2/2/10

Lê Đăng Doanh : Mùa xuân của tư duy và hành động

Mùa xuân của tư duy và hành động
Tác giả: Lê Đăng Doanh

Bài đã được xuất bản.: 02/02/2010 14:35 GMT+7


Nhìn lại thập kỉ qua, chúng ta tiếp tục tăng trưởng về lượng trên những gì thiên nhiên đã ban tặng nhưng đạt được quá ít thay đổi về chất và chưa tạo được cơ sở nào cho một đột phá trong tương lai.

Trong thời khắc thiêng liêng giao thời, kết thúc năm cũ, đón năm mới, mỗi người trong chúng ta đều dành cho riêng mình những phút suy tư, nghĩ về những việc trong năm cũ, những điều đã làm được và chưa làm được, nghĩ về năm mới với những dự báo, những dự định, hoài bão cho đất nước, cho dân tộc, trong đó có cá nhân mình.

Suy nghĩ để hành động, vì tất cả đều bắt đầu bằng hành động mới đi đến biến đổi hiện thực. Năm Canh Dần 2010 này là năm cuối cùng của một thập kỉ, cũng là dịp để ta nhìn lại cả mười năm qua và dự tính công việc cho mười năm tới.

Tiếp theo những năm đầu cải cách và hội nhập trong những thập kỷ 1990, trong thập niên 2001 - 2010 này, Việt Nam đã tiếp tục có những thành tựu nhất định và vẫn được Ngân hàng Thế giới, Chương trình Phát triển của Liên Hiệp Quốc ca ngợi và nêu gương cho các nước nghèo, chậm phát triển về thành tích tăng trưởng kinh tế cao và xóa đói giảm nghèo nhanh. Lời khen đó có người ví với phiếu "bé ngoan" cho những đứa trẻ mẫu giáo.

Từ năm 2008 nước ta cũng đã vượt qua ngưỡng "nước thu nhập thấp" (935 đôla Mỹ/ người) - một từ hoa mỹ để chỉ nước nghèo - để gia nhập nhóm nước có thu nhập trung bình, tuy ta chưa ở mức thấp nhất trong nhóm các nước này. Đó là những tiến bộ có thực đáng trân trọng tuy còn dưới tiềm năng của đất nước và con người Việt Nam.



Có lẽ ít người nhớ lại rằng Ngân hàng Thế giới, trong cuốn sách Sự thần kỳ Đông Á, đã ca ngợi hết lời Indonesia và nêu gương kinh tế Indonesia cho chúng ta học tập trong những ngày đầu Đổi mới, cho đến khi nước này rơi vào khủng hoảng tài chính năm 1997. Người khen không chịu trách nhiệm gì khi kẻ được khen bị đổ vỡ. Lời khen tuy nghe sướng tai nhưng không giúp chúng ta phát hiện ra tật bệnh và yếu kém của mình.

Mỗi dân tộc có trách nhiệm với chính mình phải tạo ra cơ chế dân chủ để kịp thời phát hiện thiếu sót và dũng cảm sửa chữa để tiến lên.



Mỗi dân tộc có trách nhiệm với chính mình phải tạo ra cơ chế dân chủ để kịp thời phát hiện thiếu sót và có dũng cảm sửa chữa để tiến lên. Và càng không thể lấy lời khen ngợi của người khác để lấp liếm, che đậy thiếu sót của chính mình.
Nhìn lại thập kỷ qua, chúng ta tiếp tục tăng trưởng về lượng trên những gì thiên nhiên đã ban tặng nhưng đạt được quá ít thay đổi về chất và chưa tạo được cơ sở nào cho một đột phá trong tương lai.

Cơ cấu hàng xuất khẩu chậm thay đổi, sau mười năm vẫn chủ yếu là dầu thô, may mặc, da giầy, là những sản phẩm gia công sử dụng nhiều lao động lương thấp. Tỷ trọng các sản phẩm công nghệ cao tăng từ 2% (1999) lên 8% (2008) chủ yếu do các DN đầu tư nước ngoài.

Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới (2006), 76% tổng tài sản quốc gia của nước ta là tài nguyên (đất, rừng, gỗ...), 20% là tài sản vật chất đã xây dựng được (cầu đường, bến cảng...) chỉ có gần 7% tài sản là tri thức, con người được đào tạo, thể chế... trong khi ở các nước thuộc Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế OECD có thu nhập trên 10.000 đôla Mỹ/ người, tỷ lệ tài nguyên chỉ là 2%, tài sản 17% và tri thức là 80%. Riêng ở Nhật Bản, tài nguyên chiếm chỉ hơn 0% một chút mà thôi.

Trong mười năm qua, nước ta đạt được quá ít tiến bộ về giáo dục - đào tạo, về chống tham nhũng, về hạn chế tai nạn giao thông, trong khi nạn ô nhiễm môi trường, kẹt xe, úng lụt tăng lên nhanh chóng.

Từ năm 2006 đến nay, Việt Nam đã tụt 11 bậc trong bảng xếp hạng năng lực cạnh tranh toàn cầu. Trong khi đó, Trung Quốc, Hàn Quốc và các nền kinh tế khác đã tiến rất nhanh dựa trên tri thức, thể chế, sức sáng tạo của con người.

Trước nguy cơ biến đổi khí hậu, tài nguyên của nước ta bị đe dọa sẽ thu hẹp nghiêm trọng, viễn cảnh tăng trưởng dựa trên khai thác tài nguyên thực sự u ám và lỗi thời.

Chúng ta phải thực sự đặt câu hỏi tại sao chúng ta lại tiến chậm như vậy trên những lĩnh vực đã thấy vấn đề, đã dùng những từ to tát nhất như "quốc nạn", "nội xâm" đối với tham nhũng, đã bao lần "hạ quyết tâm", "quyết liệt chiến đấu" nhưng kết quả đạt được trong thực tế còn quá ít, tình hình cơ bản chưa có nhiều thay đổi về chất.

Khi đã có cố gắng nhất định trong nhiều năm nhưng chưa thành công thì phải xem lại cách đặt vấn đề của những cố gắng và căn nguyên đích thực của các tật bệnh đó.

Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng thường nói: "Tất cả chúng ta vừa là nạn nhân, vừa là thủ phạm, vừa là công tố, vừa là quan tòa, và cũng vừa là bị cáo". Có lẽ, về mặt tinh thần, đã là người Việt Nam yêu nước, sẽ không có ai nỡ thoái thác trách nhiệm của mình trước dân tộc, song trách nhiệm của người nông dân ở Mù Cang Chải và trách nhiệm của người cầm cân nảy mực đất nước trước những vấn nạn này là khác nhau!

Thà đốt lên một que diêm còn hơn là ngồi trong tối mà than vãn tối hoài. Ngày xuân, cúng tổ tiên, tưởng nhớ đến các anh hùng, liệt sĩ đã ngã xuống để giành lại đất nước cho cả dân tộc ta, mỗi người chúng ta phải suy nghĩ và hành động nhiều hơn là chỉ đốt một que diêm.

Theo TBKTSG số Xuân
© TUANVIETNAM.NET

1/2/10

Hợp Lưu - Tuyển tập về Nhà Thơ Bùi Giáng

--------------------------------------------------------------------------------

.

Tuyển tập về
Nhà Thơ Bùi Giáng
Hợp Lưu
---o0o---

***







MỤC LỤC



PHẦN 1

Thư Toà soạn

Vĩnh biệt Bùi Giáng

Bùi Giáng kẻ tận hiến. Huy Tưởng

Ông nhớ con (thơ) . Bùi Giáng

Một vài kỷ niệm với Bùi Giáng. Mai Thảo



PHẦN 2



Thử phác họa đôi nét về cõi thơ Bùi Giáng. Huỳnh Hữu Ủy

Đi tu tâm niệm (thơ) . Bùi Giáng

Bùi Giáng: Một vùng đất hẹp và một thế giới. Nguyễn Hoàng Vân
Thân tình gửi anh Bùi Giáng. Huy Cận
Ở Chùa. Ngô Cang

Bùi Giáng bốn mùa. Phạm Thiên Thư

Trích “Sổ tang”



PHẦN 3

Nguyên khởi về cõi tinh mật Bùi Giáng. Khiêm Lê Trung

Bùi Giáng – thi sĩ kỳ dị. Huỳnh Ngọc Chiến

Bùi Giáng trong “cõi người ta”. Ý Nhi



PHẦN 4

Truy niệm. Thường Quán

Hiện Tượng Bùi Giáng. Thụy Khuê

Bùi Giáng càng điên càng tỉnh, càng già càng lãng mạn. Nguyễn Hưng Quốc

Bùi Giáng, nhà thơ của Ngày tháng ngao du. Cung Tích Biền

Đọc lại Mưa nguồn. Thận Nhiên

Bùi Giáng, bước chân đi tìm hồn nguyên tiêu và mầu hoa trên ngàn. Bùi Vĩnh Phúc.

Công Án Tử Sinh. Hoàng Nguyên Nhuận






Thư Toà soạn ^

Bùi Giáng là một hiện tượng nổi bật của văn học miền Nam nói riêng, cả nước nói chung gần nửa thế kỷ qua. Ông được biết đến không chỉ ở tài thơ lẫy lừng, sự quảng bác, trí năng quán thế của mình, mà còn ở chính con người, đời sống phiêu hốt đến kỳ bí có một không hai trong lịch sử Việt Nam. Tên tuổi Bùi Giáng gắn liền với những giai thoại, vô số những giai thoại, chắc chắn nhiều thế hệ sau này sẽ còn nhắc đến.

Ngày 17 tháng 10 năm 1998, thiên tài thơ ca lạ lùng ấy vừa từ giã trần gian, sau cơn tai biến mạch máu não.

Bùi Giáng ra đi, thơ ca Việt Nam cận đại mất một nhà thơ lớn.

Tám năm qua, tòa soạn Hợp Lưu nhận được không ít thơ đề nghị nên thực hiện một số báo đặc biệt về Bùi Giáng. Chúng tôi ghi nhận đề nghị ấy với nhiều hứng khởi. Nhưng do vài lý do ngoài ý muốn, số báo chưa thể ra đời.

Nay, Bùi Giáng ra người thiên cổ, Chúng tôi hiểu rằng không thể chần chờ lâu hơn. Ðiều bất ngờ: tuy thực hiện gấp rút, nhưng số báo lại được đáp ứng nồng nhiệt từ hầu hết những ngòi bút & nghệ sĩ Việt Nam uy tín hiện đang sống rãi rác khắp năm châu: Mai Thảo, Huy Tưởng, Cung Tích Biền, Nguyễn Hưng Quốc, Hoàng Nguyên Nhuận, Võ Ðình, Ðinh Cường, Huỳnh Hữu Uûy, Huệ Thu, Thường Quán, Thụy Khuê, Kim Cương, Trần Tuấn Kiệt, Trịnh Công Sơn, Huy Cận, Bùi Chí Vinh, Nguyền Lương Vị, Phạm Thiên Thư, Thận Nhiên, Nguyễn Hoàng Vân, Ngô Cang, Khiêm Lê Trung, Huỳnh Ngọc Chiến, Y Ù Nhi, Bùi Vĩnh Phúc, Phạm Văn Hạng,... Thêm Một khích lệ nữa cần được ghi nhận, trước cái tang của Bùi Giáng, khoảng cách địa dư và mọi e ngại đã bị xóa bỏ, bằng minh chứng cụ thể: những đóng góp của các bạn văn trong nước đến với Hợp Lưu nhanh và nhiệt tình vượt ngoài ước mong của tòa soạn. Nhân đây, chúng tôi gởi lời cám ơn chân thành đến một vài văn hữu và bằng hữu hiện sống tại Sài Gòn. Không có sự tiếp tay của các bạn, số báo này không thể đến với độc giả sớm và tương đối hoàn chỉnh như đã.

Lời cảm ơn cũng xin được gởi đến các ông Bùi Vịnh, Bùi Như Hải, đã cung cấp khá đầy đủ mọi tư liệu chúng tôi cần, như Sổ Tang, hình ảnh, thủ bút... của thi sĩ Bùi Giáng.

Gần một thập niên, Hợp Lưu được đánh giá tốt qua những số báo chủ đề đặc biệt về các văn học: Hoàng Xuân Hãn, Văn Cao, Phan Khôi, Mai Thảo, Tạ Trọng Hiệp, Tô Thùy Yên. Chúng tôi hy vọng với số báo này, một lần nữa, Hợp Lưu không phụ lòng độc giả.

Cận kề cái tang lớn của văn học Việt Nam chúng tôi vừa đề cập bên trên, giới làm và thưởng ngoạn nghệ thuật cũng vừa mất đi một tài năng khác: họa sĩ Nghiêu Ðề từ trần hôm thứ Hai ngày 9 tháng 11 vừa qua tại San Diego, USA, sau 5 tháng chiến đấu với căn bệnh nan y. Chúng tôi sẽ nói nhiều về Nghiêu Ðề trong số báo sau.

Ngoài phần đặc biệt về Bùi Giáng, Hợp Lưu cũng giới thiệu đến độc giả những chuyện ngắn rất đặc sắc của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Hương, Trần thị Ngh...., và một chuyện vừa (đăng trọn) của một tác giả nổi tiếng tại miền Nam Việt Nam trước 1975, nhưng vì lý do ngoài ý muốn, phải tạm dấu tên. Phần thơ ca, cũng đặc sắc không kém, với những thi phẩm mới nhất của Huy Tưởng, Thường Quán, Du Tử Lê, Ðỗ Trung Quân, Phan Nhiên Hạo...

Riêng với các tác phẩm lẽ ra sẽ đi trong số này nhưng phải gác lại, đồng thời vài mục thường xuyên như Phỏng Vấn, Tin Văn Học... cũng cùng chịu chung số phận, vì giới hạn số trang. Chúng tôi thành thật xin lỗi các tác giả và độc giả.

Sau cùng, chu kỳ của Hợp Lưu rơi đúng vào tháng 12 của năm cũ và tháng 1, năm mới, nên, như mọi năm, số báo này được xem là số Xuân Kỹ Mão 1990, Hợp Lưu trân trọng chúc độc giả và văn hữu một Tân Niên an bình và hạnh phúc.

HỢP LƯU







Vĩnh Biệt Bùi Giáng^

Thi sĩ Bùi Giáng tạ thế vào 14 giờ ngày 7/10/1998 (nhằm ngày 17/8 Mậu Dần) tại Sài Gòn, hưởng thọ 73 tuổi.

Trong những năm gần đây, dù sức khỏe héo cạn, sau một thời gian dài tinh thần phân tán, điên đảo điêu linh, ông đã lấy lại phong độ phiêu bồng và hùng hậu, dành nhiều thời gian cho việc sáng tác, giảm thiểu tối đa việc “hí lộng ta bà” cùng “giảm tửu” đến mức thấp nhất, làm việc miệt mài với nhiều hứng khởi.

Từ giữa tháng 9/1998, sức khỏe ông đột ngột suy giảm nhanh chóng. Trong đêm 23/9, ông thức khuya, có uống lại chúc rượu để gây hưng phấn, trong lúc đang làm việc thì bị ngã quỵ tại nhà riêng (số 482/29 Lê Quang Ðịnh, Bình Thạnh).

Thân nhân đưa ông vào bệnh viện Chợ Rẫy, chụp Scanner và phát hiện ông bị đứt mạch máo não, tụ huyết hôn mê sâu. Sau cùng ban giám đốc bệnh viện quyết định giải phẫu vào lúc 21 giờ ngày 25/ 9 và hoàn thành vào lúc 23 giờ 30 cùng ngày. Từ ngày 26/9 đến 6/10, ông vẫn hôn mê, tuy đôi lúc có những dấu hiệu khả quan (mở mắt, co duỗi và phản xạ...) nhưng đến ngày 7/10 ông đột nhiên suy yếu nhanh chóng, và đến 14 giờ thì tắt thở trong trạng thái thanh thản nhẹ nhàng.

Thi hài ông được quàng tại phòng tang lễ chùa Vĩnh Nghiêm, Sài Gòn, sau đó được an táng tại nghĩa trang Gò Dưa, Thủ Ðức, vào ngày 11/10/1998 (nhằm ngày 21/8 Mậu Dần).

Trong thời gian thi sĩ Bùi Giáng lâm trọng bệnh cũng như lúc nằm xuống, ông đã được nhiều thân hữu, nhân sĩ và người hâm mộ quan tâm, chăm sóc với hết lòng trọng vọng và thân ái đối với đấng tài ba



Bùi Giáng, kẻ tận hiến^

Lời đọc trước mộ

Huy Tưởng




Kính thưa anh Bùi Giáng,

Việc anh dứt áo ra đi hôm nay, theo lẽ biến dịch của vạn hữu, là như nhiên, và đã được chính anh cũng như tất cả chúng tôi ở đây, cùng những ai yêu quí thơ ca Việt Nam trên cùng khắp mọi miền thế giới, đã chuẩn bị trước. Ấy vậy mà, tin anh qua đời, chúng tôi vẫn cứ bị choáng váng, lòng đầy nhớ tiếc và đau đớn tột cùng.

Thưa anh Bùi Giáng.

Ngợi Ca và tuyên xưng anh, dù với lời lẽ lộng lẫy hay hàm súc đến đâu chăng nữa, trong hạn hữu một bài viết và ngay cả những số báo đặc biệt về anh, có lẽ cũng khó lòng với tới tới chốn cao vợi và quảng bác mà anh đã dày công hàm dưỡng và đắm đuối vun đắp nên. Có phải vì lẽ đó đã khiến cho tôi luôn ngần ngại đẻ nói hay để viết về anh (?) Cho dù tôi vẫn thầm hứa trước lòng kỳ vọng anh dành cho, dù vẫn muốn ôm được anh riêng cho mình. Tôi cứ phải thức tỉnh rằng, vốn sống, vốn chữ nghĩa và cảm thức của mình vẫn chưa thể hứng chờ nổi chiếc bóng lồng lộng, đa âm sắc và linh hoạt của anh. Có phải, càng viết nhiều thì càng bày lộ sự thiếu sót trầm trọng của mình trước thiên tài bát ngát nơi anh?

Anh Bùi Giáng,

Mấy lời biện bạch vụng về và hàm hồ như vậy, chẳng biết anh có tạm bằng lòng mà lượng thứ cho tôi?

Xin hãy để cho lòng nhân thế dịu lại sau cái mất mát lớn lao này, nén cơn xúc động, bình tâm để được gần gũi anh một cách chân thật và sâu sắc hơn, từ tốn trước một gia tài độ sộ của thông tuệ và tài hoa ngất trời điên đảo mãi tỏa sáng.

Ngoài những tư tưởng và chũ nghĩa mà anh Bùi Giáng để lại, đã làm giàu có đáng kể cho kho tàng tiếng Việt, anh còn thật sự ghi đậm lên tôi một ấn tượng vô cùng mạnh mẽ, rằng anh là một sinh thể luôn bị lay động và bị cấu xé bởi ánh sáng và lửa tịch mịch, điêu linh với những ám ảnh về lẽ sinh tử không cùng, dấn mình một cách hiên ngang và khốc liệt vào cõi thơ ca. TẬN HIẾN hết cả đời mình cho duy nhất - thơ ca – Từ buổi sơ ngộ đầu đời đến những giây phút cuối cùng về nơi chốn lâm chung – Tận hiến mà không hề nhận lại một sự bù đắp đối đãi nào của nhân thế, trút gửi hết thảy xương máu và hồn phách, lưu lại ở đời như vậy tạm một hình cốt mong manh bi thiết và mộng mị. Với riêng tôi, hình ảnh đắm chìm của tận hiến hung hiểm đó chính là một tượng đài vĩ đại đến khủng khiếp của thiên tài thơ Bùi Giáng.

Nói đến sự Tận Hiến, tôi chợt nhớ ai đó đã nói, đại khái: “Nếu người không chết trong cuộc tại thế, thì người sẽ mất tích, sau khi qua đời”. Và hôm nay, chúng tôi ngậm ngùi kính cẩn tiễn đưa anh – Kẻ Tận Hiến. Kẻ, đã chết trong cuộc tại thế này sang bên kia thế giới, cũng có nghĩa rằng, xin được thay cho người mai hậu, đón chào đấng tài hoa của thế kỷ trước ngàn sau bát ngát...

Trong khung cảnh thiêng liêng và đầy cảm động hôm nay, tôi không dám rậm lời, chỉ xin nói lên một vài cảm nghĩ tận đáy lòng liêm kính của mình để bái biệt anh, xin như góp một chiếc đinh nhỏ cùng nhau treo bức chân dung kỳ vĩ của anh lên khoảng tường lớn trong căn nhà Thơ ca Việt Nam.

Trong ngàn ngàn châu báu anh để lại, tôi có nhớ được một bài thơ anh viết đã từ lâu, tôi quên mất tựa đề, như một lời tạ từ với trần gian cố quận.

Anh Bùi Giáng,

Không có gì hơn bằng chính lời anh, xin được thay anh, tôi đọc bài thơ ấy để anh được ngỏ lời chia biệt với cõi người ta:

Rồi Mai đi về xứ nào chẳng biết

Ðỗ Quang ơi và có lẽ Quyên ơi

Ði lìa xa xứ sở của mặt trời

Thì chuyện cũ cũng như từng biết

Tôi nào biết cội nguồn tôi ly biệt

Dấu tiên nga và ngấn tích tiên sa

Bờ dạt bèo hay bến lạnh trôi hoa

Ngày ngóng mộng hay đêm ngờ máu chảy

Xuân thơ dại hay đông tàn thu gãy

Chút tình xưa Ðông Á mất đâu rồi

Rồi mai đi về xứ nào chẳng biết

Những người em hãy ở lại bên đời

Nô hay đùa xin cứ mỉm hai môi...

Xin vĩnh biệt anh Bùi Giáng yêu kính. Cầu cho hồn anh được siêu sinh tịnh độ, nương theo mây trắng mà về lại với quê nhà, tiếp tục rong ruổi vui chơi trên cõi trời đâu suất...

Huy Tưởng

11/10/98



Ông nhớ con^

Bùi Giáng

Ông nhớ con như nhớ một trăng tròn

Và trăng khuyết cũng tấm lòng từ đó

Ông tự hỏi với ngàn sao lấp ló

Ở nơi nào còn có áng mây bay






Một Vài Kỷ Niệm Với Bùi Giáng^

Mai Thảo



Cả hai đều đã ra đi




LTS:

Thuở sinh tiền, khi nói đến thơ, nhà văn Mai Thảo thường nhắc nhiều đến Vũ Hoàng Chương và Bùi Giáng. Mỗi người một phong cách, nhưng theo Mai Thảo, đó là những “ngôi sao Bắc Ðẩu trên vòm trời thơ ca của ta”.

Chúng tôi cho đăng lại bài viết này (Văn, số 26 tháng 8/1984, USA) như một hình thức tưởng nhớ đến một người yêu thơ rất mực: nhà văn Mai Thảo, và một người làm thơ tài hoa cũng rất mực: thi sĩ Bùi Giáng.

Cả hai đã ra đi.

Bên kia thế giới, có lẽ nhà văn Mai Thảo lại có dịp mời thi sĩ Bùi giáng một chai bia lớn, và lại sẽ được nghe ông nói, bằng chất giọng Quảng Nam đặc sệt: “vui thôi mà”, như độc giả sẽ thấy, trong bài viết dưới đây.

HỢP LƯU









Thủ bút của Bùi Giáng




Nhiều buổi chiều Sài Gòn, tôi chẳng còn có thể nhớ đích xác vào những năm nào, đâu như năm 1962, đâu như năm 1965 (nếu sai, nhờ hai anh Cung Tiến, Phạm Công Thiện nhớ lại dùm cho), tôi thường được mời tới những họp mặt ăn nhậu trên căn lầu ngăn nắp, thoáng mát của thầy Thanh Tuệ ở đường Lý Thái Tổ. Mỗi họp mặt vớiù Thanh Tuệ, hồi đi là giám đốc của nhà xuất bản An Tiêm và còn là nhà sư trẻ tươi tắn chưa cởi áo hồi tục, thường vì một cuốn sách. Một cuốn sách mới, vừa in xong chưa ráo mực. Và trước khi gởi sách vào nắng mưa đời, họp mặt An Tiêm với thân hữu là một tiệc rượu lạc thành cho sách.

Những họp mặt vì sách và do sách đó thường có tôi, Thanh Tâm Tuyền, Phạm Công Thiện, đôi khi Nguyễn Ðình Toàn, Dương Nghiễm Mậu, Doãn Quốc Sĩ, và đương nhiên nhân vật chủ chốt là tác giả sách là Bùi Giáng. Tôi chỉ kể tới Bùi Giáng, bởi suốt thời kỳ đó, có thể nói, thầy Thanh Tuệ vì một tấm lòng liên tài đặc biệt, chỉ mê thích thơ văn Bùi Giáng, chỉ in Bùi Giáng, dành trọn phương tiện cho ưu tiên xuất bản trưóc mọi tác giả khác. Và giai đoạn có thể đặt tên là giai đoạn Bùi Giáng này, An Tiêm đã in đêm in ngày, in mệt nghỉ, vì những năm tháng đó chính là những năm tháng đánh dấu cho thời kỳ sáng tác kỳ diệu sung mãn nhất của Bùi Giáng, cõi văn cõi thơ Bùi Giáng bấy giờ ào ạt vỡ bờ, bát ngát trường giang, mênh mông châu thổ, Bùi Giáng bấy giờ mỗi tuần viết cả ngàn trang khiến chúng tôi bàng hoàng khiếp đảm, ngôn ngữ và tư duy của Bùi Giáng bấy giờ hiển lộng tới không bền không bờ, vô cùng vô tận, và tài năng ông cũng vậy.

Bùi gíang chất ngất một trời chữ nghĩa, Bùi Giáng trùng trùng một biển văn chương. Vậy mà mỗi lần gặp thi sĩ hồi đó, cảm tưởng bao giờ cũng giữ được là đã gặp một Bùi Giáng rất nhàn rỗi, rất rong chơi. Bước chân vào nhà Thanh Tuệ chúng tôi đã thấy Bùi Giáng ngồi trước đó, tươi cười, ung dung, trong cái phong thái của một người nhàn nhã nhất thế giới, chẳng có một dấu vết nào của một người viết đang gió táp mưa rơi trên ngàn ngàn trang sách. Có như Bùi Giáng trước sau vẫn đang chập chờn với đời như một cánh bướm, lững thững với đời như một áng mây. Có như Bùi Giáng, cái áo vải cũ, râu tóc để mặc, điếu thuốc trên tay, chén trà trước mặt, vẫn chỉ ngồi chơi thảnh thơi ngày ngày với An Tiêm như thế. Sau này, sống với Bùi Giáng nhiều hơn, tôi cũng chỉ thấy Bùi Giáng như hồi đầu thấy ở An Tiêm. Trong một phiêu hốt, một ung dung chưa từng thấy. Có như, trọn một đời cái đầu của thi sĩ không một chút nào dành cho suy nghĩ, bàn tay thi sĩ không một phút nào dành cho cây bút. Có như trang giấy trắng, mặt bàn viết là những vật thể xa lạ chẳng bao giờø ông biết tới. Vắn tắc là Bùi Giáng chẳng làm gì hết, chẳng ai một lần nhìn thấy Bùi Giáng đang làm gì hết. Mà hoàn toàn phiêu bông, hoàn toàn rong chơi.

Vậy mà cái sức viết hồi đó đến như Bùi Giáng là tột đỉnh, là không tiền khoáng hậu. Vậy mà cái lực viết đến như Bùi Giáng và thấy Bùi Giáng là ngàn người không một, là phi phàm, là vô địch rồi.

Một lần, tôi đem cái điều khó hiểu này ra hỏi một người cũng làm thơ thật nhiều, cũng làm thơ rất đều tay là Thanh Tâm Tuyền. Tác giả Liên Ðêm Mặt Trời Tìm Thấy lắc đầu cười: “Chịu không giải thích được. Chỉ biết Bùi Giáng khác. Với tôi. Với hết thẩy. Là cái chỉ có một. Với tôi là từng bài thơ. Nói đến từng bài thơ Bùi Giáng, bài thơ này bài thơ kia của Bùi Giáng lại là chuyện tức cười lắm lắm. Bùi Giáng là cái hiện tượng dị thường của một suối thơ ăm ắp không ngừng. Ðọc thơ Bùi Giáng cũng phải đọc như thế. Ðứng trên đơn vị từng bài. Bùi Giáng đặït tựa cho từng bài là ngắt thơ ra, ngắt chơi ra vậy thôi. Nói đến mấy ngàn bài thơ Bùi Giáng là đúng. Mà nói thơ Bùi Giáng chỉ có một bài, vô tận vô cùng là đúng hơn. Ngủ ra thơ, thở ra thơ, đi ra thơ, đứng ra thơ. Chứ không phải nghĩ ra thơ, làm thơ. Ta cứ tạm hiểu cái trạng thái thơ kỳ lạ khác thường ở Bùi Giáng là như vậy.”

Sự ngược nghịch giữa cái rong chơi một đời của Bùi Giáng với cái lực thơ, cái số thơ, cái lượng thơ khủng khiếp làm ra, tôi đem hỏi thêm nhà xuất bản hằng ngày sống cùng Bùi Giáng, rồi đến chính thi sĩ, cũng không được sáng tỏ gì hơn ngoài suy diễn có tính chất phỏng đoán của Thanh Tâm Tuyền. Thầy Thanh Tuệ cũng chỉ lắc đầu cười. “Tôi cũng lấy làm kỳ”, Thanh Tuệ nói. “Anh lang thang suốt ngày, chẳng thấy lúc nào ngồi viết hết. La cà hết nơi này đến nơi khác, uống rượu say ngất rồi về lầu lăn ra sàn ngủ, nhiều ngày bỏ cả bữa ăn. Ðêm cũng không thức, chỗ nằm tối thẳm. Tôi in không kịp, nói ảnh tạm ngừng thì ảnh ngừng. Nói có máy, có giấy, nói buổi sáng buổi chiều ảnh đã tới ném bịch xuống cả năm, bảy trăm trang. Cứ thế đem sắp chữ thôi, đâu có thì giờ đọc. Ðiều kỳ lạ là không riêng một thể loại mà thể loại trước tác nào anh cũng có ngay sách, dễ dàng và nhanh mau vô tả. Từ thơ đến văn. Từ một cuốn tiểu luận về Camus đến một cuốn tiểu luận về Nguyễn Du. Từ dịch thuật tiểu thuyết đến phê bình triết học. Tất cả như đùa như chơi vậy.”

Nhà An Tiêm suốt mấy mùa sách, hầu như không thở được nữa trước cái viết tràn bờ của Bùi Giáng, điều này ai cũng biết.

Rồi tôi rủ Bùi Giáng tới quán. Ðãi ông uống rượu. Vặn hỏi chính thi sĩ. Ðể cũng chỉ được Bùi Giáng cười cười thích thú trước tìm hiểu có vẻ ngớ ngẩn của tôi. Ông không chịu giải thích, chừng như ông không có gì giải thích, sự thành hình tác phẩm nơi Bùi Giáng cuối cùng vẫn là một bí ẩn hoàn toàn trong cái vùn vụt, cái bất tuyệt thao thao, cái chớp mắt đã là của nó. Cười cười, ông đốt điếu thuốc, cầm lấy ly rượu: “Vui thôi mà”.Ừ vui, ba chữ “vui thôi mà” là câu trả lời mơ hồ nghịch ngợm duy nhất của Bùi Giáng trước mọi tìm hiểu của lực thơ và số lượng thơ không thể tưởng tượng được ở nơi ông, cõi thơ vô bờ của ông trăm phương nghìn ngã mênh mông và chính ông là hiện tượng thân của mênh mông nghìn ngã trăm phưong ấy.

Bùi Giáng nói vui thôi mà. Quả vậy, thơ ông vui cực kỳ. Con châu chấu, con chuồn chuồn. Cơn chuồn chuồn, con châu chấu. Rừng Marylyn. Biển Brigitte Bardot. Ngành Novak. Ðóa John Keats. Ngành Mật niệm. Ðóa U Linh. Hồng Lĩnh Hạc Lâm. Quỳnh Lai Thị Xứ. Thơ đốt pháo bông, ngôn ngữ triệu triệu, như chữ thần diệu:

Người nằm ngủ thấy gì

Thấy rất nhiều nắng lạ

Giấc ngủ đầy nắng, đầy nắng lạ. Bùi Giáng nói vui thôi mà. Thơ ông vui thật. Từ cánh tay áo rộng, thơ bay. Từ trí tuệ gió lộng, thơ phất. Nghìn thu cổ lục. Ngày Hy Nga. Ðêm bé chị. Mọi trên ngàn. Sóng Hồng Hoang. Thềm dục vọng. Thơ ghé thăm đá, thăm bàn ghế, thăm bún bò, thăm lá.

Ghé thăm trái mận ban đầu

Bình minh bắt gặp nguyên màu ban mai

Tiếng thơ sáng rỡ, chói lọi, kỳ ảo, cánh rừng ngôn ngữ ấy suối reo, chim hót, hoa nở, cây ào ào sóng vỗ, sóng từng từng xanh cây, beo gấu rởn nghịch, con chuồn chuồn hóa thân, con châu chấu suy tưởng, những môi nhỏ hằng ngày, gì cũng là thơ, thảy đều biến dạng. Thơ Bùi Giáng vui thật. Một vĩ đại vui. Hãy đọc thơ ấy, như cùng ông đi vào một trận vui lồng lộng. Ðừng cần tìm hiểu. Ðừng cần giải thích. Hãy đọc lại Mưa Nguồn, Bài Ca Quần Ðảo:

Xin chào nhau giữa con đường

Mùa Xuân phía trước, miên trường phía sau

Sẽ thấy cái vẫy tay chào lấp lánh của thi sĩ. Cái sự “vui thôi mà” trước sau ông chỉ nói vậy, ba chữ này tôi ao ước được thấy khắc vào mộ chí ông khi ông mất đi, ông và giữa con đường vui, không dưới không trên, không đầu không cuối gì hết. Giữa và mùa xuân phía trước, miên trường phía sau.


Thơ là người. Ngoài đời Bùi Giáng cũng thật vui. Thời kỳ Thanh Tuệ chấm dứt, nhà xuất bản An Tiêm tạm ngừng hoạt động, Bùi Giáng gặp lại Thanh Nam, viên Linh, Vũ Khắc Khoan và tôi ở toà soạn tuần báo Nghệ Thuật và những kỷ niệm chúng tôi có với thi sĩ thời gian này vẫn là những kỷ niệm vui. Lúc này, thần thái ông ấy không còn được rạng rỡ như mấy năm về trước. Cuộc phiêu bồng qua đời sống của ông kỳ dị và tận cùng hơn. Mái tóc ông đổi màu. Mấy chiếc răng cửa bị gãy, nụ cười trẻ thơ vừa móm mém. Cặp ma-sát sâu hóm xa khuất dần với mọi hình hài thực tế. Những con đường trên đó ông đi, cái túi vải thơ nào, những ngã tư ông ngừng lại, tách thoát với nhân thế, tất cả ở Bùi Giáng phơi hiện dần dần một hủy hoại khô khốc, ấy là tôi chỉ biết nhìn thấy ông một cách “hình hài” như vậy, nhưng “vui thôi mà” thì vẫn là rất vui. Ông vào tòa soạ, ngồi xuống ghế, nhìn mọi người, cười trẻ thơ, thường nói khát quá và xin một chai bia uống. Ông uống từng ngụm nhỏ, nói thích chai bia lớn vì uống được nhiều hơn, châm thuốc hút, những ngón tay vụng về lóng ngóng. Uống cạn chai bia, cái túi vải đeo lên và bỏ đi. Ðó là cái đến cái đi êm ả của Bùi Giáng. Nhiều lần không thế. Ông ra tắm ở cái máy nước trước tòa soạn, thản nhiên trước người qua kẻ lại, quần áo lướt thướt đi qua đường, một đám con nít tròn mắt đi theo. Một lần khác, chúng tôi đi ra ngoài một lát trở về, thấy ông nằm ngủ ngon lành trên hai cái bàn viết kê liền lại. Giấc ngủ dài, quên đời, quên hết, mặc hết, phải đánh thức dậy. Những lần đó, ông ngồi im lặng, bất động, thầm thì “vui thôi mà” rồi lặng lẽ bỏ đi, cái bóng dáng gãy đổ, gầy guộc trong chiều xuống.

Chính là trong cái tình trạng suy nhược đã trầm trọng quá chừng và tiều tụy quà thể này của Bùi Giáng mà chúng tôi bắt đầu cảm thấy quan tâm thực sự đến thi sĩ. Ðến sức khỏe ông, ngày mỗi cạn kiệt. Ðến cách sống ông ngày mỗi tiều tụy. Ðến tâm thức ông, ngày càng bất định. Cuộc vui của ông Bùi Giáng tuyệt vời nhưng chẳng thể phiêu bồng mãi mãi. Phải làm một cái gì về ông. Ðể ghi nhận lại. Về thế nào là cái tiếng thơ trác tuyệt của Bùi Giáng, cõi ngôn ngữõ đạt tới hoang đường kỳ ảo của Bùi Giáng. Trong khi còn gần ông. Trước khi ông chẳng gần, chẳng chịu sống cùng ai nữa.

Số biệt về thiên tài thi ca Bùi Giáng phải chờ đến hơn một năm sau, tờ Nghệ Thuật đình bản, tôi sang trông coi tờ Văn chung với Nguyễn Xuân Hoàng thực hiện được. Cũng nhờ số Văn này mà tôi mới nhìn thấy và hiểu được sự không hiểu của tôi nói ở trên là sự ngược nghịch giữa Bùi Giáng tháng ngày rong chơi với Bùi Giáng mộ tuần lễ cả ngàn câu thơ, cả ngàn trang sách. Số Văn ấy, phần nhận định nhờ Thanh Tâm Tuyền, Ninh Chữ, Tuệ Sỹ, Trần Tuấn Kiệt... viết. Bài phỏng phấn Nguyễn Xuân Hoàng thực hiện. Phần giới thiệu những bài thơ mới nhất là tôi. Chưa biết kiếm tìm Bùi Giáng ở đâu, thi sĩ bất ngờ ghé thăm tòa soạn. Ông ấy chỉ còn là da bọc xương trong quần áo thùng thình, mái tóc dài đạo sĩ, cái túi vải còn thêm cây gậy. Kéo ông ra trước báo quán chụp chung tấm hình làm kỷ niệm rồi tôi hỏi xin ông những bài thơ mới nhất. Ông gật. Tưởng lấy ở túi vải ra. Hoặc nói về lấy, hoặc nói hôm sau. Tất cả đều không đúng. Ông hỏi mượn một cây bút, xin một xấp giấy, một chai bia lớn nữa, đoạn ngồi xuống, và trước sự kinh ngạc cực điểm của chúng tôi, bắt đầu tại chỗ làm thơ. Ông không chép lại thơ đã làm. Ông làm thơ tại chỗ. Lần đầu tiên tôi thấy Bùi Giáng viết, thoăn thoắt, vùn vụt, nhanh không thể tả. Như thơ không thể từ đầu, từ tim chảy xuống, lâu quá, mà ngay từ ngọn bút từ đầu ngón thôi. Làm thơ ứng khẩu, làm thơ tại chỗ, nhiều người cũng làm được. Nhưng là thơ thù tạc, và chỉ năm bảy câu một bài thôi. Bùi Giáng khác. Chai bia còn sủi bọt, ông ngồi viết không ngừng, tự dạng nắm nót chỉnh đốn, chỉ một thôi đã xong hơn hai mươi bài thơ, chúng tôi cầm lên coi, thấy bài thơ nào cũng khác lạ, cũng thật hay, cũng đích thực là từng hạt ngọc của cái thơ thượng thừa Bùi Giáng. Lần đó, tô đã hiểu tại sao Bùi Giáng cừ cánh bướm rong chơi, cứ phiêu bồng lãng du mà vẫn có ngay nghìn câu một buổi. Ðúng là ngủ ra thơ, thở ra thơ, uống la-de, hút thuốc lá ra thơ. Mà thơ không ai sánh bằng, thơ không ai đuổi kịp. Ông uống cạn chai la-de, lập lại ba tiếng bất hủ “vui thôi mà” rồi đứng lên từ biệt.

Mấy tháng cuối cùng trước biến cố 1975, tôi không thấy Bùi Giáng trong đời sống tôi nữa. Chỉ tỉnh thoảng nghe thấy ông vẫn lang thang đây đó, một quán này, một bãi hoang kia, ngủ bất cứ ở đâu, dưới trời sao, ở một gầm cầu, dưới một mái hiên. Có lúc thấy nói ông đeo một xâu chuỗi toàn dày dép và quần áo phụ nữ quanh cổ như một vòng gai quái dị, đám con nít reo hò chỉ trỏ người điên, người điên. Có khi nghe thấy, ông ẩn lánh ở ngôi chùa vùng ngoại vi thành phố, ăn chay niệm Phật cả ngày không nói.

Ở trình trạng này, anh em chúng tôi, những bạn bè một thời thân thiết với Bùi Giáng, từng đã chén thù chén tạc với Bùi Giáng bao lần trên căn gác đường Lý Thái Tổ của nhà xuất bản An Tiêm, nhận sách tặng của Bùi Giáng, ở với ông và trời thơ trác tuyệt của ông, chúng tôi biết chúng tôi chẳng làm gì cho Bùi Giáng được nữa. Chẳng phải bỏ ông. Ông cũng không bỏ. Chỉ là ông đã đi khỏi, đi xa, vào một trời đất khác.

Hai câu thơ hay tuyệt hay vào tập cho tập Mưa Nguồn:

Xin chào nhau giữa con đường

Mùa xuân phía trước, miên trường phía sau

Ðã mang một ý nghĩa khác. Lời chào như một xa cách vĩnh viễn. Một bỏ đi. Một vĩnh viễn. Cái kho tàng chữ nghĩa phong phú vô tận ở đó Bùi Giáng vừa tạo dựng nên cái thế giới ảo huyền của mình vừa phá hủy tan tành cái thế giới ấy, kho tàng ấy thi sĩ không thèm sử dụng nữa, và chúng tôi chẳng còn con đường nào tới được với ông.

(.....)

Bùi Giáng đã đem lại cho cuộc đời biết bao nhiêu châu ngọc. Bằng tài thơ trác tuyệt. Bằng cõi ngôn ngữ ảo diệu, không tiền khoáng hậu. Có ông, thi ca mới đích thực có biển có trời. Từ ấy, thi ca mới không cùng không tận. Ðọc lại Mưa Nguồn, đọc lại Ngàn Thu Rớt Hột, Bài Ca Quần Ðảo, tôi còn muốn bật cười với thơ Bùi Giáng. Vui thôi mà. Ðúng vậy, vui thôi, có khác gì đâu. Mất Bùi Giáng , thơ ta lại trở về với cái hữu hạn đời đời của thơ. Nhiều người bảo ông chỉ là một thằng điên. Tôi chỉ muốn nghĩ thầm cho tôi là nếu có thêm được ít người điên như Bùi Giáng, thơ ca ta văn học ta còn được lạ lùng được kỳ ảo biết bao nhiêu.

MAI THẢO

---o0o---


Source: Đặc San Hợp Lưu ( số 44, tháng 12/1998 tháng 1/1999)




--------------------------------------------------------------------------------

Webmaster:quangduc@quangduc.com Trở về Trang Thơ Ca
Đầu trang




Biên tập nội dung : Tỳ Kheo Thích Nguyên Tạng
Xin gởi bài mới và ý kiến đóng góp cho Trang Nhà qua địa chỉ : quangduc@quangduc.com
Địa chỉ gởi thư: Tu Viện Quảng Đức, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic. 3060. Tel: 61. 03. 9357 3544

Lê Anh Minh - Tóm tắt ngữ pháp Hán ngữ cổ đại

Tóm tắt ngữ pháp Hán ngữ cổ đại

Vietsciences- Lê Anh Minh


PHẦN I – TỔNG QUAN
I. Đặc điểm của từ vựng Hán ngữ cổ đại:

1. Từ cổ đại đa số là đơn âm tiết, từ hiện đại thường là song âm tiết (cũng có một số ít từ đa âm tiết).

Thí dụ (cổ đại / hiện đại):



* Gắn thêm một âm tiết vào trước hoặc sau từ cổ đại (ý nghĩa không đổi):



sư 師 / lão sư 老師 (thầy giáo); di 姨 / a di 阿姨 (dì); trác 桌 / trác tử 桌子 (cái bàn); thạch 石 / thạch đầu 石頭 (đá); nữ 女 / nữ nhi 女兒 (con gái); nguyệt 月 / nguyệt lượng 月亮 (mặt trăng); mi 眉 / mi mao 眉毛 (chân mày); học 學 / học tập 學習 (học); tư 思 / tư khảo 思考 (suy nghĩ); mỹ 美 / mỹ lệ 美麗 (đẹp); nguy 危 / nguy hiểm 危險 (nguy hiểm); v.v...



* Dùng từ khác hẳn (diễn tả cùng một ý nghĩa): Thí dụ

(cổ đại / hiện đại): nhật 日 / thái dương 太陽 (mặt trời); duyệt 悅 / cao hứng 高興 (vui); dịch 弈 / hạ kỳ 下棋 (đánh cờ); quan 冠 / mạo tử 帽子 (cái nón); v.v...



2. Từ cổ có ý nghĩa khác với từ hiện nay:

Thí dụ (cổ đại / hiện đại):

– Địa phương sổ thiên lý 地方數千里 (diện tích vài ngàn dặm / nơi đó [xa] vài ngàn dặm)

– Kỳ thực vị bất đồng 其實味不同 (quả của nó có vị khác / thực tế, vị nó khác)



3. Từ xưa nay không còn dùng: Từ xã tắc 社稷 (ám chỉ quốc gia) nay không còn dùng nữa.



II. Ý nghĩa của từ và phạm vi sử dụng biến đổi từ cổ đại đến hiện đại:

1. Chuyển nghĩa:

Từ khoái 快 nghĩa xưa là «xứng ý, vui thích»; nghĩa nay là «nhanh chóng».

Từ hi sinh 犧牲 nghĩa xưa là «các gia súc (trâu, lợn, dê, ...) đem đi cúng tế»; nghĩa nay là «xả bỏ sinh mạng vì một chính nghĩa hay lý tưởng nào đó».



2. Phạm vi cụ thể sang phạm vi tổng quát:

Từ hà 河 xưa ám chỉ «sông Hoàng Hà», nay chỉ chung chung là «sông».

Từ Trung Quốc 中國 xưa ám chỉ khu vực trung nguyên, nay ám chỉ cả nước Trung Quốc.



3. Phạm vi tổng quát sang phạm vi cụ thể:

Từ cốc 榖 (谷) xưa ám chỉ chung «ngũ cốc», nay ám chỉ «lúa gạo» (đạo cốc 稻穀).



4. Sắc thái tình cảm thay đổi:

Từ khả lân (liên) 可憐 xưa nghĩa là «hết sức khả ái», nay là «đáng thương xót».

Từ tỳ bỉ 卑鄙 xưa nghĩa là «địa vị thấp thỏi, kiến thức hẹp hòi», nay nghĩa là «phẩm chất xấu ác».



III. Hiện tượng giả tá:



Giả tá là rắc rối cố hữu của Hán ngữ cổ đại. Học giả đời Thanh là Du Việt 俞樾 từng nhắc nhở độc giả rằng: «Độc cổ nhân thư, bất ngoại hồ chính cú đậu, thẩm tự nghĩa, thông cổ văn giả tá. Nhi tam giả chi trung, thông giả tá vưu yếu.» 讀古人書不外乎正句讀審字義通古 文假借而三者之中通假借尤要 (Đọc sách người xưa [cần chú ý] không ngoài [ba điều]: Đọc đúng [phạm vi] câu văn [tức là ngắt câu cho đúng bởi cổ văn viết không chấm câu, gọi là bạch văn 白文], tra xét đúng nghĩa chữ, và tinh thông chữ giả tá trong cổ văn. Trong ba điều ấy, tinh thông giả tá là tối quan trọng).



1. Hiện tượng thông giả (mượn dùng thông với):

Nói chung, nếu hai từ có ý nghĩa và âm đọc gần giống nhau thì cổ nhân có thể mượn từ này thay cho từ kia. Thí dụ phản 反 thông với phản 返 , tri 知 thông với trí 智 , v.v... Hiện tượng thông giả đều dựa trên âm đọc, nếu hai từ A và B không liên quan với nhau về âm thanh (âm đọc) thì chúng không phải là thông giả. Đôi khi một từ có thể thông với nhiều từ khác: Từ tịch 辟 (vua, triệu vời, trừng phạt) thông với các từ: tỵ 避 (tránh), tịch 闢 (khai mở, bài trừ), tịch 僻 (không thành thực). Tuỳ theo ngữ cảnh mà ta hiểu và dịch cho đúng.



2. Hiện tượng giả tá (mượn dùng):

Nói chung, nếu hai từ có âm đọc gần giống nhau tuy ý nghĩa khác nhau thì cổ nhân có thể mượn từ này thay cho từ kia.

Thí dụ:

thệ 逝 (chết) là giả tá của thệ 誓 (thề nguyền),

nữ 女 (con gái) là giả tá của nhữ 汝 (mi, ngươi),

thuyết 說 (nói) là giả tá của duyệt 悅 (vui vẻ), v.v...



Nếu A là giả tá của B thì ta đọc câu văn với ý nghĩa của B.

Thí dụ: Hữu bằng tự viễn phương lai bất duyệt diệc hồ? 有朋自遠方來不說亦乎 (Có bạn từ phương xa đến chẳng phải là không vui hay sao?). Ở đây chữ 說 phải đọc là duyệt, không đọc là thuyết.

Do hiện tượng giả tá này, khi đọc Hán ngữ cổ đại ta phải dùng từ điển Hán ngữ cổ đại, thì may ra mới hiểu đúng văn bản.



IV. Hiện tượng từ đa âm đa nghĩa:


Một từ có thể đa âm và đa nghĩa. Đây là hiện tượng chung của các ngôn ngữ, không riêng gì Hán ngữ cổ đại hay hiện đại. Thí dụ từ 數 có hai âm Hán Việt là «số» và «sổ», về Hán âm thì có 4 âm: /shù/ (số đếm; số lượng; vài lần; tướng số, thuật số; phương thuật, đạo thuật; số mệnh), /shǔ/ (liệt kê; kể lể tội lỗi), /shuò/ (lớp lang, tầng lớp), /cù/ (nhỏ nhặt kín đáo).



V. Sự hoạt dụng:


Hoạt dụng là sự biến đổi ý nghĩa của một từ theo chức năng của nó trong ngữ cảnh cụ thể, thông thường là sự chuyển từ loại (như danh từ sang động từ, v.v...). Ý nghĩa của từ biến đổi, nhưng hiện tượng này khác với hiện tượng từ đa âm đa nghĩa.



1. Hoạt dụng của danh từ:


Danh từ nhận 刃 (mũi dao) thành động từ (đâm chết ai, giết ai bằng dao). Thí dụ: Tả hữu dục nhận Tương Như. 左右欲 刃 相如 (Quân sĩ bên trái và bên phải muốn đâm chết Tương Như.)



* Danh từ biến thành động từ với cách dùng «sử động»:

Danh từ tướng 將 (tướng quân) biến thành động từ (làm tướng, phong làm tướng) trong thí dụ: Tề Uy vương dục tướng Tôn Tẫn. 齊威王欲 將 孫臏 (Vua Uy nước Tề muốn phong Tôn Tẫn làm tướng.)



* Danh từ biến thành động từ với cách dùng «ý động»:

Danh từ khách 客 (người khách) biến thành động từ (đối đãi như khách) trong thí dụ: Mạnh Thường Quân khách ngã. 孟嘗君 客 我 (Mạnh Thường Quân xem ta là khách.)



2. Hoạt dụng của tính từ:


* Tính từ biến thành động từ với cách dùng «sử động»:

Tính từ phú quý 富貴 (giàu sang) biến thành động từ (làm cho giàu sang) trong thí dụ: Năng phú quý tướng quân giả, thượng dã. 能 富貴 將軍者上也 (Người có thể làm cho tướng quân giàu sang chính là hoàng thượng đó.)



* Tính từ biến thành động từ với cách dùng «ý động»:

Tính từ dị 異 (khác lạ) biến thành động từ (thấy cái gì lạ lùng đáng kinh ngạc) trong thí dụ: Ngư nhân thậm dị chi. 漁人甚 異 之 (Ông chài rất kinh ngạc về nó.)



VI. Sử động & ý động dụng pháp:


Khái niệm «sử động» 使動 và «ý động» 意動 được nêu ra lần đầu kể từ năm 1922, trong Quốc Văn Pháp Thảo Sáng 國文法草創 của Trần Thừa Trạch 陳承澤 (bấy giờ ông dùng thuật ngữ «trí động» 致動 và «ý động» 意動 ). Ngay sau đó giới nghiên cứu ngữ pháp của Trung Quốc nhanh chóng công nhận hai khái niệm «sử động» (hay «trí động») và «ý động» này. Cách dùng «sử động» và «ý động» rất thường thấy trong Hán ngữ cổ đại. Thực chất, sử động và ý động là sự hoạt dụng (dùng linh hoạt) của danh từ, tính từ, và động từ tác động vào một tân ngữ kế sau nó. Sử động (giống như causative form của tiếng Anh) ngụ ý «khiến cho ai/cái gì trở nên thế nào/ra sao». Còn ý động là sự hoạt dụng (=chuyển từ loại) biến danh từ hay tính từ trở thành động từ, tác động vào tân ngữ kế sau nó, ngụ ý «xem nó /là gì/như thế nào/ra sao». Động từ không có ý động dụng pháp.



1. Sử động dụng pháp:


a/ Sử động của động từ:



– Động từ ẩm 飲 (uống) trở thành «mời ai uống» (đọc là ấm).

Thí dụ: Tấn hầu ấm Triệu Thuẫn tửu. 晉侯 飲 趙盾酒 (Tấn hầu mời Triệu Thuẫn uống rượu.)



– Động từ thực 食 (ăn) trở thành «cho ai ăn» (đọc là tự).

Động từ kiến 見 (thấy) trở thành «làm cho ai thấy; sai ai ra trình diện» (đọc là hiện).

Thí dụ: Chỉ Tử Lộ túc, sát kê vi thử nhi tự chi, hiện kỳ nhị tử yên. 止子路宿, 殺雞為黍而 食 之, 見 其二子焉 ([Ông ta] giữ Tử Lộ ở lại nghỉ qua đêm, giết gà làm cơm thết đãi, rồi sai hai đứa con của mình ra trình diện Tử Lộ.)



– Động từ hoạt 活 (sống) trở thành «làm cho ai sống».

Thí dụ: Hạng Bá sát nhân, thần hoạt chi. 項伯殺人, 臣 活 之 (Hạng Bá giết người, thần làm cho kẻ đó sống lại.)


b/ Sử động của danh từ:

Nói chung, danh từ biến thành động từ trong sử động dụng pháp.

– Danh từ sinh 生 (sự sống) trở thành động từ (làm cho sống, làm sống lại).

Danh từ nhục 肉 (thịt) biến thành động từ (bồi đắp thịt).

Thí dụ: Tiên sinh chi ân, sinh tử nhi nhục cốt dã. 先生之恩, 生 死而 肉 骨也 (Ân đức của ngài quả là làm cho kẻ chết sống lại và làm cho xương khô được bồi đắp thịt trở lại.)



c/ Sử động của tính từ:

Nói chung, tính từ biến thành động từ trong sử động dụng pháp.



– Tính từ lục 綠 (xanh lá cây) trở thành động từ (làm cho xanh).

Thí dụ: Xuân phong hựu lục giang nam ngạn. 春風又 綠 江南岸 (Gió xuân khiến cho bờ sông phía nam thêm xanh.)



– Tính từ nhược 弱 (yếu) trở thành động từ (làm cho yếu).

Thí dụ: Chư hầu khủng cụ, hội minh nhi mưu nhược Tần. 諸侯恐懼會盟而謀 弱 秦 (Các nước chư hầu sợ hãi, bèn hợp lại, liên minh mưu tính làm suy yếu nước Tần.)



2. Ý động dụng pháp:


a/ Ý động của danh từ:

– Danh từ khách 客 (người khách) biến thành động từ (đối đãi như khách, xem là khách).

Thí dụ: Mạnh Thường Quân khách ngã. 孟嘗君 客 我 (Mạnh Thường Quân xem ta là khách.)



b/ Ý động của tính từ:



– Tính từ dị 異 (khác lạ) biến thành động từ (thấy cái gì lạ lùng đáng kinh ngạc).

Thí dụ: Ngư nhân thậm dị chi. 漁人甚 異 之 (Ông chài thấy nó rất lạ lùng.)



– Tính từ tiểu 小 (nhỏ) biến thành động từ (thấy cái gì nhỏ bé).

Thí dụ: Khổng Tử đăng Đông sơn nhi tiểu Lỗ, đăng Thái sơn nhi tiểu thiên hạ. 孔子登東山而 小 魯, 登泰山而 小 天下 (Khổng Tử lên núi Đông thì thấy nước Lỗ nhỏ bé, lên núi Thái thì thấy thiên hạ nhỏ bé.)



– Tính từ nhược 弱 (yếu) biến thành động từ (xem cái gì là yếu);

tính từ viễn 遠(xa) biến thành động từ (xem cái gì là xa).

Thí dụ: Lỗ nhược Tấn nhi viễn Ngô. 魯 弱 晉而 遠 吳 (Nước Lỗ thấy nước Tấn là suy yếu và thấy nước Ngô là ở xa.)



Chú ý (I): Tính từ được dùng theo sử động hay ý động là tuỳ theo ngữ cảnh. Sự phân biệt này khá tinh tế, bởi vì cấu trúc của cả hai đều là «tính từ (dùng như động từ) + tân ngữ». Nói chung, với sử động dụng pháp, tính từ biến thành động từ tác động vào tân ngữ, khiến nó như thế nào. Còn ý động dụng pháp ngụ ý một sự nhận định (đánh giá/nhận xét) của chủ ngữ đối với tân ngữ. Do đó nó mang tính chủ quan.



* Thí dụ 1:

Viễn 遠 + tân ngữ.

(a) Theo sử động dụng pháp là «cách xa ra».

Thí dụ: Kính quỷ thần nhi viễn chi 敬鬼神而遠之 (Kính quỷ thần nhưng cách xa họ ra).

(b) Theo ý động dụng pháp là «nhận thấy xa xôi».

Thí dụ: Lỗ nhược Tấn nhi viễn Ngô. 魯 弱 晉而 遠 吳 (Nước Lỗ thấy nước Tấn là suy yếu và thấy nước Ngô là ở xa.)



* Thí dụ 2:

Mỹ 美 + tân ngữ.

(a) Theo sử động dụng pháp là «làm cho tốt đẹp».

Thí dụ: Quân tử chi học dã dĩ mỹ kỳ thân. 君子之學也以美其身 (Cái học của người quân tử là để làm cho bản thân mình trở nên tốt đẹp.)

(b) Theo ý động dụng pháp là «xem là tốt đẹp».

Thí dụ: Ngô thê chi mỹ ngã giả, tư ngã dã; ngô thiếp chi mỹ ngã giả, úy ngã dã; khách chi mỹ ngã giả, dục hữu cầu vu ngã dã. 吾妻之美我者私我也; 吾妾之美我者畏我也; 客之美我者欲有求于我也 (Vợ ta xem ta là tốt đẹp, ấy là lòng riêng tư đối với ta; thiếp ta xem ta là tốt đẹp, ấy là vì sợ ta; khách xem ta là tốt đẹp, ấy là muốn cầu cạnh ở ta.)



Chú ý (II):

Sự khác biệt giữa ý động của tính từ và ý động của danh từ ở chỗ:

(a) «tính từ (dùng như động từ) + tân ngữ» = xem tân ngữ là thế nào [tính từ].

Thí dụ: Ngô thê chi mỹ ngã giả, tư ngã dã. 吾妻之 美 我者私我也 (Vợ ta xem ta là tốt đẹp, ấy là lòng riêng tư đối với ta.)

(b) «danh từ (dùng như động từ) + tân ngữ» = xem tân ngữ là cái gì [danh từ].

Thí dụ: Mạnh Thường Quân khách ngã. 孟嘗君 客 我 (Mạnh Thường Quân xem ta là khách.)



VII. Bị động dụng pháp:

1. Dùng «kiến» 見 trước động từ:



– Nhân giai dĩ kiến vũ vi nhục, cố đấu dã. 人皆以 見侮 為辱故鬥也 (Người ta đều xem việc bị khinh bỉ là cái nhục, cho nên họ mới đánh nhau.)



2. Dùng «ư» 於 (= «vu» 于) sau động từ:

– Quân hạnh ư Triệu vương. 君幸 於 趙王 (Ngài được vua Triệu sủng ái.)

– Khích Khắc thương ư thỉ, lưu huyết cập lũ. 郤克 傷於 矢流血及屨 (Khích Khắc bị trúng tên [thọ thương], máu chảy xuống giầy.)



3. Dùng cả «kiến» 見 và «ư» 於 (= «vu» 于):

– Ngô trường kiến tiếu ư đại phương chi gia. 吾長 見笑於 大方之家 (Tôi ắt sẽ bị mọi người chê cười mãi.)

– Nhiên nhi công bất kiến tín ư nhân, tư bất kiến trợ ư hữu. 然而公不 見信於 人私不 見助於 友 (Thế mà về mặt công thì không được người ta tin cậy, về mặt tư thì không được bạn bè giúp đỡ.)



4. Dùng «vi» 為 :

– Phụ mẫu tông tộc giai vi lục một. 父母宗族皆 為戮沒 (Cha mẹ và họ hàng [của kẻ ấy] đều bị giết sạch.)

– Thân vi Tống quốc tiếu. 身為宋國笑 (Bản thân bị nước Tống cười chê.)



5. Dùng kết cấu «vi為 + tác nhân + sở 所 + động từ »:

– Vi địch nhân sở sát. 為敵人所殺 (Bị kẻ địch giết.)



6. Dùng «bị» 被 trước động từ:

– Tín nhi kiến nghi, trung nhi bị báng, năng vô oán hồ? 信而見疑忠而被謗能無怨乎 (Chân thành thì bị nghi ngờ, trung thành thì bị sàm báng, sao mà không oán cho được?) [Chú: kiến nghi cũng là dạng bị động]



Chú ý: Cấu trúc bị động với chữ «bị» bắt đầu được dùng kể từ cuối đời Chiến Quốc.



VIII. Các dụng pháp khác:


Sử động, ý động, và bị động là ba dụng pháp được giải thích trong hầu hết các sách hiện nay về ngữ pháp Hán ngữ cổ đại. Còn vài dụng pháp khác ít được bàn đến:



1. Vị động 為動 dụng pháp:



– Bá Di tử danh vu Thủ Dương sơn hạ, Đạo Chích tử lợi vu Đông Lăng chi thượng. 伯夷 死名 于首陽山下, 盜跖 死利 于東陵之上 (Bá Di chết vì danh nơi chân núi Thủ Dương, Đạo Chích chết vì lợi trên gò Đông Lăng.)

– Ngô phi bi nguyệt dã. 吾非 悲刖也 (Ta chẳng phải vì hình phạt chặt chân mà buồn.)



2. Đối động 對動dụng pháp:

– Toại trí Khang thị vu Thành Dĩnh nhi thệ chi viết: Bất cập Hoàng Tuyền vô tương kiến dã. 遂寘姜氏于城潁而 誓之 曰: 不及黃泉無相見也 (Bèn an trí Khang thị tại Thành Dĩnh rồi đối mặt mà thề rằng: Chừng nào đến Suối Vàng thì mới gặp nhau.)

– Dĩ sự Tần chi tâm lễ thiên hạ chi kỳ tài. 以事秦之心 禮 天下之奇才 (Lấy lòng phụng sự nước Tần mà thi lễ đối với bậc kỳ tài trong thiên hạ.)



3. Dữ động 與動 (= cấp động 給動) dụng pháp:

– Chu lương Hàn Tần. 周糧 韓秦 (Nước Chu cung cấp lương thực cho nước Hàn và nước Tần.)

– Hữu nhất mẫu kiến Tín cơ, phạn Tín, cánh phiếu sổ thập nhật. 有一母見信饑 飯信, 竟漂數十日 (Có bà lão thấy Hàn Tín đói, bèn đem cơm cho Tín ăn; rồi giặt giùm y phục vài mươi ngày.)

– Y thực cơ hàn giả, từ phụ chi đạo dã. 衣食 饑寒者 慈父之道也 (Tặng cơm áo cho kẻ đói lạnh, đó là đạo lý của bậc cha hiền.)



4. Nhân động 因動 dụng pháp:

– Cật triêu nhĩ xạ, tử nghệ. 詰朝爾射, 死藝 (Đến sáng mai khi ngươi bắn tên, do nghề bắn giỏi mà bị chết đấy.)

– Đông noãn nhi nhi hào hàn, niên phong nhi thê đề cơ. 冬暖而兒號寒年丰而妻啼飢 (Mùa đông ấm mà con kêu gào vì lạnh, năm được mùa mà vợ khóc vì đói.)



PHẦN II – CẤU TRÚC CƠ BẢN
I. Câu đơn



1. Câu phán đoán



a/ «... 者, ... 也 ».

Thí dụ: Liêm Pha giả, Triệu chi lương tướng dã. 廉頗者, 趙之良將也 (Liêm Pha là tướng giỏi của nước Triệu.)

Biến thể: Hoặc lược bỏ 者 và 也. Thí dụ: Tuân Khanh, Triệu nhân. 荀卿, 趙人 (Tuân Khanh là người nước Triệu.) = Tuân Khanh giả, Triệu nhân dã. 荀卿者, 趙也.



b/ «... 也 ».

Thí dụ: Thử Đông Hải dã. 此東海也 (Đây là Đông Hải.)



c/ «... 為 ... ».

Thí dụ: Dân vi quý, quân vi khinh. 民為貴,君為輕 (Dân thì quý, vua thì nhẹ.)



d/ «... 曰 ... ».

Thí dụ: Ấu nhi vô phụ viết cô. 幼而無父曰孤 (Nhỏ dại không cha gọi là mồ côi.)



e/ «... 是 ... ».

Thí dụ: Cự thị phàm nhân. 巨是凡人 (Cự là kẻ tầm thường.)



f/ «... 則 ... ».

Thí dụ: Thử tắc Nhạc Dương Lâu chi đại quan dã. 此則岳陽樓之大觀也 (Chỗ này ắt là nơi có thể quan sát rộng khắp của lầu Nhạc Dương.)



g/ «... 即 ... ».

Thí dụ: Lương phụ tức Sở tướng Hạng Yến. 梁父即楚將項燕 (Cha của Lương tức là tướng Hạng Yến của nước Sở.)



h/ «... 乃 ... ».

Thí dụ: Đương lập giả nãi công tử Phù Tô. 當立者乃公子扶蘇 (Người đáng lập là công tử Phù Tô.)



i/ «... 非 ... ».

Thí dụ: Nhân phi thảo mộc. 人非草木 (Người đâu phải là cây cỏ.)



j/ «... 匪 ... ».

Thí dụ: Ngã tâm phỉ thạch. 我心匪石 (Lòng ta nào phải là đá.)


2. Câu trần thuật



a/ «Chủ ngữ + động từ».

Thí dụ: Hạng Vương nộ. 項王怒 (Hạng Vương nổi giận.)



b/ «Chủ ngữ + động từ+ tân ngữ».

Thí dụ: Điền Trung hữu châu. 田中有珠 (Điền Trung có ngọc châu.)



c/ «Chủ ngữ + động từ+ tân ngữ gián tiếp (: người) + tân ngữ trực tiếp (: vật)».

Thí dụ: Từ giả tứ kỳ xá nhân chi tửu. 祠者賜其舍人卮酒 (Người cúng tế tặng cho môn khách của mình một nậm rượu.)



d/ «Chủ ngữ + động từ 1+ kiêm ngữ + động từ 2 + tân ngữ». (Kiêm ngữ = thành phần vừa là tân ngữ của động từ 1 vừa là chủ ngữ động từ 2.)

Thí dụ: Đế mệnh Khoa Nga thị nhị tử phụ nhị sơn. 帝命夸娥氏二子負二山 (Vua ra lệnh hai con của Khoa Nga vác hai quả núi.) – Tần vương bái Lý Tư vi khách khanh. 秦王拜李斯為客卿 (Vua Tần cho Lý Tư làm khách khanh.)



e/ «Chủ ngữ + động từ 1+ tân ngữ 1 + 而 + động từ 2 + tân ngữ 2».

Thí dụ: Tống nhân / thích kỳ lỗi / nhi / thủ chu. 宋人 釋其耒 而 守株 (Người nước Tống đã vất bỏ cày của mình mà ôm gốc cây.)



f/ «Chủ ngữ + 不如 (=不若) + tân ngữ».

Thí dụ: Từ Công / bất nhược / quân chi mỹ. 徐公 不若 君之美 (Từ Công không đẹp như ngài.)



g/ «cấu trúc bị động».

Xem lại các thí dụ ở mục IX trên đây.



3. Câu miêu tả

a/ «Chủ ngữ + tính từ».

Thí dụ: Tấn cường. 晉強 (Nước Tấn mạnh.)



b/ «Chủ ngữ + tính từ 1 + 而 + tính từ 2».

Thí dụ: Vệ nhược nhi bần. 衛弱而貧 (Nước Vệ yếu và nghèo.)



c/ «Chủ ngữ + tính từ 1 + 且 + tính từ 2».

Thí dụ: Lão nông chi thê tật thả hãn. 老農之妻嫉且悍 (Vợ lão nông phu kia đã ghen ghét mà còn hung dữ.)



d/ «Chủ ngữ + số từ».

Thí dụ: Hậu cung giai lệ tam thiên. 後宮佳麗三千(Người đẹp trong hậu cung có 3000 người.)



4. Câu hỏi



a/ «Chủ ngữ + danh từ + 歟 ».

Thí dụ: Phu tử thánh giả dư? 夫子聖者歟 (Phu tử là bậc thánh chăng?)



b/ « 孰 (= 誰) + 能...».

Thí dụ: Thục năng vô hoặc? 孰能無惑 (Ai mà không có điều nghi hoặc?)



c/ « A 與 B+ 孰 + tính từ» = « A 孰與 B + tính từ».

Thí dụ: Ngô dữ Từ Công thục mỹ ? 吾與徐公孰美 [= Ngô thục dữ Từ Công mỹ? 吾孰與徐公美] (Ta với Từ Công ai đẹp hơn?)



d/ «... 何也 ».

Thí dụ: Kim tử hữu ưu sắc, hà dã? 今子有憂色, 何也 (Nay ngài có vẻ lo âu, sao thế?)



e/ «Chủ ngữ + 不亦 + tính từ + 乎 ».

Thí dụ: Hữu bằng tự viễn phương lai bất diệc duyệt hồ? 有朋自遠方來不亦說乎 (Có bạn từ phương xa đến chẳng là vui sao?)



f/ « 豈 ».

Thí dụ: Khởi hữu thử lý? 豈有此理 (Lẽ nào có cái lý ấy?)



g/ « 胡 ».

Thí dụ: Hồ bất quy? 胡不歸 (Sao chẳng quay về đi?)



h/ « 安 ».

Thí dụ: Ngô an vãng nhi bất lạc? 吾安往而不樂 (Ta đi đâu mà chẳng thấy vui?) – Binh bần dân khổ, ngô an khả độc lạc? 兵貧民苦吾安可獨樂 (Binh nghèo dân khổ, làm sao ta có thể vui sướng riêng một mình cho được?)



i/ « 盍 ».

Thí dụ: Hạp các ngôn nhĩ chí? 盍各言爾志 (Mỗi người trong các anh sao chẳng nói lên chí hướng của mình đi?)



5. Câu phủ định

a/ « 不 / 弗 + động từ/tính từ ».



Thí dụ: Đắc chi tắc sinh, phất đắc tắc tử. 得之則生弗得則死 (Được nó thì sống, không được nó thì chết.)

Chú ý: «Bất» và «phất» dùng thông với nhau. Kể từ đời Hán Chiêu Đế 漢昭帝 (Lưu Phất Lăng 劉弗陵, 86-74 tcn), do kỵ huý, «phất» bị thay thế bằng «bất».



b/ « 毋 / 無 / 勿 / 莫 / 休 » (ngăn cản/cấm đoán).

Thí dụ: Đại vô xâm tiểu. 大毋侵小 (Nước lớn chớ xâm lược nước nhỏ.) – Vô vọng ngôn. 毋妄言 (Chớ nói càn.) – Khuyến quân hưu thán hận. 勸君休嘆恨 (Xin ông đừng than thở oán hận.) – Mạc sầu tiền lộ vô tri kỷ. 莫愁前路無知己 (Chớ buồn nẻo trước không tri kỷ.) – Dĩ vãng sự vật truy tư, vị lai sự vật nghinh tưởng, hiện tại sự vật lưu niệm. 已往事勿追思, 未來事勿迎想, 現在事勿留念 (Việc đã qua chớ truy cứu nữa, chuyện mai sau chớ đón trước mà nghĩ ngợi; việc hiện tại chớ lưu lại làm kỷ niệm.).



c/ « 未 / 未嘗 ... » (chưa/ chưa từng).

Thí dụ: Kiến ngưu vị kiến dương dã. 見牛未見羊也 (Anh đã thấy trâu chứ chưa thấy dê.)



d/ « 非 / 匪 + danh từ ».

Thí dụ: Tử phi ngư an tri ngư chi lạc? 子非魚安知魚之樂 (Ông chẳng phải là cá, sao biết được niềm vui của cá?)



e/ « 亡 ».

Thí dụ: Nhân giai hữu huynh đệ, ngã độc vong. 人皆有兄弟我獨亡 (Ai cũng có anh em, riêng ta thì không.) – Vấn hữu dư, viết vong hĩ. 問有餘曰亡矣 (Hỏi có dư không, thì trả lời là không.)



f/ « 否 ».

Thí dụ: Phàm thử ẩm tửu, hoặc túy hoặc phủ. 凡此飲酒或醉或否 (Lần đó uống rượu, có người say, có người không say.) – Như thử tắc động tâm phủ hồ? 如此則動心否乎 (Nếu thế nó có làm động tâm của ngài không?) – Tri khả phủ, tri dã. 知可否知也 (Biết điều có thể và điều không thể, đó là biết vậy.)



f/ « 靡 ».

Thí dụ: Thiên mệnh mỵ thường. 天命靡常 (Mệnh trời không cố định.)



6. Câu cầu khiến

a/ Câu phát biểu ngụ ý cầu khiến.

Thí dụ: Tử vị ngã vấn Mạnh Tử. 子為我問孟子 (Xin ngài hỏi Mạnh Tử giùm tôi.)



b/ « 請 ... ».

Thí dụ: Vương thỉnh độ chi. 王請度之 (Xin nhà vua hãy đo đạc nó.) «Thỉnh» có thể đi với ngôi thứ nhất: Thần thỉnh vị vương ngôn nhạc. 臣請為王言樂 (Cho phép thần vì bệ hạ mà nói về âm nhạc.)



c/ Dùng « 毋 / 無 / 勿 / 莫 / 休 » để tỏ sự ngăn cản / cấm đoán.

(Xem các thí dụ ở mục 5b ngay trên đây.)



II. Câu phức

1. Câu ghép.



Ghép hai câu đồng đẳng (ngang hàng), ngụ ý «và», «hoặc/hay», «nhưng/mà». Thí dụ:

– Nhậm trọng nhi đạo viễn. 任重而道遠 (Trách nhiệm nặng nề mà đường thì xa.)

– Sự Tề hồ, sự Sở hồ? 事齊乎事楚乎 (Phục vụ cho nước Tề hay nước Sở?)



2. Câu chính-phụ.

Ghép hai câu có quan hệ «chính-phụ». Câu chính mang ý chính, câu phụ diễn tả: sự nhượng bộ (tương phản), nguyên nhân, điều kiện, ...



a/ Câu phụ chỉ nhượng bộ.

Dùng các chữ « 雖 / 縱 » trong câu phụ chỉ nhượng bộ. Thí dụ:

– Tuy Nghiêu, Thuấn. Vũ, Thang phục sinh, phất năng cải dĩ. 雖堯舜禹湯復生, 弗能改已 (Dù cho Nghiêu Thuấn, Vũ, Thang có sống lại cũng không thay đổi được gì.)



b/ Câu phụ chỉ nhân quả.

Câu chính (chỉ kết quả) mở đầu là « 故 / 是以 / 是故 ». Thí dụ:

– Phù duy bất tranh, cố thiên hạ mạc dữ tranh. 夫唯不爭, 故天下莫與爭 (Vì ta không tranh với ai nên thiên hạ không tranh với ta.)

– Kỳ ngôn bất nhượng, thị cố thẩn chi. 其言不讓, 是故哂之 (Lời lẽ hắn không khiêm nhường, nên ta mỉm cười hắn.)



c/ Câu phụ chỉ điều kiện.

Dùng các chữ « 苟 / 若 / 如 / 使 /非 » trong câu phụ chỉ điều kiện. Thí dụ:

– Cẩu vô dân, hà dĩ hữu quân. 苟 無民何以有君 (Nếu không có dân, có vua để làm gì?)

– Cẩu hữu dụng ngã giả, kỳ nguyệt nhi dĩ khả dã. 苟有用我者, 期月而已可也 (Nếu có ai dùng ta, ắt trong một tháng việc này sẽ xong.)

– Sử nhân bất dục sinh, bất ố tử, tắc bất khả đắc nhi chế dã. 使人不欲生不惡死則不可得而制也 (Nếu dân không ham sống và không sợ chết, thì không thể nào khống chế được họ.)

– Phi ngã tộc loại, kỳ tâm tất dị. 非我族類其心必異 (Nếu không cùng tộc loại với ta, lòng dạ của họ ắt sẽ khác đi.)



Sách tham khảo

1. Điền Thụy Quyên 田瑞娟 & Trương Liên Vinh 張聯榮, Văn Ngôn Văn Yếu Lãm 文言文要覽, Bắc Kinh Đại học xbx 北京大學出版社, 1988.

2. Lưu Cảnh Nông 劉景農, Hán Ngữ Văn Ngôn Ngữ Pháp 漢語文言語法. Trung Hoa Thư Cục 中華書局, 1994.

3. Lý‎‎ Lâm 李林, Cổ đại Hán Ngữ Ngữ Pháp Phân Tích 古代漢語語法分析, Trung Quốc Xã hội Khoa học xbx 中國社會科學出版社, 1996.

4. Thân Tiểu Long 申小龍, Trung Quốc Cú Hình Văn Hoá 中國句型文化, Đông Bắc Sư phạm Đại học xbx 東北師範大學出版社, Cát Lâm 吉林, 1988.

5. Trần Cao Xuân 陳高春 (chủ biên), Thực Dụng Hán Ngữ Ngữ Pháp Đại Từ Điển 實用漢語語法大辭典, Chức Công Giáo Dục xbx 職工教育出版社, Bắc Kinh 北京, 1989.

6. Christoph Harbsmeier, Aspects of Classical Chinese Syntax, Curzon Press, Denmark, 1981.

7. Edwin G. Pulleyblank, Outline of Classical Chinese Grammar, UBC Press, Vancouver, 2000.

8. Gregory Chiang, Language of the Dragon – A Classical Chinese Reader, Vol 1, Cheng&Tsui Company, USA, 1998.

9. Harold Shadick & Ch’iao Chien, A First Course in Literary Chinese, Vol 1, Cornell University Press, 1992.

10. Michael A. Fuller, An Introduction to Literary Chinese, Harvard University Press, 1999.




© http://vietsciences.org và http://vietsciences.free.fr Lê Anh Minh

31/1/10

Sonnet, imité de l'italien

Hàn Thuỷ

làm lại từ đầu là điều bất khả, vậy chỉ có thể dựa trên bản của Khái Hưng mà võ vẽ thêm...




Sonnet, imité de l'italien



Félix Arvers



Đầu năm khai bút : Tại hạ, tuy ít có duyên với thơ, mỗi đầu năm cũng cố khai bút dịch một bài, gọi là học lấy cái đẹp trên đời này để được may mắn. Gần đây nhân đọc thấy trong một buổi tọa đàm về dịch thuật, có người nhắc đến bài thơ "Sonnet d'Arvers", nên tại hạ đã tò mò tìm xem và so với các bản dịch đọc được trên mạng. Bài này là một thí dụ điển hình cho việc dịch thơ, đã có đến ba bốn bản dịch tiếng Việt, và quả thực theo thiển ý bản dịch của Khái Hưng là tài hoa nhất. Bài mà ông đặt tên "Tình tuyệt vọng" này rất nổi tiếng ở VN thời Tự Lực Văn Đoàn, và bọn thanh niên mới lớn chúng tôi ở miền Nam đứa nào chẳng có lần bi bô "lòng ta chôn một mối tình...". Ấy là trước khi thời cuộc đổ xuống đầu bao nỗi đau khác từ đầu những năm 60... Người ta đã cho là Felix Arvers thành danh trong lịch sử văn học chỉ với một bài thơ, và phải nói bản dịch Khái Hưng ở Việt Nam cũng đã nổi tiếng như nguyên tác trên đất Pháp trong thế kỷ 19.

Tuy nhiên khi so với bản chính thấy Khái Hưng đã lược bớt một số ý và thêm vào môt số ý khác. Điều đó là tự nhiên. Nhưng cũng chính vì thế bậc tiền bối đã để lại cho kẻ hậu sinh một cơ hội học tập, có thể có một bản dịch sát nghĩa hơn mà vẫn giữ cái nhuần nhuyễn của bản dịch Khái Hưng chăng? Với tại hạ thì làm lại từ đầu là điều bất khả, vậy chỉ có thể dựa trên bản của Khái Hưng mà võ vẽ thêm. Mong được lượng thứ.

Dưới đây là nguyên tác, bản dịch nghĩa, bản dịch của Khái Hưng, và vài đề nghị sửa đổi nhỏ cho sát với nguyên tác hơn.

Hàn Thuỷ


Nguyên bản tiếng Pháp
(không có tựa)

Mon âme a son secret, ma vie a son mystère,
Un amour éternel en un moment conçu :
Le mal est sans espoir, aussi j'ai dû le taire,
Et celle qui l'a fait n'en a jamais rien su.

Dịch nghĩa

Tâm hồn tôi có điều sâu kín, đời tôi có sự bí mật
Một mối tình vĩnh cửu đã nảy sinh trong chốc lát :
Nỗi đau này không hy vọng, nên phải câm nín
Và người đã gây ra nó không hề biết

Hélas ! j'aurai passé près d'elle inaperçu,
Toujours à ses côtés, et pourtant solitaire.
Et j'aurai jusqu'au bout fait mon temps sur la terre,
N'osant rien demander et n'ayant rien reçu.
Than ôi ! tôi đi qua gần nàng mà nàng không để ý,
Luôn ở bên cạnh nàng mà vẫn lẻ loi.
Và tôi vẫn sẽ đi hết đời mình trên quả đất,
mà không dám cầu xin gì cũng như không nhận được gì

Pour elle, quoique Dieu l'ait faite douce et tendre,
Elle ira son chemin, distraite et sans entendre
Ce murmure d'amour élevé sur ses pas.
Về phần nàng, dù Thượng đế đã ban cho tính hiền thục và dịu dàng,
Nàng sẽ đi con đường của mình, lơ đãng và không nghe thấy
Lời thì thầm của tình yêu vọng lên từ dưới chân

A l'austère devoir, pieusement fidèle,
Elle dira, lisant ces vers tout remplis d'elle :
« Quelle est donc cette femme ? » et ne comprendra pas.


Với một bổn phận khắc khổ, sự chung thuỷ đạo hạnh,
Khi đọc những dòng này, mà toàn thể nói về nàng, nàng sẽ hỏi:
"Người phụ nữ nào đó vậy ?" và sẽ không thể hiểu ra.


Tình tuyệt vọng (*)



Lòng ta chôn một mối tình
Tình trong giây phút mà thành thiên thâu
Tình tuyệt vọng nỗi thảm sầu
Mà người gieo thảm như hầu không hay

Hỡi ơi! người đó ta đây
Sao ta thui thủi đêm ngày chiếc thân?
Dẫu ta đi trọn đường trần,
Chuyện riêng dễ dám một lần hé môi?

Người dù ngọc nói hoa cười
Nhìn ta như thể nhìn người không quen
Đường đời lặng lẽ bước tiên
Ngờ đâu chân đạp lên trên khối tình

Một niềm tiết liệt đoan trinh
Xem thơ nào biết có mình ở trong
Lạnh lùng lòng sẽ hỏi lòng
Người đâu tả ở mấy dòng thơ đây?



Bản dịch Khái Hưng






Tình tuyệt vọng



Lòng ta chôn một khối tình,
Tình trong giây phút mà thành thiên thâu :
Tình tuyệt vọng, giấu nỗi sầu,
Mà người gieo thảm vẫn hầu không hay.

Hỡi ơi, người đó ta đây,
Bên ai hờ hững, ai hoài chiếc thân.
Dẫu ta đi trọn đường trần,
Không gì trao nhận, không lần hé môi .

Nhu hoà dẫu sẵn nết trời,
Tấm lòng đã định, đường đời an nhiên.
Gót hài lơ đãng bước quên,
Dưới chân xào xạc vọng lên mối tình.

Một niềm tiết liệt đoan trinh,
Xem thơ nào biết là mình đấy thôi.
Bâng khuâng mới hỏi một lời,
Mấy dòng thơ ấy, nói người nào đây?



Bản đề nghị của Hàn Thuỷ,
dựa trên bản Khái Hưng
(*) Thật đáng tiếc trên mạng lưu hành quá nhiều dị bản. Bài này chúng tôi sao lại từ bản của Duy Lam :
http://saigontimesusa.com/bai/vanchuong/tainangdadang.shtml, trừ hai chỗ: "truyện riêng" xin viết lại thành "chuyện riêng", và "giòng thơ" thành "dòng thơ", cho hợp chính tả hiện nay. Chúng tôi vô cùng đa tạ bạn đọc nào, nếu có được bài thơ này (trong truyện ngắn "tình tuyệt vọng") trên bản in đầu, gửi cho một bản chụp để kiểm lại. Mặc dù chúng tôi tin tưởng nhà văn Duy Lam vì ông có quan hệ mật thiết với Khái Hưng, nhưng nếu có chứng từ thì vẫn hơn.





--------------------------------------------------------------------------------

Copyright © 2006 by Dien Dan Forum, BP 50, 92340 Bourg-La-Reine, France
diendan@diendan.org - Contributeurs

Nguyễn văn Tuấn : Tiếng Anh của Bộ Ngoại giao thời hội nhập

Tiếng Anh của Bộ Ngoại giao thời hội nhập: vài hạt sạn không nên có

Sáng nay, thức dậy sớm để đọc báo và chuẩn bị cho một ngày làm việc, tôi bắt gặp bài này (“Sáu thông điệp từ một tuồng cải lương Hồ Quảng”) trên blog của Đinh Tấn Lực.

http://dinhtanluc.multiply.com/journal/item/499/499

Đọc xong mà … ngậm ngùi cho ngôn ngữ.


Viết ra thì có thể là mang tiếng “vạch lá tìm sâu”, mà không viết ra thì thấy lòng cứ bức rức. Bức rức vì vấn đề có liên quan đến sỉ diện quốc gia. Tôi muốn nói đến văn bản bằng tiếng Anh về “Hội thảo Biển Đông” của Bộ Ngoại giao Việt Nam, mà Đinh Tấn Lực có trích dẫn một đoạn ngắn. Đọc qua đoạn văn ngắn đó, tôi phát hiện rất nhiều sai sót và khiếm khuyết trong cách hành văn.

Đinh Tấn Lực nhận xét rất chí lí rằng một văn bản xuất phát từ Việt Nam, nước đang có tranh chấp với Trung Quốc về Hoàng Sa và Trường Sa, mà cứ cấm đầu chúi mũi sử dụng cụm từ “South China Sea” liên tục. Một đoạn văn ngắn chỉ có 9 dòng, mà cụm từ “South China Sea” được lặp lại đến 6 lần! Danh chính ngôn thuận ở đâu?

Tôi có cảm giác rằng văn bản này được dịch từ tiếng Việt sang tiếng Anh, vì trong đó có nhiều đoạn rất … Việt Nam. Đó là những đoạn văn không hàm chứa thông tin, mà giống như là hô khẩu hiệu vậy. Chẳng hạn như câu này (“Developments in and related to the South China Sea have by and large been consistent to the overall contemporary trend toward greater cooperation in Asia-Pacific”) có lẽ dịch từ câu quen thuộc mà chúng ta vẫn thường hay nghe: "phù hợp", "xu hướng", "hợp tác" , v.v... Câu văn chẳng những có vấn đề về cú pháp mà còn vô nghĩa theo cái nhìn của người làm khoa học. “Xu hướng hợp tác cao hơn” là xu hướng gì? Câu văn kế tiếp không hề giải thích câu văn trước đó. Cụm từ “Asia Pacific” thường là tính từ; do đó, viết “In Asia-Pacific” là chưa hết nghĩa, chưa hết câu văn. Đáng lẽ phải viết là “In the Asia-Pacific region” hay "the Asia Pacific Basin", hay gì đó thì mới đầy đủ ý nghĩa.

Trong phần đầu, tác giả viết “THE BACKGROUND”. Tại sao lại có “THE” ở đây nhỉ? Đây là một trong những sai sót về tiếng Anh phổ biến nhất ở người Á châu, vì lúc nào cũng dùng mạo từ “the” một cách không thích hợp.

“Development in and related to the South China Sea have by and large been consistent to the overall contemporary trend toward greater cooperation in Asia-Pacific.”


•Câu văn này thoạt đầu cho thấy tác giả cũng có “võ” về tiếng Anh như cách dùng từ “in and related to” (trong “Development in and related to the South China Sea”), nhưng thật ra trong cách viết formal (nghiêm chỉnh) trong văn bản ngoại giao thì không thể chấp nhận được. Không chấp nhận được vì nó mang tính “informal”, kiểu như “chit chat” vậy.
•Cái khiếm khuyết thứ hai, tuy nhỏ, nhưng nó nói lên khả năng tiếng Anh của người viết: đó là cụm từ “by and large” cũng là một kiểu nói chit chat, một loại thành ngữ (idiom) hay ngôn ngữ đường phố, chứ không phải loại ngôn ngữ ngoại giao. Đáng lẽ nếu viết một cách nghiêm túc thì cần phải có hai dấu phẩy trước vào sau cụm-trạng-từ đó (như “… have been, by and large, …” ), hay thay by and large bằng largely (như “… have been largely …”) thì mới đúng hơn và nghiêm chỉnh hơn.
•Điểm thứ ba là giới từ trong “consistent to” rất ít ai sử dụng (nếu không muốn nói là sai sót); đáng lẽ phải viết rõ ràng hơn là “consistent with”.

“Efforts have been made by regional countries to stabilize the situation and seek the opportunities for cooperationin the South China Sea area.”

Về văn phạm, có 3 cái sai hiển nhiên trong câu văn này:

•Cái sai thứ nhất là mạo từ “the” (the situation, the opportunities) chẳng biết đề cập đến tình hình gì và cơ hội nào (chẳng thấy mô tả trước đó). Như tôi nói trên kia, đây là cái sai rất phổ biến ở người châu Á.
•Cái sai thứ hai là câu văn có 2 mệnh đề (stabilize -- ổn định, và seek -- tìm), nhưng stabilize thì có “to” còn seek thì thiếu “to”! Đáng lẽ phải viết là “to seek” mới đúng.
•Cái sai thứ ba là “South China Sea area”, vì từ “area” rất ít ai sử dụng cho biển. Vả lại, đâu có cần area trong cụm từ “South China Sea”!
Còn câu sau đây mới vui:

“These efforts have resulted in, among others, the ASEAN Declaration on the South China Sea in 1992, the adoption in 2004 of the Declaration on the Conduct of Parties in the South China Sea (DOC) according to which all signing parties pledged to seek peaceful solutions to disputes and conduct maritime cooperation in order to maintain regional stability in the South China Sea under the principles of the Charter of the United Nations, the 1982 UN Convention on the Law of the Sea, the …”

Chúng ta thấy gì qua câu văn này?

•Trước hết, đó là một câu văn dài lê thê, rối rắm. Một câu văn có hơn 84 chữ (thật ra là hơn 84 chữ vì Đinh Tấn Lực ngừng trích ở đó)!
•Thứ hai là có sự nhập nhằng về thời gian tính của câu “Declaration on the Conduct of Parties in the South China Sea”. Có phải câu này nói năm 2004 ai đó chấp nhận tuyên bố về "Conduct of Parties in the South China Sea", hay là tuyên bố này ra đời vào năm 2004. Khi tôi tìm trên google thì tuyên bố này ra đời năm 2002! Có thể xem tuyên bố đó tại địa chỉ sau đây: www.aseansec.org/13163.htm

•Cái sai kế tiếp nữa là sai văn phạm. Đáng lẽ câu “… all signing parties pledged to seek peaceful solutions to disputes and conduct maritime cooperation” phải viết là “… which all signing parties pledged to seek peaceful solutions to disputes and TO conduct maritime cooperation.”
•Còn cụm từ "the principles of the Charter of the United Nations" thì lượm thượm vì có quá nhiều "the". Thật ra, nếu muốn viết "the principles" thì phải nói rõ hơn nguyên tắc (principles) gì. Có lẽ nên viết là các nguyên tắc của hiến chương Liên hiệp quốc năm 1945, tức là đáng lẽ phải viết đúng hơn và gọn hơn là: "according to the principles of the United Nations Charter in 1945".

Đáng lẽ tôi còn chỉ ra vài sai sót nữa, nhưng tôi xin tạm dừng ở đây. Nói tóm lại, dù chỉ mới đọc qua một đoạn văn ngắn của văn bản quan trọng này, tôi có cảm giác đây là một văn bản được soạn thảo rất cẩu thả. Thở đời nay một Bộ Ngoại giao của một nước 86 triệu dân mà không nhớ nỗi năm của các tuyên bố hay nghị định của Liên hiệp quốc! Có lẽ vì sự cẩu thả này mà văn bản lộ ra nhiều sơ hở, rất dễ bị “đối phương” và “kẻ thù” lợi dụng để củng cố cho quan điểm của chúng.

Nếu tôi là quan chức của Bộ Ngoại giao, tôi sẽ không viết như văn bản này, mà sẽ viết cách khác nghiêm trang hơn (vì văn bản ngoại giao), sẽ kiểm tra cẩn thận các dữ liệu, sẽ cân nhắc cách sử dụng từ ngữ sao cho chặt chẽ, và sẽ nhờ nhiều người khác rành tiếng Anh đọc qua để sửa các lỗi văn phạm và cú pháp. Nhưng mọi chuyện trễ rồi, vì văn bản đã được gửi đi và đến tay “đối tác”. Tôi tưởng tượng các đối tác đọc xong và sẽ mỉm cười, cái cười rất … khó ưa.

Nếu bạn và tôi có phạm sai sót trong tiếng Anh thì chắc chẳng ai quan tâm, vì chúng ta chỉ là những cá nhân chẳng đại diện cho ai, những công dân mà tiếng mẹ đẻ không phải là tiếng Anh. Nhưng nếu một quan chức cao cấp, nhất là Bộ Ngoại giao, mà sai tiếng Anh thì đó là một điều đáng xấu hổ. Tôi viết ra những nhận xét này tuy thấy đau đau trong lòng, nhưng hoàn toàn với một tinh thần xây dựng, và cũng muốn góp phần làm cho nước ta giảm đến mức tối thiểu (giảm đến số 0 thì hay hơn) những sơ hở trên trường ngoại giao quốc tế.

NVT

TB. Còn vài sai sót nhỏ khác nữa. Ngay từ cái tên của hội đoàn đã có vấn đề. Văn bản viết:

“Co-Organizers: The Diplomatic Academy of Vietnam and Vietnamese Lawyers Association”

Tôi tưởng phải là “The Vietnamese Lawyers Association” mới đúng chứ.

Còn phần địa điểm và thời gian thì hứa là “Time and Venue”, tức là thời gian trước, rồi mới đến địa điểm, nhưng lại mô tả địa điểm trước rồi mới tới thời gian:

“Hanoi, Vietnam, 26-27 November, 2009.”

Mà, ngay cả đia điểm cũng không cụ thể. Bởi vì Hà Nội là thành phố lớn, cho nên viết “Hanoi, Vietnam” đố ai tìm ra địa điểm chính xác. Ngoài ra, phía trên thì tác giả viết theo kiểu Mĩ ("organizer") nhưng viết ngày tháng thì theo kiểu Anh! Đáng lẽ nếu viết theo kiểu Mĩ thì ngày tháng cũng phải viết là November 26-27, 2009, hay

November 26 to November 27, 2009.

29/1/10

Ba Câu Trả Lời Mầu Nhiệm

Ba Câu Trả Lời Mầu Nhiệm (Trích từ Phép Lạ Của Sự Tỉnh Thức)

THÍCH NHẤT HẠNH
Ba câu hỏi ấy là:

1. Làm sao để biết được thời gian nào là thời gian thuận lợi nhất cho mỗi công việc?
2. Làm sao để biết được nhân vật nào là nhân vật quan trọng nhất mà ta phải chú trọng?
3. Làm sao để biết được công việc nào là công việc cần thiết nhất mà ta phải thực hiện?
Đó là chuyện ba câu hỏi khó của một nhà vua, do nhà văn hào Leo Tolstoy kể lại. Nhà vua ấy, Tolstoy không biết tên. Một hôm đức Vua nghĩ rằng, giá mà vua trả lời được ba câu hỏi ấy thì vua sẽ không bao giờ bị thất bại trong bất cứ công việc nào.

Nghĩ thế, vua liền ban chiếu ra khắp trong bàn dân thiên hạ, hứa rằng sẽ ban thưởng trọng hậu cho kẻ nào trả lời được những câu hỏi đó.Các bậc hiền nhân đọc chiếu liền tìm tới kinh đô. Nhưng mỗi người lại dâng lên vua một câu trả lời khác nhau.



Về câu hỏi thứ nhất, có người trả lời rằng muốn biết thời gian nào là thời gian thuận lợi nhất cho mỗi công việc thì phải làm thời biểu cho đàng hoàng, có ngày giờ năm tháng và phải thi hành cho thật đúng thời biểu ấy. Như vậy mới mong công việc làm đúng lúc. Kẻ khác thì lại nói không thể nào dự tính được trước những việc gì phải làm và thời gian để làm những việc ấy; rằng ta không nên ham vui mà nên chú ý đến mọi sự khi chúng xẩy tới để có thể làm bất cứ gì xét ra cần thiết.

Có kẻ lại nói rằng, dù vua có chú ý đến tình hình mấy đi nữa thì một mình vua cũng không đủ sáng suốt để định đoạt thời gian của mọi việc làm một cách sáng suốt, do đó nhà vua phải thành lập một Hội Đồng Nhân Sĩ và hành động theo lời khuyến cáo của họ.Lại có kẻ nói rằng, có những công việc cần phải lấy quyết định tức khắc không thể nào có thì giờ để tham khảo xem đã đến lúc phải làm hay chưa đến lúc phải làm. Mà muốn lấy quyết định cho đúng thì phải biết trước những gì sẽ xẩy ra, do đó, nhà vua cần phải cần đến những nhà cố vấn tiên tri và bốc phệ.

Về câu hỏi thứ hai, cũng có nhiều câu trả lời không giống nhau. Có người nói những nhân vật mà vua cần chú ý nhất là những ông đại thần và những người trong triều đình. Có người nói là mấy ông Giám Mục, Thượng Tọa là quan hệ hơn hết. Có người nói là mấy ông tướng lãnh trong quân đội là quan hệ hơn hết.

Về câu hỏi thứ ba, các nhà thức giả cũng trả lời khác nhau. Có người nói khoa học là quan trọng nhất. Có người nói tôn giáo là quan trọng nhất. Có người lại nói: chỉnh trang quân đội là quan trọng nhất.

Vì các câu trả lời khác nhau cho nên nhà vua không thể đồng ý với vị hiền nhân nào cả, và chẳng ban thưởng cho ai hết.Sau nhiều đêm suy nghĩ vua quyết định đi chất vấn một ông đạo tu trên núi, ông đạo này nổi tiếng là có giác ngộ. Vua muốn tìm lên trên núi để gặp ông đạo và hỏi ba câu hỏi kia.Vị đạo sĩ này chưa bao giờ chịu xuống núi và nơi ông ta ở chỉ có những người dân nghèo; chẳng bao giờ ông chịu tiếp người quyền quý. Vì vậy mà nhà vua cải trang làm thường dân. Khi đi đến chân núi, vua dặn vệ sĩ đứng chờ ở dưới, và một mình vua, trong y phục một thường dân, vua trèo lên am của ông đạo.

Nhà vua gặp ông đạo đang cuốc đất trước am. Khi trông thấy người lạ, ông đạo gật đầu chào rồi tiếp tục cuốc đất. Ông đạo cuốc đất một cách nặng nhọc bởi ông đã già yếu; mỗi khi cuốc lên được một tảng đất hoặc lật ngược được tảng đất ra thì ông lại thở hào hển.Nhà vua tới gần ông đạo và nói: 'Tôi tới đây để xin ông đạo trả lời giúp cho tôi ba câu hỏi. Làm thế nào để biết đúng thì giờ hành động, đừng để cho cơ hội qua rồi sau phải hối tiếc ? Ai là những người quan trọng nhất mà ta phải chú ý tới nhiều hơn cả ? Và công việc nào quan trọng nhất cần thực hiện trước tiên ?'

Ông đạo lắng nghe nhà vua nhưng không trả lời. Ông chỉ vỗ vai nhà vua và cúi xuống tiếp tục cuốc đất.

Nhà vua nói: "Ông đạo mệt lắm rồi, thôi đưa cuốc cho tôi, tôi cuốc một lát". Vị đạo sĩ cám ơn và trao cuốc cho Vua rồi ngồi xuống đất nghỉ mệt. Cuốc xong được hai vồng đất thì nhà vua ngừng tay và lập lại câu hỏi. Ông đạo vẫn không trả lời, chỉ đứng dậy và đưa tay ra đòi cuốc, miệng nói: "Bây giờ bác phải nghỉ, đến phiên tôi cuốc". Nhưng nhà vua thay vì trao cuốc lại cúi xuống tiếp tục cuốc đất.

Một giờ rồi hai giờ đồng hồ đi qua. Rồi mặt trời bắt đầu khuất sau đỉnh núi. Nhà vua ngừng tay, buông cuốc, và nói với ông đạo: "Tôi tới để xin ông đạo trả lời cho mấy câu hỏi. Nếu ông đạo không thể trả lời cho tôi câu nào hết thì xin cho biết để tôi còn về nhà".

Ông đạo nghe tiếng chân người chạy đâu đây bèn nói với nhà vua: "Bác thử xem có ai chạy lên kìa". Nhà vua ngó ra thì thấy một người có râu dài đang chạy lúp xúp sau mấy bụi cây, hai tay ôm bụng. Máu chảy ướt đầm cả hai tay. Ông ta cố chạy tới chỗ nhà vua và ngất xỉu giữa đất, nằm im bất động miệng rên ri rỉ.

Vua và ông đạo cởi áo người đó ra thì thấy có một vết đâm sâu nơi bụng. Vua rửa chỗ bị thương thật sạch và xé áo của mình ra băng bó vết thương, nhưng máu thấm ướt cả áo. Vua giặt áo và đem băng lại vết thương. Cứ như thế cho đến khi máu ngừng chảy.Lúc bấy giờ người bị thương mới tỉnh dậy và đòi uống nước. Vua chạy đi múc nước suối cho ông ta uống. Khi đó mặt trời đã bắt đầu khuất và bắt đầu lạnh. Nhờ sự tiếp tay của ông đạo, nhà vua khiêng người bị nạn vào trong am và đặt nằm trên giường ông đạo. Ông ta nhắm mắt nằm yên. Nhà vua cũng mệt quá vì leo núi và cuốc đất cho nên ngồi dựa vào cánh cửa và ngủ thiếp đi. Vua ngủ ngon cho đến nỗi khi Vua thức dậy thì trời đã sáng và phải một lúc sau Vua mới nhớ ra được mình đang ở đâu và đang làm gì. Vua nhìn về phía giường thì thấy người bị thương cũng đang nhìn mình chòng chọc, hai mắt sáng trưng.

Người đó thấy vua tỉnh giấc rồi và đang nhìn mình thì nói, giọng rất yếu ớt:


- Xin bệ hạ tha tội cho thần

- Ông có làm gì nên tội đâu mà phải tha?

- Bệ hạ không biết hạ thần, nhưng hạ thần biết bệ hạ. Hạ thần là người thù của bệ hạ, Hạ thần đã thề sẽ giết bệ hạ cho bằng được bởi vì khi xưa, trong chinh chiến, bệ hạ đã giết mất người anh của hạ thần và còn tịch thu gia sản của hạ thần nữa.


- Hạ thần biết rằng bệ hạ sẽ lên núi này một mình để gặp ông đạo sĩ, nên đã mai phục quyết tâm giết bệ hạ trên con đường về. Nhưng cho đến tối mà bệ hạ vẫn chưa trở xuống, nên hạ thần đã rời chỗ mai phục mà đi lên núi tìm bệ hạ để hành thích. Thay vì gặp bệ hạ, hạ thần lại gặp bốn vệ sĩ. Bọn nầy nhận mặt được hạ thần cho nên đã xông lại đâm hạ thần. Hạ thần trốn được chạy lên đây, nhưng nếu không có bệ hạ cứu thì chắc chắn hạ thần đã chết vì máu ra nhiều quá. Hạ thần quyết tâm hành thích bệ hạ mà bệ hạ lại cứu sống được hạ thần. Hạ thần hối hận quá. Bây giờ đây nếu hạ thần mà sống được thì hạ thần nguyện sẽ làm tôi mọi cho bệ hạ suốt đời, và hạ thần cũng sẽ bắt các con của hạ thần làm như vậy. Xin bệ hạ tha tội cho hạ thần.

Thấy mình hòa giải được với kẻ thù một cách dễ dàng nhà vua rất vui mừng. Vua không những tha tội cho người kia mà còn hứa sẽ trả lại gia sản cho ông ta, và gửi ngự y cùng quân hầu tới săn sóc cho ông ta lành bệnh.Sau khi cho vệ sĩ khiêng người bị thương về nhà, vua trở lên tìm ông đạo để chào. Trước khi ra về vua còn lặp lại lần cuối ba câu hỏi của vua. Ông đạo đang quỳ gối xuống đất gieo những hạt đậu trên những luống đất đã cuốc sẵn hôm qua.

Vị đạo sĩ đứng dậy nhìn vua: Nhưng ba câu hỏi của vua đã được trả lời rồi mà.

Vua hỏi: Trả lời bao giờ đâu nào?



- Hôm qua nếu Vua không thương hại bần đạo già yếu mà ra tay cuốc dùm mấy luống đất này thì khi ra về nhà vua đã bị kẻ kia mai phục hành thích mất rồi, và nhà Vua sẽ tiếc rằng đã không ở lại cùng ta. Vì vậy thời gian quan trọng nhất là thời gian Vua đang cuốc đất; nhân vật quan trọng nhất lúc đó là bần đạo đây, và công việc quan trọng nhất là công việc giúp bần đạo. Rồi sau đó khi người bị thương nọ chạy lên, thời gian quan trọng nhất là thời gian vua chăm sóc cho ông ta, bởi vì nếu vua không băng vết thương cho ổng thì ổng sẽ chết và vua không có dịp hòa giải với ổng; cũng vì thế mà ông ta là nhân vật quan trọng nhất, và công việc vua làm để băng bó vết thương là quan trọng nhất. Xin vua hãy nhớ kỹ điều này: Chỉ có một thời gian quan trọng mà thôi, đó là thời gian hiện tại, là giờ phút hiện tại. Giờ phút hiện tại quan trọng bởi vì đó là thời gian duy nhất trong đó ta có thể làm chủ được ta. Và nhân vật quan trọng nhất là kẻ đang cụ thể sống với ta, đang đứng trước mặt ta, bởi vì ai biết được là mình sẽ đương đầu làm việc với những kẻ nào trong tương lai. Công việc quan trọng nhất là công việc làm cho người đang cụ thể sống bên ta, đang đứng trước mặt ta được hạnh phúc, bởi vì đó là ý nghĩa chính của đời sống.



* * *



Tolstoy là một vị Bồ tát trong câu chuyện trên. Nhà văn hóa này đã thấy được ý nghĩa của cuộc sống và phương thức sống. Làm thế nào để ta sống giờ phút hiện tại, sống ngay với người ta chung đụng hàng ngày, làm ngay điều có thể giúp họ bớt khổ đau, thêm hạnh phúc. Làm thế nào? Câu trả lời là: phải thực tập chánh niệm. Nguyên tắc của Tolstoy nêu ra đó, xem như là dễ, nhưng muốn thực hiện nghiêm chỉnh phải nhờ những phương pháp quán niệm cụ thể mà ta tìm thấy nơi đạo Phật.