tất cả những nét thiếu trong những câu như thế của Trịnh Công Sơn là những nét thiếu rất nghệ thuật. Thiếu mà lại tràn đầy. Vì nó kích thích trí tưởng tượng của ta. Nó bắt ta phải, bằng vào kinh nghiệm và những cảm thức thẩm mỹ của mình, bổ túc cho bức tranh được hoàn chỉnh và có ý nghĩa hơn. Nói Trịnh Công Sơn là người có tài sai sử ngôn ngữ cũng là ở những chỗ như thế.
Những Câu Bỏ Lửng
Trịnh Công Sơn cũng có những lúc sử dụng những câu bỏ lửng, chưa toàn vẹn ý ở một mức độ nào đó. Có thể những câu loại này không hẳn là hay hoặc thật hay, nhưng chắc chắn chúng tạo nên một nét lạ. Và trong nghệ thuật, ai là người tránh khỏi sức hấp dẫn của những điều lạ, nếu ta đủ lòng tin rằng mình là người có khả năng để tạo ra chúng.
Chúng ta thử xem những câu dưới đây:
* Có chút bồi hồi trong phút chia ly
Có những mặt người không yêu là vì
Có những cuộc đời hết sức ngây ngô ….
Câu hai, “không yêu là vì”. Là vì sao? Không thấy Trịnh Công Sơn trả lời. Có lẽ cũng giống như trong tiếng Mỹ, nhiều khi để trả lời một câu hỏi, người ta không thể cho biết đích xác lý do của hành động mà câu hỏi đã đặt ra. Người ta, bởi thế, chỉ trả lời, “Because…”, hay là “Just because…” Ta không thể hiểu rõ là “because what ?”, “because” cái gì.
* Từ khi em là nguyệt
cho tôi bóng mát thật là.
“Bóng mát thật là mát”, hay là “bóng mát thật là hạnh phúc”… Chúng ta không rõ. Trịnh Công Sơn chỉ nói lửng lơ như vậy thôi. Cho tôi bóng mát thật là.
* Người tình kia mất con đường về
Và trời kia mất em từ độ.
Từ độ nào? Chúng ta có thể hỏi. Nhưng người nhạc sĩ chỉ nói vậy. Là đủ. Nếu người thưởng ngoạn muốn hiểu là “từ độ ấy” thì chắc cũng đúng. Nhưng hình như người nhạc sĩ như muốn hỏi rằng, “Nói ra quá rõ như thế để làm gì?”
Trong những lời ca của Trịnh Công Sơn, người ta còn có thể tìm ra nhiều câu bỏ lửng theo cung cách như vậy. Chẳng hạn:
* Trăm năm ở đậu ngàn năm
Đêm tối ở trọ chung quanh nỗi buồn
Ngàn năm (í a)
Buồn như (í a).
* Chiều trên quê hương tôi / có bao nhiêu điều đã trôi qua
Có riêng em cuộc đời vẫn nhớ
Nét quê hương nghìn năm vẫn là.
* Trời còn làm mưa mưa rơi thênh thang
Từng gót chân trần em quên em quên
Ôi miền giáo đường ngày chủ nhật buồn…
* Tìm em tôi tìm
Nhủ lòng tôi ơi
Tìm đêm chưa từng
Tìm ngày tinh khôi
Tìm chim trong đàn ngậm hạt sương bay
Tìm lại trên sông những dấu hài
* Có điều gì gần như niềm tuyệt vọng
Trong xuân thì hay bóng trăm năm
Bỗng một hôm qua phố hoang tàn
Tôi quen như tôi đã có lần.
Cách nói bỏ lửng như thế, trong những câu tôi vừa thử nêu ra, có đặc sắc hay không là tùy nơi cảm quan của người thưởng ngoạn. Nhưng có một điều chắc chắn là nó lạ. Nó làm cho người nhạc sĩ đứng tách ra. Và nó làm cho chúng ta nhớ anh. Và, đó cũng là một phong cách nghệ thuật.
Những Cách Nói Lạ
Ngoài lối nói tỉnh lược, cắt bỏ nét trong câu trong hình, ngoài lối nói bỏ lửng, cắt bỏ một nét cuối câu, Trịnh Công Sơn còn có một phong cách sử dụng từ rất lạ, biến chúng thành một nét riêng của anh, không nhòe lẫn với bất cứ ai.
Trước hết là từ “hư hao”. Từ này, trong cuộc sống văn xuôi, có một nghĩa thật tầm thường. Nó đi quá gần đời sống. Nó gần với câu văn nói và không mang một nét thơ nào cả, chẳng hạn khi người ta nói về đồ đạc hay nhà cửa hư hao. Trong Trịnh Công Sơn, anh cho nó những thuộc tính, những phẩm tính mới:
Ngọn gió hư hao thổi suốt chiêm bao
Rồi tình trong im tiếng
Rồi tình ngoài hư hao
Về đây thân xác hư hao
Đêm đêm nằm nghe lá
than van chút niềm đau ngọt ngào.
“Hư hao”, từ đó, đã đi vào thi ca.
Thứ nhì là trạng từ “vừa”. Ý nghĩa bình thường của nó là “đủ”, “không thừa, không thiếu”, như trong “cầu dừa (vừa) đủ xài (xoài)”. Ở Trịnh Công Sơn, nó được lắp ghép một cách đặc biệt vào những tính từ thường không gắn bó với nó, như:
Một lời tình cuối vu vơ
Một ngày tình xót xa vừa,
hay tất cả gắn bó với nhau trong một thi ảnh lạ:
Chìm dưới cơn mưa
Một ngàn năm trước
Mây qua mây qua
Môi em hồng nhạt
Chìm dưới cơn mưa
Một ngàn năm nữa
Mây qua mây qua
Môi em hồng vừa.
Có khi anh cho trạng từ “vừa” này bám vào một danh từ, khiến cho nó được dùng như một tính từ:
Ngàn mây xám chiều nay về đây treo lững lờ
Và tiếng hát về ru mình trong giấc ngủ vừa.
“Vừa”, như thế, mang một nét mới của Trịnh Công Sơn.
Ngoài những từ vừa kể, Trịnh Công Sơn còn nhiều cách nói khác làm cho người nghe khó quên anh. Những cách nói đó bao gồm những từ ngữ không nằm trong cách lắp ghép bình thường của mọi người. Có thể kể:
Từ nay tôi đã có tình
Có em yêu dấu lẫy lừng nói thưa
Miệng môi kia ốm o lời thề
Trái tim cho ta nơi về nương náu
Được quên rất nhiều ngày tháng tiêu điều
Một ngày đã có em xa nơi này
Một ngày với vắng tôi
Nào dễ chóng phai trong lòng nỗi nhớ
Ngày tháng trôi qua cơn đau mịt mù…
Những cách nói như thế, những cách dùng chữ như thế, góp phần làm cho thế giới của Trịnh Công Sơn tách xa khỏi cuộc sống bình thường một chút nữa. Chúng tạo nên một độ chênh để người thưởng ngoạn nhận rõ hơn đó là thế giới của Trịnh Công Sơn. Từ đó, con người tác giả cũng hiện ra dưới mắt họ trong một góc độ đặc biệt hơn.
Cuộc Hôn Phối Của Những Hình Ảnh:
Những Biện Pháp Tu Từ
Qua suốt bài này, chúng ta thấy rõ rằng ngôn ngữ của Trịnh Công Sơn bao gồm đa số những từ, những chữ bình thường, nhưng cách anh sử dụng chúng, cách anh tạo ra những hình ảnh nơi chúng, thì quả là khác thường. Những hình ảnh của anh khác thường, như đã nói, có lẽ vì chúng “không xa nhưng không thật gần” đời sống. Hình ảnh “Trời ươm nắng cho mây hồng” chẳng hạn, là một hình ảnh lạ, và đẹp. Đó chỉ là một trong rất nhiều những hình ảnh mà Trịnh Công Sơn đã đưa vào thế giới của mình, và làm cho thế giới của anh trở nên mới và lạ hẳn. Một quy luật của sự sáng tạo thi ca là làm “lạ hóa” (defamiliarization) những cảnh, những vật bình thường, cho chúng một khuôn mặt và một vóc dáng khác. Đặt chúng vào trong những không gian mới. Dìm chúng vào một bầu khí quyển mới. Trịnh Công Sơn thường xuyên làm được điều đó, và làm một cách tài hoa, trong việc viết những ca từ của mình. Ngoài việc tạo ra những hình ảnh mới, Trịnh Công Sơn còn tạo được sự khác thường nơi thế giới mình bằng cách sắp đặt các ý tưởng, các hình ảnh bên nhau một cách bất ngờ, không theo sự mong đợi của người nghe anh. Cái tài của anh là tạo ra những cuộc hôn phối kỳ lạ của chữ nghĩa, của hình ảnh. Những cuộc hôn phối ấy thường được thực hiện bằng những biện pháp tu từ (figures of speech). Và có lẽ Trịnh Công Sơn là một trong ít người tài hoa đã thực hiện một cách tốt đẹp và ban phép lành cho những cuộc hôn phối này, khiến, nhiều lúc, người xem tưởng như chứng kiến một phép lạ. Đó là những phép lạ ngôn ngữ. Và, để nhắc lại, ngôn ngữ cũng là một vật liệu để sáng tạo ra trần gian này.
Sau đây, chúng ta hãy thử xét một số biện pháp tu từ mà Trịnh Công Sơn thường dùng. Qua đó, chúng ta cũng gặp gỡ lại một số những hình ảnh mang đầy tính “hiện thực kỳ ảo” trong thế giới ý tưởng của người nhạc sĩ. Trong một số trường hợp, những hình ảnh của Trịnh Công Sơn bao gồm những biện pháp tu từ có tính chập đôi hay trùng phức; qua đó, chúng mang trong mình một lúc hai hoặc ba biện pháp chập lại. Trong trường hợp ấy, hình ảnh thường trở nên có chiều sâu hơn và đưa đến, cùng lúc, nhiều sự liên tưởng.
Một vài thí dụ: Trong bài Thương Một Người, câu “Từng đêm qua ngõ tối / Bàn chân âm thầm nói” có thể được hiểu như một hình ảnh với những biện pháp tu từ có tính trùng phức. Ở một mức độ thấp và đơn giản nhất, có thể xem đây là biện pháp nhân hóa: tác giả gán cho bàn chân một thuộc tính của người, là “nói”. Cao hơn nữa, có thể xem nó là ẩn dụ: bàn chân tượng trưng cho người con gái; một người con gái âm thầm đi về trong đêm. Bàn chân âm thầm ấy nói lên những tâm sự buồn và u uẩn. Cao hơn nữa, có thể xem nó là hoán dụ: lấy bàn chân, là một phần của con người, để chỉ toàn thể con người: người con gái với bước chân âm thầm đi trong đêm tối, tấm lòng ôm giấu một nỗi buồn riêng tư, không muốn ngỏ cùng ai.
Trong bài Ru Ta Ngậm Ngùi, câu “Có sợi tóc nào bay / Trong trí nhớ nhỏ
nhoi” cũng có thể đã mang trong nó một hình ảnh có tính trùng phức. Sợi tóc có thể là một ẩn dụ chỉ người con gái, một bóng dáng thân yêu đã khuất xa trong cuộc đời người nhạc sĩ. Nó cũng có thể mang tính hoán dụ: tác giả dùng một sợi tóc để chỉ cả một mái tóc, và dùng một mái tóc—một phần của con người—để chỉ cả một con người. Người con gái ấy đã có thể trở về trong tâm trí tác giả, trước hết, qua hình ảnh một sợi tóc. Một sợi tóc bay ngang một vành môi hồng ướt chẳng hạn. Điều ấy đáng nhớ lắm chứ!
Một số hình ảnh được liệt kê dưới đây đã rơi vào những trường hợp trùng phức như thế. Thật sự, chúng có thể được xét cùng một lúc như những biện pháp tu từ khác nhau.
* Nhân hóa (Personification):
Một biện pháp tu từ gán cho thú vật, những ý tưởng, những sự trừu tượng, và những đồ vật vô tri giác cái dạng thể, tính cách hay những cảm giác của con người; hoặc là gán cho loài vật hay những thứ gì đó được tưởng tượng ra những nét thông minh hoặc những đặc tính và cảm xúc của con người.
Khi tình đã vội quên
Tim lăn trên đường mòn
Trên giọt máu cuồng điên
Con chim đứng lặng câm
Con gió ở trọ bao la đất trời
(…) Mây kia ở đậu từng không
Mưa nắng ở trọ bên trong mắt người
(…) Trăm năm ở đậu nghìn năm
Đêm tối ở trọ chung quanh nỗi buồn
Biển sóng biển sóng đừng xô tôi
Đừng xô tôi ngã giữa tim người
Biển sóng biển sóng đừng âm u
Đừng nuôi trong ấy trái tim thù
Tình khâu môi cười
Tình thắp cơn sầu
Tình dìu qua hố sâu, tình vời lên núi cao
Rồi trong cơn yêu dấu tình đày tình xa nhau
Từng đêm qua ngõ tối
Bàn chân âm thầm nói
Trời làm cơn mưa xanh dưới những hàng me
Bao đường phố em qua nắng lên đứng chờ
Bống nhảy lên bờ bống đi chơi phố
Nắng vàng ủng hộ cho bống căn nhà
Một dòng sông chở ngày hấp hối
Ngày thu đông phố xưa nằm bệnh
Đàn chim non réo bên vườn hoang
Người ra đi bến sông nằm lạnh
Này nhân gian có nghe đời nghiêng
Lời cỏ cây hát trên da người
Xuân đến bên kia đồi trời mở ra cánh én
Em đến bên tôi ngồi đời mở ra cuộc tình
Đàn chim non lần hạt
Cho câu kinh bước tới
Chiều đã đi vào vườn mắt em
Ngàn cây thắp nến lên hai hàng…
Đời vẽ tôi tên mục đồng
Rồi vẽ thêm con ngựa hồng
Từ đó lên đường rong chơi…
Đời vẽ tóc em thật dài
Rồi vẽ môi thơm nụ cười
Từ đó thiên hạ vui tươi…
* So sánh (Simile):
Biện pháp tu từ trong đó sự tương tự hoặc giống nhau giữa hai đối tượng được trực tiếp trưng ra. Giữa hai đối tượng được so sánh thường có một liên từ so sánh như như, tựa để nối kết chúng. Trong biện pháp này, hai đối tượng được so sánh, trong bản chất, thường thuộc những thể loại rất khác nhau, trong những phạm trù khác nhau, nhưng lại có một điểm hay một khía cạnh nào đó bất ngờ đem lại một sự liên tưởng khiến chúng trở nên giống nhau.
Mặt trời như trái cây tuyệt vọng
Rơi trong đêm rơi trong đời nàng
Đời sao im vắng
Như đồng lúa gặt xong
Như rừng núi bỏ hoang
Đời sẽ buồn như một vết thương
Tình sẽ buồn như là nấm hoang
Đôi khi thấy trăm vết thương rồi như đá ngây ngô
Tôi như ngọn đèn từng đêm vơi cạn
lửa lên thắp một niềm riêng
Tôi như nụ hồng nhiều khi ưu phiền
nhìn tôi rã cánh một lần
Đâu ngờ tình như lá úa
khiến tôi chia lìa từng giấc mơ
Những bước chân mềm mại đã đi vào đời người
như từng viên đá cuội rớt vào lòng biển khơi
Từng người tình bỏ ta đi như những dòng sông nhỏ
(…) Tình ta như núi rừng cúi đầu
Tình yêu như trái phá con tim mù lòa
Tình yêu như nỗi chết, cơn đau thật dài
Tình yêu như vết cháy trên da thịt người
Tình xa như trời,
tình gần như khói mây,
tình trầm như bóng cây,
tình reo vui như nắng
tình buồn làm cơn say
Tình yêu như trái chín trên cây rụng rời
Hồn mình như vá khâu,
buồn mình như lũng sâu
Bờ vai như giấy mới
Mình như đá, đá lăn vết lăn buồn
Như trùng dương đêm mắt thâm còn nghe ngóng
Có người lòng như khăn mới thêu
Có người lòng như nắng qua đèo
Dù ta như con đường dài vắng người
Nhìn người đi như mây vô danh
Mưa như từng giọt rượu hờ
Đóa hoa vàng mỏng manh cuối trời
Như một lời chia tay
Thằng bé xinh xinh ra đồng giữa ngọ
Miệng môi hồng đỏ như đóa hoa vông…
* Ẩn dụ (Metaphor):
Biện pháp tu từ đưa ra một sự so sánh ngầm qua đó một đối tượng được đưa ra so sánh một cách đầy bất ngờ, qua những hình ảnh mang đầy nét tưởng tượng, với một đối tượng khác. Đối tượng thứ nhất được gán cho một hay nhiều đặc tính của đối tượng thứ hai; hoặc đối tượng đầu được gán cho những đặc tính mang nét xúc cảm hay tưởng tượng có liên hệ với đối tượng thứ hai. Cũng giống như trong so sánh, hai đối tượng được đề cập thường là khác xa nhau trong bản chất hoặc trong phạm trù suy niệm, thế nhưng, một nét bất ngờ nào đó, từ tia lửa nhận thức loé lên trong tâm hồn và cái nhìn của con người sáng tạo, hai đối tượng được đem lại đặt gần bên nhau, và nét giống nhau giữa chúng được bật lên. Cái thú vị của ẩn dụ nằm ở chỗ đây là một sự so sánh ngầm. Sẽ không có một liên từ so sánh nào được sử dụng để nối kết hai đối tượng lại. Có khi, sự nối kết này lại được thể hiện thẳng băng và bất ngờ qua hệ từ là. Trong những trường hợp khác, người thưởng ngoạn, với sự tưởng tượng nhanh nhạy của mình, phải tự làm công việc liên kết hai đối tượng được so sánh lại. Sự thú vị được tạo ra cũng từ đó.
Ngoài phố mùa đông
Đôi môi em là đốm lửa hồng
(Từng người tình bỏ ta đi như những dòng sông nhỏ)
Ôi những dòng sông nhỏ lời hẹn thề là những cơn mưa
Đôi khi trên mái tình ta nghe những giọt mưa
Nhìn lại mình đời đã xanh rêu
Từng bước em là từng mũi đinh cuồng điên
Tình khâu môi cười
Có con đò chở mưa nắng đi
Cuộc đời cho tôi cho tôi trái cấm trên đôi môi em
Cuộc đời cho thêm cho em có cánh bay đi vội vàng
Môi em hồng như lá hư không
Lòng ta trăm con hạc gầy vút bay
Dù trong ta đêm thì thầm tiếng buồn
Em là phấn thơm cho rừng chút hương
Là lời hát ca cho trần gian
Có sợi tóc nào bay
Trong trí nhớ nhỏ nhoi
Con sông là thuyền, mây xa là buồm
Dòng nước mắt sẽ bay trong trời
Làm cơn mưa rớt trên chăn gối
Có còn trong em những đêm gió lộng
Có còn trong em những cây nến hồng
Tên em là vết thương khô
Từng câu nói là từng cánh buồm giong cuối trời
Chiều nay em ra phố về, thấy đời mình là những chuyến xe
(…) Thấy đời mình là những đám đông
(…) Thấy đời mình là những quán không
(…) Thấy đời mình là con nước trôi
Môi nào hãy còn thơm
Cho ta phơi cuộc tình
Đời ta có khi là đốm lửa
Một hôm nhóm trong vườn khuya…
* Hoán dụ (Metonymy / Synecdoche):
Biện pháp tu từ dùng sự thay thế. Nó sử dụng một từ mang chứa một hình ảnh nào đó gần gũi với hình ảnh được nghĩ đến trong tâm hồn và đầu óc kẻ sáng tạo để đưa đến một sự nhận thức gián tiếp về hình ảnh đó. Chẳng hạn, khi nói, “Ngươi sẽ phải đổ mồ hôi ra mới có tấm bánh mà ăn”, thì “mồ hôi” ở đây chỉ “sự lao động cực nhọc”. Hay khi dùng hình ảnh “ngai vàng” hoặc “bệ rồng” để chỉ “nhà vua”. Nó cũng là biện pháp lấy một phần để chỉ toàn phần, hay, đôi khi, ngược lại, lấy toàn phần để chỉ một phần. “Đó là một tay thợ lành nghề”, “Nếu anh không làm rõ mọi chuyện, đừng vác mặt đến gặp tôi nữa”, hay “Cả thành phố đổ xuống đường đi đưa tiễn người nhạc sĩ tài hoa”… là những thí dụ cho biện pháp này. Để tạo sự thích đáng và mang lại hiệu ứng thẩm mỹ cần thiết, phần được chọn để thay thế cho tổng thể sẽ phải là một phần quan trọng của tổng thể đó và phần được chọn ra để thay thế ấy thường phải là phần có liên hệ trực tiếp đến cái toàn phần kia.
Một cuộc tình nhỏ bé
Bên đôi môi hồng đào
Có sợi tóc nào bay
Trong trí nhớ nhỏ nhoi
Những bước chân mềm mại
Đã đi vào đời người
Tôi tìm thấy tôi theo từng gót xa
(…) Hãy còn bước đi cho bình minh lên sớm
Cho đời chút ơn biết tà áo nọ
Bước chân em xin về mau
Từng đêm qua ngõ tối
Bàn chân âm thầm nói
Bàn tay chăn gió mưa sang
Tay hư vô đốt nến
Chiều chơi vơi lên cao
Tay hư vô che giấu
Chiều qua truông mây sâu
Bàn tay nghe ngóng tin sang
Vì một bàn tay không ngần ngại
Tặng hết cho tôi một phố chờ
Mùa thu mưa bay cho tay mềm
(…) Bàn tay xôn xao đón ưu phiền
Nghe bao nỗi đau trên một bàn tay
Một chiều tay người đã thả mây bay cho đường dài…
* Câu Hỏi Tu Từ (Rhetorical question):
Biện pháp tu từ dùng một (hay những) câu hỏi để nhấn mạnh một ý tưởng hay một tình cảm nào đó. Đây không phải là một câu nghi vấn đòi hỏi hoặc cần đến một câu trả lời. Câu hỏi tu từ thường được dùng để thuyết phục hoặc để tạo ấn tượng về mặt hùng biện. Nguyên lý chính cho sự sử dụng câu hỏi tu từ là, vì câu trả lời đã quá hiển nhiên và thường câu hỏi chỉ có một lời đáp duy nhất khả hữu và thích đáng, nên, để tạo ấn tượng sâu lắng hơn trong tâm hồn người nghe, người đặt câu hỏi tìm đến biện pháp tu từ này hơn là đưa ra một lời tuyên bố bình thường hay một câu xác định trực tiếp. (2)
Làm sao em biết bia đá không đau?
Đường nào quạnh hiu tôi đã đi qua?
Đường nào dìu tôi đi đến cơn say?
Nắng vàng, em đi đâu mà vội mà vội ?
Nắng vàng, nắng vàng ơi!
Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi
Để một mai vươn hình hài lớn dậy?
(…) Ôi, cát bụi mệt nhoài.
Tiếng động nào gõ nhịp không nguôi?
(…) Vết mực nào xóa bỏ không hay?
Người đâu mất người?
(…) Điệu kèn ai buốt trong tôi?
Còn bao lâu cho thiên thu xuống trên thân này?
Còn bao lâu cho mây đen tan trên hồn người?
Còn bao lâu tôi xa em xa anh xa tôi?
Một dòng (í a) trong veo.
Sao lòng (í a) còn đục?
Đường đời (í a) không xa.
Sao chồn (í a) gối chân?
Sầu thôi xuống đầy.
Làm sao em nhớ?
Không có em, còn tôi với ai?
(…) Không có em, buồn vui với ai?
(…) Ai đã chia người mãi xa người?
Ai giết đi tình đang lứa đôi?
Tuổi nào ngơ ngác tìm tiếng gió heo may?
Tuổi nào lang thang thành phố tóc mây cài?
Tuổi nào ngồi khóc tình đã nghìn thu?
Tuổi nào mơ kết mây trong sương mù?
Sau một lần đến bên người
Khép lại tấm lòng nghìn năm nhớ ai?
Anh đi đâu, về đâu?
Có nhớ trong em từng ngày yêu dấu?
Có biết trong em tình mãi bền lâu?
Trong em mặt trời khô héo?
Trong em ngày ấy vực sâu một đời?
Trời đất kia có hay ta về?
(…) Này nhân gian, có nghe đời nghiêng?
Cuộc đời đó có bao lâu mà hững hờ?
Nhớ gì mà nắng vàng cánh rừng?
Thương ai mà sương khuya vội vàng buông?
Nơi em về ngày vui không em?
Nơi em về trời xanh không em?
Ta nghe nghìn giọt lệ
Rớt xuống thành hồ nước long lanh.
Qua một số hình ảnh được lấy ra trong thế giới của Trịnh Công Sơn như đã trình bày ở trên, ta thấy là Trịnh Công Sơn, để xây dựng những hình ảnh và cả một thế giới của mình, đã sử dụng rất nhiều những biện pháp tu từ. Tất cả làm cho những hình ảnh của anh long lanh, lấp lánh, lung linh, hay tạo ra những hiệu ứng nhoè hư hư thực thực. Chúng là những nét nhoè nghệ thuật một cách cố ý. Những biện pháp này, được sử dụng với phong thái riêng của Trịnh Công Sơn, đã biến thế giới của anh thành một thế giới đặc thù, không thể nhầm lẫn với bất kỳ sáng tạo của bất kỳ một nghệ sĩ nào khác. Ngoài những biện pháp tu từ vừa kể, chắc chắn Trịnh Công Sơn còn sử dụng thêm những biện pháp khác. Nhưng, một là vì chúng khá phổ biến, như cách nói cường điệu hóa của thi ca và văn chương (mà chúng ta cũng thấy trong ca từ của anh), hay cách sử dụng biện pháp trùng lặp (điệp từ, điệp ngữ, v.v…) để tạo sự nhấn mạnh, hay đối xứng (mà ta sẽ xét tiếp theo phần này); hai là vì chúng không xảy ra thường xuyên ở một tần số nào đó, như cách sử dụng biện pháp đảo trang, uyển ngữ, v.v…, nên tôi không liệt kê chúng hết cả ra đây. Dù sao, trong những biện pháp mà Trịnh Công Sơn đã sử dụng, hoán dụ có lẽ là một biện pháp mang một vài hình ảnh đặc biệt mà chúng ta nên nói thêm.
Có thể nói, ngoài một vài trường hợp rõ rệt, hầu như tất cả những hình ảnh về bàn tay mà Trịnh Công Sơn đưa vào trong thế giới của mình đều là những bàn tay lạ. Những bàn tay mở ra và đưa đón giữa trời. Những bàn tay tách khỏi chủ thể, hoặc nếu có gắn bó với một chủ thể nào đó thì đó là một chủ thể giấu mặt, có tính rất phiếm chỉ. Chẳng hạn như, “tay hư vô đốt nến”, “bàn tay chăn gió mưa sang”, “bàn tay nghe ngóng tin sang”, “nghe bao nỗi đau trên một bàn tay”, “tay người đã thả mây bay cho đường dài”, vân vân. Tôi tạm xếp loại chúng vào biện pháp hoán dụ, vì nếu lý luận cho đến rốt ráo thì những bàn tay đó đều dẫn đến, và đại diện cho, một chủ thể nào đó. Hoặc một chủ thể có tính vô hình, như hư vô, như trời đất, hoặc một thực thể có tính hữu hình, như tôi, như em, như người, những tôi, em, người rất phiếm định vì sự vắng mặt hay giấu mặt của nó. Nhưng, thật ra, chúng có nên được xếp vào hình loại “hoán dụ” hay không, hay là nên xem chúng như những ẩn dụ mang một khuôn mặt lạ. Hay chúng là những hình loại trùng phức, vừa hoán dụ vừa ẩn dụ. Đấy là một trong những nét “hiện thực kỳ ảo” trong thế giới Trịnh Công Sơn.
Những Nét Đối Xứng
Trong thế giới và trong những thi ảnh của Trịnh Công Sơn, người ta thường thấy một sự hài hòa mang đậm nét mỹ học được thực hiện bằng biện pháp đối xứng. Đối xứng thật ra đã là một quy luật về mỹ học từ thời xa xưa, khi con người hiểu rằng chính đối xứng đã tạo ra sự cân bằng hòa đối, nâng cao khoái cảm thẩm mỹ nơi con người. Luật đối xứng, trong thời hiện đại và hậu hiện đại, với sự soi chiếu của những tương quan văn hóa mới, những nền mỹ học mới, có thể đang gặp một số những thử thách, trên nhiều lĩnh vực nghệ thuật. Dù sao, có thể nó sẽ chấp nhận một cuộc sống chung, trong một mức độ và trong một tương quan nào đó, với luật bất cân xứng, để tạo nên một thế giới đa dạng và nhiều màu sắc hơn. Nhưng chắc chắn nó sẽ không thể bị loại bỏ khỏi mắt nhìn nghệ thuật của con người. Bởi lẽ, tất cả thiên nhiên và vũ trụ này, thật sự, đã được tạo dựng ra trong sự đối xứng đó. (3)
Ta hãy thử xét thế giới của Trịnh Công Sơn qua cấu trúc đối xứng này trong nhiều mức độ khác nhau. Cấu trúc đối xứng này cũng có thể là song song hay thuận nghịch. Trước hết là những hình ảnh đối xứng trong một câu:
Đây là đối xứng mùa màng:
Yêu đầy mùa nắng / mùa mưa
Còn đây là đối xứng tình cảm. Con người được treo giữa hai đầu cân lên xuống, giữa đớn đau chảy máu và hạnh phúc hoan lạc:
Mỗi vết thương lành / một nỗi vui
Đối xứng về thời gian, thời gian vật lý hay thời gian tâm tưởng:
Ngày nào vừa đến đã xa muôn trùng…
Đôi khi thấy trên lá khô một dòng suối
Đối xứng không gian, xa và gần, thân thuộc và lạ mặt:
Không xa bờ và cũng không xa mịt mù /
Không xa cửa nhà và cũng không xa ngục tù…
Những ý tưởng và hình ảnh đối xứng dưới đây được diễn ra trong một cặp song song.
Đây là đối xứng yêu:
Tôi đã yêu em bao ngày nắng / Tôi đã yêu em bao ngày mưa… //
Một người về đỉnh cao / Một người về vực sâu… //
Còn đây là đối xứng nhìn:
(Con mắt còn lại nhìn một thành hai)
Nhìn em yêu thương / Nhìn em thú dữ //
(Con mắt còn lại nhìn cuộc đời tôi)
Nhìn tôi lên cao / Nhìn tôi xuống thấp //
(Con mắt còn lại nhìn đời là không)
Nhìn em hư vô / Nhìn em bóng nắng
Sau đây là đối xứng trong từng cặp ý tưởng.
Đối xứng đi/về, bao la/gần gũi:
Người ngỡ đã xa xưa nhưng người bỗng lại về /
Tình ngỡ sóng xa đưa nhưng còn quá bao la
Đối xứng những giá trị con người, những giá trị trần gian:
Đường máu xương chờ lau hết dấu vinh quang
Đối xứng mất/còn, xa vắng/thiết tha. Có phải đó cũng là đối xứng yêu?
Tình trong hai tay / một hôm biến mất
Con mắt còn lại là đêm tối tăm / con mắt còn lại là đêm nồng nàn //
(Lòng ta có khi tựa như vắng ai)
Nhiều khi đã vui cười / Nhiều khi đứng riêng ngoài //
Nhiều khi muốn đi về con phố xa /
Nhiều khi muốn quay về ngồi yên dưới mái nhà
Đối xứng biển:
Tình yêu như biển, biển rộng hai vai /
Tình yêu như biển, biển hẹp tay người
Đối xứng gió/lá, nắng/mưa. Đối xứng tôi:
Đôi khi thấy trong gió bay lời em nói /
Đôi khi thấy trên lá cây ngày em đã xa tôi //
Đôi khi nắng qua phố xưa làm tôi nhớ /
Đôi khi có mưa giữa khuya hồn tôi bỗng vu vơ
Đối xứng hạnh phúc/khổ đau như hệ quả của “một ngày tình cờ biết em”. Cuộc tiếp cận với khổ đau của người nhạc sĩ giữa trần gian này đôi khi đã được thực hiện thông qua hình ảnh và trái tim của một người nữ:
Đời vẽ tóc em thật dài /
Rồi vẽ môi thơm nụ cười
Từ đó thiên hạ vui tươi //
Đời vẽ tim em lạ kỳ /
Tình có trong em nhiều mùa
Từ đó thiên hạ quá ưu tư…
Một dạng đối xứng khác là đối xứng trong kết hợp hai câu với nhau. Hai câu đối nhau, đã đành; nhưng những ý tưởng và hình ảnh trong từng câu một cũng đối nhau.
Đối xứng khô/mát, sáng/tối, trong/mờ:
Đôi khi thấy trên lá khô một dòng suối /
Đôi khi nhớ trong mắt em một bóng tối nhỏ nhoi…
Đối xứng đời và đối xứng tình. Đối xứng ấm và đối xứng lạnh:
Không xa tình và cũng không xa thù hận /
Không xa nồng nàn và cũng không xa lạnh lùng
Cũng có khi là đối xứng trong kết hợp bốn câu hai vế (mỗi vế hai câu). Hai vế đối nhau, và các phần tử trong mỗi vế cũng đối nhau. Các ý tưởng và hình ảnh trong mỗi câu của từng vế cũng đối nhau.
Đối xứng trăm năm và hạnh ngộ. Lạnh lùng và thiết tha. Tàn tạ và rực rỡ:
Đã có nghìn trùng trên môi người tình /
Đã giấu nụ tàn bên trong nụ hồng //
Có chớm lạnh lùng trên môi nồng nàn /
Có thoáng gập ghềnh trên con đường mòn //
Có khi là sự đối xứng liên tục trong một kết hợp chuỗi. Chuỗi đó là một chuỗi tình:
Tình xa như trời / tình gần như khói mây / tình trầm như bóng cây / tình reo vui như nắng / tình buồn làm cơn say
Tình thắp cơn sầu / Tình dìu qua hố sâu / tình vời lên núi cao / rồi trong cơn yêu dấu tình đầy tình xa nhau
Có khi là đối xứng trong cấu trúc của cả một bài. Vì vấn đề mỹ thuật, tôi không thể chép cả bài ra đây, nhưng Tình Sầu (xin xem toàn bài trong phần Phụ Lục) là một trong những bài hát được cấu trúc chủ yếu trên nét đẹp cân đối một cách hết sức thơ mộng của Trịnh Công Sơn. Cả bài, ngoài một đoạn giữa gồm có năm câu hát ngắn, coi như một thứ coda, được dùng để nối kết trong sự trở đi trở về của nó với cấu trúc của toàn bài, Cuộc tình lên cao vút / như chim mỏi cánh rồi / như chim xa lìa trời / như chim xa lìa bầy / như chim bỏ đường bay, tất cả phần còn lại được xây dựng trên tám đoạn ngắn để diễn tả cuộc tình sầu. Cấu trúc của tám đoạn đó là một cấu trúc đối xứng. Đối xứng về câu, đối xứng về ý, đối xứng về hình. Đối xứng hình ảnh trong một câu hát: tình gần như khói / mây; vội vàng / nhưng chóng quên // rộn ràng / nhưng biến nhanh… Đối xứng trong hai câu song song: hình hài xưa đã thay / mặn nồng xưa cũng phai // hồn mình như vá khâu / buồn mình như lũng sâu // nghìn trùng như vết sương / lạnh lùng như dấu chim… Đối xứng trong một chuỗi: Tình xa như trời / tình gần như khói mây… // Tình thắp cơn sầu / tình dìu qua hố sâu… (hai đoạn này đã dẫn ở trên). Tóm lại, Tình Sầu mang trong nó một cấu trúc đối xứng, ở nhiều cấp độ, trên một quy mô lớn là một bài hát hoàn chỉnh. Đây cũng là một trong những bài hát của Trịnh Công Sơn mà những biện pháp tu từ được sử dụng đến mức tối đa.
Chúng ta hãy hát lại Tình Sầu, cũng như những bài Quét Lá Mùa Xuân, Đời Cho Ta Thế, Rồi Như Đá Ngây Ngô, Tôi Ru Em Ngủ…, ta sẽ thấy cấu trúc đối xứng đã được Trịnh Công Sơn sử dụng một cách nhuần nhuyễn, thật thơ và đẹp như thế nào. Chính nó, cái cấu trúc ấy, đã là một hòa điệu đầy nét thẩm mỹ trong cái nghe, cái nhìn, cái cảm của con người. Cùng với những hình ảnh lạ và đẹp của người nhạc sĩ, nó mang chúng ta vào một thế giới không mòn, với những cánh cửa mãi mở ra, tiếp tục dẫn chúng ta đi tới. Trịnh Công Sơn đã nhìn ra những nét sống muôn đời của thiên nhiên ấy và ôm lấy chúng trong cuộc hành trình mình. Mâu/thuẫn, trắng/đen, khóc/cười, buồn/vui, xa/gần, ấm/lạnh, v.v…, tất cả những điều ấy là cuộc đời. Là con người. Là điều kiện của cuộc sống con người. La condition humaine, nói như Malraux. Tất cả nằm lẫn trong nhau, nằm trong lòng nhau. Tất cả đều sinh ra nhau. Nếu đã hát Có điều gì gần như niềm tuyệt vọng / rơi rất gần rơi xuống trong tôi, thì cũng hãy hát Đừng tuyệt vọng, tôi ơi, đừng tuyệt vọng. Nếu đã hát Đã giấu nụ tàn bên trong nụ hồng và Đóa hoa hồng vùi quên trong tay, thì cũng hãy hát Quỳnh thơm hay môi em thơm và Cuộc đời cho tôi trái cấm trên đôi môi em. Bởi lẽ, em là tôi và tôi cũng là em. Và tất cả cuộc đời này là những điều đắp đổi, gắn bó, nằm trong lòng nhau và xoay chuyển bốn mùa.
bùi vĩnh phúc
(trích trong Trịnh Công Sơn / Ngôn Ngữ & Những Ám Ảnh Nghệ Thuật, California: Văn Mới, 2005/Sài gòn: Văn hoá Sài Gòn, 2008—sắp xếp lại và bổ sung cho bản đăng trên Da Màu, 4/2009)
_____________________
Chú thích:
(1) Tựa đề bài hát là “Mưa hồng”. Có lẽ trên cuộc đời này, Trịnh Công Sơn là người duy nhất giữ
được mầu nắng hồng trong mây và giữ được mầu mưa hồng trong nắng. Thật ra, khoảng gần năm trăm năm trước, Thang Hiển Tổ, một kịch tác gia vĩ đại của Trung Quốc thế kỷ XVI, đã nói đến hình ảnh mưa hồng (“hồng vũ hạ”). Ông bảo là “đi vào tình yêu giống như đi dưới mưa hồng”. Cách ví von thật đẹp. Nhưng có lẽ cái mưa hồng mà Thang Hiển Tổ thấy ở đây là cái mưa trong tâm lý nhiều hơn. Khi đang yêu, con người thấy thế giới chung quanh toàn một mầu hồng, “la vie en rose”. Cái thú vị là sao Thang Hiển Tổ không nói đến “cái hồng” nào khác giữa cuộc đời này dưới mắt những người đang yêu, mà lại nói đến “mưa hồng”. Và Trịnh Công Sơn, người nhìn thấy “mưa hồng”, có thật đã nhìn thấy cái mầu hồng ấy một cách “vật lý”, từ nắng, từ mây, đến cơn mưa đổ chụp lên thành phố khi hai người yêu vừa nắm tay nhau vừa chạy trốn cơn mưa? Hay đã nhìn thấy mầu mưa bay chéo trong ánh phượng? “Em đi về cầu mưa ướt áo / Đường phượng bay mù không lối vào / Hàng cây lá xanh gần với nhau”? Bâng khuâng, ta tự hỏi, “Ngày xưa, bên Tàu, thời Thang Hiển Tổ, không biết có những cây hoa phượng hay không?” (cho dù, một cách ý thức, ta biết rằng cây hoa phượng, còn được gọi là cây hoa soan Tây, do người Pháp đem vào Việt Nam. Nó có tên khoa học là “Delonix regia”, gốc ở Madagascar; còn được gọi là “flamboyant flower” hay “Royal Poinciana” trong tiếng Anh, để nhớ vị thống đốc Pháp, Phillipe de Longviliers de Poincy, người đã có công đem nó vào châu Mỹ, qua ngả Caribbean, vào thế kỷ XVII.)
(2) Thế giới của Trịnh Công Sơn là một thế giới thơ, không phải là thế giới của văn xuôi hay của cuộc sống đời thường; bởi thế, gần như bất cứ câu hỏi nào mà Trịnh Công Sơn đặt ra trong thế giới của mình cũng là một câu hỏi tu từ. Nó là một câu hỏi để nhấn mạnh tâm ý của tác giả. Nó không cần một câu trả lời theo thể điệu bình thường của cuộc sống văn xuôi.
(3) Xem Heinz R. Pagels, Perfect Symmetry / The Search for the Beginning of Time. New York: Simon and Schuster, 1985.
Bùi Vĩnh Phúc
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)