28/11/08

Bùi Giáng : Không cốc túc âm

Loạt bài: Văn học miền Nam trước 1975

Bùi Giáng
Không cốc túc âm

“Nàng đã đến bởi con đường vạch trắng..”

Nàng là nàng thơ, nàng Thúy, nàng Dương, nàng Hà, nàng Thái Chân, Thậm Mỹ, Chí Thiện, Từ Bi… Nhưng phải gọi, thì nàng mới về… Mà gọi cũng là lắng nghe… Lắng nghe trong vắng lặng Thái Hư tịch mịch chiều hồng…

“Lặng nghe lời nói như ru
Chiều xuân dễ khiến nét thu ngại ngùng”

Thế là bỗng dưng biên thuỳ xoá mất… Ai là kẻ gọi? Ai là người nghe? Và cả trời, cả đất, cả xuân, cả thu cũng tràn lan vào trong cõi. Niềm tương ứng càn khôn vũ trụ mấp mé bên nhịp cầu ngại ngùng trong từng trận gió tịch mịch hư không.

Người xưa dùng cái tiếng “không cốc túc âm” cũng không ngoài nghĩa đó: “ngồi trong hang động im vắng mà nghe gót chân…khơi động bên ngoài”.

Gót chân nào đi?

Gót chân nào bước?… Và đi trong bước để tái lập mộng đời ở quanh quất hương màu các ngã ba:

“Nàng từ lánh gót vườn Hoa
Dường gần Rừng Tía, đường xa Bụi Hồng”

Nàng là ai?… Chính lời cậy hỏi nọ đã buộc ta bước lên đường kêu gọi mãi… Về miền Nam nước Việt nhớ nhung hoài người bạn tuổi anh niên.

Người bạn tuổi anh niên… của miền Nam nước Việt -vốn xưa kia tên gọi là nước Việt của trời Nam- đã từng gặp những cơn mạo hiểm lưu ly…Tố Như Tử! Đã từng rời mái Thanh Hiên, chịu làm Hiệp Hộ Lang Thang ghé Gia Tĩnh tìm nàng suốt hà sơn vạn lý!…

“Xuân phong tiếu bộ nguyên màu
Liễu yêu bài động mối sầu trở cơn”

Bởi một đường rẽ trắng….nàng đến.

Bởi một đường rẽ trắng….nàng đi.

Hỡi ôi! Chính đó là cái chỗ để trần gian dấn thân vào mà phiêu bồng tư lự chiêm bao:

Huyền diệu của con người. Dị thường của con kẻ.
Kỳ bí của tồn lưu. Vô ngần của tâm lý.
U uẩn của tân thanh. U huyền của ngôn ngữ.
U lệ của ra hoa. U kiều của thanh lục.
U diễm của thanh hà trên vạn lý hà sơn.

Cái đáng kể là riêng duy chỉ rằng, chân lý tồn lưu chịu về trong ngôn ngữ và tư tưởng chịu đạt tới ngôn ngữ nọ. Ngôn ngữ nào?… Ngôn ngữ tái tạo tân thanh. Ngôn ngữ thiết lập thịnh triều của ngôn ngữ. Vô thanh vô tức trong Nếp gấp Bất tư nghi của Vô Ngôn.

Nói nghìn lời để dìu cái-không-lời về trong cái-không-nói.

Và cái-không-nói cũng thường là cái mệnh đề phụ thuộc giắt cài thêm, lửng lơ như cái-nói-rằng-không là triền miên trong-có vậy.

Thường thấy người ta phàn nàn: thằng nọ viết văn làm thơ lớ mớ, nửa cỏ nửa gai, không gì ra rành mạch cả. Sao nó không viết đơn giản rành rõ như ông Nguyễn Du, như ông Hồ Dzếnh, như ông Khổng, ông Lão, ông Trang?

Tưởng như ông Khổng, ông Trang, ông Du, ông Dzếnh viết văn rành mạch đơn giản lắm!

Tưởng như người ta đã hiểu rõ cái điều ông Khổng, ông Du đã nói!

Và hỡi ôi! Tưởng như ai ai cũng có thể và có bổn phận phải viết như các thánh sống, thần linh kia! Kỳ dị thay!

Giữa phong tình cổ lục, và lục đại mây mưa vốn có một cái hang từ thiên cổ. Cái hang chia xa tồn lưu và tồn hoạt. Chia xa dị biệt.

Rồi về sau, lúc mê cung tư tưởng chuyển sang Mê Hội Trận Triết Học chi ly, khi cái chỗ chia xa dị biệt đạt tới mức độ vô ngần.

Đó là trường hợp Đức Khổng. Hình nhi thượng và Hình nhi hạ ban sơ tương giao ở địa điểm tồn sinh nào, mà về sau căn cơ an thập lập mệnh trôi tuốt đi ba ngã, bốn bề phiêu bồng suốt xứ. Lời than tê buốt lại dội ngầm:

“Thái Sơn kỳ đồi hồ!
Lương mộc kỳ hoại hồ!
Triết nhân kỳ nuy hồ!” [1]

Chúng ta bàn hoàn xiết bao, chợt một lần nghe ra tiếng than thở nọ.

Đầu ta hai ba thứ tóc!

Mà sao chiêm bao vạn lý, sao hà sơn đi?

Đại hồng ký thác từ quy: “Lời trong căn để vui gì lắm đâu”.

Suốt kiếp phải nghiêng mình lên huyền nhiệm nọ! Ấy bởi rằng, không thể dòm ngó theo lối “ lai rai “.

“Cái cốt thiết, cái hệ trọng, cái tinh thể làm sao nhìn thấy với hai con mắt thao láo mở”. Hãy xin người hãy đăm chiêu hơn nữa…Từ con trăn trong rừng thẳm nuốt con mãnh thú trong rừng sâu, tới con rắn vàng hoe mổ vào chân Hoàng Tử Bé…, cho tới miền bàn hoàn của kẻ ở lại sớm hôm bần thần nêu câu hỏi:

“Một nơi nào đó, chẳng biết là đâu, một con cừu đã, có hay không, ăn mất một đoá hồng?” [2]

Chân thành nhìn vào chỗ nọ, ta sẽ nêu câu hỏi: “Nhạt thưa gương dọi đầu cành”, “ngọn đèn khi tỏ khi mờ” vây phủ cõi đăm chiêu chiêm niệm của những chàng, những chị thiếp lúc họ đối diện với định mệnh mình, khi tỉnh mộng, khi trở cơn?

“Chập chờn cơn tỉnh cơn mê
Song hồ nửa khép mở về chiêm bao»

Chính những câu thơ chập chờn lay lắt của Nguyễn Du là cái chỗ căn cơ cho mọi cuộc thiết lập trường tồn vô ngần lãng đãng. Nguyễn Du đã âm thầm đẩy một nhịp cầu tồn lưu “tổng hợp” tới dưới bước chân con người đang khập khiễng trên bình diện náo sinh.

Những “tổng hợp” lớn trong những trận suy tư hoằng viễn, cũng hiện ra trong Nếp Gấp dị thường cơ cấu lung linh mờ tỏ “dường gần Rừng Tía, dường xa Bụi Hồng”. Cho đến lúc nào cái lẽ tử sinh hiện ra giữa trận tiền theo tiết điệu: “sinh là tử, tử là sinh”, tử sinh là cái thiên thu tặng vật phong phú trao về từ dĩ vãng đang chờ đợi con người ở chân trời sương bóng Mai sau.

Truyện Kiều biến làm truyện sử lịch Tây Phương đang tìm sang Đông Phuơng để nêu một câu hỏi trong cuộc gây cấn tương tranh.

Nhưng nếu người Đông Phuơng không nghe cái tiếng nói của Đông Phương thì làm sao mà nghe tiếng nói của Tây Phương.

Phải trả Đức Lý về cõi sơ nguyên trong ánh sáng mờ tỏ của tồn thể, thì Đức Lý mới đủ sức đi tiếp dặm đường và giải toả thiên hạ để bước vào Mê Cung lớn.

Từ đó về sau, thiên hạ sẽ đọc lại thơ Việt Nam trên bình diện Thái Cổ Cực Kim.
Đó là điều môt bực tiền bối cũng đã nói:

“Lão phu mạo hỹ
Tam thu khai bồ liễu chi dung”

Tới lúc đó thì cả trời, cả đất, cả vũ trụ và càn khôn, và Sài Gòn phố thị, và Chợ Lớn phố phường, và cô em họ gái phố Tunis sẽ… hòa chung trong cõi miền bấn loạn của Tình Điên:

“Đã có một lần (giữa trận tiền), tôi xin phép Đại Uý cho phép về Tunis thăm người em họ gái”, Đại Úy trả lời: “Trong thế gian còn chứa đầy xiết bao là cô em họ gái!” [3]
Đông Phương, Tây Phương gặp gỡ nhau chính tại trận tiền nọ.

Một phen trong cõi, đã yêu một cô em họ gái trong miền, thì từ đó về sau nhìn đâu đâu cũng thấy “trong thế gian còn chứa đầy xiết bao là cô em họ gái”. Những da vàng, da trắng, da đen, da Triều Minh Gia Tĩnh, da Hy Lạp Homère, da Sylvie thôn nữ, da cô em mọi nhỏ phiêu bồng… nguồn dịu ngọt… suối tóc hồng vàng… dặm nghìn nước thẳm… năm nghìn cây số sa mạc bên kia….

Những trang viết ẩn kín của mấy nhà tư tưởng Tây Phương đang nói với chúng ta những điều cốt yếu thân thiết trong tâm hồn họ. Nghĩa là tâm hồn của Lục Địa đang thao thức vì câu chuyện sử xanh lạc loài rơi vào trong tồn sinh “hư vô chủ nghĩa” đã tàn phá cõi “Thái Hư”.

Những nhà tư tưởng xưa nay vẫn lần mò đi đứng trong đáy hang sâu… để nghe rõ ràng những vang bóng đi qua…

Kỳ lạ sao. Cứ mỗi phen đoạn trường dội tân thanh là một phen trần gian lẩy bẩy hy vọng náo nức.

Chúng ta muốn rủ nhau chết chùm để có cơ hội hồi sinh sống bó.

Tất cả những trang sách hoằng viễn của hiện đại đều nằm trong trong cơn chiêm bao bát ngát thầm thì vết máu bất-khả-tư-nghi của hoài vọng Hy-Lạp-Ly-Tao!

Tiếng kêu đó phải được nghe trên lối về miền vắng lặng. Vì nó nằm trong cõi bất-tư-nghị của mọi tư tưởng kim cổ trong bầu gió của Tồn Thể Uyên Nguyên.

Vô thanh vô tức… Đoạn trường tân thanh… Thanh hiên thi tập… Terre des hommes… Le Petit Prince… tiếng kêu chìm trong hơi thở hiu hiu…

“Bậc chân nhân đời xưa công trùm thiên hạ, mà thiên hạ không biết không hay”.

Từ câu nói đó, những tặng vật thiên thu bỗng được trao về.

Ta đón nhận và tự nhủ rằng: «dù sao cũng không quá muộn”.

(1965)



Phụ lục

Vài lời dẫn của Mộc Giai


I.

Bài tiểu luận trên gồm những đoạn văn tôi đã trích lục nguyên văn từ bài Tựa, Bùi Giáng viết cho quyển Sương Tỳ Hải, nhà Xuất Bản Phú Vang, Sài Gòn 1966. Trong quyển Sương Tỳ Hải này, Bùi Giáng dịch và giảng giải một số văn bản của Albert Camus, André Gide, Martin Heidegger.

Taị sao những nhà tư tưởng văn học Tây phương xa xôi ấy?

“Những trang viết ẩn kín của mấy nhà tư tưởng Tây phương đang nói với chúng ta những điều cốt yếu thân thiết trong tâm hồn họ”… nhưng cũng là những điều cốt yếu trong tâm hồn của toàn thể chúng ta vốn từ xưa vẫn thao thức với câu hỏi “nhân loại tồn sinh - có hay không - trong Hư Vô chủ nghĩa.

Ôi! Biết bao nhiêu là những trang sách hoằng viễn, tư tưởng “thiên thu tặng vật” trao về từ Đông phuơng, từ Tây phương, từ dĩ vãng cho chúng ta ngày nay, cho con người của mai sau. Những trang sách nằm trong chiêm bao bát ngát hoài vọng khởi sự từ Homère tới Nguyễn Du, từ Khổng Tử tới Camus- Gide -Heidegger…

Trong bài Tựa, Bùi Giáng lại tự hỏi giữa chúng ta, có còn những ai, ai bây giờ biết “lắng nghe” những lời vang vọng đó.

Người xưa đã đặt câu hỏi vào bốn chữ: “Không Cốc Túc Âm”, trong hang động im vắng của tâm hồn, lắng nghe bước chân của người đi rộn ràng bên ngoài, dẫn đường cho tư tưởng.

Và Bùi Giáng còn tự nghĩ, chính chúng ta, người Việt Nam đây, có thật nghe ra được không Nguyễn Du đã nói gì, và định rõ được thế nào là nguồn thơ Việt Nam kim cổ trong giòng lịch sử thi ca của nhân loại. Những điều đặt trong cõi Bất Tư Nghị giữa “bầu gió tồn thể uyên nguyên”


II.

Bùi Giáng có thể ngồi ngay bên lề đường, tựa mình vào một gốc cây, viết hàng chục trang giấy trên một quyển vở học trò. Và cứ như thế trao cho nhà in!

Bùi Giáng phủ nhận mọi giằng co đo đếm, mọi chi ly lý luận.

Ngay trong sáng tác văn học, Bùi Giáng “bản nhiên thử tại trong cõi tồn sinh thể tại”.

Toàn bộ những trang sách văn thơ đã in ra phát hành của Bùi Giáng, đều có thể được coi là những bản thảo. Những bản thảo của thiên tài: câu thơ câu văn tự nó bay bổng không cùng, ý tứ cứ thế lôi theo nhau ẩn hiện đan ghép, ngôn ngữ như suối nước tràn lan bất tận.

Đọc Bùi Giáng, độc giả mỗi người phải biết thu mình lắng nghe, lần mò theo dõi một hai ý. Trước hết phải biết lược gạt, trong cái nghĩa “cất khép lại giữa hai dấu ngoặc” (bracketing) của Husserl, trong Hiện Tượng Luận Học. Lược gạt những đột phá không cùng, hồn nhiên thi phú của nhà thơ chìm đắm trong lời và trong ý.

Bài tiểu luận trên, theo cái ý đó, đã thu gọn vào 3-4 trang sách bài Tựa dài 22 trang sách mà Bùi Giáng đã viết cho Sương Tỳ Hải.

Hỏi tôi đã quá mạo muội không?

Hỏi tôi có phản bội tư tưởng của Bùi Giáng không?

Tôi chỉ biết trả lời rằng tôi đã “thành tâm lắng nghe”.

Bài tiểu luận ngắn gọn, tôi mạn nghĩ, đưa Bùi Giáng gần gũi người trần chúng ta hơn. Và cho các bạn đọc, cho cả chính tôi nữa dễ dàng nhận ra một số suy tư bay bổng, sâu rộng của nhà thơ nhà văn hàng đầu trong lịch sử văn học Việt Nam.

8.3.2004

© 2004 talawas




[1]Những hình ảnh trong Hoàng Tử Bé, Bùi Giáng dịch Le Petit Prince, truyện của Saint Exupéry
[2]Thái sơn tới kỳ lở! Rường gỗ tới kỳ mục! Triết nhân tới kỳ mỵ!
[3]Đoạn văn trích từ Cõi Người Ta, Bùi Giáng dịch Terre des Hommes, truyện của Saint Exupéry.

27/11/08

Huỳnh Ngọc Chiến Từ Buddha đến Bụt và Phật

25.7.2008
Huỳnh Ngọc Chiến
Từ Buddha đến Bụt và Phật

Vấn đề nguồn gốc danh xưng Bụt hay Phật đã được bàn cãi rất nhiều suốt mấy năm qua, dù cả hai danh xưng đó đều được chấp nhận là cách phiên âm của danh từ Buddha trong Phạn văn. Song cũng như nhiều cuộc tranh luận khác, dường như khẳng định cuối cùng vẫn còn để ngỏ. Trên tinh thần trao đổi và học hỏi, chúng tôi đóng góp bài viết nhỏ này, dựa vào kết quả nghiên cứu của nhà Phật học Quý Tiển Lâm của Trung Quốc [1] để trình bày mối liên quan giữa Buddha trong Phạn văn với Phật (hay Bụt) trong Hán văn, mà chúng tôi cho là có tính thuyết phục và đáng tin cậy hơn cả. Trong bài viết này, chúng tôi không đi sâu vào vấn đề từ nguyên và ngữ âm, mà chỉ trình bày vì sao danh từ Buddha với hai âm tiết lại được phiên âm thành Phật hoặc Bụt chỉ với một âm tiết.

Về danh xưng Bụt và Phật, đại khái hiện nay có ba quan điểm:

a. Quan điểm thứ nhất: Phần đông cho rằng từ “Buddha” trong Phạn văn được phiên âm sang Hán văn là “Phật Đà 佛陀” hoặc “Bột Đà 勃 陀”; và Phật là cách gọi tắt của Phật Đà, còn Bụt cách đọc trại chữ “Bột” trong “Bột Đà”.

b. Quan điểm thứ hai: Bụt (chữ Nôm viết là 孛) là cách phiên âm trực tiếp âm tiết thứ nhất của từ Bhudha của người Việt trong giai đoạn sơ kỳ, khi Phật giáo Ấn Độ truyền bá vào nước ta: Bud → Bụt. Quan điểm này cho rằng cách đọc Bụt (là cách đọc bình dân của người Việt) đã xuất hiện trước cách đọc Phật (là cách đọc bác học theo kinh điển Trung Quốc), để khẳng định rằng vào buổi ban đầu, Phật giáo Việt Nam được truyền trực tiếp từ phương Nam tức từ Ấn Độ sang, chứ không phải được truyền từ phương Bắc là Trung Quốc. Cách đọc Phật là do ảnh hưởng của Trung Quốc, và cách đọc này chỉ xuất hiện khi quân Minh sang xâm lược nước ta, tức khoảng cuối thế kỷ 15.

c. Quan điểm thứ ba: Về từ nguyên thì Bụt và Phật đều là cách đọc khác nhau của cùng một chữ 佛 trong chữ Hán mà thôi. Chỉ khác là trước kia đọc là Bụt, sau này đọc là Phật. Nói chung thì Bụt và Phật tuy hai mà một.

Song có một điều đơn giản mà các nhà nghiên cứu chưa giải quyết được là: vì sao trong cả hai cách phiên âm Bụt hay Phật đều chỉ có một âm tiết, trong khi từ Buddha trong tiếng Phạn lại có hai âm tiết? Do đó mới nảy ra cách phỏng đoán Phật chỉ là cách đọc tắt của Phật Đà, và Bụt là cách đọc tắt của Bột Đà hoặc là cách phiên âm trực tiếp âm tiết thứ nhất của từ Bhudha.

Bụt là Phật, điều đó hiển nhiên không có gì để bàn cãi. Trong truyện cổ tích Việt Nam thì Bụt là hình tượng dùng để chỉ vị tiên hiền lành nhân hậu, chuyên ban phúc và cứu giúp cho người lương thiện, điển hình là trong truyện “Tấm Cám”. Từ Bụt đã tồn tại rất lâu trong ca dao tục ngữ, lẫn văn chương bác học.

Ví dụ:

* Chưa dễ ai là Bụt Thích ca/ Mọi điều nhân nghĩa nhẫn thì qua (Nguyễn Bỉnh Khiêm);
* Bụt cũng hiền từ sư cũng khá/ Chỉ hai con chó chữa từ bi (Nguyễn Công Trứ);
* Đi với Bụt mặc áo cà sa, đi với ma mặc áo giấy (Tục ngữ) v.v…

Tác giả Nguyễn Trọng Phu trong bài nghiên cứu “Bụt hay Phật?”có trích dẫn theo quyển Lịch sử chữ Quốc ngữ” của Ðỗ Quang Chính (Tủ sách Ðường Mới, Paris, 1985) một bản thảo của Bento Thiện (sinh năm 1614) là một thầy giảng thuộc Dòng Tên đạo Thiên Chúa, sống gần thời với Đắc Lộ (Alexandre de Rhodes 1593-1660) và đã học chữ quốc ngữ đầu tiên với các linh mục Dòng Tên Marini, Gaspar d'Amiral, Ðắc Lộ. Trong bản thảo đó cho thấy hai từ Bụt và Phật đều được dùng đồng thời [2] .

Theo các tự điển Phật học thì từ Phật 佛 còn có các cách gọi khác như:

* Bộ Đa 部多
* Bộ Đà 部陀
* Bột Đà 勃 陀/勃 馱/馞 陀
* Bộ Tha 步 他
* Hưu Đồ 休 屠
* Một Đà 沒 馱/没陀
* Phật Đà 佛陀/佛 馱
* Phật Đồ 佛圖
* Phí Đà 沸 馱
* Phù Đà 浮 陀
* Phù Đầu 浮 頭
* Phù Đồ 浮 屠/浮 圖
* Phục Đậu 復豆
* Vật Tha 物 他
* Vô Đà 毋陀 v.v….

Trên đây là một số cách mà người Trung Quốc, qua nhiều giai đoạn, dùng để dịch âm danh từ Buddha trong Phạn văn, dịch ý là “Giác giả”, nghĩa là “Đấng giác ngộ”, dùng để chỉ đức Phật. Hai cách phiên âm phổ biến được sử dụng trong kinh điển là “Phù Đồ” 浮屠 hay 浮圖,và “Phật” 佛, song cách phiên âm được kinh điển Trung Quốc sử dụng nhiều nhất vẫn là Phật.Trong bài này, chúng ta tập trung vào cách phiên âm Phật.

Theo các vận thư và tài liệu cổ Trung Quốc thì chữ Phật có nhiều cách phiên thiết. Căn cứ vào Tập vận 集韻 và Chính vận 正韻 thì chữ Phật có hai cách phiên thiết, và do đó có thể đọc theo hai cách bằng âm Hán Việt:

1. Phù vật thiết (符勿切)
=>
Ph(ù) + (v)ật => Phật.
2. Bồ một thiết (蒲沒切)
=>
B(ồ) + (m)ột => Bột.

Theo Thích Văn 釋 文 thì Phật được đọc theo âm Bật 弼.

Đây có lẽ là cơ sở ngữ âm để các nhà nghiên cứu suy ra rằng Bụt (là cách đọc trại của Bột) và Phật đều là cách đọc của một chữ Hán duy nhất, tại hai giai đoạn khác nhau. Theo nhà Hoa ngữ học lỗi lạc Karlgren, trong tác phẩm Grammata Serica, thì chữ Phật có 3 cách đọc là [b’i̭wt/b’i̭ut/fu]. Trong các tự điển Trung Quốc hiện đại, chữ Phật được phát âm theo hai cách là [Fó] và [Bó]. Như vậy, chúng ta có thể thấy rằng giữa cách phát âm Bụt và Phật có mối liên quan mật thiết. Còn vì sao cách đọc Bụt hầu như mất hẳn khỏi nền văn chương truyền khẩu lẫn văn chương bác học thì mọi nghiên cứu để chứng minh cũng chỉ đều là sự suy diễn và phỏng đoán, chứ chưa có một cơ sở khoa học hoặc chứng cứ lịch sử vững chắc nào để khẳng định một cách thuyết phục, ngoài những luận cứ về ngữ âm.

Nếu cho rằng Bụt là cách đọc trại của Bột trong Bột Đà thì phải chấp nhận hai sự kiện. Thứ nhất: từ Bột Đà trong kinh điển Trung Quốc đã xuất hiện trước từ Bụt trong tiếng Việt. Song hiện nay vẫn chưa thấy có văn bản nào được trích dẫn làm sở cứ để chứng mình điều đó cả. Thứ hai: để Bột trong Bột Đà biến thành cách đọc Bụt trong dân gian thì rõ ràng Bột Đà phải là từ rất phổ biến. Song từ Bột Đà chủ yếu chỉ xuất hiện trong các chân ngôn và thần chú trong kinh điển như kinh Lăng Nghiêm, kinh Phật đỉnh tôn thắng đà la ni (bản dịch của sa môn Phật Đà Ba Lợi) v.v… Mà trong kinh điển Phật giáo, tần số xuất hiện của thần chú, chân ngôn so với kinh văn do Phật thuyết lại không cao, thêm vào đó là trúc trắc rất khó đọc, khó nhớ. Tín đồ Phật giáo không còn lạ gì câu: “Đi lính sợ trèo ải, làm sãi sợ chú Lăng Nghiêm”, đủ thấy các chân ngôn, thần chú đọc khó tiêu, khó nhớ như thế nào. Do đó, chúng tôi cho rằng Bột Đà khó lòng được sử dụng phổ biến trong dân gian để biến thành cách gọi tắt là Bụt trong tiếng Việt được.

Còn nếu chỉ căn cứ vào sự xuất hiện của từ Bụt trong những câu ca dao, tục ngữ hoặc các câu chuyện cổ tích dân gian mà ta không thể xác định được thời điểm ra đời, để khẳng định rằng Bụt là cách người Việt phiên âm trực tiếp âm tiết thứ nhất của từ Bhuddha, và qua đó khẳng định rằng Phật giáo được truyền đến Việt Nam trước khi qua Trung Quốc, thì e rằng rất khó thuyết phục.

Thông thường, khi một từ của ngôn ngữ nước ngoài được du nhập vào ngôn ngữ bản địa, mà ta gọi là tá tự hay là từ vay mượn (loan-word), thì người ta phải dùng cách đọc tương tự của ngôn ngữ bản địa để dịch âm, gọi là âm dịch hoặc thể thanh, sao cho cách đọc đó bảo lưu được âm hình ban đầu, dù từ phiên âm đó không có nghĩa trong ngôn ngữ bản địa. Ví dụ người Việt dùng từ “xà-phòng” hoặc “xà-bông” để gọi savon của người Pháp, hoặc “xăng-uých” để gọi bánh sandwich của người Mỹ. Chắc chắn phải trải qua một thời gian dài và được sử dụng phổ biến, dần dần người ta mới quên hẳn nguồn gốc từ vay mượn đó và xem nó như là ngôn ngữ bản địa.

Danh từ Buddha cũng vậy. Khi Phật giáo mới truyền bá đến Trung Quốc, các thuật ngữ chuyên môn đều được những tín đồ phiên dịch kinh Phật giữ nguyên âm điệu, bằng cách dùng những từ Trung Quốc có cách đọc tương đồng để phiên âm cho chính xác. Theo các nhà nghiên cứu, chưa có trường hợp từ hai âm tiết trong Phạn văn nào lại được phiên âm rút gọn thành một âm tiết trong Hán văn. Hơn nữa, Buddha được xem là giá trị tối linh thì chắc chắn các tín đồ Phật giáo dịch kinh thời kỳ đầu không dám phiên âm tắt được. Đó là điều hiển nhiên. Ví dụ tín đồ Thiên Chúa giáo không dám gọi tắt đấng Giê-hô-va là đấng Giê-hô, cũng như tín đồ Hồi giáo không dám gọi tắt đấng Ala là đấng A được hay nhà tiên tri Ma-hô-mét là Ma-hô được.

Như vậy từ Buddha được phiên âm thành Phật hẳn phải bắt nguồn từ nguyên nhân khác. Như đã nói trên, rất nhiều người cho rằng Phật là cách đọc tắt của Phật Đà hoặc Bột Đà. Ngộ nhận này khá phổ biến, và đều bắt nguồn từ Dị bộ tông luân luận thuật ký 異 部 宗 輪 論 述 記 mà ra. Cuốn này ghi rằng: “Phạn âm ‘Phật Đà’ là nói đấng giác ngộ. Từ xưa đã gọi tắt là Phật” (佛陀梵音,此云覺者. 隨舊略語,但稱曰佛: Phật Đà Phạn âm, thử vân giác giả. Tuỳ cựu lược ngữ, đản xưng viết Phật).
Sư cô Chơn Không của thiền viện Làng Mai dẫn chứng lời nói của pháp sư Khuy Cơ, trong phần chú thích cho “Lá thư Làng Mai 25”, như sau:

“Sư khuy Cơ, cao đệ của Tam Tạng Pháp sư Huyền Trang, đời Ðường, trong sách Ðại thừa pháp uyển nghĩa lâm chương, quyển thứ sáu, có nói: ‘Bột Ðà (Buddha) là tiếng Phạn, gọi tắt một cách sai lầm là “Phật” (Phạn văn Bột Ðà, ngoa lược vân Phật)’” [3] .

Điều này lâu nay đã trở thành hiển nhiên đến mức hầu như không còn ai nghi ngờ gì nữa. Song trong các thư tịch còn lại từ thời Hậu Hán Tam Quốc, thì danh từ “Phật” đã xuất hiện trước danh từ Phật Đà rồi! Thư tịch cho thấy không có trường hợp danh từ Phật Đà xuất hiện trước danh từ Phật. Có thể Phật Đà chỉ là cách phiên âm bổ sung thêm vào từ Phật trong giai đoạn về sau, chứ không phải Phật là cách đọc tắt của Phật Đà.

Nhiều nhà nghiên cứu Trung Quốc sống sau thời Hậu Hán, khi đối chiếu nguyên bản Phạn văn với những danh từ được phiên âm trong bản dịch kinh Phật đời trước, thấy không tương đồng, nên cho rằng đó là cách phiên âm sai hoặc phiên âm tắt. Thật ra, trong buổi ban đầu, Phật giáo truyền đến Trung Quốc không phải là Phật giáo Ấn Độ như chúng ta lâu nay lầm tưởng, mà chính là Phật giáo vùng Trung Á, từ các nước như Đại Nhục Chi và các nước nhỏ vùng Tân Cương ở Trung Á, thông qua con đường tơ lụa. Do đó, khi được du nhập vào Trung Quốc trong buổi sơ kỳ, thì phần lớn kinh Phật không được dịch trực tiếp từ Phạn văn mà thông qua một ngôn ngữ trung gian. Chỉ đến đời ngài Huyền Trang thì công việc dịch thuật mới được xem là tập đại thành. Chính vì vậy, trong tác phẩm Đại Đường Tây Vực ký của mình, ngài Huyền Trang đã phê phán cách phiên âm nhiều thuật ngữ Phạn văn trước đó là sai (Ngoa dã). Ví dụ ngài cho rằng phải phiên âm Yojana là du thiện na thay vì do tuần hay do diên, Vaiśya là Phệ Xá thay vì Tỳ Xá v.v… [4] Thực ra, đó không có gì là sai cả. Điều này cũng tương tự như ta phiên âm các danh từ Hy Lạp bằng tiếng Việt, qua trung gian tiếng Anh hoặc tiếng Pháp.

Khi kinh Phật truyền vào Trung Quốc thì danh từ Buddha trong Phạn văn được phiên âm khác nhau là “Phù Đồ” hoặc “Phật”, chỉ vì do con đường du nhập vào Trung Quốc khác nhau, nghĩa là qua hai ngôn ngữ trung gian khác nhau. Danh từ Buddha trong Phạn văn được phiên âm là “Phù Đồ” khi qua nước Đại Hạ và But khi qua các nước nhỏ vùng Tân Cương, Trung Á. Nhà Phật học Quý Tiển Lâm, với kiến thức uyên bác và những luận chứng thuyết phục về ngữ học đã chứng minh cho thấy trong văn tự Hồi Hột, Buddha biến thành trọc âm (âm đục) But. Và các tín đồ Phật giáo Trung Quốc buổi sơ kỳ đã dùng chữ Phật để phiên âm lại danh từ But, vì trọc âm xưa của Phật “佛” cũng là But.

Trong kinh nhật tụng bằng văn tự Hồi Hột, ta thấy cách tụng Nam mô Phật/ Pháp/Tăng như sau:

Quy mệnh Phật (Nam mô Phật)
歸命佛(南無佛)
=>
namo but
Quy mệnh Pháp (Nam mô Pháp)
歸命法(南無法)
=>
namo drm
Quy mệnh Tăng (Nam mô Tăng)
歸命僧(南無僧)
=>
namo sag

Cách phiên âm của từ Buddha trước khi vào Trung Quốc, đã thay đổi qua ngôn ngữ trung gian như sau:

1. Ấn Độ
=> Đại Hạ (Đại Nhục Chi)
=> Trung Quốc
Buddha
=> bodo, boddo, boudo
=> Phù Đồ.

2. Ấn Độ
=> Các nước nhỏ vùng Tân Cương, Trung Á
=> Trung Quốc
Buddha
=> But
=> Phật/Bột.

Sau đây là bảng đối chiếu cách phiên âm từ Buddha trong một số văn bản:

Trong văn tự
Buddha biến thành
Đại Hạ
bodo,boddo,boudo
Các nước nhỏ vùng Tân Cương, Trung Á
but
Văn tự Ba Tư cổ (Thánh điển của Bái hoả giáo)
bwt
Văn tự Ma Ni giáo của An Tức
bwt/but
Văn tự Ma Ni giáo của Mễ Đặc
bwty,pwtyy
Kinh điển Phật giáo Mễ Đặc
pwt

Như vậy, chính vì do cách phiên âm qua trung gian của ngôn ngữ vùng Trung Á [5] , trong khoảng trung thế kỷ, mà người Trung Quốc đã dùng từ Phật để phiên âm từ Buddha của tiếng Phạn, chứ hoàn toàn không phải là cách phiên âm trực tiếp. Điều này cho thấy chữ Phật có thể được đọc là Bụt trong thời cổ. Đây là những luận cứ khoa học về ngữ âm mà chúng tôi thấy là đáng tin cậy hơn cả.

Do đó, chúng ta có thể tạm kết luận: Phật hay Bụt đều là hai cách đọc khác nhau của một từ duy nhất. Và từ này không phải được phiên âm trực tiếp từ danh từ Buddha trong Phạn văn, mà thông qua ngôn ngữ trung gian của vùng Trung Á.

Chúng tôi hy vọng rằng bài viết ngắn này giải thích được phần nào nguồn gốc của hai từ Bụt và Phật. Song theo thiển ý, đã là Phật tử thì chúng ta cũng không cần phải quan tâm quá đáng với sự phân biệt giữa Bụt và Phật như các nhà nghiên cứu, mà hãy tự hỏi từ Bụt có đem lại an lạc tâm linh hơn từ Phật hay không, và ngược lại? Đạo Phật chủ trương “Bất hoại giả danh nhi thuyết thực tướng”. Trong kinh Lăng Già, đức Phật luôn nhắc nhở môn đồ rằng tất cả ngôn thuyết đều do nhân duyên hoà hợp mà thành, cho nên ngôn thuyết không thể nói về đệ nhất nghĩa đế, huống chi là hai từ Bụt và Phật?


© 2008 talawas

[1]Quý Tiển Lâm, Phật giáo học thuật luận văn tập, Nxb Đông sơ xuất bản xã, Đài Bắc, 1996, tr. 1 - 18.
[2]Xem “Bụt hay Phật?”, Nguyễn Trọng Phu, http://www.thuvienhoasen.org/ddpp-buthayphat-01.htm
[3]Xem “Danh từ Bụt - Trích Lá thư Làng Mai ngày 12-2-2002”, Sư Cô Chơn Không, http://www.thuvienhoasen.org/ddpp-buthayphat-02.htm
[4]Xem thêm Bút ký Đường Tăng, dịch giả TS Lê Sơn, Nxb Phương Đông, 2007, các tr. 75, 128, 153, 157…
[5]Mễ Đặc tức Sugda thời trung thế kỷ, còn gọi là Tốt Lợi (sūlīk), người BaTư cổ đại gọi là Suguda. Đại Hạ là quốc gia ở vùng tây bắc Trung Quốc thời cổ, người Hy Lạp cổ đại gọi là Bactria. An Tức là Arsacid hay Parthia thời cổ.

Trần Văn Tích : Tìm kiếm đơn vị từ ngữ tương đương

10.6.2008
Trần Văn Tích
Tìm kiếm đơn vị từ ngữ tương đương

Als Ausdruck der Verbundenheit Frau Thai Kim Lan gewidmet

Tập tiểu thuyết đoản thiên văn ngôn Liêu trai chí dị của Bồ Tùng Linh có bốn trăm ba mươi truyện ngắn, trong số đó có truyện “Xúc chức”. Truyện “Xúc chức” có gần một ngàn bốn trăm chữ, trong số đó có câu văn: “Thị chi, hình nhược thổ cẩu, mai hoa sí, phương thủ trường hỉnh, ý tự lương.” Câu văn vừa kể có tất cả mười sáu chữ [1] , trong số đó có hai chữ “thổ cẩu”. Ðó là hai chữ quí hoá, vì nhờ nó mà có bài viết hôm nay.

Ðề tài của Liêu trai chí dị rất rộng rãi, nội dung phong phú, chủ yếu bao gồm ba lĩnh vực. Lĩnh vực thứ nhất đả kích tính chất hắc ám của xã hội chính trị, như các truyện “Xúc chức”, “Tịch Phương Bình”, “Mộng lang”. Lĩnh vực thứ hai vạch trần tệ đoan của chế độ khoa cử, như các truyện “Tư Văn Lang”, “Vương Tử An”, “Giả Phụng Trĩ”. Lĩnh vực thứ ba mô tả ái tình giữa hồ tinh và con người, như “Anh Ninh”, “A Bảo”, “Liên Hương”, “Tiểu Tạ”. Truyện “Xúc chức” được Lâm Ngữ Ðường đánh giá là một đoản thiên tiểu thuyết kiệt tác trứ danh của Trung Quốc.

Liêu trai chí dị hành văn trau chuốt công phu trong sáng trôi chảy. Có rất nhiều bản chú giải Liêu trai chí dị. Ngoài ra còn nhiều bản trích lục Liêu trai chí dị, thích ứng với nhu cầu thưởng ngoạn của từng độc giả. Liêu trai chí dị hiện có bản dịch toàn bộ sang chữ Việt, bên cạnh nhiều bản trích dịch. Ðối với các ngoại ngữ khác, cũng có những bản dịch toàn bộ và những bản tuyển dịch.

Trong “Xúc chức”, Bồ Tùng Linh kể chuyện một ông vua thích đá dế, quan lại các cấp đua nhau dâng dế để mong lấy lòng vua, còn bọn cai trị địa phương thì nhân cơ hội đó ra tay vơ vét, tạo nên thảm cảnh nhà tan cửa nát, dân chúng lầm than chết chóc. Câu văn “Thị chi, hình nhược thổ cẩu, mai hoa sí, phương thủ trường hỉnh, ý tự lương” mô tả tình huống nhân vật chính trong truyện ngắn tên “Thành Danh” bắt được con dế và ngắm kỹ nó. Có thể dịch thành Quốc ngữ như sau: “Nhìn kỹ thì hình giống thổ cẩu, cánh tựa hoa mai, đầu vuông cẳng dài, có vẻ tốt.”


Thổ cẩu, hai chữ khó hiểu

Các dịch giả Việt Nam và ngoại quốc “xử lý” hai chữ thổ cẩu qua nhiều cung cách chuyển ngữ. Nguyễn Văn Huyền trong Liêu trai chí dị, Lời bình Tản Ðà, Lời bạt Chu Văn, in lần thứ tư, Nhà Xuất bản Văn học, Hà Nội, 2002, trang 369: “Ngắm kỹ, đầu vuông, đùi dài, dáng ve sầu cánh hoa mai, có vẻ tốt.” Ðồng thời dịch giả chú thích: “Nguyên văn ‘thổ cẩu’ (chó đất) một loại côn trùng, dạng ve sầu.” Dịch giả họ Nguyễn chủ xướng thổ cẩu là một loại côn trùng dạng ve sầu, nhưng không biết chắc nó là con gì.

Nguyễn Quốc Ðoan khi dịch Trung Quốc truyền kỳ tiểu thuyết của Lâm Ngữ Ðường, Nhà Xuất bản Văn hoá Thông tin, Hà Nội, 1994, trang 19, đã trình bày câu văn nguyên tác mười sáu chữ của Bồ Tùng Linh theo lối viết lại (trùng biên) của Lâm Ngữ Ðường: “(…) ông đứng nhìn con dế nhỏ có cái cổ dài, trên cánh có hoa văn hình hoa mai, có lẽ là một con dế thiện chiến.”

Sir Walter Hillier trong The Chinese Language How to learn it, Volume II, Part I, The Lazarist Press, Peking, 1909, đã dịch thoát truyện “Xúc chức” làm tài liệu trợ huấn cho việc học Hoa ngữ và chuyển ngữ linh động nơi trang 65: “(…) and when he had a close look at him he seemed to be rather a capable sort of an insect, (…)” Nơi phần chú thích từ vựng, thổ cẩu không được nhắc đến mà chỉ có các nhóm chữ xúc chức, khúc khúc và giải xác thanh nhằm chỉ loài dế.

Herbert A. Giles trong Strange Stories from a Chinese Studio, Third Edition Revised, Kelly & Walsh, Limited, Shanghai, Hongkong, Singapore and Yokohama, 1916, trang 278: “and, on examining it more nearly, he saw that it really was a handsome insect, with well-formed head and neck, (…)” Nhà Trung Hoa học người Anh tránh tìm đơn vị ngữ nghĩa tương ứng trong tiếng mẹ đẻ của mình để chuyển dịch thổ cẩu mà chỉ dịch thoát là “một côn trùng đẹp”.

Ursula Löffler trong Chinesische Geschichten, Deutscher Verlagsanstalt, Stuttgart, 1954, chuyển dịch Liêu trai chí dị từ bản Anh ngữ của Lâm Ngữ Ðường (Lin Yu-tang), trang 258: “Der Vater ergriff ihn und prüfte ihn eingehend. Er hatte einen langen Hals und ein Pflaumenblütenmuster auf den Flügeln. Er mochte ein guter Kämpfer sein, (…)” [Ông bố chụp bắt nó và chăm chú nhìn nó. Nó có cổ dài và trên đôi cánh có hình mẫu hoa mai. Nó có thể là một con vật chiến đấu tốt (…)] Dịch giả xem như nguyên tác không có hai chữ thổ cẩu.

Adrian Baar trong Chinesiche Gespentergeschichten, Fischer Taschenbuch Verlag, Frankfurt am Main, 1975, trang 109: “(…) und als er sie genauer betrachtete, sah er, dass es eine recht hübsche Grille war, mit gut geformtem Kopf und Hals, und trug sie deshalb im Haus.” [(…) khi nhìn kỹ hơn thì anh ta thấy rằng đó là một con dế rất đẹp với đầu và cổ cân đối nên liền mang nó vào nhà.] Tác giả chuyển thổ cẩu thành “con dế rất đẹp” đồng thời bỏ rơi các chi tiết hình thể học liên quan đến “mai hoa sí”, đến “trường hỉnh”; và mặc dầu Bồ Tùng Linh không hề mô tả cổ con thổ cẩu, Baar vẫn dịch thành mit geformtem Hals, với cổ cân đối.

Gottfried Rösel trong Zwei Leben im Traum, Verlag die Waage Zürich, 1989, trang 290: “Er betrachtete es: es sah wie eine ‘Erdhund-Grille’ aus, hatte Flügel von der Farbe der Pflaumenblüte, einen viereckigen Kopf, lange Unterschenkel und schien von gutem Charakter.” (Anh ta nhìn kỹ con vật: nó giống như một con “dế chó đất”, cánh màu hoa mai, đầu bốn góc, đùi dài và có vẻ tốt.) Dịch giả người Ðức trực dịch thổ cẩu thành chó đất đặt trong ngoặc, từ đấy mô tả cho động vật chí Trung Quốc một loài dế mới, dế chó đất.

Thổ cẩu cũng xuất hiện trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, nhưng với tư cách một món ăn không mấy khoái khẩu. Trong thời gian đi sứ vào hai năm 1813 và 1814, nhiều lần phái đoàn ngoại giao do Nguyễn Du lãnh đạo bị nghẽn đường vì thuỷ tai hoặc nội loạn. Vào đất Hà Nam, vừa vượt qua Hoàng Hà sau năm ngày nhịn đói do nước sông lên to lại không đi được nữa vì lương dân nổi dậy, để sống sót, nhà ngoại giao thi sĩ đành chấp nhận những món ăn thuộc mơ-nuy của… tù cải tạo cộng sản, cố gắng nuốt vào dạ dày những thực phẩm như bánh gạo mạch và thổ cẩu. Bài “Hoàng Hà trở lạo” (Mắc lụt bên Hoàng Hà) ghi nhận:

Mạch cao thổ cẩu nan vi thực,
Lạc ngạnh phiêu bình thất tự mưu.

(Bánh gạo mạch và thổ cẩu khó nuốt,
Cành trôi bèo nổi, chẳng mưu được việc).

Thơ chữ Hán Nguyễn Du đã được tuyển dịch, chú thích và ấn loát, phổ biến tương đối rộng rãi, nhất là vào thời buổi kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Gặp hai chữ thổ cẩu, tất cả các dịch giả sang quốc văn hiện đại đều cố gắng giảng giải.

Trước tiên là nhóm Lê Thước - Trương Chính. Ấn bản do nhị vị phụ trách sưu tầm, chú thích, phiên dịch, sắp xếp cùng với mười cộng tác viên khác, Nhà Xuất bản Văn học, Hà Nội, bản in lần thứ hai, 1978, trang 350, giải thích hai chữ thổ cẩu như sau: “3. Thổ cẩu: con dê đất. Nhưng theo Từ nguyên thì đó là một loài quái vật ở nước hình giống con dê. Xưa có người đào giếng bắt được một quái vật, không hiểu con gì, đến hỏi Khổng tử. Ông này trả lời đó là loài dê. Ở đây chỉ một giống vật lạ do nước lụt mang đến.”

Tôi chép lại nguyên văn và nguyên dạng chú thích số 3, kể cả hàng chữ in nghiêng, mà tôi chẳng rõ tại sao lại phải in như vậy, chắc chỉ là lỗi ấn loát. Nhưng tuy thế câu chú thích vẫn còn một số điểm bất ổn. Dựa vào tài liệu nào nhóm chủ biên cho rằng thổ cẩu là dê đất? Và đã hiểu như vậy tại sao lại còn “nhưng” để rồi đan cử Từ nguyên? Vả lại Từ nguyên (bản tôi tham khảo in năm 1984, tương đối mới) không đề cập gì đến chuyện Ðức Khổng phu tử được tham vấn. Huống chi, đã là dê, cho dù là dê đất (?), thì đâu đến nỗi nuốt không trôi, ăn không nổi trong cảnh cơ hàn lũ lụt?

Hai dịch giả khác cũng sử dụng nguyên văn lời chú thích Lê Thước - Trương Chính liên quan đến thổ cẩu:

* Chi Ðiền Hoàng Duy Từ, Nguyễn Du, Thơ chữ Hán, Quyển 2, Nhà Xuất bản Mr. L. Hoàng, California, 1986, trang 137;

* Duy Phi. 249 bài thơ chữ Hán Nguyễn Du, Nhà Xuất bản Văn hoá Dân tộc, Hà Nội, 2000, trang 343.

Riêng Bùi Hạnh Cẩn trong 192 bài thơ chữ Hán của Nguyễn Du, Nhà Xuất bản Văn hoá Thông tin, Hà Nội, 1995, trang 122 thì chú là: “Thổ cẩu: con dế (dấu sắc, TVT) đất. Nhưng theo Từ nguyên thì đó là một loại quái vật ở nước hình giống con dê.”

Theo Nguyễn Du toàn tập, Tập 1, Nhà Xuất bản Văn học, Hà Nội, Thơ chữ Hán, Mai Quốc Liên phiên âm, dịch nghĩa, chú thích với sự cộng tác của Nguyễn Quảng Tuân, Ngô Linh Ngọc, Lê Thu Yên, 1996, trang 435 thì: “Thổ cẩu: con dê. Theo Từ nguyên thì xưa có người đào giếng bắt được một con vật lạ, không hiểu con gì, đến hỏi Khổng Tử. Ông này trả lời đó là con dê. Bản C in là dế đất thì sai.”

Tóm lại, đối với hai chữ thổ cẩu được Bồ Tùng Linh và Nguyễn Du đưa vào tản văn trần thuật và vận văn trữ tình, thái độ của các dịch giả Việt Nam và quốc tế như sau:

* tránh né không dịch;

* chuyển thành một động vật được xem là tương tự;

* trực dịch thành “chó đất”;

* cho là con dê đất (không dấu), con dế đất (dấu sắc);

* dựa vào Từ nguyên để xem là một quái vật.

Ðiều đáng nói là nếu thơ văn Quốc ngữ luôn luôn tìm cách chú thích nhiều khi dài dòng về thổ cẩu thì các soạn giả Trung Hoa không phải bao giờ cũng làm công việc này. Ðó chẳng hạn là trường hợp ấn bản Trương Hữu Hạc. Sau dòng chính văn in bốn chữ phương thủ trường hỉnh với cỡ chữ tương đối lớn là hai dòng chú thích in theo lối lưỡng cước với cỡ chữ nhỏ chỉ bằng nửa chữ thường: “Hà chú: mai hoa sí, giải xác thanh, phương thủ trường hỉnh, xúc chức hình dã” (Họ Hà chú: cánh tựa hoa mai, cua vỏ xanh [2] , đầu vuông cẳng dài, đó là hình dáng con dế). Còn bản Dương Gia Lạc thì không có lời giải thích nào sau câu văn có hai chữ thổ cẩu mặc dầu nơi trang 331 liên hệ có đến mười ba chú thích. Dường như đối với người Trung Hoa, thổ cẩu là một từ ngữ không gây nhiều vấn đề. Tuy nhiên trong Cảnh thế thông ngôn, truyện “Tinh dương cung thiết thụ trấn yêu” do Phùng Mộng Long chấp bút thì thổ cẩu tử có được giải nghĩa nơi chú thích số 20, trang 646: “Thổ cẩu tử: tựu thị lâu cô, khoát lâu đích tục xưng.” (Thổ cẩu tử chính là cách gọi thông tục của lâu cô, khoát lâu.) [3]

Thực ra chỉ cần tra cứu các công cụ tham khảo đơn ngữ hay song ngữ là biết thổ cẩu là con gì. Hán ngữ đại từ điển, Trung văn đại từ điển, Từ nguyên đều có mục từ thổ cẩu:

* Hán ngữ đại từ điển ghi cho thổ cẩu ba nghĩa: 1. truyền thuyết trung đích thổ quái (giống vật lạ ở đất theo truyền thuyết); 2. đổ thuỷ đích thổ đại, tiền nhuệ hậu quảng, tiền cao hậu đê, trạng như đôn toạ đích cẩu, cố danh (túi để chắn nước, trước nhọn sau rộng, trước cao sau thấp, hình giống chó ngồi chồm hổm, nên thành tên); 3. diệc xưng “thổ cẩu tử”, lâu cô đích biệt danh (cũng gọi là “thổ cẩu tử”, tên riêng của lâu cô).

* Trung văn đại từ điển ghi cho thổ cẩu ba nghĩa: 1. phần dương dã (dê ở vùng mồ mả); 2. trùng danh, Bản thảo. Lâu cô. Thích danh: huệ cô, thiên lâu, tiên cô, thạch thử, ngô thử, thổ cẩu (tên sâu bọ. Sách Bản thảo. Lâu cô. Còn có tên huệ cô, thiên lâu, tiên cô, thạch thử, ngô thử, thổ cẩu); 3. dĩ thổ tác cẩu hình, dữ thổ độn dụng (lấy đất nặn hình chó, dùng như heo đất).

* Từ nguyên ghi cho thổ cẩu ba nghĩa: 1. một loài quái vật truyền thuyết; 2. một thứ túi, đẫy, trước hẹp sau rộng, trước cao sau thấp, giống hình con chó ngồi trên mặt đất nên có tên thổ cẩu; 3. tên riêng của lâu cô.

Trong các nghĩa trên, chỉ có nghĩa liên quan đến tên sâu bọ là thích hợp với câu văn Bồ Tùng Linh và câu thơ Nguyễn Du. Theo nghĩa đó, thổ cẩu là một tên khác của lâu cô.

Thiều Chửu trong Hán-Việt từ điển giảng: “Lâu cô: con dế, một thứ sâu ở lỗ giống như con dế mèn, rất làm hại lúa và nho.” Từ điển Hán-Việt, do Hầu Hàn Giang, Mạch Vĩ Lương đồng chủ biên, dứt khoát hơn: “lâu cô là dế dũi, dế nhũi”. Cả Chinese English Dictionary của Mathews lẫn A Chinese-English Dictionary của Herbert A. Giles đều cùng ghi cho thổ cẩu một nghĩa duy nhất và thống nhất (chứ không ghi đến ba nghĩa như các từ điển Hán-Hán): the mole-cricket. Theo Das neue chinesisch-deutsche Wörterbuch thì lâu cô là Maulwurfgrille; Grille là dế mèn, Maulwurf là chuột chũi; như vậy lâu cô là dế chũi. Tiếng Pháp cũng có cấu trúc từ ngữ tương tự: taupe-grillon. Các sách dược liệu học cổ truyền còn minh bạch hơn nữa. Hồng Nghĩa giác tư y thư của Tuệ Tĩnh, bài “Nam dược quốc âm phú”, ghi “Dế dũi gọi lâu cô.” Trong Hải Thượng Y tông tâm lĩnh, tập Lĩnh nam bản thảo, quyển Thượng, mục Côn trùng loại, Lãn Ông Lê Hữu Trác cho biết (nguyên văn chữ Hán, dịch sang Quốc ngữ): “Lâu cô tục gọi là con dế nhũi, một tên nữa là thổ cẩu.” Trung Quốc y học đại từ điển, quyển I, trang 169, cho biết: “Thổ cẩu, lâu cô đích biệt danh.” (Thổ cẩu là tên riêng của lâu cô). Nguyễn Văn Minh, tác giả Dược tính chỉ nam, quyển IV, trang 1373, mục từ 3771, xác định thổ cẩu là con dế. Ðỗ Tất Lợi, qua Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam, trang 954, ghi nhận con dế dũi là thổ cẩu, lâu cô. Dế trũi thuộc loại côn trùng cánh thẳng (trực sí loại), màu nâu, lớn chừng 4-5 cm, có hai càng trước rất phát triển để đào ngạch khoét lỗ, tạo thành những đường hầm dưới đất, vì vậy làm hại nương vườn. Ðôi cánh thẳng, đôi càng khỏe là những điểm mạnh của dế trũi, nên tác giả Liêu trai chí dị đã chọn hai chi tiết hình thái học này (mai hoa sí, trường hỉnh) nhằm mô tả con dế màu nhiệm của truyện ngắn “Xúc chức”.

Hiểu thổ cẩu là dế trũi [chứ không phải dê đất (không dấu) hay dế đất (dấu sắc) hoặc quái vật truyền thuyết] thì mới thích hợp với ngữ cảnh truyện ngắn Bồ Tùng Linh và hoàn cảnh chánh sứ Nguyễn Du:

* thổ cẩu mô tả con dế đặc biệt được hồn con trai Thành Danh nhập vào có dạng hình dế trũi với những ưu điểm cơ thể học, mặc dầu nó vốn là dế mèn;

* thổ cẩu tạm thời là nguồn cung cấp protein cho vị trưởng phái đoàn ngoại giao khi nước lụt tràn ngập hang ổ dế trũi.

Dầu sao cuối cùng rồi cũng có người biết đúng nghĩa chữ. Truyện ngắn nhan đề “Dế chọi” trong Tuyển tập Liêu trai chí dị do Nguyễn Huệ Chi nghiên cứu, tuyển chọn, hiệu đính, Nhà Xuất bản Văn nghệ, TP HCM, 1999, tập 3, Lý Việt Dũng phụ trách chuyển ngữ, đã trình bày câu văn mười sáu chữ của Bồ Tùng Linh nơi trang 189-190 bằng tiếng Việt như sau: “Nhìn nó bộ dạng giống như con dế trũi, cánh đốm hoa mai, đầu vuông cổ dài, xem chừng là giống tốt.” Eurêka!


Ðơn vị từ ngữ tương đương

Câu chuyện chuyển dịch hai chữ thổ cẩu không còn thuộc lĩnh vực văn chương nghệ thuật mà bước sang địa hạt khoa học kỹ thuật. Thổ cẩu đã cởi áo nghệ thuật để khoác áo khoa học. Ngôn ngữ nghệ thuật mang nhiều tính hình tượng, nhiều sắc thái biểu cảm, nhiều ý nghĩa liên tưởng. Trái lại ngôn ngữ khoa học rõ ràng, đơn nghĩa, chủ yếu bao gồm những bất biến ngôn ngữ như thuật ngữ, công thức. Vì thế dịch văn khoa học phải rất chính xác, thậm chí có thể sử dụng máy dịch để chuyển nghĩa. Và tất cả vấn đề là phải tái hiện bản gốc qua bản đích bằng những đơn vị từ ngữ tương đương. Ðơn vị từ ngữ Hán là thổ cẩu. Ðơn vị từ ngữ Việt là dế trũi. Thế thôi. Không có dê, không có dế đất, không có dạng ve sầu, không có Erdhunde v.v…

Người dịch thuật, trong tình huống đang bàn, trở thành người biên soạn từ điển song ngữ; nghĩa là phải hiểu sát từ ngữ của văn bản chính và phải biết đúng từ ngữ của văn bản dịch.

Trong trường hợp không nắm vững các đơn vị từ ngữ tương đương trong hai ngôn ngữ gốc và đích, soạn giả từ điển không hoàn thành được nhiệm vụ của mình một cách tối ưu. Chúng ta thử tham khảo Thiều Chửu và Trần Trọng San. Cả hai soạn giả đều thỉnh thoảng lâm cảnh thiếu khoa học lúc chuyển một số từ. Trần Trọng San trong Hán Việt tự điển, Bắc Ðẩu, Canada, 1997, không chuyển nghĩa mà giảng nghĩa chữ yển (bộ thử, chuột): đó là “một loài chuột nhỏ, lông xám hơi vàng, bắt ăn côn trùng có hại, rất hữu ích cho nhà nông.” Thiều Chửu, tác giả Hán Việt tự điển do Ðại Nam in lại ở quốc ngoại, còn dài dòng hơn: “yển: một giống chuột sinh hoạt ở trong đất mình dài hơn năm tấc, lông màu nâu mà rậm và mượt, hình trông y như con chuột, chỉ khác rằng cổ ngắn chân ngắn, chân trước kề sát với đầu, móng chân to và cứng như răng bồ cào, mắt bé mà sâu hoắm, mũi nhọn hoắt mà rất thính, hay dũi đất bắt giun ăn”. Thiết tưởng biên soạn từ điển đơn ngữ cũng chỉ định nghĩa chi tiết được đến như Thiều Chửu là cùng. Trong Thơ văn Nguyễn Khuyến, in lần thứ hai, Nhà Xuất bản Văn học, Hà Nội, 1979, trang 387 cũng như trong Nguyễn Khuyến - tác phẩm, Nguyễn Văn Huyền sưu tầm, biên dịch, giới thiệu, Nhà Xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1984, trang 523 đều cùng giảng giải từ ghép yển thử trong câu thơ Yển thử ẩm Hà diệc mãn phúc là “một loài chuột nhỏ”. Nhưng chuột bạch, chuột nhắt cũng là những “loài chuột nhỏ”. Nếu tham khảo các từ điển song ngữ Hán-Pháp, Hán-Anh, Hán-Ðức thì sẽ thấy rằng yển hay yển thử là con taupe, con mole, con Maulwurf, tức là con chuột chũi. Trần Trọng San thích nghĩa du diên (bộ trùng, sâu) là “một loại trùng sừng dài, chân giống chân rết, ăn các sâu hại lúa”. Ðúng ra, đây là con sên. Dứu (bộ thử, chuột) là “một loài thú nhỏ, đầu hơi tròn, chân ngắn, lông vàng sạm, giỏi co duỗi, ngày ẩn đêm ra, bắt ăn gà chuột; khi gặp địch, thì đít phát ra hơi thối rồi chạy trốn”. Ðúng ra là weasel, belette, Wiesel, con lon, chồn rái. La bặc (thảo đầu) là “tên rau, hạt dùng làm thuốc”. Ðúng ra là củ cải. Chữ tuy (Trần Trọng San, tlđd, trang 449) phải được hiểu là ngò, thay vì “tên một loại rau thơm”; tương tự như chữ kép hồ tuy (Thiều Chửu, tlđd, trang 554) không thể được giải thích thành “một thứ rau, lá non nấu đồ ăn thơm ngon”. Chỉ thử xem qua cách dịch các chữ Hán thuộc bộ trùng (sâu) trong hai tài liệu tham khảo vừa kể, đã có thể phát hiện một số trường hợp cần điều chỉnh vì hai tác giả không đưa ra danh từ đối chiếu thuộc Việt ngữ mà chỉ giảng giải, mô tả. Sau đây là vài ví dụ (Trần Trọng San = Hán Việt tự điển của Trần Trọng San, Thiều Chửu = Hán Việt tự điển của Thiều Chửu).

Mang (Trần Trọng San, trang 470): “tên một loại nhặng chuyên hút máu thú vật”; manh (Thiều Chửu, trang 590, trang 597): “con nhặng”; đúng ra là ruồi trâu. Sải (Trần Trọng San, trang 479): “một loài nhện độc đuôi dài”; đúng ra là loài bọ cạp. Trá, trá mãnh (Trần Trọng San, trang 471): “tên một loại sâu ăn hại lúa”; đúng ra là châu chấu. Huyền (Trần Trọng San, trang 471): “tên một loại trùng, giống con rết nhưng không độc”; huyền, mã huyền (Thiều Chửu, trang 585): “một thứ sâu dài độ hơn một tấc, mình như cái ống tròn, có từng đốt, mỗi đốt có hai chân, động đến liền co lại như con ốc, có mùi như dầu thơm, nên tục gọi là hương du trùng”; đúng ra là cuốn chiếu. Hồi (Trần Trọng San, trang 472): “con giun sống trong ruột động vật”; đúng ra là sán (hay lãi). Cùng, phi cùng (Trần Trọng San, trang 472): “một loại sâu bay ăn hại lúa”; đúng ra cùng là tên cũ của con dế. Phiêu, phiêu tiêu (Trần Trọng San, trang 477): “trứng của con bọ ngựa (đường lang) bám trên cành cây”; Phiêu, phiêu sao (Thiều Chửu, trang 592): “trứng con bọ ngựa hay làm tổ ở bên cây dâu, nên gọi là tang phiêu sao”; đúng ra là tổ bọ ngựa. Dũng (Trần Trọng San, trang 473): “trạng thái trong thời kỳ quá độ từ ấu trùng biến thành trùng”; đúng ra là nhộng. Bì (Trần Trọng San, trang 474): “một loài nhện, có hại cho người, gia súc và nông phẩm”; đúng ra là ve. Phúc (Trần Trọng San, trang 475): “một loại rắn độc”; các từ điển song ngữ Hán-Pháp, Hán-Anh, Hán-Ðức ghi là Ancistrodon, như vậy đúng ra là rắn hổ mang. Bành, bành kỳ (Trần Trọng San, trang 478): “một loại cua nhỏ màu đỏ”; đúng ra là cáy. Hoạch (Trần Trọng San, trang 479): “xem chữ xích (trang 470)”, xích hoạch (trang 470): “ấu trùng của loại sâu giống con tằm”; đúng ra là sâu đo (đáng chú ý là chữ xích viết với bộ trùng bên trái và chữ xích bên phải, mà chữ xích vốn chỉ một đơn vị đo chiều dài). Có thể ước đoán là đối với những chữ vừa được đan cử, hai soạn giả tự điển đã dịch phần định nghĩa của từng chữ theo tự điển đơn ngữ Hán-Hán, vì không biết rõ đơn vị từ vựng tương đương thuộc tiếng Việt.

Thực vậy, một trong những vấn đề khó khăn phức tạp của công việc đối chiếu từ vựng của các dân tộc khác nhau là việc xác lập liên hệ tương đương giữa các đơn vị thuộc ngôn ngữ được đối chiếu và ngôn ngữ đối chiếu. Trong thực tế, những thuật ngữ biểu thị các khái niệm nhiều khi phổ thông của một ngôn ngữ nước ngoài khi đem đặt song song với các thuật ngữ xem như tương đương trong tiếng Việt, lắm khi chỉ đạt được tính chính xác tương đối. Cho nên các từ điển Pháp-Việt, Anh-Việt, Ðức-Việt v.v… – chứ chẳng riêng gì tự điển Hán-Việt – có thói quen thích nghĩa tên gọi một thứ cây, một ngọn cỏ, một loài vật, một con sâu v.v… qua lối phu diễn ngữ pháp. Chính vì thế nên khi ngôn ngữ học tạo cơ may cho hai từ tuy thuộc hai tiếng nói khác nhau nhưng lại “giống” nhau như hai giọt nước thì người chuyển dịch song ngữ – chứ chẳng phải riêng gì người biên soạn tự điển, từ điển – phải biết nắm ngay lấy cơ may hãn hữu đó. Ðiều này nhóm biên soạn Thơ văn Lý Trần, Tập III, Nhà Xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1978, đã không thực hiện được khi dịch nghĩa và chú thích chữ toa với thảo đầu nơi trang 18. Họ cho biết: “chữ toa vốn chỉ một thứ cây có tên khoa học là Cyperus rotundus, rễ của nó gọi là ‘hương phụ tử’, là một vị thuốc bắc. Ở đây tạm dịch chung là ‘cỏ’ cho dễ hiểu.” Thật ra vị thuốc bắc liên hệ không phải là rễ (Radix) mà là thân rễ (Rhizoma) cây Cyperus rotundus L., cho nên khoa dược liệu học Trung y gọi nó là Rhizoma Cyperi. Nhưng thiếu sót đáng tiếc là nhóm biên soạn không biết rằng đây chính là cây cỏ cú, một loại cỏ dại mọc tràn lan khắp nước ta, một loại cỏ rất khó tiêu diệt đối với nhà nông, một vị thuốc thân quen đến nỗi giới dao cầu thuyền tán hằng truyền tụng là nam bất thiểu trần bì, nữ bất ly hương phụ nghĩa là chữa bệnh cho đàn ông không thể thiếu trần bì, chữa bệnh cho đàn bà không thể rời hương phụ. Và khi dịch câu thơ chữ Hán, phải có thái độ khẳng định hơn, chính xác hơn, chẳng thể “tạm dịch chung là ‘cỏ’” mà cần dịch dứt khoát, tự tín là “cỏ cú”.

Tìm kiếm đơn vị từ ngữ tương đương có khi trở thành công việc đào bới địa tầng văn hoá. Chữ Hán bát là tám, bát bát tất nhiên là tám (mươi) tám. Nhưng Nguyễn Khuyến dùng bát bát với nội hàm khác hẳn trong câu thơ mở đầu bài thơ thường được xem là mang tựa đề “Di chúc”. Tam nguyên Yên đổ tự viết về mình:

Ngã niên trị bát bát.

Một số tài liệu văn học dịch thành:

Kém hai tuổi xuân đầy chín chục; hay Còn hai xuân nữa đầy chín chục. [4]

Ðây là chuyện kỳ lạ khó hiểu vì Nguyễn Khuyến chỉ tại thế có bảy mươi bốn năm thiếu mười ngày mà lại làm thơ “thành khẩn khai báo lý lịch” là tuổi mình vừa được tám mươi tám! Nhà Nho làng Vị Hạ không chỉ là một nhà thơ của làng quê ao chuôm chiêm trũng, một ngòi bút tự trào, một tác gia vừa Nôm vừa Hán, và cả Nôm cả Hán mà còn là một người có đặc tính rất chăm chỉ đếm tuổi đời qua vận văn. Niên kỷ là một thông tin thi ca mà người hàn sĩ, anh khoá Thắng, ông giải nguyên, vị tam nguyên, rồi viên quan nhà Nguyễn cáo về đã lâu thường ưa thích nhắc đến và nhắc đến rất chính xác, theo một nhịp độ ngắn và một tần số cao, y như một công chức tự khai tiểu sử hành chánh. Nhà thơ lại còn chân tình nhớ rõ tuổi tác bạn bè thân thuộc như ông hương sinh họ Nguyễn, ông bạn học Lê Sĩ Nhân. Và con người Nguyễn Khuyến từ thuở bắt đầu biết làm thơ cho đến những năm cuối cổ lai hy là một con người đúng đắn, kỹ lưỡng, trí tuệ sáng, ký ức tốt. Vậy mà bỗng dưng vào một trường hợp duy nhất và trong một bài thơ duy nhất, thi sĩ vận dụng một thủ pháp cách điệu bất chấp sự thật, nó không thể nào là phong cách nhà nho làng Vị hạ. Một nhân vật lịch sử suốt cả đời chi ly cẩn trọng tính tuổi, ghi tuổi, nhẩm tuổi, nhớ tuổi để rồi khi khổng khi không nói sai cả tuổi bản thân vào lúc sáng tác một thi phẩm để đời với chủ đích nhấn mạnh lời dặn của mình cho con cháu là lời phát biểu lúc sáng suốt, có suy nghĩ chín chắn, cần phải làm theo! [5] Sáng suốt, chín chắn mà mở đầu bằng sai lầm, lẫn lộn! Và sai lầm về một vấn đề không thể sai là tuổi tác, lẫn lộn về một thông tin không thể lẫn là niên kỷ! Tuổi tác, niên kỷ của chính mình chứ không phải của tha nhân! Cho nên có nhiều phần chắc Nguyễn Khuyến chẳng hề ghi sai, mà chỉ có thể người đời sau hiểu lời thơ không đúng. Nói cụ thể và vắn tắt: bát bát không phải tám mươi tám, phải tìm cho nó một nghĩa khác thích hợp với văn cảnh bài thơ và hoàn cảnh nhà thơ. Nghĩa đó là nghĩa y học, sinh học chuyên biệt; không phải nghĩa toán học, số học thông thường.

Trong văn cảnh sinh học, y học hai chữ bát bát không có nghĩa tám mươi tám mà có nghĩa sáu mươi tư. Tương tự như vậy, trong thư tịch sinh lý học, bệnh lý học Trung y, thất thất là bốn mươi chín, không phải bảy mươi bảy. Tập sách gối đầu giường của các cụ lương y, sách Hoàng đế Nội kinh Tố vấn viết, và viết ngay ở chương đầu tiên, chương “Thượng cổ thiên chân luận”, khi bàn về sinh lý sinh dục chính thường nam nữ (trích đoạn và trích dịch): “thất thất, nhâm mạch hư, thái xung mạch suy thiểu, thiên quý kiệt, địa đạo bất thông, cố hình hoại nhi vô tử dã” (đến năm bảy bảy, nhâm mạch hư, thái xung mạch kém, thiên quý hết, địa đạo không thông, cho nên thân thể hao mòn mà không có con) và “bát bát, thiên quý kiệt, tinh thiểu, thận tượng suy, hình thể giai cực, tắc xỉ phát khứ.” (đến năm tám tám, thiên quý hết, tinh thiếu, thận suy, hình thể tột bực, răng tóc đều rụng). Người thầy thuốc cổ truyền Việt Nam đọc đoạn kinh văn này, lập tức tự động hiểu thất thất (đối với phái nữ) là bảy lần bảy tức bốn mươi chín và bát bát (đối với phái nam) là tám lần tám tức sáu mươi tư. Ða số – nếu không là tất cả – các nhà Nho thì đều có những tri thức cơ bản về y dược. Chư vị không đủ trình độ, bản lĩnh để hành nghề y sĩ, không đủ kiến thức kinh nghiệm để biện chứng luận trị, nhưng có thể bàn thảo về các thang phương, góp ý về cách điều trị. Nguyễn Khuyến cũng không ra ngoài thông lệ. Cho nên rất tự nhiên, nhà thơ đã sử dụng một kiến thức phổ quát thuộc lĩnh vực sinh lý bệnh lý Trung y. Và thi sĩ nghĩ rằng tha nhân, hậu thế cũng sẽ hiểu như mình hiểu [6] .

Trở lại với hai chữ từng được Bồ Tùng Linh và Nguyễn Tố Như sử dụng trong tản văn và vận văn của mình: dầu sao đi nữa, thì cũng có thể coi như gần bước qua thiên niên kỷ thứ ba, con đường thương khó chuyển dịch thổ cẩu sang Quốc ngữ (và ngoại ngữ) mới đi đến đích. Sự bất lực tìm ra từ ngữ tương đương của thổ cẩu trong Việt văn, Anh văn, Ðức văn chấm dứt.

Westpreußenstr., 29.05.2008

© 2008 talawas

[1]Vì tài liệu cổ chữ Hán vốn không có dấu phẩy dấu chấm nên một câu văn có thể mang độ dài ngắn khác nhau tuỳ theo sự lĩnh hội nội dung của từng người đọc. Riêng đối với câu văn này có tài liệu nâng độ dài lên hai mươi chữ: “Thị chi, hình nhược thổ cẩu, mai hoa sí, phương thủ trường hỉnh, ý tự lương, hỷ nhi thu chi.” (Nhìn kỹ thì hình giống thổ cẩu, cánh tựa hoa mai, đầu vuông cẳng dài, có vẻ tốt, bèn vui mừng bắt lấy.) Ðó là trường hợp ấn bản do Dương Gia Lạc chủ biên. Tăng đính Trung Quốc học thuật danh trứ đệ nhất tập. Bút ký tiểu thuyết danh trứ đệ nhất tập. Ðệ cửu sách. (Thanh) Bồ Tùng Linh soạn. Hiệu chú Liêu trai chí dị. Thượng quyển (toàn nhị sách). Thế giới thư cục phát hành. Ðài Bắc. Trung Hoa Dân quốc ngũ thập nhất niên nhị nguyệt sơ bản. tr. 331. Tôi chọn độ dài mười sáu chữ theo ấn bản Bồ Tùng Linh. Liêu trai chí dị. Hội hiệu, hội chú, hội bình bản. Trương Hữu Hạc tập hiệu. Thượng. Quyển tứ. Trung Hoa thư cục. 1962. tr. 487.
[2]Giải xác thanh (cua vỏ xanh) là tên một con dế khác, cũng rất thiện chiến, của một tay chơi dế trong thôn.
[3]Phùng Mộng Long (1574-1646) là văn học gia, hí khúc gia đời Minh. Có nhiều tác phẩm trong đó có thể kể Dụ thế minh ngôn, Cảnh thế thông ngôn, Tỉnh thế hằng ngôn, gọi chung là Tam ngôn. Mỗi tập có bốn mươi truyện ngắn, cộng chung tất cả thành một trăm hai mươi truyện. (Cảnh thế thông ngôn. Hạ. Ðệ tứ thập quyển. Phùng Mộng Long biên. Trung Hoa thư cục Hương Cảng phân cục. 1978).
[4]a. Văn đàn bảo giám, Trần Trung Viên sao lục, tập II, Ðại Nam in lại ở quốc ngoại, trang 79;
b. Thơ văn Nguyễn Khuyến, Nhà Xuất bản Văn học, Hà Nội, 1979, trang 167 (chữ Quốc ngữ) và trang
444 (chữ Hán phiên âm);
c. Hợp tuyển thơ văn Việt Nam 1858-1920, Huỳnh Lý chủ biên, Nhà Xuất bản Văn học, Hà Nội, 1984, trang 412;
d. Thơ Nôm, Bùi Văn Bảo, Nhà Xuất bản Quê hương, Toronto, Canada, trang 51.
[5]Bài “Di chúc” còn có một đầu đề khác là “Trị mệnh”. Ðầu đề này có xuất xứ từ điển tích Ngụy Khoả-Ðỗ Hồi trong Xuân Thu tam truyện, Tả truyện, Tuyên công thập ngũ niên, Tần nhân phạt Tấn. Nội dung của hai chữ trị mệnh là mệnh lệnh lúc còn sáng suốt, cần phải theo. Cho nên các tự điển Hán-Anh chuyển thành dying requests that may be carried out (Mathews’ Chinese-English Dictionary) hoặc to carry out rightful behests given as dying injunctions (Herbert A.Giles, A Chinese-English Dictionary).
[6]Herbert A.Giles (tlđd) và Mathews (tlđd) đều chuyển bát bát sang Anh ngữ thành sixty-four.

Trần Tiễn Cao Đăng : Cao Xuân Hạo, thầy của tôi

Trần Tiễn Cao Đăng
Cao Xuân Hạo, thầy của tôi


Cao Xuân Hạo (1930-2007)





Cao Xuân Hạo đã từ trần.

Chúng ta đã mất một trong những người yêu tiếng Việt nhất, hiểu tiếng Việt nhất, suốt đời đấu tranh không mệt mỏi cho sự chuẩn xác và thuần khiết của tiếng Việt, và bản thân đã để lại cho hậu thế một số bản dịch văn học thuộc hàng mẫu mực nhất.

Người ta thường biết đến ông như một nhà ngôn ngữ học hay đưa ra những ý kiến “trái chiều” về việc thế nào mới đích thực là tiếng Việt, khẳng định sự sai trái của hệ thống dạy ngữ pháp tiếng Việt trong nhà trường nước ta. Sự đơn độc của ông đã khiến Hà Văn Thùy, trong một bài viết có lẽ nhiều người biết đến, gọi ông là “Chàng Don Quijote độc hành”. Vâng, cả với những người mà công việc hàng ngày gắn liền với ngôn ngữ như chúng tôi, những người viết văn và dịch văn học, chúng tôi nhiều lúc cũng ngỡ ngàng trước những khẳng định dứt khoát của ông về sự kém hiểu biết tiếng Việt của đại đa số người Việt, rằng một cách nói nào đó quen thuộc của chúng tôi kỳ thực không phải là tiếng Việt.

Tuy nhiên, còn đáng kể hơn thế và quan trọng hơn thế, Cao Xuân Hạo không phải là một học giả suông. Ông không chỉ phân tích và luận giải bằng những phương pháp học thuật sâu sắc và chuẩn tắc về tiếng Việt; ông còn là người trực tiếp làm việc với ngôn ngữ. Là một dịch giả xuất sắc, ông đã làm ra một số trong những những văn bản tiếng Việt thuần khiết và chuẩn tắc nhất, như là sự hóa thân trọn vẹn những lý thuyết của ông vào thực tại. Câu của người xưa, “tri hành hợp nhất” tìm được một hiện thân sống động ở ông.

Mất một người như ông, nền dịch thuật Việt Nam nói riêng và nền văn hóa Việt Nam mất đi một trong những bậc thầy đích thực, là mẫu mực cho các dịch giả chúng tôi, cũng như tất cả chúng ta, về tinh thần trí thức cũng như tinh thần dân tộc và ý thức công dân. Ông buộc chúng ta phải nghiêm khắc và thường xuyên đặt nghi vấn cái hiểu của chính mình về tiếng Việt. Ông nêu cho chúng ta một tấm gương không tì vết về việc chiến đấu không mệt mỏi cho chân lý mình hằng tin, dù có phải gian nan đối mặt với sức ì của số đông. Ông cho chúng ta thấy, tiếng Việt đích thực khác với thứ tiếng Việt đang lan tràn trên thông tin đại chúng và trên cửa miệng những người bình thường chúng ta như thế nào. Bằng những bản dịch văn chương của chính mình, ông cho chúng ta thấy một chân dung khác, có thể nói là cái thực tại tinh tuyền về tiếng Việt, khác xa với cái chân dung giả tạo và quái gở về tiếng Việt đang tràn ngập khắp nơi nhưng nhiều nhất là trên các phương tiện thông tin đại chúng, cái thứ tiếng Việt đầy rẫy những lệch chuẩn mà dường như không ai thấy, đang ngày càng làm nghèo, làm thấp, làm què quặt đi cảm nhận về cái đẹp ngôn từ và qua đó là thế giới tinh thần của chúng ta.

Một người như ông không bao giờ đã sống vô ích. Những gì ông đang làm, sẽ có người nối tiếp. Những chuẩn mực cao và không khoan nhượng của ông về phẩm tính trí thức, sẽ có người lấy đó làm chuẩn mực tự trau mình. Sự lao động quả cảm và không mệt mỏi của ông trên các bản dịch văn chương, được dẫn dắt bằng một hệ quy tắc đẹp và nhất quán, chắc chắn sẽ có những người lấy làm dưỡng chất nuôi dưỡng lòng quyết tâm của họ đối với công việc chuyển ngữ và tình yêu của họ đối với tiếng Việt, đối với ngôn ngữ.

Tôi chưa từng được học ông (theo nghĩa học trực tiếp ở trường), nhưng từ lâu, trong thâm tâm, tôi coi ông là người thầy lớn của tôi. Thật hạnh phúc nếu trong đời ta gặp được một, hai người thầy như thế. Ông đã qua đời, nhưng tinh thần ông sẽ còn mãi trong tâm trí tôi. Và, trong những gì tôi làm sau này, trong tất cả những gì tôi làm có liên quan đến ngôn ngữ, ông sẽ luôn luôn có mặt. Thực ra, đó là cách thực tế nhất để tồn tại vĩnh cửu.
SOURCE : TALAWAS

Nguyễn Ðức Dương : Sao không dạy tục ngữ cho học sinh tiểu học?

3.9.2008
Nguyễn Ðức Dương
Sao không dạy tục ngữ cho học sinh tiểu học?

Tục ngữ là pho tập đại thành những tri thức, những kinh nghiệm sống và kinh nghiệm đạo đức mà ông cha ta chắt lọc được trong suốt hàng ngàn năm để truyền lại cho con cháu mai sau. Cái gia tài bề thế và vô giá đó, tiếc thay, hiện vẫn chưa được đem ra giảng dạy cho học sinh tiểu học một cách hệ thống, tuy ai cũng biết mười mươi rằng ít có bài thuyết giảng đạo đức nào, dẫu hay đến mấy, có thể sánh bằng một câu tục ngữ về tác dụng giáo huấn. Ðứng trước thực trạng đáng suy nghĩ đó, những ai từng nặng lòng với con trẻ và tiếng Việt đều không khỏi băn khoăn tự hỏi: cái gì đã trói tay các nhà biên soạn?

Mục đích chính của bài này là thử đi tìm lời giải cho câu hỏi vừa nêu.
Theo chúng tôi, sách giáo khoa tiếng Việt bậc tiểu học sở dĩ đã e ngại với tục ngữ có lẽ vì vấp phải mấy thứ trở ngại chính sau đây: (1) những trở ngại về từ ngữ; (2) những trở ngại về ngữ pháp và (3) những trở ngại về ngữ nghĩa và văn hoá. Dưới đây chúng tôi xin đi vào từng điểm một.

1. Những trở ngại về từ ngữ

Tục ngữ là sản phẩm của quá khứ. Vì vậy, khi dạy tục ngữ, chúng ta tất phải đối mặt với những từ ngữ cổ hết sức xa lạ với học sinh, nhất là học sinh còn ở tuổi thiếu niên. Giới biên soạn sách giáo khoa (SGK) e dè như thế kể cũng phải, vì trong cái gia tài đồ sộ gồm đến hơn năm sáu nghìn câu ấy chúng ta khó lòng có thể né tránh được những từ ngữ “hiểm hóc”, đến độ từng gây lúng túng cho không ít các nhà học giả danh tiếng. Ðể dễ hình dung những gì vừa nêu đó, chúng tôi xin minh họa bằng một vài dẫn chứng.

Dẫn chứng 1. Chắc vì chưa rõ RÀN là gì trong câu Ðại hàn trâu nằm RÀN, người ngồi bếp, các soạn giả Ðại từ điển tiếng Việt (1999) đành chép chữ ấy thành GIÀN, rồi diễn giải: “Trời quá lạnh phải ngừng mọi công việc để tránh rét” (tr. 577). Giá chịu khó tra cứu, chắc họ sẽ thấy RÀN là từ hiện còn thông dụng tại một số địa phương, như Từ điển tiếng Việt (của Viện Ngôn ngữ học) từng chỉ ra, với cái nghĩa tương tự như “chuồng [nhốt trâu bò]”, và chắc hẳn họ cũng sẽ tự thấy phải chia tay ngay với cách diễn giải “nông nổi” vừa nhắc để bằng lòng với lời diễn giải sau (vì nó gần sự thật hơn): “Vào ngày đại hàn giá lạnh thì hãy để trâu nằm lại trong chuồng [chứ đừng lùa nó ra đồng (vì trâu yếu chịu rét)], còn người thì hãy đưa nhau xuống bếp mà ngồi [cho ấm].”

Dẫn chứng 2. Cũng do lầm tưởng THẢ CÁ trong câu Thứ nhất thả cá, thứ nhì gá bạc là “thả cá xuống ao đầm để nuôi”, một nhà giáo tên tuổi đã diễn giải câu này là: "Việc thả cá có lợi là đúng và cần khuyến khích, còn gá bạc thì ngày nay là một tội phạm, vì đó là một việc làm ăn bất chính" (x. Nguyễn Lân. Từ điển thành ngữ và tục ngữ Việt Nam (1989), tr. 277).

Thực ra, THẢ CÁ còn có một nghĩa nữa là “thách cá”, như nhiều từ điển đã ghi nhận. Và theo quy tắc “phù ứng ngữ nghĩa”, cái nghĩa này mới ăn khớp với câu tục ngữ đang bàn. Bởi vậy, cả THẢ CÁ lẫn GÁ BẠC đều là những nghề “bất chính” như nhau, và câu tục ngữ ấy có lẽ nên được diễn giải là: “Thả cá và gá bạc là hai trò đỏ đen chóng sinh lợi bậc nhất [trong xã hội ngày trước].”

Dẫn chứng 3. Xin nêu một dẫn chứng nữa để bạn đọc có thể hình dung dễ dàng hơn về thứ trở ngại đang xét. Cuốn Từ điển thành ngữ và tục ngữ Việt Nam vừa dẫn đã chép lộn TRÀNG trong câu Áo cứ TRÀNG; làng cứ xã thành CHÀNG, rồi diễn giải: “Nói tính ỷ lại của người đàn bà, cũng như tính ỷ lại của người dân trong thôn xóm, không thấy được vai trò làm chủ của mình" (tr. 10).

Thực ra, TRÀNG là một từ cổ chỉ cái vạt trước của chiếc áo dài (thời xưa), như Từ điển tiếng Việt (của Viện Ngôn ngữ học) đã thu thập và cắt nghĩa rất phân minh. Bởi thế, đây không phải là lời chê trách thói ỷ lại, mà là lời nhắc nhở người đời sau nên dựa vào cái gì khi định cắt may/bình phẩm về áo quần, cũng như nên dựa vào ai khi cần xét đoán/bình phẩm về dân tình sinh sống trong làng xã.

Tuy nhiên, chỉ cần đọc lướt qua mấy diễn giải vừa nhắc, chắc ai cũng có thể dễ dàng nhận thấy ngay: trở ngại về từ ngữ quả tình chỉ là thứ trở ngại rất dễ vượt qua: chỉ cần chú giải cẩn thận, như chúng ta từng làm lâu nay khi dạy văn thơ cổ cho học sinh, là mọi “hóc hiểm” sẽ lập tức bị đẩy lùi. Vì vậy, có lẽ chúng ta không nên bàn tiếp chuyện ấy nữa mà nên dành thì giờ và công sức cho những công việc khác ý vị hơn rõ rệt.


2. Những trở ngại về ngữ pháp

Ngữ pháp của một ngôn ngữ, như chúng ta đều biết, là thứ công cụ nhằm giúp người nói truyền đạt dễ dàng và chính xác tới người nghe mọi nội dung ngữ nghĩa mà anh ta cần/muốn chuyển giao. Và sở dĩ không ít bạn đọc hiện chưa hài lòng lắm với công trình diễn giải các đơn vị tục ngữ hiện hành chắc hẳn chỉ vì các soạn giả đã hình dung chưa đúng lắm về cấu trúc cú pháp của các đơn vị tục ngữ. Xin minh hoạ bằng một vài dẫn chứng.

Dẫn chứng 4. Do lầm tưởng RẮN MAI cũng như RẮN HỔ trong câu Rắn mai tại lỗ; rắn hổ về nhà là “chủ ngữ” [CN], còn TẠI LỖ cũng như VỀ NHÀ là “vị ngữ” [VN] của câu và mối quan hệ về nghĩa giữa CN với VN là mối quan hệ giữa “Người hành động” với “Hành động”, cuốn Từ điển thành ngữ và tục ngữ Việt Nam (1989) vừa nhắc đã diễn giải câu trên thành: “(Mai là mai gầm, hổ là hổ mang). Nhận xét cho rằng rắn mai gầm thường ở trong hang; còn rắn hổ mang thì thường ra ngoài" (sđd, tr. 244).

Tiếc thay, lời diễn giải ấy lại chẳng hề ăn nhập chút nào với vốn kinh nghiệm sống còn mà dân bắt rắn chuyên nghiệp đã tích luỹ được: “Hễ bị rắn mai [gầm cắn thì nạn nhân có thể chết ngay] tại lỗ [= hang của nó]; hễ bị rắn hổ [mang cắn thì nạn nhân có thể lê] về tới nhà [mới tắt thở].”

Tại sao lại có sự chênh lệch ấy?

Theo Cao Xuân Hạo, có lẽ vì người Việt không hề coi RẮN MAI cũng như RẮN HỔ là CN, mà coi là “đề ngữ” [tức topic], còn TẠI LỖ cũng như VỀ NHÀ chẳng phải là VN mà là “thuyết ngữ” [tức comment], và mối quan hệ về nghĩa giữa hai bộ phận ấy là mối quan hệ giữa “điều kiện” với “hậu quả (do điều kiện ấy mang lại)” [1] .

Nói cách khác, tục ngữ Việt (và chẳng riêng gì tục ngữ!) là những câu không hề được tổ chức theo khuôn “chủ–vị” [C–V] (như ngữ pháp nhà trường (vốn bị quan điểm “dĩ Âu vi trung” chi phối) đang cố dạy cho con em chúng ta!) mà là theo khuôn “Ðề – Thuyết”, như ông cùng nhiều nhà Việt ngữ học tên tuổi ở nước ngoài (L. Thompson, H. Dyvik, v.v.) đã nhận thấy từ rất sớm và đã chứng minh hết sức thuyết phục trong nhiều công tình đã công bố trong hơn mấy chục năm qua. Bằng chứng là nếu diễn giải câu Chó treo; mèo đậy theo khuôn C–V, ta buộc lòng phải cho rằng “Chó đem treo [thức ăn cần cất giữ lên cao]; còn mèo thì cố đậy [kín thức ăn cần cất giữ lại]”, tuy cái nghĩa đích thực của câu ấy lại là: “[Ðể] chó [khỏi ăn vụng] thì [thức ăn cần cất giữ] nên được treo cao lên; [để] mèo [khỏi ăn vụng] thì [thức ăn cần cất giữ] nên đậy kín lại”, vì mối quan hệ về nghĩa giữa CHÓ cũng như MÈO với TREO cũng như ÐẬY là mối quan hệ giữa hai sự thể: sự thể thứ nhất nêu “cái đích cần được nhằm tới“ và sự thể sau nêu cái “hành động (mà chúng ta nên làm để đạt tới đích)”.

Ðến đây, chúng ta có thể đưa ra một nhận xét nhỏ nhưng hết sức hệ trọng: còn quyến luyến với cái khuôn C–V chúng ta còn cản trở con em chúng ta thừa hưởng cái gia tài đồ sộ mà ông cha đã dày công vun đắp nhằm truyền lại cho chính các em.

Tiện thể cũng nên dẫn thêm ra ở đây vài dẫn chứng nữa để bạn đọc có thể dễ hình dung việc vận dụng mô hình C–V cho tục ngữ thường gặt hái được những “thành quả tai hại” như thế nào.

Dẫn chứng 5

1. Ẵm con chồng hơn bồng cháu ngoại được diễn giải như là “Có tư tưởng coi trọng đàn ông, coi thường phụ nữ, ví như thà ẵm con của chồng tuy không yêu quý, thích thú gì nhưng dẫu sao vẫn thuộc dòng họ nội [sic!], còn hơn bế con của con gái mình” (Ðại từ điển tiếng Việt 1999, tr. 45) [2] ;
2. Ăn cơm có canh, tu hành có vãi thường được diễn giải như là “Sự ham muốn nhục dục của đôi kẻ trong giới tu hành cũng là chuyện thường tình, ví như ăn cơm thì phải có canh, ở nhà chùa thì ắt có vãi” (sđd., tr. 48) [3] ;
3. Ăn lúc đói, nói lúc say được diễn giải như là “Lúc đói ăn cảm thấy ngon, lúc say thường nói rất hay”(sđd., tr. 52) [4] ;

v.v. và v.v.


3. Những trở ngại về văn hoá

Tục ngữ trực tiếp phản ánh cách thức ông cha ta cảm nhận về thế giới; mà cách cảm nhận thế giới lại là nhân tố không thể không liên quan đến văn hoá, nên tục ngữ có lẽ là một trong những tấm gương phản chiếu trung thành nhất những đặc trưng văn hoá Việt mà chúng ta mong giải mã sớm để gìn giữ được các bản sắc Việt của chúng ta. Ấy thế nhưng không ít tác giả đã chẳng bận tâm mấy tới điều này, và rốt cục, họ đã phải trả giá cho sự khinh suất ấy rất đích đáng. Xin nêu một vài dẫn chứn minh hoạ.

Dẫn chứng 6

Ếch tháng ba, gà tháng bảy là câu chê bai cửa miệng của đông đảo người Việt sành ẩm thực. Vậy mà một giáo trình về văn hoá học Việt Nam phổ biến rộng khắp trong cả nước lại ngang nhiên coi đây là hai món ăn khoái khẩu nhất của đồng bào mình. Chắc tác giả giáo trình ấy đã quên mất một sự thực hết sức đau lòng từng hằn trong tâm trí dân ta, ngay cả giữa thời buổi hiện nay: THÁNG BA và THÁNG BẢY/TÁM là thời kì giáp hạt hằng năm. Vào dịp này, ngay cả con người cũng còn lay lắt vì thiếu đói [5] , huống hồ là GÀ và ẾCH. Nói cách khác, vào thời gian ấy, hai giống vật vốn cho thịt rất ngon kia chỉ còn da với xương thì làm sao lại có thể là những món ăn khoái khẩu được? [6]

Dẫn chứng 7

Ẵm con chồng hơn bồng cháu ngoại là một câu đậm chất nhân bản và hay dùng để phàn nàn về thói ăn ở bạc bẽo của đám cháu ngoại đối với ông bà mình. Vậy mà Ðại từ điển tiếng Việt (1999) lại coi đây là lời chê trách “tư tưởng coi trọng đàn ông, coi thường phụ nữ”. Giá chú ý hơn chút đỉnh tới các đặc trưng văn hoá lồng trong ấy, chắc hẳn các nhà biên soạn đã nhận thấy ngay đây không phải là câu đề cập tới thói “trọng nam khinh nữ”, mà là một gợi ý cho các cô gái trẻ sớm bị goá chồng nên ứng xử ra sao khi còn chưa sinh được con trai để nối dõi giống dòng. Nói cách khác, nội dung của câu Ẵm con chồng hơn bồng cháu ngoại có lẽ nên được diễn giải như là: “Thà [lấy một kẻ goá vợ làm chồng và] chăm bẵm cho lũ con thơ côi cút của anh ta [để có nơi nương tựa khi về già] còn hơn là [cứ ở vậy cùng con gái và] chăm bẵm cho lũ con của nó [những kẻ vốn chẳng hề ngó ngàng gì tới mồ mả của bà ngoại, như tục ngữ từng ghi nhận [7] ]”.

Dẫn chứng 8

Chết đuối đọi đèn chỉ là một “trích đoạn” chưa từng thấy một người Việt bình thường nào sử dụng trong giao tiếp. Vậy mà Ðại từ điển tiếng Việt (1999, tr. 345) vẫn thu thập và diễn giải: “Thất bại hoặc chết vì những hoàn cảnh, lý do, duyên cớ tầm thường, không đáng phải chịu chết thiệt”.

Trong khi câu đầy đủ của nó là Chết sông, chết suối, chẳng ai chết đuối đọi đèn lại được các soạn giả diễn giải như là: "Thà phải đương đầu với khó khăn lớn lao, chứ không chịu thất bại trước một đối tượng tầm thường" (tr. 347).

Ðọc những lời cắt nghĩa kiểu "vọng văn sinh nghĩa" vừa nhắc, chắc ai cũng phải lấy làm tiếc: chẳng hiểu sao các soạn giả lại không chú ý đến"tập quán thề nguyền" của người Việt ngày trước? Giá chú ý chút đỉnh, chắc họ sẽ lập tức nhận thấy ngay hồi xưa, mỗi khi thề nguyền, ông bà chúng ta thường thốt ra một câu thề độc (chẳng hạn, “sẽ chết ngay tức khắc nếu đơn sai”...), rồi lấy các vật thể trường tồn trong vũ trụ (như sông biển, núi non, v.v.), các nguồn sáng (như mặt trời, mặt trăng, các vì sao, đèn nến, v.v.) hoặc các lực lượng siêu nhiên (như thần linh, ma quỉ, v.v.) ra làm các "đấng" chứng giám cho lời thề. Ngoài ra, thế nào họ cũng còn nhận thấy thêm: thời chưa có đèn dầu hoả hoặc đèn điện, ông bà ta thường phải lấy một cái đĩa hoặc bát [tiếng địa phương gọi là ”đọi”], cho dầu lạc [= đậu phụng] và một ngọn bấc [= tim] vào để làm vật thắp sáng đêm đêm.

Dựa vào các tri thức văn hoá ấy, chúng ta có thể dễ dàng đưa ra cho câu tục ngữ đang xét một lời diễn giải gần với sự thật hơn như sau: “[Người ta chỉ có thể] chết đuối ngoài sông ngoài suối, chứ chưa thấy lại có thể chết đuối trong bát dầu lạc vốn được dùng làm đèn [và thường được đưa ra để chứng giám cho những lời thề]. Hay dùng để khuyên người đời chớ có vội tin vào những lời thề thốt, ngay cả những lời thề độc, vì nó chưa từng được ai coi là thứ chứng cứ xác đáng cả”.

Những tri thức văn hoá kiểu ấy chẳng lẽ lại không đáng để truyền giảng lại cho học sinh tiểu học?


4. Vài lời kết luận

Từ những gì vừa trình bày, chúng ta có thể đi đến kết luận: hãy sớm giã từ khung ngữ pháp C–V (vì câu của tiếng Việt không hề có CN ngữ pháp, như nhà thơ Ðoàn Phú Tứ từng nhận thấy từ rất sớm khi đi tìm CN trong Truyện Kiều), để đến với cái khuôn “Ðề – Thuyết” từng được nhà ngữ học Cao Xuân Hạo tâm đắc vì đó là phương sách hiệu quả nhất nhằm giúp cho học sinh tiểu học chúng ta thừa kế được cả một gia tài đồ sộ với bao tri thức, bao kinh nghiệm sống và kinh nghiệm đạo đức vô giá mà ông cha ta đã chắt lọc được trong suốt hàng ngàn năm qua.

Tháng Chạp năm 2006


[1]Về điểm này, xin xem thêm Cao Xuân Hạo. Tiếng Việt. Sơ thảo ngữ pháp chức năng. Bản in lần thứ hai, 2004, nhất là các trang 137-170.
[2]Trong khi nghĩa đích thực của câu này khác hẳn, xem Dẫn chứng 7.
[3]Trong khi nghĩa đích thực của câu này là: “Ăn cơm thì cần có canh [cho dễ nuốt]; tu hành thì cần có vãi [để đỡ bị phân tâm vào chuyện cơm nước khi đang phải dồn hết tâm trí cho việc tu hành]”.
[4]Trong khi nghĩa đích thực của câu này là: “Ăn là việc mà ai cũng hay làm lúc đang đói; nói là việc mà ai cũng hay làm lúc đang ngà ngà say [rượu]”.
[5]Như dân gian từng phản ánh trong nhiều câu tục ngữ đáng kinh sợ, chẳng hạn, Tháng tám đói qua; tháng ba đói chết.
[6]Ðối chiếu thêm câu Ếch tháng mười, người tháng giêng, một câu có nghĩa hoàn toàn trái ngược với câu đang phân tích.
[7]Tục ngữ ta có câu: Cháu ngoại chẳng đoái đến mồ [ông bà mình].

Nguồn: Tạp chí Ngôn ngữ tháng 4.2008

Hà Văn Thùy : Cao Xuân Hạo – chàng Don Quijote độc hành

26.10.2005
Hà Văn Thùy
Cao Xuân Hạo – chàng Don Quijote độc hành

Dường như thế hệ bọn tôi có cái may là được học Văn trong buổi giáp ranh tranh tối tranh sáng sau hòa bình 1954. Khi đó người ta chưa kịp tạo dựng một thiết chế dạy và học môn Văn chặt chẽ đến ngặt nghèo. Khi đó người thày còn có thể dạy một cách hứng khởi theo hiểu biết của mình và nhiều thầy dạy Văn của tôi là những nhà giáo lưu dung (lạy Phật, sao lại có cái danh xưng xúc phạm con người đến vậy?!) kiến thức thâm hậu. Ngày ấy chúng tôi học tiếng Việt theo lời ăn tiếng nói của dân gian, ngữ pháp tiếng Việt chưa phải là phong ba bão táp hành hạ học trò. Học Văn với chúng tôi là niềm vui lớn của sự tự do bộc lộ hiểu biết, bộc lộ năng khiếu thẩm văn thẩm thơ của chính mình. Chúng tôi chưa kịp biến hình thành vẹt hay loài nhai lại.

Nhiều năm sau này, mỗi dịp tiếp xúc với sách giáo khoa Văn học khi dạy con, khi giảng cho cô giáo văn của tôi những mắc mớ về ngữ pháp, tôi lại một lần sởn da gà. Tôi trộm nghĩ, nếu như bây giờ phải quay lại làm học trò học chương trình Tiếng Việt, mình sẽ ra sao? Chắc hẳn sẽ rơi vào một trong hai tình trạng như sau: Hoặc sẽ dốt nát chẳng biết gì về tiếng Việt, hoặc sẽ thành kẻ khởi loạn dẫn đầu những con chữ tấn công vào nhà ngục Bastille giáo trình ngữ pháp, giải phóng cho tiếng mẹ đẻ khỏi gông cùm! Dù cách nào rồi cũng là bi kịch! May mà điều đó không xảy ra. Tôi đã qua cầu thoát nạn. Nhưng các con tôi, rồi bây giờ là cháu tôi, truyền đời bị hành hạ! Quả là đáng thương cho con dân Việt!

Ðang trong nỗi bức xúc không có đường ra khiến tôi hoang mang nghi ngờ tiếng Việt thì may sao tôi gặp những ý tưởng của giáo sư Cao Xuân Hạo, dù chỉ qua vài ba bài báo. Ðiều đáng nể là ông dũng cảm khẳng định nhiều giáo trình ngữ pháp đã giảng sai tiếng Việt. Tiếp đó, ông chỉ ra một cách thuyết phục cái cơ chế, cái công nghệ, cái quy trình dẫn đến những lầm lẫn ấy. Ðó là người ta đã không hiểu tiếng Việt, đã nặng đầu óc nô lệ và biếng lười cóp nhặt ngữ pháp tiếng nước ngoài, mà trước hết là tiếng Pháp, đem áp đặt lên tiếng Việt. Tư tưởng táo bạo của ông đến với tôi như một sự giải thoát. Từ phân vân hoang mang lo lắng, tôi lấy lại được niềm tin là ngữ pháp tiếng Việt không quái đản như những gì người ta viết trong sách giáo khoa. Và tôi tin rằng, từ chỗ biết sự sai, sẽ có ngày tìm ra cách sửa.

Trước tết năm Rồng (2000), tôi nhận được của ông bài viết thú vị nhưng hơi dài và có những kiến thức quá chuyên sâu so với yêu cầu của bạn đọc báo Văn Nghệ. Bỏ đi thì tiếc, tôi đành mạn phép ông làm cái việc gọi là biên tập, tức cái sự lược bớt, chắp nối để thể hiện nổi bật tư tưởng của tác giả. Bài viết được in ra với nhan đề “Sợ hơn bão táp”. Nhiều bạn đọc hoan nghênh nhưng bài báo vấp phải sự phản ứng bão táp của một số cây đa cây đề ở ngành Giáo dục. Ông cười hóm hỉnh bảo: “Cố nhiên thôi, tôi đập bể niêu cơm của họ mà!” Không chỉ đơn thuần là niêu cơm, tôi nghĩ. Ông chính là cái máy xúc, cái xe ủi, ủi đi những “công trình” những “sự nghiệp” vàng mã của khối người! Họ được đào tạo rất bài bản về ngôn ngữ, nhưng không phải ngôn ngữ Việt. Rồi khi về nước, vừa khiếp nhược trước khoa học ngữ pháp chính xác chuẩn mực của nước ngoài, vừa dốt tiếng mẹ đẻ, họ đem cái khuôn mẫu vừa học được, tức đem cái giày ngoại quốc về, vừa đẽo vừa cưa vừa kéo bàn chân Việt sao cho vừa giày... Bằng những việc làm vừa giả vừa phản khoa học ấy, họ đã ngụy tạo nên những “công trình”, những “sự nghiệp” đủ cho họ vênh vang danh lợi một đời! Ông là ai mà dám hiện ra lừng lững như cái xe ủi trước những lâu đài dinh thự vàng son hàng mã ấy?

Trước Tết năm Rắn (2001), tôi gọi điện xin bài. Ông vui vẻ: “Tôi đang viết. Tôi định lấy tên là ‘Hồn tiếng Việt’”. Rồi ông say sưa kể câu chuyện: trên đường ra Hà Nội với nhà Việt học người Hung, ông đố bạn thế nào là chó treo mèo đậy? Nhà Việt học châu Âu cho rằng: đem chó treo lên, lấy rổ lấy nơm úp (đậy) con mèo lại! Ông kết luận, chỉ có người Việt mới hiểu được cái hồn của chữ Việt! Tôi thật mừng, như sự phát hiện, hồn chữ: cái chữ có hồn! Lâu nay người ta quên mất phần hồn mà chỉ dạy phần xác. Vì vậy lớp lớp học trò không biết đến hồn vía tiếng Việt, chữ nghĩa họ dùng chỉ là xác chữ. Chân lý thường đơn giản. Chỉ với bốn chữ quen thuộc chó treo mèo đậy mà làm rối trí một nhà Việt học! Chỉ chúng ta mới cảm nhận được hồn tiếng Việt.

Dường như Cao Xuân Hạo không hòa hợp lắm với đồng nghiệp mình. Người ta coi ông như kẻ hay kiếm chuyện không để cho ai yên. Hình như trong cuộc đời ông cũng chịu không ít bầm dập. Nhưng tôi cho là may mà đời có ông. Ông chân thực vô tư mà minh triết như chú bé trong ngụ ngôn Andersen đã nói huỵch toẹt: hoàng đế cởi truồng!

Không hiểu sao tôi có liên tưởng ngộ nghĩnh: một chiều gió bấc, một con đường mòn xa tít hun hút tới chân trời. Trên đó chàng kỵ sĩ gầy, mái đầu muối tiêu, nách cắp cây thương, cưỡi trên con ngẽo cà khổ. Ðó là ông, Cao Xuân Hạo, chàng kỹ sĩ độc hành. Trong chiều tà, ngọn bút của ông được phản quang phóng to thành cây thương. Một người một ngựa, ông trơ trọi đi trong chiều vắng. Trước mắt, những hồn ma bóng quế chập chờn. Nhưng ông vui vì tin rằng một ngày mai những con chữ Việt sẽ tưng bừng trong cuộc hoan ca chào đón ông - người giải phóng.

Cái ngày đó chưa đến, nhưng đã một thời ông là thần tượng của lớp trẻ chúng tôi bởi những bản dịch mà ông chuyển ngữ văn xuôi Nga thành thứ tiếng Việt tuyệt vời, chính xác mà uyển chuyển. Ông đã truyền cho chúng tôi lòng yêu tiếng Việt chính bởi ông là người yêu tiếng mẹ đẻ đến tận cùng!

© 2005 talawas