10/8/13

TA VỀ

TA VỀ

tran ho dung 
                             " tặng một ai đó tri âm "


Ta về bẻ bút quăng sông 
 

Đốt trang thơ cũ thả dòng nước trôi 
 

Ta về một sớm tinh khôi 

lên đồi sim tím nhớ  môi em cười 
 

Ta về tìm lại bóng người 
 

Bỏ quên đâu mất giữa mười phương xa 
 

Ta về đứng giữa giang hà 
 

Ngóng con hạc trắng vút qua lưng trời 
 

Em giờ cách mấy trùng khơi 
 

Qua bờ bến lạ , còn lời thủy chung 
 

Chờ ai   chân bước ngập ngừng
 

Ngang  đồi sim cũ rưng rưng nhớ   người 
  
Tranhodung - Saigon . Phật Lịch 2548

                                                                           

Vương Trung Hiếu - Văn chương hậu hiện đại (phần II)



Vương Trung Hiếu 

 9 August 2013

(tiếp theo phần I)

- Bản thể luận (Ontology): xuất phát từ tiếng Hy Lạp Οντολογία, dùng để chỉ sự nghiên cứu triết học về bản chất sự sống, sự tồn tại, thực tại cũng như các phạm trù cơ bản của sự sống và toàn bộ mối quan hệ của chúng …Nó là một phần trong phân nhánh quan trọng của triết học gọi là “siêu hình học” (metaphysics), thường nêu những câu hỏi liên quan tới sự tồn tại của những thực thể nào đó. Nhìn chung, luận đề cơ bản của bản thể luận là “Tồn tại là gì?”, “Cái gì tồn tại?”, “Sự tồn tại của cái hữu hình là gì?” “Sự tồn tại của cái vô hình là gì?” hay “Nếu một đối tượng vô hình tồn tại thì điều đó có nghĩa gì?”…
Trong văn chương hậu hiện đại, những điều trên xuất hiện rải rác trong tiểu thuyết Perdido Street Station (2000) của nhà văn Anh China Miéville, miêu tả thế giới Bas-Lag tưởng tượng – nơi cư ngụ của nhiều chủng tộc thông minh, có ma thuật và phép thần thông…Tác giả sử dụng kỹ thuật steampunk hiện đại rất điêu luyện, xoay quanh trục những nhân vật chính như Isaac Dan der Grimnebulin, Yagharek, Lin và Derkhan Blueday….
Tiểu thuyết House of Leaves (2000) của nhà văn Mỹ Mark Z. Danielewski cũng đặt ra những câu hỏi bản thể luận, cho thấy định dạng và cấu trúc độc đáo qua phong cách và cách thiết kế trang bất thường, tạo ra loại văn chương Ergodic (Ergodic literature) (2). Một số trang chỉ có vài từ hoặc vài dòng chữ, sử dụng cách sắp xếp kỳ lạ để phản ánh các sự kiện trong câu chuyện, thường tạo ra bóng tối và hiệu ứng ngột ngạt.
- Chủ nghĩa hiện thực huyền ảo (magic realism): năm 1925, nhà phê bình nghệ thuật Đức Franz Roh sử dụng cụm từ này để nói về phong cách hội họa gọi là Neue Sachlichkeit (Tính khách quan mới), cho thấy đó là một phản ứng đối với chủ nghĩa biểu hiện trên tạp chí Ý Novecento, do nhà văn – nhà phê bình Massimo Bontempelli biên tập. Đến thập niên 1940, nhiều tác giả Mỹ La Tinh kết hợp lý thuyết của Roh và Bontempelli với những khái niệm kỳ lạ của siêu thực Pháp, sáp nhập những thần thoại bản địa và qui tắc truyền thống vào tiểu thuyết Mỹ La Tinh.
Nhìn chung, chủ nghĩa hiện thực huyền ảo là một thể loại, trong đó những yếu tố ảo cấu thành bộ phận tự nhiên của môi trường hiện thực thế tục. Một tác phẩm hiện thực huyền ảo thường được đánh dấu bằng việc sử dụng tranh ảnh đã xác định rõ, hoặc những vật thể được mô tả một cách siêu thực. Đề tài và chủ đề thường là hư cấu, một cái gì đó xa xăm, không tưởng, giống như một loại giấc mơ nào đó. Đặc điểm của thể loại này là sự pha trộn, cái có thật và cái tưởng tượng được đặt cạnh nhau, cho thời gian xoắn vào nhau, luân phiên thay đổi một cách kỳ lạ, thậm chí cốt truyện và lời kể phức tạp đến mức khó hiểu. Ngoài ra kỹ thuật này còn là cách sử dụng những giấc mơ hỗn hợp, chuyện thần tiên và thần thoại, sự diễn tả siêu thực và biểu hiện, những kiến thức thần bí, yếu tố tạo ngạc nghiên, gây sốc đột ngột, sự khủng khiếp và điều không thể giải thích được.
Trong văn chương hậu hiện đại, chủ nghĩa hiện thực huyền ảo xuất hiện khi một nhân vật trong truyện vẫn tiếp tục sống bên kia thế giới, vượt qua giai đoạn sống thông thường của con người. Điều này được mô tả một cách huyền ảo, cho thấy nhân vật đó sống xuyên suốt nhiều thế hệ. Diễn biến câu chuyện trong một môi trường có thật, nhưng với nhân vật như thế thì qui tắc của thế giới thực sẽ bị phá vỡ.
Từ thập niên 1920 đến 30, chất hiện thực huyền ảo xuất hiện trong lý thuyết của  Roh và Bontempelli, trong những tác phẩm của Kafka, Junger và Musil, trong khuynh hướng Tính khách quan mới của Franz Roh do Doblin thể hiện. Chất này còn có trong tiểu thuyết của những nhà văn Pháp như André Breton, Louis Aragon và Julien Gracq – người đã phát triển lý thuyết mới le merveilleux (yếu tố huyền diệu). Trong giai đoạn này, cần chú ý chi tiết: nhiều nhà nghiên cứu cho rằng tập truyện ngắn Historia universal de la infamia (Lịch sử phổ quát về sự ô danh, 1935) của Jorge Luis Borges là tác phẩm đầu tiên về chủ nghĩa hiện thực huyền ảo.
Từ thập niên 1940 đến 1950, khuynh hướng hiện thực huyền ảo Mỹ La Tinh thể hiện trong lý thuyết của Alejo Carpentier và Flores, trong tác phẩm của Carpentier, Borges, Asturias và Uslar Pietri; ngoài ra, cần phải kể đến trong quyển El reino de este mundo (Vương quốc của thế giới này, 1949) của Alejo Carpentier (Cuba), nói về Cuộc cách mạng Haiti trong thế kỷ 18 và trong tập truyện ngắn Guerra del tiempo (Cuộc chiến thời gian, 1958) chứa đầy chất siêu thực với những tình tiết kỳ lạ. Một đại biểu xuất sắc khác của chủ nghĩa hiện thực huyền ảo chính là Gabriel García Marquez, một nhà văn Colombia nổi tiếng với tiểu thuyết Cien años de soledad (Trăm năm cô đơn, 1967).
Riêng trong văn chương hậu hiện đại, có những  đại diện tầm cỡ như Gunter Grass (Đức), Salman Rushdie ( Ấn Độ) và Italo Calvino (Ý). Những tác giả này thường sử dụng chủ nghĩa hiện thực huyền ảo trong tác phẩm của họ. Đến đầu thế kỷ 21, một khuynh hướng mới pha trộn chất ngụ ngôn với hiện thực huyền ảo xuất hiện trong những truyện ngắn Mỹ, thí dụ The Ceiling của Kevin Brockmeier, Big Me của Dan Chaon, Exposure của Jacob M. Appel và The Mourning Door của Elizabeth Graver…
- Kỹ-văn hóa và bội hiện thực (Technoculture and hyperreality): kỹ văn hóa là một từ ghép mới, hiện nay chưa được định nghĩa chuẩn trong từ điển, tuy nhiên nó đã phổ biến phần nào đó trong giới học viện. Hai nhà biên tập Constance Penley và Andrew Ross đã phổ biến khái niệm này một sách luận văn, miêu tả "kỹ-văn hóa" là sự tương tác giữa chính trị, kỹ thuật và văn hóa.
Bội hiện thực là thuật ngữ được sử dụng trong ký hiệu học và triết học hậu hiện đại, miêu tả sự bất lực của ý thức trong việc phân biệt thực tại với sự mô phỏng thực tại, đặc biệt là trong những xã hội hậu hiện đại có công nghệ tiên tiến. Bội hiện thực được xem là một điều kiện, trong đó cái thực và hư cấu trộn lẫn nhau liền mạch, không thể phân biệt rõ cái gì khởi đầu và cái gì là kết thúc. Nó cho phép hòa trộn cái thực vật chất với cái thực ảo giác, khả năng hiểu biết của con người với khả năng hiểu biết nhân tạo. Những lý thuyết gia hàng đầu về bội hiện thực gồm có Jean Baudrillard, Albert Borgmann, Daniel J. Boorstin, Neil Postman và Umberto Eco (3).
Nhà phê bình văn chương Mỹ Fredric Jameson gọi chủ nghĩa hậu hiện đại là "Lô gíc học văn hóa của chủ nghĩa tư bản hậu kỳ (cultural logic of late capitalism). " Chủ nghĩa tư bản hậu kỳ" gợi ý rằng xã hội đã trôi từ thời đại công nghệ sang thời đại thông tin. Tương tự như vậy, triết gia Pháp Jean Baudrillard khẳng định rằng thời hậu hiện đại (postmodernity) được định rõ bằng bội hiện thực, trong đó sự mô phỏng thay thế cho thực tại. Con người thời hậu hiện đại chìm ngập trong công nghệ và thông tin, trở thành tiêu điểm cho nhận thức của chúng ta về cái thực do sự mô phỏng thực tại dàn xếp (4). Nhiều tác phẩm hư cấu đã xử lý diện mạo của thời hậu hiện đại bằng sự châm biếm và giễu nhại đặc trưng. Thí dụ, tiểu thuyết White Noise (Tiếng động trắng, 1985) của Don DeLillo miêu tả những nhân vật bị tấn công dồn dập bởi "tiếng động trắng" của truyền hình, nhãn hiệu hàng hóa, câu chuyện sáo rỗng…trong những đề tài nổi lên từ giữa đến cuối thế kỷ 20, thí dụ như cơ chế thị trường, sự bão hòa phương tiện truyền thông đại chúng, chứng làm việc trí não mê cuồng, những âm mưu ngầm, sự tan vỡ và tái hòa nhập gia đình, những thảm họa do con người gây ra… Tính chất kỹ- văn hóa và bội hiện thực còn được thể hiện qua Neuromancer (1984) của William Gibson, một truyện dài đậm chất cyberpunk.
- Cyberpunk: là thể loại tiểu thuyết khoa học viễn tưởng hậu hiện đại, tập trung vào việc khai thác công nghệ cao và “thế giới ngầm” (5) (6). Nó khắc họa nét đặc biệt của khoa học tiên tiến, thí dụ như công nghệ thông tin và điều khiển học,  kết hợp với mức độ suy sụp tinh thần và sự thay đổi cơ bản trong các tầng lớp xã hội.
Cyberpunk thường tập trung vào sự xung đột giữa những hacker, công nghệ và ngành khoa học máy tính chuyên nghiên cứu, phát triển những phần mềm, máy thông minh (artificial intelligences). Nó tập trung vào những tập đoàn lớn mạnh, có khuynh hướng “thiết kế” trái đất trong tương lai gần chứ không quá xa hay lấy bối cảnh dải ngân hà khổng lồ như trong Foundation (Nền tảng, 1951) của Isaac Asimov, một tiểu thuyết kể về nhóm khoa học gia tìm cách bảo quản kiến thức khi những nền văn minh chung quanh họ bắt đầu trôi ngược trở lại, hay trong quyển Dune (Cồn cát, 1965) của Frank Herbert, nói về cuộc sống của con người khoảng hơn 21.000 năm sau.
Trong văn chương hậu hiện đại, nhiều tác giả đã vay mượn chất cyberpunk nguyên thủy, kết hợp với ý tưởng sáng tạo cyberpunk mới của riêng họ. Điều này hiện rõ qua When Gravity Fails (Khi sức hấp dẫn không còn, 1986) của George Alec Effinger, một tiểu thuyết có tựa trích từ câu “When your gravity fails and negativity don’t pull you through" trong ca khúc Just Like Tom Thumb’s Blues của Bob Dylan.
Tạp chí Wired do Louis Rossetto, Jane Metcalfe và Ian Charles Stewart thành lập năm 1993 cho thấy sự pha trộn công nghệ mới với nghệ thuật và văn chương, thể hiện những đề tài hiện đại giúp thể loại cyberpunk có lượng độc giả tăng lên đáng kể. Những tác giả trụ cột trong giai đoạn đầu của tạp chí này gồm có Bruce Sterling, Stewart Brand và William Gibson…
- Steampunk: là thể loại phụ của tiểu thuyết khoa học viễn tưởng, khắc họa nét đặc trưng của máy chạy hơi nước, đặc biệt là miêu tả những thành tựu nổi bật của nền văn minh phương Tây công nghiệp hóa trong thế kỷ 19. Năm 1981, quyển Elementary BASIC – Learning to Program Your Computer in BASIC with Sherlock Holmes của Henry Singer và  Andrew Ledgar có thể là tác phẩm hư cấu đầu tiên về cách sử dụng Máy phân tích (Analytical Engine) của Charles Babbage – một loại máy tính tự động hoàn toàn được miêu tả lần đầu năm 1837.
Gần một thập niên sau, William Gibson và  Bruce Sterling giới thiệu tiểu thuyết The Difference Engine (1990), giúp nhận thức về thể loại steampunk phổ biến hơn. Quyển này cung cấp nguyên tắc viết steampunk của Gibson và Sterling về thời Victoria, giai đoạn mà máy vận hành bằng hơi nước của Ada Lovelace và  Charles Babbage được đề xuất. Năm 2008, tuyển tập  Extraordinary Engines của Nick Gevers cho thấy có sự thể hiện chấtsteampunk mới hơn, cũng như những thể loại khoa học viễn tưởng khác.
- Hoang tưởng (paranoia): “paranoia” có nguồn gốc từ chữ Hy Lạp παράνοια (paranoia). Thuật ngữ này được dùng để miêu tả một loại bệnh tâm thần. “Hoang tưởng” là quá trình suy nghĩ tin là bị ảnh hưởng nặng bởi sự lo âu hay sợ hãi, thường liên quan tới sự phi lý hay lừa dối. Ý nghĩ về chứng hoang tưởng có nét đặc trưng là tin bị ngược đãi, tin là có âm mưu nào đó đe dọa mình. Thí dụ: “Ai cũng muốn trả thù tôi!”
Catch-22 của Joseph Heller là quyển tiểu thuyết xuất bản năm 1961, chứng minh cho sự nổi tiếng nhất, hiệu quả nhất về khái niệm “hoang tưởng”. Câu chuyện diễn ra năm 1943 trong Thế chiến II, trình bày quan điểm của nhiều nhân vật phát triển theo trục thời gian của cốt truyện.
Đối với người theo chủ nghĩa hậu hiện đại, không có toan tính nào hoàn toàn lệ thuộc vào đề tài, vì sự hoang tưởng thường dao động giữa ảo giác và sự tri giác sâu sắc. The Crying of Lot 49 của Pynchon là tác phẩm đầu tiên của văn chương hậu hiện đại thể hiện tình trạng có thể xem là ngẫu nhiên, là âm mưu hoặc một chuyện đùa độc ác xoay quanh nhân vật chính Oedipa Maas – một bà nội trợ bị tra tấn, dao động giữa điều nên tin hay không tin vào bằng chứng này hay bằng chứng khác.
Sự hoang tưởng cũng có thể xảy ra cùng lúc với đề tài kỹ-văn hóa và bội hiện thực. Thí dụ, tiểu thuyết Breakfast of Champions (1973) của Kurt Vonnegut lấy bối cảnh là thành phố Midland tưởng tượng, nói về hai người đàn ông da trắng, lớn tuổi, gầy còm và cô đơn trên một hành tinh gần như không còn sự sống. Nhân vật Dwayne Hoover đã trở nên hung tợn khi hắn tin chắc rằng những người khác trên thế giới đều là người máy, chỉ còn hắn là con người thật sự.
- Tối đa luận (maximalism): là thuật ngữ được dùng để giải thích một dòng chảy hoặc khuynh hướng chứa mọi nhân tố của thuật ngữ đa mục đích như chủ nghĩa biểu hiện (expressionism). Vì thuật ngữ này thường được dùng để miêu tả phản ứng chống lại chủ nghĩa tối giản, còn gọi là tối giản luận (minimalism). Nó miêu tả tính chất thừa mứa phơi bày qua sự tích lũy vật dụng phản chiếu xã hội hiện tại. Thuật ngữ này còn diễn tả sự khoe khoang tài sản khổng lồ của kẻ siêu giàu hoặc sự ám ảnh xuất hiện thường xuyên trong hành vi của những người bán đồ cũ, những kẻ đã tích lũy quá nhiều vật dụng gia đình trong quá khứ.
Trong tiểu thuyết hậu hiện đại, ta có thể thấy tính chất tối đa luận trong tiểu thuyết của hai nhà văn Mỹ:  David Foster Wallace với The Broom of the System (1987), Infinite Jest (1996), The Pale King (2011) và Thomas Pynchon với Vineland (1990), Mason & Dixon (1997), Against the Day (2006); Inherent Vice (2009) và Bleeding Edge (2013)…Trong những tác phẩm đó ta sẽ thấy sự lạc đề, tài liệu tham khảo, những chi tiết biên soạn công phu là những miếng nhỏ, tích lũy thành đống trong văn bản. Nó có thể ám chỉ bất cứ cái gì thừa mứa, phức tạp và đầy “tính phô trương”, hoặc cung cấp khả năng tàn phá quá mức trong những đặc điểm và chi tiết đính kèm, tính thô bạo trong khối lượng và chất lượng.
- Tối giản luận (Minimalism): còn gọi là chủ nghĩa tối giản. Khái niệm này trong văn chương thể hiện sự tập trung vào việc mô tả bề mặt, nơi mà độc giả tin rằng họ đóng vai trò hành động trong quá trình sáng tạo câu chuyện. Các nhân vật trong truyện ngắn và tiểu thuyết chứa tối giản luận thường không có vẻ gì nổi bật, nói cách khác: rất bình thường. Họ chỉ là những lát cắt nhỏ của đời sống. Nhìn chung, tối giản luận đối lập với tối đa luận. Nó chỉ đại diện cho cái cơ bản nhất, thiết yếu nhất với những mảng miếng cần thiết, thể hiện cụ thể, rõ ràng qua sự kiểm soát chặt chẽ ngôn từ. Những tác giả hậu hiện đại ứng dụng tối giản luận thường lưỡng lự khi dùng những tính từ, trạng từ (phó từ) hay những chi tiết vô nghĩa. Thay vì cung cấp từng chi tiết nhỏ, tác giả trình bày một văn cảnh chung, sau đó cho phép trí tưởng tượng của người đọc định hình câu chuyện.
Có thể nói Samuel Beckett là tác giả tiêu biểu nhất, bậc thầy ứng dụng tối giản luận trong văn chương hậu hiện đại. Điều này có thể tìm thấy trong những tác phẩm của ông: kịch Happy days (Những ngày tươi đẹp, 1961), tiểu thuyết Meercier et Camier (Meercier và Camier, 1970), tập thơ Mirlitonnades (1978), ngoài ra còn phải kể đến tác phẩm Ohio impromptu (Ứng khẩu Ohio, 1981) và Worstward Ho (1984).
Trên thế giới
Có thể nói văn chương hậu hiện đại là một khuynh hướng sáng tác phổ biến hiện nay trên thế giới, tập trung nhất có lẽ là ở Hoa Kỳ, với những nhà văn, nhà thơ nổi tiếng như Thomas Pynchon, John Barth, Hunter S. Thompson, Kurt Vonnegut, William Gaddis, Robert Shea, Robert Anton Wilson, Donald Barthelme, Samuel R. Delany, Robert Sheckley, Robert Coover, Gilbert Sorrentino, Philip K. Dick, Paul Auster, Joseph McElroy, Nicholson Baker, Mark Leyner, Richard Powers, David Foster Wallace, Chuck Palahniuk, Don DeLillo, Donald Antrim, Tim O’Brien, David Markson, Bret Easton Ellis, Christopher Sorrentino, Joshua Cohen và William H. Gass…
Ở đây, chúng tôi xin giới thiệu những tác phẩm hậu hiện đại xuất sắc bên ngoài nước Mỹ, ngõ hầu chứng minh sự lan rộng của khuynh hướng sáng tác này.
- The Atrocity Exhibition (Sự phơi bày tàn bạo, 1970) của nhà văn Anh J. G. Ballard: một quyển tiểu thuyết súc tích, được cắt rời từng phần và mỗi phần có đời sống riêng. Mỗi chương lại được chia thành những mảng nhỏ. Không có gì rõ ràng cho thấy đâu là khởi đầu, đâu là kết thúc, nghĩa là không theo kết cấu của tiểu thuyết thông thường. Nhân vật chính thay đổi tên trong từng chương hoặc câu chuyện (Talbert, Traven, Travis hay Talbot…), vai trò và cái nhìn của ông ta về thế giới cũng liên tục thay đổi…
- Le città invisibili (Những thành phố vô hình,1972) của nhà văn Ý Italo Calvino: bao gồm những bài thơ tản văn mô tả 55 thành phố do nhân vật chính (nhà thám hiểm Marco Polo) thể hiện; ngoài ra còn có những đoạn đối thoại ngắn giữa Marco Polo và hoàng đế Hốt Tất Liệt (Trung Hoa) xen kẽ mỗi 5-10 thành phố, cho thấy những chủ đề về ngôn ngữ học, bản chất con người và kiến trúc, không giới hạn qui luật vật lý hoặc hạn chế của lý thuyết đô thị…
- It’s Me, Eddie (Tôi là Eddie, 1976) của nhà văn Nga Eduard Limonov : nội dung sách nói về Eddie, một đứa trẻ rời Liên Xô đến nước Mỹ với ảo tưởng giàu sang, có đàn bà, ma túy và tự do nghệ thuật. Thế rồi về sau, Eddie lâm vào cảnh nghèo túng, vợ bỏ, rượu chè. Câu chuyện cho thấy tình yêu và cảm xúc đan xen trong sự buồn chán của công việc và cuộc sống đô thị. Nhìn chung, tác giả chống tất cả, chống lại cả con người, còn cách giải quyết chỉ là nước mắt. Văn của Limonov có khuynh hướng vươn tới mức cuồng loạn của cảm xúc, điều này có là tín hiệu tốt hay xấu, tất cả tùy thuộc vào người đọc.
- La Vie mode d’emploi (Cuộc sống: phương thức sử dụng, 1978) của nhà văn Pháp Georges Perec: một quyển tiểu thuyết phức tạp với những tình tiết và ý tưởng đan xen nhau, với những ám chỉ lịch sử và văn chương, dựa trên cuộc sống của cư dân Paris trong chung cư tưởng tượng ở số 11 đường Simon-Crubellier (con đường không có thật). Cấu trúc tác phẩm dựa trên một số yếu tố, mỗi yếu tố lại kết hợp với một lớp đa phức.
Lanark: A Life in Four Books (Lanark: Cuộc đời trong bốn quyển sách, 1981) của nhà văn Scotland Alasdair Gray: quyển này được viết gần 30 năm mới hoàn tất, từng đoạt giải Sách của năm của Saltire Society và giải David Niven. Tiểu thuyết này bao gồm 4 quyển: quyển 1 và 2 là sách giáo dục nhân cách theo chủ nghĩa thực tế trong giai đoạn đầu thời tiền chiến Glasgow; quyển 3 nói về một chàng trai tỉnh dậy trong một toa xe, không còn nhớ quá khứ, phải đặt tên mình theo một bức ảnh quen thuộc trên tường. Anh ta đến Unthank, nơi đó có một thành phố tưởng tượng không có ánh sáng ban ngày, cư dân đã biến mất vì bị những bệnh biểu tượng kỳ lạ; quyển 4 cho thấy nhân vật Lanark bắt đầu cuộc hành trình trở về Unthank giống như một giấc mơ kỳ quái, với đỉnh điểm của sự tan vỡ, bị tàn phá do xung đột chính trị, thói hám lợi, sự hoang tưởng, suy thoái kinh tế mà anh ta không thể ngăn chặn được…
- Il pendolo di Foucault (Thiết bị quả lắc của Foucault, 1988) của nhà văn – triết gia Ý Umberto Eco: Tiêu đề sách đề cập đến một con lắc có thật, do nhà vật lý Pháp Léon Foucault thiết kế để chứng minh sự quay của trái đất, trong đó có ý nghĩa biểu trưng của sách. Nội dung quyển này tập trung vào sự huyền bí, nhằm cung cấp cách giải thích riêng về thuyết âm mưu của một số nhân vật. Trên thực tế, có thể xem quyển này là một bài phê bình, một sự bịp bợm hoặc giải cấu trúc của những âm mưu lớn, bao quát toàn bộ thường được tìm thấy trong văn chương hậu hiện đại.
- Хазарски речник / Hazarski rečnik (Từ điển Khazar, 1984) của nhà văn Serbia Milorad Pavić: một tiểu thuyết rất khó nhận ra cốt truyện theo cách thông thường, câu hỏi trọng tâm của sách (sự chuyển giáo của người Khazar) dựa trên sự kiện lịch sử những thập niên cuối thế kỷ 8 hay đầu thế kỷ 9, khi hoàng gia và giới quí tộc Kharar chuyển sang Do Thái giáo. Phần lớn nhân vật và sự kiện trong sách đều hư cấu, ngay cả văn hóa của người Kharar (không giống bất kỳ bằng chứng văn học và khảo cổ nào). Quyển này có hình thức ba quyển bách khoa toàn thư mini với sự tham chiếu chéo, tổng hợp từ nguồn Hồi giáo, Thiên chúa giáo, Do Thái giáo; không cho thấy niên đại, mỗi người đọc tự đặt mình vào sách, giống như chơi bài hay domino và tự rút ra kết luận.
- Memoirs of Many in One (1986) của nhà văn Úc Patrick White, người đã đoạt giải Nobel năm 1973. Nội dung sách cho thấy cái nhìn bất thường trong quá trình sáng tạo, so sánh với hoạt động của người mất trí vô hại. Nhà văn đã gánh vác vai trò biên tập cho hồi ký tưởng tượng của Alex Gray, một bà già hơi gàn. Qua ngôn ngữ của bà ta, tác giả cố "khám phá văn phong đóng kịch, giải thích cuộc sống của bà, vì sao bà có mặt trên cõi đời này". Với tư cách là người cầm bút, bà già tạo ra nhiều vai kịch cho bản thân, từ nữ tu sĩ Orthodox Hy Lạp cho tới diễn viên trong kịch Shakespeare, do đó Patrick White mới đặt tựa tiểu thuyết của ông là "many in one" (nhiều người trong một).
- Empire of Dreams (Đế quốc của những giấc mơ, 1988) của nhà văn Puerto Rico Giannina Braschi: miêu tả một cuộc tình dài suốt thập kỷ 1980 ở New York với tất cả những mâu thuẫn của nó. Sự trụy lạc và đam mê của thành phố, quyền lực và sự phụ thuộc, sự tráng lệ và nghèo túng trở thành cuộc sống sôi động trong sách, một màn trình diễn lễ hội lấy cảm hứng từ Cuộc diễu hành Ngày Puerto Rico, đậm chất hiện thực huyền ảo kiểu châu Mỹ La Tinh.
- ねじまき鳥クロニクル (Bản ghi chép chim vặn dây cót, 1995) của nhà văn Nhật Haruki Murakami:  một tiểu thuyết đã từng đoạt giải Văn chương Yomiuri , gồm có 3 phần, nội dung xoay quanh nhân vật chính Toru Okada, một người đàn ông trẻ thất nghiệp, tìm kiếm con mèo bị mất tích của vợ ông. Sau đó ông nhận thấy cũng đang tìm kiếm vợ ông trong cõi âm ti nằm dưới lòng thành phố Tokyo yên bình. Câu chuyện hư cấu, đậm chất trinh thám, đầy sự đe dọa xen lẫn hài hước, miêu tả một cuộc hôn nhân tan vỡ, một cuộc khai quật những bí mật chôn vùi trong Thế chiến II…
- Astronautilía Hvězdoplavba (1995) của nhà văn Cộng hòa Czech Jan Křesadlo: một bài thơ sử thi dài 6575 câu lục ngôn trong tiếng Hy Lạp cổ được dịch song song với thơ lục ngôn Cộng hòa Czech. Câu chuyện khoa học viễn tưởng hậu hiện đại này được truyền cảm hứng từ định đề triết lý của vật lý học lượng tử, cho thấy cái gì đó tồn tại cần được quan sát. Người quan sát trên vũ trụ hóa thân thành con cừu xa lạ. Giết con cừu đồng nghĩa với kết thúc mọi việc. Con cừu và những người khác bị một kẻ hung ác tên là Mandys bắt nhốt rồi bị rượt đuổi bởi một lực lượng biệt kích phản ứng nhanh, thủ lĩnh của bọn này được gọi  là Udeis. Tình tiết câu chuyện có nhiều bất ngờ đối với người đọc.
- Die Ringe des Saturn: Eine englische Wallfahrt (Những chiếc nhẫn của Saturn: Một cuộc hành hương trên đất Anh?, 1999) của nhà văn Đức W. G. Sebald: tiểu thuyết nói về nhân vật kể chuyện không tên (xưng hô ở ngôi thứ nhất) có cuộc hành trình đi bộ xuyên qua Suffolk, một hạt ở East Anglia, đông bắc nước Anh. Nội dung cho thấy sự ám chỉ đến hoàng gia Anh trong quá khứ và bản chất của sự suy tàn, thối nát và mục rửa…
- Natural Novel (Tiểu thuyết tự nhiên, 1999) của nhà văn Bungari Georgi Gospodinov: thể hiện sự phân mảnh phức tạp, chứa nhiều chuyện kể, sự phản chiếu và những chi tiết…lạc đề; bao gồm lịch sử của những nhà vệ sinh và nghệ thuật viết chữ trên tường (graffiti), một sự suy tưởng về mối quan hệ giữa bầy ong và ngôn ngữ, một sự thể nghiệm viết sách bằng cách sử dụng những động từ có một không hai. Quyển này cho thấy những điều buồn cười khó tin qua sự tan vỡ hôn nhân của nhân vật chính, sự không chung thủy của vợ hắn với những người bạn thân của hai vợ chồng và sự mãnh liệt cá nhân, minh họa chân thực cho điều không tưởng trong đời sống hiện nay.
- 2666 (Bí số 2666, 2004) của nhà văn Chile Roberto Bolaño: quyển tiểu thuyết có 5 phần: nói về những nhà phê bình văn chương châu Âu; giáo sư triết học Oscar Amalfitano; nhà báo Mỹ Oscar Fate; những kẻ giết người hàng loạt ở Santa Teresa; nhà văn bí mật Archimboldi (Hans Reiter)…tất cả liên kết ở những mức độ khác nhau, đều liên quan tới những vụ giết hơn 300 người chưa được giải quyết (nạn nhân là những người nữ Mexico trẻ và nghèo ở Ciudad Juárez (khu vực Santa Teresa trong tiểu thuyết).
- Ζ213: ΕΞΟΔΟΣ (Z213: Ra đi, 2009) của nhà văn Hy Lạp Dimitris Lyacos: một câu chuyện giống như nhật ký cá nhân trong hình thức thơ tản văn hậu hiện đại, cho thấy những chuyến lang thang của một người đàn ông trốn khỏi tòa cao ốc như một cơn ác mộng. Nhân dạng của người chạy trốn hay kẻ rượt đuổi không hề được xác định trong cuộc săn lùng ấy, không có nguyên nhân nào cho thấy tại sao người chạy trốn lại bị giam cầm trong tòa cao ốc. Hoàn cảnh lúc đó dường như ám chỉ tình trạng của một loại cầm quyền chuyên chế theo thuyết vị lai đã suy tàn. Cuộc rượt đuổi không được miêu tả bằng ngôn ngữ hiện thực, nó có liên quan đến chủ nghĩa biểu hiện, tạo ra cảm giác sắp bị chết đến nơi, cái có thể nhận thấy trong hai quyển của bộ tam bi kịch Poena Damni. Ấn tượng chung của quyển Z213 là gợi nhớ đến cuộc tìm kiếm tâm linh hay kinh nghiệm của thuyết mạt thế (eschatological experience).
- Crash (Đâm sầm, 1973) của nhà văn Anh J. G. Ballard: trong tiểu thuyết ảo giác này, nhân vật chính Vaughan, "một nhà khoa học truyền hình", bị ám ảnh tình dục qua những tai nạn xe hơi. Gã cho thấy những hoạt cảnh của địa ngục, những "thiên thần ác mộng trên đường cao tốc", những thí nghiệm có hành động tàn bạo, gợi dục trong cảnh đụng xe. Crash là một tiểu thuyết gây tranh cãi,  thám hiểm vào sự phiền muộn và những khả năng đáng sợ của xã hội đương đại. Công nghệ đóng vai trò trung gian trong mối quan hệ của con người.
Ngoài những tiểu thuyết trên, còn có những tác phẩm nổi bật như Москва – Петушки (Moscow-Petushki,1970) của Venedikt Erofeev (Nga), Nikopol Trilogy (1980 – 1993) của Enki Bilal (Pháp), Mantissa (1982) của John Fowles (Anh) và Omon Ra (1991) của Victor Pelevin (Nga)…
Lời kết
Cuối thập niên 1990, ý niệm về sự “cáo chung” của chủ nghĩa hậu hiện đại đã bắt đầu nhen nhúm, hình thành dần, thể hiện qua những bài lý luận phê bình của một số nhà nghiên cứu phương Tây. Người ta bắt đầu nói nhiều hơn về “Chủ nghĩa siêu hiện đại” (Metamodernism), “Chủ nghĩa hậu hậu hiện đại” (Post-postmodernism) hay những khái niệm khác để chỉ giai đoạn sau chủ nghĩa hậu hiện đại như Performatism của Raoul Eshelman, Hypermodernity của Gilles Lipovetsky, Altermodern của Nicolas Bourriaud hay Digimodernism (trước đây gọi là pseudo-modernism) của Alan Kirby…
Dẫu thế nào đi nữa thì văn chương hậu hiện đại vẫn tiếp tục dòng chảy của mình trên thế giới, cũng giống như kẻ “tiền nhiệm” văn chương hiện đại vậy. Các khuynh hướng văn chương vẫn tiếp tục chuyển động trong đời sống tinh thần con người, lớp này bồi lớp trước, đan xen nhau, có thể được tìm thấy đâu đó trong những tác phẩm của đất nước này hoặc đất nước kia. Cái lỗi thời hay “has gone out of fashion” chỉ là những cách nói, chỉ là “dòng ý thức”. Chúng ta hãy chờ xem, giai đoạn kế tiếp của văn chương hậu hiện đại thực sự là gì…
Vương Trung Hiếu

Nguồn tham khảo chính
1.Fowler, Alastair,1989. The History of English Literature, p. 372 Harvard University Press, Cambridge.
2.Ergodic literature: là thuật ngữ do Espen J. Aarseth tạo ra trong quyển Cybertext -Perspectives on Ergodic Literature, có nguồn gốc từ hai chữ Hy Lạp: ergon có nghĩa là tác phẩm, còn hodoscon đường.
3.Wikipedia, 2013. Hyperreality. Truy cập ngày 13 tháng 7 từ http://en.wikipedia.org/wiki/Hyperreality
4.Wikipedia, 2013. Postmodernism. Truy cập ngày 13 tháng 7 từ http://en.wikipedia.org/wiki/Postmodern_literature#Technoculture_and_hyperreality
5.Anonymous, 2009. What is cyberpunk? Cyberpunked. Truy cập ngày 14 tháng 7 năm 2013, từ http://www.cyberpunked.org/cyberpunk/
6.Ketterer, David 1992. Canadian Science Fiction and Fantasy. Indiana University Press. p. 141.
- Wikipedia, 2013. Postmodernism, Postmodernity, Deconstruction, Structuralism, Post-postmodernism, Postmodern literature, Intertextuality, Pastiche, Metafiction, Fabulation, Poioumena, Historiographic metafiction, Temporal distortion, Magic realism, Technoculture and hyperreality, Paranoia, Maximalism, Minimalism…Truy cập từ ngày 13 đến 16 tháng 7 năm 2013.
- Postmodernism. Truy cập ngày 14 tháng 9 năm 2013, từ http://plato.stanford.edu/entries/postmodernism/
- Lyotard, J.-F., 1984. The Postmodern Condition: A Report on Knowledge, Geoff Bennington and Brian Massumi (trans.), Minneapolis: University of Minnesota Press.
- Vattimo, Gianni, 1988. The End of Modernity: Nihilism and Hermeneutics in Postmodern Culture, Jon R. Snyder (trans.), Baltimore: Johns Hopkins University Press.
- General Introduction to the Postmodern. Truy cập ngày 15 tháng 7 năm 2013, từ http://www.cla.purdue.edu/english/theory/postmodernism/modules/introduction.html
- Postmodern Literature. Truy cập ngày 15 tháng 7 năm 2013, từ http://gunn-final.weebly.com/summary.html
- Postmodern Literature. Truy cập ngày 15 tháng 7 năm 2013, từ http://www.studymode.com/essays/Postmodern-Literature-380594.html
- What is Postmodern Literature? Truy cập ngày 15 tháng 7 năm 2013, từ http://www.examiner.com/article/what-is-postmodern-literature
- A list of postmodern characteristics. Truy cập ngày 15 tháng 7 năm 2013, từ http://postmodernblog.tumblr.com/post/106532710/a-list-of-postmodern-characteristics
- Postmodernism. Truy cập ngày 15 tháng 7 năm 2013, từ http://writershistory.com/index.php?option=com_content&task=category&sectionid=4&id=29&Itemid=42
- Postmodernism and SF. Truy cập ngày 15 tháng 7 năm 2013, từ http://www.sf-encyclopedia.com/entry/postmodernism_and_sf
- Histoire de la littérature française Modernité et postmodernité. Truy cập ngày 16 tháng 7 năm 2013, từ http://www.la-litterature.com/dsp/dsp_display.asp?NomPage=6_20s_030_postmod
- Postmodernisme. Truy cập ngày 16 tháng 7 năm 2013, từ http://www.universalis.fr/encyclopedie/postmodernisme/2-litterature/
- Le postmodernisme en littérature. Truy cập ngày 16 tháng 7 năm 2013, từ http://theses.univ-lyon3.fr/documents/getpart.php?id=lyon3.2009.goilan_l&part=238107
- Introduction au postmodernisme. Truy cập ngày 16 tháng 7 năm 2013, từ http://e-toile.org/theorie-aide-creation-introduction-au-postmodernisme-33.html
- POSTMODERNISME / Postmodernism. Truy cập ngày 16 tháng 7 năm 2013, từ http://www.flsh.unilim.fr/ditl/Fahey/POSTMODERNISMEPostmodernism_n.html

 Vương Trung Hiếu

Source : damau.org

Vương Trung Hiếu - Văn chương hậu hiện đại (phần I)



 
 
 

Thuật ngữ "hậu hiện đại" xuất hiện ở phương Tây hơn nửa thế kỷ trước, ứng dụng trong nhiều lĩnh lực của đời sống, trong đó có cả văn chương. Thuật ngữ này cùng với khái niệm văn chương hậu hiện đại đã du nhập vào Việt Nam khoảng một hai thập niên gần đây, thông qua vài quyển sách tham khảo, vài tiểu thuyết và tập truyện ngắn nước ngoài được dịch sang tiếng Việt, ngoài ra còn có một số bài nghiên cứu của các tác giả người Việt khắp nơi trên thế giới về đề tài này. Tuy nhiên số lượng còn rất khiêm tốn so với những ngôn ngữ khác, vì thế chúng tôi quyết định tham gia, góp thêm phần nhỏ để bạn đọc hiểu rõ hơn về hậu hiện đại và văn chương hậu hiện đại.

Chủ nghĩa hiện đại
Chủ nghĩa hiện đại (modernism) là một khái niệm rộng, miêu tả những khuynh hướng nghệ thuật khác nhau, xuất hiện từ cuối thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20. Hiện nay có bốn khái niệm chủ nghĩa hiện đại khác nhau, chúng ta cần phân biệt rõ, xem đâu là chủ nghĩa hiện đại đích thực, có quan hệ trực tiếp với khái niệm mà chúng ta gọi là "chủ nghĩa hậu hiện đại".
- Thứ nhất, chủ nghĩa hiện đại của Giáo hội Công giáo Roma. Đây là chủ nghĩa miêu tả quan điểm thần học, có đặc điểm là "đoạn tuyệt với quá khứ". "Người theo chủ nghĩa hiện đại" (modernist) là thuật ngữ đã được nhắc đến trong thông tri Pascendi Dominici Gregis của Giáo hoàng Pius X gởi đến giáo dân ngày 8 tháng 9 năm 1907.
- Thứ hai, chủ nghĩa hiện đại (Modernismo) trong văn chương châu Mỹ La Tinh – Tây Ban Nha, với chủ soái là Rubén Darío và những tên tuổi nổi bật khác như Leopoldo Lugones, Julio Herrera y Reissig và Julián del Casal …Chủ nghĩa này pha trộn 3 khuynh hướng ở châu Âu: chủ nghĩa lãng mạn, chủ nghĩa biểu tượng và đặc biệt là khuynh hướng Thi sơn (Parnassianism). Nó ảnh hưởng lớn đến toàn bộ thế giới Mỹ La Tinh – Tây Ban Nha, ngoài ra còn là "mốt đương đại" của nhóm nghệ sĩ thuộc Thế hệ 1898, thế hệ mà người Tây Ban Nha gọi là Generación de 1898 hay Generación del 98, bao gồm những tiểu thuyết gia, thi sĩ và triết gia hoạt động ở Tây Ban Nha trong giai đoạn Chiến tranh Mỹ – Tây Ban Nha (1898).
- Thứ ba, chủ nghĩa hiện đại (modernisme) là tên gọi của một phong cách kiến trúc chủ đạo, có liên quan đến những nghệ thuật khác như hội họa và  điêu khắc, đặc biệt là thiết kế và nghệ thuật trang trí. Chủ nghĩa này xuất hiện khoảng năm 1888 đến 1911, riêng ở vùng Catalonia và Barcelona thuộc Tây Ban Nha thì nó có những đặc điểm riêng, mang phong cách kiến trúc của nền văn hóa bản địa. Chủ nghĩa này còn là một bộ phận trong trào lưu chung xuất hiện ở châu Âu, thường được hiểu tương đương với những khuynh hướng nghệ thuật như chủ nghĩa hiện đại (modernism), nghệ thuật mới (art nouveau), nghệ thuật trẻ (jugendstijl), phong cách Liberty (Liberty style),  nghệ thuật ấn tượng và tượng trưng (sezession)…Chủ nghĩa này còn được ứng dụng trong văn chương với những đại biểu xuất sắc như nhà văn Prudenci Bertrana, Caterina Albert, nhà thơ Joan Maragall, còn trong kịch nghệ thì có Ignasi Iglésias và Joan Puig i Ferreter…
- Cuối cùng, chủ nghĩa hiện đại (modernism) có liên quan với chủ nghĩa hậu hiện đại mà chúng ta sắp bàn ở đây. Chủ nghĩa này có quan hệ với chủ nghĩa hiện đại (modernisme) kể trên, dùng để chỉ những trào lưu nghệ thuật và văn chương xuất hiện từ thập niên 1890 đến khoảng năm 1945, hình thành từ sự phát triển nhanh chóng của các đô thị phương Tây, từ sự căm ghét Thế chiến thứ nhất.
Giống như tất cả những kỷ nguyên khác, chủ nghĩa hiện đại bao gồm nhiều khuynh hướng cạnh tranh và không thể định nghĩa như một tổng thể hoặc sự thống nhất riêng. Tuy nhiên, những đặc tính chủ đạo của nó cho thấy đó là sự nghiên cứu tính chất xác thực trong những mối quan hệ của con người, sự trừu tượng trong nghệ thuật và sự đấu tranh không tưởng.
Chủ nghĩa hiện đại bao gồm một chuỗi cách tân trong mỹ thuật, kiến trúc, văn chương, âm nhạc và nghệ thuật ứng dụng. Nó được miêu tả bằng sự thay đổi tư tưởng sâu sắc, qua đó trí tuệ con người tìm kiếm sự cải thiện môi trường, cải thiện mọi khía cạnh của đời sống dựa vào khoa học và kỹ thuật. Chủ nghĩa hiện đại mang toàn bộ sự cách tân của đời sống, bao gồm triết học, thương mại, nghệ thuật và văn chương, với sự trợ giúp của công nghệ và thí nghiệm. Nó hướng dẫn đến mọi mặt của cuộc sống bằng sự thay đổi cách tiếp cận, quan điểm của nhân loại về chúng.
Chủ nghĩa hiện đại coi trọng tư duy logic và lý trí, cách tiếp cận lý thuyết, phân tích và khách quan. Người theo chủ nghĩa hiện đại không quan tâm đến chính trị, tìm kiếm chân lý trừu tượng của đời sống, cố gắng phát triển thế giới quan chặt chẽ, tin vào việc học từ kinh nghiệm quá khứ. Ngoài ra, họ còn tin cậy vào văn bản nói về quá khứ, thường phân tích đề tài bằng cách đào sâu tận gốc rễ, dựa vào kết quả và nguyên nhân của sự việc.
Trong nghệ thuật, chủ nghĩa hiện đại bác bỏ thẳng thừng ý thức hệ của chủ nghĩa hiện thực, cái hữu lý trong tư tưởng của Thời kỳ Khai sáng (Enlightenment) và cả ý tưởng về lòng trắc ẩn của đấng Tạo hóa toàn năng. Một đặc tính nổi bật của chủ nghĩa hiện đại là tự ý thức. Điều này thường dẫn tới những thể nghiệm về hình thức và tác phẩm thu hút sự chú ý đối với cách thức và vật chất sử dụng (và đối với cả khuynh hướng trừu tượng). Trào lưu hiện đại giới thiệu những quan điểm và phương pháp sáng tác mới như chủ nghĩa biểu hiện, siêu thực, lập thể, ấn tượng, Đa đa và vị lai…

Chủ nghĩa hậu hiện đại là gì?
Trước tiên, chúng ta phân tích thuật ngữ "hậu hiện đại" (postmodern). Thuật ngữ này lần đầu được sử dụng khoảng thập niên 1870. Trong giai đoạn đó, John Watkins Chapman đề xuất một “phong cách hậu hiện đại trong hội họa” để vượt qua chủ nghĩa ấn tượng Pháp (French Impressionism). Năm 1914, J. M. Thompson viết một bài phê bình tôn giáo, đăng trên tạp chí triết học The Hibbert Journal, sử dụng khái niệm "hậu hiện đại" để miêu tả những đổi thay trong quan điểm và đức tin để thoát khỏi chủ nghĩa hiện đại.
Năm 1917, nhà văn – triết gia Đức Rudolf Pannwitz (1881 – 1969) sử dụng thuật ngữ này để miêu tả sự giáo hóa định hướng chất hiện đại của Friedrich Nietzsche với kết quả cuối cùng là sự điêu tàn và chủ nghĩa hư vô (nihilism).
Từ năm 1921 đến 1925, "chủ nghĩa hậu hiện đại" (postmodernism) được dùng để miêu tả những hình thức mới của nghệ thuật và âm nhạc. Đến năm 1939, với tư cách là một lý thuyết chung trong sự vận động của lịch sử, nó được Arnold J. Toynbee sử dụng lần đầu trong tác phẩm Our own Post-Modern Age (Thời hậu hiện đại của chính chúng ta).
Năm 1942, H. R. Hays miêu tả thuật ngữ này như một hình thức văn chương mới. Đến năm 1949 hậu hiện đại được dùng để cho thấy sự không thỏa mãn trước kiến trúc hiện đại, dẫn tới phong trào "kiến trúc hậu hiện đại" (postmodern architecture), và có lẽ đây còn là phản ứng trước phong trào kiến trúc hiện đại gọi là "Phong cách quốc tế" (International style).
Chủ nghĩa hậu hiện đại là một thuật ngữ bao quát, đa nghĩa, chứa nhận thức hoài nghi về văn hóa, văn chương, nghệ thuật, triết học, kinh tế và những lĩnh vực khác trong đời sống.
Nó có liên quan với phương pháp phân tích văn chương gọi là "giải cấu trúc" (deconstruction ) và hậu cấu trúc luận (post-structuralism). Trong thế kỷ 20 nó là thuật ngữ phổ biến quan trọng bên cạnh tư tưởng hậu cấu trúc (post-structural).
Chủ nghĩa hậu hiện đại xuất hiện sau Thế chiến II, được xem là phản ứng trước những hỏng hốc của chủ nghĩa hiện đại. Nó hình thành từ sự tổn thương tinh thần, chịu ảnh hưởng lớn bởi những sự kiện như Hiệp định Geneva, những nhà tù Soviet, cuộc Cách mạng văn hóa Trung Quốc, bom nguyên tử thả xuống Hiroshima và Nagasaki, nạn tàn sát người Do Thái, bom hủy diệt thành phố Dresden (Đức), những trận bom lửa khiến Tokyo bị thiêu hủy và những trại giam người Mỹ gốc Nhật… Nó còn gợi ý sự phản ứng trước những sự kiện hậu chiến quan trọng như tình trạng không an toàn trong thời kỳ chiến tranh lạnh (1947 – 1991), phong trào đòi quyền cơ bản của người Mỹ gốc Phi (1955-68), hậu quả sau chủ nghĩa thực dân, uy quyền của các tập đoàn đa quốc gia, hệ thống hậu công nghiệp với những kỹ thuật mới và văn hóa tiêu dùng…
Phần lớn các học giả đồng ý rằng chủ nghĩa hậu hiện đại bắt đầu cạnh tranh với chủ nghĩa hiện đại từ cuối thập niên 1950 và có ảnh hưởng lớn từ thập niên 1960, sau đó ngày càng  định hình trong nhiều loại hình như mỹ thuật, văn chương, phim ảnh, âm nhạc, kịch, kiến trúc và triết học.
Trong thập niên 1960, chủ nghĩa hậu hiện đại tác động rõ nét đến sự phát triển của xã hội. Nó được ứng dụng rộng rãi trong nhiều loại hình nghệ thuật, ám chỉ đến tình trạng thiếu hệ thống kết nối các thành phần riêng lẻ (cái cho thấy sự phức tạp, mơ hồ và đa nghĩa).
Chủ nghĩa hậu hiện đại từ chối sự tồn tại của bất kỳ nguyên tắc cơ bản nào. Nó thiếu tính lạc quan hiện có trong khoa học, triết học và chân lý tôn giáo. Về bản chất, chủ nghĩa hậu hiện đại xuất phát từ sự công nhận thực tại không đơn giản chỉ là sự phản chiếu hiểu biết của nhân loại về thực tại. Nó hình thành trong tâm trí để con người cố hiểu chân lý riêng của nó. Vì lý do này, chủ nghĩa hậu hiện đại chính là sự hoài nghi cao độ về những lý giải tuyên bố là “chân lý”, đúng đắn cho tất cả các nhóm, các nền văn hóa, các truyền thống hay các chủng tộc, thay vì phải tập trung vào cái đúng cho từng cá nhân. Trong sự hiểu biết về hậu hiện đại, cách hiểu là tất cả; thực tại trở thành cái cốt lõi qua sự hiểu biết của chúng ta, cái mà thế giới có ý nghĩa đối với mỗi cá nhân chúng ta. Chủ nghĩa hậu hiện đại tin vào kinh nghiệm cụ thể đối lập với những nguyên tắc, luôn biết rằng kết quả kinh nghiệm riêng của ai đó chỉ là sự tương đối, có thể sai lầm, chứ không phải là điều hoàn toàn chính xác, phổ biến cho tất cả.
Chủ nghĩa hậu hiện đại phủ nhận tư duy lô gíc, tiếp cận thế giới hoàn toàn chủ quan. Người theo chủ nghĩa hậu hiện đại không tin vào chân lý trừu tượng hoặc chân lý phổ biến, cố loại bỏ sự khác biệt giữa cái gọi là văn hóa cao và thấp. Họ không tin vào kinh nghiệm trong quá khứ, văn bản nói về quá khứ và cho rằng những gì thuộc về quá khứ không hữu dụng cho hiện tại.
Chủ nghĩa hậu hiện đại dựa trên tình trạng kiến thức không chính xác, bất định và hỗn loạn; thiếu sự phân tích, tư duy hoa mỹ, hoàn toàn dựa trên niềm tin. Người theo chủ nghĩa hậu hiện đại tin vào việc tìm kiếm ở bề mặt của sự vật, không quan tâm tới chiều sâu của vấn đề đang quan sát. Nói cách khác, họ không tin vào việc phân tích sự vật ở chiều sâu. Quan điểm của họ là dựa vào "bội hiện thực" (hyperreality). Họ tin vào sự ngẫu nhiên, tin rằng chân lý dựa trên nền tảng xã hội và các mối quan hệ. Họ bị cuốn hút hoàn toàn vào những quan điểm chính trị.
Trong thời chủ nghĩa hậu hiện đại, với sự tấn công mạnh mẽ của các phương tiện thông tin đại chúng và sự tiến bộ trong công nghệ, truyền hình và máy vi tính trở nên có ưu thế vượt trội trong xã hội. Những tác phẩm nghệ thuật và văn chương đã bắt đầu được sao chép, bảo quản bằng các phương tiện kỹ thuật số. Người ta không còn tin các tác phẩm nghệ thuật và văn chương chứa một ý nghĩa duy nhất. Họ tin vào sự suy luận, nhận thức riêng của họ về những tác phẩm văn chương và nghệ thuật. Internet và các phương tiện media tương tác dẫn tới sự phân bố kiến thức rộng khắp trong xã hội.

Văn chương hậu hiện đại
Nguồn gốc
Như tất cả các khuynh hướng nghệ thuật, chủ nghĩa hậu hiện đại trong văn chương không cho thấy sự phát triển, phổ biến và suy tàn của nó cụ thể như thế nào. Bên cạnh dòng chảy của chủ nghĩa hậu hiện đại vẫn còn đó sự phát triển của chủ nghĩa hiện đại và những trào lưu khác.
Văn chương hậu hiện đại được xem là phản ứng chống lại tư tưởng Khai sáng (Enlightenment) – phong trào ủng hộ lý tính, khoa học và sự hợp lý khởi nguồn từ châu Âu trong thế kỷ 17- 18; chống lại cả sự tiếp cận của những người theo chủ nghĩa hiện đại đối với văn chương. Nó không thích bị định nghĩa hay phân loại là một “trào lưu” (văn chương). Nó có nhiều kiểu lý thuyết phê bình khác nhau, chấp nhận phản ứng đa chiều của người đọc, kể cả cách tiếp cận "giải cấu trúc" (déconstruction) – phương pháp phân tích văn chương của triết gia Pháp Jacques Derrida. Nó phá vỡ cái gọi là "ngầm hiểu", sợi dây liên kết giữa tác giả, văn bản và người đọc thông qua tác phẩm.
Nếu xét về tính dự báo văn chương hậu hiện đại, phải kể đến những tiểu thuyết đầu thế kỷ 20 như Impressions d’Afrique (1910) và Locus Solus (1914) của Raymond Roussel, Hebdomeros (1929) của Giorgio de Chirico. Tuy nhiên tín hiệu rõ nét nhất chính là truyện ngắn Pierre Menard, autor del Quijote (Pierre Menard, tác giả của Đông-ki-sốt,1939) của Jorge Luis Borges, bởi vì truyện này đã phát minh ra ý tưởng “văn chương giễu nhại" (parody) cơ bản, một bài bình luận chỉ trích nhà văn Pháp Pierre Menard, người đã dịch quyển Don Quixote của Miguel de Cervantes từ bản tiếng Tây Ban Nha El ingenioso hidalgo don Quijote de la Mancha (Đông-Ki-Sốt, nhà hiệp sĩ quý tộc tài ba xứ Mancha).
Năm 1941, một số nhà nghiên cứu khẳng định đây là năm khởi đầu cho chủ nghĩa hậu hiện đại. Tuy nhiên, nhà lý luận văn chương Keith Hopper không nghĩ như thế, ông cho rằng The Third Policeman (Người cảnh sát thứ ba) của Flann O’Brien mới là một trong những tiểu thuyết hậu hiện đại đầu tiên (bản thảo hoàn tất năm 1939 nhưng bị cấm xuất bản, đến năm 1967 mới được trình làng). Một quyển khác của Flann O’Brien có tựa đề là The Dalkey Archive, xuất bản năm 1964, hai năm trước khi tác giả qua đời cũng được xem là tiểu thuyết khởi đầu giai đoạn văn chương hậu hiện đại.
Riêng tại nước Mỹ, chủ nghĩa hậu hiện đại được chính thức giới thiệu bằng ấn phẩm đầu tiên là boundary 2, một tạp chí chuyên về văn hóa và văn chương hậu hiện đại, xuất bản năm 1972 (hiện nay vẫn còn hoạt động). Những người tiên phong giới thiệu chủ nghĩa hậu hiện đại trong thời kỳ đó chính là David Antin, Charles Olson, John Cage và Trường thi ca – nghệ thuật Black Mountain…

Những ảnh hưởng đáng kể
Văn chương hậu hiện đại chịu ảnh hưởng mỹ học của một số nhà văn kiêm nhà soạn kịch cuối thế kỷ 19 – đầu thế kỷ 20, đáng kể nhất là sự ảnh hưởng từ August Strindberg (Thụy Điển), một tác giả sáng tác theo phong cách chủ nghĩa tự nhiên và chủ nghĩa biểu hiện, cha đẻ của văn chương và kịch nghệ hiện đại Thụy Điển qua tiểu thuyết Röda rummet (Căn phòng màu đỏ, 1879), kịch Fadren (Người cha, 1887); Ett drömspel (Trò chơi chiêm bao, 1902) và Stora landsvägen (Con đường lớn, 1910)…
Ngoài ra còn phải kể đến ảnh hưởng từ những tác phẩm của Luigi Pirandello (Ý), một tác giả chuyên về khuynh hướng duy thực, khám phá chiều sâu tâm lí và nỗi đau khổ của con người, cụ thể là qua vở kịch Sei personaggi in cerca d’autore (Sáu nhân vật đi tìm tác giả, 1921) và tiểu thuyết Uno, nessuno e centomila (Một, không và mười vạn, 1926).
Người thứ ba có ảnh hưởng sâu sắc đến văn chương hậu hiện đại là Bertolt Brecht (Đức), một tác giả chuyên về sân khấu sử thi, sân khấu phi Aristotle và sân khấu biện chứng, nổi tiếng với vở kịch Die Dreigroschenoper (1928), vở  Der gute Mensch von Sezuan (Người tốt Tứ Xuyên, 1943).
Trong thập niên 1910 những nghệ sĩ liên quan đến trào lưu Đa Đa (Dadaism) ca ngợi sự ngẫu nhiên, văn chương giễu nhại (parody), tính khôi hài và thách thức quyền lực của nghệ sĩ cũng có ảnh hưởng lớn đối với các tác giả hậu hiện đại. Điển hình về sự ngẫu nhiên là cách sáng tạo của nhà thơ Tristan Tzara, người đã tuyên bố trong tác phẩm How to Make a Dadaist Poem rằng, để tạo ra một bài thơ theo chủ nghĩa Đa Đa, người ta chỉ cần cho những con chữ ngẫu nhiên vào một cái nón (mũ), sau đó lấy từng chữ ra để sử dụng.
Nghệ thuật cắt dán ảnh (collage), đặc biệt là những bức ảnh sử dụng các yếu tố quảng cáo hoặc tranh minh họa từ những tiểu thuyết phổ biến cũng có ảnh hưởng đáng kể. Thí dụ: từ “collage novel”, loại sách có hình ảnh được chọn từ những xuất bản khác, cắt dán lại với  nhau theo chủ đề hoặc chuyện kể. Bậc thầy về thủ pháp này là nghệ sĩ Đức Max Ernst, với những tác phẩm như Les Malheurs des immortels (1922), La Femme 100 Têtes (1929), Rêve d’une petite fille… (1930) và Une Semaine de Bonté (1933-1934).
Tiếp tục thể nghiệm bằng sự ngẫu nhiên và giễu nhại trong dòng chảy của tiềm thức, những tác giả siêu thực có tác động lớn đến văn chương hậu hiện đại. Nhà văn kiêm nhà thơ Pháp André Breton đề nghị rằng hành động vô thức (automatism) và sự diễn tả giấc mơ cần đóng vai trò lớn trong sáng tạo văn chương. Ông sử dụng kỹ thuật viết tự động (écriture automatique), nghĩa là sáng tạo từ tiềm thức hay từ nguồn tinh thần/nguồn bên ngoài, mà không có sự ý thức nội dung. Kỹ thuật này ông ứng dụng trong Les Champs Magnétiques (1920), một tiểu thuyết siêu thực cộng tác với Soupault; ngoài ra trong Nadja (1928), Breton cũng sử dụng thủ pháp viết tự động kết hợp với hình ảnh để diễn tả sự giễu nhại.
Sự ảnh hưởng còn đến từ René Magritte, một họa sĩ Bỉ theo trường phái siêu thực, nổi tiếng với những bức tranh kỳ dị và bí ẩn như Portrait of Edward James (Chân dung Edward James, 1937), vẽ Edward James đang nhìn trực tiếp vào gương nhưng chỉ thấy hình ảnh phần lưng của mình trong gương; từ Jacques Derrida, triết gia Pháp đã phát triển lý thuyết phê phán gọi là “Giải cấu trúc” và “Hậu cấu trúc luận”; từ Michel Foucault, một triết gia Pháp khác lừng danh với lý thuyết phê phán các thể chế xã hội, đặc biệt là về tâm thần học, nhân học xã hội về y học, các khoa học nhân văn cũng như về lịch sử tính dục con người…
Ngoài ra còn phải kể đến sự ảnh hưởng từ nhà văn Argentina Jorge Luis Borges, cha đẻ của chủ nghĩa hiện thực huyền ảo Mỹ Latinh với cách viết siêu hư cấu (metafiction).

Đặc điểm và thủ pháp
Xin lưu ý, những đề tài và kỹ thuật dưới đây không phải là đặc điểm và thủ pháp độc quyền của văn chương hậu hiện đại và không phải bất kỳ nhà văn hậu hiện đại nào cũng sử dụng chúng.
- Châm biếm (irony): sử dụng lời nói, kịch tính và tình huống trớ trêu để nhấn mạnh, khẳng định một chân lý hay sự thật nào đó. Thí dụ, dùng hình thức so sánh bằng lời mỉa mai, cách nói giảm (litotes) để nhấn mạnh ý nghĩa cái gì đó (sử dụng ngôn ngữ có cân nhắc để đối lập với sự thật) hoặc tuyên bố rõ ràng, mạnh mẽ điều liên quan đến sự thật; ngoài ra còn những hình thức khác, bao gồm phép biện chứng và thực hành.
Trong văn chương hậu hiện đại, tác giả có thể sử dụng hình thức châm biếm cổ điển (có nguồn gốc từ hài kịch Hy Lạp cổ đại và sự cường điệu của những nhà tu từ học thời Trung cổ); châm biếm bằng lời (nói ngược lại ý nghĩa của sự vật, hiện tượng); châm biếm kịch tính (sử dụng sự mỉa mai vốn có trong bài phát biểu hoặc tình huống của phim và kịch, miễn sao người đọc hiểu ý đồ của tác giả); châm biếm lãng mạn (hài hước về giới hạn của bản thân trong mọi khía cạnh, thường là cười sự trớ trêu một cách lãng mạn và vui vẻ); châm biếm bi kịch (sử dụng những tình huống éo le, kịch tính trong một bi kịch, cho thấy lời nói hay hành động của nhân vật sẽ mang lại kết quả bi thảm nhưng người đọc nhận ra không phải vậy); châm biếm số phận hay châm biếm vũ trụ (mỉa mai số phận, định mệnh vì nghĩ rằng ông Trời đã kiểm soát, trêu chọc, đùa vui trước hy vọng và mong ước của con người); châm biếm hoàn cảnh (mỉa mai một tình huống trong đó hành động có kết quả ngược lại sự chờ đợi) và những hình thức khác như châm biếm thi ca (poetic irony); châm biếm lịch sử (historical irony)…
Trong văn chương hậu hiện đại còn có hình thức vui đùa (playfulness) và chuyện khôi hài (black humor), tác giả có thể sử dụng những đoạn trích để mua vui hoặc châm biếm. Nhìn chung, những hình thức châm biếm, khôi hài trong văn chương hậu hiện đại thường nằm trong những chủ đề nghiêm túc. Thí dụ, sự châm biếm thành ngữ trong tác phẩm Catch-22 của Joseph Heller, khả năng ứng đối ngờ nghệch trong The Crying of Lot 49 – một tiểu thuyết ngắn có chủ đề nghiêm túc, cấu trúc phức tạp của Thomas Pynchon. Ngoài ra, những đặc trưng nêu trên còn bộc lộ rõ nét trong trong quyển Le plaisir du texte  (Niềm vui của văn bản, 1973) của Roland Barthes. Nói như thế, không có nghĩa là bất kỳ nhà văn trào phúng nào cũng được xem là nhà văn hậu hiện đại. Trên thực tế, đã có một số người chuyên viết hài trước đây, bây giờ được dán nhãn là tiểu thuyết gia hậu hiện đại (!). Thí dụ như Joseph Heller, Bruce Jay Friedman, John Barth, hay Kurt Vonnegut….
- Phân mảnh (fragmentation): là một khía cạnh quan trọng khác của văn chương hậu hiện đại. Người ta có thể tìm thấy những mảnh vụn rời rạc trong cốt truyện, tính cách nhân vật, đề tài, hình ảnh và  tình tiết xuyên suốt toàn bộ tác phẩm. Nhìn chung, một chuỗi gồm nhiều sự kiện, con số, hành động…tiếp nối nhau theo trình tự nào đó, thoạt nhìn có vẻ giống tác phẩm hiện đại, song, sự khác biệt chính là cách tiếp cận từng mảnh vụn của văn chương hậu hiện đại. Sự phân mảnh có thể xuất hiện trong ngôn từ, cấu trúc câu và văn phạm. Trong tiểu thuyết Ζ213: ΕΞΟΔΟΣ (Z213: Ra đi, 2009), nhà văn Hy Lạp Dimitris Lyacos cho thấy phong cách viết gần như là điện báo (telegraphic). Hiếm khi ông sử dụng mạo từ và liên từ, chủ yếu dùng biện pháp tu từ của hình thức nhật ký; phần lớn là ngôn ngữ đời thường, giản dị với sự rối loạn và méo mó của văn phạm. Sự khiếp sợ được tạo ra bằng ngôn từ vừa phải, kết hợp để hình thành loại cú pháp không có kết cấu, đứt quãng, dường như chật chội, mà qua đó nỗi sợ hãi trong tiềm thức người đọc có thể tăng lên rồi dịu xuống…
Sự phân mảnh còn xuất hiện bằng những hình thức khác trong tiểu thuyết Giovanni’s Room (Căn phòng của Giovanni, 1956) của James Baldwin hay trong kịch Waiting for Godot (Chờ đợi Godot, 1953) của Samuel Beckett. Theo nhà văn James Morley, nhiều tác giả hậu hiện đại thường tìm kiếm các yếu tố hữu ích trong những hình thức xưa, thí dụ như sử dụng nghệ thuật cắt dán ảnh cho tác phẩm của mình.
- Nghịch lý (paradox): nghịch lý của văn chương hậu hiện đại là đặt toàn bộ các nguyên tắc dưới sự giám sát của chủ nghĩa hoài nghi (absurdism), ngay cả những nguyên tắc riêng cũng có thể bị tra hỏi. Chủ nghĩa hoài nghi (hay chủ nghĩa phi lý) có nguồn gốc từ quan điểm của triết gia Đan Mạch Søren Kierkegaard (1813 – 1855), người đã chọn cách đương đầu với những khủng khoảng mà con người phải đối mặt với sự phi lý. Chủ nghĩa này không thừa nhận lí trí, khả năng khoa học nhận thức được chân lý, bản chất và quy luật của hiện thực khách quan.
Chủ nghĩa hoài nghi cho rằng thế giới bị chi phối bởi những lực lượng phi lý trí, chỉ có thể nhận thức được bằng bản năng, trực giác hay vô thức…Đến cuối thế kỷ 19 – đầu thế kỷ 20, chủ nghĩa này đã trở thành hệ thống với những đại biểu tầm cỡ như Arthur Schopenhauer, Friedrich Nietzsche, Henri Bergson…Chủ nghĩa hoài nghi có liên quan mật thiết với thuyết hiện sinh (existentialism) và thuyết hư vô (nihilism).
Khi bước vào văn chương, đặc biệt là văn chương hậu hiện đại, chủ nghĩa hoài nghi chuyển biến thành “absurdist fiction”, một thể loại xuất hiện trong tiểu thuyết, kịch và thi ca; tập trung vào sự trải nghiệm của các nhân vật trong hoàn cảnh họ không thể tìm thấy bất kỳ mục đích cố hữu nào trong cuộc sống, phần lớn được miêu tả bằng những sự kiện và hành động vô nghĩa cơ bản nhất. Những nhân tố trong văn chương phi lý bao gồm nghệ thuật châm biếm, những câu chuyện cười, điều phi lý, sự tranh cãi về điều kiện triết lý của sự sống “hư vô”. Những tác phẩm văn chương phi lý thường bộc lộ những đề tài về thuyết bất khả tri và hư vô.
Về bản chất, xét phương diện nào đó, văn chương hậu hiện đại có thể là sự chế giễu, sự phi lý, một thể loại không phải hài kịch và cũng không đơn thuần là những hành vi vô nghĩa, nói đúng hơn, nó là sự nghiên cứu về hành vi con người trong những hoàn cảnh (dù hiện thực hay hư cấu) cho thấy không có mục đích, chứa sự vô lý mang tính triết học. Cái phi lý ấy ấn định phần nào đó trong tính cách và hành động của nhân vật và người đọc có thể nhận ra được. Điều này thể hiện khá rõ trong vở kịch phi lý "Chờ đợi Godot" đã nêu ở trên.
Ngoài ra, về sự nghịch lý hay phi lý, chúng ta có thể tìm thấy trong những tác phẩm hậu hiện đại sau: Cat’s Cradle (1963) của Kurt Vonnegut; Rosencrantz & Guildenstern Are Dead (1966) của Tom Stoppard;  The Dice Man (1971) của Luke Rhinehart; Still Life with Woodpecker (1980) của Tom Robbins; Perfume (1985) của Patrick Süskind; The New York Trilogy (1989) của Paul Auster; A Series of Unfortunate Events (1999 – 2006) của Lemony Snicket;  Tales From the Vinegar Wasteland (2006) của Ray Fracalossy; Gagarin Way (2001) của Gregory Burke; Light (2002) của M. John Harrison; Absurdistan (2006) của Gary Shteyngart, The Postmodern Mariner (2008) của Rhys Hughes và Burn Your Belongings (2009) của David Hoenigman…
- Liên kết văn bản (intertextuality): văn chương hậu hiện đại thường sử dụng sự liên kết văn bản: mối quan hệ giữa văn bản này (thí dụ tiểu thuyết) và văn bản khác có kết cấu đan xen trong lịch sử văn chương. Liên kết này có thể là sự tham khảo, trích dẫn, mô phỏng, thảo luận rộng mở hoặc ứng dụng vài quyển sách nào đó trong tác phẩm mới của tác giả.Thí dụ, văn sĩ Canada Margaret Atwood đã lấy chất liệu thần thoại, cổ tích đưa vào nhiều bài thơ của bà trong thời kỳ đầu sáng tác hoặc sử dụng chất liệu khoa học cho những tiểu thuyết khoa học viễn tưởng nổi tiếng của bà như The Handmaid’s Tale (1985) hay Oryx and Crake (2003). Năm 1975, trong một cuộc phỏng vấn trên Pacifica Radio, nhà văn Mỹ Donald Barthelme đã thổ lộ rằng ông chịu ảnh hưởng một số tiểu thuyết gia, đã từng "liên kết văn bản" với những tác phẩm của họ, đặc biệt là đối với Samuel Barclay Beckett (1906 – 989) – nhà văn Ai Len đoạt giải Nobel Văn chương năm 1969.
Một thí dụ liên kết văn bản khác từ đầu thế kỷ 20, đó là tác phẩm Pierre Menard, autor del Quijote của Jorge Luis Borges, một truyện ngắn có liên quan mật thiết với tiểu thuyết El ingenioso hidalgo don Quijote de la Mancha của Cervantes.
Nhân vật Don Quixote cho thấy có sự liên kết văn bản đối với những nhà văn hậu hiện đại, thí dụ như Don Quixote: Which Was a Dream (Don Quixote: đó là một giấc mơ) của Kathy Acker; tiểu thuyết The Sot-Weed Factor (1960) của John Barth có chất liệu lấy từ tựa đề bài thơ The Sotweed Factor, or A Voyage to Maryland, A Satyr (1708) của Ebenezer Cooke. Đôi khi có sự liên kết văn bản khá phức tạp, thí dụ tác phẩm Pinocchio in Venice của Robert Coover liên kết nhân vật phim hoạt hình Pinocchio với quyển Der Tod in Venedig (Cái chết ở Venice) của Thomas Man. Ngoài ra, quyển Il nome della rosa (Tên của hoa hồng, 1980) của Umberto Eco cũng lấy từ hình thức tiểu thuyết trinh thám có liên quan tới những tác giả như Aristotle, Arthur Conan Doyle và Borges.
- Cóp nhặt (pastiche): kết hợp hoặc "dán" nhiều yếu tố vào nhau. Trong văn chương hậu hiện đại, điều này có nghĩa là tôn trọng hoặc giễu nhại những thể loại trong quá khứ. Nó có thể đại diện cho sự hỗn độn, tính đa nguyên hoặc đa khía cạnh thông tin của xã hội hiện đại. Kỹ thuật cóp nhặt có thể kết hợp nhiều thể loại để tạo ra một chuyện kể duy nhất hoặc đưa ra những lời bình về sự vật, hoàn cảnh trong thời hậu hiện đại. Thí dụ, nhà văn Mỹ William S. Burroughs sử dụng kỹ thuật "cut-up" của Brion Gysin, cắt ra những đoạn văn, những con chữ để sáng tạo những câu mới trong quyển Naked Lunch (1959) – một tuyển tập chứa nhiều mảnh vụn "sinh hoạt hàng ngày", trích từ bản thảo The Word HoardThe Nova Trilogy của ông.
Nữ văn sĩ Canada Margaret Atwood sử dụng những tình tiết hư cấu, tưởng tượng, cóp nhặt để sáng tạo tiểu thuyết khoa học viễn tưởng The Handmaid’s Tale. Nhà văn Ý Umberto Eco sử dụng thể loại trinh thám hư cấu, chuyện thần tiên, khoa học viễn tưởng, Derek Pell ứng dụng nghệ thuật cắt dán ảnh, hình sự xã hội đen, sách báo khiêu dâm, cẩm nang du lịch, sách tham khảo, dạy nghề….
Trong văn chương hậu hiện đại, thủ pháp cóp nhặt pha trộn đa dạng thể loại và có nhiều yếu tố khác nhau (thường là siêu hư cấu và bóp méo thời gian). Trong tiểu thuyết The Public Burning (1977) của Robert Coover có những đoạn miêu tả sai sự thật lịch sử về Richard Nixon (Tổng thống thứ 37 của Hoa Kỳ). Những chi tiết này pha trộn, tương tác những nhân vật có thật trong lịch sử với nhân vật hư cấu như Uncle Sam và Betty Crocker.
- Siêu hư cấu (metafiction): về cơ bản, siêu hư cấu là cách viết về cách viết hoặc "làm nổi bật cấu trúc phức tạp của tác phẩm", vì nó là đặc trưng cho cách tiếp cận của người theo chủ nghĩa giải cấu trúc, tạo ra tính chất giả của nghệ thuật hoặc tính chất tiểu thuyết hư cấu mà người đọc có thể nhận ra được, nói chung siêu hư cấu không quan tâm tới sự sự hoài nghi.Thí dụ, sự tri giác hậu hiện đại và siêu hư cấu ra lệnh cho những tác phẩm giễu nhại (parody) cần nhái lại ý tưởng của chính sự giễu nhại.
Siêu hư cấu thường được sử dụng để làm suy yếu quyền lực của tác giả, giúp chuyện kể thay đổi bất ngờ, thúc đẩy nội dung theo lộ trình duy nhất, tạo khoảng cách xúc cảm hoặc bình luận hành động kể chuyện. Thí dụ, tiểu thuyết Se una notte d’inverno un viaggiatore (Nếu một đêm đông có người lữ khách, 1979) của nhà văn Ý Italo Calvino. Nội dung nói về một người đang đọc quyển sách có tựa là Se una notte d’inverno un viaggiatore (chú ý: tựa sách thật và tựa sách trong truyện trùng tên). Quyển này bắt đầu bằng chương nói về nghệ thuật và bản chất của việc đọc, và sau đó được chia thành hai mươi hai đoạn. Những đoạn đánh số lẻ và đoạn cuối cùng cho thấy nhân vật chính kể chuyện bằng đại từ nhân xưng ở ngôi thứ hai, kể cho người đọc những gì mà anh ta đang chuẩn bị cho việc đọc ở chương kế tiếp. Mỗi đoạn đánh số chẵn là một chương đầu tiên của một quyển tiểu thuyết (tổng cộng 10 quyển khác nhau), có sự thay đổi lớn về chủ đề, thể loại, văn phong. Tất cả bị gãy rời, vì những lý do khác nhau được giải thích trong những đoạn rải rác, phần lớn xuất hiện chốc lát trong vài cao điểm của cốt truyện. Trong sách có một chương riêng cho thấy nhân vật thứ hai là người nữ.
Nhà văn Mỹ Kurt Vonnegut cũng thường xuyên sử dụng kỹ thuật siêu hư cấu. Chương I trong tiểu thuyết Slaughterhouse-Five (Lò sát sinh số 5, 1969) là lời nói đầu của Vonnegut về quá trình viết quyển này, kêu gọi chú ý đến sự hiện diện của  xuyên suốt trong tác phẩm. Nội dung sách bắt đầu từ chương thứ hai, nói về người lính Billy Pilgrim phải trải qua hành trình kinh khủng trong Thế chiến II, một sự thám hiểm số phận, ý chí tự do và bản chất phi lý của cuộc sống con người. Cách dẫn chuyện rời rạc, đứt đoạn, hư cấu đến mức không tưởng.
- Fabulation: là thuật ngữ do Robert Scholes phổ biến trong phê bình văn chương. Khái niệm này xuất phát từ quyển The Fabulators (1967) của Robert E. Scholes, miêu tả loại tiểu thuyết phát triển nhất trong thế kỷ 20, có phong cách giống như chủ nghĩa hiện thực huyền ảo, nhưng không tương hợp với những thể loại truyền thống như chủ nghĩa hiện thực hoặc lãng mạn. Nó xâm phạm những tiêu chuẩn tiểu thuyết chuẩn mực bằng sự thể nghiệm mạnh mẽ, có chủ đề, hình thức, thể loại, chuỗi thời gian, sự kỳ quái, thần thoại, ác mộng…làm mờ nhạt những nét độc đáo truyền thống. Nói cách khác, "fabulation" thách thức những khái niệm truyền thống của văn chương (kết cấu truyền thống của tiểu thuyết hoặc vai trò của người kể chuyện), thí dụ: kết hợp những khái niệm chuyện kể truyền thống khác, bao gồm những yếu tố kỳ quái, thí dụ như ma thuật, chuyện hoang đường hoặc những yếu tố từ những thể loại phổ biến như khoa học viễn tưởng.
Một trong những người đã ứng dụng thành công "fabulation" chính là nữ văn sĩ Giannina Braschi. Năm 2011, bà trình làng tiểu thuyết đầy kịch tính là United States of Banana, trong đó pha trộn nhiều thể loại, kết hợp sân khấu thể nghiệm, thơ văn xuôi, tiểu thuyết, tiểu luận và tuyên ngôn về chủ đề dân chủ kể từ sự kiện khủng bố ngày 11 tháng 9 tại Manhattan, New York. Nhà văn Salman Rushdie cũng rất thành công với "fabulation" qua truyện thiếu nhi có tựa đề Haroun and the Sea of Stories (1990), một tác phẩm ngụ ngôn, hiện thực huyền ảo, trình bày những vấn đề tồn tại trong xã hội ngày nay, đặc biệt là trong tiểu lục địa Ấn Độ.
- Poioumenon: xuất phát từ tiếng Hy Lạp cổ ποιούμενον, một thuật ngữ do Alastair Fowler tạo ra để chỉ loại siêu hư cấu đặc biệt, trong đó có câu chuyện kể về quá trình sáng tạo. Theo Fowler, "poioumenon" dùng để cung cấp những cơ hội khảo sát ranh giới của hư cấu và thực tại – những giới hạn của cái có thật dưới hình thức chuyện kể (1). Trong nhiều trường hợp, sách sẽ là quá trình sáng tạo sách hoặc bao gồm phép ẩn dụ quyết định cho quá trình này. Loại siêu hư cấu “poioumenon” xuất hiện từ những thế kỷ trước, được ứng dụng trong tiểu thuyết khôi hài Tristram Shandy (1759) của Laurence Sterney và quyển Sartor Resartus (1836) của Thomas Carlyle. Trong văn chương hậu hiện đại, kỹ thuật này có ý nghĩa quan trọng trong tác phẩm Pale Fire (1962) của nhà văn Mỹ gốc Nga Vladimir Nabokove, nội dung nói về người kể chuyện Kinbote yêu cầu ông ta viết bài phân tích trường thi Pale Fire của John Shade, nhưng chuyện kể về mối quan hệ giữa Shade và Kinbote lại hiện ra trong cái có vẻ là những chú thích cuối bài thơ. Tương tự như vậy, nhân vật chính Saleem Sinai, người kể chuyện trong tác phẩm Midnight’s Children (1980) của Salman Rushdie đã so sánh sự sáng tạo sách của ông ta với sự sáng tạo của tương ớt (chutney) và sự sáng tạo của Ấn Độ độc lập.
- Siêu hư cấu biên sử (historiographic metafiction): một thuật ngữ do nhà lý thuyết văn chương Linda Hutcheon tạo ra. Trong bài A Poetics of Postmodernism, Hutcheon giải thích: tác phẩm siêu hư cấu biên sử là "những tiểu thuyết phổ biến và nổi tiếng, có sự tự phản thân mãnh liệt nhưng nghịch lý là chưa sắp xếp để khẳng định nhân vật quan trọng và sự kiện lịch sử". Siêu hư cấu biên sử là hình thức nghệ thuật hậu hiện đại điển hình, dựa vào lời kịch, văn thơ nhại và sự tái định nghĩa lịch sử.
García Márquez đã sử dụng thành thạo kỹ thuật này trong tiểu thuyết El general en su laberinto (Vị tướng trong mê cung của mình, 1989), nói về những ngày cuối đời của nhà cách mạng Simón Bolívar, người lãnh đạo các phong trào giành độc lập ở Nam Mỹ đầu thế kỷ 19.
Người ta còn thấy siêu hư cấu biên sử trong tiểu thuyết lịch sử  Ragtime (1975) của E. L. Doctorow, nội dung chủ yếu nói về khu vực thành phố New York từ năm 1900 cho tới khi nước Mỹ bước vào Thế chiến I năm 1917. Thomas Pynchon cũng là người ứng dụng thành công kỹ thuật này qua tác phẩm Mason and Dixon (1997), chủ yếu nói về sự cộng tác của hai nhân vật có thật trong lịch sử là Charles Mason và Jeremiah Dixon trong lãnh vực thiên văn và trắc địa ở Cape Colony, Saint Helena, Đảo Anh vào ngày trước lễ hội kỷ niệm Chiến tranh Cách mạng Hoa Kỳ (Revolutionary War).
Nhìn chung, có rất nhiều nhà văn thành danh qua kỹ thuật siêu liên kết biên sử, thí dụ như Margaret Atwood , A. S. Byatt , Angela Carter , Peter Ackroyd , Robert Coover , E. L. Doctorow, Julian Barnes , Umberto Eco,  John Crowley  hay Timothy Findley…
- Bóp méo thời gian (temporal distortion): là kỹ thuật thông thường trong văn hư cấu hậu hiện đại, thể hiện bằng sự phân mảnh và tự sự phi tuyến tính (non-linear narrative), hai đặc điểm chính trong cả văn chương hiện đại và hậu hiện đại. Nhờ kỹ thuật này, tác giả có thể nhảy tới lui bất kỳ thời điểm nào của thời gian. Riêng trong văn hư cấu hậu hiện đại, tác giả có thể sử dụng thủ pháp này trong nhiều cách, thường là vì mục đích châm biếm, khôi hài. Siêu hư cấu biên sử cũng là một thí dụ cho cách này.
Bóp méo thời gian là đặc điểm chính trong nhiều tiểu thuyết phi tuyến tính của nhà văn Mỹ Kurt Vonnegut. Trong Slaughterhouse-Five, tác giả rất thành công khi sử dụng kỹ thuật này cho nhân vật chính Billy Pilgrim, một nhân vật hư cấu "không dính vào thời gian" (unstuck in time), nghĩa là không lường được những thời điểm khác nhau trong quá khứ hay tương lai. Ông ta không bị "dính" vào thời gian như những người khác – theo cách chuyển động đường thẳng từ quá khứ đến tương lai. Ông đã bị "lột rời ra", không còn chịu ràng buộc bởi thời gian. Trong quyển Flight to Canada (Chuyến bay đến Canada, 1976), nhà văn Mỹ Ishmael Reed đã xử lý tinh tế, nghịch ngợm những chi tiết sai thời gian lịch sử, thí dụ cảnh Abraham Lincoln (Tổng thống thứ 16 của Hoa Kỳ) sử dụng điện thoại. Nhìn chung, thời gian đã trở nên méo mó bởi sự pha trộn lịch sử với thực tế chính trị và hài kịch qua lăng kính của Ishmael Reed. Trong Everything Is Illuminated (Mọi điều sáng tỏ, 2002), tiểu thuyết đầu tay của Jonathan Safran Foer, thủ pháp này hiện rõ qua cảnh nhân vật chính Jonathan Safran Foer đến Ukraine, ở nơi ấy mọi điều đã trở nên cũ kỹ so với nước Mỹ, nơi ông khởi hành.
Ngoài ra, thời gian cũng có thể chồng chéo lên nhau, lặp lại hay phân tách trong nhiều sự kiện có thể xảy ra. Một số tiểu thuyết của Thomas Pynchon khắc họa những cảnh hồi tưởng hoặc tình tiết quan trọng, trong đó địa điểm nằm trong nhiều giai đoạn thời gian khác nhau. Thêm vào đó, bất kỳ nhân vật nghiện ma túy nào của Pynchon cũng bị rối loạn thời gian tương ứng với tình trạng say thuốc của họ – vài nhân vật trải qua cảm giác chồng chéo thời gian, những người khác thấy thời gian lặp lại hoặc bị phân mảnh. Trong truyện ngắn The Babysitter (Cô giữ trẻ) từ tuyển tập Pricksongs and Descants (1969), tác giả Robert Coover trình bày nhiều sự kiện có thể xảy ra cùng lúc, ở tiết đoạn này cô giữ trẻ bị giết và cùng lúc ở tiết đoạn khác lại không có gì xảy ra…, mọi việc diễn tiến bình thường, câu chuyện chẳng đưa ra lời giải thích nào rõ ràng về điều này.

(còn tiếp)

 Vương Trung Hiếu

Source : Damau 

 

9/8/13

Hoàng Tiến - Tiếng vỗ tay trong một đám tang


09.08.2013
 Tường thuật của nhà văn Hoàng Tiến

Lời bàn của Lãng tử

Năm 2002 Nông Đức Mạnh đang làm tổng bí thư. Ông ta sẽ phải chịu trách nhiệm danh dự và đạo đức về việc “cạn tàu ráo máng” với  trung tướng Trần Độ trong đám tang do Quốc hội chủ trì để lại ngàn năm bia miệng… Vũ Mão đọc bản Điếu văn tội lỗi chỉ là cái loa phát ngôn … cũng liên danh chịu án vĩnh viễn cùng ông Mạnh trong một trang  sử Việt Nam hiện đại..
Xin biết cho rằng Trưởng ban văn hóa văn nghệ trung ương là Trần Độ cùng phó ban là GSTS Nguyễn Văn Hạnh chấp bút viết Nghị quyết 05 BCT,  người ký ban hành Nghị quyết là TBT Nguyễn Văn Linh. Đó là nghị quyết cởi trói và trả tự do cho văn nghệ sĩ,
Trong bài, nhà văn Hoàng Tiến viết “các cụ dân chủ’ tức là các vị cựu đảng viên Đảng dân chủ Việt Nam bị cựu TBT Lê Duẩn và e kip tuyên bố giải thể (cùng đợt với Đảng xã hội Việt Nam).
GNLT
 Nhà văn Hoàng Tiến
 Đám tang ai mà có chuyện lạ vậy?
Xin thưa, đó là đám tang tướng quân nhà văn Trần Độ tổ chức ngày 14-8-2002 tại nhà tang lễ Bộ Quốc phòng số 5 Trần Thánh Tông.
 Trung tướng Trần Độ là một vị lão thành cách mạng, từng giữ nhiều chức vụ quan trọng trong bộ máy Đảng và Nhà nước cũng như trong tổ chức quân đội, những năm cuối Đảng, bị chính quyền coi là phần tử nguy hiểm, và công an gây nhiều phiền hà. 
 Cho nên đám tang ông khiến mọi người rất quan tâm. Nghĩa tử là nghĩa tận. Người ta chú ý xem lãnh đạo cư xử với đám tang ông ra sao?


Ông mất từ hôm mồng 9-8, việc đưa tin trên báo và tivi rất chậm. Mãi đến ngày 13-8 báo chí mới loan tin, và tối ngày 13-8 cô phát thanh viên trên tivi mới đọc tin tang lễ. Cô vẫn mặc áo màu hoa đẹp hàng ngày, không mặc áo tang đen. Đưa tin sát ngày như thế, thì người các tỉnh xa, trong đó có nhiều đồng đội, đồng nghiệp, và những người ái mộ ông không thể về kịp, vì ngày mai 14 đã lễ tang rồi.
 Ngày 14, từ 8 giờ sáng bắt đầu lễ viếng. Tuy nhiên những người yêu quý ông Độ ở Hà Nội và những tỉnh sát Hà Nội đã về kịp. Họ đi cá nhân, hoặc thành nhóm. Không thấy những viên chức cao cấp đương nhiệm, hoặc các cơ quan đoàn thể đến viếng. Hình như có chỉ thị của Ban Bí Thư (có người nói của Bộ Chính Trị) gửi các cơ quan đoàn thể về tang lễ này, hạn chế sự tham gia.
 Các vòng hoa đề chữ “Vô cùng thương tiếc trung tướng Trần Độ” bị ách lại từ ngoài cổng. Phải bỏ chữ Vô cùng thương tiếc và quân hàm trung tướng đi. Thắc mắc thì anh em nhà tang lễ giải thích: “Chúng cháu chỉ biết làm theo lệnh ở trên”(!)
 Vòng hoa của đại tướng Võ Nguyên Giáp đề hàng chữ: “Vô cùng thương tiếc trung tướng Trần Độ. Đại tướng Võ Nguyên Giáp” cũng bị ách lại, đưa vào phòng đợi ngoài cổng, và đề nghị sửa (có anh em chuyên môn sửa ngay). Nghĩa là phải bỏ hàng chữ Vô cùng thương tiếc, và các quân hàm trung tướng, đại tướng, chỉ còn là ông Võ Nguyên Giáp viếng ông Trần Độ. Thư ký của đại tướng là ông Huyên, phản đối. Chuyện đôi co lằng nhằng, hai bên đều phải xin ý kiến cấp trên của mình. Mỗi bên đều xuống thang một chút. Cuối cùng vòng hoa còn là: “Thương tiếc trung tướng Trần Độ. Đại tướng Võ Nguyên Giáp”. Có lẽ (đó) là vòng hoa duy nhất được giữ gần như nguyên vẹn lời viếng. Nhưng khi Ban Tang Lễ gọi loa đọc tên người viếng thì lại gọi là: “Vòng hoa của ông Võ Nguyên Giáp viếng ông Trần Độ“.
 Những người đứng đợi trong sân nhà tang lễ, nghe thấy thế, đều xì xào bàn tán. Ông Kim Sơn, một lão thành cách mạng, tham gia từ hồi quân giải phóng, không chịu nổi đã tiến lên cự nự Ban Tang Lễ. Quân hàm của Đại tướng Võ Nguyên Giáp là do Bác Hồ phong. Ai dám tự ý tước bỏ? Sao các anh làm ăn bậy bạ thế? Vòng hoa vẫn đề chữ đại tướng, mà các anh đọc sai đi là nghĩa sao?
 Thì quân hàm trung tướng của ông Trần Độ cũng thế, muốn tước bỏ phải có quyết định của quốc hội hoặc chủ tịch nước. Báo chí vẫn đăng là trung tướng, mà tang lễ lại bỏ đi. Thật chẳng ra làm sao! Rõ là trống đánh xuôi kèn thổi ngược!
 Lại nói đến vòng hoa của thượng tướng Lê Ngọc Hiền đề là đồng chí Trần Độ, cũng bị bỏ đi chữ đồng chí. Chắc sự chỉ đạo ở trên cho rằng, ông Trần Độ đã bị khai trừ khỏi Đảng thì không còn gọi là đồng chí nữa. Nhưng họ đã lầm, theo điều lệnh của quân đội, thì từ binh nhì đến tướng lĩnh đều xưng hô với nhau là đồng chí. Ông Lê Ngọc Hiền mặc quân phục, đeo quân hàm thượng tướng trang nghiêm, đến viếng ông Trần Độ, mà cũng chỉ được giới thiệu trên loa là ông Lê Ngọc Hiền đến viếng ông Trần Độ. 
 Trung tướng Nguyễn Hòa cũng quân phục, quân hàm, huân chương đầy đủ và cũng chịu cảnh ngộ như trên.
 Vòng hoa của anh em dân chủ Hải Phòng đề là “Vô cùng kính phục và thương nhớ bác Trần Độ. Các bạn đồng hành ở Hải Phòng” phải sửa thành “Kính viếng bác Trần Độ. Các bạn đồng hành ở Hải Phòng”. Vòng hoa cá nhân Vũ Cao Quận, đi cùng đoàn Hải Phòng, đề “Kính viếng lão tướng Trần Độ. Người lính già Vũ Cao Quận” bị giữ lại. Tranh cãi hồi lâu, không có cụm từ vô cùng thương tiếc, không có trung tướng hay đồng chí, lại không có gì sai phạm về ngữ pháp tiếng Việt, vậy cớ gì phải sửa, ai sửa được đúng hơn, xin mời. Mãi rồi cũng được vào.
 Những vòng hoa mẫu mực có băng chữ ghi phải là “Vòng hoa của ông Nguyễn Văn An kính viếng ông Trần Độ”, “Vòng hoa của ông Lê Đức Anh kính viếng ông Trần Độ”, “Vòng hoa của Văn phòng Quốc hội kính viếng ông Trần Độ ..v..v… Không thấy vòng hoa của ông Nông Đức Mạnh.
 Chúng tôi để ý thấy nhiều bức trướng chữ vàng trên nền đỏ vẫn đề trung tướng, tướng quân, danh tuớng ..v..v… không thể gỡ bỏ vì đã thêu bằng chỉ vàng bám chắc trên vải. Trong đó nổi bật bức trướng của các cụ dân chủ, trướng dài khổ to sát đất phải có gậy treo lên, thêu tám chữ vàng “Nhân văn danh tướng. Trung dũng vẹn toàn”. Bên dưới ghi tên tuổi các vị kính viếng. Trưởng đoàn là cụ Lê Giản, rồi đến các ông Hoàng Minh Chính, Lê Hồng Hà, Phạm Quế Dương, Nguyễn Thanh Giang ..vv…, hơn hai mươi ông. Mọi người xúm lại xem. Chụp ảnh. Quay phim. Có tiếng gọi bằng máy di động, đề nghị tịch thu. Rồi cũng không thấy gì. Mọi việc vẫn êm trôi. Tịch thu bức trướng trưởng đoàn là cụ Lê Giản thì cũng phiền đấy. Hơn nữa các cụ dân chủ đã đứng vây quanh bức trướng. Công an dùng bạo lực thì lôi thôi to.
 Đoàn của các cụ dân chủ chỉ bị kìm lại thôi. Nhiều đoàn đăng ký sau đã vào trước. Ban tang lễ gây khó khăn cho các cụ phải đứng chờ dưới bóng cây, nắng chang chang, nhưng lại có cái hay là nhờ thế, mọi người hết tốp này tốp khác đến chiêm ngưỡng, bàn tán về các bức trướng. Bức trướng của nhà nghiên cứu Hán Nôm Trần Khuê bị quản chế từ Sài Gòn gửi ra:
 Công thần không làm phách
Danh toại chẳng cầu nhàn
Bút thần vung mấy độ
Ðáng mặt đại nghĩa quân. 
 (Ta chú ý bài thơ có chữ phách và chữ độ. Tên khai sinh là Tạ Ngọc Phách, tên tham gia cách mạng là Trần Độ).
 Bức trướng của nhà thơ Bùi Minh Quốc bị quản chế từ Đà Lạt gửi ra, người anh ruột là cụ Bùi Minh Đức gần 90 tuổi, cựu chiến binh chống Pháp, thay mặt em mang đến:
 Vì đại nghĩa nhân chân, thân mấy độ trần thân
Tướng dẫu không nguyên giáp, hồn vẫn vẹn tình dân.
 (Tạm dịch: Người chân chính vì nghĩa lớn, cái thân mình bị mấy lần vùi dập
Viên tướng không còn nguyên giáp, tâm hồn ông vẫn trọn vẹn tình dân).
 Bức trướng của tiến sĩ khoa học Hà Sĩ Phu cũng bị quản chế, từ Đà Lạt gửi ra, viết bẵng chữ Hán, do các cụ trong nhóm thư pháp Cảo Thơm thực hiện:
 Văn võ tung hoành, trung tướng phong trần, thế sự song kiên song trọng đảm
Bắc Nam xuất nhập, đại quân tế độ, hùng binh nhất trượng nhất đan tâm.
 (Câu đối vế trên có Trần, vế dưới có Độ. T”rung tướng phong trần” là trung tướng gian nan, lại có thể hiểu là ông Trần được phong trung tướng. Đại quân tế độ là đội quân cứu đời, tức quân giải phóng miền Nam. Đây nhắc đến việc ông Trần Độ là phó tư lệnh quân giải phóng miền Nam. Vậy câu đối trên có thể tạm dịch là:
 Văn võ dọc ngang, ông Trần được phong hàm trung tướng, việc đời hai vai gánh vác hai trách nhiệm lớn; 
Nam Bắc vào ra, tướng Ðộ chỉ huy quân giải phóng, cứu nước một gậy trường sơn một trái tim hồng).
 Bức trướng của nhóm Cảo Thơm trên nền giấy bồi khổ lớn đề 3 chữ đại tự “Vị dân tâm” (Tấm lòng vì dân), với hàng phụ đề bằng những câu thơ chữ Hán ca ngợi tướng quân Trần Độ. Ông Tú Sót mái đầu bạc phơ, trong nhóm thư pháp Cảo Thơm, luôn miệng giải thích cho mọi người rõ nghĩa:
 Vô tình vị tất chân hào kiệt
Hữu độ phương vi đại trượng phu
 (Nghĩa là :
Sống vô tình (như chủ nghĩa mackeno / mặc-kệ-nó bây giờ), không phải là người hào kiệt.
Có đức độ (vì dân vì nước) mới đáng mặt gọi trượng phu).
 Lại nghe được tin, cụ Độ vừa mất, công an đến đòi khám nhà, không có lệnh. Bà Độ phản đối. Công an đe dọa những người con, bắt hai con trai lên đồn, gây căng thẳng. Cuối cùng gia đình phải nộp 5 thùng sách vở của cụ Độ. Mọi người nghe tin đều phẫn nộ. Quá thể! Gia đình người ta đang tang gia bối rối. Thật nhẫn tâm!
 12 giờ 15 phút, lễ truy điệu bắt đầu. Giới thiệu vị đại diện Văn phòng Quốc hội là ông Vũ Mão đọc điếu văn. Ông Mão có nhắc đến lý lịch, quê quán, ngày sinh, quá trình tham gia cách mạng và những chức vụ ông Trần Độ đã đảm nhiệm. Phần hai, ông ta nói rất tiếc là ông Trần Độ cuối đời đã mắc những lỗi lầm nghiêm trọng… Phần hai tuy không dài, nhưng cả hội trường lặng đi. Không khí như nén lại, ngột ngạt.
 Đến mục gia đình lên đáp từ, người con trưởng cụ Độ là anh Thắng, sau khi kể những tình cảm về người bố, và sau khi cám ơn tất cả các cụ, các ông, bà, chú, bác, các anh chị … đến tham dự tang lễ, lời cuối của bài đáp từ là câu: Tôi thay mặt gia đình xin phép không tiếp nhận lời điếu của vị đại diện Văn phòng Quốc hội” (Chưa bao giờ lại có chuyện như vậy, tang gia khước từ lời điếu của chủ lễ ! !??).
 Như một kho thuốc nổ được châm ngòi, cả hội trường vỗ tay ran lên tán đồng. Tiếng hoan hô lẫn tiếng vỗ tay nổi lên càng to, kéo dài không ngờ, như hội bắn pháo hoa. Các đợt liên tiếp cao hơn, to hơn, dài hơn, càng âm vang cộng hưởng hết cỡ trong vòm nhà hội trường tang lễ. Có cảm tưởng như nóc hội trường sắp bật tung. Nhiều tiếng hét đến lạc giọng, nghe không rõ. Loáng thoáng những từ “hoan hô! phản đối! ngu dốt!, bất nhân!”... lẫn trong những tràng vỗ tay rền vang như sấm động.
 Những uẩn ức trong lòng mọi người bị dồn nén từ sáng đến giờ được dịp nổ tung. Tôi phải trèo lên chiếc ghế, đưa tay lên vành tai, nghiêng đầu lắng nghe. Một người hét to, giọng như người miền núi, tay giơ lên chỉ chỉ vào chiếc khung đen có hàng chữ Lễ tang ông Trần Độ ở trên cao, dưới là chiếc ảnh bán thân của ông mặc thường phục: “Ai cho phép chúng nó bỏ hàng chữ Vô cùng thương tiếc đi. Chúng nó không vô cùng thương tiếc, nhưng chúng tôi vô cùng thương tiếc …”.
 - Thật là bọn ăn cháo đá bát.
 - Không có tướng Trần Độ và anh em chúng tôi thì làm sao có chúng nó ngày nay.
 - Nghĩa tử là nghĩa tận, không có ai đi kiểm điểm người chết trước linh cữu cả.
 - Chuyện này cổ kim chưa thấy bao giờ.
 - Mà đã chắc là ai đúng, chắc là ai sai? Quan tòa là nhân dân.
 - Chúng nó phỉ báng lên truyền thống dân tộc.
 Nơi này, chỗ kia, ầm ầm những tiếng thét, tiếng quát tháo: Bọn phản nhân dân! Phản bội đường lối Hồ Chí Minh! Phản văn hóa! Đề nghị Bộ Chính Trị phải nghiêm trị!
 Có ai nói khẽ: “Đây là chỉ đạo của Bộ Chính Trị”.
 Tiếng quát to: “Nói láo! Bộ Chính Trị sáng suốt, không làm điều ngu dốt như thế. Nói thế là không đúng”.
 Có ai đó lại hô lên: “Trần Độ muôn năm!”.
 Nhân viên an ninh mặc thường phục vây quanh những người quá nóng nảy, đề phòng. Có tiếng hỏi: “Vũ Mão đâu? Vũ Mão đâu?”.
 “Hắn chạy rồi! Lủi ra xe rồi!” Thật là may cho Vũ Mão. Hắn ta đứng đực ra, mặt chảy xị, tái xám, ngơ ngác. Có ai giục, hắn như chợt tỉnh, vội lách ra phía sau, chuồn mất. 
Cũng may cho đám tang nữa. Sự tức giận của khối người đông đảo trong hội trường này, mà túm được Vũ Mão, thì không biết rồi những gì sẽ xảy ra.
 Các cụ dân chủ đều biết kìm mình. Trước đám tang vài ngày, cơ quan an ninh đã cử người đến dò la thái độ các cụ. Lo sợ các cụ dân chủ lợi dụng chiếm diễn đàn, cướp mi-crô, gây ra căng thẳng. Các cụ đã tin lại cho công an biết. Chỉ có đầu óc ngu tối mới nghĩ như thế. Những người yêu quý ông Độ, ai lại muốn phá rối đám tang. Chính lúc các cựu chiến binh, các lão thành cách mạng, bừng bừng nổi giận, thì các ông dân chủ lại bình tĩnh, tìm cách khuyên can, chứ không có thái độ quá khích nào cả.
 Toàn là những người hiểu biết. Sự nóng giận liền dịu xuống. Tang lễ lại tiếp tục. Mọi người đều đứng rẽ ra hai bên làm thành một con đường để đội danh dự mặc lễ phục trắng khiêng linh cữu trong nhà tang lễ ra xe ô tô đã đỗ ở giữa sân. Lúc này nắng lắm!
 Một số phóng viên người nước ngoài tranh thủ phỏng vấn, ghi âm mấy cụ còn chưa nguôi cơn giận.
 Ai cùng đi đến nghĩa trang Hoàn Vũ (hỏa táng) thì lên xe. Tôi chậm chân nên xe tang đã ra ngoài cổng rồi, tôi vẫn còn trong sân để xe đạp xe máy. Gặp chị Ngọc, vợ ông Hoàng Minh Chính, hỏi tôi có đi nghĩa trang? Tôi trả lời sẽ đi bằng xe máy. Chị khuyên tôi nên đi ô tô, đỡ mệt. Các ông ấy đều lên ô tô cả. Tôi chạy vội ra cổng, thì đoàn xe đã đi xa. Lại gặp các cụ dân chủ đứng túm lại ở đầu cổng. Hỏi ra mới rõ, xe còn rộng chỗ lắm, nhưng lái xe không chịu mở cửa cho các cụ lên (đều do công an lái xe). Một cử chỉ nhỏ nhen! Các cụ bèn quyết định thuê tắc-xi đi.
 Trên xe, tiến sĩ Nguyễn Thanh Giang nhận định một cách tổng quát: Chúng nó đểu một cách rất ngu, và đểu đến từng chi tiết”. Nhà báo đại tá chính ủy Phạm Quế Dương lại cười hề hề: “Trò đùa ấy mà! Có gì đâu!”.
 Xe tắc-xi chạy nhanh, bám kịp đoàn xe tang lễ. Quả thật, nhiều xe rất vắng, mang biển số 80B. Biển số này là của công an, nhiều người biết. Hai xe cam-nhông chở đầy vòng hoa viếng, những vòng hoa bên ngoài đều bị bóc hết các băng chữ. Lại nhỏ nhen!
 Dự hỏa táng xong, trở về nhà tang lễ Bộ Quốc phòng thì đã gần 3 giờ chiều. Chúng tôi lấy xe ra về, người mệt nhoài, vì nóng, vì nắng. Rủ nhau vào uống giải khát để lấy sức ngày mai còn đưa hài cốt hỏa táng cụ Độ về Thái Bình.
 Sẩm tối mới về tới nhà, đã thấy mấy ông bạn cựu chiến binh đón từ đầu đường hỏi về chuyện đám tang ông Trần Độ. Thì ra chuyện ở đám tang trưa nay đã đồn ầm lên trong dân chúng. Giấu làm sao được nhân dân! Che làm sao được miệng thế gian! Và bản tin chiều của hãng BBC mãi tít nước Anh đã đưa tin về đám tang. Có cả tiếng nói của cháu Thắng và tiếng vỗ tay rền vang như sấm. Nhanh thật! Trái đất cùng chung một mái nhà.
 Vài lời kết thúc
 Sáng sớm hôm sau (15-8-2002) chúng tôi tập trung tại 37 Lý Nam Đế, nhà ông Phạm Quế Dương, để di Thái Bình cho trọn tình trọn nghĩa. Công an mật đã đến lởn vởn trước cổng, từ 5 giờ sáng.
 Chúng tôi gọi tắc-xi, đúng 6 giờ 30 sáng lên đường. Nhìn sang lịch ta là ngày mồng 7. Ông cha ta dạy: “Chớ đi ngày 7 chớ về ngày 3”. Chúng tôi biết là chuyến đi này sẽ gặp trắc trở đây.
 Quả không sai, quãng đường hơn 100 km về quê cụ Độ bị 4 lần ách xe. Công an giao thông kiểm soát giấy tờ lái xe, phương tiện xe cộ có an toàn, để đảm bảo cho khách đi đường được yên tâm. Lại còn điều tra một tai nạn xe cộ, lái xe bỏ chạy, là một trong 300 chiếc tắc-xi của hãng này. Màu sơn này. Nên công an chúng cháu phải làm nhiệm vụ, mong các cụ thông cảm. Lần ách xe ở đất Thái Bình lâu nhất, mất gần 2 giờ đồng hồ. Đến nơi thì đã 1 giờ 30 chiều, tang lễ hạ huyệt đã xong. Tổng cộng mất hơn 7 tiếng đồng hồ mới đi nổi quãng đường hơn 100 km. Mọi người đang ăn cỗ. Phong tục nông thôn bà con xa gần kéo đến rất đông.
 Chúng tôi thắp hương, dâng lễ vật ở bàn thờ gia đình và bàn thờ ông Trần Độ. Lại phải ngồi ăn cỗ, thôi thì chiều nay ra mộ thắp hương trước khi về.
 Được gặp con cái cụ Độ, chúng tôi tranh thủ tìm hiểu việc công an định khám nhà và lấy đi 5 thùng sách báo. Các cháu đều trả lời lấp lửng, không rõ ràng, hình như e ngại điều gì. Gặp cháu Thắng, con trai trưởng, người đã nói được câu tuyệt vời hôm qua, thì hôm nay cũng không đậm đà bắt chuyện, muốn lảng tránh câu hỏi. Có thể tối qua cơ quan nơi cháu làm việc họ đã ấn huyệt. Thôi, thông cảm cho các cháu. Các cháu cần làm ăn, cuộc đời các cháu còn dài.
 Được biết thêm, có cả thảy 220 vòng hoa tang lễ ở Hà Nội. Các băng chữ bị lấy hết, gia đình chỉ giữ được 7 băng. Gia đình đòi lại được 5 cuốn sổ tang, một số trang bị xé rách.
 Toàn là những cử chỉ nhỏ nhen!
 Ngôi mộ ông Trần Độ được nằm cạnh ngôi mộ bà mẹ. Đó là ý nguyện của ông. Đây là nghĩa trang xóm làng, mỗi gia đình được một khoanh đất, để chôn cất những người thân trong gia đình. Ông Độ đã trở về với bà con xóm làng. Mộ ông cũng rất bình thường, như mọi ngôi mộ ở đây. Nằm ở đây thì yên ổn rồi, ấm lòng rồi. Chúng tôi tin chắc là ông Trần Độ rất thanh thản. Nhớ đến một đoạn thơ của ai đó:
 Sống tranh luồn cúi vào ra,
Chết còn xí cả (cái) nhà mồ to
Phải là những bậc anh hào,
Sống thiêng – chết lại đi vào trong dân,
Mã to bia nhớn chẳng cần… 
 Những ngày tang lễ ông Trần Độ
Hà Nội, tháng 8-2002 
Hoàng Tiến, nhà văn.

Source : Blog GNLT