18/11/13

Nhà nước: Ông là ai?


18/11/2013

Nhà nước: Ông là ai?


Cao Huy Thuần
Ngày xưa, ta gọi là «Quốc gia». Quốc gia Việt Nam. Gia là nhà, quốc là nước. Bởi vậy, ai cũng hiểu như là hiển nhiên: Quốc gia là Nhà nước. Nhà nước ấy, theo định nghĩa pháp lý mà mọi người trên thế giới thường học, gồm ba yếu tố căn bản: một lãnh thổ, một dân số, một tổ chức chính trị. Việt Nam là một Nhà nước vì Việt Nam có một lãnh thổ hình chữ S, một dân số gồm nhiều thành phần dân tộc, một chính thể đóng đô tại Hà Nội. Thế giới hiểu Nhà nước Việt Nam là vậy. Nhưng người Việt Nam hiểu như vậy thì lầm to! Đọc Hiến pháp 1980, rồi Hiến pháp 1992, rồi Dự thảo sửa đổi Hiến pháp hiện nay, «Nhà nước» trong đó không phải là Quốc gia. Không phải là... Nhà nước! Không gồm ba yếu tố như ta thường học. Nó là cái gì đó không chính xác, và nó không chính xác vì ngôn ngữ đẻ ra nó không phải là ngôn ngữ pháp lý mà là ngôn ngữ chính trị. Ngôn ngữ chính trị khai sinh ra nó nằm trong Hiến pháp 1980, tức là Hiến pháp chấm dứt Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thiêng liêng của thời Tuyên ngôn Độc lập, chấm dứt Hiến pháp 1946 mà ngôn ngữ rất pháp lý, chính xác. Nói lại chuyện cũ may ra hiểu được chuyện mới chăng.
Trong «Lời Nói Đầu» của bản Hiến Pháp 1980 ấy có câu chỉ đạo như sau : «  (tức là Hiến pháp) thể hiện mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý trong xã hội Việt Nam». Quái, Quốc gia Việt Nam chạy đi đâu mà bây giờ chỉ còn «xã hội Việt Nam»? Trong cái «xã hội» ấy, «Nhà nước» chỉ còn là một trong ba thành phần, đứng đàng sau rốt, như cái đuôi con voi. Vậy thì «Nhà nước» này đâu có phải là khái niệm pháp lý mà ai cũng hiểu? Nó là cái gì mà vai trò được giao phó là công việc của một anh quản lý? Hiến pháp 1992 hiện hành và Dự thảo sửa đổi không lặp lại nguyên văn câu tuyên bố chỉ đạo ấy nữa, nhưng tinh thần là y chang, một sợi chỉ hồng ấy thôi xuyên suốt từ đầu đến cuối. Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý. Đảng và Nhà nước là hai. Đảng là ai, mọi người đều thấy cụ thể. Nhưng «Nhà nước», thực thể là thế nào, có thực thể hay không, khi Quốc hội cũng là đảng viên, khi Chính phủ cũng là đảng viên, khi đâu đâu cũng là đảng viên? Nếu Đảng và «Nhà nước» là hai thì ông Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng không phải là Nhà nước? Thế tại sao khi ông đi thăm nước này nước nọ, họ tiếp ông như đại diện của Nhà nước Việt Nam? Trong đầu của mọi người trên thế giới, ông là Nhà nước Việt Nam! Họ trương cờ đỏ sao vàng của Nhà nước Việt Nam để tiếp ông. Ông đứng nghiêm trang nghe quân nhạc của họ cử hành bài quốc ca của Nhà nước Việt Nam. Họ đâu có tiếp «xã hội Việt Nam»! Họ tiếp «Nhà nước Việt Nam»! «Xã hội Việt Nam» đâu có quốc kỳ, quốc ca? Quốc kỳ ấy, quốc ca ấy có từ khi Chủ tịch Hồ Chí Minh thành lập lại Nhà nước Việt Nam đã bị xóa bỏ trên bản đồ thế giới như một quốc gia độc lập. Trước đó, vẫn có «xã hội» nhưng không có Nhà nước! Nhà nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh là một chữ S độc lập, một con Hồng cháu Lạc độc lập, một chính quyền độc lập trong đó đảng Cộng sản tham gia như một thành phần. Như vậy, đảng Cộng sản nằm trong chính quyền, ở trong Nhà nước, cùng với nhân dân nằm trong bụng của Nhà nước, đâu có nằm lên trên? Dù cho sau đó, Hiến pháp 1980 ban cho đảng Cộng sản quyền lãnh đạo, và nếu nhân dân chấp nhận quyền đó, thì đó hiển nhiên là lãnh đạo trong chính quyền, lãnh đạo chính quyền, chứ sao lại lãnh đạo Nhà nước?
Vậy thì «Nhà nước» được đẻ ra từ 1980 không phải là Nhà nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh rồi! Vì vậy, khái niệm lẫn lộn như chỉ rối. Chẳng hạn, khi điều 9 đoạn 2 của Dự thảo sửa đổi viết: «Mặt Trận (Tổ Quốc) cùng Nhà nước chăm lo và bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân», chữ « cùng » trong đó thật là bí hiểm. Sao lại «cùng»? Nếu anh ở trong Nhà nước thì anh không thể «cùng» được. Anh chỉ «cùng» với một cái gì hay với ai là khi cái đó, người đó, ở ngoài anh, chẳng hạn anh «cùng» với vợ anh. Vậy Mặt trận ở ngoài Nhà nước à? Lại cũng chẳng hạn khi điều 29 của Dự thảo sửa đổi viết: «Nhà nước tạo điều kiện để công dân tham gia quản lý Nhà nước... », quái, ấy là một Nhà nước hay hai Nhà nước? Nhà nước nào tạo điều kiện? Nhà nước nào được quản lý? Nếu là hai thì vô lý, vì làm gì có hai Nhà nước, cũng như làm gì có hai mặt trời! Nếu là một thì lại không chính xác vì cái việc «tạo điều kiện» là việc của các cơ quan Nhà nước, của chính quyền, trong đó đáng lẽ có cả đảng Cộng sản như đã nói.
Hãy đọc lại Hiến pháp 1946: làm gì có chữ «Nhà nước»! Bởi lẽ Nhà nước 1946 là nước, nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, và trong nước ấy chỉ có một chính quyền thôi, gồm : Nghị viện (Quốc hội), Chính phủ, cơ quan tư pháp, Hội đồng nhân dân và Ủy ban hành chánh ở các cấp địa phương. Đó là các cơ quan của chính quyền Nhà nước mà Hiến pháp quy định quyền hạn và trách nhiệm cụ thể cùng các mối tương quan qua lại. Lúc đó cũng có đảng chứ, và đảng cũng chi phối chính quyền chứ, có thể lãnh đạo nữa trên thực tế, nhưng dù lãnh đạo đi nữa, đảng cũng là một bộ phận của chính quyền Nhà nước, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhắc lui nhắc tới hoài mãi: «Đảng ta là đảng cầm quyền». Cầm quyền là cầm chính quyền trong Nhà nước, chứ đâu có đặt bày ra một khái niệm «Nhà nước» mông lung rồi giao cho nó cái phận sự của anh quản lý, làm việc dưới một thế lực lãnh đạo không pháp lý hóa được và cũng không muốn pháp lý hóa vì pháp lý hóa thì hóa ra nó ở dưới luật mất rồi, đâu còn tối cao nữa! Tất cả nhập nhằng mà ai cũng biết và cũng nói từ lâu trong quan hệ giữa đảng và «Nhà nước» là do ở chỗ ấy: dẹp bỏ ngôn ngữ pháp lý của Hiến pháp 1946 và thay vào đó hai khái niệm chính trị bằng ngôn từ chính trị: «lãnh đạo» và «quản lý». Chừng nào hai khái niệm chính trị ấy chưa làm đề tài để thay đổi tư duy, sửa đổi Hiến pháp chỉ là thay đổi văn bản chính trị này bằng văn bản chính trị khác, không ảnh hưởng thực sự gì đến đời sống pháp luật.
Vậy thì Nhà nước là gì, và vai trò đích thực của Nhà nước là gì? Phe tự do nói: Nhà nước là trọng tài. Phe Mác xít nói: là bộ máy nằm trong tay một giai cấp để bóc lột giai cấp khác. Gác ra ngoài tranh luận lý thuyết ấy, điều chắc chắn là lúc nhân loại đang còn ban sơ thì Nhà nước chưa có. Xã hội đầu tiên của loài người chắc hẳn là xã hội gia đình. Sau đó là thị tộc, đẳng cấp, bộ lạc... Nghĩa là Nhà nước không phải là cách tổ chức chính trị duy nhất của xã hội trong lịch sử nhân loại, nhưng là cách tổ chức chính trị mới mẻ nhất, hoàn hảo nhất. Nhà nước xuất hiện sau một quá trình tiến triển dài của những cấu trúc xã hội; những cấu trúc này càng ngày càng trở nên phức tạp và càng được phân biệt với nhau. Nhà nước là sản phẩm của quá trình đó. Durkheim nói như vậy. Thuyết Mác xít thì giải thích: Nhà nước xuất hiện lúc mà những mâu thuẫn giai cấp không thể dung hòa được nữa. Dưới cái nhìn này hay cái nhìn kia, Nhà nước đều xuất hiện ngay khi có một đầu não chính trị tách ra khỏi xã hội và làm nhiệm vụ tạo lập trật tự. Trong học thuyết Mác xít, quyền hành từ xã hội mà ra nhưng lại có vẻ đứng lên trên xã hội để ngăn chận không cho những mâu thuẫn giai cấp đi đến mức làm tiêu diệt cả xã hội. Trong tư tưởng Durkheim, Nhà nước là một cơ quan có lý tính, có khả năng vượt qua những lợi ích và tranh chấp cá nhân.
Dù thế nào đi nữa, bản chất của Nhà nước là thống trị, thống trị bằng cách ban hành những quy tắc mà công dân phải tuân theo, nếu không thì sẽ bị trừng trị. Mà sự trừng trị của Nhà nước thì hiệu nghiệm lắm, bởi vì Nhà nước có độc quyền cưỡng chế bằng quân sự. Cưỡng chế, đó là đặc tính của Nhà nước. Lịch sử của Nhà nước là lịch sử của sự tập trung dần dà quyền hành cưỡng bức vào tay những người cai trị, và Nhà nước được đẻ ra lúc nó trở thành nguồn gốc chính đáng duy nhất của quyền lực và bạo lực. Nói một cách khác, Nhà nước chưa bao giờ chỉ làm công tác của một anh quản lý tính sổ tính sách. Nhà nước làm ra luật, Nhả nước ban hành luật, Nhà nước tạo ra các cơ quan để thi hành luật, Nhà nước trừng trị sự vi phạm luật, Nhà nước giải quyết những phân tranh xã hội, Nhà nước duy trì trật tự: đó không phải là quản lý, đó là cai trị, và Nhà nước nào cũng cai trị, kể cả Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Dù chỉ là trên danh nghĩa thôi, ai dám bảo Quốc hội của ta không cai trị? Ông là «cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất» mà. Ai dám bảo ông thủ tướng hiện nay không cai trị? Cai trị, không có gì khác hơn là soạn luật, làm ngân sách, thảo kế hoạch, bảo vệ trật tự an ninh. Dù cho ông làm dưới sự lãnh đạo của điều 4, bản chất của công việc ông làm là chính trị, không phải hành chánh. Dù có điều 4 đi nữa, khi ông làm những công việc có bản chất chính trị, bản chất quyền lực, bản chất cai trị rồi, thì ông không phải là anh quản lý nữa. Cho dù có lúc ông đội cái mũ quản lý, lúc nào ông cũng cai trị, hoặc là cai trị thông qua bộ máy của đảng, hoặc là cai trị thông qua bộ máy Nhà nước, hoặc là, nói cho chính xác, thông qua bộ máy của Đảng - Nhà nước. Nói Nhà nước không cai trị cũng như nói thiên lôi không có sét. Thiên lôi không quản lý sét cho ai ở trên đầu, thiên lôi đánh là đánh.
Bởi vì không có Nhà nước nào quản lý cả, bởi vì đã là Nhà nước thì là cai trị, là sử dụng quyền hành chính trị, quyền hành ý thức hệ, cho nên vấn đề cố hữu đặt ra là: Vậy thì đảng làm gì? đảng ở đâu? đảng «lãnh đạo» như thế nào?
Chỉ có hai cách để giải quyết vấn đề. Một là đảng trực tiếp nắm hẳn quyền chính trị, sử dụng trực tiếp mọi quyền hành Nhà nước, và như vậy thì đừng phân biệt «lãnh đạo» và «quản lý» nữa trong đầu óc và trên giấy tờ, vì cả hai đã chính thức nhập làm một. Hai là tách đảng ra khỏi Nhà nước như đã từng tuyên bố lâu nay, và như vậy thì Nhà nước sẽ nắm thực quyền và khái niệm «lãnh đạo» phải quan niệm lại. Trong cả hai trường hợp, trường hợp nào cũng cần có con gà và nắm xôi để cúng tiễn đưa hương hồn anh quản lý về nơi chín suối.
*
Chuyện đã cũ, nói đi nói lại sợ nhàm mà chẳng được lợi lộc gì. Thế nhưng, mới cách đây mấy ngày thôi, hồi đầu tháng 11 này, báo Tuổi Trẻ có đăng bài phỏng vấn TS Nguyễn Sĩ Dũng, phó chủ nhiệm văn phòng Quốc hội, mà nhan đề làm tôi giật mình: «Đổi mới là mệnh lệnh của thời đại ». Dù đã từng nhiều lần lạc quan, rồi thời đại vẫn qua mà đổi mới vẫn cứ là mệnh lệnh, tôi vẫn muốn tiếp tục lạc quan khi đọc đoạn cuối của bài phỏng vấn, trong đó ông phó chủ nhiệm kể lại lần gặp cố thủ tướng Võ Văn Kiệt vài tuần trước khi ông mất:
«Lúc bấy giờ tôi có nói rằng cần phải hết sức tránh việc hình thành hai nhà nước trong một đất nước. Chúng ta có thể nghiên cứu nhất thể hóa sâu rộng hơn, như Singapore chẳng hạn, để Đảng lãnh đạo thật sự «hóa thân» vào Nhà nước... Tôi cho rằng hiện nay đây là nhiệm vụ đầu tiên và quan trọng nhất để đổi mới nền quản trị quốc gia của chúng ta».
Nói với ông Kiệt thì chỉ cần nửa lời ông cũng hiểu, vấn đề là có ai khác nữa hiểu như ông? Ông phó chủ nhiệm nói thêm: «Thật ra, nhất thể hóa cũng đã được Đảng ta đề ra, chứ không phải là điều gì mới mẻ cả». Đúng vậy, không có gì mới. Bản thân tôi cũng đã nói cách đây hơn hai mươi năm. Nhưng nói mà ai nghe?
Dù vậy, mấy lời tâm huyết của TS Nguyễn Sĩ Dũng là tiếng nói của trí tuệ thức tỉnh, buộc trí thức phải lưu tâm. Cảm tạ lời nói đó, tôi nghĩ rằng: giá như Quốc hội chỉ đem vấn đề trọng yếu đáng nói này ra bàn thôi và gác qua một bên mọi chuyện hoa lá cành khác trong Dự thảo thì quả thật thời đại sẽ ăn mừng cho Việt Nam. Dù ăn mừng quá muộn.

C. H. T.

Nguồn: diendan.org


17/11/13

IEA: Ðến năm 2015 Mỹ sản xuất nhiều dầu nhất thế giới

VOA 

11.7.2013


IEA: Ðến năm 2015 Mỹ sản xuất nhiều dầu nhất thế giới

Hệ thống bơm đưa dầu lên mặt đất ở Monterey Shale, bang Califonia, tháng 4, 2013
Hệ thống bơm đưa dầu lên mặt đất ở Monterey Shale, bang Califonia, tháng 4, 2013 12.11.2013
Cơ quan Năng lượng Quốc tế, IEA, cho biết đến năm 2015 Mỹ sẽ vượt qua Ả-rập Saudi và Nga trở thành nước sản xuất dầu lớn nhất thế giới và đang trên đường trở thành nước tự túc về năng lượng trong hai thập niên tới.
Nhu cầu Năng lương năm 2035Nhu cầu Năng lương năm 2035

IEA hôm thứ Ba cho biết trong 10 năm kế, thành công gần đây của Mỹ và Canada trong việc khai thác đá phiến dầu và hoạt động khoan dầu nước sâu của Brazil sẽ làm giảm vai trò của Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ (OPEC) do khu vực Trung Đông thống trị - nhóm nước sản xuất dầu mỏ lớn nhất thế giới.

Nhưng IEA nói vị thế nước sản xuất dầu hàng đầu thế giới của Mỹ sẽ chấm dứt vào giữa những năm 2020 khi nguồn dầu giảm đi ở những cánh đồng hiện đang được khai thác tại các bang North Dakota và Texas. IEA cho biết sau đó các nước Trung Đông sẽ cung ứng cho hầu hết sự gia tăng nguồn cung dầu của toàn cầu.

Trong báo cáo Viễn kiến Năng lượng Thế giới hàng năm, IEA nói Mỹ đang từng bước "hướng tới việc đáp ứng tất cả nhu cầu năng lượng bằng nguồn dầu trong nước vào năm 2035." Tự túc về năng lượng từ lâu vẫn là mục tiêu của các nhà lãnh đạo Mỹ.

Trên khắp thế giới, IEA cho biết nhu cầu về năng lượng sẽ ngày càng được thúc đẩy bởi các nền kinh tế mới nổi, và rằng Trung Quốc sẽ vượt Mỹ trở thành nước tiêu thụ dầu lớn nhất thế giới vào khoảng năm 2030. Báo cáo cho biết Trung Quốc, Ấn Độ và Trung Đông sẽ đẩy nhu cầu năng lượng toàn cầu tăng lên một phần ba.

Tuy nhiên IEA nói việc đảm bảo năng lượng trên toàn thế giới đang bị xói mòn vì giá cao, với giá dầu trung bình hơn 110 đô la một thùng kể từ năm 2011.

Giám đốc điều hành của IEA, bà Maria van der Hoeven, nói rằng "khoảng thời gian dài giá dầu tăng cao như vậy trước nay chưa từng có." Nhưng cơ quan này dự đoán giá dầu thậm chí sẽ còn cao hơn nữa, lên tới 128 đôla một thùng vào năm 2035.

IEA nói mặc dù giá dầu là "tương đối đồng đều" trên toàn thế giới, giá khí thiên nhiên lại rất chênh lệch. Với sản lượng khí đốt lớn ở Mỹ, IEA nói người tiêu dùng và doanh nghiệp Mỹ trả ít hơn nhiều so với ở châu Âu và Nhật Bản, nơi mà phần nhiều nhiên liệu phải nhập khẩu.

Source : VOA

GS. Trần Đình Sử: TỰ DO NGÔN LUẬN TRONG XÃ HỘI DÂN SỰ



Tự do ngôn luận trong xã hội dân sự

(Qua cách hiểu về khái niệm chính trị của Hannah Arendt)



Trần Đình Sử

Trong đời sống của chúng ta hôm nay khái niệm chính trị trở  thành một từ  cửa miệng và rất hệ trọng. Nào là chính trị thống soái, nào là văn nghệ phục tùng chính trị, văn nghệ phục vụ chính trị, làm việc gì cũng coi là thực hiện nhiệm vụ chính trị, khi phạm sai lầm thì chịu trách nhiệm chính trị, đảng chính trị cầm quyền…Nhưng chính trị là gì? Câu chuyện tưởng đã hiển nhiên, mà hóa ra vẫn còn nhiều điều chưa rõ, thậm chí ngộ nhận. 

Nhân loại hàng nghìn năm nay, khải niệm chính trị được hiểu khá khác nhau. Từ thời cổ đại, tại các thành bang Hy Lạp đã có truyền thống dân chủ, đối thoại, tạo nên một đời sống chính trị đặc biệt. Aristote đã cói đó là bản chất của con người.  Ông gọi con người là một “động vật chính trị”, tức là loại động vật biết trao đổi ý kiến với nhau về các sự kiện trong đời sống chung, điều mà các động vật khác không có được. Sau vụ án Socrate bị tuyên án tử hình bằng thuốc độc vì hai tội: bất kính với thần linh và làm hư hỏng lớp trẻ, Platon bắt đầu nhìn chính trị một cách khác. Ông hiểu chính trị là sự áp đặt quyền lực lên người khác, là các thủ đoạn để thống trị người khác. Từ đó, khái niệm chính trị được hiểu theo nghĩa xấu. Hoặc là thủ đoạn thao túng quyền lực, hoặc là cách sử dụng bạo lực xã hội. Tất nhiên là nghĩa này cũng phản ánh một thực chất xã hội, nhưng không phải nghĩa tốt đẹp.


Trong chữ Hán, trị có nghĩa là quản lí (trị gia, trị quốc, thống trị, cai trị, trị an), xử lí, trừng trị (trị tội, trị bệnh). Nhưngchính trị thì nghĩa thế nào? Chữ chính thông với chữ chinh, có nghĩa là chinh phạt, dụng binh, trưng thu thuế khóa, trưng dụng của cải. Như vậy chính trị có nghĩa là quản lí, chinh phạt, thu thuế. Đó là một khái niệm thực dụng về chính trị, thiếu hẳn nội dung triết học của chính trị.


Max Weiber theo truyền thống Platon, xem chính trị là hành vi áp đặt cho người khác (đặt ra quyết sách, ra mệnh lệnh, ra nghị quyết…), tương tự như A. Smithe xem chính trị là hành vi đấu tranh với kẻ thù, tất nhiên không phải giữa cá nhân người với người, mà giữa phe phái, chính quyền, nước này nước nọ. Marx, Lenin xem chính trị là đấu tranh giai cấp, giai cấp này giành chính quyền từ tay giai cấp kia và xác lập sự thống trị. Chính trị là vấn đề chính quyền, nhà nước, chuyên chính của tập đoàn thống trị. Lenin nói chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế là với ý nắm quyền cai trị về kinh tế, xã hội. Nắm chính quyền để chi phối kinh tế. Mao Trạch Đông nói vấn đề chính trị là vấn đề làm sao để phe ta ngày càng đông, càng mạnh, còn phe địch ngày cáng yếu để đi tới tiêu diệt chúng. Chính quyền là từ họng súng mà ra. Chính trị tức là dùng bạo lực để giành quyền thống trị. Mao nói chính quyền đẻ ra từ họng súng. Như thế toàn bộ chính trị là vấn đề quyền lực và bạo lực. Các tổ chức, đoàn thể xã hội, nói rộng ra là cả hệ thống chính trị chẳng qua là các phương tiện tổ chức lực lượng, lập mặt trận để chọi nhau, giữ chặt quyền lợi. Thực chất của các tổ chức, đoàn thể ấy là nhằm khiến cho người dân đem quyền của mình giao phó cho một nhóm người sử dụng, vì lợi ích chung. Nhưng khi đã nắm được quyền rồi thì nhóm người kia có thực hiện ý chí, nguyện vọng của dân chúng hay không lại là chuyện khác. Để bảo về lợi ích của mình, nhóm chính quyền bèn sử dụng bạo lực, quyền lực trói buộc dân chúng. Như thế, theo Arendt, khái niệm chính trị lưu hành chỉ là một nội dung thực dụng của chính trị chứ chưa phải khái niệm chính trị đích thực. Chính trị đích thực không phải là quyền lực, bạo lực, mà là khái niệm đảm bảo quyền làm chủ của mọi người dân trong xã hội. Ở nước ta các chính khách cộng sản cũng nhiều lần nêu lí tưởng nhân dân làm chủ, làm chủ tập thể, nói mọi việc phải để cho dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, nhưng vì thiếu khái niệm chính trị đích thực cho nên lí tưởng ấy cho đến nay vẫn chỉ là nói suông, chưa hề được thực hiện, còn cái được thực hiện thì chỉ là quyền lực duy ý chí của một nhóm người.


Bà Hannah Arendt, người Mĩ gốc Do Thái, từng trốn thoát khỏi nước Đức phát xít, sang Mĩ, từ nghiên cứu Nguồn gốc của chế độ toàn trị, nghiên cứu bạo lực, quyền lực, trong tác phẩm Điều kiện của con người (Human Condition) bà đã nêu ra khái niệm mới về chính trị, khái niệm chính trị đích thực. Theo bà cái mà chúng ta vẫn thường nói là chính trị ”(politics) trên đây chỉ là một bộ phận của chính trị đích thực ”(authentically political), hơn thế , là khái niệm ưu tiên so với mọi hoạt động khác của nhân loại.


Khác với tất cả các khái niệm chính trị vừa nêu ở trên, theo bà, chính trị là là một hành động, mà nội dung hành động đó là công khai phát ngôn về sự vụ công cộng của xã hội. Cái lĩnh vực mà mọi người đều được công khai, bình đẳng bày tỏ ý kiến của mình về các sự vụ công cộng của xã hội, đó là chính trị đích thực. Theo nội dung này thì bạo lực không phải là chính trị, mà chỉ là đối lập với chính trị, phi chính trị, phủ nhận chính trị. Thống trị cũng không phải là chính trị mà là cái đối lập với chính trị. Chính trị nảy sinh từ giữa sự công sinh, cùng tồn tại giữa người với người, chứ không phải giữa ta với kẻ thù. Arendt cho rằng bản chất của hành động chính trị là phi bạo lực, phi áp đặt, do đó nó phải được tiến hành thông qua sự trao đổi, bàn bạc. Hành động chính trị đích thực là phát ngôn, thông qua phương thức thảo luận và thuyết phục để trao đổi quan điểm về xã hội. 


Trong bài Bàn về bạo lực Arendt chi ra, một cái nọc độc mà nhiều sách báo chính trị nêu ra là, cho rằng quyền lực bắt nguồn từ bản năng thống trị, từ niềm khoái cảm được đè đầu cưỡi cổ người khác. Theo đó quyền lực tức là cưỡng bức người khác làm theo ý chí của mình, hoặc là bất chấp sự phản kháng của người khác, bắt người khác làm theo mệnh lệnh của mình. Hiểu như thế thì chính trị chỉ có nghĩa là sự chi phối, sự cưỡng bức, sự đàn áp, đó là một ngộ nhận về bản chất của chính trị, là đem bạo lực”(violence) đánh đồng với quyền lực (power). Xem bạo lực là thể hiện của quyền lực, biến chính trị thành sự tranh giành bằng bạo lực, xem bạo lực là quyền lực rốt ráo của con người. Những cách hiểu đó khiến cho khái niệm chính trị mất đi ý nghĩa đích thực của nó. Bà chế giễu nói: Nếu bản chất của sức mạnh quyền lực là sự chi phối thì, có quyền lực nào mạnh hơn họng súng? Khi đó, cái mệnh lệnh của viên cảnh sát và mệnh lệnh của một tên cướp có gì khác nhau?” Vì thế bà không xem cái sức mạnh xây dựng trên bạo lực và quyền lực là chính trị. và cũng không xem cuộc đấu tranh giành quyền lực đó là chính trị. Làm như thế để khẳng định tính chất phi bạo lực của chính trị và của quyền lực. Đối với bà chính trị và quyền lực đều chỉ có ý nghĩa tốt, không mang nghĩa xấu. Chính trị là một hành động hiệp thương bình đẳng giữa người và người về công vụ của xã hội, và từ trong hiệp thương đó mà nảy sinh ra quyền lực, một sức mạnh được mọi người tôn trọng, tự nguyện tuân theo. Một chính trị xây dựng trên nền tảng các ý kiến bất bình đẳng của một số ít người, đa sô người khác không được bày tỏ ý kiến, buộc phải duy trì bằng bạo lực, là thứ chính trị bất hợp pháp. Lức đó quyền lực kia chỉ còn thuần túy là bạo lực mà không có chút chính trị nào. Sự tham dự của công dân là bản chất của quyên lực (trong điều kiện không tham dự trực tiếp công dân có thể dùng phương thức ủy quyền để thực hiện quyền lực).


Trong tác phẩm Điều kiện của con người, bà phân biệt lao động (labor), làm việc, công tác(work), và hành động (action), Ba loại hoạt động này ứng với ba điều kiện tồn tại của con người. Lao động là các hoạt động đáp ứng nhu cầu cuộc sống, bao gồm nhu cầu sinh lí tự nhiên của con người từ khi sinh ra cho đến khi chết, như ăn uống, bài tiết, tắm  rửa…Làm việc là thực hiện các việc làm ra các sản phẩm phi tự nhiên, như sản xuất, làm các việc trong các cơ quan, quân đội…Nó ứng với cái phần phi tự nhiên của tồn tại con người. Công tác “sáng tạo ra một thế giới nhân tạo hoàn toàn khác với hoàn cảnh tự nhiên. Các công việc này đều vượt qua nhu cầu tồn tại của cá thể. Vậy hoạt động là gì? Theo Arendt hoạt động là từ đồng nghĩa với chính trị và thực tiễn chính trị. Hành động là hoạt động khác hẳn với lao động hay làm việc, bởi lao động hay làm việc đều lấy nhu cầu kinh tế vật chất làm hạt nhân. Các hoạt động đó không tạo thành điều kiện cho hoạt động chính trị. Tương ứng với điều đó, cái không gian mà thực tiễn chính trị triển khai, tức là không gian công cộng, nhất định phải phân biệt với không gian hoạt động kinh tế. Công việc kinh tế mà chính trị hóa, hoặc là xóa bỏ ranh giới giữa lĩnh vực kinh tế và lĩnh vực hoạt động công cộng thì sẽ hủy hoại hoạt động chính trị và không gian công cộng. Vậy thực chất hoạt động chính trị là gì? Đó là hoạt động nói năng, bày tỏ ý kiến của mình về các sự vụ chung của xã hội, nhằm tạo ra một cuộc sống hợp lí tốt đẹp cho mọi người. Nội dung của hành động chính trị tức là bản thân chính trị. Hoạt động chính trị tức là dùng lời nói để bày tỏ chính kiến. Nội dung của hoạt động chính trị đó tức là thảo luận và bàn bạc, dùng cách gì để bảo hộ một tổ chức chính trị. Lí do tồn tại của tổ chức chính trị đó là thông qua thảo luận, bàn bạc tự do nhằm thực hiện các công vụ xã hội. Trong tình hình nguy cấp, nó có thể thảo luận nhằm sáng tạo một chính phủ như thế nào để thể chế hóa các cuộc thảo luận tự phát. Các vấn đề liên quan đến hiến pháp, tinh thần pháp luật và giải thích pháp luật đều là các vấn đề chính trị cần được thảo luận công khai tự do.


Bàn đến chính trị với tư cách là chính trị, hay là bàn đến chính trị như là sự phát ngôn, – cái mà chính trị này đề cập tới là sáng tạo và duy trì các điều kiện tiền đề cho các phát ngôn, bàn bạc này được thực hiện. Như thế có nghĩa là chính trị là mục đích tự thân của chính trị. Chính trị chỉ tồn tại khi bày tỏ ý kiến về công việc công cộng, chính trị không vụ lợi và luôn nghiêm túc.


Arendt cho rằng chỉ khi tuyệt đại bộ phận nhân dân tham gia vào đời sống chính trị như thế thì chính trị đích thực mới xuất hiện. Phẩm chất quan trong để tham gia đời sống chính trị là dũng cảm, theo đòi phúc lợi công cộng, thích thú với tự do công cộng, khát khao mong công dân bày tỏ các chính kiến khác biệt của họ, bất kể địa vị xã hội của người ấy như thế nào, hơn nữa không liên quan gì đến niềm vui sau khi thắng lợi. Trong các phẩm chất ấy duy nhất không có quyền lực. Khác với Nietzsche, Arendt cho rằng “nhiệt tình chính trị” không có tác dụng gì trong chính trị.


Khái niệm chính trị của Arendt có nội hàm rất phong phú và độc đáo. Chúng tôi không có tham vọng trong bài viết ngắn trình bày nó. Chỉ riêng phần chính trị là  lĩnh vực mà mọi người đều được công khai, bình đẳng bày tỏ ý kiến của mình về các sự vụ công cộng của xã hội, đó là chính trị đích thực thuộc xã hội dân sự. Nó đối lập với bạo lực, quản lí. Nếu tước bỏ nó, hay giới hạn nó, hay nhà nước hóa nó đều là thủ tiêu xã hội dân sự. Chỉ có hiểu chính trị như là lĩnh vực của xã hội dân sự thì mới xử lí đúng vấn đề tự do ngôn luận, tự do báo chí. Chỉ có tự do ngôn luận thì người dân mới góp phần kiểm soát, bày tỏ ý kiến đối với các quyết sách, chủ trương của nhà quản lí, một khi họ đi ngược lại nguyện vọng của người dân. Tự do ngôn luận là một cơ chế liên hệ ngược của xã hội. Nếu không, thì sau khi bỏ lá phiều bầu các vị quản lí, cũng đồng nghĩa với việc bỏ phiếu cho sự phụ thuộc, nô lệ của chính mình. Còn đâu là tính chất chủ  nhân của người dân trong một nước dân chủ?


Nguyễn Hưng Quốc - Quyền lực là gì?


VOA/ Blog  Nguyễn Hưng Quốc

Quyền lực là gì?


Trong bài “Viện Khổng Tử và quyền lực mềm của Trung Quốc”, tôi có nhắc đến khái niệm quyền lực mềm. Ở Việt Nam, trong những năm gần đây, cũng có nhiều người bàn đến quyền lực mềm. Vậy, chúng ta thử tìm hiểu một chút về khái niệm này, đặc biệt trong hoàn cảnh chính trị đối nội Việt Nam, xem sao.

Nhưng trước khi tìm hiểu về quyền lực mềm, chúng ta cần tìm hiểu một khái niệm khác, rộng hơn và cũng căn bản hơn: quyền lực.

Quyền lực là gì?

Tò mò, tôi thử mở các cuốn từ điển tiếng Việt ra xem.

Từ điển của Thanh Nghị cho quyền lực là “quyền hành và thế lực”; tìm chữ “thế lực”, thấy định nghĩa là “quyền lực, quyền hành”: Như không. Nhìn ngược lên chữ “quyền hành”, thấy định nghĩa là “quyền có thể thi hành được nhiều việc”; tìm chữ “thi hành”, lại thấy giải thích là “đưa ra làm thực sự”. Tôi đâm ra hoang mang: Nếu trọng tâm của quyền lực nằm ở việc “thi hành” thì những kẻ bị sai khiến để làm một việc gì đó có khi lại có nhiều quyền lực hơn chính người ra lệnh chăng?

Trong từ điển của Lê Văn Đức và Lê Ngọc Trụ, chữ “quyền lực” được xem là đồng nghĩa với chữ “quyền bính”; xem chữ “quyền bính”, lại thấy định nghĩa là: “Quyền định đoạt, sai sử mọi việc”. Quyền định đoạt và sai sử? – Được. Nhưng tại sao phải là “mọi việc”. Ở Mỹ, trong tháng 9 và tháng 10 vừa rồi, Tổng thống Barack Obama không thể “định đoạt” được về mức nợ trần cũng như mức chi tiêu của chính phủ và cũng không thể “sai sử” các nghị sĩ và dân biểu thuộc đảng Cộng Hòa thông qua ngân sách do ông đề nghị. Vậy ông không có quyền lực ư?

Trong từ điển của Văn Tân, chữ quyền lực được giải thích là “sức mạnh mà mọi người phải tuân theo trong hành động”. Ồ, tại sao lại phải là “mọi người”? Ngay cả Obama cũng không thể có thứ sức mạnh mà “mọi người” phải tuân theo, ví dụ, các chánh án sẽ không thèm nghe lời ông khi xét xử một tội phạm nào đó; các nhà báo sẽ không thèm nghe lời ông khi tường thuật hay bình luận về một sự kiện nào đó; các thầy cô giáo sẽ không thèm nghe lời ông khi giảng dạy một vấn đề nào đó; các bác sĩ sẽ không thèm nghe lời ông khi định bệnh và cho toa cho một bệnh nhân nào đó; các chính trị gia thuộc đảng Cộng Hòa thường xuyên cãi vã và chống đối lại ông mọi chuyện, vậy ông không có quyền lực ư?

Hoàng Phê thì định nghĩa quyền lực là “quyền định đoạt mọi công việc quan trọng về mặt chính trị và sức mạnh để bảo đảm việc thực hiện quyền ấy”. Tại sao lại phải giới hạn “về mặt chính trị”? Một chánh án không có quyền lực sao? Một vị tướng khi điều binh ra trận không có quyền lực ư? Một tổng giám đốc một cơ sở kỹ thuật, thương mại và/hoặc truyền thông, ví dụ Bill Gates, chủ tịch của Microsoft hay Rupert Murdoch, chủ tịch News Corporation, không có quyền lực ư? Xin lưu ý là trong các bảng xếp hạng những người có quyền lực nhất trên thế giới trong năm, ngoài một số nguyên thủ các quốc gia lớn, người ta còn thấy tên của nhiều người thuộc các lãnh vực ngoài chính trị, ví dụ, Đức Giáo hoàng hay các chủ tịch và tổng giám đốc điều hành của các công ty thương mại tư nhân, từ Microsoft đến Wal-Mart Stores, Amazon.com, Google, Apple, Facebook, New Corp, New York Times Co., v.v.. Thậm chí, họ còn chiếm vị trí cao hơn hẳn nguyên thủ của nhiều quốc gia trên thế giới, ví dụ, hơn toàn bộ các nhân vật chóp bu trong guồng máy lãnh đạo đảng và nhà nước tại Việt Nam.

Bốn cuốn từ điển thuộc loại nổi tiếng nhất của Việt Nam: Không có định nghĩa nào đúng cả.

Cũng không lạ. Ở Việt Nam, ngày xưa, dường như người ta không có ý niệm về quyền lực. Tất cả các cuốn từ điển xuất hiện trước thế kỷ 20 đều không có chữ “quyền lực”. Trong Từ điển Việt-Bồ-La của Alexandre de Rhodes, xuất bản năm 1651, chỉ có chữ “quyền” với nghĩa là chức vị, chức quan. Trong Đại Nam Quốc Âm Tự Vị của Huỳnh Tịnh Của, xuất bản năm 1895, chỉ có các chữ “quyền chức”, “quyền hành”, “quyền quý”, “quyền thế”, chứ không có chữ “quyền lực”: Dường như, với người xưa, quyền lực chỉ là thuộc tính của chức tước trong hệ thống chính trị phong kiến (do đó, có tính dòng dõi, từ đó, nảy ra ra các chữ “quyền thế” hay “thế lực”). Cách nhìn ấy, trong thời đại ngày nay, trở thành lạc hậu và quá đơn giản. Cái sai của những người làm từ điển xuất phát từ sự lạc hậu và đơn giản ấy.

Trong tiếng Anh, chữ “power” có hàng chục nghĩa khác nhau, nhưng phần lớn các nhà nghiên cứu về chính trị học đều chọn định nghĩa này: đó là khả năng làm thay đổi cách hành xử của người khác để đạt được những gì mình muốn. Trong định nghĩa ấy, có hai yếu tố quan trọng: một, làm thay đổi cách hành xử của người khác; và hai, đạt được điều mình muốn. Không đạt được điều mình muốn, chỉ đạt được điều người khác muốn: Không phải là quyền lực. Chỉ thay đổi chính mình nhưng không làm thay đổi người khác: Không phải là quyền lực. Ai cũng tham sống sợ chết, nhưng một người chỉ huy, giữa trận địa, có thể bắt các người lính phải “thay đổi” tâm lý thường tình ấy để xông thẳng về phía quân thù, quyết giành được chiến thắng dù có khi phải hy sinh mạng sống của chính mình: người chỉ huy ấy có quyền lực. Ai cũng tham lam, làm được bao nhiêu muốn giữ và hưởng hết bấy nhiêu, một người lãnh tụ bắt họ phải “thay đổi” tâm lý ấy và đóng thuế, thậm chí, với một mức thuế thật cao: vị lãnh tụ ấy có quyền lực.

Từ cách hiểu chung ấy về khái niệm quyền lực, nhiều lý thuyết gia khai triển vấn đề theo nhiều chiều hướng khác nhau.

Karl Marx nhìn quyền lực không phải từ cấp độ cá nhân mà từ cấp độ hệ thống chính trị, giai cấp xã hội và quan hệ sản xuất; ở đó, quyền lực chỉ đong đưa theo hai chiều: hoặc thống trị hoặc bị trị với một vùng giao thoa nhỏ và đầy bấp bênh của một số lực lượng được xem là “liên minh”.

Max Weber lại nhìn quyền lực từ cấp độ cá nhân: Đó là khả năng kiểm soát tài nguyên, biến cố và người khác để thực hiện hoài bão của mình, bất chấp những sự phản đối hay phản kháng của một số người nào đó.

Michel Foucault lại nhìn quyền lực ở góc độ khác: Theo ông, quyền lực không nằm ở cá nhân hay giai cấp mà chủ yếu ở kiến thức, diễn ngôn (discourse) và cái ông gọi là “các chế độ chân lý” (regimes of truth) được hiểu là hệ thống những niềm tin và những quy phạm được chấp nhận và được chia sẻ để mọi người, theo đó, phân biệt cái đúng và cái sai, cái thật và cái giả, đánh giá mọi việc và quyết định những gì mình nên làm, có thể làm hoặc phải làm. Theo ý nghĩa đó, quyền lực trở thành một thứ siêu quyền lực (metapower): Nó ở khắp nơi; nó đến từ khắp nơi; nó phân tán hơn là tập trung; nó nhập thân hơn là bị/được chiếm hữu; nó không giới hạn trong lãnh vực kinh tế (như Marx nói) hay chính trị (như Weber tin tưởng) mà còn ở hệ thống giáo dục, truyền thông, khoa học và đặc biệt, ý thức hệ; nó không phải chỉ có tính chất cưỡng chế hay tiêu cực mà còn là một sự cần thiết, một động lực năng sản và tích cực trong xã hội.

Về phương diện lý thuyết, khái niệm quyền lực có thể rất đa dạng, nhưng về phương diện thực tế, nó thường được chia, một cách đơn giản nhất, thành hai hướng chính: quyền lực tuyệt đối và quyền lực tương đối.

Trong thời hiện đại, đặc biệt trong thế kỷ 20 vừa qua, chỉ có hai chế độ công khai chủ trương và cổ vũ cho kiểu quyền lực tuyệt đối: chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa phát xít. Hai chế độ này tự xem là kẻ thù không đội trời chung của nhau: Với chủ nghĩa cộng sản, kẻ thù chính là chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa phát xít; với chủ nghĩa phát xít, kẻ thù chính là người Do Thái và chủ nghĩa cộng sản. Thế nhưng, trên thực tế, giữa chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa phát xít lại có rất nhiều điểm tương đồng. Cả hai đều có tính chất toàn trị, đều muốn kiểm soát không những hoạt động mà còn cả trong cách suy nghĩ và tình cảm của con người. Cả hai đều siết chặt hệ thống kiểm duyệt trong mọi phương tiện truyền thông đại chúng. Cả hai đều thích sử dụng bạo lực và khủng bố để uy hiếp tinh thần dân chúng và để triệt hạ mọi sự bất đồng chính kiến. Cả hai đều ưu tiên phát triển quân sự, dùng quân sự như một nguồn sức mạnh chính để duy trì chế độ. Cả hai đều giành quyền quản lý kinh tế vào trong tay nhà nước. Và cả hai, trên danh nghĩa, đề cao chủ nghĩa quốc tế, nhưng tự bản chất, đều mang tính chất dân tộc chủ nghĩa cực đoan.
Trong khi đó, hầu hết các chế độ dân chủ đều thừa nhận loại quyền lực tương đối và hầu hết các nhà nghiên cứu hiện nay đều cho quyền lực, ít nhất là ở thời hiện đại đều có tính chất tương đối.

Trong quan hệ quốc tế, Trung Quốc có quyền lực đối với Việt Nam nhưng lại không có quyền lực đối với các nước Tây phương; Mỹ có quyền lực với rất nhiều nước Tây phương nhưng lại không có quyền lực để buộc Iran và Bắc Hàn từ bỏ tham vọng chế tạo vũ khí hạt nhân.

Về phương diện đối nội, ở Mỹ, Tổng thống Barack Obama chỉ có quyền lực trong thế giới công quyền: Đối với đời sống riêng tư của các công dân, ông hoàn toàn bất lực. Ngay trong thế giới công quyền, ông cũng không thể can thiệp vào các quyết định của ngành tư pháp hay một phần lập pháp, cái phần do đảng đối lập lãnh đạo; ông cũng không thể can thiệp được vào sinh hoạt chính trị hay guồng máy hành chính ở các tiểu bang hay thành phố.

Trong lãnh vực tín ngưỡng, trong giáo hội Công giáo, Đức Giáo Hoàng là người có quyền lực cao nhất, nhưng ông cũng chỉ có quyền lực trong nội bộ giáo hội Công giáo; và trong nội bộ giáo hội Công giáo, ông cũng chỉ có quyền lực trong các vấn đề thuộc tín lý, chính sách và tổ chức: Ông không hề có quyền lực trong lãnh vực nghề nghiệp hay đời sống riêng tư của các tín đồ, chẳng hạn.

Trong lãnh vực luật pháp, một vị chánh án, khi ngồi trước tòa, là người đầy quyền lực, nhưng khi phiên tòa chấm dứt, bước ra ngoài bãi đậu xe hay về nhà riêng, lại là một người bình thường như bao nhiêu người bình thường khác.

Tính tương đối dẫn đến một đặc điểm khác của quyền lực: tính tình thái (situational). Ở Úc, phần lớn người dân đều biết chuyện Thủ tướng Bob Hawke, lúc còn tại vị, nhận được giấy phạt từ cảnh sát về việc ông không thắt nịt an toàn khi ngồi trên xe hơi. Dĩ nhiên, ông phải nộp phạt. Bình thường, trong chính phủ, ông là người có nhiều quyền lực nhất, nhưng trong trường hợp này, viên cảnh sát, kẻ quyết định phạt ông, lại là người có nhiều quyền lực hơn ông.

Lúc bà Julia Gillard còn làm Thủ tướng (2010-2013), tôi gặp bà khá nhiều lần trong quán cà phê. Trong các cuộc họp Nội Các, bà là người đầy quyền lực, có thể nói là quyền lực nhất trong việc quyết định các chính sách của chính phủ, những chính sách có thể làm thay đổi cuộc sống của dân Úc và diện mạo của cả nước Úc. Đứng trước Quốc Hội, đối diện với phe đối lập, quyền lực của bà bị giảm xuống ít nhất là một nửa: Bà chỉ còn quyền lực của lý trí và của tài hùng biện để thuyết phục chứ không còn quyền lực hành chính để ra lệnh nữa. Còn trong quán cà phê, bà chỉ là một khách hàng. Như bao nhiêu khách hàng khác. Bà cũng phải xếp hàng. Bà cũng phải chờ đợi. Cuối cùng, bà phải trả tiền cho ly cà phê bà uống.

Ở Libya, Muammar Gaddafi, từ năm 1969 đến giữa năm 2011, là người có quyền lực gần như tuyệt đối, nhưng vào ngày 20 tháng 10 năm 2011, khi ông phải chui vào ống cống để trốn và sau đó, bị bắt, đối diện với những lực lượng chống đối, ông không còn chút quyền lực nào cả.

Ở Việt Nam, đảng Cộng sản, do thế độc quyền lãnh đạo được ghi nhận trong Hiến pháp, không những có quyền lực nhất mà còn là tổ chức duy nhất có quyền lực. Họ có quyền bắt bớ và bỏ tù bất cứ người nào họ không thích. Không có tội, họ vẽ ra tội, từ chuyện trốn thuế đến chuyện “hai cái bao cao su đã qua sử dụng”. Có vẻ như họ có quyền lực. Nhưng trong trường hợp Nguyễn Phương Uyên, người trước tòa, dõng dạc tuyên bố: “Tôi không cần xin giảm án”, họ lại không còn quyền lực, hoặc nếu còn, cái quyền lực ấy cũng trở thành vô nghĩa.

Đó là đảng, với tư cách một tập thể, nói chung. Trong đảng, với từng cá nhân, cũng vậy. Trước đây, thời chiến tranh, Võ Nguyên Giáp, với tư cách là Đại tướng, Bộ trưởng Quốc phòng, Bí thư Quân ủy Trung ương, Tổng tư lệnh quân đội, ủy viên Bộ chính trị, được xem là một người đầy quyền lực. Nhưng theo các tiết lộ gần đây, đứng trước Lê Duẩn và Lê Đức Thọ, ông lại là người chả có chút quyền lực, thậm chí, chút sĩ khí nào cả. Ông không những không có quyền quyết định những chiến lược hệ trọng mà còn thường xuyên bị Lê Duẩn sỉ nhục. Nhưng mới đây, khi Võ Nguyên Giáp mất, người ta lại thấy một khía cạnh khác: Với tư cách một huyền thoại, nhìn từ phía tâm lý quần chúng, thì Võ Nguyên Giáp lại có vẻ như có nhiều quyền lực hơn tất cả những người từng lấn át và sỉ nhục ông. Lê Đức Thọ hay Lê Duẩn chết: Chả ai buồn nhắc nữa. Võ Nguyên Giáp chết: Rất nhiều người thương tiếc.

Trong cuốn The Future of Power (2011), Joseph S. Nye đưa ra một số ví dụ thú vị: Nếu bạn nợ 1000 đô la nhưng không có tiền trả, phải khai phá sản, bạn chẳng có chút quyền lực nào cả. Nhưng nếu bạn nợ ai đó một tỉ đô la thì bạn lại trở thành kẻ có quyền lực: Đó là trường hợp của Mỹ. Sự phá sản của một con nợ một tỉ đô la sẽ kéo theo sự phá sản, hoặc ít nhất, sự khủng hoảng của cả chủ nợ. Vì vậy, khi Mỹ lâm vào khủng hoảng tài chính, ai cũng lo lắng và tìm cách… giúp Mỹ! Về chính trị, trường hợp của Bắc Hàn cũng tương tự. Hầu như ai cũng nói giới lãnh đạo Bắc Hàn là khùng. Nhưng Bắc Hàn hầu như là nước duy nhất làm cho Trung Quốc tỏ ra là không có quyền lực: Không đồng ý với Bắc Hàn, thậm chí, biết dính líu đến Bắc Hàn chỉ có hại, nhưng Trung Quốc vẫn không có lựa chọn nào khác ngoài việc tiếp tục bênh vực và viện trợ cho những kẻ bị tâm thần ở Bình Nhưỡng.

Có thể nói, tóm lại, quyền lực là một khái niệm có tính chất đa kích thước (multidimensional), tương đối và chỉ thực sự là quyền lực trong một tình thái nhất định: Nó thuộc về ai, với ai, về cái gì, ở đâu, khi nào và như thế nào.

Không có quyền lực nói chung.

* Blog của Tiến sĩ Nguyễn Hưng Quốc là blog cá nhân. Các bài viết trên blog được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.

Source : VOA

Duyên Anh - CON SÁO CỦA EM TÔI


 source  : blog huynh ngoc chenh 


THỨ BẢY, NGÀY 16 THÁNG MƯỜI MỘT NĂM 2013

CON SÁO CỦA EM TÔI

Ngày xưa, lần đầu tiên đọc truyện nầy của Duyên Anh tôi đã khóc lên thành tiếng nức nở, nước mắt chảy ròng ròng ướt cả trang sách. Những tưởng bây giờ cứng cỏi, chai lì lắm, nhưng đọc xong truyện, nước mắt tôi cũng đầm đìa... Thôi, các bạn đọc đi nhé. Đọc để được thoát ra khỏi những bủa vây tối tăm của cuộc đời đang ô tạp nầy vì có được những giây phút hòa mình vào giòng suối cảm xúc trong veo và tưởng như bất tận. Vô vàn cám ơn nhà văn Duyên Anh.
Truyện Ngắn » Con Sáo Của Em Tôi
Font Size:       Tác Giả: Duyên Anh

 Duyên Anh
     Sau khi cha tôi mất, gia đình càng ngày càng túng bấn, một mình mẹ tôi không đủ sức nuôi nấng hai đứa con mồ côi nơi thành thị nên mẹ đưa hai anh em tôi trở về làng cũ. Bên nội xóa bỏ tên cha tôi trong gia phả vì cha tôi xé tờ khai sinh mà ông tôi cố tình điền tên tuổi người vợ cả vào chỗ tên tuổi mẹ tôi. Ông tôi muốn gạt mẹ khỏi cuộc đời cha tôi bấy giờ và cuộc đời tôi mai hậu. Việc ấy rất giản dị như ông đã xóa bỏ tên chú Nghị vì chú mê cô đào cải lương gia nhập ban hát, lang thang rày đây mai đó. Bên ngoại từ bỏ mẹ tôi ngay từ dạo mẹ có mang ba tháng vì mẹ trốn nhà, vượt luật lệ cổ truyền, theo cha tôi làm vợ lẽ. Thành thử lớn lên anh em tôi mù mịt cả ý niệm gia tộc. Mẹ tôi thường kể rằng trước khi lấy mẹ tôi, cha tôi đã có vợ. Người vợ ấy cha tôi không yêu thương, nên bốn năm liền bà tôi cứ hoài công mong bế cháu. Ông tôi buồn phiền, thở dài thườn thượt, ông nghĩ đến nghiệp chướng xa xôi nào, lúc này sự quả báo hiện hình khiến dù con gái. Thật vô phúc. Cha tôi đi vắng luôn luôn, cha năng ở nhà ông phó Nhị hầu hạ ông để hòng ông truyền hết ngón đàn thập lục.

     Cha tôi phải giặt quần áo, đấm bóp chân tay hay kiếm rượu, đồ nhắm cho ông Phó, phục dịch ông đủ điều. Rốt cuộc ông Phó vẫn giữ lại đôi ngón sở trường, ông sợ dạy hết, mai mốt cha tôi giỏi hơn ông. Bởi vậy, tài nghệ của cha tôi chưa nổi bật, và chưa đủ thời giờ nghiên cứu âm nhạc quê hương thì cha tôi đã gặp mẹ tôi. Cuộc tình duyên này làm đảo lộn đời cha và ảnh hưởng rất nhiều đến anh em tôi sau này
     Ông nội tôi biết chuyện tức sôi ruột, chửi bới cả gia đình nhà mẹ tôi. Tiếng dữ đồn tới xóm làng bên kia sông. Ông ngoại tôi đuổi mẹ tôi khỏi cửa. Bấy giờ mẹ tôi có mang tôi được ba tháng. Cha tôi lén lút gởi mẹ tôi nương náu nhờ người bà con xóm cuối thôn. Bà nội tôi thương con cả, lại nghe tin mẹ tôi có chửa nên bớt giận. Bà nội xin ông nội nhận mẹ tôi làm vợ lẽ cha tôi. Cuộc hôn nhân không giá thú. Việc tưởng vậy êm thắm. Ai ngờ ông ngoại tôi lồng lộn tìm bắt mẹ tôi, đánh đập mẹ tôi một trận tàn nhẫn. Tệ hơn nữa, ông ngoại tôi lại gọt hết tóc, bôi vôi trắng xóa đầu mẹ tôi rồi mới đoạn tình phụ tử. Mẹ tôi phải trùm khăn vuông kín mít ngót hai năm trời.
     Mẹ về sống dưới gian nhà mái dột, vách bùn trát nham nhở bên cạnh chuồng trâu của đại gia đình họ Nguyễn nhà tôi. Suốt thời gian đèo bòng cái hình hài tôi, cái bọc đau khổ, mẹ tôi chịu đựng bao nhiêu điều tủi nhục. Hết người vợ cả hẹp hòi, ích kỷ của cha tôi hằn học ghen tuông, lại đến các cô tôi kiếm cớ sinh sự. Vợ cả cha tôi bảo mẹ tôi độn vải đầy bụng để đánh lừa ông tôi. Ông tôi nhiều bận chỉ mặt mẹ tôi dọa nạt rằng nếu đúng tháng mà không sinh nở thì sẽ tống cổ mẹ tôi đi. Chú Nghiêm thỉnh thoảng về thăm nhà cũng hạch sách mẹ tôi. Ông tôi quý chú Nghiêm lắm. Trong khi cha tôi mải đàn sáo, chú Nghị giang hồ phiêu bạt, chú khéo léo chiều ông tôi. Bởi thế chú Nghiêm được xuống tỉnh học, đỗ đạt giỏi giang. Chú khinh bỉ mẹ tôi, sự khinh bỉ chú học mót của đám dân trưởng giả thành phố. Mẹ tôi đau khổ trăm chiều, ngày làm quần quật như con vật, tối ôm bụng khóc một mình. Tội nghiệp mẹ tôi, tôi chả biết ví mẹ giống ai. Đầy tớ nhà ông tôi còn sung sướng còn nói đùa nghịch, chứ mẹ tôi thì câm nín suốt ngày đêm. Cha tôi hy vọng mẹ tôi sinh con trai và đứa đầu lòng sẽ là nhịp cầu bắc qua những tâm hồn người bên nội với tâm hồn mẹ tôi. Chắc chắn mẹ tôi hết tủi cực.
     Đến ngày mẹ tôi trở dạ, ông tôi cất vội vàng túp lều nhỏ ở xó vườn, cạnh khóm chuối tiêu. Tôi cất tiếng khóc ban đầu nơi ấy, ở túp lều xó vườn, cạnh khóm chuối tiêu, cạnh những con người hà tiện tình thương mến. Vì đêm tôi mở mắt chào đời, cha tôi đi vắng nên cớ sự xảy ra như tôi đa nói đoạn đầu. Tuần lễ sau cha tôi về, cha nghiến răng xé nát tờ khai sinh rồi đưa mẹ con tôi xuống tỉnh ly. Tôi vĩnh biệt họ hàng bên nội bằng mấy tiếng "oe oe". Tôi lớn dần, lớn dần để thu vào tầm mắt non nớt hình ảnh cuộc đời cha tôi: hình ảnh gã nhạc công hậu trường sân khấu cải lương, hình ảnh ông lái thuốc bắc, hình ảnh ông thư ký sở tư, hình ảnh ông thợ chữa xe đạp và sau rốt là hình ảnh ông lang chế thuốc cao đơn hoàn tán. Mãi tới ngày cha tôi mất, tôi mới thù hằn những hình ảnh méo mó đọa đầy linh hồn cha tôi. Sao đời cha tôi nhiều hình ảnh thế? Và đời tôi nữa, hình ảnh thẫm nét nhất là một đêm mù mịt bên khóm chuối tiêu. Thế mà anh em tôi lại phải về quê ngoại. Tôi không hiểu tại sao mẹ tôi chịu nhục nhã, nương náu dưới túp nhà lá bỏ hoang vườn sau, trước đây ông bà ngoại dành riêng cho bọn thợ gặt mỗi vụ mùa. Mẹ tôi chỉ nghĩ đến anh em tôi. Trời ơi, tôi muốn khóc quá.
     Ở đây, chúng tôi sống lủi thủi cô độc. Mẹ tôi dọn quán bán nước chè tươi, xôi chè, canh bún ngoài bến đò Đồng - đức, bòn nhặt từng hào chỉ. Thường mẹ dậy sớm sửa soạn đồ hàng, cơm nước buổi sáng để anh em tôi ăn. Mẹ nắm thêm hai nắm nhỏ phòng trưa đói còn lót dạ tạm. Chập tối mẹ lần mò về nhóm bếp thổi cơm. Bữa nào hàng ế ẩm, mẹ con tôi ăn canh bún, ăn xôi chè thay cơm. Mẹ tôi luôn luôn vui vẻ dù thỉnh thoảng cậu mợ, dì bác tôi mỉa mai đủ điều. Họ nói những lời mà bây giờ tôi hãy còn nhớ. Tôi không thể tưởng tượng nỗi tê tái nghiến nát cõi lòng mẹ khi bà ngoại gọi mà là "đồ đĩ", bác tôi bảo mẹ là "con lăng loàn" và mợ tôi nói bâng quơ "cóc chết ba năm quay đầu về núi". Tôi thấy mẹ tôi cúi đầu lẳng lặng, nước mắt nhỏ giọt trên mái tóc em tôi, thì tôi đoán rằng mẹ buồn. Hồi ấy, tuy tôi bó bỏng nhưng tôi đã biết xét đoán những con mắt soi mói, những lời tiếng bấc chì, những bộ mặt ích kỷ của mọi người họ hàng bên ngoại. Tôi thương mẹ. Tôi thương em gái tôi hơn, chưa được hưởng sung sướng thì cha vội lìa đời. Tôi hằng mơ ước một mai khôn lớn, tôi sẽ kiếm tiền nuôi mẹ, sẽ tậu nhà ở tỉnh, mẹ tôi thôi bán hàng, em tôi cắp sách đi học. Nghĩ vậy tôi thèm đọc sách lắm. Khốn nỗi mẹ tôi nghèo cực, lấy tiền đâu mà mua. Tôi đành học ôn mớ sách cũ nát và dạy em tôi từng trang, từng đoạn dè sẻn, sợ hết chữ.
     Đám con cái cậu mợ tôi vào hùa cha mẹ chúng bắt nạt anh em tôi. Hễ em tôi hở ra món đồ chơi nào là chúng nó tìm cách ăn cắp. Tôi đòi, chúng xúm nhau đánh đập tôi sưng tím cả mặt mày. Em tôi khóc, mẹ tôi thở dài đau đớn. Dần dần cuộc sống quen nếp. Anh em tôi biết thân phận, bắt chước mẹ tôi, tập nhịn nhục, tập nghiến răng và hy vọng. Anh em tôi đùa nghịch với nhau, chẳng dám lai vãng đến thềm nhà ông bà ngoại.
     Tôi hay bắt dế, bắt chuồn chuồn, bắt công cống cho em tôi chơi. Bạn bè của chúng tôi có chừng chỉ có con chim chích chòe sáng nào cũng đậu trên cành soan ca hát líu lo rồi tung cánh bay xa tìm mồi. Em tôi thích chim. Tôi vụng về, không trèo cao được. Tôi hẹn sẽ bắt tặng em tôi một con sáo khi mùa xuân sang.
     Mùa xuân, hoa soan vườn nhà nở nhiều, mầu tím dịu mắt. Mẹ tôi nói hoa soan nở chỉ tổ đuổi muỗi mệt xác. Cùng lượt hoa soan khoe sắc, sáo trên rừng đổ xô xuống đồng bằng hàng đám, cơ man. Em tôi nhìn những con sao đen, lông muôn muốt, viền mắt vàng vàng, ra chiều thèm ước. Tôi theo bọn trẻ con bến đò, lấy rổ rách, vất cạp rồi buộc lại tựa hình cái đó đơm tép. Xong, tôi bó manh chiếu bên ngoài bịt chặt một đầu, còn đầu kia để ngỏ cho sáo ra vào. Tôi buộc tổ sáo trên cành sung thấp nhất. Hai hôm sau vợ chồng nhà sáo bắt đầu tha rác về tổ của anh em tôi. Chúng tôi hoan hỉ đợi chờ. Em tôi chưa chi đã vọi lo cái lồng nhốt con sáo. Tôi bảo em tôi phải mong ba tháng. Em tôi sốt ruột. Ngày nào cũng hỏi thăm sáo. Mẹ mắng em, em dỗi bỏ cơm. Tôi dỗ dành em mới chịu ăn.
     Ít lâu sau tôi trèo lên thăm tổ. Tôi thò tay tận phía trong và biết sáo đẻ bốn trứng. Tôi lôi ra xem. Trứng sáo to bằng ngón tay cái của tôi, màu xanh xanh vân vân đẹp quá. Tôi kể chuyện em nghe. Em nhẩy reo ầm ỹ. Mẹ tôi dọa rằng:
     - Rắn ưa tìm tổ chim ăn trứng. Con liệu hồn, nó cắn thì chết.
     Tôi phát run, thề sẽ chừa thói liều lĩnh nguy hiểm. Nhưng em tôi muốn coi trứng sáo, em cứ nằn nì đem xuống một trứng. Tôi đành mạo hiểm lần nữa. Lúc tôi đang lúi húi trước cửa sổ thì vợ chồng đôi sáo bay về. Chúng nó lượn trên đầu tôi, kêu inh ỏi. Tôi bỏ trứng vào túi áo, tụt xuống, sướt cả tay, máu chảy đầm đìa. Em tôi thỏa mãn sự tò mò, em trông tôi, thương hại. Tôi an ủi em và trả lại trứng cho sáo.
     Tối hôm ấy mẹ tôi đánh tôi hai roi tội không vâng lời. Mẹ nói:
     - Còn trèo nữa, sáo sẽ bỏ tổ.
     Anh em tôi lo ngại ngủ chẳng ngon giấc. Ngày tháng mùa xuân trôi vùn vụt. Một buổi sáng anh em tôi nghe rõ tiếng sáo con kêu trong tổ, em tôi hỏi:
     - Anh ơi! Sáo con có bú mẹ không?
     Tôi vuốt tóc em dịu dàng trả lời:
     - Em bú mẹ chứ sáo nào bú mẹ
     Em ngây thơ:
     - Thế làm sao nó lớn được?
     - € sáo mẹ mớm mồi.
     - Sáo bố làm gì hở anh?
     - Sáo bố đứng canh. Em nhìn thì biết. Kia kìa, trên cành cây gần tổ. Khi sáo mẹ mớm mồi cho các con, cũng như khi ấp trứng, sáo bố bao giờ cũng lởn vởn ngoài tổ em ạ!
     Tôi giảng nghĩa thế vì tôi nghe lỏm bọn trẻ con ngoài bến đò. Em tôi ngạc nhiên, ngây người đứng ngắm. Lát lâu em mỉm cười nũng nịu:
     - Sáo con ngủ, sáo mẹ có ru không anh?
     - Chắc có.
     - Anh biết à?
     - Thì anh đoán, chim cũng như người vậy em ạ!
     - Mẹ ru em bằng bài "Con cò mà đi ăn đêm", sáo ru con bằng bài gì hở anh?
     - Anh chịu, chả biết được.
     - Giá sáo là người để em hỏi nó chắc thích lắm anh nhỉ?
     - Ừ.
     Đám con cái ngỗ nghịch của cậu mợ tôi đã thấy chỗ tôi buộc tổ sáo. Tôi tức' sôi ruột, tức muốn đốt nhà chúng nó. Chúng nó rình mò làm tôi không thể ra bến đò trông hàng giùm mẹ tôi những lúc đông khách. Anh em tôi thay phiên nhau canh gác. Mẹ tôi khuyên tôi nên chia sáo cho chúng nó. Tôi miễn cưỡng phải rỡ tổ đáng lẽ chờ vài hôm nữa sáo con già dặn hơn. Hôm tôi bắt sáo con, vợ chồng sáo bay lượn kêu thảm não. Sáo mẹ sà xuống sát đâu tôi như thể nó sắp mổ mắt tôi. Chẳng trách cha tôi xé tờ khai sinh, mẹ tôi chịu vất vả, khổ sở. Mẹ tôi mua giỏ bắt cua để tôi nhốt sáo. Cậu mợ tôi chọn lựa ba con đẹp, lớn ; phần tôi là con sáo đẹt, bé nhỏ, xấu xí nhất đàn. Tôi buồn, khóc mấy đêm ròng. Làm sao tôi nhớ hết mọi chi tiết vụn vặt cái hôm ông cậu bà mợ tôi chia sáo? Cậu tôi bóp con sáo xấu số của tôi khiến cho nó há mỏ ra. Em tôi run rây chỉ sợ nó chết? Mợ tôi bảo:
     - Bọn mày nuôi sáo làm quái gì, cơm còn không đủ ăn lại có cơm thừa nuôi sáo.
     Tôi cáu tiết cãi lại:
     - Sáo ăn cào cào chứ cần gì cơm gạo.
     Cậu tôi chẳng nể nang gì mẹ tôi cả, cậu chúi đầu tôi một cái thật mạnh. Tôi lao đao xuýt ngã. Cậu mắng mỏ:
     - Đồ chết cha, đồ con hoang có khác. Anh em mày lớn lên thì thành đồ ăn cắp!
     Tôi nín lặng, em tôi chạy vào ôm lấy mẹ. Và cả tôi cũng lủi thủi cầm con sáo vừa đi vừa khóc. Tiếng khóc của em tôi, em tôi rõ ràng hơn. Mẹ tôi thương anh em tôi, mẹ bỏ bán hàng nửa buổi đan cái làn mắt thưa. Mẹ bảo nhốt sáo vào đấy rồi treo lên cây, sáo mẹ luyến con sẽ mớm mồi, như vậy sáo chóng lớn.
     Tôi nghe mẹ. Quả con sáo của anh em tôi được sáo mẹ chăm lo chu đáo. Đám con cái của cậu mợ tôi ghen ghét. Chúng nó chăm chăm đòi bắn đôi sáo già. Tôi chỉ ngại nhỡ chúng bắn sáo của tôi. Bọn ranh con mất dạy, ích kỷ bắn súng cao su không trúng, chúng nó nhờ người thổi ống xì đồng. Buổi sáng hôm cái gã mắt chột rình rập ngoài vườn, anh em tôi lo cuống quýt. Em tôi nhìn sâu chim đủ loại: chào mào, chích chòe, liếu tiếu lủng lẳng trên vai hắn, em nói nhỏ:
     - Khéo nó bắn chết sáo mất anh ạ!
     Tôi run run trả lời em:
     - Đừng sợ em ơi! Mắt nó chột bắn chả tin đâu.
     Nhưng đôi sáo già đi kiếm mồi đã về. Tim anh em tôi đập mạnh. Tôi rõi mắt lên cành sung chờ đợi. Sáo bố đậu cách cái làn khá xa, sáo mẹ mon men lại gần mớm mồi. Trong lúc đó, viên đạn đất oan nghiệt từ ống xì đồng thổi phụt ra. Sáo bố trúng đạn rơi xuống ao. Em tôi giật nẩy mình kêu lớn:
     - Chết em rồi!
     Tôi cảm thấy như viên đạn trúng đầu tôi. Con sáo bố đã chết. Sáo mẹ bay lượn, rỉa rói ai oán hàng giờ. Em tôi ứa nước mắt:
     - Sáo của anh em mình mất bố rồi nó sẽ khổ lắm anh nhỉ?
     Câu nói khiến lòng tôi se lại. Tôi nhớ cha tôi. Phải chi cha tôi còn sống thì anh em tôi đâu khổ sở thế này. Sáo mẹ thỉnh thoảng bay tới, nó chỉ dám sà vội qua cái làn, có khi sáo con chưa kịp há mỏ, mồi đã rơi mất. Sáo mẹ sợ sệt tất cả. Tôi chạnh nghĩ đến mẹ tôi mà buồn vời vợi.
     Em tôi lo cho sáo con, đòi mang xuống. Tự đấy sáo mẹ không trở lại nữa. Có lẽ nó đã chết vì cô độc hay đã về rừng. Chúng tôi nuôi sáo bằng chuối. Dần dần sáo lớn, tôi ra đồng đập cào cào lấy mồi nuôi sáo. Tội nghiệp sáo con côi cút, đêm ngày âm thầm chui rúc trong cái giỏ cua. Em tôi đang phân vân không hiểu mai kia sáo lớn nhốt vào đâu. Ước gì có cái lồng tre, chúng tôi mơ ước song mẹ tôi không thừa tiền chiều chuộng con.
     Giữa lúc đó thì chú Nghị đến thăm mẹ tôi. Họ hàng bên nội nhà tôi chỉ chú Nghị là kẻ có lòng. Bao nhiêu năm tháng qua rồi, từ ngày tôi sinh ra đời tới bây giờ, chú luôn luôn an ủi, giúp đỡ mẹ tôi. Tuy chú nghèo, tôi thường nghĩ giang hồ phiêu bạt như chú, giầu sao được. Chú Nghị tốt lắm, chú bên vực mẹ tôi thuở mẹ tôi bị cả gia đình chồng xúm vào cấu xé, đay nghiến chỉ vì mẹ tôi thương yêu cha tôi quá đến nỗi mẹ bằng lòng lấy cha tôi không cần giá thú. Hôm đưa xác cha tôi tới nghĩa địa, tôi thấy chú khóc nức nở khi những tảng đất phủ kín dần chiếc quan tài bằng gỗ mộc. Tôi còn đủ trí nhớ để hình dung ra bộ mặt khắc khổ phong sương của chú Nghị. Và hình dung ra thì tôi lại ghét cay đắng ông bà nội, các cô các chú tôi, nhất là người vợ cả ích kỷ của cha tôi.
     Dạo cha tôi ở Hà - nội, ban tuồng chú Nghị sau nhiều chuyến lang thang dọc. đường gió bụi, trở về trình diễn tại thành phố này. Chú dành ghế cho cha mẹ tôi xem tuồng liên miên. Mỗi buổi tan hát, chú dẫn đi ăn mì. Khi rảnh rang, chú dắt tôi tới vườn Bách - thú xem xiếc hoặc dạo mát loanh quanh trong công viên rồi ra ngồi ăn bánh tôm trên đường Cổ - ngư bên hồn Trúc - bạch. Mỗi phố tôi qua, chú dạy tôi cách trông chừng hai đường xe cộ lưu thông. Vì chú cháu tôi hay thơ thẩn buổi sáng, chú bảo tôi thở hít mạnh, chú giữ lưng tôi ngay thẳng tựa người lính tập đứng nghiêm. Tôi yếu đuối, chắn chắn sự yếu đuối ảnh hưởng phần nào những ngày mẹ tôi mang thai tôi, tâm hồn mẹ bị dằn vặt, thôi thúc thời gian đó. Huệ, Lê - Lợi, Lý - Thường - Kiệt, câu kết luận của chú bao giờ cũng hàm đầy ý khuyến khích:
     - Cháu gắng lên, mai mốt cháu sẽ giỏi, cháu sẽ hãnh diện làm con của cha mẹ cháu.
     Tôi không nghe chú nói tới quãng đời luân lạc chim nổi của một kép hát. Sau này vợ chú bỏ chú lấy người khác, chú nghiện rượu và thù hằn tất cả. Tôi không biết tại sao chú hay giấu điếm sự uẩn ức mà đáng lẽ nói được thì chú bớt giận dữ kẻ khác trên đời. Nhưng, ngay trong những cơn điên tàn bạo, chú tôi rất h iền hòa với mẹ tôi. Tôi nhớ dạo gia đình tôi sống ở ngoại ô Khâm - thiên, nhà tôi phải đi qua cái ngõ hẹp bẩn thỉu. Một buổi tối, tôi đang cắm cổ bước, vì tôi sợ ma, thình lình chú Nghị nấp sau đám giậu kêu "ú a ú ớ" cơ hồ tiếng ma quỷ giận hờn rồi xô ra chắn lối. Chú muốn dọa tôi nên chú chơi thế. Song lúc ấy tôi không thèm hiểu. Trong khoảnh khắc, đầu óc tôi tràn ngập sợ hãi, khích động. Tôi cáu tiết đá chú nột cái thật mạnh. Tôi mới lên mười nhưng tôi mang giầy, trong cơn tức giận tôi đá mạnh kinh khủng và cái đá làm sước ống chân chú Nghị. Máu chảy ròng ròng, chú đau đớn, rên nhè nhẹ rồi ngẩng lên mỉm cười. Chú ôm tôi xin lỗi. Tôi khóc thương chú khiến chú rớt nước mắt. Chú Nghị mang vết sẹo trên da tháng năm nối tiếp. Thỉnh thoảng vui vẻ, chú kéo ống quần khoe vết sẹo. Anh em tôi lại sà vào lòng chú nũng nịu.
     Ngày mẹ tôi dìu anh em tôi về quê ngoại, chú phiêu bạt mãi tận Sài - gòn. Thành thử chúng tôi trống rỗng buồn tẻ. Không ai bênh vực an ủi anh em tôi. Nay tự nhiên chú Nghị đến, hỏi chi anh em tôi không vui mừng sung sướng. Bên ngoại vẫn thù bên nội vì ngày mẹ tôi trốn nhà theo cha, ông nội cứ gọi tên ông ngoại chửi bới, trách móc. Lúc này chú Nghị có mặt ở đây, tôi thấy chú nhét bông đầy tai và đeo kính râm suốt ngày. Chú mua cho tôi vô số sách đẹp. Chú dạy anh em tôi học. Tôi thích chú Nghị nói chuyện lịch sử. Em tôi thì bận tâm về con sáo nhỏ. Em khóc khi chú dạy tôi toán pháp. Chú hỏi em tại sao, em bảo ước' gì có cái lồng như bọn anh chị em con cậu con bác tôi. Chú Nghị vuốt tóc em, chú tháo cặp kính, mắt chú đỏ ngầu, chú thẫn thờ giây lát rồi ghé tai em tôi thầm thì. Em tôi nhảy lên reo múa. Mấy hôm sau, chú bỏ việc dạy học, ngồi cặm cụi vót tre đan lồng. Ba bốn ngày liền chú mới đang xong. Cái lồng sáo của em tôi đẹp chả thua gì lồng bán ngoài bến đò. Chú làm chiếc thang ngang lấy chỗ cho sáo đậu, chú buộc cóng đựng nước và cóng chưa có gạo, nước. Con sáo được nuôi trong lồng ra chú bỏ đi. Mẹ tôi giữ thế nào cũng chẳng nổi. Tôi hết hy vọng học chú. Hôm chú mới đến, chú hứa chú ở lâu, chú nói dối anh em tôi. Chú Nghị ra đi, ít tháng sau được tin chú chết, mẹ con tôi buồn não nuột. Từ đó, sớm chiều anh em tôi đành tâm sự với con sáo.
     Tôi ra đồng đập cào cào, châu chấu làm mồi cho sáo ăn. Em tôi thích đút chuối cho sáo. Em cắn miếng chuối nhỏ, xâu vào đầu cây tăm. Em thổi sao miệng, chú sáo đói kêu "khách khách" trả lời rồi há mỏ ra đợi em tôi mớm ăn. Em còn cho sáo ăn thịt nữa. Những buổi trời ấm áp, em tôi tắm sáo, rửa lồng. Nhìn sáo phơi mình dưới ánh nắng, mắt em tôi bừng lên những tia sung sướng, hy vọng. Em hay thả sáo tự do nhởn nhơ khỏi lồng. Em đi trước, sáo theo sau tựa hồ đôi bạn côi cút thương yêu nhau. Con sáo của em khôn lắm, nó thường "làm nũng" em lúc em cho nó ăn. Nó nhảy lên cánh tay em rồi bậy trắng lòe áo. Em thích ôm sáo trong lòng đôi bàn tay hoặc để nó đậu trên vai rất âu yếm. Bữa nào sáo ăn ít, em sợ sáo ốm, sáo chết, em buồn có khi em khóc. Nhiều đêm trời mưa bão, em ngủ không yên, thức giấc là hỏi chuyện sáo.
     Ngày tháng trôi qua, con sáo của em tôi thay hình đổi dạng. Bộ lông đen mượt, nó nhẩy nhót luôn chân. Nó đã biết mổ gạo. Như thế anh em tôi khỏ cần lo cào cào, châu chấu, chuối, thịt nữa. Mẹ tôi bảo bóc lưỡi sáo vài lần thì nó mới nói được. Em tôi sợ sáo đau nên ngần ngừ. Nghe ai mách rằng cho sáo uống nước cua kẻo nó "sốt rét", em tôi định làm, song mẹ tôi mắng:
     - Sáo đẻ ở đồng bằng thì ngã nước cái gì, chỉ vẽ chuyện.
     Thế rồi anh em tôi cũng phải nhờ mẹ tôi bóc lưỡi sáo. Con sáo xấu xí út ít không ngờ đẹp quá. Bọn trẻ gạ gẫm mua, anh em tôi từ chối. Chúng nó tức giận bèn mang con mèo già hung ác tới dọa nạt. Anh em tôi thay phiên gác sáo.
     Bây giờ con sáo tập hót. Mắt nó còn viền vàng xinh đáo để. Thỉnh thoảng vắng người nó líu lo đôi tiếng. Hễ có người thì nó câm tiếng. Em tôi cho rằng nó xấu hổ. Một buổi trưa anh em tôi đang thiu thiu ngủ bỗng nghe con sáo kêu hoảng hốt. Em tôi vùng dậy, thấy ở thềm nhà gã mèo hung ác đứng gầm gừ nhìn lên. Em vác guốc ném trúng mèo, nó co đuôi chạy mất. Chúng tôi lo sợ. Mẹ tôi bắt mang lồng sáo ra ngoài hàng, tối mang về.
     Khách hàng ghé quán mẹ tôi, họ dạy anh em tôi cách tập sáo nói. Họ bóc hộ lưỡi rồi họ che kín mít lồng. Quả nhiên sáo không nhìn rõ ai, hót líu lo. Giọng nó trong vắt mà buồn làm sao. Trưa hè ở bến đò vắng vẻ, tiếng nó gợi cho anh em tôi bao nỗi nhớ nhung thương tiếc. Tôi lại nhớ chú Nghị, nhớ cha tôi. Dần dần em tôi dạy nó nói. Bài học vỡ lòng để sáo nói tiếng người là:
     - "Sáo dạ, sáo dạ, nhà có khách".
     Em tôi kiên nhẫn dạy sáo, mãi rồi con sáo côi cút của em tôi nói được. Em ngây thơ lắm, em dạy cả sáo hát, dạy nói những lời hết sức tha thiết:
     -"Sáo nhớ mẹ, sáo khóc ".
     Con sáo dường như hiểu nỗi lòng của em tôi nên cố gắng. Khi em hát, sáo hót và nói "Sáo nhớ mẹ..." Càng ngày sáo hót càng hay. Thấy là lạ, ông ngoại tôi xuống chơi nhà tôi nghe sáo nói. Việc này quá sự tưởng tượng của mẹ tôi. Từ ngày gia đình tôi về nương náu ở đây có khi nào ông ngoại tôi thèm thăm hỏi. Ông thích con sáo, ông đòi mượn. Em tôi lăn ra khóc' từ chối. Sau hôm ấy, ông ngoại ghét anh em tôi hơn.
     Ở bến đò, vô khối người muốn mua, họ trả một trăm đồng nhưng em không bán. Mẹ tôi khuyên em nên bán vì trăm bạc sẽ may được cho hai anh em tôi mỗi đứa hai bộ quần áo diện tết. Em tôi không cần quần áo, nếu mẹ bán sáo thì em tôi sẽ nhịn đói đến chết. Cuối cùng mẹ chiều em. Anh em tôi có con sáo nên bớt cô độc. Trẻ con hàng xóm năng lui tới nhà tôi trừ bọn anh em họ độc ác của tôi. Trong quãng đời thơ ấu buồn tủi, anh em tôi thèm thuồng đủ thứ. May mắn mẹ đưa anh em tôi về quê chứ ở lại Hà - nội thì anh em tôi còn khổ sở dường nào. Điều chắc chắn là em tôi không có con sáo để trút nỗi niềm. Em tôi ưa ngồi một mình nói chuyện với sáo. Em tôi kể nỗi hiu quạnh của em làm như sáo hiểu nổi. Em hỏi sáo:
     - Mất bố mẹ sáo có khổ không?
     Rồi em nói tiếp:
     - Khổ ư? tội nghiệp nhỉ , bé bỏng thì chỉ bị bắt nạt thôi sáo ạ! Sáo đừng khóc nhé! € sáo ăn no chóng lớn, chớ bỏ bữa, gầy còm rồi chết thì tôi buồn đấy sáo ạ! Chả ai chơi thân với người nghèo như mình đâu.
     Con sáo đôi khi vô tình buột miệng:
     - "Sáo nhớ mẹ sáo khóc"
     Em tôi dỗ dành:
     - Ừ, sáo nhớ mẹ, tôi cũng nhớ cha. Sáo khóc à, thì khóc đi...
     Tôi nằm nghe, nước mắt trào ra cay đắng. Dạo ấy tôi mới chỉ mười ba tuổi, em tôi tám tuổi. Nhưng tôi sớm tiếp nhận nỗi u sầu vào tâm hồn. Và bao nỗi niềm tủi nhục thay phiên hất hủi mẹ con tôi nên tôi đã khôn ngoan, đã biết khinh bỉ họ hàng bên nội bên ngoại trừ chú Nghị.
     Cuộc đời đọa đầy tôi ngay ở cái tuổi đáng được hưởng hạnh phúc, sung sướng. Thành ra nếu có ai nghi ngờ, tôi vẫn nói rằng suốt thời thơ ấu của tôi, tôi không biết trông trăng trông sao, không biết bẻ hoa bắt bướm mà chỉ biết be bờ ruộng đơm đó kiếm tép để ăn, ăn thừa thì mẹ tôi đem ra bến đò bán. Cùng tuổi tôi, đám con cái của cậu M tôi còn vòi vĩnh cha mẹ, ngu ngơ chả hiểu gì. Thế mà tôi hiểu cách rang cám cho thơm, cắt màn cũ khâu thành vó, vót tre thành giọng, cất vó tôm. Tôi hiểu cách cưa ống nứa, đan hom đào giun xào với lá bòng thả ống lươn. Tôi hiểu cách đan rọ cá rô, ngâm thóc vào nước gạo cho thối nhử đàn cá. Tôi hiểu nhiều lắm, hiểu cả những lời bóng gió, mỉa mai của thiên hạ để sau này bước xuống cuộc đời đem tâm sự của một con chim hụt mũi tên.
     Mẹ tôi ví tôi như trái chín rấm. Tôi tưởng tôi là trái chín hoang. Vì trừ trái chín cây không thèm kể đến, trái chín rấm còn được người ta xếp vào lò hay bỏ vào vựa, vào chum, người ta nhét vào đầy lá soan cho mau chín chứ đời tôi, đời anh em tôi nhất định là hai trái chín hoang. Ngày nào đó, người ta thấy hai trái xanh quá, xấu xí quá, người ta ném vô bụi giậu. Mưa, nắng, gió bão tới tấp, chịu đựng nổi thì trái chín. Tôi biết tôi chịu đựng nổi bởi vì ngoài họ hàng bên nội bên ngoại còn mẹ tôi, còn chú Nghị. Ngoài đám con cái cậu mợ tôi hay bắt nạt, hếp đáp anh em tôi còn bọn trẻ con ở bến đò Đồng - đức dạy tôi buộc tổ sáo... Và mai mốt tôi sẽ chín, chín chẳng để trả thù ai đâu, nhưng chín để kể lại chuỗi ngày tháng anh em tôi nuôi con sáo.
     Con sáo là niềm an ủi duy nhất, là niều kiêu hãnh duy nhất của anh em tôi. Trong khi chung quanh tôi, trẻ con nhà giầu nuôi sáo bằng lồng son, cóng sứ, thức ăn thì gạo trộn lòng đỏ trứng gà, nước uống thì pha sôm nhị hồng, sáo của chúng nó vẫn chết. Anh em tôi nuôi sáo chỉ có gạo trắng, nước lã, lồng tre mà sáo hót lại hót hay, sáo nói lại nói giỏi. Tưởng con sáo cũng nên kiêu hãnh. Với tình thương mến của anh em tôi, với cái lồng do chú Nghị đan, nó đã thành con sáo quý khác cả những sáo quý nhất trên đời.
     Tính ra anh em tôi nuôi sáo đã lâu. Năm ngoái mẹ tôi buôn bán phát tài, tết nhất cũng đủ bánh trái, thịt ăn mấy ngày. Anh em tôi mỗi đứa có bồ quần áo mới , có tiền xu, tiền hào chơi đáo, chơi cò quay, có tranh con lợn treo tường, có long đình, tượng bụt chơi làm đình làm chùa. Giá nghe mẹ bán con sáo thì tiếc chừng nào. Năm nay hàng quán ế ẩm. Suốt mùa đông mưa lê thê, bến đò vắng khách. Mẹ tôi lại đau yếu luôn luôn, phải nghỉ ở nhà. Con sáo cùng chung nỗi buồn, biếng ca hót lười bay nhảy, nó quên cả lải nhải mấy câu nói em tôi dạy thuộc lòng.
     Trời cuối tháng chạp mưa phùn rả rích. Gió bấc thổi vù vù. Rét thấu xương. Anh em tôi co ro trong ổ rơm, lồng sáo đặt bên cạnh. Mẹ tôi lại sốt từ hôm ông Táo lên chầu trời. Ba hôm nữa tết rồi mà mẹ vẫn nằm rên rỉ. Tôi lo ngại quá, tâm hồn thờ thẫn.
     Em tôi sốt ruột vì trời mưa. Nhà chỉ còn gạo, mẹ tôi chưa sắm sửa đồ cúng. Gà vịt cũng chưa mua. Cho đến tối ba mươi, mẹ tôi lên cơn sốt nặng. Mẹ tôi rên hừ hừ. Đắp hai cái chăn, hai cái chiếu, mẹ vẫn còn rét. Anh em tôi ôm nhau khóc thút thít. Em hỏi những câu quái gở khiến tôi rùng mình.
     - Anh ơi! liệu mẹ có chết không?
     - Không, mẹ phải sống nuôi anh em mình thành người chứ.
     - Sao mãi mẹ chải khỏi gì cả?
     - Tại trời mưa lạnh, tạnh nắng là mẹ khỏi, em đừng lo.
     Tôi nói dối em tôi tại mưa lạnh, thực ra mẹ tôi chẳng uống thuốc men gì cả. Con nhà nghèo, ốm no bò dạy. Tôi thường bị sổ mũi, ho mà có cần mời thầy lang đâu. Nằm vài bữa, trở dậy lại khỏe như cũ. Tôi tin thế nên đỡ lo.
     - Dạo cha còn sống mẹ có ốm nặng không anh?
     - Anh chả nhớ rõ.
     Trưa nay, em ngủ nằm mơ thấy cha, em nhớ cha quá, ước gì cha sống lại...
     Em tôi khóc to hơn. Tôi ôm em vào lòng, thương mến. Bên ngoài trời còn mưa lai rai. Đêm cuối năm mù mịt. Anh em tôi lo lắng không dám ngủ. Lúc mẹ tung chăn chiếu, anh em tôi nhảy bổ vào ôm mẹ. Hơi nóng và mồi hôi sau cơn sốt thoát ra sưởi ấm anh em tôi giữa đêm trừ tịch. Mẹ tôi vuốt tóc em.
     - Mai, ngủ thôi chứ con, mai dậy sớm mẹ mừng tuổi tiền mua pháo tép.
     Em tôi nũng nịu:
     - Con mua pháo ống lệnh cơ!
     - Ừ thì mua pháo ống lệnh.
     - Mới lại cái gương cho con sáo nó soi.
     - Gớm cô ả vòi vĩnh mãi.
     Mẹ tôi chiều con, mẹ nói hơi nhiều, giọng mẹ mệt nhọc. Tôi định hỏi mẹ cái gì, nhưng thương mẹ lại nghĩ không ra. Anh em tôi tắt đèn đi ngủ.
     Sáng mồng một tôi dậy sớm. Em tôi ngủ mê mệt, tôi đắp thêm chiếu cho em ấm áp ngủ lâu. Mẹ tôi hình như đã đỡ. Mẹ nhìn em tôi, lắc đầu ái ngại. Dưới ngọn đèn lù mù, tôi thấy nước mắt mẹ tôi lăn tăn trên gò má xanh xao, khắc khổ. Mẹ tôi nói nhỏ:
     - Hữu này, mẹ dặn con nghe nhé! Hôm nay đừng lởn vởn ngoài ngõ, đừng lấy tiền của ai cho.
     Mẹ tôi dặn tôi bằng thừa. Cậu mợ tôi dạy tôi nhiều bài học độc ác, giả đạo đức quá rồi, tôi thèm thuồng gì mà ngửa tay ra để người ta nhổ bọt vào. Nhưng tôi phải đáp:
     - Vâng ạ!
     Giọng mẹ tôi đứt từng câu ngắn:
     - Tại mẹ ốm... thành thử... tết này nhà mình... thiếu cỗ. Con nhớ... thắp hương... bàn thờ cha con nhé! Con lớn rồi, chả cần, chứ em con, ngày tết... không được miếng thịt...
     Mẹ tôi bỏ lửng câu nói, ôm mặt khóc tấm tức. Tôi bỏ ra ngoài sân. Trời lạnh hẳn. Phía nhà trên, gia đình ông ngoại đang giết gà, vo gạo, thổi xôi... Chiều qua nhà ông mổ lợn. Tôi muốn lên chầu chực để may ra ông thương hại thí cho một miếng về ăn tết. Song tôi nhớ tới chú Nghị, tới những bài học làm người chú dạy tôi nên tôi lại thôi. Dường như hồi chú ghé đây để đan cái lồng sáo, chú nhìn tôi rồi gật gù, bao giờ chú cùng gật gù sau buổi dạy học:
     - Cháu thông minh lắm, cháu giỏi lắm.
     - Nhưng mẹ cháu nghèo.
     - Hề gì, đói rách đâu phải là tội lỗi, cháu đừng buồn. Rồi ngày kia cháu sẽ lẻ loi, cháu sẽ thấy trong sự đau khổ người ta mới xét đoán mọi việc đứng đắn.
     - Rồi cháu có sung sướng không chú?
     - Chú không dám nói cháu sung sướng nhưng chú quả quyết cháu có tài, có nhiều tài...
     - Thật hả chú?
     - Thật chứ, song cháu chả nên quy lụy ai , quy lụy nó hèn con người đi thì rồi cái tài cũng đến xếp xó.
     Chú ưa kể chuyện cha tôi và ngón sở trường âm nhạc: đàn thập lục. Chú bảo ngày ông nội đuổi cha tôi khỏi nhà, cha tôi không có đồng xu nào dính túi. Thế mà cha tôi gây dựng nổi đời cha. Tại cha tôi chết sớm chứ không thể nào cũng có ngày cha về làng mua đất dựng nhà. Tôi kém cha tôi nhiều quá, tôi chỉ biết khóc.
     Lúc này đứng nhìn thiên hạ đón xuân, tôi nghĩ đến em gái tôi, nghĩ đến miếng thịt gà, thịt lợn hay thịt chim khi em tôi tỉnh dậy. Anh em tôi chỉ có mỗi con sáo. Con sáo nuôi bao nhiêu ngày mới biết nói. Chẳng lẽ tôi giết nó? Chẳng lẽ em tôi ăn cơm với muối ngày đầu năm? Năm nay em tôi mười tuổi, mười mùa xuân bay vụt qua, mười mùa xuân tẻ nhạt, buồn thảm chấp nối thành thời thơ ấu của em tôi. Mùa xuân trôi theo kỷ nhiệm, có khi nào níu lại được? Tôi không muốn em tôi lớn lên phải nghẹn ngào nhắc tới một trang chua chát, xiên lệch trong cuộc đời. Vậy thì tôi sẽ giết con sáo. Tôi nghĩ tôi biết buộc tổ, biết nuôi sáo, nuôi bằng cái lồng của chú Nghị thì sáo nào chẳng biết nói, biết hót. Dẫu con sáo này chết, tháng sau tôi buộc tổ sáo khác. Mùa xuân tàn rất nhanh, tôi có đàn sáo mới, tôi nuôi một đôi để chúng quyến luyến nhau cơ hồ anh em tôi, chắc em tôi sung sướng lắm. Ý tưởng ấy khiến tôi bớt se sắt, bớt tủi nhục. Tôi len lén trở vào xách cái lồng sáo xuống bếp. Trời còn tối, sáo không nhận ra tôi. Nếu nó chết thì nó oán hờn sự nghèo khổ và bàn tay tàn ác nào đó. Vong hồn cha tôi sẽ phù hộ tôi. Giết nó, tôi đau đớn vô ngần nhưng tôi phải thương em tôi hơn. Em tôi phải được ăn thịt sáo nấu su hào ngày mồng một tháng giêng năm mới. Chỉ vì em, tôi quên tất cả.
     Tôi mở cửa lồng thò tay tìm con sáo. Nó nhảy trốn, móng chân nó cào vào tay tôi đau buốt. Cuối cùng tôi tóm nó. Nó kêu ai oán, từ xưa nó chưa từng kêu như thế. Nó g giẫy giụa. Tôi vặn cổ nó chết tươi. Làm xong công việc tàn nhẫn đó, tôi nhóm lửa nấu nước làm lông. Tôi run run chặt dao trúng ngón tay. Máu tôi hòa cùng máu con sáo.
     Tôi xào thịt với hành mỡ thơm lừng rồi đổ nước đun thật lâu. Trong khi chờ đợi, tôi gọt su hào.
     Lúc ở bếp bước ra, trời hừng sáng. Tôi đem lông sáo và cái lồng giấu phía sau nhà. Tôi ngồi bệt xuống đất, ôm mặt khóc. Pháo nổ vang trời đất, chuông trống khua inh ỏi. Lòng tôi sôi bùng bùng, tan nát. Tôi nhớ chú Nghị, tôi nhớ cha tôi. Những người thân yêu có thể che chở cuộc đời mẹ con tôi đều bỏ đi cả. Bây giờ mùa xuân về, mẹ con tôi cô độc, nghèo nàn. Tôi đâu đớn trút nỗi buồn vào hai bàn tay non nớt, bóp bẹp cái lồng sáo. Niềm vui thơ ấu của anh em phần bị chết chóc, phần bị dúm dó, gẫy vụn. Tôi cứ ngồi tưởng tiếc. Mãi khi nghe tiếng mẹ gọi , tôi mới trở vào.
     Mẹ tôi hỏi:
     - Tại sao con khóc?
     Tôi đưa vạt áo thấm nước mắt, trả lời:
     - Thưa mẹ khói làm con cay mắt đấy ạ!
     Rồi tôi mỉm cười, nhưng nụ cười gượng gạo ấy giấu sao nổi một tâm tư đang cuồn cuộn muôn vàn ý nghĩ. Tôi nghe tiếng mẹ thở dài. Tôi đánh thức em tôi dạy. Mẹ tôi mừng tuổi cho mỗi đứa hai đồng. Tôi tặng cả em. Em tôi sung sướng nhận ngay không hỏi lôi thôi như những ngày thường. Gió xuân vừa tạt qua đôi má thơ ngây của em. Tôi nói:
     - Mai, đi rửa mặt rồi vào ăn cỗ em!
     Em reo to:
     - Có cỗ hở anh?
     - Ừ, cỗ to lắm.
     - Anh cúng cha chưa?
     - Đã.
     Tôi nói dối em chứ ai lại cúng cha bằng thịt sáo. Em tôi chưa biết gì cả. Khi ngồi ăn, em mơ màng chuyện đâu đâu. Em khen thịt ngon. Bất chợt em hỏi tôi:
     - Thịt gì đấy anh?
     - Thịt chim.
     - Anh mua à?
     - Không.
     - Thế ai cho, ông ngoại hở?
     Tôi im lặng nghĩ câu trả lời. Em tôi tự nhiên buông đũa, đứng dậy, cuống quít:
     - Con sáo của anh em mình anh ạ! Ta mừng tuổi nó chứ?
     Thấy tôi rầu rầu không nói, đứa em gái sầu thảm của tôi ngây người đứng ngó. Và em chạy vụt ra sân ngơ ngác tìm kiếm xong lại chạy vô gậm giường? Chẳng thấy lồng sáo đâu, em hỏi:
     - Nó ở đâu hở anh?
     - Chắc trộm bắt mất rồi em ạ!
     Em tôi thẫn thờ bước khỏi ngưỡng cửa. Lòng tôi rối bời. Nước mắt trào dâng lên, nhỏ giọt xuống bát canh su hào thịt sáo. Tôi cứ ngồi, nước mắt cứ rơi, lặng thinh như phiến gỗ. Tôi đợi em vào để xin lỗi. Tôi hối hận, tôi muốn chạy ngay ra ngõ gào khóc bi thương ngộ may có Phật hiện hình thì xin ước cho con sáo sống lại. Nhưng cõi đời tăm tôi của anh em tôi, Phật là chú Nghị, chú chết rồi, tôi ước nguyện gì đây? Mãi chả thấy em trở vào, tôi hoảng hốt chạy về phía nhà sau. Ở đấy có bộ lông sáo sũng nước và cái lồng tre chú Nghị đã đan cho em tôi. Em tôi ôm cái lồng vào tay thương tiếc. Tôi đi nhẹ tới gần em. Bước chân tôi run rẩy trên nền đất quê ngoại. Tôi khẽ gọi:
     - Mai, em Mai...
     Em không ngoảnh lại. Tôi biết em ghét tôi lắm. Em đứng dậy, vẫn ôm cái lồng, lững thững đi ra bờ ao. Tôi phải nói thế nào để em tôi hiểu tại sao tôi giết con sáo? Tôi toan giãi bày, nhưng khốn nạn, sự nghẹn ngào rình mò đúng lúc vít chặt lấy cổ họng tôi. Tôi chỉ còn biết ấp úng:
     - Em ơi! Anh xin...
     Tôi buông chưa dứt lời, em quay lại nhìn tôi, đôi mắt chớp mau. Bốn con mắt anh em tôi lúc ấy mờ đi dưới cái màng sám hối, đau thương. Bộ mặt đau khổ của tôi nói với em nhiều rằng tôi quý con sáo nhưng tôi yêu em. Em tôi chừng hiểu chuyện, em buông đôi tay. Cái lồng và bộ lông con sáo rơi xuống đất. Em chạy xô tới ôm lấy tôi, khóc nức nở.