Không ngờ ở Việt Nam những năm 60 đã xuất hiện một bút pháp độc đáo như thế này.
PHĐ
DƯƠNG NGHIỄM MẬU Cũng đành [1]
Tôi trốn đơn vị chạy về nằm ở Cố Thổ vào cuối mùa thu cùng với những cơn sốt rét cách nhật. Bà cô tôi thương xót mỗi ngày vào rừng nhặt những lá, rễ cây về nấu cho tôi uống nhưng vô hiệu nên nghĩ đến chuyện trở về Hà Nội. Ngày tôi rời Cố Thổ về Sơn Tây cô tôi gói cho một gói cơm trộn tám phần sắn khô như củi, nhạt nhẽo. Cô tôi dặn về tìm một người quen ở đó giúp đỡ. Về tới nơi họ cũng không giúp đỡ được gì ngoài những bữa cơm sắn ăn với rau tàu bay luộc chấm muối. Những cơn sốt lại hành hạ. Người ta không thể xin được giấy cho tôi. Nghe lời mách của người hàng xóm muốn cho khỏi rét nên nuốt những con run đất. Họ bảo có thể trị sốt rét được. Không còn cách gì hơn, tôi kiếm một con dao cùn và chiếc gáo dừa vỡ đi đào run, những con run dài xanh đỏ ưa nằm chỗ ẩm, tôi cứ việc lật những viên gạch vỡ ở bên vại nước, và đào ở các bờ rãnh hàng bát run mang rửa và nuốt. Những con run còn sống nguyên, bò ngoi đầu lúc nhúc tôi cầm từng vốc bỏ vào miệng cho nó trườn vào cổ họng. Những ngày đầu ghê tởm, nôn mửa qua đi. Những ngày tiếp theo tôi nuốt thản nhiên. Những con run sống ấy vào trong bụng tôi đã nhiều nhưng những côn sốt cách nhật vẫn hành hạ và dữ dội thêm là khác, sức tôi yếu dần thêm nữa. Tôi chỉ còn tìm cách nào vào thành may ra kiếm được ký ninh uống.
Không ai dám bảo đảm xin giấy thông hành cho tôi. Tôi vẫn liều ngày ngày ra bến xe trèo lên để vào, nhưng dù ngồi yên chỗ rồi khi hỏi đến giấy không có, chuyến xe lại bỏ tôi lại. Rất nhiều lần như thế, đến khi có xe cho đi thì tôi lại không có một đồng. Hà Nội – Sơn Tây 43 cây số, với những cơn sốt tôi không còn đủ sức để lê về. Mãi sau vì nài nỉ quá có chiếc xe chở củ nâu, với người phu xe thương hại cho tôi đi bằng cách ấn tôi vào giữa những bao củ nâu. Hắn bảo tôi trước là nếu vô phúc bị khám mà lộ ra thì chịu khó mà ở tù đừng oán thán gì. Tôi hơi mỉm cười bảo:
- Thì sao mà cưỡng được...
Khi xếp những bao tải củ nâu lên xe hắn chừa lại một chỗ trống ở giữa cho tôi ngồi vào đấy rồi hắn lấy thêm những bao khác lấp lên trên. Tôi ngồi co rúm không thể cựa quậy, nhúc nhích. Mùi củ nâu, mùi bao tải hôi sì, mùi xăng nhớt như muốn chết ngạt. Giữa trưa xe từ giã tỉnh Sơn vào con đường trở về. Xe chạy nhanh sóc trên những quãng đường gồ ghề, những bao củ nâu bị lắc mạnh cứ dẹp mãi xuống, chung quanh tôi kín bưng chả thấy gì, tôi nghĩ như mình bị bỏ vào quan tài đã đậy ván thiên lại chỉ có điều là tôi còn thở. Cơn sốt lại đến với tôi giữa những quãng đường ấy, chân tay run rẩy, hai hàm răng đánh vào nhau và tôi lả người đi vì mệt mỏi.
Khi tỉnh dậy thì xe đang dừng. Tôi lắng tai nghe tiếng giày đinh lộp cộp, những bao củ nâu bị lay động và có tiếng chọc của một chiếc gậy sắt. Tôi biết là xe đang bị khám, nên hai lần bị gậy sắt thọc vào lưng tôi không dám nhúc nhích và thở mạnh, tôi nghiếng răng, nhắm mắt lại... Những chặng gác thoát dần sự khám xét khiến cho xe về đến bến thì trời đã tối mịt. Bến xe Kim Mã hoang vắng người phụ xe dở bao tải cho tôi chui ra, tôi nghe tiếng chuông xe điện đổ dồn, tôi bước xuống mặt đường chân tay run lẩy bẩy vì đói vì lạnh. Tiếng đầu tiên tôi được nghe là của người phụ xe:
- Tới rồi đấy, có thể đi về nhà được không? Không có giấy thì coi chừng tụi ba tụi nó nhặt bỏ nhà tiền đấy.
Tôi cứng cả lưỡi không nói được. Tôi không biết về đâu cho qua đêm để sáng mai có thể đi tìm kiếm, dù tôi chưa biết là sẽ tìm kiếm cái gì. Về nhà. Người phụ xe nhìn tôi ái ngại. Hắn có khuôn mặt đen khắc khổ, đôi gò má cao làm cho hai mắt đen sâu bóng tối. Tôi nói với hắn tình cảnh của tôi, tôi muốn hắn cho tôi nằm ở trên xe cho đến sáng hôm sau. Nhưng hắn từ chối. Hắn nói với tôi một ít điều phân trần không sao có thể giúp tôi được. Tôi cám ơn hắn. Hắn xếp lại mấy bao củ nâu, đóng thùng xe rồi hắn quay lại nhìn tôi. Nghĩ thế nào hắn móc túi dúi cho tôi mấy đồng bạc. Không nói thêm nửa lời hắn trèo lên phiá trước xe. Chuyến xe chạy vào con đường có đèn thắp sáng.
Tôi không thể đứng lâu hơn được nên ngã quỵ xuống. Quá mệt tôi phải cố sức bò dần vào một túp lều bỏ không rồi lăn mình xuống đấy. Tôi nằm im một lúc cho hồi tỉnh rồi cố dậy sờ soạng trong bóng tối xem có cái gì có thể ôm vào người được cho đỡ cô đơn, nhưng sờ soạng mãi tôi mới nhận ra có một cái bàn nhỏ và có một cái ghế dài nhỏ. Ðó là đồ dùng của một quán nước, hoặc quà bánh gì đó. Tôi không có gì để ôm vào người. Tôi sờ mặt đất nhớp nháp, vơ những rác rưới ẩm nước hôi hám, những bã mía, lá bánh, giấy vụn. Tôi cố vơ thành một đống rồi rúc mình vào cho đỡ lạnh và êm hơn mặt đất. Muỗi kêu vo ve, những con chuột kêu thành tiếng chui vào đống rác kiếm ăn. Chúng cắn chân mà tôi không muốn cựa, chúng cắn chán lại rúc, lại kêu. Tôi vớ những nắm lá chuối ướt nhép bỏ vào mồm nhai cho đỡ buồn miệng. Tôi nghĩ chắc thịt tôi đã hết máu nên lũ chuột chả thèm ăn, và chắc chúng nó nhiều máu hơn tôi là khác, nghĩ thế tôi há lớn miệng tự nhủ: để chú nào vô phúc rúc vào mình sẽ ngậm miệng lại mà nhai một miếng cho khoái bao tử. Bởi vì nếu có con nào đến gần tôi cũng khó chộp được, chúng khoẻ và nhanh lạ. Lũ chuột rúc mãi chắc cũng chả kiếm được gì nên bỏ đi dần cho tôi nằm một mình nghe tiếng muỗi kêu vo ve.
Mãi tôi cảm thấy như có một con vật nào đó rất kỳ dị, to lớn tiến đến ôm choàng lấy tôi, tôi bị nghẹt thở không kêu được, thân thể cứng đờ rồi thiếp dần đi...
Tôi thức dậy khi trời đã sáng rõ, bụng đói cồn cào, chân tay rời rã, nhưng đầu óc tỉnh táo kỳ lạ. Tôi nằm im cho mãi đến khi có một người đàn bà bước vào lều. Khi bà ta đưa mắt nhìn đến đống rác thì kêu thét lên. Tôi ngọ ngoạy rồi chui đầu ra. Chắc hẳn người đàn bà tưởng tôi là một con vật, như con chó ốm ghẻ lở nào đấy. Khi thấy cả thân hình tôi ngồi dậy được thì trên khuôn mặt bà ta hiện ra nhiều nét ngạc nhiên đầy kinh dị:
- Trời ơi tao tưởng mày là xác chết rồi chứ... thế mà đêm lính nó không nhặt đi...
Tôi trở ra ngoài vươn vai, thở mạnh, phủi những rác rưởi bám trên quần áo, mắt tôi kèm nhèm. Tôi nhổ một chút nước bọt ra bàn tay rồi chét vào mắt mà dụi cho tỉnh táo. Những chuyến xe không, bắt đầu vào bến nằm. Mặt đường nhựa rét cứng. Mùa đông vào thành phố, vẻ buồn thảm càng nhiều. Người đàn bà dọn quán. Bà ta bán bún riêu, bánh đúc. Sau khi bầy bát đĩa, tôi ngồi vào tấm ghế dài, kẹp tay vào giữa hai bắp đùi rồi nói với bà ta:
- Cho một bát bánh đúc.
Người đàn bà mãi mới nhìn lên dò xét, tôi biết bà ta đang nghĩ gì:
- Này người ta chưa bán mở hàng đâu đấy. Có tiền không mà ăn?
Tôi moi mấy đồng bạc của người phụ xe cho mà để lên bàn, tôi lên giọng chững chạc:
- Cho hai đồng thôi...
Hai bát bánh đúc chan canh riêu nóng hổi vừa ăn vừa thổi làm tôi tỉnh táo. Tôi ngốn rau chuối như lợn cốt đầy dạ dày. Tôi ăn thật nhiều ớt cho tê cả miệng và ràn rụa nước mắt.
Nghĩ đến chuyện bị hỏi giấy, tôi đi vào phố xá lén lút như một kẻ ăn cắp, như chú cừu đang lạc vào bầy sói tôi đang lẩn thân bên những xác ma chập chờn lẩn quất. Trông người nào tôi cũng thấy họ hung ác ngay cả những đứa trẻ con cũng vậy và lúc nào tôi cũng tưởng họ sắp thộp lấy gáy mình hỏi lăng nhăng rồi bỏ vào nhà tù cho đông đảo thêm.
Việc đầu tiên tôi nghĩ đến là trở về nơi bãi Phúc Xá xem nhà cũ thế nào. Thành phố xa lạ một cách không ngờ. Những dấu vết chiến tranh đang được cố gắng lấp đầy để quên lãng. Tôi đứng ở đầu nhà máy đèn, nhìn xuống bãi Phúc Xá vắng tanh chơ vơ vài bức tường đứng cô đơn. Cầu Long Biên xám đứng đằng xa. Tôi không dám lần xuống bãi. Tôi cố nghĩ xem, quen ai, tìm ai, ở đâu, ăn gì, uống gì. Tôi ngồi ở vỉa hè nhìn nền trời xám.
Tôi đi men theo nhà Ideo lên phiá Yên Phụ. Những dặng cây trút lá chạy dài. Những tên lính Tây la thét cười cợt hát hổng ở phía trong bức tường cao. Tôi thấy chúng vứt những ống bơ ra theo lối cửa sổ. Tôi đến những đống rác ấy bới móc nhặt những chút vỏ bánh mì đen thui ấn vào mồm mà nhai mà nuốt. Tôi bới hết đống này đến đống khác. Tôi vét vào mồm từng chút cặn thịt hộp đã thiu thối, từng chút đầu hay đuôi cá tanh lợm còn sót lại trong những chiếc ống bơ. Tôi nhặt cả từng miếng bánh mặn nhỏ ấn vào hai túi áo. Ði bới hết những đống rác tôi ngồi nhai những mẩu bánh, khi cổ khô vì khát tôi tìm một cái máy nước áp mặt vào nốc.
Tôi đi lang thang lẩn lút từ phố này sang phố khác. Chen vào đám đông nhìn vào từng khuôn mặt xem có ai quen không. Nhưng suốt buổi tôi không tìm kiếm được gì.
Ðến buổi trưa tôi theo đường tàu điện ra tận Giám, ngồi trong Văn Miếu bên những bia đá, nhà đổ, gạch ngói và cỏ hoang buồn buồn tôi lộn hai túi áo ra nhặt nốt những vụn bánh còn sót lại bỏ vào mồm. Ngồi chán leo lên bức tường đổ ra chợ Con Bò. Ðang thơ thẩn bỗng nghe tiếng cười hỏi giật:
- Kìa cậu Kha, cậu mới hồi cư à? Ông bà ở đâu?... Cháu vẫn để ý tìm mà không gặp – may quá... nhà cháu ấy...
Tôi ngạc nhiên phủi áo rồi nhìn vào mặt người đàn ông một lúc. Tôi không nhận ra ai. Thấy tôi im lặng, người đàn ông lại nói tiếp:
- Cháu đây mà – cả Mạnh hồi xưa trông cửa hàng cho ông bà nhà...
Bây giờ thì tôi đã có người quen rồi cho dù tôi không nhận ra ai.
- Tôi nhớ, chết thật lâu ngày... tôi cũng đang đi kiếm...
- Thế ông bà nhà?
- Có mình tôi thôi... thầy đẻ tôi... Tôi đang đi tìm một chỗ ở.
- Thế ra có một mình cậu.
- Vâng...
- Thật rõ...
- Tôi muốn có một chỗ ở tạm – nhà bác?
Người đàn ông lưỡng lự. Bác ta vào độ 40 tuổi, mặt già nua đen sạm, những vết nhăn chằng chịt trên trán. Một con mắt bị tật để lộ ra một mí đỏ lòm và ít râu thưa mọc lởm chởm trên mép.
- Cho tôi ở tạm thôi...
- Nhà cháu cũng không có chỗ tử tế. Sợ cậu ở không được.
- Vẽ ra, đến có ổ chuột mà rúc vào cũng hay rồi đấy, loạn mà bác?
Sau cùng – bác Mạnh – bây giờ tôi có thể nhớ được tên bác – đưa tôi về ngõ Thong Phong ở tận mãi chỗ Ô Chợ Dừa nơi con đường Hàng Bột. Vừa vào đầu ngõ đã phải đi qua một xưởng thuộc da hôi thối và những ruộng muống tanh lợm mùi bùn. Bác Mạnh làm nghề thổi thong phong cho một xưởng nhỏ ở luôn tại đó làm người gác nữa. Bác có một chỗ ở bằng ba chiếc chiếu ngánh bằng mấy tấm tôn vào cái lò nấu thủy tinh. Trong nhà chỉ có một cái gường tre độc nhất là chỗ ăn, chỗ ngồi chơi hút thuốc lào và chỗ ngủ cho hai vợ chồng và một đứa con gái hai tuổi gầy teo. Tiếng nó khóc như tiếng mèo kêu nhưng cũng nhờ tiếng khóc đó tôi biết nó còn sống.
Tôi nói tình cảnh tôi cho bác Mạnh nghe. Bác tỏ vẻ ái ngại về chuyện vật đổi sao dời làm tôi khó chịu. Tôi nhờ bác xin cho một việc làm ngay ở xưởng. Ở đây người ta mua những mảnh vụn chai, kính vỡ về nấu rồi thổi thong phong, những ve chai nhỏ để đóng thuốc cho mấy tiệm thuốc bắc. Tôi không biết thổi nên nhận một chân đốt lò, khuân thủy tinh, quét dọn. Buổi tối tôi giải chiếu ngay nơi cửa lò – chỗ làm việc của bọn thợ ban ngày mà ngủ cho ấm.
Bây giờ thì tôi đỡ lo là chưa chết ngay. Mùa đông kéo dài những ngày rét mướt. Tôi vay tiền mua hai cái bao tải tối đến chui vào đó. Với những ngày làm việc mệt nhọc những cơn sốt vẫn trở lại với tôi. Tôi lãnh tiền công chỉ trả tiền cơm cho bác Mạnh và mua thuốc ký-ninh vàng về uống hoài. Uống mãi những cơn sốt lui dần thì tôi hoá ra nghễnh ngãng, ù tai nghe không rõ. Người ta sai bảo tôi chẳng nghe được, người chủ đuổi tôi không cho làm vì không thể mượn một người điếc. Tôi buồn sao không điếc hẳn mà lại còn đủ sức để nghe tiếng quát tháo. Theo lời khuyên của bác Mạnh. Tôi đeo lên vai một cái giỏ rách, với một cái móc sắt đi theo những người móc rác đi nhặt mảnh chai, kính vỡ, vụn sắt về bán.
Tôi tìm ra bãi đổ rác, bới những đống hôi thối, nhặt chai, kính... từng chút sắt vụn, vỏ cam, rẻ rách. Khi chiều về lọc ra từng thứ bán cho bà Cả Ới. Bà ta chuyên mua lại của những người đi nhặt rồi bán cân cho xưởng thổåi phong long, cho lò đúc, rẻ rách bán cho dân Bưởi làm giấy cho xưởng ô tô làm rẻ lau. Vỏ cam vỏ quýt cho tiệm bào chế và cả lông vịt lông gà...
Tôi kiếm đủ ăn, tối về ngủ ở chỗ bác Mạnh như một con chó vô chủ.
Tôi bới chán ở đống rác lại đi tìm bới ở những căn nhà đổ nát chưa có chủ về. Tôi nghĩ đến nhà tôi, và những thứ còn lại ở đấy chắc chưa ai nhặt nên muốn mò về. Một bữa tôi lên đê Yên Phụ nhìn sang bãi Phúc Xá với ý nghĩ ấy nhưng rồi không dám qua. Tôi đi dọc bờ sông lên chỗ xưởng dép cao su Con Hổ chen vào một đám đông đảo tụ lại ở chân đê.
Tôi thấy người ta đang đào một cái hố lớn, họ đào sâu và vứt lên vô kể những mảnh chai sắt vụn mà không ai nhặt thì mừng quá. Tôi nhặt lại từng đống rồi thuê xe ba gác chở về. Tôi vớ được một món bất ngờ. Tôi không hiểu họ đào gì mà chốc có người lại cúi xuống nhặt lên một mẩu xương, khi to khi nhỏ rồi xem xét, truyền tay nhau. Khi thì xương bò, khi thì xương lợn, khi xương gà, xương chó... Khi biết thế họ lại vứt đi và đào nữa – Sau tôi mới biết họ tìm xương người. Toán người ở đó được một nhà giàu ở đây thuê đào tìm xương của ông bố chết hồi chạy loạn mà người đó nghi là chết ở tăng-xê nơi chỗ này. Bởi thế nên mỗi khi gặp một chút xương họ phải xem có phải là xương người không, nhưng mỗi lần họ đều thất vọng, đào mãi cũng không thấy gì. Ngày thứ hai họ có ý thôi, tôi nghĩ đến sắt vụn mảnh chai nên bảo:
- Tăng xê này sâu lắm, ở dưới nữa kia. Ðào chưa tới đâu.
Thấy nói vậy họ tưởng tôi biết nên xúm lại hỏi, yên trí tôi biết. Tôi bảo chính hồi Nhật thả bom tôi đã chui vào đây và có lẽ mẹ tôi cũng bị chôn ở đây nữa. Họ tiếp tục đào và cho tôi kiếm ăn. Nhưng lẽ dĩ nhiên họ không tìm ra một chút xương người nào. Khi họ yên trí bảo chắc ông cụ không chết ở đây. Tôi vỗ tay vào trán như mới nhớ ra:
- À, nhưng chỗ này có những hai cái tăng-xê cơ – hay ông cụ chui ở cái đằng này...
Tôi chỉ cho họ chỗ cách đó độ năm thước, tôi quả quyết còn một cái nữa – và họ tiếp tục đào cho tôi nhặt mảnh chai, sắt vụn. Tôi nghĩ giá hồi xưa biết vậy tôi chết quách chỗ này cho bây giờ họ nhặt lấy xương mà làm ma, làm chay và cho là bố họ có hơn không. Rồi đào mãi họ cũng bỏ. Tôi nghiêm nét mặt rồi nói lớn:
- Sao không đào cái đống thịt thối này của tao mà lấy đầu lâu và xương cốt...
Lũ người bảo tôi là thằng điên họ tức bực muốn dần cho chết. Có một đứa bông lơn cho cả lũ cười.
- Ðến vứt cái xác mày cho chó nó cũng chả gặm nữa là xương cốt...
Tôi cất tiếng cười lớn theo đám đông xúm quanh làm họ thôi cười.
Số tiền kiếm được làm tôi phè phỡn. Một bữa tối tôi qua phố Hàng Buồm mua hai con gà luộc sẵn về cho vợ chồng bác Mạnh một con, còn một con tôi ngồi xé ra ngoạm.
Tôi đang ăn thì có đứa con gái đứng ở cửa nhìn vào. Tự nhiên tôi nói lớn:
- Có ăn thì vào cho miếng chứ nhìn gì?
Nó vào ngồi ở bên cạnh rất thản nhiên. Tôi nghĩ chắc nó cũng sống như tôi – thật tội nghiệp. Tôi nhìn vào mặt nó. Nó cũng chỉ độ tuổi tôi. Tóc uốn quăn môi son và mặt chát phấn. Nó mặc quần áo trắng. Nó ăn hết rồi ngồi mút mười đầu ngón tay còn vẻ thèm nhạt. Tôi hỏi:
- Ở đâu?
- Trong ngõ
- Có nhà à?
- Có
- Hạnh phúc, hạnh phúc.
- Còn anh?
Nó nói tiếng anh ngọt sớt. Tôi vứt bỏ mẩu xương cuối cùng rồi co vạt áo lên chùi mồm.
- Không có gì cả... không có gì cả mà...
- Về ở với em...
Nó lại xưng em. Tối hôm đó tôi theo về nhà nó – một gian nhà lá mãi trong cuối ngõ. Nó chỉ cho tôi nằm ở một cái chõng con và vứt cho tôi một cái chăn đơn. Nó ngủ ở một cái gường có màn buông và hai cái gối. Lần đầu tiên tôi được một chút êm ấm. Ðêm nó thắp đèn kể chuyện tâm sự cho tôi nghe. Nó chả có cha mẹ gì và nó làm nghề kiếm khách. Tôi về ở đó ngày ngày đi móc rác, đêm về ngủ. Nó thì ban ngày ngủ, đêm đến mặc quần áo, đánh phấn chải đầu rồi đi kiếm mối đem về nhà. Chúng nó cởi truồng ra đùa rỡn với nhau chán rồi ôm nhau lên giường ngủ như không có tôi. Những ngày mùa đông rét mướt kéo dài mãi nền trời xám và mưa đêm. Những ngày không có khách nó co tôi sang ngủ chung cho ấm. Có đêm cơn sốt rét lên nó thấy tôi run như sắp chết thì hoảng sợ.
- Ê chết sao mà rãy dữ vậy?
- Không.
- Ðừng rỡn, chết làm sao ta chôn.
- Thì cứ vứt ra đường là xong
- Vứt sao được...
- Ðùa chứ chết gì, ôm cho chặt vào thì không chết đâu, khỉ
Nó cởi hết quần áo tôi ra mà đùa rỡn coi tôi như một khúc gỗ. Ðêm nào nó cũng cần ôm lấy một thân thể mới ngủ được. Tôi là một cái thân thể để cho nó đắp vào những đêm không có khách. Có đêm tôi lên cơn rét, thân thể hoàn toàn bất lực, nó cố vác bỏ tôi sang chõng rồi ngồi chờ thằng tầm quất đi qua. Thằng tầm quất tới nó gọi vào rồi đóng cửa lại, nó bảo đấm bóp chán rồi ôm lấy. Thằng tầm quất không cưỡng lại được, sáng hôm sau như lả đi. Nó bảo tôi giúp sức kéo bỏ ra ngoài đường. Ðến một hôm có một gã đàn ông khoẻ mạnh đến rồi ở luôn lại. Tôi nằm một mình buồn tủi. Rồi đứa con gái bảo tôi:
- Em sắp lấy chồng.
- Gã đó?
- Chứ sao.
Tôi buồn rầu bảo:
- Lấy anh đi... tương lai mà...
Nó bĩu môi rồi tát vào mặt tôi một cái mà bảo:
- Ứ ừ... để rồi tao đi móc rác với mày à – Rồi con cái – rồi tuổi già?...
- Ðồ khỉ – Lại còn con cái? Lại còn tuổi già? Rồi sống được đến già à?
Tôi ôm lấy nó như chưa ôm bao giờ.
- Ðừng lấy gã đó. Ở với anh...
Mấy ngày sau chúng nó tống tôi đi với mấy chục bạc. Tôi ngày ngày đi móc rác, chiều đến mò vào Văn Miếu nằm. Ðêm đêm sờ soạng những bia đá, những gạch ngói nằm im mà thấy tủi thân. Ôm vào lòng cũng chỉ thấy cứng ngắc. Buổi sáng thức dậy soi mặt xuống làn nước hồ nghe tiếng quạ kêu trên những ngọn cây khô già cỗi.
Ðến một khuya kia tôi thức dậy vì ánh sáng đèn bin soi vào mặt. Tôi mở mắt nhìn tụi lính chĩa súng vào người. Chúng hỏi giấy tờ tôi không có gì nên bị điệu về bót. Chúng giam tôi đến sáng hôm sau mới dẫn lên hỏi:
- Tên gì?
- Con tên Kha.
- Thẻ căn cước?
- Con mới vào nên chưa có.
- Ở đâu?
- Con ở ngõ Thong Phong
- Số nhà?
- Con quên.
- Với ai?
- Với vợ con.
Chúng bắt tôi dẫn về ngõ Thong Phong, tôi đưa vào nhà đứa con gái. Tôi chỉ vào nó mà bảo với tụi lính:
- Vợ con đây.
Tụi lính cất tiếng hỏi:
- Có phải bà là vợ nó không?
- Không, tôi có chồng.
- Bà biết nó không?
- Không – tôi không biết nó là ai cả.
- Nó là vợ tôi mà...
- Này thằng kia – mày trông rõ xem tao ngủ với mày bao giờ...
Tôi thấy yêu đứa con gái vô cùng. Tụi lính đánh tôi túi bụi.
- Khai láo, khai láo... quân lưu manh... đánh cho chết đi...
Ðêm chúng đem tôi về nhận vào bể nước rồi đánh nữa. Khi tôi ngất đi chúng lại phun nước cho tỉnh dậy và tiếp tụïc đánh như nhồi một trái banh – rồi chúng lại bắt tôi cung khai. Tôi không còn biết mình nói gì:
- Mày mới ở ngoài vào phải không?
- Vâng... dạ
- Ðịnh phá hoại phải không?
- Dạ vâng...
- Với ai, tổ chức nào?
- Vâng...
- Ai?
- Dạ...
- Ai?
- Nguyễn-mạnh-Kha...
- Ở đâu?
- Số bảy, tám, chín Hàng Khay.
- Ðúng không?
- Nó cho ở...
Tụi lính lại dẫn tôi đi, tới nơi tôi vừa tỉnh để bảo:
- Không, tôi nhầm. Tôi là Nguyễn-mạnh-Kha.
Tôi khai lung tung, bạ gì nói nấy. Chúng đánh chán tay rồi giam tôi vào buồng tối như một con chó cho muỗi nó đốt. Chúng tra khảo tôi mãi cũng chán nên giam tôi lại cùng với những người khác, mỗi ngày ném cho một nắm cơm. Có một ngày lũ người bị giam được tập trung vào một khoảng sân ngó thấy nền trời. Tay bị xích lại. Hôm đó có một viên cố đạo bảo là đến làm phép lành cho lũ tù. Hắn nói những điều tôi chưa hề nghe bao giờ như: yêu mến chúa, thiên đường, địa ngục, cứu rỗi, tội lỗi, xám hối, quỷ quái, thánh thần, yêu thương, huynh đệ... Lũ lính vác súng bắt lũ tù ngồi yên nghe.
Viên cố đạo làm dấu nhìn chúng bị đánh đập. Nhưng tôi còn đủ sức chửi bới và văng tục. Tụi lính lại tra khảo tôi mà không chịu buông tha:
- Mày tên gì?
- Con khỉ
- Ở đâu?
- Con khỉ... cởi truồng...
- Cha mẹ mày tên gì?
- Ai?...
- Cha mẹ mày?
Khi nghe rõ đến hai tiếng cha mẹ thì tôi khóc rống lên chúng tiếp tục đánh đập tôi nữa:
- Mày tên gì?
- ... thịt thối...
- Ở đâu?
- Viên cố đạo
- Cha mẹ mày tên gì?
- A ha!... A ha!...
Ðến một đêm tối lũ lính dồn tôi lên một chiếc xe bọc kín mang tới một cánh đồng cùng mấy đứa nữa. Chúng bắt đào hố. Tôi biết là sắp được tự chôn mình. Tôi nghe tiếng lên đạn lách cách, xong chúng bắt quay mặt vào hố. Tôi nhớ đến câu hỏi, và tự nhắc.
- Cha mẹ mày tên gì?
Tuổi nước độc [2]
...Tôi vừa lên thang gác vừa nghe, tôi lười biếng để nguyên cả quần áo nằm lên giường, đầu óc nóng bừng bừng như phát sốt, hơi thở ngột ngạt. Bóng tối bao phủ chung quanh. Tôi tưởng nếu tôi nằm im một hai phút là lịm chết đi không thể cựa quậy được. Tiếng những người đến trả tiền góp hàng ngày đang eo sèo nói ở dưới nhà cùng với tiếng ồm ồm của ông tôi cằn nhằn chửi bới như một mụ đàn bà. Những đứa em con ông chú tôi - đang đánh nhau, cãi nhau ồn ào ở dưới phiá sân. Ðứa nhỏ lại đang khóc và tiếng thím tôi dỗ dành. Nó bị sưng phổi từ hai tháng nay. Tôi đã gửi cho chú tôi hai cái điện tín xuống Cảng vẫn không có hồi âm. Tôi cầm cái chổi phất trần đi nhẹ chân xuống sân quất cho năm đứa nhỏ mỗi đứa ba cái vào mông quắn đít ngồi run rẩy ngậm câm nhìn tôi. Cứ trông thấy mặt, nghe thấy tiếng là tôi lại muốn cầm lấy một thanh củi, một cái gậy to hay nhỏ bất kể cái gì nện cho chúng đến tê cả tay. Sau đó tôi lại thương hại chúng. Tôi bực bội đi vào nhà, ông tôi vẫn ngồi vuốt những tờ giấy bạc bỏ vào chiếc hộp bích-quy:
- Con mẹ Nhiêu Hai còn thiếu hai ngày. Mụ Khán một ngày. Cái Thêm thấy trốn mặt... tiền lãi nhẹ là vậy, nó thấy mình nhân đức nên chỉ định quỵt, thật đồ bất nhân...
Thấy tôi vào ông tôi ngừng một chút rồi nói tiếp.
- Mày đi đâu mấy ngày? Ði thì thôi, về đến nhà là gây đủ chuyện - thế nghĩa là làm sao?
- Ðánh cho chúng nó chết bớt đi, hoặc khóc cho vui nhà, át bớt những câu chửi bới sẽ nhập tâm chúng nó, sợ mai sau chúng lại bắt chước. Thật không thể chịu được nữa...
- Lại giở cái giọng thằng bố mày ra.
- Tôi biết lắm. Bố tôi còn không chịu được nữa là tôi, bởi nó bẩn quá nên bố tôi cũng bỏ đi cho khuất mắt rồi.
- Sao mày không đi? Bẩn! Bẩn thì mày cũng đút vào miệng ấy chứ gì. Tao ăn một mình à. Ðồ bất nhân. Tao chỉ muốn vật chết hết...
- A ha... ! A ha... !
Tôi đứng dang chân ở cầu thang mà cười lớn.
- Hình như xưa kia ông đã vật người ta chết, bố tôi trông thấy mới phát điên đấy thôi...
- Mày câm mồm đi.
Tôi mặc ông tôi cáu giận mà đi sang phía buồng. Thím tôi đang bế đứa em tôi lật áo đứa nhỏ để tay vào ngực, nó thở mệt nhọc, làn da mỏng bó sát lấy thân gầy khô của nó. Tôi nhìn thấy xương sườn nhỏ cong. Tôi hỏi thím tôi:
- Em thế nào?
- Vẫn thế.
- Có lẽ mai được tin của chú.
Tôi đau đớn vứt bỏ cái chổi lông gà ở tay rồi chạy lên gác vùi đầu vào giữa đống chăn màn bừa bộn. Tôi vào một giấc ngủ chập chờn. Khi đứa ở gọi xuống ăn cơm, tôi khô cổ không thể trả lời được ngay, mãi mới nói được cho nó biết là tôi không ăn. Tôi nhờ nó bật giúp chiếc đèn ở bàn, rồi nó đi xuống phiá thang. Tôi tự thấy tôi vô lý - tự giam mình vào một nơi mình chán, mình phát mửa lên. Nhưng chính sống ở căn nhà này tôi mới hiểu vì sao bố tôi đã phát điên. Với một người đàn ông bo bõm, keo kiệt, thủ đoạn, tàn nhẫn làm nghề cho vay lãi, cầm cố, làm cái họ với những người nghèo ở ngõ Gậm-cầu và chợ Bắc-qua. Công việc duy nhất của ông tôi từ nhiều năm nay chỉ là chửi bới, buổi chiều ngồi vuốt những tờ giấy bạc. Về bà tôi thì không ai nói gì cho tôi nghe. Chú tôi chán cảnh này nên dù muốn ở nhà cũng bỏ xuống tàu làm cho một hãng buôn người Pháp ở Cảng.
Bố tôi điên rồi đi biệt tích. Chỉ nghe nói lại rằng hồi ấy ông tôi đã hãm hiếp một đứa ở - nó đòi đi báo cảnh sát nên ông tôi thắt cổ cho chết. Bố tôi bỏ nhà đi. Ít lâu sau trở về có bế theo một đứa nhỏ bồng đưa cho ông tôi mà bảo:
- Cháu ông đấy, ông nuôi giúp tôi.
- Mày cưới vợ nữa bao giờ? Tao nuôi thằng Ngạc chưa đủ sao?
- Nhưng tôi hiếp cho người ta đẻ ra thì ông phải nuôi: nó là cháu ông.
- Vứt nó ra ngoài đường kia. Tao không biết. Tao không biết.
- Ông có biết là ông đã hiếp con ở không?
- Ðồ con trời đánh.
- Và ông đã thắt cổ nó thế nào cho chết ông có nhớ không? Ðể tôi nhắc lại cho ông nghe. A ha! nhiều công việc quá khiến ông quên cả những chuyện mà con ông nó nhớ. Ông buộc một đầu dây vào cột, rồi ông thắt một vòng vào cái cổ nhỏ và trắng ngần. Cái đứa con gái ấy đi ở chỉ tại có chút nhan sắc mà bị cha mẹ ép cho một lão già vì nợ nần. Thế mà ông lại cuộn nó vào cái thắt lưng rồi ông dang chân cầm một đầu mà kéo - kéo cho nó dãy dụa - rồi lưỡi nó lè ra, bọt mép nó sùi ra và cái thân ông ôm ấp ấy rũ ra - mềm ra như bún. Rồi ông để thế treo lên xà buồng tri hô lên: con ở nó tự tử... Chả ai tố cáo, ông lo lót với tụi lính. Cái xác thì không thể cất được tiếng nói. Mà có oan hồn thì tiếng nghẹn ngào uất ức cũng chả thể cất được từ địa ngục mà lên. Nhưng tôi biết. Tôi có thể làm chứng cho người ta bỏ tù ông ngay đó. Ông nuôi thêm một đứa nhỏ mà chuộc tội. Nó không có giấy tờ gì đâu, ông có thể nhận luôn nó là con cũng được.
Thế rồi ông tôi im, mướn người nuôi đứa nhỏ. Năm sau bố tôi lại bế về đặt ở giường một đứa bé nữa. Bố tôi cầm một con dao ở tay và bảo ông tôi:
- Ông nuôi thêm cho tôi một đứa nữa.
Ông tôi nhìn đứa bé, nhìn mắt bố tôi đỏ ngàu và con dao cầm chắc ở tay không nói gì. Hôm sau bố tôi về đập phá đồ đạc, cầm lấy vai tôi nhìn vào mặt rồi cười phá lên. Từ đó không có tin gì nữa. Tôi chỉ được kể như thế. Hai đứa nhỏ về sau lớn lên ông tôi mang gửi vào một trại hướng nghiệp, nó rủ nhau về nhà, ông tôi lại gửi vào một tu viện ở Thái-hà- ấp. Một đứa tên Hùng ngổ ngáo, nhiều lời. Còn đứa kia tên Thân mặt lúc nào cũng như uất ức chuyện gì.
Tôi vốn thù thằng Hùng - vì theo tôi thì chính mẹ nó đã định giết tôi. Tôi ngồi dậy khỏi giường, những câu chuyện cũ trở về như những tấn bi kịch tiếp nối. Tiếng dọn bát đĩa ở dưới nhà báo bữa cơm xong. Ông tôi đang gọi thằng Tùng, đứa con thứ ba của chú tôi lên giường giận lưng cho ông tôi ngủ. Chỉ nằm im đấy một lát tôi sẽ thấy tiếng ông tôi ngáp.
- Tại sao?
Ðã nhiều lần trở về đây và tự hỏi điều ấy, tôi tìm mãi không ra lý do tại sao tôi sống mãi ở một gian nhà như thế này. Tôi ở đây nhưng giấu không cho bạn bè, người yêu biết. Tôi nghĩ: Nếu trông thấy cảnh này mọi người sẽ khinh tôi. Nghĩ mãi thì tôi chỉ cho là: điều duy nhất khiến tôi ở đây là những điều thuộc về mẹ tôi - người chết từ năm tôi hai tuổi. Những kỷ niệm ấy hồi bố tôi chưa điên kể lại cho thím tôi nghe.
Mẹ tôi đã chết ngày bố tôi còn ở nhà, mỗi lần giỗ, bố tôi lại khóc, mẹ tôi là người tôi kính trọng, yêu mến duy nhất khiến tôi ở lại căn nhà này và không muốn tôi rời đi.
Tôi thương bố tôi - nhưng tôi oán ông đã không lo cho tương lai tôi. Vứt tôi ra giữa những sinh hoạt tưởng có thể làm bẩn cả con người. Tôi ghét và muốn cho ông tôi chết đi - dù ông đã nuôi cho tôi ăn học. Từ ngày hiểu biết tôi không ăn nói ngọt ngào nữa. Tôi xưng tôi với ông nội như một thằng du đãng, vô giáo dục, không chút ngượng miệng. Tôi oán có lẽ tại đời sống ông tôi bẩn thỉu đã làm tôi hỏng người và lớn lên thiếu tất cả tình thương, lòng âu yếm vuốt ve tuổi trẻ, đời sống ấy làm cho tôi nhiều lần đau đớn và nhớ về mẹ tôi như một bà tiên sống thoát hẳn ra ngoài những điều bẩn thỉu, nhơ nhớp tôi thường gặp hàng ngày. Thím tôi vụng về nuôi đàn em nhỏ. Chú tôi là một người khí khái, hiểu biết. Chú là người cứu tôi khỏi bị mẹ thằng Hùng giết chết. Nếu tôi chết thì thằng Hùng sẽ được hưởng gia tài này. Nó có khai sinh là con bố tôi, lần tôi bị hãm hại xẩy ra vào một buổi chiều khi đi học về đến đầu ngõ, tôi bị một người đàn bà đứng tuổi cầm một cái chậu sành đập vào mặt. Tôi ngất đi, chỉ kêu được vài tiếng. May chú tôi gặp túm được người đàn bà mang ra cảnh sát, nó khai là vợ hai bố tôi. Tôi bị một vết sẹo dài nơi má - dấu vết làm tôi thù thằng Hùng. Mẹ hắn bị tù, sau được phóng thích và lấy một người đâu trên mạn ngược.
Tôi chưa bao giờ nghĩ về cái gia tài của ông tôi - mồ hôi nước mắt của những người nghèo khổ, bán buôn gom góp lại, cũng như khó mà tôi quên được tiếng chửi bới của ông tôi mỗi buổi chiều.
Tôi ngồi vào bàn xếp lại sách vở cho ngay ngắn. Lá thư của Hiền làm tôi nhớ về nàng cùng một lúc nghĩ Thịnh còn sống.
Tiếng còi xe lửa thét ngoài đầu cầu tiến vào thành phố. Chuyến tàu buổi chiều về chậm như thế này chắc lại gặp mìn hay những quãng đường sắt bị bóc; chuyến tàu dài nối nhiều toa kín và phía sau là quân đội chạy mau lên cầu. Khói đen hôi theo gió toả vào cửa sổ làm tôi muốn ho. Bóng người lính gác trên cầu vẫn đi đi lại lại. Ðã lâu lắm tôi không còn được nghe tiếng kèn trầm và buồn. Những toa tầu màu xám và vẻ chiến tranh của nó càng làm tối cho sinh hoạt này. Ðêm đêm vẫn có lần đèn thành phố cùng tắt một lúc với tiếng nổ vang dội, hay tiếng súng ám sát đủ cho một người nghe thấy. Những lần ấy dưới chân cầu xe lửa lại dầm dập tiếng giày đinh chạy, cùng cả đêm tiếng xe thiết giáp nghiến trên mặt đường nhựa. Những khối sắt kín bưng ngó mũi súng vào các đống gạch vụn, những căn nhà đổ đầy bóng tối. Hà-nội, những cơn hốt hoảng trong những đêm tối khiến tôi càng cảm thấy sự bất trắc của đời sống, sự có mặt của từng người. Mỗi ngày chiến sự một ác liệt thêm.
Chính giữa lúc đó chúng tôi lớn lên với cuộc sống, với yêu đương, đam mê và những lo nghĩ về tương lai, về quá khứ.
Tôi vẫn lừa dối khi ai hỏi tôi về quê quán, gia đình, họ hàng... Tôi bảo là gia đình tôi đã bị chết hết vì súng đạn và quê hương tôi thì chiến tranh vây phủ ở mãi tận Thạch-thất, Sơn-tây, ba bốn năm nay tôi không về đến. Tôi tự nhận là một thứ nạn nhân của chiến tranh. Nhưng sự thực tôi là người đứng ngắm chiến tranh, đam mê lý thuyết cùng nhiều tư tưởng sáo trộn trong thời kỳ chiến tranh. Phải chăng chiến tranh như một cuộc phiêu du khi người ta quá an nhàn.
Trong cuộc, ở giữa hai khối tranh dành tôi muốn là người tham gia vào cuộc, có lý do đánh đuổi một thứ quân xâm lăng. Ðồng thời tôi chán ghét tụi ở thành thị làm giàu trên xương máu đồng loại.
Tôi muốn là một tuổi trẻ phiêu lưu trên đường tìm kiếm những cảm giác. Tôi lên giường tắt đèn đi ngủ còn nghe thấy tiếng ru của thím tôi và những tiếng kẻng cầm canh ở trạm gác ngoài đầu cầu. [...]
Buồn vàng [3]
Tôi chạy xa để thoát khỏi vùng tiếng động, nhưng dư âm vẫn như còn đuổi theo quấn quít. Tôi bỏ hai tay lên ôm lấy đầu, bịt hai lỗ tai và nhắm mắt lại. Cả một khối đen như trùm lấy và ôm khít, thân thể tôi co rúm và bủn rủn, tôi níu tay ôm lấy cái bóng đen đứùng cao trước mặt để đứng lại. Âm thanh kim khí, man rợ... rồi dần dần loãng và nhẹ nhàng. Một người ở thế giới nào đó tiến lên. Sân khấu là một tấm màn màu nâu, người chắp tay trước ngực, có bánh xe (có phải là một bánh xe không ?) quay đều đều bởi một sức mạnh lạ mặt đứng khuất. Tiếng nói cất lên – ‘‘Vậy chứ ở đó như thế chăng?’’ – ‘‘Không phải như thế’’– ‘‘Người bảo sao?’’ – ‘‘Tôi cũng từ bỏ nó’’– ‘‘Có lẽ rồi không muốn, vậy người định tới đâu?’’ – ‘‘Hư vô’’– ‘‘Tôi đã nghe ở đâu đó, có nơi nào khác thế này chăng?’’ – ‘‘Có, để nói cho nghe’’– ‘‘Tôi muốn biết nơi nào người ta sống lâu nhất, dù sao thì cũng phải sống lâu, nhưng được chết êm ả’’. ‘‘Ðúng như thế đó, có kẻ đã dạy thế. Con người ở mấy nơi, có một nơi mặt đất hình vuông, không hiểu con mắt nào nhìn thấy vuông, mặt người ở cũng mang hình đó. Xin đừng cười và hỏi lại, vì tôi chỉ kể. Nơi này người ta sống dài một ngàn năm, mười thế kỷ của đời anh. Người ta sống không có một quy luật nào. Không có ai nhận mình tìm ra một thứ chỉ đạo cho đời sống, chẳng nghĩ, chẳng tin, câm điếc như loài thảo mộc. Cho nên chẳng một ý kiến, một lý thuyết nào có thể đến đó. Vùng bao la mang một phòng tuyến mong manh nhưng vững chắc là sự thản nhiên. Không phải trải qua sự khổ. Không có tiếng nói chỉ sự khổ. Còn chúng ta có bao nhiêu ngôn ngữ để chỉ: khổ sỡ, tật nguyền, ốm đau, giết tróc, tù đày... thôi tôi chẳng phải nhắc vì nếu tôi chỉ ngừng lại, và anh bắt đầu thế cũng chưa biết đến bao giờ anh mới nói hết... có khi đến chết cũng chưa biết nữa. Tôi kể tiếp: ở đó con người không biết khổ, không ý niệm được nó nữa. Chúng ta phải làm lụng, có phải chúng ta là loài vật duy nhất phải làm việc để kiếm ăn không? Chúng ta mệt nhọc thể xác và tâm trí – kiếm ăn uống, xây nhà cửa, chăm sóc con cái, làm ruộng, buôn bán. Nhưng ở nơi, ở thế giới tôi nói thì tuyệt nhiên không. Cây là nhà cửa. Khi đói họ tìm đến gốc cây, ở dưới gốc có sẵn một cái vạc lớn, trong óc muốn ăn thức gì tuỳ ý, chỉ việc đưa tay hái một quả bỏ vào vạc, ánh sáng mặt trời chiếu xuống đó nấu chín món ăn. Mỗi khi tắm vứt bỏ quần áo lên cây, tắm xong lấy một quả bổ làm hai lấy ra quần áo mới mà mặc. Khi đại tiện đất nứt thành hố, đi xong ập lại, ở đó mấy bông sen mọc lên toả hương thơm ngát. Từ cái lược, đôi hài, chiếc mũ, nhất nhất cái gì người ta gọi đến, cần đến, cây đều sinh ra. Khi một đôi trai gái bằng lòng nhau, mang nhau đến một gốc cây, bóng cây rũ xuống che khuất để biến thành một lâu đài, đôi uyên ương chung sống với nhau ở trong đó, chỉ trải qua bảy ngày thì sinh con. Nhưng cha mẹ không phải nuôi, chỉ việc mang đứa nhỏ để ở một ngã ba đường, người qua lại cho nó mút ngón tay, ở đầu ngón tay mỗi người đều tiết ra một chất nước ngọt đủ nuôi sống đứa bé lớn lên. Chỉ bảy ngày sau đứa bé như người thường; con trai đi với con trai, con gái đi với con gái, chẵng lấy vợ lấy chồng hay có gia đình chi cả. Người ta sống như một loài cây cỏ, cứ đến độ có hoa thì nhị đực tìm nhị cái mà ra kết quả. Sống cho đến hết một ngàn năm những vui, buồn, sầu, khổ, tật bệnh, giận ghét không biết đến. Khi nhắm mắt lại thì có loài chim đen, cánh lớn đến cắp xác tha đi – Câu chuyện là như thế’’.
Tôi nhìn trong bóng tối, một bánh xe quay tròn bên tiếng nói phát ra, tôi nhủ thầm: ‘‘Ở đó có bánh xe như thế kia quay không?’’ Tôi ôm chắc lấy bóng đen cao cất tiếng: ‘‘Không, không khi nào tôi tới đó, hay muốn cho nơi này như thế! Họ không là người. Họ khác hẳn tôi. Tôi là người. Tôi từ giã, từ giã...’’ Bóng tối như xiết chặt tôi mãi vào một vật cứng đứùng cao lắm. Tôi đưa tay sờ soạn một lần cứng mấp mô, như một lần da sần sùi không hơi nóng, không thoi thóp thở, một thứ gì sượng sần, nhớp nháp, tim tôi đập mạnh, mồ hôi đổ nóng, má tôi chạm vào một lần đất sỏi khô. Một điệu kèn ré lên buốt nhức khoảng không quay cuồng nhồi vào trí não một hơi rượu mạnh cay sé môi, lưỡi và cuống họng. Người nhạc sĩ bước ra khỏi vùng bóng tối. Hắn đã bị bỏ rơi từ bao nhiêu thế hệ. Số kiếp họ là một cái gì – có phải nó mang chứng tích một sự thực hiển hiện nơi màu da đen bóng kia không. Màu da đen nổi bật hẳn trước tấm màn đỏ. Ðiệu kèn ré lên với một nhịp điệu man rợ như ngọn lửa bốc cháy say đắm của vùng nhiệt đới. Cây cỏ hoa lá cũng cháy nơi họ sinh ra. Sự cuồng nhiệt dục tình đã thổi vào mạch máu, hiện ra đời sống mà dồn ép họ vào một bóng tối sâu thẳm từ bao nhiêu lâu nay, đến bây giờ mới đứng ra cất tiếng nói từ trong đáy lòng: «... Cớ sao tôi đen và tôi sầu đến thế»... Chẳng có gì? Làm sao để tôi nói với anh khi trên môi anh cái ống đồng phụ họa cất lên kia? Người nhạc sĩ uốn cong thân hình, oằn oại như một con trăn ngũ sắc vừa nuốt vào bụng một loài vật đang vặn mình tiêu hoá. Hắn cúi gập, vươn cao và những âm thanh oằn oại, tức tưởi, nghẹn ngào, uất ức, đắng và buốt trườn lên. Mắt hắn nhắm nghiền, má phồng, mồ hôi vã ra đầm đìa... Tiếng trống vang theo một không khí bập bùng bao la quỷ quái... Aùnh đèn chớp động vẫn vằn vèo xanh đỏ, tím, đen, vàng chập chờn mê loạn, thế giới của hắn bắt đầu đảo điên. Cái khoảng bóng tối xung quanh loãng ra màu đỏ. Rồi những loài vật dưới đó cử động dần dần. Như những ma chơi, hình nộm dưới tay bùa phép của một gã phù thủy vô hình điều khiển. Những cánh tay vươn cao cuồng loạn, chập trùng và tiếng hét, tiếng la tạo thành một khúc thánh ca. Ðám người mỗi lúc một đông, chuyển động mỗi lúc một nhanh. Tôi bắt đầu nhìn ra những thân thể: một chòm tóc quăn, chiếc cổ nhỏ, những thân người nhỏ như que sậy, tay khô như những giây kẽm buộc vào những chiếc que như sợi tóc. Mắt trắng giã, răng nhe ra một vành môi và lưỡi đỏ lòm như những ngọn lửa bắt đầu bốc cháy. Tiếng kèn trên môi người nhạc sĩ vẫn ré lên xé từng chút tế bào của cơ thể. Và một thế giới chìm xuống dưới chân. Cái thân thể trong tay tôi đen thêm. Ðôi mắt trắng dã đã mở ra một vùng biển cát bỏng cháy, có những đàn sư tử vờn nhau. Mái tóc dài cứng gió đập như quất vào mặt những ngọn roi da điếng buốt. Tôi úp mặt vào làn môi dầy sần sùi nóng ran. Tôi giữ chắc. Tôi khẽ nói: ‘‘Buông anh ra, để anh nhìn rõ em?’’–‘‘Chúng ta bắt đầu điệu múa chứ?’’–‘‘Không phải như thế. Em?’’ –‘‘Bài ca còn dài, điệu kèn chưa hết, bây giờ là của em, của chúng em.’’ –‘‘Làm sao em dám chắc?’’–‘‘Ðể em mô tả nơi chúng ta đến cho anh nghe, xứ sở quê hương của em...’’–‘‘Không có gì cả ư?’’–‘‘Im để em nói: em đã tủi hổ uất ức từ bao lâu, tại sao anh không thèm biết đến em, không ôm và hôn em? Em phải chiếm anh, chiếm thế giới anh. Anh không thể chạy trốn được. Người ta không thể ngoảnh mặt mãi được với sự thật súc vật nơi con người. Ðừng che đậy gì, y phục, nhà cửa, lề luật, tự những sự thật xé nó trần truồng, trơ trụi, phung phá. Trả nó lại sự đó. Ôm lấy em, ôm chắc lấy em. Lửa đã bốc lên từ bao giờ bây giờ mới chiếu sáng cho anh nhìn em, em đen và em sầu’’.
Tôi soa tay lên làn da sần sùi, khô cứng, bóng tối vây phủ. Tiếng kèn vẫn soáy buốt. Người nhạc sĩ vẫn oằn người gân cổ thổi âm thanh vào thế giới vây quanh rung chuyển cùng điệu trống bập bùng cuồng loạn. ‘‘Có riêng em ở đây thôi, em có bao nhiêu’’– ‘‘Ở cùng khắp, anh hãy lắng nghe ở cùng khắp, tất cả. Anh lặng im em hát cho anh nghe...’’ Tôi nhắm mắt và giữ chặt bóng tối. Người nhạc sĩ ôm chiếc kèn lùi vào, bỏ lại khoảng trống trần trụi. ‘‘Em, em đâu?’’ Tiếng gọi mất đi một khoảng im lặng.
Âm thanh vọng động trườn từng đợt như một viên sỏi ném xuống mặt nước yên tĩnh bắt đầu loãng xạ những đợt sóng trùng điệp – Tôi đã bỏ nó. Sự khiếp sợ quay lộn, vật thân thể. Chân tay tôi như một thứ gì thừa thãi, vô ích trở thành vô tri. Tôi níu giữ sự sáng suốt của đầu óc. Tôi nhắm mắt thu sức giữ lại khoảng tối, chút gì đó còn cứng chưa lay động ở trong vòng tay mà mặt tôi úp lên phà hơi thở nóng bỏng đứt đoạn. Tôi cố sức nghĩ xem tôi đang đứng ở chỗ nào. Nhất định không phải là nơi mang danh hư vô mà có kẻ đã hét vào tai. Nó cũng không hẳn là những sinh vật lúc nhúc chen lấn giữa cái thế giới mà người nhạc sĩ đen vừa thổi âm thanh tới – ‘‘Người đang đến với ta đây. Có một phần của hắn đấy’’– Tôi muốn cất tiếng hỏi – ‘‘Người ở đâu đến? Ðây là đâu? Sao có tiếng nói?’’. Cổ tôi khô cứng rồi mềm nhũn ra không tạo nổi âm thanh. Tôi muốn mở mắt, nhưng một cái gì nặng nề chét lấy hai chút đen cần dò hỏi tìm kiếm. Tôi muốn cử động nhưng chừng như gân cốt đã bị cắt đứt, tôi cử động ở sự vướng víu của quần áo nhớp nháp bắt đầu tê lạnh ướt át. Hình như một chiếc búa đập vào óc tôi, và một mũi kim nhọn khẽ ấn vào tim tê buốt. Những đợt sóng bắt đầu vỗ về, mang một cảm giác mơ hồ bao la, của một vùng nước ngủ phẳng phiu bình lặng đến ghê khiếp, hoang sơ cùng độ – ‘‘Chúng ta ở nơi siêu thoát này’’– ‘‘Nhưng thân thể tôi đây?’’ – ‘‘Tôi mang cái đó lên sự siêu thoát, hãy nhìn xem tôi đây’’. Trong một vùng ánh sáng sữa loãng, một bóng trắng tiến lên, âm điệu du dương, dìu dặt, bay bổng uốn theo một hình bóng dườn dưỡn, rồi một tràng cười xé tan, một đứa con gái, nhe đôi hàm răng soã tóc đen quay cuồng tạo nên một trận bão cát đau nhức. Nó quay cuồng ở một khoảng trống, tiếng đập đá, vỗ tay, cười cợt lạnh điếng như những thoi sắt chạm vào nhau, một đống thủy tinh cử động cọ sát. Nhưng cái gì cho hắn điên cuồng lên thế? Nó ở một cõi tuyệt đối nào? Aâm thanh ánh sáng, mờ đi dần dần. Một thân thể vô hình ôm chặt lấy tôi – ‘‘Em là nỗi cô đơn này, lặng thinh đi cho chốn hoang đường chi phối thể xác, ôm lấy em. Hôn lên môi mày. Một cõi nào mang nỗi say đắm của anh và em lên đó. Chúng ta thụ hưởng một mũi thuốc ma túy và thân thể. Ðể không còn bị chi phối, thay đổi sự thực này. Chúng ta từ chối tất cả. Nó là cõi không trắng ngần trong suốt của sự thèm khát, tìm kiếm thoả mãn cổ sơ. Này anh, loài ác điểu có tám chân ăn cơm với cát, loài bò sát có hai tay ôm nhảy luân vũ, cây cổ thụ mang những sợi tóc kim tuyến, đôi mắt của mỗi cánh lá mang tia nhìn chinh phục đến loài quạ khoang. Chúng ta mất chân tay, mọc đôi cánh, đầu thêm sừng, miệng thêm vòi. Và anh đang nghe em nói bằng hai con mắt. Thế giới tạo thành trên những sợi chỉ bạch kim. Và mỗi kẻ sống ở toà lâu đài cô đơn của mình. Thế giới cô độc ấy tạo nên một xã hội riêng. Xã hội của em là những người mù mang đôi mắt màu đỏ. Có chân màu tím đôi cánh loài ác điểu hôi hám ăn thịt lẫn nhau bằng đôi mõ của loài rắn có lưỡi dài sẻ đôi phun nọc độc. Người ta nói bằng ngôn ngữ loài cá thờn bơn. Thế giới và xã hội của người khai thiên lập địa mới mở cửa, chẳng lương tri, thiện ác, tốt xấu. Em mang anh đến ‘‘Nhưng cái gì làm thành xã hội đó?’’–‘‘Cái chủ lực thế giới vô thức cô đơn’’–‘‘Cái gì làm cái vô thức cô đớn?’’–‘‘Thôi đừng hỏi, cái gì cho anh có chân và tay?’’–‘‘Ðúng đó, anh không trả lời được, anh công nhận sự thực ngừng lại ở cái hạn hẹp này, không mang lên hay xuống. Cái gì đứng sau ở thực tại mang bộ mặt xa lạ, cậm điếc chỉ là mối lo âu định liệu và cho cái gì anh đang có đây là thực, cái thực định bằng cái hư không’’– ‘‘Em là cái dồn ép tình dục, đau đớn, khổ ải, em sầu và em trắng.’’
Tôi tỉnh dậy ở dưới một thân cây cổ thụ, bóng tối loãng ra. Tôi đứng nơi một vũng nắng chói, mặt trời bắt đầu thiêu đốt trên da thịt. Thân cây cao trụi lá, những cành khô vươn cao nỗi cô đơn chót vót đầy ải, lần vỏ sần sùi khô cứng. Người ta đã giữ chúng tôi ở lại đây. Chúng tôi giống nhau bên những sinh vật khác nhau. Một đàn kiến lửa bu trên tay tôi đốt đau ngừa lay động cảm giác, có tiếng chim kêu trên cao. Trận mưa đổ xuống. Trên mặt tôi nhớp nháp chừng như loài nhện nào đã giăng tơ. Tôi đứng nơi xứ sở này, mảnh đất thân thuộc, đồng loại gần gũi. Tiếng hát cất lên.
Sự tình cờ nào mang chúng ta đến đây chung đụng với nhau. Người ta mang đến những gì bỏ lại: tù đầy, hiếp tróc, đày ải, nô lệ... Chúng tôi tự do với nhau trong mỗi tâm hồn không cùm xích, bắt bớ, giết hại. Chúng tôi công nhận kẻ đứng bên. Tôi cúi nhìn bàn tay sưng vù nhức nhối. Chút thể xác này và nỗi thèm muốn trong lòng. Trong tôi một thế giới. Nhưng ở giữa thiên nhiên này, có người đến đày tôi công nhận một sự hiện diện cần thiết. Mọi người có mặt đông đảo. Những sự thực đời sống ngự trị đây. Kẻ tù đày người uất ức, người hân hoan. Niềm vui đứa trẻ nhỏ, điệu ru trên môi người mẹ, người chị... Tôi trấn tỉnh để nhìn ra nơi tôi đang đứng, đang thở, đang nghĩ. Aùnh nắng bốc cháy, rồi cơn mưa ập xuống một bầu không khí ngột ngạt, tức thở, oi bức. Khí hậu nhiệt đới soi vào thân thể nỗi hèn mọn con người. Chúng tôi nhận sự hèn mọn đó. Tôi đứng vững, đưa tay vuốt mặt và cất tiếng nói:
- Có phải tôi đang đứng ở đây không?
- Phải rồi.
- Có phải tôi ở trong đám đông này không?
- Còn gì nữa, anh ở trong đám chúng tôi.
Tôi cố sức đẩy lùi thân cây, đứng ở một khoảng trống vươn vai, đưa tay níu lấy mọi người ‘‘Dù em đen và em sầu, dù em trắng và em sầu. Ðó là em. Còn anh, anh sầu và anh vàng. Cái chung của chúng ta là sầu. Nhưng cái sắc vàng này là của anh. Anh vàng và anh buồn em ơi’’.
DƯƠNG NGHIỄM MẬU
[1] Cũng đành trích trong tập truyện cùng tên, Tạp Chí Văn Nghệ xuất bản, Sàigòn 1963
[2] Trích chương 2 của tiểu thuyết Tuổi nước độc, Nxb Văn, Sàigòn 1966
[3] Buồn vàng được Dương Nghiểm Mậu viết năm 1959, trích trong tập Kinh Cầu Nguyện, Nxb Văn Xã, Sàigòn 1967
3/7/07
Muốn phê phán Marx thì phải đọc Marx -Đoàn Tiểu Long
Đoàn Tiểu Long
Muốn phê phán Marx thì phải đọc Marx
Trong một bài viết mới đây, tác giả Phong Uyên có đề xuất bỏ môn chính trị Mác-Lê ra khỏi chương trình bắt buộc ở các trường đại học Việt Nam, thay vào đó tạo lập một phân khoa chính trị theo đúng nghĩa của nó, dành cho sinh viên muốn chuyên về ngành này. Đề xuất đó rất đáng được chia sẻ, không phải vì học thuyết Mác-Lê là món vô bổ, chán ngắt, thầy không muốn dạy trò không muốn học. Cái chính là việc dạy tràn lan chủ nghĩa Marx đòi hỏi phải sơ lược hoá, dẫn đến tầm thường hoá, tư tưởng của Marx, và đó là cách tốt nhất để phản Marx một cách đại trà, đúng như viện sĩ D. Rosenberg (Liên Xô) đã cảnh báo từ đầu những năm 30 thế kỷ trước.
Do hiểu biết quá sơ sài nên nhiều người tưởng rằng “té ra học thuyết Marx cũng chỉ có thế, chẳng ghê gớm gì lắm”, và trong họ bỗng nảy ra cái ảo tưởng rằng có thể phê phán, thậm chí lật đổ toàn bộ hệ thống tư tưởng của Marx một cách dễ ợt! Cứ nhớ lại phong trào “nhà nhà phê Marx, người người phê Marx” hồi trước Đại hội Đảng X mà xem!
Trên talawas cũng có một số vị tham gia phê Marx, như Trần Thiên Ý với bài “Nhân đọc Báo cáo chính trị của Đảng, nói đôi điều cùng Đông La”, và mới nhất là Hà Sĩ Phu với “Tư tưởng và dân trí là nền móng xã hội”. Điểm chung là hai vị này đều hiểu rất sai lạc về học thuyết Marx, kể cả những điều sơ đẳng nhất, nhưng lại muốn lật đổ Marx. Ta hãy thử điểm qua một vài ý.
1. Trong bài nói trên, Trần Thiên Ý phê phán quan điểm duy vật lịch sử của Marx, trong khi không hề hiểu cụm từ đó có nghĩa gì, hay nói đúng hơn, hiểu sai hoàn toàn.
Trần Thiên Ý viết: “Platon, triết gia và nhà tư tưởng nổi tiếng thời cổ Hy Lạp, cho rằng quá trình phát triển xã hội loài người là một quá trình lịch sử được quyết định bởi những yếu tố nằm ngoài ý muốn, ngoài ảnh hưởng của con người mà ông gọi là quy luật của Chúa. Nghiên cứu sự phát triển xã hội cũng có nghĩa là phát hiện cái quy luật lịch sử ấy, dự đoán tương lai đồng thời chỉ ra lực lượng nào sẽ lãnh đạo xã hội. Phương pháp nghiên cứu xã hội này gọi là phương pháp luận lịch sử. Hàng loạt nhà triết học, tư tưởng sau Platon đều tự đặt cho mình nhiệm vụ tiên đoán lịch sử. Trong số đó có Hegel và tiêu biểu là Karl Marx đã phát triển tư tưởng của Platon trở thành cái mà chúng ta đã được nghe nói đến rất nhiều: Chủ nghĩa duy vật lịch sử.”
Tiếp đó Trần Thiên Ý đập tan tành quan điểm duy vật lịch sử của Marx như sau:
Cái mà Marx coi là quy luật, thì thực ra không phải quy luật, vì chúng không mang các đặc tính của quy luật là: 1) lặp đi lặp lại không thay đổi trong thời gian vô định và không có khởi đầu, không có kết thúc; 2) không mang tính đúng hay sai, chỉ có thể tồn tại hay không tồn tại quy luật mà thôi và 3) không thể thay đổi quy luật. Quy luật nằm ngoài tầm kiểm soát của con người.
Trần Thiên Ý chỉ ra sai lầm cơ bản của Marx là “khi áp dụng tri thức trong khoa học tự nhiên vào nghiên cứu xã hội, Marx đã gán cho những quá trình xã hội có biểu hiện tuần hoàn trong khoảng thời gian giới hạn những đặc tính của quy luật tự nhiên với những tính chất không thay đổi trong thời gian vô hạn”.
Ta thấy gì từ lý lẽ trên đây của Trần Thiên Ý?
Thứ nhất, Trần Thiên Ý có cách định nghĩa “quy luật” khá lạ đời. Như thế, một trinh sát công an sẽ rất đau đầu khi được giao nhiệm vụ theo dõi “quy luật” đi lại của đối tượng, bởi quy luật này hoàn toàn do đối tượng quyết định, và thường là chỉ diễn ra trong một thời gian không đến nỗi vô tận! Học Trần Thiên Ý, đồng chí ấy sẽ nói: báo cáo, không phát hiện ra quy luật nào hết! Nhưng thôi, đó là chuyện nhỏ như con thỏ.
Thứ hai, và cái này mới quan trọng: những điều Trần Thiên Ý viết chẳng liên quan gì đến quan điểm duy vật lịch sử của Marx hết. Bởi những người có quan điểm duy tâm, phi lịch sử cũng hoàn toàn có thể nói rằng lịch sử phát triển theo các quy luật nào đó!
Người ta thường hay ghép quan điểm duy vật với quan điểm lịch sử thành duy vật lịch sử, trong khi lẽ ra nên tách bạch chúng. Duy vật là gì thì dường như ai cũng biết, đó là quan điểm tồn tại quyết định ý thức – Das Sein bestimmt das Bewusstsein -, rằng không phải ý chí của con người quy định, chi phối sự tồn tại của họ, mà trái lại, chính sự tồn tại mới quyết định, chi phối ý chí con người. Rằng có thể giải thích các quan niệm và tư tưởng của mỗi thời đại bằng những điều kiện sinh hoạt kinh tế của thời đại ấy, và bằng những quan hệ xã hội và chính trị bắt nguồn từ những điều kiện ấy... Đây là nói một cách ngắn gọn cho nhanh, chứ để trình bày hết cái nội dung của nó thì phải mất hàng trăm trang giấy. Quan điểm duy vật xuyên suốt các tác phẩm của Marx và Engels.
Còn thế nào là quan điểm lịch sử? Nó không hề có nghĩa là coi lịch sử phát triển theo những quy luật nhất định, thậm chí cũng không phải là nghiên cứu lịch sử (đúng ra là: các khoa học lịch sử, là cách Marx gọi các môn khoa học xã hội) dưới nhãn quan duy vật. Mà là: ở mỗi giai đoạn nhất định, trong những điều kiện nhất định, thì có những quy luật, phạm trù nhất định, tương ứng với giai đoạn đó. Nói cách khác, có những phạm trù, quy luật chỉ phát sinh, phát triển và tiêu vong ở một giai đoạn nhất định của lịch sử, trong những điều kiện nhất định, chứ không phải ở đâu cũng có, lúc nào cũng có. Ví dụ, “giá trị”, “tư bản”, “hàng hoá” là những phạm trù lịch sử, trong khi “lao động”, “sản xuất” là những phạm trù vĩnh viễn. Quy luật giá trị, giá trị thặng dư là những quy luật mang tính lịch sử… Về điểm đặc sắc này của Marx, giáo sư I. Kaufman đã viết, và được Marx dẫn lại trong lời bạt viết cho lần xuất bản thứ hai quyển 1 bộ Tư bản như sau:
“Người ta có thể nói rằng… những quy luật chung của đời sống kinh tế chỉ là một, dù chúng được áp dụng vào hiện tại hay quá khứ thì cũng thế. Đó chính là điều mà Marx phủ nhận. Theo Marx thì không có những quy luật trừu tượng như thế… mà trái lại, mỗi thời kỳ lịch sử đều có những quy luật riêng của nó… Một khi cuộc sống đã vượt qua một thời kỳ phát triển nhất định và bước sang giai đoạn khác thì nó cũng bắt đầu bị những quy luật khác chi phối… tương tự như những hiện tượng trong lĩnh vực sinh học… Các nhà kinh tế học cũ không hiểu được bản chất của các quy luật kinh tế khi họ so sánh chúng với các quy luật vật lý và hoá học… ” (Tư bản, quyển 1, tập 1, tr. 37, NXB Sự Thật, 1976).
Do có quan điểm lịch sử nên khi xem xét bất kỳ hiện tượng gì trước hết Marx đều tìm hiểu xem cái đó mang tính lịch sử hay vĩnh viễn, và nếu mang tính lịch sử thì đâu là những “tính quy định lịch sử” của nó, nghĩa là xét xem nó phát sinh, phát triển và tiêu vong trong những điều kiện nào. Chính những phạm trù, quy luật mang tính lịch sử quyết định tính đặc thù của mỗi giai đoạn lịch sử. Marx là chúa ghét những cái gì chung chung, trừu tượng, kiểu như nền sản xuất chung chung, sự bóc lột chung chung, sự công bằng chung chung… Marx không nghiên cứu sản xuất nói chung, mà là sản xuất tư bản chủ nghĩa. Marx cũng không phấn đấu đạt tới công bằng xã hội chung chung, mà đấu tranh cho một trật tự xã hội mới, trong đó sẽ có kiểu công bằng mới và đủ thứ khác nữa tương ứng với trật tự xã hội đó…
Nói thế thôi, chứ Marx hiểu rất rõ mối quan hệ giữa cái chung và cái đặc thù. Marx chỉ cằn nhằn khi thấy người ta chỉ thấy cái chung mà không thấy cái đặc thù, tưởng rằng cái gì cũng mang tính vĩnh viễn.
Trần Thiên Ý đã hiểu sai về quan điểm duy vật lịch sử của Marx, thì còn nói chi đến chuyện phê phán?
Ngay chúng ta đây, khi nói rằng tính cách của người Việt có nguồn gốc từ phương thức sản xuất, sinh hoạt tiểu nông, và hiện giờ khi nhận thấy những thay đổi trong đạo đức xã hội, cả tích cực lẫn tiêu cực, và cho rằng đó là hệ quả của quá trình chuyển nền kinh tế từ bao cấp sang thị trường, thì chúng ta đang áp dụng cái gì, nếu không phải là quan điểm duy vật lịch sử của Marx?
2. Về bộ Tư bản thì Trần Thiên Ý nghiêm khắc phê bình như sau: “Không như Marx tiên đoán, ngày nay giai cấp vô sản không những không bị bần cùng hoá mà còn trở thành có tài sản, được tham gia làm chủ tư liệu sản xuất thông qua việc làm chủ cổ phiếu. Giới chủ ngày nay không chỉ là chủ vốn mà còn là nhà sản xuất – kinh doanh, phải quan tâm đến việc tiêu thụ sản phẩm của mình, nghĩa là quan tâm đến người tiêu thụ. Người tiêu thụ ở đây lại chính là người lao động. Mối quan hệ sản xuất này rõ ràng khác xa với mối quan hệ mà Marx mô tả trong Tư bản luận.”
Chỉ với việc nắm giữ một chút cổ phiếu, trong khi vẫn tiếp tục làm thuê vì chẳng có gì để bán ngoài sức lao động của mình, mà đã tưởng trở thành nhà tư bản thì quả thật ngây thơ! Nhưng cái đó còn chưa buồn cười bằng khẳng định tiếp theo của Trần Thiên Ý, rằng giới chủ ngày nay không chỉ làm chủ vốn mà còn là nhà sản xuất kinh doanh, phải quan tâm đến người tiêu thụ…, là điều mà Marx không biết!
Xin hỏi khẽ để không ai nghe thấy, Trần Thiên Ý đã bao giờ đọc Tư bản chưa vậy?
Mặc dù Marx phân biệt rất rõ nhà tư bản sở hữu (sở hữu tư bản) với nhà tư bản chức năng (sử dụng tư bản, tức là điều hành kinh doanh), nhưng trong suốt hàng trăm trang đầu tiên của bộ Tư bản Marx luôn xem xét nhà tư bản với hai tư cách cùng một lúc: vừa là chủ sở hữu tư bản, vừa là người điều hành sản xuất. Marx phân tích tỷ mỷ cách nhà tư bản tổ chức sản xuất như thế nào, hiện thực hoá giá trị và giá trị thặng dư thông qua trao đổi ra sao... Chỉ đến khi nghiên cứu tư bản sinh lợi tức Marx mới tách riêng tư bản sở hữu ra khỏi tư bản chức năng.
Trần Thiên Ý cũng không ngờ rằng Marx đã viết: đối với nhà tư bản thì, ngoại trừ số người lao động mà hắn thuê mướn, quần chúng lao động là một quần chúng người tiêu dùng (Bản thảo 1857 – 1858). Không có tiêu dùng thì không thể phát triển sản xuất, vì thế nâng cao tiền lương thực tế của giai cấp lao động là điều kiện để tăng giá trị thặng dư tương đối. Chỉ khi đó sản xuất giá trị thặng dư tương đối mới không có giới hạn, và trở thành cơ sở phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa (Tư bản, quyển I).
Vậy mà Trần Thiên Ý bảo: Marx chẳng biết gì hết, cứ phải nhắc hoài!
3. Tiếp đó, Trần Thiên Ý phê phán quan niệm của Marx về nhà nước (nhà nước chỉ là công cụ đàn áp của giai cấp thống trị), và cho rằng sau khi Marx viết Tư bản một thời gian ngắn thì nhà nước đã thay đổi hoàn toàn theo hướng mà Marx không thể tiên đoán được, tức là: Nhà nước là một tổ chức của xã hội để đảm bảo các quyền cá nhân, phẩm giá con người. Luận điểm này na ná như luận điểm của Mai Thái Lĩnh trong “Huyền thoại về một nhà nước tự tiêu vong” – một âm mưu đánh đổ Marx khác.
Về sự phiến diện của quan điểm kiểu này, Trần Hải Hạc trong bài “Chủ nghĩa Marx, Đảng cộng sản Việt Nam và vấn đề bóc lột” đã phân tích:
“Trong Hệ tư tưởng Đức, Marx chỉ rõ: do mâu thuẫn giữa những lợi ích riêng và những lợi ích chung, nhà nước là một hình thái xã hội tách rời và độc lập với các lợi ích riêng, đứng ngoài và đứng trên xã hội dân sự tư sản; đồng thời, bởi vì đây là xã hội có phân hoá giai cấp, nên nhà nước hiện đại là hình thái qua đó giai cấp thống trị áp đặt lợi ích của nó như là lợi ích chung, cho nên lợi ích chung đó là hão huyền. Từ đó, một định nghĩa về nhà nước hiện đại nhất thiết phải nắm lấy cả nội dung lẫn hình thức của nó: về nội dung, đó là nhà nước mang tính giai cấp, nó là cái qua đó giai cấp tư sản xác lập ách thống trị và tiến hành quá trình bóc lột; về hình thức, nhà nước hiện đại là một hình thái độc lập và đứng trên các giai cấp, nó là nhà nước của công dân tự do và bình đẳng, một nhà nước đại biểu mang tính dân chủ. Sẽ không xác đáng khi định nghĩa phạm trù nhà nước trong chủ nghĩa tư bản như là quan hệ thống trị giai cấp chung chung, bởi đó là một nhà nước giai cấp có một hình thái đặc thù – hình thái nhà nước công dân, còn quan hệ thống trị giai cấp mang hình thái đặc thù – hình thái dân chủ. Chính cái hình thái dân chủ này đã che lấp quan hệ thống trị của giai cấp tư sản. Gán cho Marx một lý thuyết về nhà nước duy công cụ (nhà nước chỉ là công cụ của giai cấp thống trị) là một cách hiểu phiến diện, chỉ thấy nội dung giai cấp của nhà nước tư sản mà không kể đến hình thức biểu hiện dân chủ của nó”.
4. Lẽ ra đã không có bài viết này nếu không có sự xuất hiện của Hà Sĩ Phu trên talawas, với kiểu phê phán Marx một cách hời hợt, vô lối còn hơn cả Trần Thiên Ý. Trước đây người ta đã biết đến quan điểm của Hà Sĩ Phu đối với học thuyết Marx qua loạt bài “Dắt tay nhau, đi dưới tấm biển chỉ đường của trí tuệ”, “Đôi điều suy nghĩ của một công dân”, “Chia tay ý thức hệ”. Giờ lại đến bài “Tư tưởng và dân trí là nền móng xã hội”. Xin nói ngay: loạt bài mà Hà Sĩ Phu rất tự hào đó chỉ chứng tỏ một điều duy nhất, là ông hầu như không hiểu gì về học thuyết Marx.
Học thuyết Marx là cả một hệ thống tư tưởng, triết học thâm sâu, nhưng Hà Sĩ Phu lại thích tấn công bằng những lời lẽ “nôm na, đơn giản, dễ hiểu”, rất giống kiểu “dân vận” của các đối thủ của ông. Một điểm nữa là Hà Sĩ Phu rất ngại trích dẫn, toàn nói theo kiểu khơi khơi, chắc ông cho rằng tầm chương trích cú là trò vớ vẩn, mất thì giờ. Để “dân vận”, hù những ai không hiểu biết thì có thể được, nhưng để tranh luận học thuật nghiêm túc thì đó là một kiểu cách không thể chấp nhận.
Khi muốn phê phán một học thuyết nào đó, thiết nghĩ trước hết cần phải trình bày lại học thuyết đó, tốt nhất là như thể chính đối tượng bị phê phán đang trình bày học thuyết của mình. Điều tối thiểu này giúp người đọc biết được liệu người phê phán đã đọc, đã thực sự hiểu thấu đáo học thuyết của người kia hay chưa. Sau đó mới có thể đi vào phê phán. Có thể lấy các bài của Trần Hải Hạc như “Học thuyết Marx, đảng cộng sản Việt Nam và vấn đề bóc lột”, “Khái niệm bóc lột: từ học thuyết Marx sang học thuyết Tân cổ điển”, “Đọc lại học thuyết trọng nông”, hay loạt bài của Lữ Phương phê phán Marx, làm kiểu mẫu cho phong cách làm việc nghiêm túc. Nhưng muốn thế thì trước tiên phải đọc toàn bộ các trước tác của Marx, và không chỉ một lần, để có thể hiểu được Marx nghĩ gì, điều mà qua những gì Hà Sĩ Phu viết người ta thấy nghi ngờ. Rất có thể Hà Sĩ Phu vốn có định kiến với “chủ nghĩa Mác-Lênin” nên không hơi đâu bỏ công đọc làm gì!
Xin đưa ra vài dẫn chứng, ví dụ như đoạn Hà Sĩ Phu phê phán học thuyết giá trị thặng dư trong “Đôi điều suy nghĩ của một công dân”. Cũng như Trần Thiên Ý, Hà Sĩ Phu nghiêm khắc cảnh cáo Marx về tội không biết:
Rằng sản xuất công nghiệp cần sự tham gia của rất nhiều thành tố : tiền vốn, nguyên liệu, máy móc, người quản lý, qui trình kỹ thuật, công nhân đứng máy, lao động phụ giản đơn... Đây là sự hợp tác đa phương chứ không phải song phương. Cách đơn giản hoá để qui về song phương là gượng ép.
Rằng trong sản xuất công nghiệp thì sản xuất và tiêu thụ gắn với nhau một cách hữu cơ, nếu tách rời ra thì tính sao được lỗ lãi, nói chi đến sản xuất mở rộng hay không mở rộng, mà mỗi thành viên trong sản xuất đồng thời cũng là thành viên trong tiêu dùng. Chưa thấy mối tương hỗ này nên Mác đã dựa trên thực tế lúc đó mà tách tiêu dùng ra khỏi sản xuất, thậm chí còn đối lập nó.
Ai đã đọc Tư bản hẳn phải trố mắt! Trời ơi, Marx, một người sống ở Anh, nơi chủ nghĩa tư bản đã phát triển cả trăm năm, đã có thị trường chứng khoán với đủ các trò đầu cơ, người đã bỏ ra 25 năm nghiên cứu mọi khía cạnh của nền kinh tế, vậy mà không biết những điều đến trẻ con cũng biết đó, để cho Hoàng Sĩ Phu, một người sống trong nền kinh tế thị trường mới ra đời được dăm năm và chẳng biết gì về kinh tế học phải dạy bảo!
Hà Sĩ Phu dĩ nhiên không hiểu phương pháp nghiên cứu “đi từ trừu tượng đến cụ thể” của Marx, nên mới cả gan cho rằng Marx cưỡng ép quan hệ đa phương thành song phương. Khi nghiên cứu quá trình sản xuất của tư bản, thoạt tiên Marx xuất phát ở cấp độ trừu tượng nhất: chỉ có 2 nhân vật đối lập nhau là người lao động và nhà tư bản. Marx tạm thời gạt bỏ các yếu tố khác. Sau khi viết độ vài trăm trang, Marx mới dần dần đi vào “cụ thể”, nghĩa là nghiên cứu bản thân quá trình này dưới hình thái hiện thực của nó, bao gồm đủ thứ thành tố như Hà Sĩ Phu kể lể. Ví dụ: chương “Máy móc và đại công nghiệp” (Tư bản, quyển 1), chương “Tiết kiệm trong việc sử dụng tư bản bất biến” (Tư bản, quyển 3) nghiên cứu vai trò của máy móc, quy trình kỹ thuật…
Hà Sĩ Phu chắc không biết đến khái niệm “người lao động tập thể” của Marx, khi Marx xem xét vấn đề hợp tác lao động. Trong nhà máy, công ty, mỗi người lao động (từ bảo vệ, công nhân, kỹ sư, kế toán… cho đến giám đốc) chỉ tham gia một công đoạn, hoạt động như những khí quan của một người lao động tập thể duy nhất. Nhờ đó lao động cá nhân của họ biến thành lao động tập thể, mang tính xã hội, tạo nên cái “lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra hàng hoá và giá trị”. Chỗ nào trong Tư bản nói rằng chỉ có lao động cơ bắp của người công nhân mới tạo ra giá trị? Rất nhiều người đã ngộ nhận về điều này, thường xuyên đem cái cách hiểu sai lạc đó ra để phản bác Marx, rõ ràng là hậu quả của việc dạy và học kinh tế chính trị Mác-Lênin đây mà!
Hà Sĩ Phu lẫn lộn giữa tiêu thụ (việc bán hàng hoá) với tiêu dùng (việc sử dụng hàng hoá cho mục đích cá nhân). Không một nhà kinh tế nào quên việc tiêu thụ hết. Kinh tế chính trị học luôn nghiên cứu 3 quá trình: sản xuất, lưu thông, phân phối. Riêng tiêu dùng thì lại không thuộc phạm vi nghiên cứu của nó, vì ở đây không có các quan hệ sản xuất, những quan hệ này chấm dứt cùng với việc tiêu thụ, tức bán hàng. Tuy nhiên Marx không hề quên vai trò của tiêu dùng đối với phát triển sản xuất, như ở trên đã cho thấy. Ta còn biết, nhà tư bản chỉ quan tâm tới tiêu thụ, không quan tâm tới việc hàng của hắn được tiêu dùng thế nào. Hắn mong nhất là người tiêu dùng mua hàng của hắn về rồi… vứt xó! Thế mới là tiêu dùng chứ! Không tin, ngó thử vào kho quần áo, giày dép, mỹ phẩm của chị em phụ nữ mà xem!
Tiếp theo, Hà Sĩ Phu viết: “Điều phức tạp thứ ba là cơ sở để tính giá trị lao động”. Đây là một câu vô nghĩa hoàn toàn đối với người đã đọc Tư bản. Marx tốn bao công sức để chứng minh rằng lao động không có giá trị, vì lao động chính là thước đo giá trị. Nếu Hà Sĩ Phu muốn nói đến cái giá trị do lao động tạo ra, thì Marx cũng đã chỉ rõ: nhà tư bản không trả công cho lao động, hay cho thành quả lao động, mà cho giá trị của sức lao động.
Nhưng ngây ngô nhất là đoạn Hà Sĩ Phu so sánh việc coi lao động sống là nguồn duy nhất tạo ra giá trị giống với việc coi trong chiếc ti vi thì chiếc công tắc tắt mở là cái quan trọng hơn cả, vì không có nó thì ti vi không hoạt động! Chỉ Hà Sĩ Phu mới có thể nghĩ như thế!
Phạm trù “giá trị” biểu thị mối quan hệ người-người, là phạm trù quan trọng nhất trong khoa kinh tế chính trị, đó cũng là phần khó đọc nhất trong Tư bản. Nhiều người chỉ nghe loáng thoáng “lao động sống là nguồn tạo ra giá trị”, đã tưởng rằng thế là nắm được quy luật giá trị. Họ không buồn đọc xem Marx nghiên cứu phạm trù đó tỷ mỷ như thế nào, phân tích, phê phán các trường phái khác ra sao, nhưng đã vội lên tiếng phản bác Marx bằng những lập luận rất trẻ con, cũ rích. Hà Sĩ Phu là một trong số đó.
Do hiểu rất lơ mơ phạm trù “giá trị” nên Hà Sĩ Phu mới lầm tưởng máy móc có thể tạo ra giá trị nhiều hơn giá trị của bản thân nó, qua cái ví dụ: hết thời gian khấu hao thì máy phục vụ không công, nghĩa là tạo ra giá trị. Chắc là Hà Sĩ Phu quen thấy những cỗ máy dùng hàng chục năm ở Việt Nam thời bao cấp, nơi các quy luật kinh tế thị trường… không hoạt động! Marx xem xét khấu hao thực sự, nghĩa là hết thời gian khấu hao thì cái máy cũng vứt, làm gì có chuyện máy chạy lâu hơn thời gian khấu hao (Tư bản, quyển 1, chương VI). Cố đại tu để chạy thì cũng được đấy, nhưng là ngu ngốc về mặt kinh tế. Trong thực tế máy móc lại thường không kịp khấu hao hết, vì bên cạnh hao mòn vật chất còn có thêm hao mòn vô hình, đặc biệt trong thời đại hiện nay, nghĩa là phải vứt máy đi khi còn đang tốt vì như thế có lợi hơn về mặt kinh tế. Ai tiếc rẻ cố dùng máy cũ sẽ biết mùi ngay – chi phí lao động cá biệt lúc đó cao hơn chi phí lao động xã hội trung bình đã giảm đi nhờ áp dụng công nghệ mới. Đừng tưởng bở dùng máy hết khấu hao là ăn không!
Dĩ nhiên trong các trường hợp cá biệt, khi có công nghệ mới, độc quyền, thì người chủ hoặc giảm được giá thành, hoặc bán được hàng cao hơn giá trị trung bình, thu được lợi nhuận siêu ngạch cao hơn tỷ suất lợi nhuận chung, nhờ đó mau chóng thu hồi vốn đầu tư. Nhưng đó hoàn toàn không phải là máy móc tạo ra giá trị như Hà Sĩ Phu lầm tưởng, bởi chỉ cần những người khác cũng áp dụng công nghệ mới là lợi nhuận siêu ngạch đi tong. A. Smith đã viết rồi, chứ chẳng cần chờ đến Marx. Và Marx cũng đã phân tích điều này hết sức tỷ mỷ trong Tư bản, xin mời Hà Sĩ Phu chịu khó xem lại.
(Nhân tiện, về chuyện khấu hao máy móc, ở Việt Nam người ta rất hay đưa ra 2 điều trái ngược hẳn nhau để lý giải cùng 1 hiện tượng là hàng nội địa có giá thành cao hơn hàng nước ngoài:
Lý do thứ nhất là máy móc của ta quá lạc hậu, đã dùng hàng chục năm, còn nước ngoài thì hiện đại.
Lý do thứ hai là máy móc của ta mới mua, trong khi máy của nước ngoài thì đã hết khấu hao từ lâu!)
Hà Sĩ Phu còn phát hiện ra: khi tính tiền công mà nhà tư bản phải trả cho công nhân, Mác đã không tính đến cái giá mà người công nhân phải trả cho nhà tư bản vì điều này: năng lực lao động sẽ không là cái gì hết, nếu không bán được nó.
Hà Sĩ Phu chắc chắn là người bảo vệ nhiệt thành nhất cho tư bản!
Dĩ nhiên Marx biết thừa năng lực lao động sẽ không là cái gì hết nếu không bán được. Nhưng khi phân tích, ở cấp độ trừu tượng, Marx giả định là nhà tư bản và người công nhân mua bán sức lao động (nói đúng hơn là quyền chỉ huy sức lao động) theo đúng giá trị trao đổi của sức lao động, rất sòng phẳng, có hợp đồng đàng hoàng. Hai người đối lập nhau với tư cách ngang nhau: người mua và người bán. Người này không việc gì phải trả thêm cho người kia chỉ vì người kia chịu mua (hoặc bán) cho mình. Chỉ sau đó, khi nghiên cứu tiền công dưới hình thái hiện thực của nó, Marx mới chỉ rõ rằng tiền công phụ thuộc vào cuộc đấu tranh quyết liệt, dai dẳng giữa lao động và tư bản. Nói chung, như Marx viết ngay từ năm 1844, trong cuộc đấu tranh đó tư bản luôn chiếm thượng phong. Nhà tư bản không có công nhân, có thể sống lâu hơn người công nhân không có nhà tư bản. Nếu công nhân bị thua thiệt, thì đó là vì địa vị kinh tế của họ kém hơn tư bản nên phải bán sức lao động rẻ hơn giá trị, nhưng điều đó không có nghĩa công nhân phải đương nhiên nộp cống cho nhà tư bản như Hà Sĩ Phu nói! Giai cấp lao động không được buông xuôi, mà cần kết thành một khối và có hành động chính trị chung trong cuộc đấu tranh đó.
Thực ra, những ai đã đọc Tư bản đều biết rằng tất cả những điều Hà Sĩ Phu viết và tưởng là hết sức mới mẻ, sáng tạo, té ra đã có tuổi đời chừng… hai trăm năm, từng được Marx liệt vào loại “kinh tế học tầm thường” (để phân biệt với kinh tế học thực thụ của A. Smith, D. Ricardo…). Chúng cho thấy hai khả năng:
a. Hoặc là Hà Sĩ Phu chưa từng đọc bộ Tư bản và các nghiên cứu kinh tế khác của Marx, và kiến thức có được chỉ là nhờ thu lượm một cách hết sức hời hợt từ mấy cuốn giáo trình kinh tế chính trị, vốn cũng đã rất sơ sài rồi.
b. Hoặc là có đọc Marx nhưng vì IQ hơi bị thấp nên ngay cả những điều Marx viết rất rõ ràng cũng không hiểu, không thấy.
Vì Hà Sĩ Phu luôn tự nhận mình là trí thức, rất thích nói về trí tuệ, nên ta bỏ qua phương án 2. Nhưng kiểu gì thì người đọc cũng phải kính phục sự liều lĩnh của Hà Sĩ Phu khi phát biểu văng mạng như thế.
5. Trong “Chia tay ý thức hệ”, phong cách phê phán à la Hà Sĩ Phu như thế này:
Hỏi: Tại sao nói chủ nghĩa duy vật lịch sử mang tính duy tâm và siêu hình?
Đáp: Nói cách khác: chủ nghĩa duy vật lịch sử Mácxít đã chống lại tinh thần duy vật biện chứng, Cái nhìn của chủ nghĩa duy vật lịch sử Mácxít đối với con người và xã hội luôn cắt rời, cực đoan và phiến diện. Ví dụ:
"Con người" có thuộc tính cá nhân và thuộc tính xã hội thì về lý luận Mác-Lê để cho "con người xã hội" nuốt chửng mất "con người cá nhân".#
Đảng Cộng sản, cũng như “con người”, đều có mặt phải mặt trái, mặt thiện mặt ác, thì Mác-Lê chỉ thấy mặt thiện. Trong khi đó xã hội "tư bản" cũng có hai mặt thì Mác-Lê chỉ thấy mặt ác, mặt trái của nó.
Nhà nước bao giờ cũng có hai mặt công ích và tư lợi, nhưng Mác-Lê chỉ nhìn thấy bản chất tư lợi xấu của Nhà nước nên phấn đấu làm tiêu vong Nhà nước, kết quả là cái Nhà nước quá độ mà các ông tạo ra lại quá nhiều tính tư lợi mà không ai làm tiêu vong nó được
Sở hữu tư nhân hay sở hữu tập thể đều có hai mặt tích cực và tiêu cực, nhưng Mác Lê chỉ nhìn thấy mặt tiêu cực của tư hữu và chỉ nhìn thấy mặt tích cực của công hữu, nên phá tư hữu, lập công hữu.
Sự "chiếm hữu" trong xã hội như cái sào huyệt mafia gồm hai buồng: chiếm hữu tư liệu sản xuất và chiếm hữu quyền lực. Nhưng Mác Lê chỉ nhìn thấy một kẻ thù là chiếm hữu tư liệu sản xuất , bèn nống cái quyền lực lên để dùng nó diệt cái chiếm hữu tư liệu sản xuất. Ai ngờ cái chiếm hữu quyền lực còn tai ác gấp vạn lần.
Vấn đề "giá trị thặng dư" cũng vậy. Cũng có 2 mặt: phát triển kinh tế và tạo nguy cơ mất công bằng. Nhưng Mác-Lê chỉ nhìn thấy mặt "bóc lột" của giá trị thặng dư mà không thấy mặt tích cực và hợp lý của nó.
Vân vân…
Chẳng cần giải thích duy vật lịch sử là gì, cứ khơi khơi như thế thôi, không cần dẫn chứng, phân tích dài dòng gì hết, vậy là đánh đổ Marx. Nếu tin lời Hà Sĩ Phu thì Marx đúng là người cực kỳ phiến diện, thiển cận, đến độ cái gì cũng chỉ thấy một mặt!
Trong bài “Tư tưởng và dân trí…” Hà Sĩ Phu tiếp tục phong cách đó.
“Chủ nghĩa ấy chẳng qua là một quy trình thiết kế, áp đặt và điều khiển xã hội, coi xã hội loài người sinh động cũng chỉ như một cỗ máy công nghiệp để mình vận hành. Người điều hành cứ bấm đốt ngón tay, xem “kế hoạch 5 năm” lần thứ nhất thì làm gì, lần thứ hai thì làm gì, sau mấy “kế hoạch 5 năm” thì vào chủ nghĩa cộng sản… Ý muốn điều khiển xã hội răm rắp như điều khiển một cỗ máy chẳng qua là một thứ bệnh công nghiệp, một thứ mốt công nghiệp, một bệnh ấu trĩ xuất hiện thuở cách mạng công nghiệp đang bắt đầu thịnh hành (cái ấu trĩ bao giờ cũng cực đoan!). Chủ nghĩa kỹ trị cực đoan đã hoá thân nhuần nhuyễn thành triết học và đạo đức, đó chính là thực chất của chủ nghĩa Mác về xây dựng và điều khiển xã hội.”
Không có một dẫn chứng nào hết để người đọc tin rằng Marx đúng là một designer suốt đời cặm cụi thiết kế cỗ máy xã hội tương lai!
Phong cách phê bình này thấy rất quen thì phải!
Có cần chỉ cho Hà Sĩ Phu thấy rằng Marx và Engels chúa ghét cái trò ngồi vẽ ra các mô hình chi tiết xã hội tương lai không? Có cần nhắc lại lời của Engels rằng người ta đã trách móc hai ông chỉ biết chăm chăm mổ xẻ cái xã hội hiện tồn mà không dọn ra cái thực đơn cho bàn ăn tương lai không? Có cần nhắc lại rằng Marx là người mà phép biện chứng và duy vật đã ngấm vào xương tuỷ, thể hiện trên từng trang viết, trong từng hành động không? Rằng Marx đã đưa ra hàng núi tài liệu, sự kiện trong mọi lĩnh vực, để củng cố cho quan điểm của mình không?
Không, chắc là không, vì Hà Sĩ Phu đã nói là không nên mất thời giờ cho những kiến thức tầm abc như thế!
6. Hà Sĩ Phu chê Marx siêu hình, phiến diện khi nghiên cứu xã hội. Chắc Hà Sĩ Phu không biết rằng nếu Tôn Ngộ Không có cặp mắt lửa con người vàng, có thể nhìn thấy yêu quái dưới mọi lốt, thì Marx có cặp mắt biện chứng, nhìn đâu cũng thấy ma. Marx rất khoái nghiên cứu ma.
Marx không nghiên cứu vật, mà nghiên cứu sự vận động của các quan hệ nội tại của nó. Nhìn vào bất kỳ một vật, một hiện tượng nào, Marx cũng thấy vô số con ma trong đó – chính là những quan hệ nội tại kia. Chúng vô hình với mắt người thường, nên đích thị là ma. Lũ ma này toàn cặp đôi với nhau, thường một ma nam một ma nữ. Chúng chí chóe với nhau suốt, nhưng rồi vẫn cứ cặp kè, thế mới quái.
Chẳng hạn, khi nhìn một hàng hoá, người bình thường thấy gì? Chẳng thấy gì hơn ngoài một sản phẩm của lao động, có hình dáng, tính năng, giá cả nào đó, chấm hết. Còn Marx thấy gì?
Marx thấy một lũ ma, cặp kè từng đôi:
Ma giá trị cặp bồ với ma giá trị sử dụng. Nhìn kỹ hơn, Marx phát hiện ra cặp ma này thực ra chỉ là cái lốt, che giấu hai con ma khác: ma lao động trừu tượng và ma lao động cụ thể. Lại có hai con ma khác lởn vởn xung quanh: ma lao động giản đơn và lao động phức tạp.
Con ma giá trị té ra rất quái. Nó lắc mình một cái, biến thành con ma giá trị trao đổi. Lắc mình cái nữa, biến thành ma giá cả, khoác cái áo may bằng tiền trông rất mốt.
Nhìn kỹ hơn nữa, Marx lại thấy trong lòng con ma giá trị kia có mấy cặp ma khác đang thậm thà thậm thụt. Đó là ma hình thái tương đối của giá trị đang ôm eo ma hình thái ngang giá. Một cặp khác là ma tư bản khả biến và tư bản bất biến đang hôn hôn hít hít, ui chao, không phải hôn, mà là tư bản bất biến đang hút máu tư bản khả biến, kinh quá! Một cặp nữa là tư bản cố định và tư bản lưu động đang vật tay xem thằng nào khỏe hơn (hai ma này té ra là gay, nhưng rất chịu khó tập thể hình).
Lại có một con ma giá trị thặng dư thập thò trong lòng con ma giá trị. Nheo mắt lại, Marx nhìn thấy trong con ma giá trị thặng dư này một cặp khác, là ma lợi nhuận và ma lợi tức, hai ma này đánh nhau túi bụi để giành nhau chỗ rộng hơn trong lòng con ma giá trị thặng dư kia.
Lũ ma này rất hiếu động, nghịch tinh nghịch quái, chạy loạn hết cả lên, nhìn hoa cả mắt. Marx thò tay túm một cặp ra, cho vào dưới kính hiển vi, soi soi xét xét. Soi chán thì thả chúng ra, tóm một cặp khác. Thỉnh thoảng Marx lại niệm thần chú cho tất cả lờ đờ như quay chậm, để nhìn cho rõ bức tranh toàn cục...
Phương pháp biện chứng của Marx là thế đấy. Nếu Marx phiến diện như Hà Sĩ Phu nói, thì bộ Tư bản chỉ dày độ chục trang chứ mấy!
7. Khi Marx trả lời con gái: Không có gì thuộc về con người mà xa lạ với cha cả - là Marx muốn nói ông không phải thần thánh sống trên mây, mà chỉ là một con người sống trên mặt đất như mọi người khác. Hà Sĩ Phu lại mỉa mai rằng Marx nói “biết hết mọi thứ về con người” nhưng thực ra chả hiểu kỹ con người lắm đâu, nhất là cái mặt bất thiện ấy!
Khi Hà Sĩ Phu cười nhạo tuyên bố của Lênin: “Dân chủ vô sản dân chủ gấp triệu lần dân chủ tư sản”, vị tất ông đã hiểu được ý nghĩa sâu xa của phạm trù dân chủ trong học thuyết Marx. Vị tất ông đã hiểu vì sao khi nói về dân chủ, Lênin không dùng các định nghĩa hời hợt thường thấy, vốn chỉ dựa trên biểu hiện bề ngoài của phạm trù dân chủ, kiểu như: dân chủ là chế độ trong đó người dân được quyền trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia điều hành đất nước, hay: dân chủ là để cho dân được mở miệng nói…, mà nhấn mạnh: dân chủ là một hình thái nhà nước đặc thù, xuất hiện trong những điều kiện nhất định. Chính là Lênin muốn đi sâu vào cái bản chất, cái tính quy định lịch sử của phạm trù dân chủ, như Trần Hải Hạc đã phân tích rất sâu sắc cũng trong bài viết nói trên. Hà Sĩ Phu chỉ định dựa vào hiện thực ở các nước mang danh XHCN để cười nhạo Lênin sao? Cái cười nhạo đó bất quá chỉ là cái cười của kẻ “hạ sĩ văn đạo, đại tiếu chi” (hạng tầm thường nghe đạo thì cười hô hố). Cười hô hố là phải thôi, vì: “Bất tiếu, bất túc dĩ vi đạo” (không cười hô hố, sao gọi là đạo. Đạo đâu có dễ hiểu thế!) (Lão tử, Đạo đức kinh).
8. Theo thông tin mới nhất, nhiều khả năng cái gọi là chủ nghĩa Mác-Lênin mà Hà Sĩ Phu ra sức đấm đá đó, chỉ là sản phẩm của “trí tuệ” của chính Hà Sĩ Phu. Nghĩa là ông đấm đá chính bản thân mình.
Thiển nghĩ, Hà Sĩ Phu đã nhầm khi hạ thấp việc phê phán chủ nghĩa Marx, vốn đòi hỏi bản lĩnh cực kỳ cao cường, xuống ngang tầm với việc chỉ trích chế độ, vốn là một việc tương đối dễ dàng vì đối tượng phê phán không có gì cao siêu. Hà Sĩ Phu tưởng rằng kiến thức abc của mình về học thuyết Marx cũng chính là học thuyết Marx, thế mới chết!
Khi phê phán Dühring, Engels từng phải thốt lên: Nếu Hegel không chết từ lâu rồi thì Hegel sẽ tự treo cổ mà chết! Ở đây cũng thế: Nếu Marx chưa chết thì nhất định cũng tự cắn lưỡi mà chết!
Nếu Hà Sĩ Phu muốn phê phán hay tranh luận về Marx, thì trước hết xin ông hãy đi đọc Marx cái đã, rồi sẽ nói chuyện sau!
9. Đoạn kết
Nếu chỉ bằng vào những kiến thức nông cạn, những lý lẽ hời hợt mà có thể đánh đổ được học thuyết của Marx một cách dễ dàng đến thế, thì học thuyết Marx lẽ ra phải chết từ khi vừa ra đời mới phải. Phải thế nào thì cụ Marx mới sống dai thế chứ (lâu lâu lại có một chú nhảy ra đòi chôn Marx, như nhà nghiên cứu Phan Huy Đường nhận xét). Phải thế nào thì thính giả đài BBC mới chọn Marx là triết gia vĩ đại nhất của mọi dân tộc trong mọi thời đại chứ, khiến anh chàng Simon Montefiore tức điên lên viết bài “Quái vật mang tên Karl Marx” – một bài rất vớ vẩn. Phải thế nào thì Marx mới hấp dẫn được hàng trăm triệu con người trên khắp thế giới từ cả trăm năm qua, khiến cho anh Đỗ Kh. rất lấy làm ngạc nhiên chứ!
Những người mới chỉ hiểu một cách hết sức lơ mơ, sai lạc về học thuyết Marx, thậm chí chưa từng biết bộ Tư bản dày mỏng ra sao, nhưng lại rất tự tin phê phán Marx, thì phần lớn lý lẽ của họ dựa trên những ngộ nhận mà nhiều người đã chỉ ra, tiêu biểu như bài viết của Nguyễn Hoài Vân: “Những ngộ nhận về học thuyết Marx” – một bài viết rất hay. Đọc bài đó, có lẽ những ai đang có ý định phê phán Marx sẽ nghĩ lại chăng!
Nhưng nói gì thì nói, không thể tiếp tục tình trạng dạy và học chủ nghĩa Marx một cách tràn lan như hiện nay được nữa!
Muốn phê phán Marx thì phải đọc Marx
Trong một bài viết mới đây, tác giả Phong Uyên có đề xuất bỏ môn chính trị Mác-Lê ra khỏi chương trình bắt buộc ở các trường đại học Việt Nam, thay vào đó tạo lập một phân khoa chính trị theo đúng nghĩa của nó, dành cho sinh viên muốn chuyên về ngành này. Đề xuất đó rất đáng được chia sẻ, không phải vì học thuyết Mác-Lê là món vô bổ, chán ngắt, thầy không muốn dạy trò không muốn học. Cái chính là việc dạy tràn lan chủ nghĩa Marx đòi hỏi phải sơ lược hoá, dẫn đến tầm thường hoá, tư tưởng của Marx, và đó là cách tốt nhất để phản Marx một cách đại trà, đúng như viện sĩ D. Rosenberg (Liên Xô) đã cảnh báo từ đầu những năm 30 thế kỷ trước.
Do hiểu biết quá sơ sài nên nhiều người tưởng rằng “té ra học thuyết Marx cũng chỉ có thế, chẳng ghê gớm gì lắm”, và trong họ bỗng nảy ra cái ảo tưởng rằng có thể phê phán, thậm chí lật đổ toàn bộ hệ thống tư tưởng của Marx một cách dễ ợt! Cứ nhớ lại phong trào “nhà nhà phê Marx, người người phê Marx” hồi trước Đại hội Đảng X mà xem!
Trên talawas cũng có một số vị tham gia phê Marx, như Trần Thiên Ý với bài “Nhân đọc Báo cáo chính trị của Đảng, nói đôi điều cùng Đông La”, và mới nhất là Hà Sĩ Phu với “Tư tưởng và dân trí là nền móng xã hội”. Điểm chung là hai vị này đều hiểu rất sai lạc về học thuyết Marx, kể cả những điều sơ đẳng nhất, nhưng lại muốn lật đổ Marx. Ta hãy thử điểm qua một vài ý.
1. Trong bài nói trên, Trần Thiên Ý phê phán quan điểm duy vật lịch sử của Marx, trong khi không hề hiểu cụm từ đó có nghĩa gì, hay nói đúng hơn, hiểu sai hoàn toàn.
Trần Thiên Ý viết: “Platon, triết gia và nhà tư tưởng nổi tiếng thời cổ Hy Lạp, cho rằng quá trình phát triển xã hội loài người là một quá trình lịch sử được quyết định bởi những yếu tố nằm ngoài ý muốn, ngoài ảnh hưởng của con người mà ông gọi là quy luật của Chúa. Nghiên cứu sự phát triển xã hội cũng có nghĩa là phát hiện cái quy luật lịch sử ấy, dự đoán tương lai đồng thời chỉ ra lực lượng nào sẽ lãnh đạo xã hội. Phương pháp nghiên cứu xã hội này gọi là phương pháp luận lịch sử. Hàng loạt nhà triết học, tư tưởng sau Platon đều tự đặt cho mình nhiệm vụ tiên đoán lịch sử. Trong số đó có Hegel và tiêu biểu là Karl Marx đã phát triển tư tưởng của Platon trở thành cái mà chúng ta đã được nghe nói đến rất nhiều: Chủ nghĩa duy vật lịch sử.”
Tiếp đó Trần Thiên Ý đập tan tành quan điểm duy vật lịch sử của Marx như sau:
Cái mà Marx coi là quy luật, thì thực ra không phải quy luật, vì chúng không mang các đặc tính của quy luật là: 1) lặp đi lặp lại không thay đổi trong thời gian vô định và không có khởi đầu, không có kết thúc; 2) không mang tính đúng hay sai, chỉ có thể tồn tại hay không tồn tại quy luật mà thôi và 3) không thể thay đổi quy luật. Quy luật nằm ngoài tầm kiểm soát của con người.
Trần Thiên Ý chỉ ra sai lầm cơ bản của Marx là “khi áp dụng tri thức trong khoa học tự nhiên vào nghiên cứu xã hội, Marx đã gán cho những quá trình xã hội có biểu hiện tuần hoàn trong khoảng thời gian giới hạn những đặc tính của quy luật tự nhiên với những tính chất không thay đổi trong thời gian vô hạn”.
Ta thấy gì từ lý lẽ trên đây của Trần Thiên Ý?
Thứ nhất, Trần Thiên Ý có cách định nghĩa “quy luật” khá lạ đời. Như thế, một trinh sát công an sẽ rất đau đầu khi được giao nhiệm vụ theo dõi “quy luật” đi lại của đối tượng, bởi quy luật này hoàn toàn do đối tượng quyết định, và thường là chỉ diễn ra trong một thời gian không đến nỗi vô tận! Học Trần Thiên Ý, đồng chí ấy sẽ nói: báo cáo, không phát hiện ra quy luật nào hết! Nhưng thôi, đó là chuyện nhỏ như con thỏ.
Thứ hai, và cái này mới quan trọng: những điều Trần Thiên Ý viết chẳng liên quan gì đến quan điểm duy vật lịch sử của Marx hết. Bởi những người có quan điểm duy tâm, phi lịch sử cũng hoàn toàn có thể nói rằng lịch sử phát triển theo các quy luật nào đó!
Người ta thường hay ghép quan điểm duy vật với quan điểm lịch sử thành duy vật lịch sử, trong khi lẽ ra nên tách bạch chúng. Duy vật là gì thì dường như ai cũng biết, đó là quan điểm tồn tại quyết định ý thức – Das Sein bestimmt das Bewusstsein -, rằng không phải ý chí của con người quy định, chi phối sự tồn tại của họ, mà trái lại, chính sự tồn tại mới quyết định, chi phối ý chí con người. Rằng có thể giải thích các quan niệm và tư tưởng của mỗi thời đại bằng những điều kiện sinh hoạt kinh tế của thời đại ấy, và bằng những quan hệ xã hội và chính trị bắt nguồn từ những điều kiện ấy... Đây là nói một cách ngắn gọn cho nhanh, chứ để trình bày hết cái nội dung của nó thì phải mất hàng trăm trang giấy. Quan điểm duy vật xuyên suốt các tác phẩm của Marx và Engels.
Còn thế nào là quan điểm lịch sử? Nó không hề có nghĩa là coi lịch sử phát triển theo những quy luật nhất định, thậm chí cũng không phải là nghiên cứu lịch sử (đúng ra là: các khoa học lịch sử, là cách Marx gọi các môn khoa học xã hội) dưới nhãn quan duy vật. Mà là: ở mỗi giai đoạn nhất định, trong những điều kiện nhất định, thì có những quy luật, phạm trù nhất định, tương ứng với giai đoạn đó. Nói cách khác, có những phạm trù, quy luật chỉ phát sinh, phát triển và tiêu vong ở một giai đoạn nhất định của lịch sử, trong những điều kiện nhất định, chứ không phải ở đâu cũng có, lúc nào cũng có. Ví dụ, “giá trị”, “tư bản”, “hàng hoá” là những phạm trù lịch sử, trong khi “lao động”, “sản xuất” là những phạm trù vĩnh viễn. Quy luật giá trị, giá trị thặng dư là những quy luật mang tính lịch sử… Về điểm đặc sắc này của Marx, giáo sư I. Kaufman đã viết, và được Marx dẫn lại trong lời bạt viết cho lần xuất bản thứ hai quyển 1 bộ Tư bản như sau:
“Người ta có thể nói rằng… những quy luật chung của đời sống kinh tế chỉ là một, dù chúng được áp dụng vào hiện tại hay quá khứ thì cũng thế. Đó chính là điều mà Marx phủ nhận. Theo Marx thì không có những quy luật trừu tượng như thế… mà trái lại, mỗi thời kỳ lịch sử đều có những quy luật riêng của nó… Một khi cuộc sống đã vượt qua một thời kỳ phát triển nhất định và bước sang giai đoạn khác thì nó cũng bắt đầu bị những quy luật khác chi phối… tương tự như những hiện tượng trong lĩnh vực sinh học… Các nhà kinh tế học cũ không hiểu được bản chất của các quy luật kinh tế khi họ so sánh chúng với các quy luật vật lý và hoá học… ” (Tư bản, quyển 1, tập 1, tr. 37, NXB Sự Thật, 1976).
Do có quan điểm lịch sử nên khi xem xét bất kỳ hiện tượng gì trước hết Marx đều tìm hiểu xem cái đó mang tính lịch sử hay vĩnh viễn, và nếu mang tính lịch sử thì đâu là những “tính quy định lịch sử” của nó, nghĩa là xét xem nó phát sinh, phát triển và tiêu vong trong những điều kiện nào. Chính những phạm trù, quy luật mang tính lịch sử quyết định tính đặc thù của mỗi giai đoạn lịch sử. Marx là chúa ghét những cái gì chung chung, trừu tượng, kiểu như nền sản xuất chung chung, sự bóc lột chung chung, sự công bằng chung chung… Marx không nghiên cứu sản xuất nói chung, mà là sản xuất tư bản chủ nghĩa. Marx cũng không phấn đấu đạt tới công bằng xã hội chung chung, mà đấu tranh cho một trật tự xã hội mới, trong đó sẽ có kiểu công bằng mới và đủ thứ khác nữa tương ứng với trật tự xã hội đó…
Nói thế thôi, chứ Marx hiểu rất rõ mối quan hệ giữa cái chung và cái đặc thù. Marx chỉ cằn nhằn khi thấy người ta chỉ thấy cái chung mà không thấy cái đặc thù, tưởng rằng cái gì cũng mang tính vĩnh viễn.
Trần Thiên Ý đã hiểu sai về quan điểm duy vật lịch sử của Marx, thì còn nói chi đến chuyện phê phán?
Ngay chúng ta đây, khi nói rằng tính cách của người Việt có nguồn gốc từ phương thức sản xuất, sinh hoạt tiểu nông, và hiện giờ khi nhận thấy những thay đổi trong đạo đức xã hội, cả tích cực lẫn tiêu cực, và cho rằng đó là hệ quả của quá trình chuyển nền kinh tế từ bao cấp sang thị trường, thì chúng ta đang áp dụng cái gì, nếu không phải là quan điểm duy vật lịch sử của Marx?
2. Về bộ Tư bản thì Trần Thiên Ý nghiêm khắc phê bình như sau: “Không như Marx tiên đoán, ngày nay giai cấp vô sản không những không bị bần cùng hoá mà còn trở thành có tài sản, được tham gia làm chủ tư liệu sản xuất thông qua việc làm chủ cổ phiếu. Giới chủ ngày nay không chỉ là chủ vốn mà còn là nhà sản xuất – kinh doanh, phải quan tâm đến việc tiêu thụ sản phẩm của mình, nghĩa là quan tâm đến người tiêu thụ. Người tiêu thụ ở đây lại chính là người lao động. Mối quan hệ sản xuất này rõ ràng khác xa với mối quan hệ mà Marx mô tả trong Tư bản luận.”
Chỉ với việc nắm giữ một chút cổ phiếu, trong khi vẫn tiếp tục làm thuê vì chẳng có gì để bán ngoài sức lao động của mình, mà đã tưởng trở thành nhà tư bản thì quả thật ngây thơ! Nhưng cái đó còn chưa buồn cười bằng khẳng định tiếp theo của Trần Thiên Ý, rằng giới chủ ngày nay không chỉ làm chủ vốn mà còn là nhà sản xuất kinh doanh, phải quan tâm đến người tiêu thụ…, là điều mà Marx không biết!
Xin hỏi khẽ để không ai nghe thấy, Trần Thiên Ý đã bao giờ đọc Tư bản chưa vậy?
Mặc dù Marx phân biệt rất rõ nhà tư bản sở hữu (sở hữu tư bản) với nhà tư bản chức năng (sử dụng tư bản, tức là điều hành kinh doanh), nhưng trong suốt hàng trăm trang đầu tiên của bộ Tư bản Marx luôn xem xét nhà tư bản với hai tư cách cùng một lúc: vừa là chủ sở hữu tư bản, vừa là người điều hành sản xuất. Marx phân tích tỷ mỷ cách nhà tư bản tổ chức sản xuất như thế nào, hiện thực hoá giá trị và giá trị thặng dư thông qua trao đổi ra sao... Chỉ đến khi nghiên cứu tư bản sinh lợi tức Marx mới tách riêng tư bản sở hữu ra khỏi tư bản chức năng.
Trần Thiên Ý cũng không ngờ rằng Marx đã viết: đối với nhà tư bản thì, ngoại trừ số người lao động mà hắn thuê mướn, quần chúng lao động là một quần chúng người tiêu dùng (Bản thảo 1857 – 1858). Không có tiêu dùng thì không thể phát triển sản xuất, vì thế nâng cao tiền lương thực tế của giai cấp lao động là điều kiện để tăng giá trị thặng dư tương đối. Chỉ khi đó sản xuất giá trị thặng dư tương đối mới không có giới hạn, và trở thành cơ sở phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa (Tư bản, quyển I).
Vậy mà Trần Thiên Ý bảo: Marx chẳng biết gì hết, cứ phải nhắc hoài!
3. Tiếp đó, Trần Thiên Ý phê phán quan niệm của Marx về nhà nước (nhà nước chỉ là công cụ đàn áp của giai cấp thống trị), và cho rằng sau khi Marx viết Tư bản một thời gian ngắn thì nhà nước đã thay đổi hoàn toàn theo hướng mà Marx không thể tiên đoán được, tức là: Nhà nước là một tổ chức của xã hội để đảm bảo các quyền cá nhân, phẩm giá con người. Luận điểm này na ná như luận điểm của Mai Thái Lĩnh trong “Huyền thoại về một nhà nước tự tiêu vong” – một âm mưu đánh đổ Marx khác.
Về sự phiến diện của quan điểm kiểu này, Trần Hải Hạc trong bài “Chủ nghĩa Marx, Đảng cộng sản Việt Nam và vấn đề bóc lột” đã phân tích:
“Trong Hệ tư tưởng Đức, Marx chỉ rõ: do mâu thuẫn giữa những lợi ích riêng và những lợi ích chung, nhà nước là một hình thái xã hội tách rời và độc lập với các lợi ích riêng, đứng ngoài và đứng trên xã hội dân sự tư sản; đồng thời, bởi vì đây là xã hội có phân hoá giai cấp, nên nhà nước hiện đại là hình thái qua đó giai cấp thống trị áp đặt lợi ích của nó như là lợi ích chung, cho nên lợi ích chung đó là hão huyền. Từ đó, một định nghĩa về nhà nước hiện đại nhất thiết phải nắm lấy cả nội dung lẫn hình thức của nó: về nội dung, đó là nhà nước mang tính giai cấp, nó là cái qua đó giai cấp tư sản xác lập ách thống trị và tiến hành quá trình bóc lột; về hình thức, nhà nước hiện đại là một hình thái độc lập và đứng trên các giai cấp, nó là nhà nước của công dân tự do và bình đẳng, một nhà nước đại biểu mang tính dân chủ. Sẽ không xác đáng khi định nghĩa phạm trù nhà nước trong chủ nghĩa tư bản như là quan hệ thống trị giai cấp chung chung, bởi đó là một nhà nước giai cấp có một hình thái đặc thù – hình thái nhà nước công dân, còn quan hệ thống trị giai cấp mang hình thái đặc thù – hình thái dân chủ. Chính cái hình thái dân chủ này đã che lấp quan hệ thống trị của giai cấp tư sản. Gán cho Marx một lý thuyết về nhà nước duy công cụ (nhà nước chỉ là công cụ của giai cấp thống trị) là một cách hiểu phiến diện, chỉ thấy nội dung giai cấp của nhà nước tư sản mà không kể đến hình thức biểu hiện dân chủ của nó”.
4. Lẽ ra đã không có bài viết này nếu không có sự xuất hiện của Hà Sĩ Phu trên talawas, với kiểu phê phán Marx một cách hời hợt, vô lối còn hơn cả Trần Thiên Ý. Trước đây người ta đã biết đến quan điểm của Hà Sĩ Phu đối với học thuyết Marx qua loạt bài “Dắt tay nhau, đi dưới tấm biển chỉ đường của trí tuệ”, “Đôi điều suy nghĩ của một công dân”, “Chia tay ý thức hệ”. Giờ lại đến bài “Tư tưởng và dân trí là nền móng xã hội”. Xin nói ngay: loạt bài mà Hà Sĩ Phu rất tự hào đó chỉ chứng tỏ một điều duy nhất, là ông hầu như không hiểu gì về học thuyết Marx.
Học thuyết Marx là cả một hệ thống tư tưởng, triết học thâm sâu, nhưng Hà Sĩ Phu lại thích tấn công bằng những lời lẽ “nôm na, đơn giản, dễ hiểu”, rất giống kiểu “dân vận” của các đối thủ của ông. Một điểm nữa là Hà Sĩ Phu rất ngại trích dẫn, toàn nói theo kiểu khơi khơi, chắc ông cho rằng tầm chương trích cú là trò vớ vẩn, mất thì giờ. Để “dân vận”, hù những ai không hiểu biết thì có thể được, nhưng để tranh luận học thuật nghiêm túc thì đó là một kiểu cách không thể chấp nhận.
Khi muốn phê phán một học thuyết nào đó, thiết nghĩ trước hết cần phải trình bày lại học thuyết đó, tốt nhất là như thể chính đối tượng bị phê phán đang trình bày học thuyết của mình. Điều tối thiểu này giúp người đọc biết được liệu người phê phán đã đọc, đã thực sự hiểu thấu đáo học thuyết của người kia hay chưa. Sau đó mới có thể đi vào phê phán. Có thể lấy các bài của Trần Hải Hạc như “Học thuyết Marx, đảng cộng sản Việt Nam và vấn đề bóc lột”, “Khái niệm bóc lột: từ học thuyết Marx sang học thuyết Tân cổ điển”, “Đọc lại học thuyết trọng nông”, hay loạt bài của Lữ Phương phê phán Marx, làm kiểu mẫu cho phong cách làm việc nghiêm túc. Nhưng muốn thế thì trước tiên phải đọc toàn bộ các trước tác của Marx, và không chỉ một lần, để có thể hiểu được Marx nghĩ gì, điều mà qua những gì Hà Sĩ Phu viết người ta thấy nghi ngờ. Rất có thể Hà Sĩ Phu vốn có định kiến với “chủ nghĩa Mác-Lênin” nên không hơi đâu bỏ công đọc làm gì!
Xin đưa ra vài dẫn chứng, ví dụ như đoạn Hà Sĩ Phu phê phán học thuyết giá trị thặng dư trong “Đôi điều suy nghĩ của một công dân”. Cũng như Trần Thiên Ý, Hà Sĩ Phu nghiêm khắc cảnh cáo Marx về tội không biết:
Rằng sản xuất công nghiệp cần sự tham gia của rất nhiều thành tố : tiền vốn, nguyên liệu, máy móc, người quản lý, qui trình kỹ thuật, công nhân đứng máy, lao động phụ giản đơn... Đây là sự hợp tác đa phương chứ không phải song phương. Cách đơn giản hoá để qui về song phương là gượng ép.
Rằng trong sản xuất công nghiệp thì sản xuất và tiêu thụ gắn với nhau một cách hữu cơ, nếu tách rời ra thì tính sao được lỗ lãi, nói chi đến sản xuất mở rộng hay không mở rộng, mà mỗi thành viên trong sản xuất đồng thời cũng là thành viên trong tiêu dùng. Chưa thấy mối tương hỗ này nên Mác đã dựa trên thực tế lúc đó mà tách tiêu dùng ra khỏi sản xuất, thậm chí còn đối lập nó.
Ai đã đọc Tư bản hẳn phải trố mắt! Trời ơi, Marx, một người sống ở Anh, nơi chủ nghĩa tư bản đã phát triển cả trăm năm, đã có thị trường chứng khoán với đủ các trò đầu cơ, người đã bỏ ra 25 năm nghiên cứu mọi khía cạnh của nền kinh tế, vậy mà không biết những điều đến trẻ con cũng biết đó, để cho Hoàng Sĩ Phu, một người sống trong nền kinh tế thị trường mới ra đời được dăm năm và chẳng biết gì về kinh tế học phải dạy bảo!
Hà Sĩ Phu dĩ nhiên không hiểu phương pháp nghiên cứu “đi từ trừu tượng đến cụ thể” của Marx, nên mới cả gan cho rằng Marx cưỡng ép quan hệ đa phương thành song phương. Khi nghiên cứu quá trình sản xuất của tư bản, thoạt tiên Marx xuất phát ở cấp độ trừu tượng nhất: chỉ có 2 nhân vật đối lập nhau là người lao động và nhà tư bản. Marx tạm thời gạt bỏ các yếu tố khác. Sau khi viết độ vài trăm trang, Marx mới dần dần đi vào “cụ thể”, nghĩa là nghiên cứu bản thân quá trình này dưới hình thái hiện thực của nó, bao gồm đủ thứ thành tố như Hà Sĩ Phu kể lể. Ví dụ: chương “Máy móc và đại công nghiệp” (Tư bản, quyển 1), chương “Tiết kiệm trong việc sử dụng tư bản bất biến” (Tư bản, quyển 3) nghiên cứu vai trò của máy móc, quy trình kỹ thuật…
Hà Sĩ Phu chắc không biết đến khái niệm “người lao động tập thể” của Marx, khi Marx xem xét vấn đề hợp tác lao động. Trong nhà máy, công ty, mỗi người lao động (từ bảo vệ, công nhân, kỹ sư, kế toán… cho đến giám đốc) chỉ tham gia một công đoạn, hoạt động như những khí quan của một người lao động tập thể duy nhất. Nhờ đó lao động cá nhân của họ biến thành lao động tập thể, mang tính xã hội, tạo nên cái “lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra hàng hoá và giá trị”. Chỗ nào trong Tư bản nói rằng chỉ có lao động cơ bắp của người công nhân mới tạo ra giá trị? Rất nhiều người đã ngộ nhận về điều này, thường xuyên đem cái cách hiểu sai lạc đó ra để phản bác Marx, rõ ràng là hậu quả của việc dạy và học kinh tế chính trị Mác-Lênin đây mà!
Hà Sĩ Phu lẫn lộn giữa tiêu thụ (việc bán hàng hoá) với tiêu dùng (việc sử dụng hàng hoá cho mục đích cá nhân). Không một nhà kinh tế nào quên việc tiêu thụ hết. Kinh tế chính trị học luôn nghiên cứu 3 quá trình: sản xuất, lưu thông, phân phối. Riêng tiêu dùng thì lại không thuộc phạm vi nghiên cứu của nó, vì ở đây không có các quan hệ sản xuất, những quan hệ này chấm dứt cùng với việc tiêu thụ, tức bán hàng. Tuy nhiên Marx không hề quên vai trò của tiêu dùng đối với phát triển sản xuất, như ở trên đã cho thấy. Ta còn biết, nhà tư bản chỉ quan tâm tới tiêu thụ, không quan tâm tới việc hàng của hắn được tiêu dùng thế nào. Hắn mong nhất là người tiêu dùng mua hàng của hắn về rồi… vứt xó! Thế mới là tiêu dùng chứ! Không tin, ngó thử vào kho quần áo, giày dép, mỹ phẩm của chị em phụ nữ mà xem!
Tiếp theo, Hà Sĩ Phu viết: “Điều phức tạp thứ ba là cơ sở để tính giá trị lao động”. Đây là một câu vô nghĩa hoàn toàn đối với người đã đọc Tư bản. Marx tốn bao công sức để chứng minh rằng lao động không có giá trị, vì lao động chính là thước đo giá trị. Nếu Hà Sĩ Phu muốn nói đến cái giá trị do lao động tạo ra, thì Marx cũng đã chỉ rõ: nhà tư bản không trả công cho lao động, hay cho thành quả lao động, mà cho giá trị của sức lao động.
Nhưng ngây ngô nhất là đoạn Hà Sĩ Phu so sánh việc coi lao động sống là nguồn duy nhất tạo ra giá trị giống với việc coi trong chiếc ti vi thì chiếc công tắc tắt mở là cái quan trọng hơn cả, vì không có nó thì ti vi không hoạt động! Chỉ Hà Sĩ Phu mới có thể nghĩ như thế!
Phạm trù “giá trị” biểu thị mối quan hệ người-người, là phạm trù quan trọng nhất trong khoa kinh tế chính trị, đó cũng là phần khó đọc nhất trong Tư bản. Nhiều người chỉ nghe loáng thoáng “lao động sống là nguồn tạo ra giá trị”, đã tưởng rằng thế là nắm được quy luật giá trị. Họ không buồn đọc xem Marx nghiên cứu phạm trù đó tỷ mỷ như thế nào, phân tích, phê phán các trường phái khác ra sao, nhưng đã vội lên tiếng phản bác Marx bằng những lập luận rất trẻ con, cũ rích. Hà Sĩ Phu là một trong số đó.
Do hiểu rất lơ mơ phạm trù “giá trị” nên Hà Sĩ Phu mới lầm tưởng máy móc có thể tạo ra giá trị nhiều hơn giá trị của bản thân nó, qua cái ví dụ: hết thời gian khấu hao thì máy phục vụ không công, nghĩa là tạo ra giá trị. Chắc là Hà Sĩ Phu quen thấy những cỗ máy dùng hàng chục năm ở Việt Nam thời bao cấp, nơi các quy luật kinh tế thị trường… không hoạt động! Marx xem xét khấu hao thực sự, nghĩa là hết thời gian khấu hao thì cái máy cũng vứt, làm gì có chuyện máy chạy lâu hơn thời gian khấu hao (Tư bản, quyển 1, chương VI). Cố đại tu để chạy thì cũng được đấy, nhưng là ngu ngốc về mặt kinh tế. Trong thực tế máy móc lại thường không kịp khấu hao hết, vì bên cạnh hao mòn vật chất còn có thêm hao mòn vô hình, đặc biệt trong thời đại hiện nay, nghĩa là phải vứt máy đi khi còn đang tốt vì như thế có lợi hơn về mặt kinh tế. Ai tiếc rẻ cố dùng máy cũ sẽ biết mùi ngay – chi phí lao động cá biệt lúc đó cao hơn chi phí lao động xã hội trung bình đã giảm đi nhờ áp dụng công nghệ mới. Đừng tưởng bở dùng máy hết khấu hao là ăn không!
Dĩ nhiên trong các trường hợp cá biệt, khi có công nghệ mới, độc quyền, thì người chủ hoặc giảm được giá thành, hoặc bán được hàng cao hơn giá trị trung bình, thu được lợi nhuận siêu ngạch cao hơn tỷ suất lợi nhuận chung, nhờ đó mau chóng thu hồi vốn đầu tư. Nhưng đó hoàn toàn không phải là máy móc tạo ra giá trị như Hà Sĩ Phu lầm tưởng, bởi chỉ cần những người khác cũng áp dụng công nghệ mới là lợi nhuận siêu ngạch đi tong. A. Smith đã viết rồi, chứ chẳng cần chờ đến Marx. Và Marx cũng đã phân tích điều này hết sức tỷ mỷ trong Tư bản, xin mời Hà Sĩ Phu chịu khó xem lại.
(Nhân tiện, về chuyện khấu hao máy móc, ở Việt Nam người ta rất hay đưa ra 2 điều trái ngược hẳn nhau để lý giải cùng 1 hiện tượng là hàng nội địa có giá thành cao hơn hàng nước ngoài:
Lý do thứ nhất là máy móc của ta quá lạc hậu, đã dùng hàng chục năm, còn nước ngoài thì hiện đại.
Lý do thứ hai là máy móc của ta mới mua, trong khi máy của nước ngoài thì đã hết khấu hao từ lâu!)
Hà Sĩ Phu còn phát hiện ra: khi tính tiền công mà nhà tư bản phải trả cho công nhân, Mác đã không tính đến cái giá mà người công nhân phải trả cho nhà tư bản vì điều này: năng lực lao động sẽ không là cái gì hết, nếu không bán được nó.
Hà Sĩ Phu chắc chắn là người bảo vệ nhiệt thành nhất cho tư bản!
Dĩ nhiên Marx biết thừa năng lực lao động sẽ không là cái gì hết nếu không bán được. Nhưng khi phân tích, ở cấp độ trừu tượng, Marx giả định là nhà tư bản và người công nhân mua bán sức lao động (nói đúng hơn là quyền chỉ huy sức lao động) theo đúng giá trị trao đổi của sức lao động, rất sòng phẳng, có hợp đồng đàng hoàng. Hai người đối lập nhau với tư cách ngang nhau: người mua và người bán. Người này không việc gì phải trả thêm cho người kia chỉ vì người kia chịu mua (hoặc bán) cho mình. Chỉ sau đó, khi nghiên cứu tiền công dưới hình thái hiện thực của nó, Marx mới chỉ rõ rằng tiền công phụ thuộc vào cuộc đấu tranh quyết liệt, dai dẳng giữa lao động và tư bản. Nói chung, như Marx viết ngay từ năm 1844, trong cuộc đấu tranh đó tư bản luôn chiếm thượng phong. Nhà tư bản không có công nhân, có thể sống lâu hơn người công nhân không có nhà tư bản. Nếu công nhân bị thua thiệt, thì đó là vì địa vị kinh tế của họ kém hơn tư bản nên phải bán sức lao động rẻ hơn giá trị, nhưng điều đó không có nghĩa công nhân phải đương nhiên nộp cống cho nhà tư bản như Hà Sĩ Phu nói! Giai cấp lao động không được buông xuôi, mà cần kết thành một khối và có hành động chính trị chung trong cuộc đấu tranh đó.
Thực ra, những ai đã đọc Tư bản đều biết rằng tất cả những điều Hà Sĩ Phu viết và tưởng là hết sức mới mẻ, sáng tạo, té ra đã có tuổi đời chừng… hai trăm năm, từng được Marx liệt vào loại “kinh tế học tầm thường” (để phân biệt với kinh tế học thực thụ của A. Smith, D. Ricardo…). Chúng cho thấy hai khả năng:
a. Hoặc là Hà Sĩ Phu chưa từng đọc bộ Tư bản và các nghiên cứu kinh tế khác của Marx, và kiến thức có được chỉ là nhờ thu lượm một cách hết sức hời hợt từ mấy cuốn giáo trình kinh tế chính trị, vốn cũng đã rất sơ sài rồi.
b. Hoặc là có đọc Marx nhưng vì IQ hơi bị thấp nên ngay cả những điều Marx viết rất rõ ràng cũng không hiểu, không thấy.
Vì Hà Sĩ Phu luôn tự nhận mình là trí thức, rất thích nói về trí tuệ, nên ta bỏ qua phương án 2. Nhưng kiểu gì thì người đọc cũng phải kính phục sự liều lĩnh của Hà Sĩ Phu khi phát biểu văng mạng như thế.
5. Trong “Chia tay ý thức hệ”, phong cách phê phán à la Hà Sĩ Phu như thế này:
Hỏi: Tại sao nói chủ nghĩa duy vật lịch sử mang tính duy tâm và siêu hình?
Đáp: Nói cách khác: chủ nghĩa duy vật lịch sử Mácxít đã chống lại tinh thần duy vật biện chứng, Cái nhìn của chủ nghĩa duy vật lịch sử Mácxít đối với con người và xã hội luôn cắt rời, cực đoan và phiến diện. Ví dụ:
"Con người" có thuộc tính cá nhân và thuộc tính xã hội thì về lý luận Mác-Lê để cho "con người xã hội" nuốt chửng mất "con người cá nhân".#
Đảng Cộng sản, cũng như “con người”, đều có mặt phải mặt trái, mặt thiện mặt ác, thì Mác-Lê chỉ thấy mặt thiện. Trong khi đó xã hội "tư bản" cũng có hai mặt thì Mác-Lê chỉ thấy mặt ác, mặt trái của nó.
Nhà nước bao giờ cũng có hai mặt công ích và tư lợi, nhưng Mác-Lê chỉ nhìn thấy bản chất tư lợi xấu của Nhà nước nên phấn đấu làm tiêu vong Nhà nước, kết quả là cái Nhà nước quá độ mà các ông tạo ra lại quá nhiều tính tư lợi mà không ai làm tiêu vong nó được
Sở hữu tư nhân hay sở hữu tập thể đều có hai mặt tích cực và tiêu cực, nhưng Mác Lê chỉ nhìn thấy mặt tiêu cực của tư hữu và chỉ nhìn thấy mặt tích cực của công hữu, nên phá tư hữu, lập công hữu.
Sự "chiếm hữu" trong xã hội như cái sào huyệt mafia gồm hai buồng: chiếm hữu tư liệu sản xuất và chiếm hữu quyền lực. Nhưng Mác Lê chỉ nhìn thấy một kẻ thù là chiếm hữu tư liệu sản xuất , bèn nống cái quyền lực lên để dùng nó diệt cái chiếm hữu tư liệu sản xuất. Ai ngờ cái chiếm hữu quyền lực còn tai ác gấp vạn lần.
Vấn đề "giá trị thặng dư" cũng vậy. Cũng có 2 mặt: phát triển kinh tế và tạo nguy cơ mất công bằng. Nhưng Mác-Lê chỉ nhìn thấy mặt "bóc lột" của giá trị thặng dư mà không thấy mặt tích cực và hợp lý của nó.
Vân vân…
Chẳng cần giải thích duy vật lịch sử là gì, cứ khơi khơi như thế thôi, không cần dẫn chứng, phân tích dài dòng gì hết, vậy là đánh đổ Marx. Nếu tin lời Hà Sĩ Phu thì Marx đúng là người cực kỳ phiến diện, thiển cận, đến độ cái gì cũng chỉ thấy một mặt!
Trong bài “Tư tưởng và dân trí…” Hà Sĩ Phu tiếp tục phong cách đó.
“Chủ nghĩa ấy chẳng qua là một quy trình thiết kế, áp đặt và điều khiển xã hội, coi xã hội loài người sinh động cũng chỉ như một cỗ máy công nghiệp để mình vận hành. Người điều hành cứ bấm đốt ngón tay, xem “kế hoạch 5 năm” lần thứ nhất thì làm gì, lần thứ hai thì làm gì, sau mấy “kế hoạch 5 năm” thì vào chủ nghĩa cộng sản… Ý muốn điều khiển xã hội răm rắp như điều khiển một cỗ máy chẳng qua là một thứ bệnh công nghiệp, một thứ mốt công nghiệp, một bệnh ấu trĩ xuất hiện thuở cách mạng công nghiệp đang bắt đầu thịnh hành (cái ấu trĩ bao giờ cũng cực đoan!). Chủ nghĩa kỹ trị cực đoan đã hoá thân nhuần nhuyễn thành triết học và đạo đức, đó chính là thực chất của chủ nghĩa Mác về xây dựng và điều khiển xã hội.”
Không có một dẫn chứng nào hết để người đọc tin rằng Marx đúng là một designer suốt đời cặm cụi thiết kế cỗ máy xã hội tương lai!
Phong cách phê bình này thấy rất quen thì phải!
Có cần chỉ cho Hà Sĩ Phu thấy rằng Marx và Engels chúa ghét cái trò ngồi vẽ ra các mô hình chi tiết xã hội tương lai không? Có cần nhắc lại lời của Engels rằng người ta đã trách móc hai ông chỉ biết chăm chăm mổ xẻ cái xã hội hiện tồn mà không dọn ra cái thực đơn cho bàn ăn tương lai không? Có cần nhắc lại rằng Marx là người mà phép biện chứng và duy vật đã ngấm vào xương tuỷ, thể hiện trên từng trang viết, trong từng hành động không? Rằng Marx đã đưa ra hàng núi tài liệu, sự kiện trong mọi lĩnh vực, để củng cố cho quan điểm của mình không?
Không, chắc là không, vì Hà Sĩ Phu đã nói là không nên mất thời giờ cho những kiến thức tầm abc như thế!
6. Hà Sĩ Phu chê Marx siêu hình, phiến diện khi nghiên cứu xã hội. Chắc Hà Sĩ Phu không biết rằng nếu Tôn Ngộ Không có cặp mắt lửa con người vàng, có thể nhìn thấy yêu quái dưới mọi lốt, thì Marx có cặp mắt biện chứng, nhìn đâu cũng thấy ma. Marx rất khoái nghiên cứu ma.
Marx không nghiên cứu vật, mà nghiên cứu sự vận động của các quan hệ nội tại của nó. Nhìn vào bất kỳ một vật, một hiện tượng nào, Marx cũng thấy vô số con ma trong đó – chính là những quan hệ nội tại kia. Chúng vô hình với mắt người thường, nên đích thị là ma. Lũ ma này toàn cặp đôi với nhau, thường một ma nam một ma nữ. Chúng chí chóe với nhau suốt, nhưng rồi vẫn cứ cặp kè, thế mới quái.
Chẳng hạn, khi nhìn một hàng hoá, người bình thường thấy gì? Chẳng thấy gì hơn ngoài một sản phẩm của lao động, có hình dáng, tính năng, giá cả nào đó, chấm hết. Còn Marx thấy gì?
Marx thấy một lũ ma, cặp kè từng đôi:
Ma giá trị cặp bồ với ma giá trị sử dụng. Nhìn kỹ hơn, Marx phát hiện ra cặp ma này thực ra chỉ là cái lốt, che giấu hai con ma khác: ma lao động trừu tượng và ma lao động cụ thể. Lại có hai con ma khác lởn vởn xung quanh: ma lao động giản đơn và lao động phức tạp.
Con ma giá trị té ra rất quái. Nó lắc mình một cái, biến thành con ma giá trị trao đổi. Lắc mình cái nữa, biến thành ma giá cả, khoác cái áo may bằng tiền trông rất mốt.
Nhìn kỹ hơn nữa, Marx lại thấy trong lòng con ma giá trị kia có mấy cặp ma khác đang thậm thà thậm thụt. Đó là ma hình thái tương đối của giá trị đang ôm eo ma hình thái ngang giá. Một cặp khác là ma tư bản khả biến và tư bản bất biến đang hôn hôn hít hít, ui chao, không phải hôn, mà là tư bản bất biến đang hút máu tư bản khả biến, kinh quá! Một cặp nữa là tư bản cố định và tư bản lưu động đang vật tay xem thằng nào khỏe hơn (hai ma này té ra là gay, nhưng rất chịu khó tập thể hình).
Lại có một con ma giá trị thặng dư thập thò trong lòng con ma giá trị. Nheo mắt lại, Marx nhìn thấy trong con ma giá trị thặng dư này một cặp khác, là ma lợi nhuận và ma lợi tức, hai ma này đánh nhau túi bụi để giành nhau chỗ rộng hơn trong lòng con ma giá trị thặng dư kia.
Lũ ma này rất hiếu động, nghịch tinh nghịch quái, chạy loạn hết cả lên, nhìn hoa cả mắt. Marx thò tay túm một cặp ra, cho vào dưới kính hiển vi, soi soi xét xét. Soi chán thì thả chúng ra, tóm một cặp khác. Thỉnh thoảng Marx lại niệm thần chú cho tất cả lờ đờ như quay chậm, để nhìn cho rõ bức tranh toàn cục...
Phương pháp biện chứng của Marx là thế đấy. Nếu Marx phiến diện như Hà Sĩ Phu nói, thì bộ Tư bản chỉ dày độ chục trang chứ mấy!
7. Khi Marx trả lời con gái: Không có gì thuộc về con người mà xa lạ với cha cả - là Marx muốn nói ông không phải thần thánh sống trên mây, mà chỉ là một con người sống trên mặt đất như mọi người khác. Hà Sĩ Phu lại mỉa mai rằng Marx nói “biết hết mọi thứ về con người” nhưng thực ra chả hiểu kỹ con người lắm đâu, nhất là cái mặt bất thiện ấy!
Khi Hà Sĩ Phu cười nhạo tuyên bố của Lênin: “Dân chủ vô sản dân chủ gấp triệu lần dân chủ tư sản”, vị tất ông đã hiểu được ý nghĩa sâu xa của phạm trù dân chủ trong học thuyết Marx. Vị tất ông đã hiểu vì sao khi nói về dân chủ, Lênin không dùng các định nghĩa hời hợt thường thấy, vốn chỉ dựa trên biểu hiện bề ngoài của phạm trù dân chủ, kiểu như: dân chủ là chế độ trong đó người dân được quyền trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia điều hành đất nước, hay: dân chủ là để cho dân được mở miệng nói…, mà nhấn mạnh: dân chủ là một hình thái nhà nước đặc thù, xuất hiện trong những điều kiện nhất định. Chính là Lênin muốn đi sâu vào cái bản chất, cái tính quy định lịch sử của phạm trù dân chủ, như Trần Hải Hạc đã phân tích rất sâu sắc cũng trong bài viết nói trên. Hà Sĩ Phu chỉ định dựa vào hiện thực ở các nước mang danh XHCN để cười nhạo Lênin sao? Cái cười nhạo đó bất quá chỉ là cái cười của kẻ “hạ sĩ văn đạo, đại tiếu chi” (hạng tầm thường nghe đạo thì cười hô hố). Cười hô hố là phải thôi, vì: “Bất tiếu, bất túc dĩ vi đạo” (không cười hô hố, sao gọi là đạo. Đạo đâu có dễ hiểu thế!) (Lão tử, Đạo đức kinh).
8. Theo thông tin mới nhất, nhiều khả năng cái gọi là chủ nghĩa Mác-Lênin mà Hà Sĩ Phu ra sức đấm đá đó, chỉ là sản phẩm của “trí tuệ” của chính Hà Sĩ Phu. Nghĩa là ông đấm đá chính bản thân mình.
Thiển nghĩ, Hà Sĩ Phu đã nhầm khi hạ thấp việc phê phán chủ nghĩa Marx, vốn đòi hỏi bản lĩnh cực kỳ cao cường, xuống ngang tầm với việc chỉ trích chế độ, vốn là một việc tương đối dễ dàng vì đối tượng phê phán không có gì cao siêu. Hà Sĩ Phu tưởng rằng kiến thức abc của mình về học thuyết Marx cũng chính là học thuyết Marx, thế mới chết!
Khi phê phán Dühring, Engels từng phải thốt lên: Nếu Hegel không chết từ lâu rồi thì Hegel sẽ tự treo cổ mà chết! Ở đây cũng thế: Nếu Marx chưa chết thì nhất định cũng tự cắn lưỡi mà chết!
Nếu Hà Sĩ Phu muốn phê phán hay tranh luận về Marx, thì trước hết xin ông hãy đi đọc Marx cái đã, rồi sẽ nói chuyện sau!
9. Đoạn kết
Nếu chỉ bằng vào những kiến thức nông cạn, những lý lẽ hời hợt mà có thể đánh đổ được học thuyết của Marx một cách dễ dàng đến thế, thì học thuyết Marx lẽ ra phải chết từ khi vừa ra đời mới phải. Phải thế nào thì cụ Marx mới sống dai thế chứ (lâu lâu lại có một chú nhảy ra đòi chôn Marx, như nhà nghiên cứu Phan Huy Đường nhận xét). Phải thế nào thì thính giả đài BBC mới chọn Marx là triết gia vĩ đại nhất của mọi dân tộc trong mọi thời đại chứ, khiến anh chàng Simon Montefiore tức điên lên viết bài “Quái vật mang tên Karl Marx” – một bài rất vớ vẩn. Phải thế nào thì Marx mới hấp dẫn được hàng trăm triệu con người trên khắp thế giới từ cả trăm năm qua, khiến cho anh Đỗ Kh. rất lấy làm ngạc nhiên chứ!
Những người mới chỉ hiểu một cách hết sức lơ mơ, sai lạc về học thuyết Marx, thậm chí chưa từng biết bộ Tư bản dày mỏng ra sao, nhưng lại rất tự tin phê phán Marx, thì phần lớn lý lẽ của họ dựa trên những ngộ nhận mà nhiều người đã chỉ ra, tiêu biểu như bài viết của Nguyễn Hoài Vân: “Những ngộ nhận về học thuyết Marx” – một bài viết rất hay. Đọc bài đó, có lẽ những ai đang có ý định phê phán Marx sẽ nghĩ lại chăng!
Nhưng nói gì thì nói, không thể tiếp tục tình trạng dạy và học chủ nghĩa Marx một cách tràn lan như hiện nay được nữa!
Dịch không chỉ là Phản - Trần Thiện-Đạo
THỤY KHUÊ thực hiện
Trần Thiện-Đạo
Dịch không chỉ là Phản
Tình trạng dịch thuật hiện nay ở Việt Nam đang ở mức cần phải báo động. Radio RFI đã dành nhiều chương trình cho những buổi nói chuyện với nhiều dịch giả trong và ngoài nước về vấn đề này. Sau Hoàng Hưng, Phạm Xuân Nguyên là những nhận định có phần nghiêm khắc của dịch giả Trần Thiện-Đạo đã sống ở Paris trên nửa thế kỷ. Trước 30-04-1975, Trần Thiện-Đạo cộng tác với các báoVăn, Tân Văn, Bách Khoa, Nghệ thuật... ở Sàigòn và hiện nay vẫn thường xuyên gửi bài in trên các sách báo văn học trong-ngoài nước. Ý kiến của Trần Thiện-Đạo sẽ như một liều thuốc đắng, may ra giã được một số tật cố hữu trong địa hạt dịch thuật của Việt Nam.
Thụy Khuê: Thưa anh Trần Thiện Đạo, anh là một dịch giả sống tại Pháp và hay đi về Việt Nam, nhận xét đầu tiên của anh về tình trạng dịch thuật hiện nay ở trong nước như thế nào?
Trần Thiện-Đạo: Vào khoảng cuối năm ngoái, vừa bước xuống sân bay Nội bài, nghe tin Hội Nhà Văn Hà Nội đã chánh thức công bố giải thưởng hằng năm của mình, tôi liền lật báo xem coi các tác phẩm được vinh danh kì này mặt mũi ra sao. Đọc tới chỗ ghi giải gọi là văn học dịch, tôi đột nhiên lấy làm sửng sốt cực cùng. Ngẩn người, vì không dè được rằng người ta lại có thể trao giải cho một bản dịch, xin Thụy Khuê nghe cho thật kĩ giùm, tôi không dè người ta lại có thể choàng hoa cho cứ gọi là một dịch...phẩm thực hiện không dựa trên nguyên bản tiếng gốc, mà thông qua một bản dịch ngoại ngữ khác. Xin nhắc lại cho rõ thêm: không dựa trên nguyên bản tiếng gốc, mà thông qua một bản dịch ngoại ngữ khác.
Tôi không biết ban giám khảo đã hội í như thế nào trước khi lấy quyết định đó. Nhưng dầu gì chăng nữa, thì nó cũng xuất hiện như một việc làm tuỳ tiện, trái lẽ, gượng ép - hoặc là vì ban giám khảo đã cạn suy (ai đời lại trao giải dịch thuật cho một bản dịch-dịch-từ một bản dịch), hoặc là, tệ hơn nữa, nói thế nào nhỉ..., hoặc là để bốc bạn bè với nhau - điều này cũng thường xảy ra ở nhiều địa hạt khác.
TK: Về việc này thì phản ứng báo chí và dư luận văn học bên nhà thế nào, thưa anh?
TTĐ: Trên báo chí tôi không đọc thấy có một phản ứng nhỏ nhặt nào, và trong những lần giao lưu với các nhà phê bình và dịch giả quen biết, thừa dịp nhắc tới sự thể nói trên, tôi cũng không hề nghe thấy họ dấy lên một lời phản đối nào. Vểnh tai nghe ngóng, thì chỉ phong thanh đâu đó cóù đôi lời than phiền, xin mở dấu ngoặc, «hơi tiếc là không dịch qua nguyên bản nên thiệt thòi phần nào», tôi nhắc đúng theo nguyên văn. Chỉ nói phớt qua vậy thôi, chớ không trực diện động tới cái nguyên tắc cơ bản mà Hội Nhà Văn Hà Nội đã làm ngơ, để tặng giải.
Thể như có một sự toa rập ngấm ngầm bắt buộc nào giữa họ với nhau trong bầu khí văn học và dịch thuật hiện hành: người ta có thể đấu đá về những chuyẹân đâu đâu, nhỏ nhặt, nhỏ nhen, miễn là đừng đụng tới những điều cốt yếu, đừng đụng tới mấy thần tượng giả tạo. Hoặc là ai nấy thảy đều coi đó là chuyện thường nhựt xảy ra hằng bữa, hơi sức đâu mà để í, mà bực dọc làm chi cho mệt thân, cho rối trí. Thật là đáng buồn biết bao.
TK: Anh dùng những chữ "toa rập ngấm ngầm" có nặng quá không?
TTĐ: Thụy Khuê xem chừng ngạc nhiên nghe tôi thốt lên mấy lời toa rậïp ngấm ngầm đó sao? Có gì phải ngạc nhiên đâu, nếu như Thụy Khuê nhớ rằng rất nhiều sách dịch in ra mấy năm trở lại đây đã được hay bị thực hiện không dựa trên nguyên bản tiếng gốc, mà lại thông qua một bản dịch ngoại ngữ khác. Về điểm này, phải nói rằng dịch giả tác phẩm trúng giải vừa rồi đã tỏ ra hết sức chơn thật: ông có chua rõ ràng xuất xứ nguyên bản không phải là tiếng gốc qua đó ông đã thực hiện công trình của mình.
Vậy mà cái tinh thần lương thiện tối thiểu này cũng không được nhiều dịch giả thường xuyên tôn trọng. Sơ suất chăng? hay để đánh lận con đen? Lấy thí dụ tuyển tập nhà văn Tiệp viết tiếng Đức nọ mới vừa phát hành, Thụy Khuê cứ nhẩm đếm thử coi: trong số 17 nhan sách in ra, có tới những 12 tác phẩm độc giả không biết đã được dịch dựa trên nguyên bản nào, qua thứ ngôn ngữ nào, chỉ 5 tác phẩm còn lại mới có chua xuất xứ rành rọt các nguyên bản nhiều thứ tiếng... không phải là tiếng gốc. Đã như vậy, thì tất nhiên là khó bề tự mình lên tiếng phản đối việc choàng hoa một bản dịch thuộc loại trúng giải nói trên. Người ta thường nói dịch là phản. Tôi muốn nhấn mạnh thêm nữa, đã nhiều dịp, trên báo chí ở Sài gòn trước 1975 và ở Hà nội sau này, chứng minh rằng nhiều khi dịch không chỉ là phản, mà còn là diệt nữa. Vậy thì dịch qua một bản dịch rất có cơ phản và diệt gấp bội, ít nhứt là hai lần.
TK: Xin anh một vài thí dụ về những bất cập của việc dịch không trực tiếp từ bản gốc.
TTĐ: Tôi xin đơn cử mỗi một thí dụ điển hình, dính tới một dịch giả đã qua đời, là Nguyễn Giang, để khỏi phải nêu ra nhiều trường hợp tương tợ đã có dịp xét thấy gần đây. Ông chuyên dịch kịch W. Shakespeare, đã cho xuất bản các vở Hâm-liệt, Mặc-biệt, Giấc mộng đêm hè, thời trước thế chiến thứ II.
Trong vở kịch nổi tiếng Hamlet, có câu đối thoại này:There’s fennel for you, and columbines (...), nghĩa là: Bẹ hồi hương đây, xin dâng hoàng tử, cùng với bó hoa lâu đẩu này (...). Hồi hương và lâu đẩu là hai thứ hoa lá tượng trưng nỗi sầu mung lung, buồn phận éo le, vốn là tâm trạng của nhơn vật Ophelia khi nàng thốt lên như vậy với hoàng tử Laertes. Vậy mà Nguyễn Giang đã chuyển câu đó như vầy: Này đây là nhánh thì là cho cậu, với nắm phân chim (...).(Thạch-sĩ-bia, Hâm-liệt, Nguyễn-Giang Editeur, Hà Nội, 1938, tr. 166). Từ thứ bông gọi là columbine đi tới chỗ biến thành nắm phân chim dưới ngòi viết của Nguyễn Giang quả có một khoảng cách rộng hoác. Có điều là dịch như vậy xét ra cũng không sai, mà cũng không đúng. Thụy Khuê thấy có kì không? Thì ra Nguyễn Giang không dựa trên nguyên bản tiếng Anh, mà đã dịch qua một bản tiếng Pháp tầm bậy nào (ông không có chua rõ xuất xứ), cho nên tôi phải đoán chừng là dịch giả Pháp nọ đã sớn sơ sớn sác và chắc cũng vì dốt nên mới chuyển chữ columbine của tiếng Anh thành colombine của tiếng Pháp – về từ dạng, phải nói rằng hai chữ đó gần như giống hệt với nhau. Mà tiếng Pháp colombine quả thật có nghĩa là cứt bồ câu. Thành ra, nếu chúng ta có í trách dịch giả ở chỗ nào chăng, chính là ở chỗ ông đã tỏ ra không mấy tinh tường, bởi vì thật tình mà nói, thì nắm phân chim không ăn nhập chút nào với văn cảnh. Mới hay dịch không chỉ là phản mà thôi, nhứt là khi nó lại thông qua một bản dịch tồi, như trong trường hợp vừa nhắc tới trên.
TK: Anh là một dịch giả nổi tiếng là khó, khóù với mình và khó với người. Chỉ cần đọc một vài bài phê bình dịch thuật của anh trước đây in trên báo chí ở Sàigòn, và gần đây, trên mạng lưới điện tử làø cũng thấy rõ cái nghiêm ngặt của anh. Thưa anh, tại sao việc dịch cần phải đòi hỏi một kỷ luật nghiêm ngặt như vậy? Và những đức tính đầu tiên của một dịch giả chân chính là gì?
TTĐ: Như Thụy Khuê thấy đó, bắt tay vào việc dịch văn tức là đã tự nguyện dõi theo một con đường rất mực gập gành khó bước, lắm sình lầy, đầy gai góc, nhiều cạm bẫy. Chỉ cần thiếu một chút vốn liếng ngoại ngữ và quốc ngữ, có một trình độ văn hóa nghèo nàn và hiểu biết nông cạn, cộng thêm một tinh thần thận trọng hạn chế, cùng với một thái độ miệt thị độc giả và khinh rẻ giới phê bình, cầm bằng rằng họ thảy đều thấp kém hơn ta - thì cứ i như là dịch giả phải sa lầy, mắc bẫy, sướt mình. Lại nữa, người dịch còn phải biết tỏ ra hết sức khiêm tốn. Khiêm tốn từ đầu cho tới cuối, bởi vì dịch giả chơn chánh là kẻ lúc nào cũng phải cố công đạt tới mức nhuần nhuyễn, nhuần nhuyễn ở chỗ xóa tiệt được bóng dáng của mình không cho nó lấp ló giữa những dòng chữ hay cạnh mé câu văn. Nói cách khác, nếu như bản văn dịch có mang dấu ấn nào chăng, thì nhứt định đó phải là dấu ấn của tác giả, chớ không là của người dịch. Ai đó, nhà văn Gabriel García Márquez thì phải, có lần đã đồng hóa dịch giả với loài khỉ, biết nhái i hệt mọi cử động đối tượng của mình.
Bấy nhiêu đòi hỏi đè nặng trên vai như vậy, nên chi có rất nhiều người dịch vì cớ này cớ nọ đã chẳng ngại dịch liều, dịch ẩu, dịch lấy có.... Khiến cho người đọc cứ bị hoa mắt trước mớ sách dịch cẩu thả và kém cỏi, nhan nhản trước kia ở Sài gòn và sau này ở Hà nội và trong cả nước. Một tình trạng mà những ai quan tâm tới văn học nói chung và văn học dịch nói riêng, nghĩa là văn học thế giới, thảy đều lấy làm buồn và e ngại cho tiến trình hội nhập vào cộng đồng văn hóa thế giới.
TK: Cuối cùng thì: "vì đâu mà nên nỗi", tức là kết quả tình trạng dịch hiện nay ởû Việt nam là do lỗi ở ai?
TTĐ: Suy cho cùng, thì chúng ta không có quyền đổ lỗi một mình cho hạng dịch giả thấp kém và bất cẩn mà thôi. Vì sao ư ? Vì rằng chúng ta, chị và tôi, tôi và anh, thảy đều gánh một phần trách nhiệm không nhỏ trong việc dẫn tới tình trạng đáng buồn này. Chúng ta đã không biết tự mình nhận lãnh và làm tròn cái sứ mạng đương nhiên của nhà phê bình chơn chánh, chúng ta tránh đụng chạm, chúng ta sợ nói thẳng, chúng ta chỉ biết bốc chớ không dám chê nhứt là khi bàn tới bạn bè.
Giá như chúng ta không thờ ơ, giá như chúng ta không giả dối, giá như chúng ta không sợ vạ lây, giá như chúng ta không phản bội sứ mạng đích thật của nhà phê bình chơn chánh, giá như chúng ta thật tình nuôi chí hướng dẫn ngưới đọc, giá như chúng ta ngay thẳng bình phẩm một cách đứng đắn, nghiêm túc, chánh xác... Bởi vì giá như chúng ta thường xuyên làm tròn sứ mạng của phê bình, thì, nói riêng về mảng dịch thuật, chắc đã không thể có mặt trên thị trường chữ nghĩa xứ này loại sách dịch tầm phào và sai bét, để khỏi còn dịp than phiền như hiện nay.
TK: Xin cảm ơn dịch giả Trần Thiện-Đạo.
THỤY KHUÊ thực hiện
Trần Thiện-Đạo
Dịch không chỉ là Phản
Tình trạng dịch thuật hiện nay ở Việt Nam đang ở mức cần phải báo động. Radio RFI đã dành nhiều chương trình cho những buổi nói chuyện với nhiều dịch giả trong và ngoài nước về vấn đề này. Sau Hoàng Hưng, Phạm Xuân Nguyên là những nhận định có phần nghiêm khắc của dịch giả Trần Thiện-Đạo đã sống ở Paris trên nửa thế kỷ. Trước 30-04-1975, Trần Thiện-Đạo cộng tác với các báoVăn, Tân Văn, Bách Khoa, Nghệ thuật... ở Sàigòn và hiện nay vẫn thường xuyên gửi bài in trên các sách báo văn học trong-ngoài nước. Ý kiến của Trần Thiện-Đạo sẽ như một liều thuốc đắng, may ra giã được một số tật cố hữu trong địa hạt dịch thuật của Việt Nam.
Thụy Khuê: Thưa anh Trần Thiện Đạo, anh là một dịch giả sống tại Pháp và hay đi về Việt Nam, nhận xét đầu tiên của anh về tình trạng dịch thuật hiện nay ở trong nước như thế nào?
Trần Thiện-Đạo: Vào khoảng cuối năm ngoái, vừa bước xuống sân bay Nội bài, nghe tin Hội Nhà Văn Hà Nội đã chánh thức công bố giải thưởng hằng năm của mình, tôi liền lật báo xem coi các tác phẩm được vinh danh kì này mặt mũi ra sao. Đọc tới chỗ ghi giải gọi là văn học dịch, tôi đột nhiên lấy làm sửng sốt cực cùng. Ngẩn người, vì không dè được rằng người ta lại có thể trao giải cho một bản dịch, xin Thụy Khuê nghe cho thật kĩ giùm, tôi không dè người ta lại có thể choàng hoa cho cứ gọi là một dịch...phẩm thực hiện không dựa trên nguyên bản tiếng gốc, mà thông qua một bản dịch ngoại ngữ khác. Xin nhắc lại cho rõ thêm: không dựa trên nguyên bản tiếng gốc, mà thông qua một bản dịch ngoại ngữ khác.
Tôi không biết ban giám khảo đã hội í như thế nào trước khi lấy quyết định đó. Nhưng dầu gì chăng nữa, thì nó cũng xuất hiện như một việc làm tuỳ tiện, trái lẽ, gượng ép - hoặc là vì ban giám khảo đã cạn suy (ai đời lại trao giải dịch thuật cho một bản dịch-dịch-từ một bản dịch), hoặc là, tệ hơn nữa, nói thế nào nhỉ..., hoặc là để bốc bạn bè với nhau - điều này cũng thường xảy ra ở nhiều địa hạt khác.
TK: Về việc này thì phản ứng báo chí và dư luận văn học bên nhà thế nào, thưa anh?
TTĐ: Trên báo chí tôi không đọc thấy có một phản ứng nhỏ nhặt nào, và trong những lần giao lưu với các nhà phê bình và dịch giả quen biết, thừa dịp nhắc tới sự thể nói trên, tôi cũng không hề nghe thấy họ dấy lên một lời phản đối nào. Vểnh tai nghe ngóng, thì chỉ phong thanh đâu đó cóù đôi lời than phiền, xin mở dấu ngoặc, «hơi tiếc là không dịch qua nguyên bản nên thiệt thòi phần nào», tôi nhắc đúng theo nguyên văn. Chỉ nói phớt qua vậy thôi, chớ không trực diện động tới cái nguyên tắc cơ bản mà Hội Nhà Văn Hà Nội đã làm ngơ, để tặng giải.
Thể như có một sự toa rập ngấm ngầm bắt buộc nào giữa họ với nhau trong bầu khí văn học và dịch thuật hiện hành: người ta có thể đấu đá về những chuyẹân đâu đâu, nhỏ nhặt, nhỏ nhen, miễn là đừng đụng tới những điều cốt yếu, đừng đụng tới mấy thần tượng giả tạo. Hoặc là ai nấy thảy đều coi đó là chuyện thường nhựt xảy ra hằng bữa, hơi sức đâu mà để í, mà bực dọc làm chi cho mệt thân, cho rối trí. Thật là đáng buồn biết bao.
TK: Anh dùng những chữ "toa rập ngấm ngầm" có nặng quá không?
TTĐ: Thụy Khuê xem chừng ngạc nhiên nghe tôi thốt lên mấy lời toa rậïp ngấm ngầm đó sao? Có gì phải ngạc nhiên đâu, nếu như Thụy Khuê nhớ rằng rất nhiều sách dịch in ra mấy năm trở lại đây đã được hay bị thực hiện không dựa trên nguyên bản tiếng gốc, mà lại thông qua một bản dịch ngoại ngữ khác. Về điểm này, phải nói rằng dịch giả tác phẩm trúng giải vừa rồi đã tỏ ra hết sức chơn thật: ông có chua rõ ràng xuất xứ nguyên bản không phải là tiếng gốc qua đó ông đã thực hiện công trình của mình.
Vậy mà cái tinh thần lương thiện tối thiểu này cũng không được nhiều dịch giả thường xuyên tôn trọng. Sơ suất chăng? hay để đánh lận con đen? Lấy thí dụ tuyển tập nhà văn Tiệp viết tiếng Đức nọ mới vừa phát hành, Thụy Khuê cứ nhẩm đếm thử coi: trong số 17 nhan sách in ra, có tới những 12 tác phẩm độc giả không biết đã được dịch dựa trên nguyên bản nào, qua thứ ngôn ngữ nào, chỉ 5 tác phẩm còn lại mới có chua xuất xứ rành rọt các nguyên bản nhiều thứ tiếng... không phải là tiếng gốc. Đã như vậy, thì tất nhiên là khó bề tự mình lên tiếng phản đối việc choàng hoa một bản dịch thuộc loại trúng giải nói trên. Người ta thường nói dịch là phản. Tôi muốn nhấn mạnh thêm nữa, đã nhiều dịp, trên báo chí ở Sài gòn trước 1975 và ở Hà nội sau này, chứng minh rằng nhiều khi dịch không chỉ là phản, mà còn là diệt nữa. Vậy thì dịch qua một bản dịch rất có cơ phản và diệt gấp bội, ít nhứt là hai lần.
TK: Xin anh một vài thí dụ về những bất cập của việc dịch không trực tiếp từ bản gốc.
TTĐ: Tôi xin đơn cử mỗi một thí dụ điển hình, dính tới một dịch giả đã qua đời, là Nguyễn Giang, để khỏi phải nêu ra nhiều trường hợp tương tợ đã có dịp xét thấy gần đây. Ông chuyên dịch kịch W. Shakespeare, đã cho xuất bản các vở Hâm-liệt, Mặc-biệt, Giấc mộng đêm hè, thời trước thế chiến thứ II.
Trong vở kịch nổi tiếng Hamlet, có câu đối thoại này:There’s fennel for you, and columbines (...), nghĩa là: Bẹ hồi hương đây, xin dâng hoàng tử, cùng với bó hoa lâu đẩu này (...). Hồi hương và lâu đẩu là hai thứ hoa lá tượng trưng nỗi sầu mung lung, buồn phận éo le, vốn là tâm trạng của nhơn vật Ophelia khi nàng thốt lên như vậy với hoàng tử Laertes. Vậy mà Nguyễn Giang đã chuyển câu đó như vầy: Này đây là nhánh thì là cho cậu, với nắm phân chim (...).(Thạch-sĩ-bia, Hâm-liệt, Nguyễn-Giang Editeur, Hà Nội, 1938, tr. 166). Từ thứ bông gọi là columbine đi tới chỗ biến thành nắm phân chim dưới ngòi viết của Nguyễn Giang quả có một khoảng cách rộng hoác. Có điều là dịch như vậy xét ra cũng không sai, mà cũng không đúng. Thụy Khuê thấy có kì không? Thì ra Nguyễn Giang không dựa trên nguyên bản tiếng Anh, mà đã dịch qua một bản tiếng Pháp tầm bậy nào (ông không có chua rõ xuất xứ), cho nên tôi phải đoán chừng là dịch giả Pháp nọ đã sớn sơ sớn sác và chắc cũng vì dốt nên mới chuyển chữ columbine của tiếng Anh thành colombine của tiếng Pháp – về từ dạng, phải nói rằng hai chữ đó gần như giống hệt với nhau. Mà tiếng Pháp colombine quả thật có nghĩa là cứt bồ câu. Thành ra, nếu chúng ta có í trách dịch giả ở chỗ nào chăng, chính là ở chỗ ông đã tỏ ra không mấy tinh tường, bởi vì thật tình mà nói, thì nắm phân chim không ăn nhập chút nào với văn cảnh. Mới hay dịch không chỉ là phản mà thôi, nhứt là khi nó lại thông qua một bản dịch tồi, như trong trường hợp vừa nhắc tới trên.
TK: Anh là một dịch giả nổi tiếng là khó, khóù với mình và khó với người. Chỉ cần đọc một vài bài phê bình dịch thuật của anh trước đây in trên báo chí ở Sàigòn, và gần đây, trên mạng lưới điện tử làø cũng thấy rõ cái nghiêm ngặt của anh. Thưa anh, tại sao việc dịch cần phải đòi hỏi một kỷ luật nghiêm ngặt như vậy? Và những đức tính đầu tiên của một dịch giả chân chính là gì?
TTĐ: Như Thụy Khuê thấy đó, bắt tay vào việc dịch văn tức là đã tự nguyện dõi theo một con đường rất mực gập gành khó bước, lắm sình lầy, đầy gai góc, nhiều cạm bẫy. Chỉ cần thiếu một chút vốn liếng ngoại ngữ và quốc ngữ, có một trình độ văn hóa nghèo nàn và hiểu biết nông cạn, cộng thêm một tinh thần thận trọng hạn chế, cùng với một thái độ miệt thị độc giả và khinh rẻ giới phê bình, cầm bằng rằng họ thảy đều thấp kém hơn ta - thì cứ i như là dịch giả phải sa lầy, mắc bẫy, sướt mình. Lại nữa, người dịch còn phải biết tỏ ra hết sức khiêm tốn. Khiêm tốn từ đầu cho tới cuối, bởi vì dịch giả chơn chánh là kẻ lúc nào cũng phải cố công đạt tới mức nhuần nhuyễn, nhuần nhuyễn ở chỗ xóa tiệt được bóng dáng của mình không cho nó lấp ló giữa những dòng chữ hay cạnh mé câu văn. Nói cách khác, nếu như bản văn dịch có mang dấu ấn nào chăng, thì nhứt định đó phải là dấu ấn của tác giả, chớ không là của người dịch. Ai đó, nhà văn Gabriel García Márquez thì phải, có lần đã đồng hóa dịch giả với loài khỉ, biết nhái i hệt mọi cử động đối tượng của mình.
Bấy nhiêu đòi hỏi đè nặng trên vai như vậy, nên chi có rất nhiều người dịch vì cớ này cớ nọ đã chẳng ngại dịch liều, dịch ẩu, dịch lấy có.... Khiến cho người đọc cứ bị hoa mắt trước mớ sách dịch cẩu thả và kém cỏi, nhan nhản trước kia ở Sài gòn và sau này ở Hà nội và trong cả nước. Một tình trạng mà những ai quan tâm tới văn học nói chung và văn học dịch nói riêng, nghĩa là văn học thế giới, thảy đều lấy làm buồn và e ngại cho tiến trình hội nhập vào cộng đồng văn hóa thế giới.
TK: Cuối cùng thì: "vì đâu mà nên nỗi", tức là kết quả tình trạng dịch hiện nay ởû Việt nam là do lỗi ở ai?
TTĐ: Suy cho cùng, thì chúng ta không có quyền đổ lỗi một mình cho hạng dịch giả thấp kém và bất cẩn mà thôi. Vì sao ư ? Vì rằng chúng ta, chị và tôi, tôi và anh, thảy đều gánh một phần trách nhiệm không nhỏ trong việc dẫn tới tình trạng đáng buồn này. Chúng ta đã không biết tự mình nhận lãnh và làm tròn cái sứ mạng đương nhiên của nhà phê bình chơn chánh, chúng ta tránh đụng chạm, chúng ta sợ nói thẳng, chúng ta chỉ biết bốc chớ không dám chê nhứt là khi bàn tới bạn bè.
Giá như chúng ta không thờ ơ, giá như chúng ta không giả dối, giá như chúng ta không sợ vạ lây, giá như chúng ta không phản bội sứ mạng đích thật của nhà phê bình chơn chánh, giá như chúng ta thật tình nuôi chí hướng dẫn ngưới đọc, giá như chúng ta ngay thẳng bình phẩm một cách đứng đắn, nghiêm túc, chánh xác... Bởi vì giá như chúng ta thường xuyên làm tròn sứ mạng của phê bình, thì, nói riêng về mảng dịch thuật, chắc đã không thể có mặt trên thị trường chữ nghĩa xứ này loại sách dịch tầm phào và sai bét, để khỏi còn dịp than phiền như hiện nay.
TK: Xin cảm ơn dịch giả Trần Thiện-Đạo.
THỤY KHUÊ thực hiện
Suy tưởng về kinh nghiệm sáng tác - Henry Miller
Henry Miller
Suy tưởng về kinh nghiệm sáng tác
Giới thiệu - Henry Miller là một nhà văn Minh Triết (Wisdom writer). Văn chương của ông đầy tính chất vũ trụ, đầy hỗn mang sơ khai, sinh động, trào vọt, duy giác, duy nhiên. Henry Miller không muốn viết như một nhà văn, nhưng như một con người tự biểu lộ trong lòng thực tại. Ông nói về Thực Tại và đề tài tối thượng của ông là giải thoát. “Tôi yêu tất cả những gì trôi chẩy.” Henry Miller nhắc lại câu nói của Milton. Ông yêu: dòng sông, ống cống, phún xuất thạch, tinh dịch, sữa, máu, mật, nước tiểu, chữ nghĩa, câu văn… nghĩa là tất cả những gì trôi chẩy.“Tôi yêu tất cả những gì trôi chẩy; ngay cả những giòng kinh nguyệt mang đi những trái trứng hư”. (Tropic of Cancer). Tất cả những gì trôi chẩy đó, là hình ảnh vận hành muôn đời của thế giới. Và Henry Miller, do đó, cũng muốn viết như thế giới chẩy trôi: “Tôi muốn chữ nghĩa của tôi trôi chảy đồng cách mà thế giới chẩy trôi, một vận hành trườn uốn qua vô lượng chiều, trục, xứ sở, phong thổ, trạng huống” (I would like my words to flow among in the same way the world flows along, a serpentine movement through incalculable dimensions, axes, latitudes, climates, conditions – The Wisdom of the Heart). Vả quả thực ông viết ào ào như thác đổ; một bút pháp bất chấp từ vựng, văn phạm, tu từ pháp; một bút pháp đột khởi, trực tiếp, vần vũ, lôi cuốn. Tuy nhiên, ông không thủ đắc bút pháp đó ngay từ lúc khởi nghiệp. Trái lại, ông có “tất cả mọi tật xấu của một người học thức”; xếp đặt hòn gạch nọ lên hòn gạch kia trước khi đạp đổ tất cả để lắng nghe tiếng nói của riêng mình, dàn trải hàng triệu chữ trên giấy trước khi viết được một chữ đích thực, chính thức, “moi móc từ chính ruột gan” mình lên. Qua bài “Suy tưởng về kinh nghiệm sáng tác” trích trong cuốn The Wisdom of the Heart dưới đây, độc giả sẽ thấy bằng cách nào, hay đúng hơn, bằng những thất bại đớn đau nào, Henry Miller khởi đầu đi vào lãnh vực nghệ thuật với “không một chút tài năng rõ rệt nào, một người viết mới hoàn toàn, bất tài, vụng về, miệng lưỡi dính chặt, hầu như tê liệt vì sợ hãi và nhút nhát” lại trở thành bậc thầy, trong tư tưởng cũng như trong nghệ thuật, trong cách sống cũng như trong cách viết, một trong hay ba bốn nhà văn quan trọng nhất như Lawrence Durrell nhận định.
*
Để trả lời một người phỏng vấn, Knut Hamsun có lần đã nói rằng, ông viết để giết thì giờ. Tôi nghĩ rằng dầu ông có thành thực khi khẳng định như vậy đi chăng nữa, ông cũng vẫn lừa dối mình. Viết, như chính cuộc đời là một cuộc du hành khám phá. Cuộc phiêu lưu này là một cuộc phiêu lưu siêu hình: nó là một cách đến gần cuộc đời một cách gián tiếp, thủ đắc một vũ trụ quan toàn diện thay vì bán phần. Nhà văn sống giữa những thế giới thượng đẳng và hạ đẳng: hắn đi trên đường để cuối cùng chính hắn trở thành con đường.
Tôi bắt đầu trong hỗn mang và bóng tối tuyệt đối, trong một vũng lầy hay đầm lầy ý tưởng, cảm xúc và kinh nghiệm. Ngay cả bây giờ tôi không hề coi tôi như một nhà văn theo nghĩa thông thường của danh từ. Tôi là một người kể chuyện đời hắn, một quá trình càng ngày càng có vẻ vô hạn khi tôi tiếp tục tiến tới. Tựa một cuộc cách mạng thế giới, nó vô tận. Nó là một sự lộn trong ra ngoài, mộc cuộc du hành qua những chiều X, với kết quả: nơi nào dọc đường khám phá người ta phải kể không quan trọng cho bằng chính việc kể lể. Chính đặc tính này về mọi nghệ thuật cho nó một mầu sắc siêu hình, nhấc nó ra khỏi không gian và thời gian và đặt nó vào trung tâm hay phối hợp nó vào trong toàn thể tiến trình vũ trụ. Chính đặc điểm này về nghệ thuật “mang tính cách trị liệu”: ý nghĩa, sự vô mục đích, vô biên.
Từ lúc mới bắt đầu, tôi hầu như đã ý thức sâu xa được rằng không có mục đích nào cả. Tôi chẳng hề hy vọng ôm ấp toàn thể bao giờ mà chỉ đem vào mỗi một đoạn, mỗi một công việc, cái cảm thức về toàn thể trong khi tôi tiếp tục đi tới, bởi vì mỗi ngày tôi đào sâu thêm vào quá khứ, vào tương lai. Cùng với sự bươi đào không cùng, một lòng xác tín vĩ đại hơn đức tin hay lòng tin tưởng phát triển. Tôi càng ngày càng trở nên lãnh đạm với thân phận tôi như một nhà văn, và càng ngày càng tin chắc vào định mệnh tôi như một con người.
Tôi bắt đầu chuyên cần nghiên cứu bút pháp và kỹ thuật của những người tôi đã thán phục và tôn sùng ngày xưa: Nietzsche, Dostoievski, Hamsun và ngay cả Thomas Mann, người mà ngày nay tôi loại bỏ đi như một tay thợ khéo, một tên làm gạch, một con lừa hay một con ngựa chở đồ hăng hái. Tôi bắt chước mọi bút pháp trong niềm hy vọng tìm thấy chìa khóa của sự bí ẩn dầy vò: viết cách nào. Cuối cùng đi tới một kết cục tẻ ngắt, một nỗi thất vọng và tuyệt vọng mà ít người biết tới, bởi không có sự chia cách giữa chính bản thân tôi như một nhà văn và tôi như một con người: thất bại như một nhà văn có nghĩa là thất bại như một con người. Và tôi đã ý thức được rằng tôi không là gì cả - còn tệ hơn không là gì cả - một lượng âm. Chính tại điểm này, giữa biển Sargasso chết chóc, nếu có thể nói như vậy, mà tôi thực sự bắt đầu viết. Tôi viết ào ào, liệng tất cả mọi thứ trên boong xuống biển, ngay cả những thứ tôi yêu thích nhất. Hốt nhiên tôi nghe thấy tiếng nói của chính tôi, tôi phấn khởi: chính bởi sự kiện nó là một tiếng nói riêng biệt, xuất sắc, độc đáo nâng đỡ tôi. Tôi bất cần nếu những điều tốt về tôi có thể coi là dở. Hay và dở bứt khỏi từ vựng của tôi. Tôi nhẩy song phi vào lãnh vực thẩm mỹ, vô luân thường, vô đạo lý, vô dung của lãnh vực nghệ thuật. Chính cuộc đời tôi trở thành một tác phẩm nghệ thuật. Tôi đã tìm thấy tiếng nói, tôi lại tròn đầy như xưa. Kinh nghiệm ngày giống hệt như điều chúng ta đọc liên quan tới cuộc đời của những kẻ sơ Thiền. Sự thất bại to lớn của tôi tựa như sự toát lược kinh nghiệm của chủng loại: tôi trở nên rồ dại với kiến thức, ý thức được sự hư ảo của tất cả, đập phá tất cả, trở nên thất vọng rồi khiêm tốn, đoạn tôi lao ra khỏi vỏ cứng cố hữu, để khôi phục lại chân thân. Tôi phải đi với miệng vực đoạn nhẩy vào bóng tối.
Bây giờ tôi nói về Thực Tại, nhưng tôi biết không có cách nào chiếm hữu nó trừ phi bằng cách viết. Tôi học ít và có thể thể hiện nhiều hơn: tôi học bằng một vài cách khác, bí ẩn hơn. Càng ngày tôi càng thủ đắc đặc ân trực khởi. Tôi phát triển khả năng tri giác, lãnh hội, phân tích, tổng hợp, xếp loại, thông đạt, diễn tả tất cả ngay lập tức. Yếu tố cơ cấu của sự vật càng ngày càng sẵn sàng tự phát hiện trước mắt tôi. Tôi tránh xa những cách diễn tả minh bạch làm sẵn: cùng với sự đơn giản hóa gia tăng, sự huyền bí tăng gia. Điều tôi biết càng ngày càng có khuynh hướng trở nên bất khả biểu lộ. Tôi sống trong xác tín, một sự xác tín không lệ thuộc vào chứng lý hay đức tin. Tôi hoàn toàn sống cho tôi, không một chút ích kỷ hay vị kỷ. Tối sống đến tận cùng phần đời tôi và như vậy khuyến khích sự phối hợp của sự vật. Tôi tán trợ sự phát triển, mở mang, bành trướng và thoái hóa của vũ trụ, mỗi ngày và bằng mọi cách. Tôi cho tất cả những cái tôi phải cho đi, một cách tự nguyện, và lấy nhiều chừng nào tôi có thể ăn vào. Tôi là một vương tử và đồng thời là một tên hải tặc. Tôi là cung Thiên Bình chêm vào Hoàng Đạo nguyên thủy bằng cách tách Trinh nữ khỏi Bọ Cạp. Tôi khám phá thấy rằng có nhiều chỗ trên thế giới cho tất cả mọi người – những chiều sâu liên không gian vĩ đại, những vũ trụ tự ngã vĩ đại, những đảo vãng lai, cho bất cứ ai đạt tới cá tính. Trên bề mặt nơi những cuộc chiến đấu lịch sử bùng nổ, nơi tất cả mọi sự đều được diễn dịch bằng danh từ tiền tài và thế lực, nơi có thể chen chúc đầy ắp, nhưng cuộc sống chỉ bắt đầu khi người ta tự để mình rớt xuống khỏi bề mặt, khi người ta chấm dứt tranh chấp, lặn xuống và biến mất khỏi tầm mắt. Bây giờ tôi có thể không viết một cách dễ dàng như viết: không còn bất cứ một sự cưỡng ép nào nữa, không còn bất cứ một phương diện trị liệu nào cho nó nữa. Bất cứ việc gì tôi làm đều được làm bởi nguồn hân hoan trào vọt đích thực: Tôi cho những cây trái của tôi rụng rơi như một cây chín mùa. Điều quảng đại độc giả hoặc phê bình gia làm cho nó không liên can gì tới tôi. Tôi không thiết định những giá trị: tôi gạn lọc khơi trong và bồi dưỡng. Không còn gì hơn nữa.
Trạng thái lãnh đạm bay bổng tuyệt vời này là một sự phát triển luận lý của cuộc sống tự kỷ trung tâm. Tôi sống hết những vấn đề xã hội bằng cách chết đi: vấn đề đích thực không phải là sống hòa thuận với hàng xóm láng giềng của mình hoặc góp phần vào sự phát triển của xứ sở mình mà là khám phá ra định mệnh của mình, và tạo dựng cuộc sống hòa điệu với cái nhịp hướng tâm sâu thẳm tròn vo của vũ trụ. Là có thể dùng danh từ vũ trụ một cách hiên ngang, là dùng danh từ tâm hồn, là đẩy đi những sự vật “tinh thần” – và là lảng tránh những định nghĩa, những sự cách diện, những bằng chứng, những bổn phận. Thiên đàng ở khắp mọi nơi và mọi nẻo đường, nếu ta tiếp tục theo đuổi đủ xa, đều dẫn tới. Người ta có thể đi tới bằng cách trở lui và rồi đi ngang đoạn đi lên rồi đi xuống. Không có sự tiến bộ: chỉ có sự vận hành, di chuyển miên viễn, đi vòng quanh, xoáy trôn ốc, vô tận. Mỗi người có một định mệnh riêng: mệnh lệnh duy nhất là đeo đuổi nó, là chấp nhận nó, bất kể nó dẫn mình tới đâu.
Tôi không có mảy may ý tưởng nào về những cuốn sách tương lai của tôi, ngay cả một ý tưởng để theo một cách trực tiếp. Những đồ biểu và chương trình của tôi là một thứ hướng dẫn mong manh nhất; tôi loại bỏ chúng theo ý muốn, tôi sáng chế, bóp méo, làm biến dạng, nói láo, thổi phồng, phóng đại, đảo lộn và trộn lẫn tùy theo tính chất bất thường chi phối tôi. Tôi chỉ nghe theo bản năng và trực giác của tôi. Tôi không biết gì trước. Tôi thường hạ bút ghi những điều chính tôi cũng không hiểu ất giáp gì cả, an nhiên trong cảm thức rằng sau này chúng sẽ trở nên minh nhiên và có ý nghĩa đối với tôi. Tôi tin vào con người đang viết, chính là tôi, nhà văn. Tôi không tin vào chữ nghĩa, thây kệ dù được nối kết bởi người khéo léo nhất: tôi tin vào ngôn ngữ, là một cái gì ở trên chữ nghĩa chỉ cho một ảo tưởng bất tương ứng về nó: Chữ nghĩa không hiện hữu một cách biệt lập, trừ trong đầu óc những học giả, nhà ngữ nguyên học, ngữ học gia, v.v… chữ nghĩa tách khỏi ngôn ngữ là những sự vật chết, và không sản ra một bí ẩn nào. Một người được phát lộ trong bút pháp hắn, ngôn ngữ mà hắn sáng tạo cho chính hắn. Với người mà tâm thanh tịnh, tôi tin rằng mọi sự đều trong suốt như gương, ngay cả những cảo bản bí truyền nhất. Vì đối với người như thế này, sự huyền nhiệm luôn luôn có đó, nhưng sự huyền nhiệm không huyền bí, nó có tính cách luân lý, tự nhiên, được sắp đặt và được mặc nhiên chấp thuận. Lãnh hội không phải là chọc thủng màn huyền nhiệm mà là chấp nhận nó, một cuộc sống diễm phúc với nó, trong nó, qua nó và bởi nó. Tôi muốn chữ nghĩa của tôi trôi chẩy đồng cách mà thế giới chẩy trôi, một vận hành trườn uốn qua vô lượng chiều, trục, xứ sở, phong thổ, trạng huống. Tôi chấp nhận một cách tiên thiên sự bất lực của tôi trong việc thực hiện một lý tưởng như thế này. Nó tuyệt nhiên không quấy quả tôi một mảy may. Trong ý hướng tối hậu, chính thế giới đầy ắp thất bại là sự biểu lộ hoàn hảo của sự bất toàn, của ý thức về thất bại. Trong sự nhận thức về điều đó, chính sự thất bại bị trừ khử. Tựa thần linh ban sơ của vũ trụ, tựa Tuyệt Đối tự tại, Nhất Thể, Toàn Thể, hóa công, nghĩa là nghệ sĩ, tự biểu lộ mình bằng và qua sự bất toàn. Nó là chất liệu của đời sống, dấu hiệu đích thực của sinh động. Người ta đạt tới gần hơn cái trung tâm của chân lý mà tôi giả thiết là mục tiêu của tối hậu của nhà văn, với điều kiện hắn ngừng tranh chấp, với điều kiện hắn xả ly ý chí. Nhà văn lớn là biểu tượng trung thực nhất của cuộc đời, của cái bất toàn. Hắn di động một cách thoải mái, cho một ảo tưởng về hoàn hảo, từ một trung tâm vô danh xa lạ chắc chắn không là trung tâm não bộ nhưng đích thực là một trung tâm liên kết với nhịp điệu của toàn thể vũ trụ và do có tính chất như cường kiện vững chắc, bất khả lay chuyển, như kiên cố, ngang ngạnh, hỗn loạn, vô cầu, như chính vũ trụ này. Nghệ thuật không giáo huấn gì cả, ngoại trừ ý nghĩa cuộc đời. Tác phẩm vĩ đại thiết yếu phải mờ tối, ngoại trừ cho một thiểu số rất ít, cho những kẻ như chính tác giả được khải ngộ vào huyền nhiệm. Sự Thông tri lúc ấy là tùy phụ: sự tiếp nối miên viễn mới là điều quan trọng. Chỉ với điều này thôi một độc giả chọn lọc mới là điều cần thiết.
Nếu tôi là một nhà cách mạng, như người ta đã nói, tôi là một nhà cách mạng một cách vô thức. Tôi không nổi loạn chống lại trật tự thế giới. “Tôi cách mạng hóa” như Blaise Cendrars nói về mình. Có một sự khác biệt. Tôi có thể sống ở âm cực cũng như ở cực dương. Hiện nay tôi tin rằng mình ở trên cả hai ký hiệu, tạo ra một tỷ lệ cân đối giữa chúng; tỷ lệ tự biểu lộ mình một cách mềm dẻo uyển chuyển, phi đức lý, bằng cách viết. Tôi tin rằng người ta phải vượt lên trên phạm vi và ảnh hưởng của nghệ thuật. Nghệ thuật chỉ là một phương tiện của đời sống; một đời sống phong phú hơn. Không phải trong chính nó đời sống phong phú hơn. Nó chỉ vạch đường chỉ lối, một cái gì bị bỏ lơi không phải bởi công chúng mà luôn luôn bởi chính nhà văn. Trong khi trở thành một cứu cánh, nó tự làm hỏng nó. Đa số nghệ sĩ làm hỏng cuộc đời bởi chính toan tính bám víu lấy nó. Họ đã bửa trái trứng làm đôi. Mọi nghệ thuật, tôi tin tưởng một cách mãnh liệt, một ngày kia sẽ biến mất. Nhưng nhà nghệ sĩ sẽ tồn tại, và chính cuộc đời sẽ trở thành, không phải “một nghệ thuật”, nhưng nghệ thuật, nghĩa là chắc chắn sẽ và mãi mãi chiếm đoạt môi trường. Trong bất cứ ý nghĩa đích thực nào, chắc chắn chúng ta cũng chưa sống thực. Chúng ta không còn là thú vật nữa, nhưng hiển nhiên chúng cũng chưa là người. Từ buổi bình minh của nghệ thuật, bất cứ một nghệ sĩ vĩ đại nào cũng thường nhắc đi nhắc lại điều đó với chúng ta, nhưng những người hiểu được điều đó thực là hiếm hoi. Một khi nghệ thuật được chấp nhận thực thụ, lập tức nó ngừng hiện hữu. Nó chỉ là một vật thay thế, một ngôn ngữ biểu tượng trưng, cho một cái gì có thể nắm được một cách trực tiếp. Nhưng để cho điều đó trở thành khả thể, con người phải trở thành hoàn toàn tín ngưỡng, không phải một tín đồ, nhưng là một nguyên động đệ nhất, một thần thánh trong thực tế và hành động. Hắn phải trở thành điều đó một cách bất khả kháng. Và trong mọi nẻo ngoẹo ngoặt dọc theo con đường đó, nghệ thuật là một nẻo vinh quang nhất, tràn đầy nhất; có tính cách giáo huấn nhất. Người nghệ sĩ trở thành hoàn toàn ý thức, do đó sẽ ngừng là nghệ sĩ. Và người ta có khuynh hướng nghiêng về ý thức, về cái ý thức mù lòa đó trong ấy không một hình thức hiện tại nào của cuộc đời có thể nẩy nở, ngay cả nghệ thuật.
Với một số người, điều này có vẻ huyền hoặc hóa, nhưng đó là một phán quyết lương thiện của những niềm tin hiện tại của tôi. Dĩ nhiên người ta phải nhớ rằng, có một sự tương phản không thể tránh được giữa sự thực của vấn đề và điều người ta nghĩ, dù nghĩ về mình: nhưng người ta cũng phải nhớ rằng còn có một sự tương phản khác và chính sự thực đó. Giữa chủ quan và khách quan không có sự sai biệt thiết yếu. Tất cả đều như mộng huyễn và ít nhiều trong suốt. Mọi hiện tượng, gồm cả con người và ý nghĩ của hắn về mình, không là gì khác hơn một bản mẫu tự có thể dời chuyển, thay đổi được. Không có sự kiện vững chắc nào để nắm giữ cả. Vì thế, trong khi viết, dầu cho sự vặn vẹo lệch lạc và bóp méo của tôi có cố ý đi chăng nữa, nó không nhất thiết phải ít gần sự thực của sự vật. Người ta có thể tuyệt đối thành thật và chân thành mặc dầu có thể được phép dối trá quá chừng quá đỗi. Tưởng tượng và sáng tác là chất liệu cấu tạo đích thực của cuộc đời. Sự thực không vì lẽ gì mà bị phá rối bởi những rối loạn của tinh thần.
Vì thế, bất cứ hiệu quả nào tôi có thể thủ đắc được bởi phương sách kỹ thuật không bao giờ chỉ là những kết quả đơn thuần của kỹ thuật mà là sự ghi nhận chính xác nhất bởi kim ghi địa chấn của những kinh nghiệm hỗn loạn, đa tạp, huyền bí mà không thể hiểu được mà tôi đã trải qua và trong quá trình viết lách, lại được sống lại một cách khác hẳn, có lẽ còn hỗn loạn hơn, huyền bí hơn, khó hiểu hơn nữa. Cái gọi là trung tâm của sự kiện vững chắc, tạo thành khởi điểm cũng như đích điểm, chôn sâu trong tôi: tôi không thể mất nó, thay đổi nó, che dấu nó, dầu tôi cố gắng thế nào mặc lòng. Tuy nhiên nó đang bị thay đổi mỗi giây mỗi phút chúng ta thở. Vậy thì để ghi nhận nó, người ta phải tạo ra một ảo tưởng song trùng – một ảo tưởng về dừng nghỉ và một về trôi chẩy. Chính sự lường gạt song đối này, nếu có thể nói như vậy, đem lại ảo tưởng về sai lầm: chính sự dối trá này, cái mặt nạ thoảng qua biến hóa này, là yếu tính đích thực của nghệ thuật. Người ta cắm neo trong dòng sông nước chẩy; người ta chấp nhận cái mặt nọ giả trá ngõ hầu phát lộ chân lý.
Tôi thường nghĩ rằng có lẽ một ngày kia tôi sẽ muốn một cuốn sách giải thích lý do tại sao tôi viết những đoạn nào đó trong những tác phẩm của tôi, hoặc có lẽ bất cứ một đoạn nào đó. Tôi tin rằng tôi có thể viết một cuốn sách cỡ lỡn về một đoạn rất ngắn, lựa chọn một cách tình cờ từ tác phẩm của tôi. Một cuốn sách về sự bắt đầu, khởi nguyên, biến hóa, ra đời của nó, về thời gian trôi qua giữa sự nảy sinh của ý tưởng và sự ghi nhận nó, ngày của tuần lễ, tình trạng sức khỏe của tôi, trạng thái tinh thần tôi những sự gián đoạn xẩy ra, những sai biệt nhiều loại của cách diễn tả xẩy ra cho tôi trong quá trình viết lách, những sự thay đổi, điểm bỏ rơi và trong khi trở lại, thay đổi hoàn toàn hướng đi, hoặc điểm tôi đã bỏ rơi một cách khéo léo, tựa một bác sĩ giải phẫu tận lực cứu vãn một việc tệ hại, định quay trở lại và bắt đầu làm lại sau này, nhưng không bao giờ làm vậy, hoặc trở lại và tiếp tục chiều hướng một cách vô ý thức vài cuốn sách sau này, khi hoài niệm về điều đó đã hoàn toàn tan biến. Hoặc tôi có thể lấy một đoạn đối chọi với một đoạn khác, những đoạn mà cặp mắt lạnh lùng của những phê bình gia chụp lấy những mẫu mực nào đó, và hoàn toàn làm cho họ điên đầu, những nhà phê bình đầu óc phân tích, bằng cách chứng minh một đoạn văn có vẻ viết thoải mái lại được hoàn thành trong gò bó rất mực, trong khi đoạn văn khó khăn lại được viết như một cơn gió thoảng, như một suối nước nóng tuôn trào. Hoặc tôi có thể cho thấy một đoạn được hình thành thế nào khi ở trên giường, biến dạng thế nào khi đứng lên và lại thay đổi thế nào lúc ngồi xuống ghi lại. Hoặc tôi có thể nguệch ngoạc vạch ra cho thấy một kích thích xa xôi nhất lại tạo ra một bông hoa nhân loại giống như thật làm sao. Tôi có thể tạo ra một vài danh từ được khám phá ra một cách tình cờ trong khi xé một cuốn sách, cho thấy chúng đã gợi hứng đưa đẩy tôi thế nào – nhưng ai trên đời có bao giờ lại phỏng đoán nổi, bằng cách nào, chúng đã đẩy đưa tôi? Tất cả những điều nhà phê bình viết về một tác phẩm nghệ thuật, mặc dầu được viết khéo nhất, mặc dầu vững chắc nhất, xác đáng nhất, thích hợp nhất, mặc dầu được thực hiện với yêu thương, điều họa biếm, không có nghĩa lý gì khi so với cách cấu tạo thực sự, khởi nguyên đích thực của một tác phẩm nghệ thuật. Tôi nhớ tác phẩm của tôi, chắc chắn không nhớ từng chữ một, nhưng nhớ bằng một cách chính xác, đáng tin cậy hơn; toàn thể tác phẩm của tôi đi tới chỗ giống như một địa thế mà tôi đã vẽ tấm họa đồ kỹ lưỡng, tối đoản, không phải từ bàn giấy với bút và thước, nhưng bằng cách tiếp xúc, bằng cách cúi xuống trên bốn chân, trên dạ dầy, và bò trên mặt đất từng tấc một và bò qua bò lại không biết bao nhiêu lần trong mọi trạng thái khí hậu. Tóm lại, bây giờ tôi gần gũi tác phẩm cũng như khi tôi thực hiện nó vậy – có lẽ gần gũi hơn. Kết luận của một cuốn sách không bao giờ là một cái gì khác hơn một sự thay đổi vị trí thân thể. Nó có thể chấm dứt bằng một nghìn cách khác nhau. Không một phần nhỏ nào của nó kết thúc hoàn toàn: tôi có thể bắt đầu trở lại câu chuyện kể bất cứ điểm nào, tiếp tục, đào kinh rạch, đặt cầu cống, nhà cửa, xưởng máy, reo rắc dân cư khác, động vật và thảo mộc địa phương khác, hoàn toàn đúng như thực vậy. Tôi không vô thủy vô chung, thực thế. Giống hệt như cuộc sống bắt đầu bất cứ lúc nào, qua một tác động thể hiện, tác phẩm cũng vậy. Nhưng mỗi khởi đầu, dù khởi đầu của sách, trang, đoạn, câu hay từ ngữ đều đánh dấu một mối quan hệ sinh tử và chính trong sinh khí trường cửu, phi thời gian và bất biến của tư tưởng và biến cố mà tôi lại nhào xuống mỗi lần. Mỗi dòng chữ liên hệ một cách thiết yếu với cuộc đời của tôi, cuộc đời của tôi mà thôi, dù trong hình thức hành động, biến cố, sự kiện, tư tưởng, cảm xúc, ước muốn, quyền biến, thất bại, mơ mộng, không tưởng, tính bất thường, ngay cả những điều vụn vặt không quan hệ bất tận lướt qua đầu óc giống như những sợi tơ móc của một cái mạng nhện. Không có gì thực sự mơ hồ hay mong manh – ngay cả những điều vô nghĩa cũng bén nhọn, cứng rắn, xác định, vững bền. Tựa con nhền nhện, tôi trở lại công việc hoài hoài, ý thức được rằng lưới nhện tôi đang dệt làm bằng chính bản thể tôi, rằng nó không bao giờ làm tôi thất vọng, không bao giờ khô cạn.
Lúc khởi đầu tôi mơ ước đua tranh với Dostoievski. Tôi hy vọng mang lại cho thế giới những cuộc tranh đấu nội tâm vĩ đại, rối bời, có thể sẽ tàn phá thế giới. Nhưng trước khi đi quá xa, tôi ý thức được rằng chúng ta đã tiến triển tới một điểm vượt rất xa Dostoievski, vượt xa theo nghĩa suy đồi. Với chúng ta, vấn đề tâm hồn đã biến mất, hoặc tự hiện dưới một vài lớp hóa học lệch lạc một cách lạ kỳ. Chúng ta đang giao tiếp với những yếu tố trong suốt như thủy tinh của tâm hồn tán loạn và tan vỡ từng mảnh. Những họa sĩ hiện đại diễn tả tình thế và trạng thái này có lẽ mãnh liệt hơn nhà văn: Picasso là một thí dụ hoàn hảo cho điều tôi muốn nói. Tuy nhiên, theo tôi, hoàn toàn không thể nghĩ đến chuyện viết tiểu thuyết; cũng như không thể tưởng tượng ta có thể đi theo nhiều con đường mù quáng tượng trưng bởi nhiều phong trào văn học ở Anh, Pháp, Hoa Kỳ. Tôi cảm thấy bắt buộc một cách hết sức lương thiện, tiếp nhận những yếu tố tản mát và không cân xứng của đời chúng ta – đời sống tâm hồn, không phải đời sống văn hóa, sử dụng chính bản ngã tan nát và tản mát của tôi một cách cũng nhẫn tâm và liều lĩnh như tôi dùng những hoa trôi bèo giạt của thế giới hiện tượng xung quanh. Không bao giờ tôi cảm thấy bất cứ một sự đối kháng hay lo ngại nào đối với tình trạng hỗn loạn tượng trưng bởi những hình thức đang thịnh hành của nghệ thuật: trái lại tôi luôn tiếp đón ân cần những ảnh hưởng tan rã. Trong một thời đại đánh dấu bởi tan rữa, băng hoại dường như là một đức tính đối với tôi đúng hơn là một mệnh lệnh luân lý. Không những tôi không bao giờ cảm thấy một chút ước muốn bảo tồn, chống giữ hay nâng đỡ bất cứ cái gì, nhưng tôi có thể nói rằng tôi luôn luôn nhìn vào sự suy đồi như một sự diễn tả chính xác, tuyệt vời và phong phú của cuộc đời khi tăng trưởng.
Thiết tưởng tôi cũng phải thú nhận rằng tôi bị bắt buộc viết bởi vì nó chứng tỏ là lối khai thông duy nhất cho tôi, việc duy nhát xứng đáng với những khả năng của tôi. Tôi đã thử một cách lương thiện mọi ngả đường dẫn đến tự do. Tôi là một kẻ bất tài ngoan cố trong cái được gọi là thế giới thực tế, một kẻ bất tài không phải vì thiếu khả năng. Viết không phải là một cuộc “đào thoát”, một phương tiện trốn tránh thực tế hàng ngày: trái lại, viết có nghĩa là một sự phóng mình sâu hơn nữa xuống hồ ao đen tối nhất – phóng mình về nguồn cội khởi nguyên nơi nước non thường trực đổi mới, nơi thường xuyên có vận hành và chuyển động. Nhìn lại bước tiến trình của nghề nghiệp tôi, tôi nhận thấy mình là một kẻ có thể đảm nhiệm bất cứ công việc nào, bất cứ chức nghiệp nào. Chính sự tẻ nhạt và cằn cỗi của những lối khai thông khác đã đưa tôi tới chỗ thất vọng. Tôi đòi hỏi một lãnh vực trong đó đồng thời vừa có thể là chủ vừa là nô lệ: thế giới nghệ thuật là lãnh vực duy nhất đáp ứng đòi hỏi đó. Tôi đi vào lãnh vực nghệ thuật không có chút tài năng rõ rệt nào, một người viết mới hoàn toàn, bất tài, vụng về, miệng lưỡi dính chặt, hầu như tê liệt vì sợ hãi và nhút nhát. Tôi phải đặt hòn gạch này lên hòn gạch kia, bầy hàng triệu chữ lên giấy trước kia viết một chữ đích thực, chính thức, moi móc từ chính ruột gan tôi lên. Sự nói năng dễ dàng tôi thủ đắc là một điều bất lợi; tôi có tất cả mọi tật xấu của một người học thức. Tôi phải học suy tưởng, cảm nghĩ và nhìn nhận bằng một cách hoàn toàn mới lạ, bằng một cách vô học thức, bằng cách riêng của tôi, là điều táo bạo nhất trên đời. Tôi phải lao mình xuống dòng thác lũ, trong khi biết rằng tôi có thể chìm đắm. ĐẠI ĐA SỐ NGHỆ SĨ LAO MÌNH XUỐNG VỚI PHAO CỨU NGUY QUANH CỔ, VÀ RẤT THƯỜNG KHI CHÍNH CÁI PHAO CỨU NGUY DÌM ĐẮM HỌ. Không người nào tự nguyện dấn mình vào kinh nghiệm lại có thể chết đuối trong đại dương thực tại. Bất cứ sự tiến bộ nào có thể có trong cuộc đời đều không đến qua sự thích nghi mà qua sự liều lĩnh, qua sự tuân theo sức thôi thúc mù quang. “Không có sự liều lĩnh nào tai hại cả”, René Crevel nói, một câu nói mà không bao giờ tôi quên được. Toàn thể luân lý của vũ trụ chứa đựng trong sự liều lĩnh, nghĩa là trong sự sáng tạo từ chỗ nương tựa yếu đuối, mong manh nhất. Lúc khởi đầu sự liều lĩnh này bị lầm coi là ý chí, nhưng với thời gian, ý chí tách rời và sự tiến triển tự động thế chỗ đó, rồi đến lượt nó phải bị tan võ hay bỏ đi và một niềm xác tín mới được thiết lập, không dính dấp gì tới kiến thức, sự khéo léo, kỹ thuật hay đức tin. Bằng cách liều lĩnh người ta đi với tư thế X huyền nhiệm đó của nghệ sĩ, và chính chỗ thả neo này mà không một ai có thể mô tả bằng lời, tuy nhiên vẫn tồn tại và toát ra từ mỗi dòng chữ được viết ra.
Nguồn: Quế Sơn Võ Tánh ấn hành lần thứ nhất 1971, Hồng Hà ấn hành lần thứ hai 1973 tại Sài Gòn./Talawas .
Suy tưởng về kinh nghiệm sáng tác
Giới thiệu - Henry Miller là một nhà văn Minh Triết (Wisdom writer). Văn chương của ông đầy tính chất vũ trụ, đầy hỗn mang sơ khai, sinh động, trào vọt, duy giác, duy nhiên. Henry Miller không muốn viết như một nhà văn, nhưng như một con người tự biểu lộ trong lòng thực tại. Ông nói về Thực Tại và đề tài tối thượng của ông là giải thoát. “Tôi yêu tất cả những gì trôi chẩy.” Henry Miller nhắc lại câu nói của Milton. Ông yêu: dòng sông, ống cống, phún xuất thạch, tinh dịch, sữa, máu, mật, nước tiểu, chữ nghĩa, câu văn… nghĩa là tất cả những gì trôi chẩy.“Tôi yêu tất cả những gì trôi chẩy; ngay cả những giòng kinh nguyệt mang đi những trái trứng hư”. (Tropic of Cancer). Tất cả những gì trôi chẩy đó, là hình ảnh vận hành muôn đời của thế giới. Và Henry Miller, do đó, cũng muốn viết như thế giới chẩy trôi: “Tôi muốn chữ nghĩa của tôi trôi chảy đồng cách mà thế giới chẩy trôi, một vận hành trườn uốn qua vô lượng chiều, trục, xứ sở, phong thổ, trạng huống” (I would like my words to flow among in the same way the world flows along, a serpentine movement through incalculable dimensions, axes, latitudes, climates, conditions – The Wisdom of the Heart). Vả quả thực ông viết ào ào như thác đổ; một bút pháp bất chấp từ vựng, văn phạm, tu từ pháp; một bút pháp đột khởi, trực tiếp, vần vũ, lôi cuốn. Tuy nhiên, ông không thủ đắc bút pháp đó ngay từ lúc khởi nghiệp. Trái lại, ông có “tất cả mọi tật xấu của một người học thức”; xếp đặt hòn gạch nọ lên hòn gạch kia trước khi đạp đổ tất cả để lắng nghe tiếng nói của riêng mình, dàn trải hàng triệu chữ trên giấy trước khi viết được một chữ đích thực, chính thức, “moi móc từ chính ruột gan” mình lên. Qua bài “Suy tưởng về kinh nghiệm sáng tác” trích trong cuốn The Wisdom of the Heart dưới đây, độc giả sẽ thấy bằng cách nào, hay đúng hơn, bằng những thất bại đớn đau nào, Henry Miller khởi đầu đi vào lãnh vực nghệ thuật với “không một chút tài năng rõ rệt nào, một người viết mới hoàn toàn, bất tài, vụng về, miệng lưỡi dính chặt, hầu như tê liệt vì sợ hãi và nhút nhát” lại trở thành bậc thầy, trong tư tưởng cũng như trong nghệ thuật, trong cách sống cũng như trong cách viết, một trong hay ba bốn nhà văn quan trọng nhất như Lawrence Durrell nhận định.
*
Để trả lời một người phỏng vấn, Knut Hamsun có lần đã nói rằng, ông viết để giết thì giờ. Tôi nghĩ rằng dầu ông có thành thực khi khẳng định như vậy đi chăng nữa, ông cũng vẫn lừa dối mình. Viết, như chính cuộc đời là một cuộc du hành khám phá. Cuộc phiêu lưu này là một cuộc phiêu lưu siêu hình: nó là một cách đến gần cuộc đời một cách gián tiếp, thủ đắc một vũ trụ quan toàn diện thay vì bán phần. Nhà văn sống giữa những thế giới thượng đẳng và hạ đẳng: hắn đi trên đường để cuối cùng chính hắn trở thành con đường.
Tôi bắt đầu trong hỗn mang và bóng tối tuyệt đối, trong một vũng lầy hay đầm lầy ý tưởng, cảm xúc và kinh nghiệm. Ngay cả bây giờ tôi không hề coi tôi như một nhà văn theo nghĩa thông thường của danh từ. Tôi là một người kể chuyện đời hắn, một quá trình càng ngày càng có vẻ vô hạn khi tôi tiếp tục tiến tới. Tựa một cuộc cách mạng thế giới, nó vô tận. Nó là một sự lộn trong ra ngoài, mộc cuộc du hành qua những chiều X, với kết quả: nơi nào dọc đường khám phá người ta phải kể không quan trọng cho bằng chính việc kể lể. Chính đặc tính này về mọi nghệ thuật cho nó một mầu sắc siêu hình, nhấc nó ra khỏi không gian và thời gian và đặt nó vào trung tâm hay phối hợp nó vào trong toàn thể tiến trình vũ trụ. Chính đặc điểm này về nghệ thuật “mang tính cách trị liệu”: ý nghĩa, sự vô mục đích, vô biên.
Từ lúc mới bắt đầu, tôi hầu như đã ý thức sâu xa được rằng không có mục đích nào cả. Tôi chẳng hề hy vọng ôm ấp toàn thể bao giờ mà chỉ đem vào mỗi một đoạn, mỗi một công việc, cái cảm thức về toàn thể trong khi tôi tiếp tục đi tới, bởi vì mỗi ngày tôi đào sâu thêm vào quá khứ, vào tương lai. Cùng với sự bươi đào không cùng, một lòng xác tín vĩ đại hơn đức tin hay lòng tin tưởng phát triển. Tôi càng ngày càng trở nên lãnh đạm với thân phận tôi như một nhà văn, và càng ngày càng tin chắc vào định mệnh tôi như một con người.
Tôi bắt đầu chuyên cần nghiên cứu bút pháp và kỹ thuật của những người tôi đã thán phục và tôn sùng ngày xưa: Nietzsche, Dostoievski, Hamsun và ngay cả Thomas Mann, người mà ngày nay tôi loại bỏ đi như một tay thợ khéo, một tên làm gạch, một con lừa hay một con ngựa chở đồ hăng hái. Tôi bắt chước mọi bút pháp trong niềm hy vọng tìm thấy chìa khóa của sự bí ẩn dầy vò: viết cách nào. Cuối cùng đi tới một kết cục tẻ ngắt, một nỗi thất vọng và tuyệt vọng mà ít người biết tới, bởi không có sự chia cách giữa chính bản thân tôi như một nhà văn và tôi như một con người: thất bại như một nhà văn có nghĩa là thất bại như một con người. Và tôi đã ý thức được rằng tôi không là gì cả - còn tệ hơn không là gì cả - một lượng âm. Chính tại điểm này, giữa biển Sargasso chết chóc, nếu có thể nói như vậy, mà tôi thực sự bắt đầu viết. Tôi viết ào ào, liệng tất cả mọi thứ trên boong xuống biển, ngay cả những thứ tôi yêu thích nhất. Hốt nhiên tôi nghe thấy tiếng nói của chính tôi, tôi phấn khởi: chính bởi sự kiện nó là một tiếng nói riêng biệt, xuất sắc, độc đáo nâng đỡ tôi. Tôi bất cần nếu những điều tốt về tôi có thể coi là dở. Hay và dở bứt khỏi từ vựng của tôi. Tôi nhẩy song phi vào lãnh vực thẩm mỹ, vô luân thường, vô đạo lý, vô dung của lãnh vực nghệ thuật. Chính cuộc đời tôi trở thành một tác phẩm nghệ thuật. Tôi đã tìm thấy tiếng nói, tôi lại tròn đầy như xưa. Kinh nghiệm ngày giống hệt như điều chúng ta đọc liên quan tới cuộc đời của những kẻ sơ Thiền. Sự thất bại to lớn của tôi tựa như sự toát lược kinh nghiệm của chủng loại: tôi trở nên rồ dại với kiến thức, ý thức được sự hư ảo của tất cả, đập phá tất cả, trở nên thất vọng rồi khiêm tốn, đoạn tôi lao ra khỏi vỏ cứng cố hữu, để khôi phục lại chân thân. Tôi phải đi với miệng vực đoạn nhẩy vào bóng tối.
Bây giờ tôi nói về Thực Tại, nhưng tôi biết không có cách nào chiếm hữu nó trừ phi bằng cách viết. Tôi học ít và có thể thể hiện nhiều hơn: tôi học bằng một vài cách khác, bí ẩn hơn. Càng ngày tôi càng thủ đắc đặc ân trực khởi. Tôi phát triển khả năng tri giác, lãnh hội, phân tích, tổng hợp, xếp loại, thông đạt, diễn tả tất cả ngay lập tức. Yếu tố cơ cấu của sự vật càng ngày càng sẵn sàng tự phát hiện trước mắt tôi. Tôi tránh xa những cách diễn tả minh bạch làm sẵn: cùng với sự đơn giản hóa gia tăng, sự huyền bí tăng gia. Điều tôi biết càng ngày càng có khuynh hướng trở nên bất khả biểu lộ. Tôi sống trong xác tín, một sự xác tín không lệ thuộc vào chứng lý hay đức tin. Tôi hoàn toàn sống cho tôi, không một chút ích kỷ hay vị kỷ. Tối sống đến tận cùng phần đời tôi và như vậy khuyến khích sự phối hợp của sự vật. Tôi tán trợ sự phát triển, mở mang, bành trướng và thoái hóa của vũ trụ, mỗi ngày và bằng mọi cách. Tôi cho tất cả những cái tôi phải cho đi, một cách tự nguyện, và lấy nhiều chừng nào tôi có thể ăn vào. Tôi là một vương tử và đồng thời là một tên hải tặc. Tôi là cung Thiên Bình chêm vào Hoàng Đạo nguyên thủy bằng cách tách Trinh nữ khỏi Bọ Cạp. Tôi khám phá thấy rằng có nhiều chỗ trên thế giới cho tất cả mọi người – những chiều sâu liên không gian vĩ đại, những vũ trụ tự ngã vĩ đại, những đảo vãng lai, cho bất cứ ai đạt tới cá tính. Trên bề mặt nơi những cuộc chiến đấu lịch sử bùng nổ, nơi tất cả mọi sự đều được diễn dịch bằng danh từ tiền tài và thế lực, nơi có thể chen chúc đầy ắp, nhưng cuộc sống chỉ bắt đầu khi người ta tự để mình rớt xuống khỏi bề mặt, khi người ta chấm dứt tranh chấp, lặn xuống và biến mất khỏi tầm mắt. Bây giờ tôi có thể không viết một cách dễ dàng như viết: không còn bất cứ một sự cưỡng ép nào nữa, không còn bất cứ một phương diện trị liệu nào cho nó nữa. Bất cứ việc gì tôi làm đều được làm bởi nguồn hân hoan trào vọt đích thực: Tôi cho những cây trái của tôi rụng rơi như một cây chín mùa. Điều quảng đại độc giả hoặc phê bình gia làm cho nó không liên can gì tới tôi. Tôi không thiết định những giá trị: tôi gạn lọc khơi trong và bồi dưỡng. Không còn gì hơn nữa.
Trạng thái lãnh đạm bay bổng tuyệt vời này là một sự phát triển luận lý của cuộc sống tự kỷ trung tâm. Tôi sống hết những vấn đề xã hội bằng cách chết đi: vấn đề đích thực không phải là sống hòa thuận với hàng xóm láng giềng của mình hoặc góp phần vào sự phát triển của xứ sở mình mà là khám phá ra định mệnh của mình, và tạo dựng cuộc sống hòa điệu với cái nhịp hướng tâm sâu thẳm tròn vo của vũ trụ. Là có thể dùng danh từ vũ trụ một cách hiên ngang, là dùng danh từ tâm hồn, là đẩy đi những sự vật “tinh thần” – và là lảng tránh những định nghĩa, những sự cách diện, những bằng chứng, những bổn phận. Thiên đàng ở khắp mọi nơi và mọi nẻo đường, nếu ta tiếp tục theo đuổi đủ xa, đều dẫn tới. Người ta có thể đi tới bằng cách trở lui và rồi đi ngang đoạn đi lên rồi đi xuống. Không có sự tiến bộ: chỉ có sự vận hành, di chuyển miên viễn, đi vòng quanh, xoáy trôn ốc, vô tận. Mỗi người có một định mệnh riêng: mệnh lệnh duy nhất là đeo đuổi nó, là chấp nhận nó, bất kể nó dẫn mình tới đâu.
Tôi không có mảy may ý tưởng nào về những cuốn sách tương lai của tôi, ngay cả một ý tưởng để theo một cách trực tiếp. Những đồ biểu và chương trình của tôi là một thứ hướng dẫn mong manh nhất; tôi loại bỏ chúng theo ý muốn, tôi sáng chế, bóp méo, làm biến dạng, nói láo, thổi phồng, phóng đại, đảo lộn và trộn lẫn tùy theo tính chất bất thường chi phối tôi. Tôi chỉ nghe theo bản năng và trực giác của tôi. Tôi không biết gì trước. Tôi thường hạ bút ghi những điều chính tôi cũng không hiểu ất giáp gì cả, an nhiên trong cảm thức rằng sau này chúng sẽ trở nên minh nhiên và có ý nghĩa đối với tôi. Tôi tin vào con người đang viết, chính là tôi, nhà văn. Tôi không tin vào chữ nghĩa, thây kệ dù được nối kết bởi người khéo léo nhất: tôi tin vào ngôn ngữ, là một cái gì ở trên chữ nghĩa chỉ cho một ảo tưởng bất tương ứng về nó: Chữ nghĩa không hiện hữu một cách biệt lập, trừ trong đầu óc những học giả, nhà ngữ nguyên học, ngữ học gia, v.v… chữ nghĩa tách khỏi ngôn ngữ là những sự vật chết, và không sản ra một bí ẩn nào. Một người được phát lộ trong bút pháp hắn, ngôn ngữ mà hắn sáng tạo cho chính hắn. Với người mà tâm thanh tịnh, tôi tin rằng mọi sự đều trong suốt như gương, ngay cả những cảo bản bí truyền nhất. Vì đối với người như thế này, sự huyền nhiệm luôn luôn có đó, nhưng sự huyền nhiệm không huyền bí, nó có tính cách luân lý, tự nhiên, được sắp đặt và được mặc nhiên chấp thuận. Lãnh hội không phải là chọc thủng màn huyền nhiệm mà là chấp nhận nó, một cuộc sống diễm phúc với nó, trong nó, qua nó và bởi nó. Tôi muốn chữ nghĩa của tôi trôi chẩy đồng cách mà thế giới chẩy trôi, một vận hành trườn uốn qua vô lượng chiều, trục, xứ sở, phong thổ, trạng huống. Tôi chấp nhận một cách tiên thiên sự bất lực của tôi trong việc thực hiện một lý tưởng như thế này. Nó tuyệt nhiên không quấy quả tôi một mảy may. Trong ý hướng tối hậu, chính thế giới đầy ắp thất bại là sự biểu lộ hoàn hảo của sự bất toàn, của ý thức về thất bại. Trong sự nhận thức về điều đó, chính sự thất bại bị trừ khử. Tựa thần linh ban sơ của vũ trụ, tựa Tuyệt Đối tự tại, Nhất Thể, Toàn Thể, hóa công, nghĩa là nghệ sĩ, tự biểu lộ mình bằng và qua sự bất toàn. Nó là chất liệu của đời sống, dấu hiệu đích thực của sinh động. Người ta đạt tới gần hơn cái trung tâm của chân lý mà tôi giả thiết là mục tiêu của tối hậu của nhà văn, với điều kiện hắn ngừng tranh chấp, với điều kiện hắn xả ly ý chí. Nhà văn lớn là biểu tượng trung thực nhất của cuộc đời, của cái bất toàn. Hắn di động một cách thoải mái, cho một ảo tưởng về hoàn hảo, từ một trung tâm vô danh xa lạ chắc chắn không là trung tâm não bộ nhưng đích thực là một trung tâm liên kết với nhịp điệu của toàn thể vũ trụ và do có tính chất như cường kiện vững chắc, bất khả lay chuyển, như kiên cố, ngang ngạnh, hỗn loạn, vô cầu, như chính vũ trụ này. Nghệ thuật không giáo huấn gì cả, ngoại trừ ý nghĩa cuộc đời. Tác phẩm vĩ đại thiết yếu phải mờ tối, ngoại trừ cho một thiểu số rất ít, cho những kẻ như chính tác giả được khải ngộ vào huyền nhiệm. Sự Thông tri lúc ấy là tùy phụ: sự tiếp nối miên viễn mới là điều quan trọng. Chỉ với điều này thôi một độc giả chọn lọc mới là điều cần thiết.
Nếu tôi là một nhà cách mạng, như người ta đã nói, tôi là một nhà cách mạng một cách vô thức. Tôi không nổi loạn chống lại trật tự thế giới. “Tôi cách mạng hóa” như Blaise Cendrars nói về mình. Có một sự khác biệt. Tôi có thể sống ở âm cực cũng như ở cực dương. Hiện nay tôi tin rằng mình ở trên cả hai ký hiệu, tạo ra một tỷ lệ cân đối giữa chúng; tỷ lệ tự biểu lộ mình một cách mềm dẻo uyển chuyển, phi đức lý, bằng cách viết. Tôi tin rằng người ta phải vượt lên trên phạm vi và ảnh hưởng của nghệ thuật. Nghệ thuật chỉ là một phương tiện của đời sống; một đời sống phong phú hơn. Không phải trong chính nó đời sống phong phú hơn. Nó chỉ vạch đường chỉ lối, một cái gì bị bỏ lơi không phải bởi công chúng mà luôn luôn bởi chính nhà văn. Trong khi trở thành một cứu cánh, nó tự làm hỏng nó. Đa số nghệ sĩ làm hỏng cuộc đời bởi chính toan tính bám víu lấy nó. Họ đã bửa trái trứng làm đôi. Mọi nghệ thuật, tôi tin tưởng một cách mãnh liệt, một ngày kia sẽ biến mất. Nhưng nhà nghệ sĩ sẽ tồn tại, và chính cuộc đời sẽ trở thành, không phải “một nghệ thuật”, nhưng nghệ thuật, nghĩa là chắc chắn sẽ và mãi mãi chiếm đoạt môi trường. Trong bất cứ ý nghĩa đích thực nào, chắc chắn chúng ta cũng chưa sống thực. Chúng ta không còn là thú vật nữa, nhưng hiển nhiên chúng cũng chưa là người. Từ buổi bình minh của nghệ thuật, bất cứ một nghệ sĩ vĩ đại nào cũng thường nhắc đi nhắc lại điều đó với chúng ta, nhưng những người hiểu được điều đó thực là hiếm hoi. Một khi nghệ thuật được chấp nhận thực thụ, lập tức nó ngừng hiện hữu. Nó chỉ là một vật thay thế, một ngôn ngữ biểu tượng trưng, cho một cái gì có thể nắm được một cách trực tiếp. Nhưng để cho điều đó trở thành khả thể, con người phải trở thành hoàn toàn tín ngưỡng, không phải một tín đồ, nhưng là một nguyên động đệ nhất, một thần thánh trong thực tế và hành động. Hắn phải trở thành điều đó một cách bất khả kháng. Và trong mọi nẻo ngoẹo ngoặt dọc theo con đường đó, nghệ thuật là một nẻo vinh quang nhất, tràn đầy nhất; có tính cách giáo huấn nhất. Người nghệ sĩ trở thành hoàn toàn ý thức, do đó sẽ ngừng là nghệ sĩ. Và người ta có khuynh hướng nghiêng về ý thức, về cái ý thức mù lòa đó trong ấy không một hình thức hiện tại nào của cuộc đời có thể nẩy nở, ngay cả nghệ thuật.
Với một số người, điều này có vẻ huyền hoặc hóa, nhưng đó là một phán quyết lương thiện của những niềm tin hiện tại của tôi. Dĩ nhiên người ta phải nhớ rằng, có một sự tương phản không thể tránh được giữa sự thực của vấn đề và điều người ta nghĩ, dù nghĩ về mình: nhưng người ta cũng phải nhớ rằng còn có một sự tương phản khác và chính sự thực đó. Giữa chủ quan và khách quan không có sự sai biệt thiết yếu. Tất cả đều như mộng huyễn và ít nhiều trong suốt. Mọi hiện tượng, gồm cả con người và ý nghĩ của hắn về mình, không là gì khác hơn một bản mẫu tự có thể dời chuyển, thay đổi được. Không có sự kiện vững chắc nào để nắm giữ cả. Vì thế, trong khi viết, dầu cho sự vặn vẹo lệch lạc và bóp méo của tôi có cố ý đi chăng nữa, nó không nhất thiết phải ít gần sự thực của sự vật. Người ta có thể tuyệt đối thành thật và chân thành mặc dầu có thể được phép dối trá quá chừng quá đỗi. Tưởng tượng và sáng tác là chất liệu cấu tạo đích thực của cuộc đời. Sự thực không vì lẽ gì mà bị phá rối bởi những rối loạn của tinh thần.
Vì thế, bất cứ hiệu quả nào tôi có thể thủ đắc được bởi phương sách kỹ thuật không bao giờ chỉ là những kết quả đơn thuần của kỹ thuật mà là sự ghi nhận chính xác nhất bởi kim ghi địa chấn của những kinh nghiệm hỗn loạn, đa tạp, huyền bí mà không thể hiểu được mà tôi đã trải qua và trong quá trình viết lách, lại được sống lại một cách khác hẳn, có lẽ còn hỗn loạn hơn, huyền bí hơn, khó hiểu hơn nữa. Cái gọi là trung tâm của sự kiện vững chắc, tạo thành khởi điểm cũng như đích điểm, chôn sâu trong tôi: tôi không thể mất nó, thay đổi nó, che dấu nó, dầu tôi cố gắng thế nào mặc lòng. Tuy nhiên nó đang bị thay đổi mỗi giây mỗi phút chúng ta thở. Vậy thì để ghi nhận nó, người ta phải tạo ra một ảo tưởng song trùng – một ảo tưởng về dừng nghỉ và một về trôi chẩy. Chính sự lường gạt song đối này, nếu có thể nói như vậy, đem lại ảo tưởng về sai lầm: chính sự dối trá này, cái mặt nạ thoảng qua biến hóa này, là yếu tính đích thực của nghệ thuật. Người ta cắm neo trong dòng sông nước chẩy; người ta chấp nhận cái mặt nọ giả trá ngõ hầu phát lộ chân lý.
Tôi thường nghĩ rằng có lẽ một ngày kia tôi sẽ muốn một cuốn sách giải thích lý do tại sao tôi viết những đoạn nào đó trong những tác phẩm của tôi, hoặc có lẽ bất cứ một đoạn nào đó. Tôi tin rằng tôi có thể viết một cuốn sách cỡ lỡn về một đoạn rất ngắn, lựa chọn một cách tình cờ từ tác phẩm của tôi. Một cuốn sách về sự bắt đầu, khởi nguyên, biến hóa, ra đời của nó, về thời gian trôi qua giữa sự nảy sinh của ý tưởng và sự ghi nhận nó, ngày của tuần lễ, tình trạng sức khỏe của tôi, trạng thái tinh thần tôi những sự gián đoạn xẩy ra, những sai biệt nhiều loại của cách diễn tả xẩy ra cho tôi trong quá trình viết lách, những sự thay đổi, điểm bỏ rơi và trong khi trở lại, thay đổi hoàn toàn hướng đi, hoặc điểm tôi đã bỏ rơi một cách khéo léo, tựa một bác sĩ giải phẫu tận lực cứu vãn một việc tệ hại, định quay trở lại và bắt đầu làm lại sau này, nhưng không bao giờ làm vậy, hoặc trở lại và tiếp tục chiều hướng một cách vô ý thức vài cuốn sách sau này, khi hoài niệm về điều đó đã hoàn toàn tan biến. Hoặc tôi có thể lấy một đoạn đối chọi với một đoạn khác, những đoạn mà cặp mắt lạnh lùng của những phê bình gia chụp lấy những mẫu mực nào đó, và hoàn toàn làm cho họ điên đầu, những nhà phê bình đầu óc phân tích, bằng cách chứng minh một đoạn văn có vẻ viết thoải mái lại được hoàn thành trong gò bó rất mực, trong khi đoạn văn khó khăn lại được viết như một cơn gió thoảng, như một suối nước nóng tuôn trào. Hoặc tôi có thể cho thấy một đoạn được hình thành thế nào khi ở trên giường, biến dạng thế nào khi đứng lên và lại thay đổi thế nào lúc ngồi xuống ghi lại. Hoặc tôi có thể nguệch ngoạc vạch ra cho thấy một kích thích xa xôi nhất lại tạo ra một bông hoa nhân loại giống như thật làm sao. Tôi có thể tạo ra một vài danh từ được khám phá ra một cách tình cờ trong khi xé một cuốn sách, cho thấy chúng đã gợi hứng đưa đẩy tôi thế nào – nhưng ai trên đời có bao giờ lại phỏng đoán nổi, bằng cách nào, chúng đã đẩy đưa tôi? Tất cả những điều nhà phê bình viết về một tác phẩm nghệ thuật, mặc dầu được viết khéo nhất, mặc dầu vững chắc nhất, xác đáng nhất, thích hợp nhất, mặc dầu được thực hiện với yêu thương, điều họa biếm, không có nghĩa lý gì khi so với cách cấu tạo thực sự, khởi nguyên đích thực của một tác phẩm nghệ thuật. Tôi nhớ tác phẩm của tôi, chắc chắn không nhớ từng chữ một, nhưng nhớ bằng một cách chính xác, đáng tin cậy hơn; toàn thể tác phẩm của tôi đi tới chỗ giống như một địa thế mà tôi đã vẽ tấm họa đồ kỹ lưỡng, tối đoản, không phải từ bàn giấy với bút và thước, nhưng bằng cách tiếp xúc, bằng cách cúi xuống trên bốn chân, trên dạ dầy, và bò trên mặt đất từng tấc một và bò qua bò lại không biết bao nhiêu lần trong mọi trạng thái khí hậu. Tóm lại, bây giờ tôi gần gũi tác phẩm cũng như khi tôi thực hiện nó vậy – có lẽ gần gũi hơn. Kết luận của một cuốn sách không bao giờ là một cái gì khác hơn một sự thay đổi vị trí thân thể. Nó có thể chấm dứt bằng một nghìn cách khác nhau. Không một phần nhỏ nào của nó kết thúc hoàn toàn: tôi có thể bắt đầu trở lại câu chuyện kể bất cứ điểm nào, tiếp tục, đào kinh rạch, đặt cầu cống, nhà cửa, xưởng máy, reo rắc dân cư khác, động vật và thảo mộc địa phương khác, hoàn toàn đúng như thực vậy. Tôi không vô thủy vô chung, thực thế. Giống hệt như cuộc sống bắt đầu bất cứ lúc nào, qua một tác động thể hiện, tác phẩm cũng vậy. Nhưng mỗi khởi đầu, dù khởi đầu của sách, trang, đoạn, câu hay từ ngữ đều đánh dấu một mối quan hệ sinh tử và chính trong sinh khí trường cửu, phi thời gian và bất biến của tư tưởng và biến cố mà tôi lại nhào xuống mỗi lần. Mỗi dòng chữ liên hệ một cách thiết yếu với cuộc đời của tôi, cuộc đời của tôi mà thôi, dù trong hình thức hành động, biến cố, sự kiện, tư tưởng, cảm xúc, ước muốn, quyền biến, thất bại, mơ mộng, không tưởng, tính bất thường, ngay cả những điều vụn vặt không quan hệ bất tận lướt qua đầu óc giống như những sợi tơ móc của một cái mạng nhện. Không có gì thực sự mơ hồ hay mong manh – ngay cả những điều vô nghĩa cũng bén nhọn, cứng rắn, xác định, vững bền. Tựa con nhền nhện, tôi trở lại công việc hoài hoài, ý thức được rằng lưới nhện tôi đang dệt làm bằng chính bản thể tôi, rằng nó không bao giờ làm tôi thất vọng, không bao giờ khô cạn.
Lúc khởi đầu tôi mơ ước đua tranh với Dostoievski. Tôi hy vọng mang lại cho thế giới những cuộc tranh đấu nội tâm vĩ đại, rối bời, có thể sẽ tàn phá thế giới. Nhưng trước khi đi quá xa, tôi ý thức được rằng chúng ta đã tiến triển tới một điểm vượt rất xa Dostoievski, vượt xa theo nghĩa suy đồi. Với chúng ta, vấn đề tâm hồn đã biến mất, hoặc tự hiện dưới một vài lớp hóa học lệch lạc một cách lạ kỳ. Chúng ta đang giao tiếp với những yếu tố trong suốt như thủy tinh của tâm hồn tán loạn và tan vỡ từng mảnh. Những họa sĩ hiện đại diễn tả tình thế và trạng thái này có lẽ mãnh liệt hơn nhà văn: Picasso là một thí dụ hoàn hảo cho điều tôi muốn nói. Tuy nhiên, theo tôi, hoàn toàn không thể nghĩ đến chuyện viết tiểu thuyết; cũng như không thể tưởng tượng ta có thể đi theo nhiều con đường mù quáng tượng trưng bởi nhiều phong trào văn học ở Anh, Pháp, Hoa Kỳ. Tôi cảm thấy bắt buộc một cách hết sức lương thiện, tiếp nhận những yếu tố tản mát và không cân xứng của đời chúng ta – đời sống tâm hồn, không phải đời sống văn hóa, sử dụng chính bản ngã tan nát và tản mát của tôi một cách cũng nhẫn tâm và liều lĩnh như tôi dùng những hoa trôi bèo giạt của thế giới hiện tượng xung quanh. Không bao giờ tôi cảm thấy bất cứ một sự đối kháng hay lo ngại nào đối với tình trạng hỗn loạn tượng trưng bởi những hình thức đang thịnh hành của nghệ thuật: trái lại tôi luôn tiếp đón ân cần những ảnh hưởng tan rã. Trong một thời đại đánh dấu bởi tan rữa, băng hoại dường như là một đức tính đối với tôi đúng hơn là một mệnh lệnh luân lý. Không những tôi không bao giờ cảm thấy một chút ước muốn bảo tồn, chống giữ hay nâng đỡ bất cứ cái gì, nhưng tôi có thể nói rằng tôi luôn luôn nhìn vào sự suy đồi như một sự diễn tả chính xác, tuyệt vời và phong phú của cuộc đời khi tăng trưởng.
Thiết tưởng tôi cũng phải thú nhận rằng tôi bị bắt buộc viết bởi vì nó chứng tỏ là lối khai thông duy nhất cho tôi, việc duy nhát xứng đáng với những khả năng của tôi. Tôi đã thử một cách lương thiện mọi ngả đường dẫn đến tự do. Tôi là một kẻ bất tài ngoan cố trong cái được gọi là thế giới thực tế, một kẻ bất tài không phải vì thiếu khả năng. Viết không phải là một cuộc “đào thoát”, một phương tiện trốn tránh thực tế hàng ngày: trái lại, viết có nghĩa là một sự phóng mình sâu hơn nữa xuống hồ ao đen tối nhất – phóng mình về nguồn cội khởi nguyên nơi nước non thường trực đổi mới, nơi thường xuyên có vận hành và chuyển động. Nhìn lại bước tiến trình của nghề nghiệp tôi, tôi nhận thấy mình là một kẻ có thể đảm nhiệm bất cứ công việc nào, bất cứ chức nghiệp nào. Chính sự tẻ nhạt và cằn cỗi của những lối khai thông khác đã đưa tôi tới chỗ thất vọng. Tôi đòi hỏi một lãnh vực trong đó đồng thời vừa có thể là chủ vừa là nô lệ: thế giới nghệ thuật là lãnh vực duy nhất đáp ứng đòi hỏi đó. Tôi đi vào lãnh vực nghệ thuật không có chút tài năng rõ rệt nào, một người viết mới hoàn toàn, bất tài, vụng về, miệng lưỡi dính chặt, hầu như tê liệt vì sợ hãi và nhút nhát. Tôi phải đặt hòn gạch này lên hòn gạch kia, bầy hàng triệu chữ lên giấy trước kia viết một chữ đích thực, chính thức, moi móc từ chính ruột gan tôi lên. Sự nói năng dễ dàng tôi thủ đắc là một điều bất lợi; tôi có tất cả mọi tật xấu của một người học thức. Tôi phải học suy tưởng, cảm nghĩ và nhìn nhận bằng một cách hoàn toàn mới lạ, bằng một cách vô học thức, bằng cách riêng của tôi, là điều táo bạo nhất trên đời. Tôi phải lao mình xuống dòng thác lũ, trong khi biết rằng tôi có thể chìm đắm. ĐẠI ĐA SỐ NGHỆ SĨ LAO MÌNH XUỐNG VỚI PHAO CỨU NGUY QUANH CỔ, VÀ RẤT THƯỜNG KHI CHÍNH CÁI PHAO CỨU NGUY DÌM ĐẮM HỌ. Không người nào tự nguyện dấn mình vào kinh nghiệm lại có thể chết đuối trong đại dương thực tại. Bất cứ sự tiến bộ nào có thể có trong cuộc đời đều không đến qua sự thích nghi mà qua sự liều lĩnh, qua sự tuân theo sức thôi thúc mù quang. “Không có sự liều lĩnh nào tai hại cả”, René Crevel nói, một câu nói mà không bao giờ tôi quên được. Toàn thể luân lý của vũ trụ chứa đựng trong sự liều lĩnh, nghĩa là trong sự sáng tạo từ chỗ nương tựa yếu đuối, mong manh nhất. Lúc khởi đầu sự liều lĩnh này bị lầm coi là ý chí, nhưng với thời gian, ý chí tách rời và sự tiến triển tự động thế chỗ đó, rồi đến lượt nó phải bị tan võ hay bỏ đi và một niềm xác tín mới được thiết lập, không dính dấp gì tới kiến thức, sự khéo léo, kỹ thuật hay đức tin. Bằng cách liều lĩnh người ta đi với tư thế X huyền nhiệm đó của nghệ sĩ, và chính chỗ thả neo này mà không một ai có thể mô tả bằng lời, tuy nhiên vẫn tồn tại và toát ra từ mỗi dòng chữ được viết ra.
Nguồn: Quế Sơn Võ Tánh ấn hành lần thứ nhất 1971, Hồng Hà ấn hành lần thứ hai 1973 tại Sài Gòn./Talawas .
SƠ THẢO TIỂU TRUYỆN Bùi Giáng
SƠ THẢO TIỂU TRUYỆN
Bùi Giáng
Sơ thảo, gọi như vậy vì tính cách sơ lược của bài viết.
Vì một số dữ kiện nêu lên, không chắc chắn, dù cho người viết hết lòng tìm căn cứ. Chung quanh Bùi Giáng có nhiều giai thoại, dần dần trở thành huyền thoại, đồng thời với những tư liệu có khi không hợp lý, hay mâu thuẫn, không dễ gì kiểm chứng.
Sơ thảo, vì lối biên tập còn rườm rà, khi chúng tôi cố tình muốn đưa ra nhiều tư liệu, có lúc ngoài lề, để người khác có thể men theo và truy cứu thêm, về chuyện này hay chuyện khác.
Sơ thảo, tóm lại, không phải là lời từ tốn vào đề chiếu lệ, mà là lời mời gọi giới văn học và độc giả cải chính, bổ sung đào sâu hay nâng cao.
Bùi Giáng đứng tên trên khoảng 60 đầu sách, chủ yếu là 14 tập thơ, xen kẽ 19 dịch phẩm, 6 sách giáo khoa đầu tay, phần còn lại là biên khảo về triết học và thơ. Hiện nay còn khoảng 10 tập thơ và nhiều văn bản dịch, chưa in.. Bùi Giáng có vẽ tranh và có để lại tác phẩm, chủ yếu là ký họa.
Trên cơ bản, Bùi Giáng là nhà thơ.
* *
*
Bùi Giáng là tên thật.
Có khi sử dụng nhiều bút danh khác : Vân Mồng, Bùi Bàng Giúi, Bùi Báng Giùi, Báng Giùi, Trung Niên Thi Sĩ, Ðười Ươi Thi Sĩ.
Ông sinh ngày 17 tháng 12 năm 1926, Bính Dần, tại làng Thanh Châu, nay đổi thành Duy Châu vì thuộc huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam [1] .
Thân phụ là Bùi Thuyên, tục danh Cửu Tý, địa chủ giàu có; thân mẫu là Huỳnh thị Kiền, còn tên là Hai. Cụ Bùi Thuyên có hai đời vợ, bà trước là con Phạm Tuấn, là một trong năm tiến sĩ đồng khoa 1898 cùng quê Quảng Nam, gọi là Ngũ Phụng Tề Phi [2]. Bà mất sớm khi hạ sinh người con thứ ba. Bà sau là cháu nội cụ Hoàng văn Bảng, em ruột Hoàng Diệu, phó bảng khoa 1853, Thượng thư Bộ Binh, Tổng Ðốc Hà Ninh, tuẩn tiết tại Hà Nội năm 1882. Bà sinh được hai gái và bảy trai. Bùi Giáng là con thứ năm, kể cả con bà mẹ trước, nên còn tên là Sáu Giáng.
Những chi tiết này chứng tỏ Bùi Giáng xuất thân tự một giòng họ gia thế. Họ này gốc Nghệ An, di dân vào đây từ đời Hồng Ðức [3].
Nhiều người trong giòng họ này nổi tiếng như bác sĩ Bùi Kiêùn Tín, sản xuất dầu khuynh diệp, kỹ sư Bùi Thạnh, hay giáo sư Bùi xuân Bào, gia đình ra lập nghiệp tại Huế.
« Dòng họ Bùi giàu có bậc nhất trong vùng với những sở ruộng « cò bay thẳng cánh, chó chạy cong đuôi ». Bùi Giáng trong mắt người dân thuở đó là một trang công tử. Dòng họ Bùi gốc ở Vĩnh Trinh lên ngụ cư ở Trung Phước khoảng những năm đầu của thập kỷ 40. Hồi đó, dòng họ có những căn nhà lầu đầu tiên ở xứ này. Trong nhà của họ có rất nhiều nô bộc. Sau này, nhà Quảng Nam học Nguyễn văn Xuân nhận xét rằng những dòng họ giàu có nổi tiếng ở xứ Quảng đều sinh sống dọc hai bên triền sông, tận dụng lợi thế « nhất cận thị, nhị cận giang » [4] .
Sông Thu Bồn quanh năm có lưu lượng cao, nối liền miền Thượng Du với cửa Ðại (Hội An), cửa Hàn (Ðà Nẵng) và cửa Kỳ Hà (Tam Kỳ) qua nhiều sông lớn khác. Do đó, Vương Quốc Chăm đã đóng đô tại vùng Trà Kiệu, bên sông này, khoảng thế kỷ IV.
Nhờ kinh tế phồn thịnh, dân địa phương nhiều người học hành và đỗ đạt.
Bùi Giáng sinh ra và lớn lên giữa « những dãy nhà rộng thênh thang tường xây bằng đá »[5]. Thời niên thiếu giữa một thiên nhiên phong phú, nhiều sắc thái : sông hồ, đồi núi, ruộng nương là một thiên đường mà Bùi Giáng suốt đời hoài vọng, và gọi là cố quận. Trong Ngày Tháng Ngao Du, ông kể : « Hồi nhỏ, tôi được sanh ra và lớn lên trong miền quê hẻo lánh. Chung quanh có ruộng đồng sông núi trùng điệp, những đám cỏ chạy suốt tuổi thơ. Làng tôi xưa kia có nhiều cỏ mọc, cỏ mọc từ trong làng ra ngoài ruộng, tới những cồn, gò, đồi núi thật xanh. Từ đó về sau, tôi tìm kiếm mãi một màu xanh không còn nữa vì những trái bom và hòn đạn khổng lồ ».
Có lẽ vì vậy mà mãi đến tuổi 71 ông mới về quê sau non 50 năm xa cách, qua bài thơ Tâm Sự, 1996, trong Ðêm Ngắm Trăng.
Về học trình của Bùi Giáng, tư liệu chi tiết nhất là bài diễn văn năm 1995 của Bùi văn Vịnh, em ruột : « Thuở nhỏ, anh học trường Bảo An, tại Ðiện Bàn, Quảng Nam. Sau đấy, anh theo Trung học ở trường Thuận Hóa, Huế. Năm 1945, đang lớp đệ tứ thì gặp Ðảo chính Nhật, song anh kịp đậu Thành Chung (Diplôme). Cùng năm, anh lập gia đình riêng – chị qua đời ba năm sau. Việt Minh lên, anh trôi nổi khắp các tỉnh Nam Ngãi Bình Phú của Liên Khu V trong vùng kiểm soát này. Cho đến 1950, khi có kỳ thi Tú tài đặc biệt do Liên Khu V tổ chức (« đặc biệt » vì đề thi do Liên Khu IV gửi vào, thi xong bài thi gửi ra Liên Khu IV chấm), anh đậu Tú tài II Văn Chương, rồi lên đường ra Liên Khu IV, tới Hà Tĩnh, để tiếp tục vào học Ðại Học. Từ Liên Khu V ra Liên Khu IV phải đi bộ theo đường mòn trên núi, hơn một tháng rưỡi trời. Khi ra đến nơi, trong này khai giảng sau khi nghe ông Viện trưởng Ðại học đọc diễn văn, Bùi Giáng quay ngay về Quảng Nam – với một tháng rưỡi đi bộ nữa theo đường mòn trên dãy Trường Sơn. Và anh bắt đầu quãng đời « Mười lăm năm chăn dê ở núi đồi Trung Việt ». Xin mở một ngoặc đơn : con số « 15 » được hiểu với nghĩa tượng trưng của điển « mục dương », và anh chăn dê chứ không bò hay trâu ! Tháng 5-1952, gửi đàn dê lại cho... chuồn chuồn, châu chấu, anh băng qua Huế lấy Tú tài tương đương, để vào Sài Gòn ghi danh theo học Ðại Học Văn khoa. Lần này nữa, sau khi nhìn danh sách các giáo sư sẽ giảng dạy, anh quyết định chấm dứt việc học ở trường của mình tại đây » [6].
Nhiều bài biên khảo sử dụng tư liệu này, vì tư cách của tác giả và những dữ kiện cụ thể được đưa ra. Nhưng cũng có người tự hỏi : Hà Tĩnh thì làm gì có đại học ? Năm 1952, thì Sài gòn làm gì có đại học văn khoa [7] ?
Chúng tôi dò hỏi và đề nghị một học trình khác của Bùi Giáng :
- Tiểu học : Bùi Giáng có học trường Viên Minh, Hội An,
- 1940 ông bắt đầu vào Trung Học, trường Cẩm Bàng, Quy Nhơn. Trường tên như thế vì là tên làng của chủ trường, ông Lâm tô Bông, người Quảng Ngãi.
- 1941-1945 : Bùi Giáng ra Huế, học trường Tư thục Thuận Hóa. Thầy là các vị Hoài Thanh, Ðào duy Anh, Trần đình Ðàn, Lê Trí Viễn... Hai ông sau là cùng quê với Bùi Giáng. Nhà thơ khâm phục và về sau có viết bài ca ngợi các bậc thầy này.
- 1945 : Nhật đảo chính.
Ôâng đỗ bằng Thành Chung, thường gọi là Diplôme, sau khi thi hỏng năm trước, và ở lại lớp Tứ Niên C.
- 1943 : Bùi Giáng đọc trên báo Bạn Ðường, do Hướng Ðạo chủ trương, in tại Thanh Hóa, mấy câu thơ :
Mịt mùng một nẻo quê chung
Người về Cố Quận, muôn trùng ta đi.
Theo Bùi Giáng « đây là một niềm tương ngộ, cuộc trùng phùng, những tao ngộ tình cờ trong một cuộc Hội Thoại ».
Có thể xem như là khởi điểm nguồn sáng tạo văn học của Bùi Giáng, như ông thổ lộ ở phần đầu Lời cố Quận (1972), mà không cho biết tên tác giả câu thơ.
Tuy nhiên trước đó, trong Ði vào Cõi Thơ (1969), Bùi Giáng có trích hai câu này trong một đoạn 4 câu trong bài Cảm Thông (14 câu, 1940) và nói rõ là của Huy Cận. Bài này chưa bao giờ được in ở các thi tập đã xuất bản của Huy Cận.
- 1945 : ông về quê, cưới vợ, dọn lên Trung Phước, một làng Trung Du hẻo lánh.
Vợ ông tên Phạm thị Ninh, trạc tuổi ông, sinh trưởng trong một gia đình công chức khá giả, ông bà Phán Trai, Hội An, ở gần Chùa Cầu, nay còn người em là Phạm văn Hòa, 71 tuổi.
Bà Ninh qua đời năm 1948 vì bệnh dài hạn và đẻ non, đứa con cũng mất, tại làng Trung Phước. Người em, Bùi Công Luân, kể lại rằng khi mất, thì « chị không thấy mặt chồng. Anh Bùi Giáng bấy giờ đang ở Quảng Ngãi, Bình định, Phú Yên gì đó, nghe phong thanh anh đang đi học » [8].
Chúng tôi lần theo, và được biết là giai đoạn này, Bùi Giáng tiếp tục học tại trường Nguyễn Huệ Bồng Sơn, tỉnh Bình định. Trường này không dạy đủ lớp, chỉ dạy hai trên ba năm, bậc Tú Tài, và chỉ dạy chuyên khoa Toán Lý Hóa. Bùi Giáng có ra Hà Tĩnh - bài Kỷ Niệm, trong tập Mưa Nguồn, làm tại Hà Tĩnh, 1951- nhưng có thể để học tiếp ban Tú Tài văn chương, rồi bỏ dở.
Tháng 5-1952, Bùi Giáng về thành [9]. Rồi vào Sài Gòn dạy học.
Học trình Bùi Giáng, chúng tôi chỉ biết có vậy.
Trên cơ bản ông là người tự học và đã đạt tới một kiến thức uyên bác, làm nhiều người ngạc nhiên và kính phục.
Chúng tôi phụ chú thêm ba điểm :
1. Việc hôn nhân : khi trả lời một bài phỏng vấn của báo Thời Văn, 1997, Bùi Giáng có tiết lộ : « phải thuận theo ý cha mẹ lấy cô vợ người thành phố Hội An, suốt đời không biết cày sâu cuốc bẫm là gì » [10]. Người em trai Bùi công Luân có đề cập đến điều này trên báo Khởi Hành số 25 đã dẫn, nói rằng hai bên không yêu nhau, nhưng theo ông Hòa, em bà Ninh, thì đây là một hôn nhân tự nguyện.
2. Việc chăn dê : khoảng 1948, tại Trung Phước, chúng tôi tin vào kỷ niệm của ông Phạm văn Hòa :
« Ôâng anh rể tôi kỳ lạ lắm. Hồi đó ổng mua một đàn dê khoảng 100 con và rủ tôi đi chăn cùng. Buổi sáng ông thường lùa dê vào Giáp Nam, Gò Om, sau đó hai anh em rủ nhau xuống khe (suối) Le ngồi dưới bóng của các lùm tre và… đọc thơ suốt buổi. Có những buổi ổng lang thang lên tận các quả đồi hái hoa, lá kết vòng thơ thẩn đeo vào cổ cho dê… » Ðặc biệt Bùi Giáng rất thương vợ. Sáng nào ông cũng vắt một bát sữa dê đem chưng lên cho vợ uống. Tôi chẳng hiểu hồi đó ông có tâm sự gì nhưng chỉ biết ông nuôi dê để chơi thôi, không thấy bán (vì nhà rất giàu, đâu cần tiền), cũng không hấy giết thịt vì ông rất yêu nhưng con dê. Mỗi con ông đặt cho một cái tên, rất kỳ lạ.
Chuyện Bùi Giáng chăn dê nhiều người còn nhớ. Ðấy là hình ảnh một thanh niên hàng ngày lặng lẽ lùa dê vào núi, trên tay ôm một cuốn sách tiếng Pháp dày cộp.
Quãng đời du mục của Bùi Giáng kéo dài khoảng 3 năm thôi nhưng sau này khi viết Nỗi lòng Tô Vũ, thi sĩ đã đề từ « Kỷ niệm một đoạn đời 15 năm chăn dê núi đồi Trung Việt Nam Ngãi Bình Phú ». Mười lăm năm – nhiều người cho rằng có thể Bùi Giáng lấy thời gian lưu lạc của nàng Kiều để nói về đời mình » [11].
3. Thời kháng chiến : ngày Toàn quốc Kháng Chiến chống Pháp, Bùi Giáng đúng 20 tuổi. Vậy ông làm gì ? chẳng nhẽ chỉ chăn dê và làm thơ ?
Theo nhà thơ Tường Linh, Bùi Giáng trong khoảng một năm, có đi bộ đội, thời đó là Giải Phóng Quân.
Ngoài ra Bùi Giáng trong lúc « vui lòng cởi mở » ở dưỡng trí viện Biên Hòa tháng 5-1969, có kể với các Bác sĩ trong viện : « trong thời trai trẻ, đi kháng chiến, một chiều nọ, mệt, đói, anh đang lê từ bước một với chiếc ba lô khá nặng sau lưng, thì vừa quẹo một đường mòn, anh chợt thấy một thiếu nữ thiểu số đang giặt áo bên bớ suối, anh vừa ngừng chân thì « Bông hoa rừng » nọ cũng vừa ngừng tay giặt, mỉm cười với anh và niềm nở hỏi chào anh. Anh tưởng mình như đang lạc vào suối Ðào-nguyên, và hình ảnh này vẫn không phai trong tâm khảm anh. Ðó là phần Cô em Mọi nhỏ ; còn Hoàng hậu Nam-Phương thì đến với anh trên một bao thư : người mẫu nghi thiên hạ này, sau anh có gặp lại ở Huế – lần này, người thiệt, chớ chẳng phải là một con tem thư – nhưng thực và mộng vẫn không sai biệt. » [12]
Ðoạn văn được trích dài, đêû quy chiếu, về một chi tiết trong tiểu sử mà các tài liệu khác không đề cập, và trong chừng mực nào đó giúp ta hiểu thêm về hình ảnh người đàn bà – rất nhiều đàn bà – trong thơ Bùi Giáng.
* *
*
1952 – 1960 : về vùng « quốc gia », Bùi Giáng vào Sài gòn lập nghiệp, dạy Pháp văn và Việt văn cho nhiều trường Tư Thục : Tân Thịnh, Vương gia Cần … và gửi thơ đăng báo.
Ông cư ngụ tại đường Trương tấn Bửu, nay là Trần huy Liệu, gần chợ Trương minh Giảng, cùng với các em, trong một ngôi nhà giữa vườn cây vú sữa [13]. Võ Phiến, ở gần đó, thường lui tới. Có lần Bùi Giáng chiêu đãi Ðinh Hùng tại nhà, mời ăn Mì Quảng, nhưng tại một căn nhà đường Dixmude, Ðề Thám, theo lời kể của Mặc Thu [14] .
Mì Quảng là món ăn quê hương mà ông tự hào và ưa thích. Có lần tuyên bố : « ta ăn hai ngàn tô mì Quảng nữa ta chết » [15].
Thời gian dạy học, ông đã soạn 6 cuốn sách giáo khoa, do nhà Tân Việt ấn hành, về Bà Huyện Thanh Quan, Lục vân Tiên, Kiều (1957), Tản Ðà, Chu Mạnh Trinh, Tôn Thọ Tường và Phan văn Trị (1959), và một số sách giáo khoa khác, chủ yếu cho học sinh cấp hai.
1960-1975 :
1960 : xuất bản Tư Tưởng Hiện Ðại, biên khảo về tư tưởng phương Tây, chủ yếu là chủ nghĩa hiện sinh đang thời thượng. Có thể xem như là sáng tác đầu tay quan trọng.
Dường như từ thời gian này ông mới học tiếng Ðức, bắt đầu đọc Heidegger, do ảnh hưởng nhóm Phật giáo Vạn Hạnh với Thượng tọa Thích Minh Châu, Tuệ Sĩ, và Phạm công Thiện. Hai cuốn về Heidegger, in 1963, trích nhiều tiếng Ðức.
1962 : xuất bản tập thơ Mưa Nguồn, có bài làm từ 1950, thời chăn dê. Có lẽ Mưa Nguồn là tập thơ đều tay và giá trị nhất của Bùi Giáng. Liên tiếp, năm sau, là 4 thi phẩm : Lá Hoa Cồn, Ngàn Thu Rớt Hột, Màu Hoa Trên Ngàn và Sa Mạc Trường Ca.
Dường như sau đó có thời gian ông về ở chùa Phát Hội, một trung tâm nghiên cứu Phật Học, tiền thân của Ðại Học Vạn Hạnh, với Nhất Hạnh, Tuệ Sĩ, Phạm công Thiện,… .
1965 : chiến tranh leo thang. Cùng với nhóm trí thức : Nhất Hạnh, Hồ hữu Tường, Tam Ích,… Bùi Giáng tham gia kêu goị hòa bình. Dường như đây là hoạt động chính trị chính thức duy nhất trong đời Bùi Giáng. Nhưng lá thư gửi René Char của Bùi Giáng chỉ nói đến hòa bình chung chung.
Thời gian này ông chủ tâm dịch sách, xuất bản 13 dịch phẩm, nhiều nhất là Camus. Kịch bản Ngộ Nhận (le Malentendu) xuất bản 1967, đã đăng trên báo Bách Khoa từ 1963, và Bùi Giáng yêu thích Camus từ lâu. Dường như đôi bên có trao đổi thư từ.
1969 : xuất bản 10 tác phẩm trong một năm, chủ yếu về thơ.
Ðồng thời xảy ra tai nạn lớn : một hỏa tai thiêu rụi căn gác ông ở và chứa sách, trong một ngõ hẻm trên đường Phan thanh Giản, bây giờ là Ðiện Biên Phủ. Căn gác này do tu sĩ Thanh Tuệ, chủ nhà xuất bản An Tiêm, thuê cho Bùi Giáng ở, chứa nhiều tư liệu và rất nhiều sách, Pháp, Anh, Ðức, Hán, có ghi chú. Hỏa hoạn xảy ra khoảng 3 giờ chiều, trước đôi mắt bất lực của Bùi Giáng và Thanh Tuệ, thiêu rụi tư liệu, bản thảo, và sách tặng của Camus, dường như có cả sách tặng của Heidegger.
Bùi Giáng, cuồng nhẹ từ trước, nổi cơn điên, được gia đình đưa vào dưỡng trí viện Biên Hòa đầu tháng 5-1969. Theo các bác sĩ của viện : « Người cầm bút cô độc này, bịnh đã chuyển từ cuồng nhẹ sang cuồng nặng » [16] . Không biết bệnh có di truyền hay không, vì thân sinh ông cũng bị cuồng nhẹ, theo lời người địa phương « thân sinh ông Bùi Giáng là ông Bùi Thuyên, thường gọi là Cửu Tý, Ông Cửu Tý cũng là một người … điên, hàng ngày thường làm bộ cưỡi ngựa bằng mo cau đi từ làng Trung Phước đến làng Cà Tang đọc thơ, làm câu đối và đặc biệt ông này rất thích chọc ghẹo… các cô gái có nhan sắc ! » [17].
Ra khỏi dưỡng trí viện, Bùi Giáng sống lang thang nay đây mai đó. Từ đầu năm 1973, ông dọn về khu nội xá của Ðại Học Vạn Hạnh, đường Trương Minh Giảng, có phòng riêng ở lầu 3. Thời gian này Bùi Giáng thỉnh thoảng có dự những buổi đàm luận chính trị với nhóm trí thức chủ hòa thời đó : Nguyễn đăng Thục, Tuệ Sĩ, Ngô trọng Anh,… Nhưng vẫn ăn ngủ đó đây và biểu diễn nhiều trò lạ mắt trong y phục thùng thình trên hè phố Sài Gòn. Thân hữu và gia đình vẫn ồ ạt xuất bản sách cho ông. Tạp chí Văn đã ra một số đặc biệt Bùi Giáng tháng 5-1973, và Mai Thảo, phụ trách tờ báo giải thích về sau : « Phải làm cái gì về ông. Ðể ghi nhận lại ».
Mai Thảo còn kể tiếp : « chưa biết tìm Bùi Giáng ở đâu, thì thi sĩ bất ngờ ghé thăm tòa soạn. Ông chỉ còn là da bọc xương trong quần áo thùng thình, mái tóc dài đạo sĩ, cái túi vải còn thêm cây gậy (…) Mấy tháng trước biến cố 1975, chỉ thỉnh thoảng nghe thấy ông vẫn lang thang đây đó, một quán này, một bãi hoang kia, ngủ bất cứ ở đâu » [18].
1975-1998 : Sau 1975 bệnh cuồng trầm trọng thêm, dù rằng vẫn có lúc ông sáng suốt. Sống nhờ bạn bè và trợ cấp của gia đình từ nước ngoài. Có lúc ở nhờ chùa Già Lam, xóm Gà, Gia Ðịnh.
Từ 1985, về ở với gia đình người cháu gái, đường Lê Quang Ðịnh, quận Bình Thạnh. Vợ chồng người cháu giúp Bùi Giáng định cư và định tâm, an dưỡng và sáng tác, đến ngày cuối đời. Hiện gia đình này còn giữ nhiều di cảo.
Từ 1992, Tâm trí có phần ổn định, Bùi Giáng làm nhiều thơ trong năm 1993. Sau đó sáng tác cầm chừng, vẫn làm nhiều thơ.
1996 về thăm lại « Cố Quận » Quảng Nam khi đã 71 tuổi.
7-10-1998 (ngày 17 tháng Tám năm Mậu Dần) : Bùi Giáng mất tại Sài Gòn vì bị tai biến mạch máu não.
Ðêm 23-9, ông có uống rượu, trượt té và vào hôn mê sâu. Giải phẩu tối 25-9, nhưng ông vẫn hôn mê, cho đến 14 giờ ngày 7-10 thì qua đời.
Tang lễ được tổ chức trọng thể tại chùa Vĩnh Nghiêm. Khoảng 600 người, phần đông là thanh niên, sinh viên đến canh thức, ngâm thơ. Một đám tang nhẹ nhàng, nhắc lời ông thường nói, để đời : « vui thôi mà ».
11-10-1998 : an táng tại nghĩa trang Gò Dưa, Thủ Ðức.
Hiện nay Bùi Giáng còn 10 tập thơ và dịch phẩm chưa in.
Ðặng Tiến
Viết cho ngày tưởng niệm Bùi Giáng
7-10-2003, Sơ Thu Quí Mùi
Des lisières lointaines
les cerfs ont bramé
Từ ven rừng xa
tiếng nai gào gọi
Apollinaire
--------------------------------------------------------------------------------
[1] Du khách đi thăm di tích Chàm ở Mỹ Sơn, từ quốc lộ số 1, lấy tỉnh lộ 610 khoảng 15 km sẽ đi qua làng Duy Châu. Ði thêm 30 km sẽ đến làng Trung Phước, nơi Bùi Giáng chăn dê, nay đổi là Quế Phước vì thuộc huyện Quế Sơn, phía mỏ than Nông Sơn. Cả hai làng đều nằm bên sông Thu Bồn, bờ bên này và bên kia.
[2] Năm người theo thứ tự là : Phạm Liệu, Phan Quang, Phạm Tuấn, Ngô Truân và Dương hiển Tiến. Ngoại trừ Phan Quang huyện Quế Sơn, bốn người kia đều thuộc huyện Diên Phước, nay là Ðiện Bàn.
[3] Bùi Tấn, Chớp Biển, Sài Gòn, Anaheim 1996, tr. 35.
[4] Nguyễn Minh Sơn, báo Người Lao Ðộng, số Xuân Quý Mùi 2003, TPHCM.
[5] Bùi Công Luân (em ruột Bùi Giáng), báo Khởi Hành, số 25, tháng 11/1998, tr. 27, California.
[6] Bùi văn Vịnh, trong Chớp Biển, sđ, tr. 90.
[7] Trường Ðại Học Văn Khoa, Sài Gòn, có từ 1958. Trước đó, có lớp Văn dạy tại Ðại Học Sư Phạm, 1956. Khoa trưởng cả hai trường thời đó là G.s Nguyễn huy Bảo, mà Bùi Giáng tỏ lòng ngưỡng mộ, như đã tuyên bố ở trang 17, báo Thời Văn, 6-1997, Sài Gòn.
Tại Khu IV, khoảng 1948, chỉ có lớp dự bị Văn Khoa, 7 sinh viên học với g.s. Ðặng Thai Mai, làng Quần Tín, Thanh Hóa, và g.s. Cao Xuân Huy tại Diễn Châu, Nghệ An. Cụ Huy là thầy Bùi Giáng môn Pháp văn, tại trường Thuận Hóa, Huế.
[8] Bùi Công Luân, trong Chớp Biển, sđd, tr. 15, có đăng lại trên báo Khởi Hành, số 16 tháng 2-1998, tr. 20, California.
[9] Cùng một thời điểm với nhà thơ Tạ Ký 1928-1979. Tạ Ký vào học trường Khải Ðịnh 1952, Huế, học đủ ba năm cấp ba, đậu Tú Tài năm 1955.
Tạ Ký cùng quê, và ở cùng xóm, trong làng Trung Phước với Bùi Giáng. Làng này đã trở thành một đề tài thi ca qua câu thơ Tạ Ký :
Trung Phước ơi, sông sâu dài uốn khúc,
Tình cheo leo cao vút một con đèo.
Trong chiến tranh, một chiều mưa bên bờ sông Vĩnh Ðiện, nhà thơ Tường Linh, quê ngoại ở Trung Phước, học trò Pháp văn của Bùi Giáng, nhìn về Trung Phước, có câu thơ cảm động :
Thấy gì đâu, chỉ thấy núi mây mờ
Lòng gọi mãi tên làng xưa Trung Phước !
Nhà văn Võ Phiến, 1986, có lời bình luận : « Làng Trung Phước, ngày còn ở trong nước tôi chưa đến bao giờ, chính dân làng còn khó về làng huống hồ người xa kẻ lạ. Từ khi xa nước, nghe nói tới Trung Phước càng thấy mơ hồ típ tắp. Tôi đinh ninh đó là một làng đáng tưởng nhớ, đáng mê say : dễ gì một ngôi làng nhỏ bé hẻo lánh, mà có được hai thi sĩ dễ thương ngoan lành như vậy ? Hơn nữa, ngoài Tạ Ký và Tường Linh, làng Trung Phước còn liên hệ dến một thi sĩ thứ ba rất quen thuộc là Bùi Giáng, người đã từng sống với đàn dê tại đây một thời gian thời kháng chiến chống Pháp »
(Võ Phiến, Văn Học Miền Nam – Thơ, nxb Văn Nghệ, tr. 3145, 1999, California.)
Khi mộ Tạ Ký được dời về Gò Dưa, Thủ Ðức, Tường Linh có đọc điếu văn.
Ngày nay cùng nghĩa trang với Bùi Giáng.
[10] Bùi Giáng, tạp chí Thời Văn, số 19, tháng 6-1997, tr. 26, TPHCM.
[11] Nguyễn minh Sơn, báo Người Lao Ðộng, sđd.
Chúng tôi chua thêm hai điều :
a) Mười lăm năm là cái « khớp » trong đời Bùi Giáng : mười lăm tuổi, rời thôn ấp về « thành phố » Huế, mười lăm năm sau, đất nước chia đôi, rồi 1969, vào dưỡng trí viện Biên Hòa, v..v… Ôâng có bài thơ Mười lăm năm :
Mười lăm năm ngọn tử phần
Mù sương cố quận chín tầng tầng rơi
Linh cảm, có thể quan hệ với thân phận Thúy Kiều.
b) Tâm sự u uất : Bùi công Luân xác nhận điều này, khi Bùi Giáng rời gia trang ở Thanh Châu miền trung du Trung Phước chăn dê : « dường như anh muốn xa lánh trốn tránh, thậm chí đoạn tuyệt với một cái gì đó. Có thể là một quá khứ với những kỷ niệm không phai. Có thể là một đoạn đời với nhiều bão giông còn âm ỉ »
Bùi Giáng có thơ :
Người điên mang một mối buồn
Chưa bao giờ biết cỗi nguồn từ đâu
(Một Lần Nàng Tiên)
[12] Thơ Ðiên, nxb Ki-Gob-Jó-Cì, Thái Bình Ðiên Quấc, năm Chó 70, tr. 81, 1970, Sài Gòn.
Sách do các bác sĩ dưỡng trí viện Nguyễn văn Hoài, Biên Hòa, thực hiện, 140 trang khổ 16x24 cm.
[13] Viên Linh, Khởi Hành số 25 bđd, tr. 23.
[14] Mặc Thu, Khởi Hành, số 25, tr. 25.
[15] Trần Hữu Cư, báo Thời Văn, bđd, tr. 71.
[16] Thơ Ðiên, sđd, tr. 80.
Giám đốc dưỡng trí viện là Tô dương Hiệp, con trai nhà văn Bình Nguyên Lộc. Bác sĩ chuyên trị Bùi Giáng và thân thiết, là Nguyễn Tuấn Anh.
[17] Nguyễn minh Sơn, báo Người Lao Ðộng, sđd.
[18] Mai Thảo, tạp chí Văn, số 26, tháng 8-1984, California, in lại trong Hợp Lưu, số 44, tháng 12-1998, tr. 15-16, California.
Bùi Giáng
Sơ thảo, gọi như vậy vì tính cách sơ lược của bài viết.
Vì một số dữ kiện nêu lên, không chắc chắn, dù cho người viết hết lòng tìm căn cứ. Chung quanh Bùi Giáng có nhiều giai thoại, dần dần trở thành huyền thoại, đồng thời với những tư liệu có khi không hợp lý, hay mâu thuẫn, không dễ gì kiểm chứng.
Sơ thảo, vì lối biên tập còn rườm rà, khi chúng tôi cố tình muốn đưa ra nhiều tư liệu, có lúc ngoài lề, để người khác có thể men theo và truy cứu thêm, về chuyện này hay chuyện khác.
Sơ thảo, tóm lại, không phải là lời từ tốn vào đề chiếu lệ, mà là lời mời gọi giới văn học và độc giả cải chính, bổ sung đào sâu hay nâng cao.
Bùi Giáng đứng tên trên khoảng 60 đầu sách, chủ yếu là 14 tập thơ, xen kẽ 19 dịch phẩm, 6 sách giáo khoa đầu tay, phần còn lại là biên khảo về triết học và thơ. Hiện nay còn khoảng 10 tập thơ và nhiều văn bản dịch, chưa in.. Bùi Giáng có vẽ tranh và có để lại tác phẩm, chủ yếu là ký họa.
Trên cơ bản, Bùi Giáng là nhà thơ.
* *
*
Bùi Giáng là tên thật.
Có khi sử dụng nhiều bút danh khác : Vân Mồng, Bùi Bàng Giúi, Bùi Báng Giùi, Báng Giùi, Trung Niên Thi Sĩ, Ðười Ươi Thi Sĩ.
Ông sinh ngày 17 tháng 12 năm 1926, Bính Dần, tại làng Thanh Châu, nay đổi thành Duy Châu vì thuộc huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam [1] .
Thân phụ là Bùi Thuyên, tục danh Cửu Tý, địa chủ giàu có; thân mẫu là Huỳnh thị Kiền, còn tên là Hai. Cụ Bùi Thuyên có hai đời vợ, bà trước là con Phạm Tuấn, là một trong năm tiến sĩ đồng khoa 1898 cùng quê Quảng Nam, gọi là Ngũ Phụng Tề Phi [2]. Bà mất sớm khi hạ sinh người con thứ ba. Bà sau là cháu nội cụ Hoàng văn Bảng, em ruột Hoàng Diệu, phó bảng khoa 1853, Thượng thư Bộ Binh, Tổng Ðốc Hà Ninh, tuẩn tiết tại Hà Nội năm 1882. Bà sinh được hai gái và bảy trai. Bùi Giáng là con thứ năm, kể cả con bà mẹ trước, nên còn tên là Sáu Giáng.
Những chi tiết này chứng tỏ Bùi Giáng xuất thân tự một giòng họ gia thế. Họ này gốc Nghệ An, di dân vào đây từ đời Hồng Ðức [3].
Nhiều người trong giòng họ này nổi tiếng như bác sĩ Bùi Kiêùn Tín, sản xuất dầu khuynh diệp, kỹ sư Bùi Thạnh, hay giáo sư Bùi xuân Bào, gia đình ra lập nghiệp tại Huế.
« Dòng họ Bùi giàu có bậc nhất trong vùng với những sở ruộng « cò bay thẳng cánh, chó chạy cong đuôi ». Bùi Giáng trong mắt người dân thuở đó là một trang công tử. Dòng họ Bùi gốc ở Vĩnh Trinh lên ngụ cư ở Trung Phước khoảng những năm đầu của thập kỷ 40. Hồi đó, dòng họ có những căn nhà lầu đầu tiên ở xứ này. Trong nhà của họ có rất nhiều nô bộc. Sau này, nhà Quảng Nam học Nguyễn văn Xuân nhận xét rằng những dòng họ giàu có nổi tiếng ở xứ Quảng đều sinh sống dọc hai bên triền sông, tận dụng lợi thế « nhất cận thị, nhị cận giang » [4] .
Sông Thu Bồn quanh năm có lưu lượng cao, nối liền miền Thượng Du với cửa Ðại (Hội An), cửa Hàn (Ðà Nẵng) và cửa Kỳ Hà (Tam Kỳ) qua nhiều sông lớn khác. Do đó, Vương Quốc Chăm đã đóng đô tại vùng Trà Kiệu, bên sông này, khoảng thế kỷ IV.
Nhờ kinh tế phồn thịnh, dân địa phương nhiều người học hành và đỗ đạt.
Bùi Giáng sinh ra và lớn lên giữa « những dãy nhà rộng thênh thang tường xây bằng đá »[5]. Thời niên thiếu giữa một thiên nhiên phong phú, nhiều sắc thái : sông hồ, đồi núi, ruộng nương là một thiên đường mà Bùi Giáng suốt đời hoài vọng, và gọi là cố quận. Trong Ngày Tháng Ngao Du, ông kể : « Hồi nhỏ, tôi được sanh ra và lớn lên trong miền quê hẻo lánh. Chung quanh có ruộng đồng sông núi trùng điệp, những đám cỏ chạy suốt tuổi thơ. Làng tôi xưa kia có nhiều cỏ mọc, cỏ mọc từ trong làng ra ngoài ruộng, tới những cồn, gò, đồi núi thật xanh. Từ đó về sau, tôi tìm kiếm mãi một màu xanh không còn nữa vì những trái bom và hòn đạn khổng lồ ».
Có lẽ vì vậy mà mãi đến tuổi 71 ông mới về quê sau non 50 năm xa cách, qua bài thơ Tâm Sự, 1996, trong Ðêm Ngắm Trăng.
Về học trình của Bùi Giáng, tư liệu chi tiết nhất là bài diễn văn năm 1995 của Bùi văn Vịnh, em ruột : « Thuở nhỏ, anh học trường Bảo An, tại Ðiện Bàn, Quảng Nam. Sau đấy, anh theo Trung học ở trường Thuận Hóa, Huế. Năm 1945, đang lớp đệ tứ thì gặp Ðảo chính Nhật, song anh kịp đậu Thành Chung (Diplôme). Cùng năm, anh lập gia đình riêng – chị qua đời ba năm sau. Việt Minh lên, anh trôi nổi khắp các tỉnh Nam Ngãi Bình Phú của Liên Khu V trong vùng kiểm soát này. Cho đến 1950, khi có kỳ thi Tú tài đặc biệt do Liên Khu V tổ chức (« đặc biệt » vì đề thi do Liên Khu IV gửi vào, thi xong bài thi gửi ra Liên Khu IV chấm), anh đậu Tú tài II Văn Chương, rồi lên đường ra Liên Khu IV, tới Hà Tĩnh, để tiếp tục vào học Ðại Học. Từ Liên Khu V ra Liên Khu IV phải đi bộ theo đường mòn trên núi, hơn một tháng rưỡi trời. Khi ra đến nơi, trong này khai giảng sau khi nghe ông Viện trưởng Ðại học đọc diễn văn, Bùi Giáng quay ngay về Quảng Nam – với một tháng rưỡi đi bộ nữa theo đường mòn trên dãy Trường Sơn. Và anh bắt đầu quãng đời « Mười lăm năm chăn dê ở núi đồi Trung Việt ». Xin mở một ngoặc đơn : con số « 15 » được hiểu với nghĩa tượng trưng của điển « mục dương », và anh chăn dê chứ không bò hay trâu ! Tháng 5-1952, gửi đàn dê lại cho... chuồn chuồn, châu chấu, anh băng qua Huế lấy Tú tài tương đương, để vào Sài Gòn ghi danh theo học Ðại Học Văn khoa. Lần này nữa, sau khi nhìn danh sách các giáo sư sẽ giảng dạy, anh quyết định chấm dứt việc học ở trường của mình tại đây » [6].
Nhiều bài biên khảo sử dụng tư liệu này, vì tư cách của tác giả và những dữ kiện cụ thể được đưa ra. Nhưng cũng có người tự hỏi : Hà Tĩnh thì làm gì có đại học ? Năm 1952, thì Sài gòn làm gì có đại học văn khoa [7] ?
Chúng tôi dò hỏi và đề nghị một học trình khác của Bùi Giáng :
- Tiểu học : Bùi Giáng có học trường Viên Minh, Hội An,
- 1940 ông bắt đầu vào Trung Học, trường Cẩm Bàng, Quy Nhơn. Trường tên như thế vì là tên làng của chủ trường, ông Lâm tô Bông, người Quảng Ngãi.
- 1941-1945 : Bùi Giáng ra Huế, học trường Tư thục Thuận Hóa. Thầy là các vị Hoài Thanh, Ðào duy Anh, Trần đình Ðàn, Lê Trí Viễn... Hai ông sau là cùng quê với Bùi Giáng. Nhà thơ khâm phục và về sau có viết bài ca ngợi các bậc thầy này.
- 1945 : Nhật đảo chính.
Ôâng đỗ bằng Thành Chung, thường gọi là Diplôme, sau khi thi hỏng năm trước, và ở lại lớp Tứ Niên C.
- 1943 : Bùi Giáng đọc trên báo Bạn Ðường, do Hướng Ðạo chủ trương, in tại Thanh Hóa, mấy câu thơ :
Mịt mùng một nẻo quê chung
Người về Cố Quận, muôn trùng ta đi.
Theo Bùi Giáng « đây là một niềm tương ngộ, cuộc trùng phùng, những tao ngộ tình cờ trong một cuộc Hội Thoại ».
Có thể xem như là khởi điểm nguồn sáng tạo văn học của Bùi Giáng, như ông thổ lộ ở phần đầu Lời cố Quận (1972), mà không cho biết tên tác giả câu thơ.
Tuy nhiên trước đó, trong Ði vào Cõi Thơ (1969), Bùi Giáng có trích hai câu này trong một đoạn 4 câu trong bài Cảm Thông (14 câu, 1940) và nói rõ là của Huy Cận. Bài này chưa bao giờ được in ở các thi tập đã xuất bản của Huy Cận.
- 1945 : ông về quê, cưới vợ, dọn lên Trung Phước, một làng Trung Du hẻo lánh.
Vợ ông tên Phạm thị Ninh, trạc tuổi ông, sinh trưởng trong một gia đình công chức khá giả, ông bà Phán Trai, Hội An, ở gần Chùa Cầu, nay còn người em là Phạm văn Hòa, 71 tuổi.
Bà Ninh qua đời năm 1948 vì bệnh dài hạn và đẻ non, đứa con cũng mất, tại làng Trung Phước. Người em, Bùi Công Luân, kể lại rằng khi mất, thì « chị không thấy mặt chồng. Anh Bùi Giáng bấy giờ đang ở Quảng Ngãi, Bình định, Phú Yên gì đó, nghe phong thanh anh đang đi học » [8].
Chúng tôi lần theo, và được biết là giai đoạn này, Bùi Giáng tiếp tục học tại trường Nguyễn Huệ Bồng Sơn, tỉnh Bình định. Trường này không dạy đủ lớp, chỉ dạy hai trên ba năm, bậc Tú Tài, và chỉ dạy chuyên khoa Toán Lý Hóa. Bùi Giáng có ra Hà Tĩnh - bài Kỷ Niệm, trong tập Mưa Nguồn, làm tại Hà Tĩnh, 1951- nhưng có thể để học tiếp ban Tú Tài văn chương, rồi bỏ dở.
Tháng 5-1952, Bùi Giáng về thành [9]. Rồi vào Sài Gòn dạy học.
Học trình Bùi Giáng, chúng tôi chỉ biết có vậy.
Trên cơ bản ông là người tự học và đã đạt tới một kiến thức uyên bác, làm nhiều người ngạc nhiên và kính phục.
Chúng tôi phụ chú thêm ba điểm :
1. Việc hôn nhân : khi trả lời một bài phỏng vấn của báo Thời Văn, 1997, Bùi Giáng có tiết lộ : « phải thuận theo ý cha mẹ lấy cô vợ người thành phố Hội An, suốt đời không biết cày sâu cuốc bẫm là gì » [10]. Người em trai Bùi công Luân có đề cập đến điều này trên báo Khởi Hành số 25 đã dẫn, nói rằng hai bên không yêu nhau, nhưng theo ông Hòa, em bà Ninh, thì đây là một hôn nhân tự nguyện.
2. Việc chăn dê : khoảng 1948, tại Trung Phước, chúng tôi tin vào kỷ niệm của ông Phạm văn Hòa :
« Ôâng anh rể tôi kỳ lạ lắm. Hồi đó ổng mua một đàn dê khoảng 100 con và rủ tôi đi chăn cùng. Buổi sáng ông thường lùa dê vào Giáp Nam, Gò Om, sau đó hai anh em rủ nhau xuống khe (suối) Le ngồi dưới bóng của các lùm tre và… đọc thơ suốt buổi. Có những buổi ổng lang thang lên tận các quả đồi hái hoa, lá kết vòng thơ thẩn đeo vào cổ cho dê… » Ðặc biệt Bùi Giáng rất thương vợ. Sáng nào ông cũng vắt một bát sữa dê đem chưng lên cho vợ uống. Tôi chẳng hiểu hồi đó ông có tâm sự gì nhưng chỉ biết ông nuôi dê để chơi thôi, không thấy bán (vì nhà rất giàu, đâu cần tiền), cũng không hấy giết thịt vì ông rất yêu nhưng con dê. Mỗi con ông đặt cho một cái tên, rất kỳ lạ.
Chuyện Bùi Giáng chăn dê nhiều người còn nhớ. Ðấy là hình ảnh một thanh niên hàng ngày lặng lẽ lùa dê vào núi, trên tay ôm một cuốn sách tiếng Pháp dày cộp.
Quãng đời du mục của Bùi Giáng kéo dài khoảng 3 năm thôi nhưng sau này khi viết Nỗi lòng Tô Vũ, thi sĩ đã đề từ « Kỷ niệm một đoạn đời 15 năm chăn dê núi đồi Trung Việt Nam Ngãi Bình Phú ». Mười lăm năm – nhiều người cho rằng có thể Bùi Giáng lấy thời gian lưu lạc của nàng Kiều để nói về đời mình » [11].
3. Thời kháng chiến : ngày Toàn quốc Kháng Chiến chống Pháp, Bùi Giáng đúng 20 tuổi. Vậy ông làm gì ? chẳng nhẽ chỉ chăn dê và làm thơ ?
Theo nhà thơ Tường Linh, Bùi Giáng trong khoảng một năm, có đi bộ đội, thời đó là Giải Phóng Quân.
Ngoài ra Bùi Giáng trong lúc « vui lòng cởi mở » ở dưỡng trí viện Biên Hòa tháng 5-1969, có kể với các Bác sĩ trong viện : « trong thời trai trẻ, đi kháng chiến, một chiều nọ, mệt, đói, anh đang lê từ bước một với chiếc ba lô khá nặng sau lưng, thì vừa quẹo một đường mòn, anh chợt thấy một thiếu nữ thiểu số đang giặt áo bên bớ suối, anh vừa ngừng chân thì « Bông hoa rừng » nọ cũng vừa ngừng tay giặt, mỉm cười với anh và niềm nở hỏi chào anh. Anh tưởng mình như đang lạc vào suối Ðào-nguyên, và hình ảnh này vẫn không phai trong tâm khảm anh. Ðó là phần Cô em Mọi nhỏ ; còn Hoàng hậu Nam-Phương thì đến với anh trên một bao thư : người mẫu nghi thiên hạ này, sau anh có gặp lại ở Huế – lần này, người thiệt, chớ chẳng phải là một con tem thư – nhưng thực và mộng vẫn không sai biệt. » [12]
Ðoạn văn được trích dài, đêû quy chiếu, về một chi tiết trong tiểu sử mà các tài liệu khác không đề cập, và trong chừng mực nào đó giúp ta hiểu thêm về hình ảnh người đàn bà – rất nhiều đàn bà – trong thơ Bùi Giáng.
* *
*
1952 – 1960 : về vùng « quốc gia », Bùi Giáng vào Sài gòn lập nghiệp, dạy Pháp văn và Việt văn cho nhiều trường Tư Thục : Tân Thịnh, Vương gia Cần … và gửi thơ đăng báo.
Ông cư ngụ tại đường Trương tấn Bửu, nay là Trần huy Liệu, gần chợ Trương minh Giảng, cùng với các em, trong một ngôi nhà giữa vườn cây vú sữa [13]. Võ Phiến, ở gần đó, thường lui tới. Có lần Bùi Giáng chiêu đãi Ðinh Hùng tại nhà, mời ăn Mì Quảng, nhưng tại một căn nhà đường Dixmude, Ðề Thám, theo lời kể của Mặc Thu [14] .
Mì Quảng là món ăn quê hương mà ông tự hào và ưa thích. Có lần tuyên bố : « ta ăn hai ngàn tô mì Quảng nữa ta chết » [15].
Thời gian dạy học, ông đã soạn 6 cuốn sách giáo khoa, do nhà Tân Việt ấn hành, về Bà Huyện Thanh Quan, Lục vân Tiên, Kiều (1957), Tản Ðà, Chu Mạnh Trinh, Tôn Thọ Tường và Phan văn Trị (1959), và một số sách giáo khoa khác, chủ yếu cho học sinh cấp hai.
1960-1975 :
1960 : xuất bản Tư Tưởng Hiện Ðại, biên khảo về tư tưởng phương Tây, chủ yếu là chủ nghĩa hiện sinh đang thời thượng. Có thể xem như là sáng tác đầu tay quan trọng.
Dường như từ thời gian này ông mới học tiếng Ðức, bắt đầu đọc Heidegger, do ảnh hưởng nhóm Phật giáo Vạn Hạnh với Thượng tọa Thích Minh Châu, Tuệ Sĩ, và Phạm công Thiện. Hai cuốn về Heidegger, in 1963, trích nhiều tiếng Ðức.
1962 : xuất bản tập thơ Mưa Nguồn, có bài làm từ 1950, thời chăn dê. Có lẽ Mưa Nguồn là tập thơ đều tay và giá trị nhất của Bùi Giáng. Liên tiếp, năm sau, là 4 thi phẩm : Lá Hoa Cồn, Ngàn Thu Rớt Hột, Màu Hoa Trên Ngàn và Sa Mạc Trường Ca.
Dường như sau đó có thời gian ông về ở chùa Phát Hội, một trung tâm nghiên cứu Phật Học, tiền thân của Ðại Học Vạn Hạnh, với Nhất Hạnh, Tuệ Sĩ, Phạm công Thiện,… .
1965 : chiến tranh leo thang. Cùng với nhóm trí thức : Nhất Hạnh, Hồ hữu Tường, Tam Ích,… Bùi Giáng tham gia kêu goị hòa bình. Dường như đây là hoạt động chính trị chính thức duy nhất trong đời Bùi Giáng. Nhưng lá thư gửi René Char của Bùi Giáng chỉ nói đến hòa bình chung chung.
Thời gian này ông chủ tâm dịch sách, xuất bản 13 dịch phẩm, nhiều nhất là Camus. Kịch bản Ngộ Nhận (le Malentendu) xuất bản 1967, đã đăng trên báo Bách Khoa từ 1963, và Bùi Giáng yêu thích Camus từ lâu. Dường như đôi bên có trao đổi thư từ.
1969 : xuất bản 10 tác phẩm trong một năm, chủ yếu về thơ.
Ðồng thời xảy ra tai nạn lớn : một hỏa tai thiêu rụi căn gác ông ở và chứa sách, trong một ngõ hẻm trên đường Phan thanh Giản, bây giờ là Ðiện Biên Phủ. Căn gác này do tu sĩ Thanh Tuệ, chủ nhà xuất bản An Tiêm, thuê cho Bùi Giáng ở, chứa nhiều tư liệu và rất nhiều sách, Pháp, Anh, Ðức, Hán, có ghi chú. Hỏa hoạn xảy ra khoảng 3 giờ chiều, trước đôi mắt bất lực của Bùi Giáng và Thanh Tuệ, thiêu rụi tư liệu, bản thảo, và sách tặng của Camus, dường như có cả sách tặng của Heidegger.
Bùi Giáng, cuồng nhẹ từ trước, nổi cơn điên, được gia đình đưa vào dưỡng trí viện Biên Hòa đầu tháng 5-1969. Theo các bác sĩ của viện : « Người cầm bút cô độc này, bịnh đã chuyển từ cuồng nhẹ sang cuồng nặng » [16] . Không biết bệnh có di truyền hay không, vì thân sinh ông cũng bị cuồng nhẹ, theo lời người địa phương « thân sinh ông Bùi Giáng là ông Bùi Thuyên, thường gọi là Cửu Tý, Ông Cửu Tý cũng là một người … điên, hàng ngày thường làm bộ cưỡi ngựa bằng mo cau đi từ làng Trung Phước đến làng Cà Tang đọc thơ, làm câu đối và đặc biệt ông này rất thích chọc ghẹo… các cô gái có nhan sắc ! » [17].
Ra khỏi dưỡng trí viện, Bùi Giáng sống lang thang nay đây mai đó. Từ đầu năm 1973, ông dọn về khu nội xá của Ðại Học Vạn Hạnh, đường Trương Minh Giảng, có phòng riêng ở lầu 3. Thời gian này Bùi Giáng thỉnh thoảng có dự những buổi đàm luận chính trị với nhóm trí thức chủ hòa thời đó : Nguyễn đăng Thục, Tuệ Sĩ, Ngô trọng Anh,… Nhưng vẫn ăn ngủ đó đây và biểu diễn nhiều trò lạ mắt trong y phục thùng thình trên hè phố Sài Gòn. Thân hữu và gia đình vẫn ồ ạt xuất bản sách cho ông. Tạp chí Văn đã ra một số đặc biệt Bùi Giáng tháng 5-1973, và Mai Thảo, phụ trách tờ báo giải thích về sau : « Phải làm cái gì về ông. Ðể ghi nhận lại ».
Mai Thảo còn kể tiếp : « chưa biết tìm Bùi Giáng ở đâu, thì thi sĩ bất ngờ ghé thăm tòa soạn. Ông chỉ còn là da bọc xương trong quần áo thùng thình, mái tóc dài đạo sĩ, cái túi vải còn thêm cây gậy (…) Mấy tháng trước biến cố 1975, chỉ thỉnh thoảng nghe thấy ông vẫn lang thang đây đó, một quán này, một bãi hoang kia, ngủ bất cứ ở đâu » [18].
1975-1998 : Sau 1975 bệnh cuồng trầm trọng thêm, dù rằng vẫn có lúc ông sáng suốt. Sống nhờ bạn bè và trợ cấp của gia đình từ nước ngoài. Có lúc ở nhờ chùa Già Lam, xóm Gà, Gia Ðịnh.
Từ 1985, về ở với gia đình người cháu gái, đường Lê Quang Ðịnh, quận Bình Thạnh. Vợ chồng người cháu giúp Bùi Giáng định cư và định tâm, an dưỡng và sáng tác, đến ngày cuối đời. Hiện gia đình này còn giữ nhiều di cảo.
Từ 1992, Tâm trí có phần ổn định, Bùi Giáng làm nhiều thơ trong năm 1993. Sau đó sáng tác cầm chừng, vẫn làm nhiều thơ.
1996 về thăm lại « Cố Quận » Quảng Nam khi đã 71 tuổi.
7-10-1998 (ngày 17 tháng Tám năm Mậu Dần) : Bùi Giáng mất tại Sài Gòn vì bị tai biến mạch máu não.
Ðêm 23-9, ông có uống rượu, trượt té và vào hôn mê sâu. Giải phẩu tối 25-9, nhưng ông vẫn hôn mê, cho đến 14 giờ ngày 7-10 thì qua đời.
Tang lễ được tổ chức trọng thể tại chùa Vĩnh Nghiêm. Khoảng 600 người, phần đông là thanh niên, sinh viên đến canh thức, ngâm thơ. Một đám tang nhẹ nhàng, nhắc lời ông thường nói, để đời : « vui thôi mà ».
11-10-1998 : an táng tại nghĩa trang Gò Dưa, Thủ Ðức.
Hiện nay Bùi Giáng còn 10 tập thơ và dịch phẩm chưa in.
Ðặng Tiến
Viết cho ngày tưởng niệm Bùi Giáng
7-10-2003, Sơ Thu Quí Mùi
Des lisières lointaines
les cerfs ont bramé
Từ ven rừng xa
tiếng nai gào gọi
Apollinaire
--------------------------------------------------------------------------------
[1] Du khách đi thăm di tích Chàm ở Mỹ Sơn, từ quốc lộ số 1, lấy tỉnh lộ 610 khoảng 15 km sẽ đi qua làng Duy Châu. Ði thêm 30 km sẽ đến làng Trung Phước, nơi Bùi Giáng chăn dê, nay đổi là Quế Phước vì thuộc huyện Quế Sơn, phía mỏ than Nông Sơn. Cả hai làng đều nằm bên sông Thu Bồn, bờ bên này và bên kia.
[2] Năm người theo thứ tự là : Phạm Liệu, Phan Quang, Phạm Tuấn, Ngô Truân và Dương hiển Tiến. Ngoại trừ Phan Quang huyện Quế Sơn, bốn người kia đều thuộc huyện Diên Phước, nay là Ðiện Bàn.
[3] Bùi Tấn, Chớp Biển, Sài Gòn, Anaheim 1996, tr. 35.
[4] Nguyễn Minh Sơn, báo Người Lao Ðộng, số Xuân Quý Mùi 2003, TPHCM.
[5] Bùi Công Luân (em ruột Bùi Giáng), báo Khởi Hành, số 25, tháng 11/1998, tr. 27, California.
[6] Bùi văn Vịnh, trong Chớp Biển, sđ, tr. 90.
[7] Trường Ðại Học Văn Khoa, Sài Gòn, có từ 1958. Trước đó, có lớp Văn dạy tại Ðại Học Sư Phạm, 1956. Khoa trưởng cả hai trường thời đó là G.s Nguyễn huy Bảo, mà Bùi Giáng tỏ lòng ngưỡng mộ, như đã tuyên bố ở trang 17, báo Thời Văn, 6-1997, Sài Gòn.
Tại Khu IV, khoảng 1948, chỉ có lớp dự bị Văn Khoa, 7 sinh viên học với g.s. Ðặng Thai Mai, làng Quần Tín, Thanh Hóa, và g.s. Cao Xuân Huy tại Diễn Châu, Nghệ An. Cụ Huy là thầy Bùi Giáng môn Pháp văn, tại trường Thuận Hóa, Huế.
[8] Bùi Công Luân, trong Chớp Biển, sđd, tr. 15, có đăng lại trên báo Khởi Hành, số 16 tháng 2-1998, tr. 20, California.
[9] Cùng một thời điểm với nhà thơ Tạ Ký 1928-1979. Tạ Ký vào học trường Khải Ðịnh 1952, Huế, học đủ ba năm cấp ba, đậu Tú Tài năm 1955.
Tạ Ký cùng quê, và ở cùng xóm, trong làng Trung Phước với Bùi Giáng. Làng này đã trở thành một đề tài thi ca qua câu thơ Tạ Ký :
Trung Phước ơi, sông sâu dài uốn khúc,
Tình cheo leo cao vút một con đèo.
Trong chiến tranh, một chiều mưa bên bờ sông Vĩnh Ðiện, nhà thơ Tường Linh, quê ngoại ở Trung Phước, học trò Pháp văn của Bùi Giáng, nhìn về Trung Phước, có câu thơ cảm động :
Thấy gì đâu, chỉ thấy núi mây mờ
Lòng gọi mãi tên làng xưa Trung Phước !
Nhà văn Võ Phiến, 1986, có lời bình luận : « Làng Trung Phước, ngày còn ở trong nước tôi chưa đến bao giờ, chính dân làng còn khó về làng huống hồ người xa kẻ lạ. Từ khi xa nước, nghe nói tới Trung Phước càng thấy mơ hồ típ tắp. Tôi đinh ninh đó là một làng đáng tưởng nhớ, đáng mê say : dễ gì một ngôi làng nhỏ bé hẻo lánh, mà có được hai thi sĩ dễ thương ngoan lành như vậy ? Hơn nữa, ngoài Tạ Ký và Tường Linh, làng Trung Phước còn liên hệ dến một thi sĩ thứ ba rất quen thuộc là Bùi Giáng, người đã từng sống với đàn dê tại đây một thời gian thời kháng chiến chống Pháp »
(Võ Phiến, Văn Học Miền Nam – Thơ, nxb Văn Nghệ, tr. 3145, 1999, California.)
Khi mộ Tạ Ký được dời về Gò Dưa, Thủ Ðức, Tường Linh có đọc điếu văn.
Ngày nay cùng nghĩa trang với Bùi Giáng.
[10] Bùi Giáng, tạp chí Thời Văn, số 19, tháng 6-1997, tr. 26, TPHCM.
[11] Nguyễn minh Sơn, báo Người Lao Ðộng, sđd.
Chúng tôi chua thêm hai điều :
a) Mười lăm năm là cái « khớp » trong đời Bùi Giáng : mười lăm tuổi, rời thôn ấp về « thành phố » Huế, mười lăm năm sau, đất nước chia đôi, rồi 1969, vào dưỡng trí viện Biên Hòa, v..v… Ôâng có bài thơ Mười lăm năm :
Mười lăm năm ngọn tử phần
Mù sương cố quận chín tầng tầng rơi
Linh cảm, có thể quan hệ với thân phận Thúy Kiều.
b) Tâm sự u uất : Bùi công Luân xác nhận điều này, khi Bùi Giáng rời gia trang ở Thanh Châu miền trung du Trung Phước chăn dê : « dường như anh muốn xa lánh trốn tránh, thậm chí đoạn tuyệt với một cái gì đó. Có thể là một quá khứ với những kỷ niệm không phai. Có thể là một đoạn đời với nhiều bão giông còn âm ỉ »
Bùi Giáng có thơ :
Người điên mang một mối buồn
Chưa bao giờ biết cỗi nguồn từ đâu
(Một Lần Nàng Tiên)
[12] Thơ Ðiên, nxb Ki-Gob-Jó-Cì, Thái Bình Ðiên Quấc, năm Chó 70, tr. 81, 1970, Sài Gòn.
Sách do các bác sĩ dưỡng trí viện Nguyễn văn Hoài, Biên Hòa, thực hiện, 140 trang khổ 16x24 cm.
[13] Viên Linh, Khởi Hành số 25 bđd, tr. 23.
[14] Mặc Thu, Khởi Hành, số 25, tr. 25.
[15] Trần Hữu Cư, báo Thời Văn, bđd, tr. 71.
[16] Thơ Ðiên, sđd, tr. 80.
Giám đốc dưỡng trí viện là Tô dương Hiệp, con trai nhà văn Bình Nguyên Lộc. Bác sĩ chuyên trị Bùi Giáng và thân thiết, là Nguyễn Tuấn Anh.
[17] Nguyễn minh Sơn, báo Người Lao Ðộng, sđd.
[18] Mai Thảo, tạp chí Văn, số 26, tháng 8-1984, California, in lại trong Hợp Lưu, số 44, tháng 12-1998, tr. 15-16, California.
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)