30/4/10

Sophie Quinn-Judge - Hồ Chí Minh: Những năm tháng chưa được biết đến

Hồ Chí Minh: Những năm tháng chưa được biết đến


Tác giả: Sophie Quinn-Judge
Người dịch: Hoài An

Lời người dịch: Các bạn X-cafe thân mến,
Nhân chủ đề tranh luận Hồ Chí Minh có phải là Nguyễn Ái Quốc không? (mà phát hiện Nguyễn Ái Quốc thực ra chỉ là bút danh của nhóm Ngũ Long (đứng đầu là Phan Chu Trinh, sau đó là Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền, Nguyễn An Ninh, và Nguyễn Ái Quốc) nhưng sau này, anh Nguyễn Tất Thành đã lấy bút hiệu đó làm tên mình, mà đồng chí Dương Trung Quốc vừa chỉ ra), Hoài An tôi nhận thấy, trên diễn đàn X-cà phê cà pháo còn quá nhiều người mơ hồ có nhận thực sai lệch về lịch sử thực của cụ Hồ, nhưng quan điểm và hiểu lầm này có cả ở hai phía. Vì vậy Hoài An tôi xin giành chút thời gian giúp đỡ anh em biết thêm về lịch sử bằng cách dịch cuốn sách, một công trình nghiên cứu khoa học nghiêm túc, khách quan đúng với thực tế lịch sử gần đây nhất, đó là cuốn sách của Tiến sĩ Sophie Quinn Judge (đây cũng chính là Luận văn Tiến sĩ sử học của bà). Tôi sẽ dịch và đăng tải theo tuần (chuyện dài kỳ, kiểu như vậy). Lưu ý đây chỉ là bản dịch nháp của một người không chuyên. Mong được sự đóng góp của các độc giả, thành viên X-cafe, để một ngày kia, khi bản dịch hoàn thiện, tôi sẽ xin phép nhà xuất bản và Tiến sĩ Judge cũng như bác Hợp cho phép xuất bản ở Việt nam.



University of California Press
2002

Lời cảm tạ

Tôi xin chân thành cảm ơn John D. và Catherine T. tại quỹ McAthur vì đã tài trợ cho những nghiên cứu của mình và năm 1994 tại Moscow và Aix-en-Provence. Quỹ nghiên cứu của đại học trung tâm London đã là nơi tài trợ cho nghiên cứu của tôi ở Aix-en-Provence vào năm 1998. Tôi rất biết ơn những người quản thư tại trung bảo tồn và lưu trữ tàng thư về lịch sử cận đại của Nga, những người đã hết lòng giúp đỡ trong những điều kiện khó khăn.

Chính bạn bè của tôi tại Việt Nam, Nga, Mỹ, Anh, Pháp đã ủng hộ và khuyến khích tôi thực hiện việc nghiên cứu về Nguyễn Ái Quốc/Hồ Chí Minh, một dự án nghiên cứu tưởng như viển vông mà ban đầu tôi đã không lường hết được. Trong những năm tháng học tại khoa Châu Phi học của trường đại học tổng hợp London, tôi đã có được nhiều trao đổi về mặt học thuật với bạn bè qua các hội thảo về lịch sử Việt nam. Tôi cũng muốn cảm ơn chồng và hai con gái của mình vì đã hỗ trợ hết mình cho công việc nghiên cứu này.

Quyển sách này giành để tặng cho những người quá cố là Huỳnh Kim Khánh, người đầu tiên khơi gợi sự tò mò của tôi về mối quan hệ giữa Nguyến Ái Quốc và Quốc tế III; và Ralph B. Smith, một người bạn với nhiều lời khuyên chân thành, một tấm gương về sự lao động quên mình của một học giả.

Nội dung sách

Chương 1: Paris: Sự xuất hiện của Nguyễn Ái Quốc (1919-23)
Chương 2: Gia nhập Quốc tế III (Comintern) (1923-4)
Chương 3: Thời kỳ ở Quảng Châu và sau đó (1924-8)
Chương 4: Từ con đường cũ đến con đường mới (1927-9)
Chương 5: Sóng triều cách mạng (1930-1)
Chương 6: Chết ở Hồng Kông chôn tại Moscow?
Chương 7: Sự trở lại của Hồ Chí Minh và con đường đến hội nghị tám. (1937-41)

Qui ước viết tắt trong sách

ACP: Annam Communist Party (An nam Cộng sản Đảng)
AOM: Archives d’Outre-Mer
BNTS: Hồ Chí Minh: Biên Niên Tiểu Sử
CC: Central Committee (Trung Ương)
CCP: Chinese Communist Party (Đảng Cộng Sản Trung Quốc)
CYL: Communist Youth League (Liên đoàn Thanh niên Cộng sản)
DDSCD: Đông Dương Cộng Sản Đảng
ECCI: Executive Committee of the Communist International (Ban chấp hành quốc tế cộng sản).
FCP: French Communist Party (Đảng Cộng sản Pháp)
FEB: Far East Bureau (Viễn Đông Cục)
GMD: Guomindang (Quốc Dân Đảng)
ICP: Indochinese Communist Party (Đông Dương Cộng Sản Đảng)
MAE: Ministère des Affaires Etrangères
NCLS: Nghiên cứu Lịch sử (Tạp Chí)
NXB: Nhà xuất bản
OMS: Bộ phận liên lạc quốc tế
RS: Trung tâm bảo tồn và lưu trữ tàng thư về lịch sử cận đại Nga
SHAT: Service Historique de l’Armée de Terre
SLOTFOM: Service de Liaisons avec les Originaires des Territoires de la France d’Outre-Mer.
SMP: Hồ sơ cảnh sát Thành phố Thượng Hải.
SPCE: Service de Protection du Corps Expéditionaire
VNQDD: Việt Nam Quốc Dân Đảng
VNTNCMDCH: Việt nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội

CHƯƠNG 0: GIỚI THIỆU

Huyền thoại kép

Nhân viên trong bóng tối của Quốc tế III được thế giới bắt đầu biết đến từ năm 1945 dưới cái tên là Hồ Chí Minh đã trở thành biểu tượng của Chủ Nghĩa Cộng Sản tại Việt nam nhiều năm sau ngày ông lên nắm quyền với tư cách là chủ tịch đầu tiên của đất nước mình. Trong cuộc chiến giữa Mỹ và Việt nam, ông nổi lên như một hình tượng của chủ nghĩa cộng sản “hai mặt” điển hình Á châu (nghĩa là mặt cộng sản và mặt dân tộc – ND), và đối với tổng thống Mỹ Lyndon Johnson ông là một kẻ thù. Hình tượng này phần nào được dựng lên do các chiến dịch tuyên truyền thời chiến tranh lạnh, mà ở đó ông được mô tả như một kẻ cuồng tín, đam mê quyền lực, một người từng theo chủ nghĩa dân tộc nhưng cuối cùng đã phản bội lại chính những người theo chủ nghĩa dân tộc phi cộng sản (1). Ông Hồ phải chịu trách nhiệm cho những khổ đau mà đất nước ông phải hứng chịu do chiến tranh và chủ nghĩa cộng sản đem lại.

Hình ảnh trên của Hồ Chí Minh được đưa ra bởi phe chống cộng ngược hẳn lại với hình ảnh được xây dựng kỹ lưỡng về ông của những người cộng sản Việt Nam trong đó ông được mô tả như một người chủ tịch, một người cha của nước Việt nam độc lập, một người sống mẫu mực, khổ hạnh như thầy tu, một người đã cống hiến trọn đời mình cho dân tộc. Từ sau năm 1945, những người cộng sản Việt nam đã sử dụng ông như một phương tiện để tạo ra một lịch sử của một Đảng cộng sản thống nhất, đoàn kết và luôn luôn sáng suốt. Ở một mức độ nào đó, bản thân ông Hồ cũng khuyến khích việc xây dựng hình tượng mình như một người yêu nước giản dị theo chủ nghĩa dân tộc. Việc sử dụng hình ảnh Hồ Chí Minh theo kiểu này càng trở nên rõ hơn sau năm 1947, khi quân đội Pháp đã tái chiếm thuộc địa và chính phủ Mỹ tỏ ra nghi ngờ tính dân tộc của Việt Minh. Trong lời giới thiệu đầu quyển sách tiểu sử đầu tiên về Hồ Chí Minh xuất hiện ở Paris 1949, đã mô tả ông như “biểu tượng của khát vọng dân tộc”; trái tim ông được cho là “cùng đập một nhịp với những người dân Việt nam”; những lời dạy của ông tràn đầy “sự nhân ái cao cả” nhưng lại “cực kỳ gần gũi giản đơn” (2). Một bài trên báo Nhân Dân số ra ngày 25 tháng 3 năm 1951 lại mô tả một vai trò khác của ông Hồ. Bài báo đó xem Hồ chủ tịch như “linh hồn của cách mạng Việt nam và cuộc kháng chiến” , trong khi đó lại xác nhận vai trò của Trường Chinh, lúc đó là tổng bí thư Đảng Cộng sản, như là “người kiến thiết và lãnh đạo cách mạng” (3).

Cho đến năm 1964, khi những người cộng sản Việt nam đang bị kéo ngày càng sâu hơn vào cuộc đối đầu với Mỹ, thì một hình ảnh thống nhất về chủ tịch Hồ Chí Minh trong lịch sử Đảng càng trở nên hết sức quan trọng. Như chúng ta đã biết, thời điểm năm 1963 là thời kỳ căng thẳng trong Đảng với cuộc đấu tranh nội bộ xem nên theo đường lối quốc tế nào (giữa theo Liên Xô và Trung Quốc – ND). Vì vậy bài báo xuất hiện trên tạp chí Nghiên cứu Lịch sử số ra tháng 2 năm 1964 trong đó mô tả vai trò của Hồ Chí Minh trong việc hợp nhất các Đảng Cộng sản Việt năm năm 1930 mang một thông điệp quan trọng. Đó là thông điệp về một hình ảnh thống nhất về phẩm chất chính trị được xác nhận và hình tượng hoá bởi chính Hồ Chí Minh (4). Đồng thời Đảng cũng tự mô tả mình như một Đảng có sức mạnh vô địch nhờ sự lãnh đạo sáng suốt tài tình của Hồ Chí Minh. Mỉa mai là ở chỗ, vào thời điểm năm 1964, quyền lực cá nhân thực sự của Hồ Chủ Tịch trong Đảng lại đã bị giảm đi đáng kể (5). Trong lần xuất bản thứ 5 cuốn tiểu sử “chủ tịch Hồ Chí Minh” do Trường Chinh viết năm 1973, lần đầu tiên xuất hiện một đoạn dài nói về những “chiến lược cách mạng” của Hồ Chí Minh và một đoạn khác nói về “Đạo đức và phẩm hạnh” của ông (6). Tuy vậy cho đến năm 1989 khi khối XHCN ở Đông Âu sụp đổ, những người Cộng sản Việt nam mới bắt đầu hệ thống hoá lại “tư tưởng Hồ Chí Minh” và dùng nó như một kim chỉ nam tư tưởng hệ.

Theo quan điểm của tôi, cả hai quan điểm dập khuôn về Hồ Chí Minh như là một người cộng sản theo Machiavelli (theo thuyết “mục đích biện minh cho hành động – ND), hay là một vị thánh có tinh thần dân tộc đều gây cản trở cho việc nghiên cứu nghiêm túc một hình tượng lịch sử. Lấy ví dụ chúng có thể gây ra những cuộc tranh cãi rất vô bổ như liệu Hồ Chí Minh có phải là một kẻ mạo danh? Hay một kẻ đóng kịch? (7) (Rõ ràng là Hồ Chí Minh có thể là một người đối thoại rất trung thực và thẳng thắn, đồng thời lại có thể là một người rất xảo quyệt luôn biết tự cảnh giác). Hình ảnh quá thực tế cuộc sống của Hồ đã làm nhiều học giả nghiên cứu về chủ nghĩa cộng sản ở Việt nam phóng đại quá mức về tầm quan trọng của ông trong việc tạo dựng tình hữu nghị cộng sản quốc tế. Lấy ví dụ cuốn tiểu sử viết bởi Jean Lacouture, một người ái mộ ông Hồ, đã mô tả rằng ông là một người bạn mật thiết của những trí thức cánh tả nổi tiếng của Pháp như Boris Souvarine (8). Mặc dù vậy những tài liệu từ Nga và Pháp mà chúng tôi đã nghiên cứu lại cho thấy thực ra ông Hồ là người cầu cạnh các mối quan hệ với họ chứ không phải bạn thân. Souvarine, có lẽ hầu như không có mấy quan hệ với ông Hồ cho đến tận năm 1923, vì ông ở Pháp rất ngắn sau khi bị bỏ tù vào các năm 1920, 1921, và cho đến khi ông ta bị khai trừ khỏi Đảng Cộng sản Pháp năm 1924 (9). William Duiker thì mô tả ông Hồ như “một diễn giả chính của phương Đông và giúp làm tăng sự chú ý đến các vấn đề của nông dân” tại phiên bế mạc của hội nghị lần thứ năm của Quốc tế III năm 1924 (10). Tuy nhiên trong thực tế, ông Hồ chỉ là một diễn giả phụ nói về vấn đề thuộc địa và thậm chí không phải là đại diện của một Đảng Cộng sản Á châu nào. Charles McLane cho rằng, sau khi trở lại Moscow từ Trung Quốc năm 1927, ông Hồ đã bàn định lại chính sách đối với các nước Đông Nam Á với các nhà lãnh đạo Quốc tế III, “Thậm chí có lẽ là với chính Stalin” (11). Mặc dù vậy, hiện chưa có một bằng chứng nào cho thấy điều đó ngoài việc ông Hồ nộp một bản báo cáo cho Krestintern (Quốc Tế Nông Dân) và bàn bạc với cấp trên của mình ở ban chấp hành quốc tế Cộng sản trong khoảng thời gian ông ở Moscow năm 1927. Charles Fenn cho rằng ông Hồ là một trong hai đại diện tham dự hội nghị lần thứ 7 của Quốc tế III tham gia ủng hộ mặt trận bình dân (12). Thực ra ông Hồ không có quyền bỏ phiếu, các các chiến lược chính sách đã được Dimitrov chuẩn bị kỹ lưỡng trước dưới sự hỗ trợ của Stalin. Vai trò của một nhà tuyên truyền cách mạng của ông Hồ nhiều khi cũng bị thổi phồng một cách quá đáng. Ví dụ như trong bài báo viết về tiểu sử của ông đăng trên báo Nhân Dân số ra ngày 17 tháng 5 năm 1970, năm sau khi ông mất, đã mô tả tờ báo chống đế quốc Le Paria, mà ông Hồ làm chủ biên ở Paris, là “đã tạo nên một cơn gió cách mạng thổi bùng trên toàn Đông dương và các nước khác”. Theo quan điểm cá nhân của chúng tôi, đó là sự nói quá về vai trò của Le Paria trong những năm đầu thập niên 20.

Những học giả chống cộng thường có xu hướng chấp nhận một phiên bản của cách nhìn trên về tầm ảnh hưởng của Hồ Chí Minh. Tôn Thất Thiện trong bài luận có tựa đề “Sự thật và giả dối: Chuyến đi bí mật của Hồ Chí Minh đến Nga năm 1923 và sự thất sủng của ông trong Quốc tế Cộng sản III”, đã đặt vấn đề nghi ngờ về tầm ảnh hưởng của Hồ Chí Minh trong phong trào cộng sản quốc tế. Ông cho rằng bài phát biểu của ông Hồ tại đại hội 2 Đảng Cộng sản Pháp đã gây ấn tượng mạnh đối với đặc phái viên của quốc tế cộng sản 3 Dmitry Manuilsky, và ngay tại đó Hồ đã được mời tham dự Đại hội 5 quốc tế Cộng sản III tại Moscow (13). Trong thực tế, các tài liệu tại các tàng thư của Nga và Pháp lại cho thấy vấn đề phức tạp hơn một chút. Trong chương 2, chúng tôi sẽ chỉ ra rằng thực tế ban đầu ông Hồ chỉ dự định ở lại Moscow có 3 tháng và không có ý định tham dự hội nghị 5. Theo Lacouture, ông Hồ đã tham dự một hội nghị phản đế quan trọng vào đầu năm 1928 nơi ông gặp gỡ Nehru và các nhà dân tộc chủ nghĩa khác (14). Nhưng thực ra hội nghị này diễn ra tháng 2 năm 1927, trong khi ông Hồ vẫn còn đang ở Quảng Châu. Trong quá trình nghiên cứu của mình, chúng tôi phát hiện ra nhiều chuyện thú vị về việc rất nhiều việc được gán cho ông Hồ nhưng thực tế ông không làm do hoặc là ông không có mặt tại địa điểm diễn ra hành động, hoặc ông không có đủ tầm ảnh hưởng để làm.

Một trong những ví dụ kiểu này là việc cho rằng ông là tác giả bài báo:”The Party’s Military Work among the Peasants” in trong tập tái bản của cuốn sổ tay Quốc tế Cộng Sản III, “Armed Insurrection”. Bài báo gốc được in vào năm 1929 dưới bút danh A. Neuberg, mặc dù đã có một bài viết với tiêu đề tương tự của Alfred Langer, xuất hiện ở Đức năm 1928. Những học giả như William Duiker và Huynh Kim Khanh đã dung bài luận này để lý giải về quan điểm của ông Hồ về nông dân và cuộc nổi dậy của Soviet Nghệ Tĩnh năm 1930-1.(15) Trong phần giới thiệu của bản in năm 1970, Erich Wollenberg, người tự nhận là một trong các tác giả gốc, đã chỉ rõ Hồ Chí Minh là tác giả của chương cuối, về khởi nghĩa của nông dân (16). Wollenberg cũng cho rằng chính Hồng quân đã cử Hồ Chí Minh đến Trung Quốc năm 1924. Việc thừa nhận ông Hồ như một chuyên gia về quân sự như nhiều tài liệu báo chí phương Tây sau này, hiện chưa được minh chứng trong các tài liệu và chứng cứ chúng tôi đã nghiên cứu. Trong Quốc tế Cộng sản III, ông Hồ chỉ hoạt động như một phiên dịch, một chuyên gia tuyên truyền và vận động cách mạng. Khi trở về Moscow từ Trung Quốc vào tháng 6 năm 1927, ông có báo cáo về phong trào nông dân ở tỉnh Quảng Đông, nhưng bài báo cáo ở dạng mô tả cụ thể chứ không có dáng điệu phân tích sâu sắc như bài báo trên. Ở Berlin năm 1928, ông đã viết bài mô tả về phong trào nông dân Pen Pai. Nhưng tại thời điểm của cuộc nổi dậy Nanchang, Sô viết Hai-Lungfeng, hay khởi nghĩa ở Quảng Châu, ông không có mặt tại đó mà những sự kiện này lại được phân tích rất kỹ lưỡng trong bài luận năm 1929 kia. Theo tài liệu của Quốc tế III, Hội đồng quân sự của ban thư ký Đông phương của quốc tế 3 đã giao nhiệm vụ cho A. Gailis, một người Litva (biệt danh là Tom khi làm việc tại Trung Quốc), và Y. Zhingur một người làm việc làm việc trong lực lượng tình báo quân đội ở Nam Trung Quốc từ năm 1926 đến 1927 nghiên cứu các chiến thuật cho một cuộc khởi nghĩa vũ trang. Quyết định này được đưa ra trong cuộc họp ngày 22 tháng 3 năm 1928, trong khi ông Hồ vẫn còn đang ở Berlin (17). Cuốn sách của Gailis về chủ đề này đã được in ở Moscow vào ngày 20 tháng 6 năm 1929 (18). Do đó có lẽ sự xác nhận ông Hồ là tác giả bài luận cuối của lần tái bản năm 1970 có lẽ chủ ý muốn đề cao vai trò của ông Hồ như là một lý thuyết gia Cộng sản. (Sự thực thì quan điểm của bài báo cũng chính là quan điểm chính thống của quốc tế 3 năm 1928 , và cho dù ông Hồ có đồng quan điểm với nó thì cũng khó có khả năng ông Hồ lại có thể sử dụng giọng kẻ cả như vậy đối với sự thất bại của Đảng Cộng sản Trung Quốc).

Những tiểu sử đầu tiên của phương Tây về Hồ Chí Minh (như của Lacouture, Fenn) là những tiểu sử mang đậm dấu ấn của trường phái ấn tượng (ý muốn nói có nhiều điều không thật – ND), do thiếu tư liệu lịch sử. Bản thân ông Hồ cũng rất khéo léo trong việc che dấu quá khứ của mình. Trong nhiều năm thông tin về tiểu sử của mình mà ông cung cấp phần nhiều là những mẩu chuyện hư cấu với những ngày tháng lộn xộn không rõ ràng chứ không phải những sự kiện thật trong cuộc đời của ông. Cuốn tiểu sử lần đầu in tại Paris năm 1949, trước đó đã xuất hiện năm 1948 bằng tiếng Trung Quốc, sau này được in lại nhiều lần bằng tiếng Việt với tiêu đề: “Những mẩu chuyện về cuộc đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch”. Mặc dù tên tác giả là Trần Dân Tiên, nhưng hiện mọi người đều đã công nhận đó là tự do ông Hồ viết (19). Cuốn sách là tập hợp những khắc hoạ mờ ảo trong trí nhớ về ông của các đồng chí của ông với ngày tháng lộn xộn. Mặc dù nó có dựa trên những sự thật những sự thiếu hụt thông tin, sự trang hoàng và tiền đề thuyết phục người đọc về những phẩm chất vô sản của ông Hồ chỉ làm quyển sách này có tác dụng xây dựng nên huyền thoại Hồ Chí Minh chứ không phải là một cuốn sách có giá trị lịch sử cao. Tiểu sử Hồ Chí Minh bằng tiếng Nga của Kobelev là tác phẩm của một nhà báo hơn là của một lịch sử gia (20). Cuốn tiểu sử này phần lớn dựa trên cuốn tiểu sử viết bởi Hồng Hà, một người mà qua cách đánh giá về việc cẩn trọng trong việc sử dụng tài liệu tham khảo nên cũng được xem là một nhà báo hơn là một sử gia thực thụ (21).

Những thông tin tiểu sử về thời trai trẻ của Hồ Chí Minh trong những năm tháng đầu tiên ở Paris được phát hiện trong tàng thư của Pháp bởi, Nguyễn Thế Anh, Thu Trang Gaspard, và Daniel Hémery sau khi cuốn sách của Lacouture được in đã làm mạnh thêm quan điểm về nguồn gốc dân tộc chủ nghĩa của ông Hồ (22). Đặc biệt trong bài báo in năm 1992 của mình với tựa đề “Jeunesse d’un Colonisé genèse d’un exil, Ho Chi Minh jusqu’en 1911”, Hémery đã chỉ ra sự nghiệp của bố ông Hồ (cụ Nguyễn Sinh Huy – ND) và việc ông bị cách chức quan đã ảnh hưởng như thế nào đến sự phát triển của anh thanh niên Nguyễn Tất Thành. Cuốn tiểu sử gần đây của William Duiker đáng tiếc đã không lưu ý đến nghiên cứu này của Hémery. Duiker chỉ sử dụng những tài liệu về thời trẻ của ông Hồ được xuất bản ở Hà nội. Mặc dù Duiker cũng đưa các quan điểm ngược chiều vào cuốn tiểu sử của mình và sử dụng một số tài liệu của Quốc tế III, nhưng ông cũng cho rằng Kobelev đã hơi thổi phồng quá vai trò của ông Hồ trong Quốc tế Cộng sản III.



--------------------------------------------------------------------------------



Tìm kiếm hình ảnh lịch sử thật của Hồ Chí Minh

Với việc Tàng thư Quốc tế Cộng sản được mở công khai năm 1992, hiện đã có thể có đủ dự kiện để phác hoạ về sự thật cuộc đời hoạt động của Hồ Chí Minh trong những năm trước 1945, thay vì những huyền thoại như trước đây. Nghiên cứu trong cuốn sách này là về những năm tháng hoạt động chính trị của ông từ năm 1919, khi ông lần đầu tiên xuất hiện tại Paris dưới cái tên Nguyễn Ái Quốc; cho đến năm 1941 trước cuộc đại chiến thế giới lần thứ 2, khi liên hệ giữa những người Cộng sản Việt Nam với Quốc tế III chấm dứt. Nghiên cứu trong cuốn sách này dựa trên nghiên cứu các tàng thư tại Trung tâm bảo tồn và lưu trữ tàng thư về lịch sử cận đại Nga, trước đây là Học viện Marx-Lenin, (23) và tại Centre d’Archives d’Outre-Mer tại Aix-en-Provence. Chúng tôi cố gắng nhất trong mức có thể giữ nguyên trạng những sự thực do chúng tôi phát hiện được trong những tàng thư này mà không biến chúng thành một chuỗi các sự kiện rời rạc. Chúng tôi có chỉnh lý những tự chuyện, hồi ký của người Việt và cố gắng so sánh với nguồn tài liệu chính thống của Đảng Cộng sản Việt nam với các tài liệu chúng tôi tìm thấy tại các tàng thư về cùng một sự kiện mỗi khi có thể. Cũng cần chú ý rằng đối với các tài liệu về thời kỳ từ năm 1941 trở về trước trong kho tài liệu của Đảng Cộng sản Việt nam, trừ các hồi ký, và những tài liệu đã được in lại trong Văn Kiện Đảng, Hồ Chí Minh Toàn Tập đều được thu thập đầy đủ từ các tàng thư của Nga và Pháp nói trên (Xem thêm chi tiết tại phần tài liệu tham khảo).

Mục đích của nghiên cứu này không phải là để huỷ hoại thanh danh của Hồ Chí Minh, mà chỉ là để làm rõ sự thực những gì ông đã làm trong thời kỳ ông làm việc cho Quốc tế III. Những năm tháng hoạt động bí mật và được cải trang kỹ lưỡng đã đưa ông Hồ trở thành một huyền thoại kiểu Phantomat. Điều đó không có gì đáng ngạc nhiên. Sự thực là mặc dù cuộc đời ông trong giai đoạn này đẫy rẫy những sự nguy hiểm, thì một trong những công việc mà ông cũng thường xuyên phải làm là ngồi gõ thật nhiều các bản báo cáo với mục đích thuyết phục người Nga cung cấp thêm nhiều tiền cho các hoạt động của ông. Ông Hồ thực sự không có cuộc sống của nhà tu hành, ông có hai mối quan hệ với phụ nữ được chứng minh bằng các tài liệu chúng tôi tìm được trong khoảng thời gian hoạt động mà cuốn sách này đề cập đến (24). Ông là một sinh vật chính trị phức tạp chứ không phải là một vị thánh. Tài liệu chính thống của Việt nam thường đặt trọng tâm vào tấm gương lãnh đạo của ông và thường xem ông như là người khởi nguồn của mọi tình huống – ông được khắc hoạ như một nhân vật đạo đức cao cả hàng đầu. Chúng tôi muốn khắc hoạ hình ảnh của ông khách quan hơn trong một ngữ cảnh rộng hơn trong đó ông chỉ là một trong số nhiều nhân vật chứ không phải là nhân vật trung tâm duy nhất.

Sự nghiệp của Hồ Chí Minh trong những năm đó đóng vai trò một cầu nối giữa Việt Nam và Quốc tế Cộng sản III. Nghiên cứu của chúng tôi sẽ làm rõ tiến trình quan hệ này, bắt đầu từ việc Quốc tế III cố gắng khuyến khích và đỡ đầu các cuộc cách mạng ở các thuộc địa cho đến thời kỳ của cuộc đấu tranh giai cấp quốc tế từ năm 1928 đến 1935, và quay lại phòng trào giải phóng dân tộc bắt đầu từ đầu những năm của cuộc đại chiến thế giới lần thứ hai.

Những năm tháng mà ông Hồ có ảnh hưởng nhất chính là những năm tháng của mặt trận dân tộc thống nhất. Còn trong những năm 1930s ông không có được ảnh hưởng đáng kể và do đó đã tạo điều kiện để những lãnh đạo khác như Trần Phú, Hà Huy Tập, Trần Văn Giàu, Lê Hồng Phong, và Nguyễn Văn Cừ chiếm lĩnh sự ảnh huởng. Tất cả các lãnh đạo trên, trừ Nguyễn Văn Cừ, đều được học tập và huấn luyện tại Moscow. Đây có lẽ là cách tiếp cận nghiên cứu Top-down về ảnh huởng lãnh đạo, một xu hướng có phần lỗi thời trong nghiên cứu lịch sử. Nhưng trừ phi chúng ta có đầy đủ tài liệu, bằng chứng về những người và những tư tưởng đã giúp hình thành nên chủ nghĩa dân tộc ở Việt Nam thế kỷ 20, mà không cần đến những kiến thức về nguồn gốc kinh tế và nhân chủng học của các cuộc nổi dậy chống thực dân, thì khung lịch sử của chúng ta chỉ mang tính thuần tuý lý thuyết.

Để hiểu được mối liên quan giữa các chính sách tại Moscow và những sự kiện ở Việt nam chúng tôi đã phải nghiên cứu lại kỹ lượng các cuộc tranh luận và tài liệu chính yếu trong việc thiết lập các chính sách của Quốc tế III đối với các nước thuộc địa. Một trong những thứ quan trọng nhất đó là cuộc tranh luận về bản luận cương về các vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lênin năm 1920, năm Hồ Chí Minh gia nhập Đảng Cộng sản Pháp. Một cuộc tranh luận quan trọng nữa là cuộc tranh luận diễn ra từ năm 1928 đến năm 1929, mà các tài liệu về chủ nghĩa cộng sản tại Việt Nam thường diễn giải sai. Cuộc tranh luận về các chính sách cấp tiến hơn cho phong trào cộng sản quốc tế, thay thế các chiến thuật giành cho các nước thuộc địa mà Lenin đề ra năm 1920. Để phân tích quá trình cấp tiến hoá của phong trào cộng sản tại Việt nam những năm cuối thập niên 20, chúng ta cần xem xét trình tự thời gian mà chính sách của Quốc tế III chuyển sang “giai cấp-đấu-giai cấp” mà thường được gọi là “giai đoạn 3” của chủ nghĩa tư bản sau năm 1918. Trong chương 3, 4, và 5 chúng tôi cũng sẽ phân tích những con đường khác nhau mà những chủ nghĩa cực đoạn kia có thể đã được truyền vào Việt nam. Hơn nữa các sự kiện ở Việt nam được đặt trong một ngữ cảnh rộng hơn đó là ngữ cảnh của toàn bộ Đông Nam Á. Dường như lịch sử ít đề cập đến vai trò của Hội Đồng Nam Hoa của Đảng Cộng sản Trung Quốc tại Việt Nam trong những năm cuối thập niên 20, mà trong nghiên cứu này chúng tôi chỉ ra rằng nó đã tồn tại ở Việt Nam và có lẽ đã hoạt động độc lập ngoài tầm kiểm soát của Quốc tế III.

Có thể có người sẽ cho rằng, đến thời điểm này đã có thể quét sạch những thứ lịch sử bị chính trị hoá, những tuyên truyền thuần tuý về Hồ Chí Minh. Nhưng thực tế, mọi tài liệu đều có vấn đề riêng của nó và cần được diễn giải cẩn thận. Về khía cạnh tích cực mà nói, các sự kiện được đề cập đến trong các tài liệu của Quốc tế III, thường được khẳng định và minh hoạ bởi các tài liệu trong tàng thư của Pháp, nhưng để xác định tác giả, nguồn gốc, ngày tháng của các tài liệu trong tàng thư của Quốc tế III không phải là chuyện dễ dàng. Trong các bản báo cáo gửi về Moscow của mình các lãnh đạo của Đảng CS, nhất là Hồ Chí Minh, thường cố gắng tránh không sử dụng tên thật của mình. Đôi khi có thể xác định chính xác ngày viết và ngày nhận của các bản báo cáo tại Moscow nhưng không phải lúc nào cũng xác định được như vậy.

Một vấn đề khác nữa, không chỉ của riêng Nga, là không phải tất cả các tài liệu đã được bạch hoá. Lấy ví dụ phần tài liệu liên quan đến hoạt động của các bộ phận của Quốc tế III dưới sự điều khiển của NKVD (lực lượng mật vụ Sô Viết, hậu thân của Cheka) vẫn còn đóng kín. Do đó nếu chỉ dựa vào nguồn tài liệu đã bạch hoá ở Moscow, có lẽ còn quá sớm để khẳng định rằng mối quan hệ giữa Quốc tế III và những người cộng sản Việt Nam đã được làm sáng tỏ hoàn toàn. Ví dụ cho đến giờ chúng tôi vẫn chưa có đủ cứ liệu về cuộc điều tra của Quốc tế III về các hoạt động của Hồ Chí Minh ở Trung Quốc cho đến thời điểm ông bị bắt năm 1931. Mặc dù nguồn tài liệu phụ khác cho chúng tôi thấy, Hồ Chí Minh đã bị loại khỏi Đại hội Quốc tế III năm 1935 và trong khoảng thời gian từ năm 1934-1938. Ông “gần như không hoạt động chính trị gì” trong thời gian sống tại Moscow. Vì vậy ta chỉ có thể phỏng đoán rằng đã có một sự nghi ngờ và điều tra từ phía Quốc tế III đối với Hồ Chí Minh tại thời điểm này và có lẽ thông tin về cuộc điều tra này có trong các tài liệu còn đang chưa được bạch hoá kia. Ngay bản thân Hồ Chí Minh, khi khai báo với Quốc tế III cũng thường xuyên đưa những thông tin mơ hồ và trái nghịch về chính bản thân mình. Ví dụ khi nhập học tại trường quốc tế Lenin năm 1934, ông đã khai báo kiến thức nghề nghiệp của mình là “không có gì”. Hay như năm 1938, ông tự khai lý lịch của mình là sinh năm 1903, khoảng 10 tuổi trẻ hơn so với tuổi thật của mình. (25)

Việc sử dụng các nguồn tài liệu từ tàng thư của Pháp cũng có thể gây tranh cãi. Độ tin cậy trong những nguồn tin và phân tích của lực lượng mật vụ Pháp không có gì đảm bảo là chính xác. Hơn nữa các tài liệu tại SPCE được sử dụng ít hơn vì chúng mới chỉ được bạch hoá vào những năm 90. SPCE chỉ lưu trữ các hồ sơ chủ yếu của Phòng nhì liên quan đến các hoạt động của từng nhà cộng sản hay chủ nghĩa dân tộc đơn lẻ. Nguồn tài liệu này lưu trữ những bản cung khai vô giá lấy được của cảnh sát Pháp từ những người Cộng sản bị giam cầm, hoặc các báo cáo của các điệp viên, chỉ điểm của Pháp trong hàng ngũ những người cộng sản.

Mặc dù những nguồn tài liệu này cần được sử dụng một cách hết sức thận trọng, nhưng trong một số tình huống chúng tôi vẫn buộc phải sử dụng các nguồn tài liệu này. Chúng tôi dựa vào những khai báo trung thực đối với cảnh sát Pháp của những người cộng sản từ bỏ hàng ngũ do bất đồng và thường kiểm tra chéo bằng cách so sánh với các lời khai của những người khác về cùng một sự kiện. Điều này đặc biết có lý trong khoảng thời gian từ năm 1930 đến 1931, khi mối bất đồng trong việc lựa chọn chiến lược giữa các lãnh đạo Đảng cộng sản lên đến đỉnh điểm. Đối với những điệp viên và chỉ điểm của Phòng nhì, thì rất có thể họ phóng đại những thông tin, liên hệ và hiểu biết bên trong của họ nhằm lấy lòng chủ của họ là Phòng nhì Pháp. Mặc dù vậy chúng tôi thường chỉ lựa chọn thông tin cung cấp bởi những người chỉ điểm lâu năm và dường như đã chiếm được niềm tin của Phòng nhì Pháp vì điều đó chứng tỏ tài liệu và thông tin của họ cung cấp chính xác hơn những người chỉ điểm khác.

Lấy ví dụ, một điệp viên chỉ điểm thành công nhất của Phòng nhì Pháp chính là Nguyễn Công Viên hay còn được gọi là Lâm Đức Thụ (trong cuốn Wiliam Duiker , Lâm Đức Thụ được mô tả như là một người bạn thân thiết của Nguyễn Ái Quốc, lúc đó là Lý Thuỵ, Lâm Đức Thụ cưới vợ người Hoa, và theo Hoàng Tranh chính là người cùng với vợ giới thiệu Tăng Tuyết Minh làm vợ Lý Thuỵ, Lâm Đức Thụ bị Việt Minh bắn chết năm 1945 tại quê nhà Thái Bình vì tội Việt gian – ND), người không chỉ gửi các báo cáo đều đặn đến phòng nhì về các hoạt động của Hồ Chí Minh ở Quảng Đông từ năm 1925 trở đi mà còn thường xuyên gửi các tài liệu và thư gốc. Lấy ví dụ ông ta chuyển cho Phòng nhì Pháp gần như toàn bộ các số báo Thanh Niên của Hồ Chí Minh, mà bản dịch hiện vẫn đang được lưu trữ ở tàng thư nói trên. Giá trị của các bản báo cáo này đối với các sử gia là ở chỗ ông Hồ đã cố gắng dấu kín các mối quan hệ với cả phía cộng sản lẫn không cộng sản, mà vào những năm 1950 điều này có thể nguy hiểm cho cả hai bên, nên không được bên nào nhắc tới. Điều đó cho thấy sự trái ngược với cách nhìn nhận thời kỳ chiến tranh lạnh rằng đã có sự chia rẽ sâu sắc giữa các nhà hoạt động cộng sản và phi cộng sản những năm 20 ở Nam trung hoa.

Mặc dù quãng thời gian đề cập đến trong nghiên cứu này nằm ngoài tầm ảnh hưởng của thời kỳ chiến tranh lạnh, nó cũng bị ảnh hưởng bởi quan điểm nhìn nhận diễn giải của thời kỳ phân cực này. Do đó nhất thiết cần phải nắm vững những tập quán của “lịch sử chính tranh lạnh mới” khi xem xét lại thời kỳ đầu trong sự nghiệp của Hồ Chí Minh. Theo quan điểm của John Lewis Gaddis, có ba điểm cần nhấn mạnh (26). Đầu tiên cần phải “thấy được đoạn sản phẩm cuả đời sau không phản ánh giai đoạn lịch sử giai đoạn trước”. Chính vì vậy mà các nguồn tài liệu hiện có về Hồ Chí Minh được chúng tôi xem xét cẩn thận kết hợp với sự nghiên cứu về mức độ kiến thức, hiểu biết trực tiếp của tác giả nguồn tài liệu về các vấn đề đề cập trong tài liệu . Quan điểm thứ hai của Gaddis là phải “ xem xét kỹ lưỡng tầm quan trọng của lý tưởng”. Điều đó buộc chúng tôi phải đặt địa vị của mình vào để hiểu được những gì diễn ra trong suy nghĩ của những người chiến đấu chống lại thực dân Pháp, và cố thấu hiểu sức mạnh của những lý tưởng Marxit-Leninit trong những năm 20 và 30 của thế kỷ trước. Để có được sự tôn trọng và duy trì được quyền lực trong phong trào quốc tế cộng sản, những nhà lãnh đạo cộng sản cần phải chứng tỏ họ nắm vững những lý tưởng này như thế nào trước Quốc tế III.

Quan điểm thứ ba của Gaddis là phải sử dụng nhiều nguồn tài liệu từ nhiều tàng thư, và chúng tôi đã cố gắng đạt được điều này thông qua việc nghiên cứu các tài liệu về cuộc đời và sự nghiệp của Hồ Chí Minh từ các tàng thư ở Nga và ở Pháp. Lẽ dĩ nhiên sẽ còn nhiều phát hiện thú vị khác về các hoạt động của Hồ Chí Minh trong giai đoạn này từ các tàng thư của Trung Quốc và Việt Nam khi chúng được bạch hoá đối với các nhà nghiên cứu. Thậm chí ngay cả các tài liệu còn chưa được bạch hoá ở Nga, Pháp, Anh, hay Mỹ sẽ có thể cung cấp thêm cho chúng ta những hiểu biết mới về những năm tháng mà Hồ Chí Minh là Nguyễn Ái Quốc. Mặc dù vậy hy vọng rằng tài liệu này cho thấy được giá trị của nguồn tài liệu từ Quốc tế 3 và cho thấy được sự ảnh hưởng của những thay đổi trong chính sách diễn ra ở Nga lên các hoạt động của Hồ Chí Minh trong giai đoạn này.


____________________________

Chú thích cho chương 0

1. Thái độ này phần nào là do gán ghép về sự phản bội của Hồ Chí Minh đối với nhà lãnh đạo theo chủ nghĩa dân tộc Phan Bội Châu năm 1925. Vấn đề này sẽ được bàn luận trong chương 3.

2. Tran Ngoc Danh, Tiểu Sử Hồ Chủ Tịch, Paris, chi hội Liên-Việt tại Pháp, 1949, trang 6.

3. Trích trong Thai Quang Trung, Collective Leadership and Factionalism, Institute of South East Asia Studies, Singapore, 1985, trang 20.

4. Nguyen Nghia, Công cuộc hợp nhất các tổ chức cộng sản đầu tiên ở Việt nam và vai trò của đồng chí Nguyễn Ái Quốc, Tạp chí Nghiên Cứu Lịch Sử, số tháng 2, năm 1964.

5. Judith Stowe, “Revisionism in Vietnam”, paper for AAS conference, Washington DC, 03/1998, trích cuộc trò chuyện với Hoàng Minh Chính tháng 2 năm 1995, về việc Trường Chinh thú nhận năm 1963 ông Hồ Chí Minh đã bị “vô hiệu hoá”.

6. Trường Chinh, Hồ Chủ Tịch: Lãnh tụ kính yêu của giai cấp công nhân và nhân dân Việt nam, Nhà xuất bản sự thật, Hà nội, 1973, trang 66.

7. Xem ví dụ trong, Pierre Brocheux, Ho Chi Minh, Paris: Presses de Sciences Po, 2000, trang 55-71.

8. Jean Lacouture, Ho Chi Minh, Hamondsworth, Penguin, 1968, trang 33.

9. Branko Lazitch, A Biographical History of the Comintern, Standford, CA: Hoover Institution Press, 1973, trang 378.

10. William J. Duiker, Ho Chi Minh: A Life, Hyperion, New York, 2000, trang 102.

11. Chales B. McLane, Soviet Strategies in South-East Asia: An Exploration of Eastern Policy under Lenin and Stalin, Princeton University Press, 1966, trang 137.

12. Chales Fenn, Ho Chi Minh, New York, Chales Scribner’s Sons, 1973, trang 59.

13. Ton That Thien, Vérités et Mensonges: Le voyage clandestine de Ho Chi Minh en Russie en 1923 et sa disgrâce Au Komintern en 1933-1939, in Ho Chi Minh: L’homme et son héritage, Paris: La Voie Nouvelle, 1990, trang 51-52.

14. Lacouture, sách đã dẫn trang 48.

15. William J. Duiker, The Communist Road to Power in Vietnam, Boulder, CO: West View Press, 1996, trang 21-23; Huynh Kim Khanh, Vietnamese Communism 1925-1945, Ithaca, NY: Cornell University Press, 1968, trang 168-170.

16. A.Neuberg, Armed Insurrection, London: NLB, 1970, Dịch bởi Quentin Hoare từ bản tiếng Đức năm 1928 và bản tiếng Pháp năm 1931.

17. Titerenko, Leunert et al., VKP, Komintern I Kitai (dokumenti), Vol III, 1927-1931, phần 1), Moscow Russien Center, 1999, trang 35.

18. Titarenko et al. Tài liệu đã dẫn, trang 572-574, Letter from Berzin and Sudakov to Shifres.

19. Trần Dân Tiên, Những Mẩu Chuyện về Đời Hoạt Động của Hồ Chủ Tịch, NXB Chính trị Quốc gia, 1994. Việc gán ghép tác giả bản xuất hiện năm 1949 cho Trần Ngọc Danh có gì đó không rõ ràng. Sự thực Trần Ngọc Danh đã bị trục xuất khỏi Đảng Cộng Sản Đông Dương (ICP) năm 1949, có thể sự gán ghép này nhằm làm dịu những thắc mắc bên trong Đảng về tác giả thật của cuốn sách.

20. Yevgeny Kobelev, Ho Chi Minh, Moscow: Progress, 1989 dịch từ bản tiếng Nga năm 1983.

21. Hong Ha, Ho Chi Minh v Strane Sovietov (Hồ Chí Minh trên đất nước Xô viết), Moscow Polit. Literatury, 1986, dịch từ bản tiếng Việt, Hồ Chí Minh trên đất nước Lenin, Hanoi: NXB Thanh niên, 1980.

22. Xem Nguyen The Anh, ‘How did Ho Chi Minh become a Proletarian? Reality and Legend’, Asian Affairs, Vol. 16, Part II; Thu Trang Gaspa, Ho Chi Minh à Paris (1917-1923), Paris: L’Mahattan, 1992; and Daniel Hémery, ‘Jeunesse d’un colonisé, genèse d’un exil, etc.’, Approcies Asie, no. 11, 1992.

23. Trong năm 2001, Tàng thư này được đổi tên thành “Tàng thư quốc gia Nga về lịch sử chính trị xã hội”.

24. Người phụ nữ thứ nhất là “Tuyết Minh”, một cô gái sinh viên hộ lý người Quảng Châu, người bắt đầu cuộc sống vợ chồng với Hồ Chí Minh từ tháng 10 năm 1926. Bà không được đề cập đến trong chương 3 của cuốn sách này vì mối quan hệ đã chấm dứt ngay khi Hồ Chí Minh trốn khỏi Trung Quốc năm 1927. (Xem AOM, SPCE 367, Renseignements fournis par Lesquendieu au sujet de Tuyet Minh, femme chinoise, maitresse de Nguyen Ai Quoc, Hanoi, 28/10/1931). Người phụ nữ thứ 2 là Nguyễn Thị Minh Khai, có tầm quan trọng chính trị lớn hơn người trước (xem chương 5,6, và 7).

25. Các form khai báo hồ sơ nhân sự của ông có tại RC, 496 201/1. Năm sinh khả dĩ nhất của ông là vào khoảng năm 1892 hoặc 1893 theo lời khai của chị ông (bà Thanh) với cảnh sát Pháp năm 1920 (SPCE 364 Note conf. 711, Hue, 7/05/1920). Còn theo nguồn chính thống của Hà Nội thì ông sinh năm 1890.

26. John Lewis Gaddis, We know how: rethinking cold war history, Oxford Clarendon Press, 1997; đặc biệt chương cuối: “The New Cold War History”


_____________________________


Đồng hành cùng Box Du Lịch

(trả lời: lyenson)
Post #: 2


RE: Hồ Chí Minh: Những năm tháng chưa được biết đến - 5.10.2007 23:48:46


lyenson
dừng bước giang hồ





Bài viết đã đăng: 2505
Gia nhập ngày: 18.6.2006
Hiện trạng: offline Chương 1: Sự xuất hiện của Nguyễn Ái Quốc

1919: Con đường đến hội nghị hoà bình Paris

Mùa hè năm 1919, mật vụ Pháp bắt đầu liên tục gửi yêu cầu tới chính quyền bảo hộ tại Hà nội yêu cầu cung cấp thông tin khẩn cấp (1). Một nhà hoạt động chính trị bí ẩn mới xuất hiện ở Paris, chỉ 4 năm sau khi nước Pháp bước vào cuộc chiến nặng nề (chiến tranh thế giới lần thứ nhất –ND). Anh dường như có rất nhiều mối quan hệ với nhiều người trong cái cộng đồng người Việt Nam tạp nham tại Pháp thời điểm đó – bao gồm cả trí thức, công nhân, và binh lính bị bắt sang phục vụ mẫu quốc trong thời kỳ chiến tranh. Hầu như không có ai biết anh là ai và từ đâu đến, một con người hoàn toàn bí ẩn. Tên của anh không có trong hồ sơ lưu trữ về cư trú từ Đông Dương. Trong thời gian chờ đợi tin tức gửi từ phía Phòng Nhì tại Đông Dương, Bộ thuộc địa đã phải gấp rút cử một nhân viên điều tra về con người bí ẩn này, một nhân vật mới xuất hiện trên chính trường Paris.

Anh thường ký tên mình “Nguyễn Ái Quốc” (Nguyễn, người yêu nước) với vị trí là “đại diện cho nhóm những người Việt nam yêu nước”. Anh hành xử với một phong thái thật tự nhiên, mạnh dạn liên hệ trực tiếp với các nghị sỹ, các phái đoàn đến dự hội nghị hoà bình Paris và các chủ báo. Thậm chí tháng 9 năm 1919 anh còn trực tiếp liên hệ với Albert Sarrault, toàn quyền Pháp tại Đông Dương mới trở về nước sau khi hết hạn nhiệm kỳ (2). Thông điệp mà anh mang đến gây sốc đối với các nhà chức trách Pháp. Anh trực tiếp gửi thư thỉnh cầu với tựa đề “Yêu sách của nhân dân An Nam” tới các đại biểu tham gia Hội nghị Hoà bình Quốc tế tại Paris, một diễn đàn chính trị mà ở đó 27 đoàn đại biểu họp để cùng nhau lập ra một trật tự thế giới mới sau cuộc đại chiến lần thứ nhất. Mặc dù thực sự lúc đó ít có đại biểu nào ngoài những người Pháp biết được Việt Nam nằm ở đâu trên bản đồ thế giới, nhưng cũng có một số đoàn đại biểu đã bỏ thời gian để thông báo cho anh về việc họ đã nhận được thỉnh nguyện thư này. Đáng chú ý là lá thư phúc đáp viết rất lịch sự và trang trọng của Đại tá House đại diện cho tổng thống Mỹ Wilson gửi, cũng như một lá thư phúc đáp khác được gửi bởi của một nhà ngoại giao Nicaragoa (3). Hội nghị hoà bình đã thu hút được sự tham gia của nhiều nhà hoạt động chính trị trên thế giới, từ Ireland đến Triều Tiên, tất cả đều bày tỏ mong muốn cho sự độc lập của quốc gia mình. Mặc dù đứng trên quan điểm của người Pháp, chuyện đòi độc lập của Việt Nam tại thời điểm đó là không tưởng, nhưng đối với những người Việt Nam yêu nước, thì đó có thể là cơ hội để có sự thay đổi. Các đế chế Nga và Phổ đã suy yếu, còn tổng thống Mỹ Wilson đã hứa sẽ chấm dứt tình trạng ngoại giao trong bí mật, trong đó những nhà quý tộc hay chính trị gia trong hoàng gia hay chính phủ các nước Châu Âu có thể tự quyết định từ xa số phận của hàng triệu người dân các nước thuộc địa.

Bản yêu sách của người dân Việt Nam kêu gọi các cường quốc chiến thắng trong đại chiến thế giới lần thứ nhất hãy giữ đúng lời hứa của họ về về một kỷ nguyên mới của “luật lệ và công bằng” cho những người dân thuộc địa. Bản yêu sách này cũng xuất hiện trong một bài báo ngắn trên trang 3 của tờ báo theo xu hướng dân chủ xã hội L’Humanité, ngày 18 tháng 6 năm 1919. Một bản báo cáo với những đòi hỏi về dân chủ và nhân quyền rất vừa phải. Đó là những đòi hỏi về:
1) Trả tự do cho tất cả những tù nhân chính trị trong nước.

2) Cải tổ lại hệ thống pháp luật để người dân Đông Dương được bình đẳng trước Pháp luật như đối với người Châu Âu.

3) Tự do ngôn luận và tự do báo chí.

4) Tự do lập hội.

5) Tự do di cư và ra nước ngoài cư trú.

6) Tự do mở các trường dạy kỹ thuật và dạy nghề tại các tỉnh giành cho dân bản xứ.

7) Thay thế luật cai trị bằng pháp trị.

8) Đề nghị có dân biểu do dân Việt Nam bầu ra trong nghị viện Pháp để có thể nói lên những nguyện vọng và mong muốn của nhân dân bản xứ.

Bản yêu sách này được ký: “Đại diện cho nhóm người Việt yêu nước, Nguyễn Ái Quốc”.

Tuy nhiên vào thời điểm đó giới cầm quyền tại Pháp không hề có ý định buông lỏng quyền lực kiểm soát thuộc địa cũng như mạng sống của người dân thuộc địa tại bất cứ đâu cho dù đó là người Algeria, Campuchia hay Việt Nam. Nước Pháp vừa bước ra khỏi một cuộc chiến mà miền bắc của họ đã bị tàn phá nặng nề, mà tài nguyên ở các nước thuộc địa có vai trò rất quan trọng đối với việc phát triển và khôi phục kinh tế Pháp sau chiến tranh. Vậy nên chính quyền Pháp cảm thấy sốc trước sự xuất hiện và bản yêu sách của một người dân thuộc địa, bất ngờ xuất hiện trong cuộc họp của những người chiến thắng, và lẽ tự nhiên chính phủ Pháp không đáp ứng lại bản yêu sách này mà xem nó như một hành động đòi lật đổ chính quyền thuộc địa. Họ công khai trên phương tiện truyền thông nhà nước xem bản yêu sách kia là một sự "báng bổ" (4). Trong hồ sơ hải ngoại Pháp (French Oversea Archives), nhiều tài liệu cho thấy chính quyền Pháp đã gần như ngay lập tức tìm cách phát hiện ra nơi cư trú của Nguyễn Ái Quốc và cử người theo dõi anh suốt thời gian ở Paris năm 1919 và cả sau này cho đến năm 1923. Đáp lại chiến dịch kêu gọi nhân quyền cho người Việt tháng 6 năm 1919, bộ phận quản lý binh lính người Việt tại Pháp thành lập bộ phận Service de Renseignerment (SR) dưới sự chỉ huy của Pierre Arnoux (5). Chỉ điểm của SR trà trộn vào nhóm bạn bè người quen của Nguyễn Ái Quốc, ghi lại và báo cáo về các buổi nói chuyện của anh (6). Họ thu thập các bài báo, thư từ mà anh định gửi về Việt Nam, việc làm của họ như thể cho anh thấy rằng cách thức duy nhất có thể chống lại chính quyền bảo hộ là hoạt động bí mật.

Vào mùa thu năm 1919, thông tin tình báo thu thập được đã cho phép chính quyền Pháp xây dựng được bức chân dung ban đầu về người Việt bí ẩn kia:

“Nguyễn Ái Quốc tự nhận mình sinh ra ở Nam Đàn, Nghệ An, hiện đang ở cùng Phan Văn Trường, dường như đã học ở Anh và sống ở đó khoảng 10 năm, điều hành một nhóm người Việt yêu nước không được thừa nhận, dường như anh ta đã thay thế Phan Chu Trinh và Phan Văn Trường trong vai trò này. Hãy cho biết những thông tin mà các ngài cần biết, cần thu thập về con người này” (7)

Một chỉ điểm người Việt khác có bí danh là “Edouard” cung cấp thông tin tên thật của Quốc là Nguyễn Văn Thành, gần đúng so với tên mà cha của Quốc gọi anh lúc trưởng thành Nguyễn Tất Thành (Nguyễn, người sẽ thành công). Phần lớn những thông tin còn lại cung cấp bởi Edouard đều sai lệch (có lẽ là do chính Quốc cung cấp) trong đó cho biết Quốc quê ở Đà Nẵng và hiện đang sống nhờ vào tiền trợ cấp từ gia đình khá giả của anh. (8) Đến tháng 12 năm 1919, mật vụ Pháp đã thường xuyên qua lại và theo dõi mọi hành động tại số 6 Villa des Goblins. Đó là một khu nhà yên tĩnh nằm trong một ngõ cụt ở phía đông nam Paris, nơi có một anh thanh niên tự xưng là Quốc ở cùng với luật sư Phan Văn Trường và nhà sĩ phu bị lưu đầy Phan Chu Trinh.

Đối với những người Việt yêu nước chống đế quốc, hai trí thức họ Phan là những người nổi tiếng đáng kính trọng, thậm chí đối với Phan Chu Trinh là sự tôn thờ. Phan Văn Trường từng bị bắt vào thời kỳ đầu xảy ra chiến tranh năm 1914 vì bị buộc tội là đã hỗ trợ và hợp tác với phòng trào đấu tranh khởi nghĩa chống lại thực dân Pháp tại Đông Dương. Phan Chu Trinh cũng bị nghi ngờ là đã tham dự vào các kế hoạch nổi loạn ở Đông Dương nói trên và đã liên lạc với người Đức. Chính vì lý do đó mà Phan Chu Trinh từng bị câu lưu tại nhà tù Cherche-Midi tại trung tâm Paris. Mặc dù vậy những lời buộc tội hai nhà trí thức này đã bị dỡ bỏ chỉ sau một năm khi nhân chứng chính yếu người Việt bị tâm thần và không thể làm chứng trước toà (9). Thế nhưng chính quyền Pháp vẫn nghi rằng họ có tội (10). Đối với Phan Văn Trường, sự nghi ngờ này có thể xuất phát từ truyền thống phản kháng nổi loạn của gia đình ông. Hai người anh em của ông đã bị kết tội lưu đầy và lao động khổ sai vì đã tham gia vụ đánh bom làm chết hai sỹ quan chỉ huy quân đội Pháp ở Bắc Kỳ (một trong rất nhiều vụ đánh bom được thực hiện bởi những người theo Phan Bội Châu, lúc bấy giờ đang lưu vong ở nước ngoài). Chuyến đi năm 1913 của Phan Văn Trường sang Anh để gặp Joseph Thanh, một phái viên của hoàng tử Cường Để, càng làm tăng sự nghi ngờ này (11). Phía Pháp cũng rất ngại sự hiểu biết và thông tuệ của Phan Văn Trường, một người được đào tạo làm phiên dịch tại Hà Nội, nhờ những năm tháng học luật tại Paris đã trở thành người có khả năng tranh luận chính trị hết sức sắc sảo và nhạy bén.

Bản thân Phan Chu Trinh đến Pháp năm 1911 sau khi được ân xá khỏi nhà tù vì đã tham gia vào việc ủng hộ và khuyến khích phong trào đấu tranh đòi giảm sưu thuế của nông dân trung kỳ năm 1908. Trong năm đầu ở Paris, công việc chủ yếu của Phan Chu Trinh là đấu tranh nhằm buộc chính phủ thuộc địa Pháp phải trả lại tự do cho các đồng chí của mình. Bài viết “Toàn cảnh cuộc nổi dậy của nông dân trung kỳ” lên án sự đàn áp nặng nề của thực dân Pháp đối với những người nông dân tham gia đấu tranh đòi giảm sưu thuế đã được dịch sang tiếng pháp bởi Jules Roux (một nhà hoạt động xã hội theo hướng dân chủ xã hội, người đã can thiệp và đại diện cho Phan Chu Trinh lúc ông bị bắt vào tù) (12). Chính phủ Pháp lo sợ ảnh hưởng của Phan Chu Trinh tới các sinh viên Việt Nam tại Paris thời trước chiến tranh và cố gắng cô lập ông khỏi những nhà hoạt động cách mạng người Á khác đang tập hợp tại khu phố Latin (13). Mặc dù vậy những cố gắng của chính quyền Pháp không mang lại thành công nào. Năm 1912, Phan Chu Trinh và Phan Văn Trường đã thiết lập được một câu lạc bộ người Việt thường tụ tập nhau tại các quán Cafe hay quán ăn Tầu tại Montparnasse, nơi họ không chỉ nói những chuyện thông thường của cuộc sống tha hương, Trinh luôn cho rằng mình không dính dáng gì đến các âm mưu chống lại thực dân Pháp của Phan Bội Châu và hoàng tử Cường Để. Để chứng minh sự trong sạch của mình thậm chí Trinh còn gửi cho bộ thuộc địa một lá thư của hoàng tử Cường Để gửi cho ông năm 1913 (14). Những lời chứng chống lại ông có thể là do chính quyền quân sự thêu dệt nên. Nhưng chính người phiên dịch cho ông vào năm 1915 đã khai rằng "Phan Chu Trinh nhận tiền trực tiếp từ Đức của chính phủ Đức thông qua hai phái viên của hoàng tử Cường Để là Trương Duy Toàn và Đỗ Văn Ý" (15). Người chỉ điểm cũng cho biết trong trường hợp xảy ra nổi loạn tại Việt nam chính phủ Đức hứa sẽ cấp thêm tiền thông qua người của họ ở Trung Quốc. Quan điểm xem Phan Chu Trinh là một người vận động bằng lời nói và bài viết hơn là người tham gia tổ chức các kế hoạch nổi dậy trên có lẽ là quan điểm gần với sự thật nhất. Người cầm đầu nhóm điều hành Đông dương (mà Phan Chu Trinh là một thành viên) đã viết như sau lên cấp trên của mình:”Nếu có một người sinh viên hay học sinh trẻ tuổi người Đông Dương, thì đối với anh ta Phan Chu Trinh là người chỉ biết dùng lời nói để đấu tranh chứ không phải là hành động, nhất là khi nếu người sinh viên hay học sinh trẻ tuổi này có mối liên hệ với những người Trung Quốc, Nhật, Ấn Độ..., những kẻ tín đồ của các phương thức đấu tranh cực đoan hơn” (16).

Việc Phan Văn Trường và Phan Chu Trinh tham dự vào những chuyện nổi dậy ở quê nhà như thế nào vẫn còn là điều chưa rõ ràng. Bằng chứng tố cáo họ cuối cùng không có sức thuyết phục vì kẻ chỉ điểm đã mắc bệnh và bị câm. Sau khi được thả khỏi tù năm 1915, trợ cấp chính phủ cho Phan Chu Trinh bị cắt và ông buộc phải tự kiếm sống bằng nghề in tráng ảnh. Sự quấy rối thường xuyên của cảnh sát Pháp làm ông không mấy tin tưởng nữa vào tầng lớp lãnh đạo của mẫu quốc (17). Phan Văn Trường thì bị bắt buộc làm việc cho quân đội với tư cách là một thông dịch viên tại kho vũ khí Toulouse và sau khi được giải ngũ năm 1918, ông bắt đầu hành nghề luật sư. Cho đến những năm cuối của cuộc chiến hai người đã thành lập nên một nhóm người Việt mới có tên là “Hội người Việt yêu nước”.

Quan hệ của Nguyễn Ái Quốc đối với hai sỹ phu họ Phan là không rõ ràng dưới con mắt của những người ngoài cuộc. Người thanh niên với cái tên này chỉ đáng tuổi con của Phan Chu Trinh và chưa cho thấy chút phẩm chất học giả nào. So với Phan Văn Trường, anh chỉ như một người dân quê lên tỉnh. Do sự khác biệt như vậy nên sau này nhiều người sau này đã cho rằng thực chất Quốc chỉ là người đưa tin, mang thông điệp và đại diện cho hai nhà hoạt động chính trị nổi tiếng hơn kia mà thôi. Nhà trí thức theo phái Trostkit Hồ Hữu Tường trong hồi ký của mình đã viết rằng, mọi ý tưởng của nhóm là do Phan Chu Trinh đưa ra, sau đó Phan Văn Trường và những người khác dịch sang tiếng Pháp, còn Quốc mang các bài viết đến các toà soạn báo. Mặc dù ông Tường không có liên hệ trực tiếp nào với nhóm trên (18), nhưng trong hồ sơ của phòng nhì Pháp cũng cho thấy một chỉ điểm người Việt có bí danh là “Chỉ điểm Jean” cũng có cùng kết luận như vậy trong một báo cáo của mình lên thanh tra Arnoux vào năm 1919. “Chỉ điểm Jean” báo cáo Arnoux rằng Quốc “chẳng qua chỉ là kẻ cầm đầu bù nhìn thông minh được ngụy trang bằng những sự bí ẩn nhằm làm tăng vẻ khả kính. Nguyên nhân là hiện Phan Chu Trinh và Phan Văn Trường đang bị theo dõi bởi pháp luật nên Quốc bây giờ được đóng vai lãnh đạo” (19).

Phần lớn những bản báo cáo của cảnh sát Pháp thì lại nhìn nhận anh Quốc bí ẩn như là một người có tri thức và kinh nghiệm xã hội bên cạnh hai họ Phan chứ không phải là một chú bé ngây ngô. Vào cuối năm 1919, Chỉ huy quân đội Đông dương tại Pháp, Pierre Guesde, lại tin rằng Quốc thực sự là một nhà hoạt đống chính trị. Những bản báo cáo mà tướng Guesde có được từ những chỉ điểm của ông ta cho thấy Quốc là một người tích cực đấu tranh cho quyền con người ở Việt nam, một nhà hoạt động chính trị với tâm huyết bù vào khiếm khuyết vì không được học hành đào tạo bài bản. Các bản báo cáo cho thấy Quốc thường xuyên liên hệ với các đại biểu theo chủ nghĩa dân tộc đến dự hội nghị hoà bình từ Ireland, Trung Quốc, và Triều Tiên. Các bản ghi báo cáo về những cuộc nói chuyện của Quốc với bạn bè trong hội người Việt cho thấy anh nhận thức được rất rõ những vấn đề mà dân tộc anh đang phải hứng chịu và nhận thức này chịu sự ảnh hưởng sâu sắc các quan điểm của Phan Chu Trinh. Lấy ví dụ vào tháng 12, chỉ điểm viên người Việt “Edouard”, có lẽ là một viên chức người Việt trong bộ thuộc địa đã gửi một bản tường trình dài 11 trang về một buổi tối tại số 6 Villa des Gobelins. Phần đầu của bản báo cáo nói về cuộc nói chuyện với Nguyễn Ái Quốc về vấn chuyện toàn quyền Đông Dương mới trở về nước sau khi hết hạn nhiệm kỳ, Albert Sarraut, người sau này trở thành bộ trưởng bộ thuộc địa, và những kế hoạch cải tổ của ông ta.

Edouard viết “Quốc gần như hoàn toàn tán đồng với các chính sách ở Đông Dương của toàn quyền Sarraut đặc biệt là việc thiết lập một hệ thống giáo dục kiểu Pháp và xây dựng hệ thống đường xe lửa giúp khai thác các khu rừng ở An nam và Lào”. Anh ta viết tiếp những nhận định theo lời của Quốc:

“Quốc nói ngài Albert Sarraut đã cho xây dựng một đại học và một trường trung học ở Hà nội, điều đó tốt nhưng mới chỉ là sự khởi đầu. Với 20 triệu dân ở Đông Dương chúng ta cần không phải là 1 trường trung học mà là 20 thậm chí 30 trường trung học. Người dân cần phải được giáo dục bắt buộc, bởi vì chính họ tạo nên đông đảo tầng lớp quần chúng chứ không phải giới thượng lưu của xã hội ... nhiều người cứ vin cớ thiếu tiền bạc để giải thích về vấn đề phát triển giáo dục ở Đông Dương và họ sẽ còn sử dụng lý do này để chống lại toàn quyền kế nhiệm tiếp tục công việc mà ngài Albert Sarraut đã bắt đầu“ (20).

Khi Phan Chu Trinh đến và tham dự vào cuộc nói chuyện thì ông và Edouard tiếp tục bàn luận về chính sách tương lai và những yêu sách người dân thuộc địa có thể đòi hỏi từ toàn quyền mới, Maurice Long. Nguyễn Ái Quốc xen ngang và cho rằng người dân thuộc địa lại sẽ chẳng bao giờ được gì nếu chỉ bằng cách đưa yêu sách và chờ sự nhân nhượng của thực dân Pháp, Quốc nói: “Tại sao 20 triệu đồng bào chúng ta lại không thể làm gì để buộc cho chính quyền thực dân phải trao trả lại nhân quyền? chúng ta đều là người cả vậy phải được đối xử bình đẳng? những kẻ không chịu đối xử bình đẳng với ta thì phải coi chúng là kẻ thù“. Phan Chu Trinh quay ra quở lại Quốc vì sự bộp chộp:“Thế anh muốn đồng bào của chúng ta không tấc sắt trong tay đối đầu lại với người Tây phương với vũ khí tối tân ư?“ ông hỏi tiếp “Tại sao cứ phải đẩy người dân chết một cách vô nghĩa mà chẳng thu được kết quả nào?“ (22) Quan điểm đấu tranh bất bạo lực của Phan Chu Trinh rõ ràng đối nghịch với quan điểm bạo động của Phan Bội Châu, mà sau này Quốc đã tiếp thu, cũng như anh tiếp thu quan điểm của bậc tiền bối của mình về việc phát triển kinh tế và giáo dục. Nhưng anh nhanh chóng rời bỏ quan điểm của Phan Chu Trinh về phương pháp yêu sách đòi nhân quyền trong hoà bình một cách “nhẹ nhàng, từng bước, và bền bỉ“ (23).

Để có một bức tranh hoàn chỉnh và khách quan về con người mà sau này là Hồ Chí Minh tại thời điểm mới đến Paris, theo quan điểm của chúng tôi, chúng ta cần phải bắt đầu với các tài liệu và bằng chứng cung cấp bởi Phòng Nhì Pháp. Sau đó lần ngược trở lại những năm tháng trước từ khi anh rời Việt nam năm 1911 đến khi anh xuất hiện dưới cái tên Nguyễn Ái Quốc. Sau khi cân nhắc các bằng chứng, chúng tôi cho rằng cho tới thời điểm năm 1919, ông Hồ đã là một nhà hoạt động chính trị có kinh nghiệm, và ông đã hoạt động tích cực trong khoảng thời gian đó chuẩn bị cho vai trò của mình sau này trong công cuộc giải phóng dân tộc thoát khỏi ách đô hộ của thực dân Pháp. Mặc dù rõ ràng, Phan Văn Trường là tác giả của bản tiếng Pháp bản yêu sách của nhân dân An Nam gửi tới hội nghị hoà bình tại Paris, và là tác giả của phần lớn các bài báo ký tên Nguyễn Ái Quốc vào năm 1919 đó, thì Hồ có lẽ cũng là một nhân tố tích cực trong việc thúc đẩy phong trào đòi nhân quyền cho nhân dân Đông Dương vào thời điểm tháng 6 đó tại Paris. Thực tế đó cũng là lời giải thích trong cuốn tự truyện của Hồ (lấy tên là Trần Dân Tiên –ND): tác giả nói chính ông là người đưa ra các ý tưởng cho bản yêu sách, nhưng Phan Văn Trường là người soạn bằng tiếng Pháp, bởi bản thân Hồ tại thời điểm đó không có khả năng viết tiếng Pháp một cách trôi trảy. (24) Người thanh niên trẻ tự xưng là Nguyễn Ái Quốc đã chứng tỏ các kỹ năng tổ chức chính trị đối với cộng đồng người Việt vượt lên trên cả chuyện viết tuyên ngôn hay thư ngỏ.

Một trong những đầu mối của việc chứng minh kinh nghiệm chính trị của Hồ trước năm 1919 chính là việc anh đã từng có những liên hệ với đoàn Triều Tiên ở hội nghị hoà bình Paris. Chỉ điểm “Jean“ báo cáo rằng Quốc đã học được rất nhiều ý tưởng từ phong trào đòi độc lập của Triều Tiên. (25) Hội dân tộc Triều Tiên hoạt động ở Mỹ đã bắt đầu chiến dịch đấu tranh đòi độc lập từ Nhật bản gần như ngay khi tổng thống Mỹ Woodrow Wilson ra bản tuyên bố 14 điểm vào tháng giêng năm 1918. Lời kêu gọi trao trả độc lập cho họ từ Nhật bản được đưa ra vào ngày 12 tháng 5 năm 1919, chỉ khoảng 1 tháng trước khi bản yêu sách của nhân dân An nam xuất hiện tại Paris. Một tờ báo Trung Quốc in ở Tianjin, tờ Yishibao, ra ngày 18 và 20 tháng 9 năm 1919 đăng bài phỏng vấn Nguyễn Ái Quốc tại Paris, giải thích rằng Quốc đã trao đổi kinh nghiệm và ý tưởng với đoàn Triều Tiên trong một chuyến anh sang thăm nước Mỹ. (26) Tác giả của bài báo, có lẽ là một Người Hoa hay Triều Tiên sống tại Mỹ mô tả Quốc như một đại diện của Việt Nam tại hội nghị hào bình tại Paris. Trong phần giới thiệu bài báo viết:

"Phóng viên tại Mỹ qua lời giới thiệu của hai đại diện của chính phủ lâm thời Triều Tiên là Kin-Tchong-Wen và Kim-Koei-Cho đã có cơ hội phỏng vấn Nguyễn Ái Quốc. Nguyễn Ái Quốc tuổi khoảng 30 trông trẻ trung và mạnh bạo; Anh có thể nói được tiếng Anh, tiếng Pháp, và cả tiếng Hoa; anh đã gặp đại diện Kim của đoàn Triều Tiên trong thời gian anh ở Mỹ, anh đã nói về các vấn đề độc lập dân tộc và tin tưởng rằng tình hình của hai nước khác nhau và do đó có thể có những cách đi khác biệt của riêng mình" (27).

Trong bài phỏng vấn này, Hồ Chí Minh đã cho thấy rõ việc đưa yêu sách ra hội nghị hoà bình chỉ là bước đi ban đầu, bản tóm tắt tiếng Pháp của cuộc phỏng vấn này cũng chỉ rõ:“Bản yêu sách của anh ta tại hội nghị rút cục đã thất bại xong anh ta vẫn tiếp tục trong nỗ lực của mình để gặp gỡ nhiều nhân vật chính trị và đã gây được sự chú ý của một số“ (28) Bản tóm tắt còn trích lời Nguyễn Ái Quốc:“bên cạnh việc đưa bản yêu sách ra các nghị viên, tôi còn tích cực vận động sự ủng hộ từ nhiều nơi. Đảng dân chủ xã hội không hài lòng với các hành động của chính phủ và có ý định ủng hộ chúng tôi. Đó là hy vọng duy nhất chúng tôi có tại Pháp. Đối với sự vận động của chúng tôi với các đất nước khác thì chính nước anh (nước Mỹ) là nơi ủng hộ chúng tôi nhiệt thành nhất...“ (29)

Bộ phân SR của Pháp tại Bắc Kinh đã gửi bản dịch tiếng Pháp của bài phỏng vấn này về Paris kèm theo nhận xét sau:

“Trong điểm 9 báo cáo hôm mùng 5 tháng 6 tôi đã lưu ý các ngài về tờ báo Trung Quốc Yi Che Pao (Yishibao), trong nhiều năm với nhiều bài đã vi phạm nghiêm trọng vào quyền lợi quốc gia của Pháp và của Đông Dương. Tháng tư vừa qua tờ báo này đã cho đăng một bản tuyên ngôn của người Việt. Quá đáng hơn nữa, trong khi các hoạt động phản kháng lại quân đội Nhật Bản gần đây tại Bắc Kinh do cuộc đàm phán về Tsing-Tao gây ra, tờ báo này đã cho đăng nhiều bài báo kết tội Pháp đã bí mật cấu kết và thoả hiệp với Nhật trong thời gian chiến tranh ... „ (30)

Quan hệ của tờ báo Yishibao với phòng trào yêu nước của người Việt có thể dễ dàng nhận thấy, nhất là bản thân Hoàng tử Cường Để từng đăng nhiều bài báo trên báo này với nội dung gần giống như bản yêu sách của dân An Nam kia. Các bản copy của các bài báo trên tờ này xuất hiện trên tường của các trại công nhân Trung Hoa ở Marseille tháng 6 năm 1919 (31). Hồ nói với chỉ điểm Jean rằng anh đã bàn với đoàn đại diện Triều Tiên để gửi bản yêu sách của mình (hay của Phan Văn Trường?) để đăng trên tờ báo ở Tianjin (32). Dường như đã có sự phối hợp nào đó giữa những gì xảy ra ở Paris và những người theo phái của Cường Để, Phan Bội Châu ở Trung quốc.

Một trong những thách thức cần phải giải quyết đối với quan điểm nhìn nhận Hồ Chí Minh như một nhà hoạt động chính trị có kinh nghiệm năm 1919 là theo trình tự thời gian của những năm đầu bôn ba hải ngoại của ông, thì Hồ mới chỉ đến Paris vào năm 1917 và sống ở đó mà không gây nên sự chú ý nào của nhà chức trách cho đến khi xảy ra sự kiện tại Hội nghị Hoà bình Quốc tế. Hồ trước đó hoàn toàn không có vai trò gì trong nhóm người Việt yêu nước ở Pháp. Thêm một lý do cho sự nghi ngờ về giả thuyết trên là các mối quan hệ của gia đình ông Hồ và bản thân ông với Phan Chu Trinh và Phan Bội Châu đã không được làm rõ cho đến tận năm 1992. Với sự thiếu hụt thông tin và bối cảnh như vậy, thật khó tin là một anh phụ bếp, một người lao động chân tay như trong cách tuyền truyền của Đảng cộng sản về ông Hồ thời trai trẻ lại có thể nhanh chóng biến hoá thành người đại diện cho một phong trào yêu nước. Dưới đây chúng tôi sẽ cố gắng cắt nghĩa điều này.

Về vấn đề ngày tháng tới Paris của Quốc, có lẽ bằng chứng đáng tin cậy nhất chính là hồ sơ của cảnh sát Pháp, ở đó ghi nhận anh đến Paris vào tháng 6 năm 1919 từ London (33). Thông tin trong hồ sơ cho biết Hồ đến Paris ngày 7 tháng 6 năm 1919 từ London, ban đầu anh ở số 10 rue de Stockholm sau đó là số 56 rue M. le Price, và tiếp theo là số 6 Villa des Gobelins. Nếu ước lượng trên báo chí Triều Tiên về cuộc gặp mặt của Hồ với đoàn đại diện Triều Tiên ở Mỹ là chính xác, thì chắc chắn đó không phải là chuyến dừng chân tại nước Mỹ của Hồ ở New York khi anh còn là một phụ bếp. Thời điểm đó là vào tháng 12 năm 1912, khi anh viết thư cho toàn quyền ở Huế để tìm cách gửi tiền cho cha mình. Mặc dù lá thư được dán tem gửi từ New York, Hồ lại ghi địa chỉ của mình là địa chỉ bưu điện tại Le Havre và nhận mình là một thuỷ thủ (34). Tại thời điểm đó Quốc chưa có đủ thời gian học tiếng Anh, anh mới chỉ rời khỏi đất nước mình có một năm rưỡi. Theo cách nhìn nhận của chúng tôi, thời điểm Quốc gặp đoàn đại diện của Triều Tiên ở Mỹ chỉ có thể là giữa năm 1917 và 1918, khi các nhóm Triều Tiên yêu nước hoạt động tích cực hơn tại Mỹ. Chưa có bằng chứng nào cho thấy Quốc sống ở Pháp trong thời gian này nhưng bản thân Quốc từng khai báo vởi Quốc tế III là anh từng làm việc cho một gia đình giầu có ở Brooklyn vào năm 1917 và 1918. Tài liệu trên của Quốc tế III cũng ghi rõ là anh đến Pháp năm 1919. Thông tin này đáng khả nghi bởi trong cùng bản khai báo trên, những thông tin khác Quốc cung cấp về mình cho Quốc tế III đều là các thông tin giả mạo, ví dụ Quốc khai mình sinh năm 1903 mẹ mình chết năm 1910 (35). Cũng có thể Quốc có đưa thông tin trên là phần sự thật để cải trang cho những thông tin giả mạo còn lại. Thông tin được đưa ra bởi nhà hoạt động cho hoà bình David Dellinger năm 1969 cũng cho thấy nhiều khả năng ông Hồ đến Mỹ sau năm 1916. Hồ Chí Minh đã nói với Delllinger rằng thời gian ở Mỹ, ông đã từng tham dự buổi diễn thuyết của Marcus Harvey ở Harlem (36). Bản thân Harvey, người lãnh đạo phong trào “trở về Phi Châu” cũng chỉ đến Mỹ từ năm 1916 từ Jamaica. Trong những năm 1917 và 1918, Harvey thường xuyên có các cuộc diễn thuyết về vấn đề chủng tộc tại Harlem, đặc biệt sau khi tổ chức Ku Klux Klan (3K - tổ chức khủng bố phân biệt chủng tộc tại Mỹ - ND) được thành lập năm 1915. Hồ Chí Minh năm 1924 đã viết một bài báo mô tả những cuộc hành hình người da đen của 3K tại miền nam nước Mỹ - có thể những thông tin mà Hồ có là từ các buổi tham dự các cuộc diễn thuyết của Harvey (37).

Nếu đúng như giả thuyết Hồ có mối liên hệ với nhóm yêu nước người Triều Tiên tại Mỹ năm 1917 hay 1918, thì nó đưa đến câu hỏi: Liệu anh thanh niên này đã tham gia vào chính trị tình cờ trên con đường bôn ba du lịch vòng quanh thế giới của mình (với tư cách là thuỷ thủ, phụ bếp –ND)? Hay anh ra nước ngoài với mục đích tìm đường cứu nước? Vào thời điểm năm 1911 và 1917 liệu anh có phải là một thành phần tham dự trong phòng trào hoạt động cách mạng đòi độc lập cho tổ quốc mình? Đối với chính quyền Pháp, họ đã có câu trả lời vào năm 1920 khi cuối cùng họ đã tìm ra anh và chị của Quốc. Nhà chức trách cuối cùng đã phác thảo ra được chân dung của một người đáng ngờ do tiền sử gia đình và các mối quan hệ của gia đình anh ta.

Cả anh và chị của Hồ Chí Minh đều đã từng bị kết án lao động khổ sai vì tham gia phòng trào đấu tranh khởi xuớng bởi Phan Bội Châu. Chị của ông nhớ lại là năm 1915 bà nhận được tin Hồ đang ở London. Anh trai Hồ thì kể rằng Hồ đã từng nhập học ở Quốc Học Huế, nhưng sau đó bỏ học ngay sau khi cha họ mất chức quan huyện. Anh thanh niên Hồ (lúc đó là Nguyễn Tất Thành –ND) sau đó đã tới Phan Thiết, làm trợ giáo tại trường tư thục Dục Thanh, được lập nên bởi một ái hữu của Phan Chu Trinh (39). Cả anh và chị của Hồ đều khai rằng Hồ có một vết sẹo ở tai do một tai nạn hồi nhỏ (vết sẹo phía trên tai trái của Hồ sau này trở thành một dấu hiệu chủ yếu để cảnh sát Pháp nhận dạng ông) (40).

Sau khi tìm ra nhà hoạt động chính trị bí ẩn Hồ là thành viên của gia đình Nguyễn Sinh Huy, người Pháp đã nhanh chóng xác định được các thông tin khác, các bản báo cáo về các thông tin liên quan đến Hồ trước năm 1919 đã cho thấy được sự biến chuyển trong con người này như thế nào. Cả Hồ và anh của ông đã bị Hiệu trưởng trường Quốc học Huế gọi lên khiển trách vì thái độ thù nghịch với người Pháp trong thời gian diễn ra các sự kiện lôn xộn tại Huế (biểu tình của nông dân –ND) năm 1908 (41). Điều này trùng khớp với thông tin cung cấp bởi chỉ điểm “Edouard”, người báo cáo với Phòng Nhì Pháp rằng Quốc từng ở Huế khi xảy ra sự kiện năm 1908 và Quốc tỏ thái độ không dung thứ với hành động của người Pháp trong sự kiện đó. “Anh ta nói rằng anh ta đã trực tiếp chứng kiến cảnh người dân Việt nam biểu tình với tay không trước toàn quyền tại Huế để phản đối việc lao động khổ sai cưỡng bức (đi sưu –ND) … và người Pháp đã xả súng bắn vào người dân để giải tán biểu tình” (42).

Các bản báo cáo này cũng cho thấy sự ảnh hưởng đáng kể của sự nghiệp cụ thân sinh ra ông Hồ đến đến sự phát triển của Nguyễn Tất Thành/Nguyễn Ái Quốc. Mặc dù ông Nguyễn Sinh Huy thi đỗ Phó Bảng năm 1901 cùng năm với Phan Chu Trinh, nhưng ông không có một sự liên hệ công khai nào với các phong trào cách mạng yêu nước dẫn đến những cuộc biểu tình đòi giảm tô, giảm thuế ở Trung kỳ năm 1908. Năm 1919, ông được bổ nhiệm làm tri huyện ở một huyện mới được khai khẩn ở tỉnh Bình Định (huyện Bình Khê –ND) (43). Thế nhưng chỉ sau vài tháng làm quan, ông đã dính vào một vụ scandal. Ông bị buộc tội đã xử đánh đòn một nông dân mà sau đó người này đã chết, có lẽ là do trận đòn quá nặng. Năm 1910, Huy bị chính quyền tỉnh giáng 4 cấp, và gần như mất nguồn thu nhập từ lương bổng. Bản thân Huy cho rằng cái chết của người nông dân kia chẳng liên quan gì đến trận đòn phạt. (44) Nhưng Phòng Nhì Pháp tại Huế báo cáo rằng Huy phạm tội ngộ sát trong lúc đang say rượu (45). Tháng giêng năm 1911, Huy xin phép để vào Sài Gòn-Gia Định kiếm sống, nhưng cảnh sát Pháp từ chối vì “nghi ngờ Huy có cảm tình và dính líu với Phan Bội Châu và Phan Chu Trinh”. Đại diện mật vụ Pháp ở Huế nhận xét: ” Con trai ông ta 2 năm trước đã đột ngột biến mất, có lẽ là đang ở miền nam, có thể Nguyễn Sinh Huy vào đó với mục đích là để tìm con và gặp Phan Chu Trinh chứ không phải đơn thuần là kiếm sống” (46). Không đợi sự đồng ý của chính quyền, Huy tự tìm đến mối quan hệ với quan lại người Việt ở Huế và được cho đi nhờ bằng đường biển vào nam từ Đà Nẵng vào ngày 26 tháng 2. Toàn quyền ở Huế thông báo đã có thông tin cung cấp từ phía toà án rằng: ”Mục đích chuyến đi của ông ta (Huy) không rõ ràng, có người nói rằng mục đích chuyến đi của Huy là chuyển thông tin giúp một số bạn bè của con gái ông ta . Đáng ngờ hơn đó là thời điểm chuyến đi của Huy diễn ra ngay sau các chuyến đi của con gái ông ta, gọi là cô Bạch Liên, tới Huế và Quảng Ngãi, sau nhiều năm sống tại làng quê Kim Liên” (47).

Liệu Nguyễn Sinh Huy có cảm tình hay dính lứu gì đến phong trào đòi cải tổ của Phan Chu Trinh hay phong trào bạo động của Phan Bội Châu hay không? Đây là câu hỏi vẫn chưa có câu trả lời. Mặc dù vậy chúng tôi có thể khẳng định, ông đã cố gắng giữ cho lý lịch của bản thân mình hoàn toàn trong sạch trong mắt người Pháp cho tới thời điểm đó. Chúng ta cũng không thể biết rõ việc mất chức của ông ảnh hưởng đến con trai út của ông đến đâu. Mặc dù vậy, như Daniel Hemery đã chỉ ra việc mất chức này thu hẹp khả năng chọn lựa của Nguyễn Tất Thành, làm cho việc học hành trong một trường danh tiếng là Quốc học Huế của anh bị dang dở (do không có tiền đóng học –ND). Việc Nguyễn Tất Thành đến làm việc tại trường Dục Thanh, một ngôi trường được xây dựng theo khuynh hướng của Phan Chu Trinh, với việc giảng dạy kiến thức hiện đại bằng tiếng Pháp và chữ Quốc Ngữ, cho thấy có lẽ Nguyễn Tất Thành đã tham gia phong trào canh tân do họ Phan khởi xướng từ năm 1909. Chủ trường Dục Thanh thậm chí còn cho thành lập nhà máy sản xuất nước mắm, theo lời kêu gọi của Phan Chu Trinh về phát triển buôn bán và tham gia thương mại đối với người bản xứ. Bằng việc đến dạy ở trường Dục Thanh, Nguyễn Tất Thành đã định hướng tương lai của mình đi theo con đường của Phan Chu Trinh, lúc này đã bị trục xuất khỏi đất nước như một tội phạm quốc gia. Cha của anh, người đã chứng kiến sự bất lực và lạc hậu của các sỹ phu đào tạo theo nền giáo dục Trung Hoa dưới sự cai trị của Pháp như thế nào, có lẽ đã là người khuyến khích anh đi theo con đường đó. Vào đầu năm 1911, Thành đã vào tới Sài Gòn, và theo học một lớp đào tạo thợ cơ khí, theo lời kể của anh của anh (49). Nếu những nghi ngờ của người Pháp là có cơ sở thì có lẽ cha của Thành đã vào đến Sài gòn vào tháng 3 và đã gặp Phan Chu Trinh trước khi họ Phan lên tầu sang Pháp vào cuối năm đó. Nhà trí thức mới được thả tù Phan Chu Trinh có thể mang thông tin về những sỹ phu bị giam cầm tại Poulo Condore, đặc biệt là nhóm sỹ phu gốc Nghệ An. Cả Daniel Hemery và Thu Trang Gaspard đều cho rằng Nguyễn Tất Thành và cha của anh đã gặp và bàn bạc với Phan Chu Trinh về kế hoạch đưa Thành ra nước ngoài học tập. (50) Tất Thành cuối cùng đã tìm được đường đến Châu Âu trên con tầu Latouche Treville, với công việc của một phụ bếp; sau khi cha anh bị bãi chức anh không có hy vọng gì trong việc xin được tài trợ từ chính phủ cho chuyến sang châu Âu của mình như đối với trường hợp của của Phan Chu Trinh. Mặc dù vậy không có lý do để tin rằng dự định đi Châu Âu của Thành chỉ là để làm phụ bếp hay lao động chân tay trên tầu vào những năm sau đó.

Vào tháng 9 (năm 1911), hai tháng sau khi đến Marseille (vào tháng 7), Thành đã có một hành động rất giống với một người theo con đường của Phan Chu Trinh. Anh gửi một lá thư đến tổng thống Pháp xin được vào học trường thuộc địa, một nơi đào tạo quan lại, chức sắc cho chính quyền ở các thuộc địa. Anh viết: ”Tôi không có tiền bạc hay của cải gì và rất ham muốn được học hỏi. Tôi muốn trở thành người có ích cho nước Pháp và với Nhân dân mình, muốn giúp đỡ người dân có được sự cai trị tốt”. Rõ ràng anh viết là thư này với sự giúp đỡ của một người rành tiếng Pháp (51). Đối với một số nhà nghiên cứu như Nguyễn Thế Anh, bức thư và lời lẽ trong đó có thể hiểu là đã bầy tỏ mong muốn của người viết được trở thành một quan lại phục vụ cho chính quyền thuộc địa, vì quyền lợi của chính quyền thuộc địa (52). Mặt khác cũng có thể hiểu nguyện vọng này nhất quán với chiến thuật mà Phan Chu Trinh thường khuyến khích các thanh niên, trí thức theo mình, đó là “đấu tranh trong sự hợp tác”, trong đó kêu gọi thanh niên, trí thức Việt Nam hãy học tập truyền thống và văn hoá dân chủ của người Pháp để phục vụ cho quyền lợi của dân tộc mình. Tại thời điểm đó Nguyễn Ái Quốc tương lai đã hy vọng rằng giới lãnh đạo cao cấp nhất của Pháp sẽ đánh giá anh dựa trên tinh thần và phẩm chất mà anh có chứ không phải anh với tư cách là con của một quan lại mới bị cách chức. Nhưng yêu cầu của anh lại bị chuyển đến toàn quyền Huế, và ông này đã chỉ ra rằng anh đã không chịu tận dụng cơ hội để được học tập ở ngay chính bản xứ (ý nói anh Thành đã tự ý bỏ trường Quốc học Huế -ND) (53).

Việc từ chối nhập học không làm tiêu tan khát vọng học hành của Hồ, nhưng làm thay đổi con đường để ông đạt được điều đó. Hiện chúng tôi cũng chưa biết rõ rằng ồng Hồ có tham gia một khoá học bài bản nào ở Anh hay không, hay ông học tiếng Anh và chính trị về thuộc địa thông qua tự học và trao đổi ngoài giảng đường. Việc phải kiếm sống trong hoàn cảnh trong tay không có gì có lẽ đã buộc anh phải tiếp tục cuộc phưu lưu trên biển trong vài năm sau đó. Tháng 11 năm 1911, anh tìm cách gửi tiền về cho cha của mình từ Clayton (54). Lá thư mà chúng tôi đề cập ở đoạn trước là lá thư gửi từ New York vào tháng 12 năm 1912. Bức thư đó anh gửi đến toàn quyền Pháp tại Huế giải thích rằng anh muốn gửi một phần lương hàng tháng của mình cho cha nhưng hiện không biết ông đang ở đâu. Anh viết: ”Tôi không biết phải làm thế nào nữa, tôi chỉ hy vọng mong ngài giúp đỡ vì ngài là người quan bảo hộ nhiệt thành với đất nước chúng tôi” (55). Giọng điệu hạ mình đối với người Pháp trong thư thể hiện thái độ khiêm nhường của một người theo khổng giáo đồng thời cũng có thể là sự khôn ngoan trong hành xử. Nếu đối chiếu với dọng điệu của anh đối với người Pháp trong các lá thư anh gửi cho Phan Chu Trinh sau đó thì có thể cho rằng thái độ hạ mình trên của anh là một sự giả vờ.

Vào năm 1913 hoặc đầu năm 1914, Hồ Chí Minh dường như đã rời bỏ cuộc sống lang thang trên biển và quyết định định cư ở Anh. Anh kể lại trong một bức bưu thiếp gửi Phan Chu Trinh ở Paris là anh “đã tìm được chỗ để học ngôn ngữ đã làm việc cho người Tây Phương được một tháng rưỡi và luôn sử dụng ngôn ngữ của họ”. Anh viết tiếp: ”Sống ở đây cũng không khác mấy ở Pháp. Cháu hy vọng rằng trong khoảng 4 đến 5 tháng nữa khi cháu gặp chú (bác?) tiếng Anh của cháu sẽ khá hơn nhiều” (56). Trong thư trên anh đề địa chỉ của mình là khách sạn Drayton Court, West Ealing, tại điểm đường sắt sang phía Tây rời khỏi London. Có thể dễ dàng chấp nhận giả thuyết anh Thành đã làm việc như một phụ bếp trong cái khách sạn đường sắt này (mặc dù vậy hiện chưa có bằng chứng nào chứng tỏ anh từng làm phụ bếp cho đầu bếp nổi tiếng Escoffier ở khách sạn Carlton, như được kể trong cuốn sách của Trần Dân Tiên). Trong một bưu thiếp khác gửi cho Phan Chu Trinh, lần này đề địa chỉ gửi là Số 8 đường Stephen, Tottenham Court Road, London, anh chứng tỏ rằng mình vẫn quan tâm và theo dõi đầy đủ các sự kiện diễn ra ở châu Á. Anh viết: ”Ngũ đại cường quốc đang tranh đấu. Chín nước đang có chiến tranh. Cháu tự nhiên nhớ lại điều cháu đã nói với chú (bác?) mấy tháng trước về một cơn bão chính trị sắp đến. Số phận sẽ cho chúng ta chứng kiến nhiều điều bất ngờ nữa sắp tới và không ai biết ai sẽ thắng trong cuộc chiến này. Các nước trung lập chưa thể hiện thái độ còn các nước tham chiến thì không đoán được dự định của họ. Trong bất kể trường hợp nào nếu một nước tham gia thì họ sẽ buộc phải chọn một bên để tham gia. [….] Có lẽ chúng ta nên bình tĩnh chờ xem” (57). Rõ ràng vào thời điểm Phan Chu Trinh bị bắt ở Paris năm 1914, tiếng Anh của Hồ Chí Minh đã đủ tốt và cho rằng anh đã có thể tự đưa ra những ý kiến của mình về tình hình chính trị thế giới, theo cách nhìn nhận của riêng mình từ London.

Một phần của một bức thư khác mà Hồ Chí Minh gửi cho Phan Chu Trinh đã được nhân chứng trích dẫn trong phiên toà xét xử Phan Chu Trinh ở Paris. Nhân chứng Cao Đắc Minh nói rằng thư anh ta trích dẫn là một bức thư Nguyễn Tất Thành trả lời thư của Phan Chu Trinh. Dường như lá thư đó đã được gửi đi sau khi Phan Chu Trinh bị bắt. Nhân chứng khai rằng rằng trong bức thư Nguyễn Tất Thành đã cam kết với Phan Chu Trinh rằng “không chỉ xót thương cho những thống khổ của đồng bào mình mà Thành nguyện sẽ đi theo và tiếp tục công việc của Phan Chu Trinh” (58).

Trong quá trình điều tra các mối liên hệ giữa những người Việt lưu vong và chính phủ Đức, cảnh sát Pháp đã phát hiện ra rằng, ngoài Tất Thành, còn có những người Việt nam yêu nước khác thuộc phái của Hoàng tử Cường Để cũng từng sống và học tập tại London. Một trong số đó là Joseph Thành, sau này được xác định là Lam Van Tu người Nam kỳ, đã đến Singapore từ Hồng Kông bằng đường biển để gặp hoàng tử Cường Để cùng với hai người Nam kỳ khác, những người sau này đều trở thành đặc phái viên đưa tin của Cường Để ở Châu Âu . Một trong hai người Nam kỳ này có tên là Truong Duy Toan từng là chủ biên một tạp chí có tinh thần dân tộc, “Lục tỉnh tân văn”. Người được cho là đã tháp tùng Phan Chu Trinh trong chuyến sang Paris (59). Còn người Nam kỳ còn lại là Do Van Y, một giáo viên ở Mỹ Tho, định cư ở Pháp và thường xuyên có mối liên hệ với Joseph Thành, trong thời gian Thành sống ở London. Chính quyền Pháp đã tịch thu được 4 bức thư của Joseph Thành gửi Đỗ Van Y năm 1914, hai trong số đó được gửi từ địa chỉ tại đường Gower (60). Hai lá thư còn lại, một đề địa chỉ gửi đi từ Constantine Road tại Hampstead, London, và một đề địa chỉ gửi từ số 3 Conquest Road, Bedford. Những bức thư này cho thầy Joseph Thành đang đợi tiền gửi đến từ Cường Để. Như chúng ta đã biết chính Phan Văn Trường cũng từng bị nghi ngờ là đã tham dự vào các hoạt động bí mật này trong phiên toàn xử ông (61).

Bị người Pháp thúc giục gửi gấp kết quả điều tra về chỗ ở và thông tin của Joseph Thành, bộ cư trú Anh quốc đã vội vàng thông báo cho Paris biết rằng Joseph Thành và Nguyễn Tất Thành là hai anh em tuổi khoảng 18,19 và rằng Tất Thành sống và học tại Bedford. Cả hai đã đăng ký vào học trường Bách Khoa Regent Street, và ở đó họ đã quen một người bạn Anh tên Gourd, người có cha mẹ hiện sống ở 12 Constantine Road. Bản báo cáo nói rằng “Tất Thành rất thân với một cô con gái nhà Gourd “và nhờ đó mà bà Gourd đã giúp anh vào học việc tại công ty Igranic Electric ở Bedford. Bản báo cáo kết luận:”Vẻ bề ngoài chẳng có gì cho thấy họ tham dự vào một âm mưu hay tổ chức chính trị bí mật nào” (62). Sau đó Phòng Nhì Pháp đã xác định rằng “anh em ruột” với Tất Thành hoá ra là họ Lâm, và rằng Lâm Văn Tú (?) tức Joseph Thành đã quay trở lại Nam Kỳ (63). Tại thời điểm đó chưa có mạng lưới chỉ điểm người Việt của Phòng Nhì Pháp ở London, do đó không rõ là bộ cư trú Anh có thực sự xác định đúng tên tuổi và các hoạt động của các thanh niên này hay không. Không có lý do gì để cho rằng việc bộ cư trú Anh nhầm lẫn Joseph Thành với Nguyễn Tất Thành là hai anh em vì cùng có chung chữ Thành trong tên, vì đó là tên riêng chứ không phải là họ. Nhưng dường như không thể có chuyện có 2 Tất Thành ở Anh tại thời điểm đó. Các mối quan hệ phức tạp này cho chúng ta sự nghi ngờ rằng Nguyễn Tất Thành là một thành viên của một nhóm ái hữu, một bản sao phương Tây của phòng trào Đông Du (64). Trong cuốn tự chuyện của mình, Trần Dân Tiên (Hồ Chí Minh) viết rằng một người đã thuật lại rằng anh cùng với Hồ Chí Minh đã tham gia một tổ chức người Việt bí mật tại Anh lúc đó là Hội Lao Động Hải Ngoại (65). Trong thời gian Thành lênh đênh trên biển thì ở nhà anh và chị của anh đã tham gia các phong trào cách mạng khởi xướng bởi Phan Bội Châu, điều đó đủ để anh trở thành một ứng cử viên cho vị trí làm phái viên của Cường Để. Liệu có phải là vào năm 1914 Cường Để đã sử dụng số tiền quyên góp được từ Việt Nam (và có lẽ cả từ người Đức) để hỗ trợ cho các du sinh người Việt ở phương Tây? Liệu có phải là ngẫu nhiên mà Nguyễn Tất Thành xuất hiện gần như cùng thời điểm với sự xuất hiện của Joseph Thành và hoàng tử Cường Để tại London?

Vào thời điểm cuối năm 1916, tự chuyện của Hồ Chí Minh viết rằng Nguyễn Tất Thành trở lại Pháp để gặp Phan Chu Trinh và Phan Văn Trường. Một cuộc khởi nghĩa nữa trong nước vừa bị dập tắt. Hoàng đế trẻ Duy tân đã bị lưu đầy ra đảo Réunion xa xôi. Hồ hỏi các đồng hương của mình, viết trong cuốn tự chuyện bằng một ngôn ngữ đơn giản,”Vua Duy Tân đã đứng dậy khởi nghĩa, Nhân dân Thái Nguyên cũng thế, còn chúng ta phải làm gì?”. Tác giả (Trần Dân Tiên – ND) viết tiếp: ”Nhưng sau đó không ai biết anh Ba sẽ làm gì” (66). Những năm cuối của cuộc đại chiến có lẽ là thời điểm thích hợp để các nhà yêu nước nói tiếng Anh của Á châu tìm cách liên hệ với Mỹ. Những nhà yêu nước người Hoa và cả Triều Tiên đã nhận được sự ủng hộ từ những người có tầm ảnh hưởng của nước Mỹ . Mặc dù vậy ngoài bằng chứng là bài trả lời phỏng vấn trên báo Yishibao nói trên, thì chuyến đi của Hồ đến nước Mỹ năm 1917-1918 vẫn chỉ là giả thuyết. Dấu hiệu tiếp theo về sự xuất hiện của Nguyễn Tất Thành/Nguyễn Ái Quốc chính là tại Paris vào năm 1919.

Việc tìm kiếm các bằng chứng, tài liệu trong tàng thư khổng lồ của Pháp có thể cho thấy con đường đến với chính trường Paris của người thanh niên xuất hiện với cái tên Nguyễn Ái Quốc. Khi anh nói với chỉ điểm viên “Jean” vào tháng giêng năm 1920 rằng anh đã nghiên cứu kỹ chính sách thuộc địa của người Mỹ, người Anh, người Tây Ban Nha, anh nói với vẻ rất thành thực (67). Quan hệ thân thiết của anh và Phan Chu Trinh cũng như Phan Văn Trường có lẽ đã có từ trước cuộc chiến thế giới lần thứ nhất. Có thể một lý do kéo họ dễ dàng đến gần nhau chính là vì họ có cùng cảnh ngộ, cùng có anh, chị em, người thân đang phải nằm trong lao tù của Pháp hay đang bị lưu đầy biệt xứ. (Về mặt này có lẽ nhiều nhà nghiên cứu với quan điểm xem hai họ Phan như những học giả khả kính , những nhà cách mạng ôn hoà đối nghịch với anh thanh niên non nớt Nguyễn Ái Quốc, đã bỏ qua). Mặc dù nhiều năm sau Phan Chu Trinh và Nguyễn Ái Quốc có nhiều mối bất hoà về quan điểm chính trị, nhưng họ vẫn luôn đối xử với nhau trong tình cảm tôn trọng và có trách nhiệm. Đối với Phan Văn Trường, mối quan hệ của họ trở nên rất tốt đẹp cho đến tận thời điểm họ chia tay năm 1923.


Giải pháp cấp tiến (1920-1923)

Hội nghị hoà bình Paris kết thúc vào tháng giêng năm 1920, với sự ra đời của Liên đoàn các quốc gia. Nhưng đối với Hồ Chí Minh và đồng bào của mình thì hội nghị Paris kế thúc cũng là lúc kết thúc hy vọng của họ rằng các nước Dân Chủ phương Tây sẽ công nhận quyền độc lập của Việt Nam. Chiến dịch vận động tại Hội nghị Hoà bình Paris thất bại cũng là lúc nhóm người Việt yêu nước bắt đầu tan đàn xẻ nghé. Từ năm 1920 kinh phí hoạt động bắt đầu suy giảm đáng kể. Đã có thời điểm Hồ phải sống dựa vào nguồn tài trợ của một người sống tại số 6 Villa des Gobelins có tên là Khanh Ky, người có một cửa hàng buôn bán giấy ảnh tại Rhineland (mà cảnh sát còn nghi ngờ ông có các hoạt động đầu tư tiền tệ). Cuối năm 1919, Phan Văn Trường mở văn phòng luật tại Mayence và tham gia bào chữa cho các quân nhân người Việt và Pháp tại toà án quân sự. Ngoài ra ông cũng kiếm được tiền thông qua việc tham dự với tư cách là luật sư vào các vụ tranh chấp về thương mại giữa Pháp và Đức (68). Phan Chu Trinh cũng đóng góp vào quỹ nhóm một phần thu nhập 30 francs/ngày của ông từ nghề in tráng ảnh (69). Nhưng một nhân viên của bộ thuộc địa có tên là Phu Bay, có lẽ chính là chỉ điểm “Edouard”, đã báo cáo rằng vào thời điểm đó nhóm này thường mắc các bệnh như viêm phế quản, ho lao do “họ không có điều kiện kinh tế cho một cuộc sống đầy đủ và khoẻ mạnh” (70). Ông ta không xem nhóm này như một sự đe doạ nghiêm trọng đối với hoà bình, ổn định ở Đông Dương.

Hồ Chí Minh thường xuyên phàn nàn với các chỉ điểm của Phòng Nhì trong các cuộc trao đổi rằng, vào đầu những năm 20 của thế kỷ, hầu như không mấy ai biết về Đông Dương. Đối với những nhà hoạt động chính trị quốc tế mà anh tiếp xúc, người thì không biết Đông Dương ở đâu, kẻ lại cho là một tỉnh nằm giữa Trung Quốc (China) và Ấn Độ (India). Anh nói với chỉ điểm Jean: ”Chúng ta phải làm ầm ĩ lên tý để người ta biết mình là ai. Người ta biết nhiều đến Triều Tiên hơn chúng ta là vì người Triều Tiên họ đã lên tiếng nhiều hơn chúng ta”. Mặc dù vậy anh cũng nói thêm rằng anh muốn đợi một thời gian để xem các chính sách mới của tân toàn quyền Maurice Long như thế nào (71). Trong một cuộc gặp mặt quan trọng của những người trong phong trào hoà bình quốc tế tại Orient, trong đó có bài phát biểu và tham dự của phó tổng thư ký đảng dân chủ xã hội Marius Mautet và Giáo sư Félicien Challaye và đại diện của các nhóm yêu nước Triều Tiên và Trung Quốc, Quốc đã cố gắng nêu vấn đề về quyền tự do của người Việt Nam. Trong số 1000 người tham dự cuộc miting đó, mà trong đó phần lớn là người Trung quốc, có cả thanh tra Pierre Arnoux. Ông ta kể lại rằng Quốc đã phát tán các bản copy của “bản yêu sách của nhân dân An Nam” đến các thành viên tham dự, tuy nhiên khi anh muốn phát biểu thì chủ toạ đã không cho phép anh làm việc này. Arnoux viết: ”Thái độ và cách thức giành bằng được quyền phát biểu của Quốc làm nhiều người ủng hộ nhưng cũng nhiều người tham dự la ó chế riễu anh ta” (72). Sau đó chính Hồ đã tổ chức một cuộc míting và anh phát biểu với tư cách là đại diện của “Nhóm các nhà cách mạng Việt Nam”. Bài phát biểu của anh có tựa đề là ”Cuộc cách mạng xã hội của nhân dân phương Đông và yêu sách cho một nước An nam cổ đại” đã thu hút được một đám đông khoảng 70 người, những người đã vỗ tay nhiệt thành cho bài phát biểu của anh khi nó kết thúc (73). Mặc dù vậy, trong số người tham dự bài phát biểu của anh không có ai là người Việt, điều đó làm anh cảm thấy không muốn làm điều tương tự như vậy nữa sau này. Khi chỉ điểm Jean gợi ý cho Quốc rằng có thể vì cái tên “Nhóm các nhà cách mạng Việt Nam” đã làm cho kiều bào ngại ngần không muốn tham dự, Hồ đã lên tiếng bảo vệ quan điểm và cách làm của mình. Tất nhiên trong thực tế không tồn tại một nhóm nào có cái tên như vậy, nhưng Hồ nói với Jean: ”Chúng ta phải cố gắng hết sức và cũng phải dối trá một chút để gây sự chú ý” (74).

Vào thời gian đó Hồ dành nhiều thời gian của mình để đến đọc sách tại Bibliotheque St Geneviève gần Panthéon. Như một phần trong chiến dịch vận động chính trị của mình Hồ muốn in một cuốn sách mà anh dự định đặt tên cho nó là Les Opprimés. Để làm cho cuốn sách có giá trị học thuật hơn Hồ quyết định sẽ trích dẫn các nghiên cứu và sách của các tác giả Pháp khác. Mật vụ Pháp đã tìm ra danh sách khoảng 13 tài liệu Hồ đã mượn và đọc trong đó có cả bài viết của Phan Chu Trinh tường trình về các sự kiện diễn ra ở Trung kỳ năm 1908 và các tài liệu về chính sách tài chính, sưu thuế, cũng như về nông nghiệp mà người Pháp đưa ra (75). Anh tìm cách kiếm tiền để in cuốn sách của mình bằng cách tìm cách làm trợ lý thuê cho một người nào đó theo khuynh hướng dân chủ xã hội, cho đến tháng 9 anh vẫn hy vọng rằng Marcel Cachin làm việc ở tờ báo L’Humanité sẽ giúp đỡ để in cuốn sách này (76). Thế nhưng các hoạt động chính trị của anh bị đột ngột dán đoạn từ tháng 8 khi anh phải vào viện vì bị xưng tấy ở vai phải (77). Không rõ đó có phải là triệu chứng cho thấy anh đã nhiễm bệnh lao hay không, nhưng năm sau anh đã bị cửa hiệu ảnh cho thôi việc vì họ kết luận anh bị bệnh lao (78).

Khi người Pháp đã chắc chắn rằng Nguyễn Ái Quốc chính là Nguyễn Tất Thành, họ đã tìm ra được cách để kiểm soát anh. Tại Pháp, họ tìm cách ngăn cản anh tiếp xúc với những người Việt Nam khác, và cho tới mùa thu năm 1920, họ quyết định sẽ không cho anh rời khỏi nước Pháp. Chỉ huy sở phòng Nhì Đông Dương tại Hà nội, René Robin đã ra lệnh không cấp chiếu khán (hộ chiếu) cho Hồ, ông gợi ý nhà cầm quyền tại Pháp vận động Việt kiều khuyên giải Hồ nên tự khai báo nhân thân thật của mình và hứa sẽ cấp hộ chiếu và vé cho Hồ quay lại Việt Nam nếu Hồ chịu công khai thú nhận nhân thân thật của mình và chứng minh điều đó. Tuy nhiên Hồ không chịu làm theo yêu cầu của cơ quan thẩm quyền của Pháp. Ngày 20 tháng 9 anh đã đến đồn cảnh sát để họ chụp ảnh và lấy lời khai, nhưng ngay sau đó anh đến thẳng Hội Nhân Quyền để phản ánh rằng anh đã bị cảnh sát quấy rối, vi phạm nhân quyền (79).

Nhà cầm quyền Pháp ở Hà nội cũng tin rằng Hồ sẽ không dám quay trở lại Đông Dương vì sợ bị phạt vì tội đã vượt biên trái phép. Nhưng họ lại lo ngại rằng Hồ có thể đào tẩu sang một nước khác mà theo như M. Lacome viết trong thư gửi về Paris: ”Anh ta sẽ thoát hoàn toàn khỏi sự kiểm soát của chúng ta, một người kiên định như thế hẳn sẽ còn làm chúng ta phải bất ngờ nhiều lần. Tốt nhất là cứ để anh ta cải trang như Nguyễn Ái Quốc hiện nay và theo dõi anh ta thật sát xao” (80). Piere Guesde, tổng chỉ huy quân đội Đông Dương tại Pháp, thì muốn có biện pháp xử lý mạnh hơn đối với Hồ và các đồng chí của anh. Vào giữa năm 20, Guesde đã thu thập được đến 250 hồ sơ nghi vấn là người Việt, trong đó ông xem nhóm ở số 6 Villa Des Goblin là nhóm nguy hiểm nhất (81).

Việc Guesde xem Hồ và nhóm của anh là các phần tử nguy hiểm nhất có vẻ hơi khó hiểu. Cơ quan mật vụ Pháp đã thành công trong việc cô lập anh, bản thân anh thì vừa nghèo nàn lại bắt đầu ốm yếu bệnh tật (bệnh lao –ND). Lý do là vì nhóm Việt nam này bắt đầu có mối liên hệ với cánh cực tả trong Đảng xã hội dân chủ Pháp. Tháng 11 năm 1920, Hồ và Trần Tiến Nam đã tham dự một buổi mítting do Đảng dân chủ xã hội Pháp tổ chức để kỷ niệm ngày sinh nhật thứ 3 của Liên Xô. Vào ngày 3 tháng 11, Phan Chu Trinh, Hồ và 3 người khác đang sống ở Villa Des Goblin đã tham dự buổi mítting của “Hội đồng Quốc tế III” được tổ chức bởi chi bộ 13 của Đảng cách mạng dân chủ xã hội. Vào ngày 19 cùng tháng, Hồ được mời đến tham dự một cuộc miting của cánh cực tả thuộc chi bộ 13 Liên đoàn cách mạng dân chủ xã hội. Tại cuộc gặp mặt này một buổi bỏ phiếu cho việc tham dự của liên đoàn vào quốc tế 3 tại Moscow được tiến hành (82). Mật vụ Pháp không cho biết kết quả bỏ phiếu nhưng có lẽ Hồ đã có quyết định riêng cho mình về vấn đề này từ khi anh còn ở trên tầu ngày 20 tháng 12 năm 1920 trên đường đến Tours để tham dự đại hội Đảng cách mạng dân chủ xã hội. Anh đại diện cho chi bộ 13, chi bộ cạnh đó và cả “nhóm xã hội dân chủ Đông Dương” (83). Chính tại đại hội Tours, phần lớn các đoàn đại diện đều bỏ phiếu tán thành việc ra nhập Quốc tế III cùng với những người Bolsevik Nga, và từ bỏ Quốc tế II theo thiên hướng xã hội dân chủ mà những người cấp tiến đã cho rằng quá dân tộc sôvanh trong đại chiến thế giới lần thứ nhất. Việc tham dự đại hội Tours đã khiến cho Hồ trở thành một trong những sáng lập viên của Đảng Cộng sản Pháp.

Một bài báo Hồ viết đăng trên tờ L’Humanité trước khi đại hội Tours diễn ra cho thấy quan điểm của anh vào thời điểm này. (Có lẽ một lần nữa bài báo lại được viết dưới sự trợ giúp của Phan Văn Trường. Lý do là một người người bạn trong chi bộ 13 đã góp ý với Hồ rằng bản nháp bài báo của anh cần phải sửa nhiều sao cho văn phong kiểu cách hơn. Không rõ là bản chúng tôi tìm thấy trong tàng thư của Pháp là bản gốc hay bản đã được sửa chữa). Hồ đặt tên bài báo này là: ”Chính sách thuộc địa”. Bài báo này cho thầy Hồ đã nghiên cứu kỹ bản “Luận cương về các vấn đề dân tộc và thuộc địa” của Lenin, công bố tại đại hội Quốc tế II diễn ra vào tháng 7 năm 1920 và in trên tờ L’Humanité vào ngày 16 và 17 tháng 7. Những phân tích trong bản luận cương của Lenin về bản chất chủ nghĩa đế quốc đã giúp Hồ có luận cứ cho sự căm thù chủ nghĩa thực dân.

“Con bạch tuộc tư bản Tây phương đang vươn chiếc vòi của nó ra khắp toàn cầu, Châu Âu đã trở nên quá chật hẹp với nó, máu của những người vô sản Châu Âu không còn đủ cho nó hút. Tội ác của bọn tư bản Anh, Pháp, Đức đều như nhau cả, tồi tệ hơn cả tội ác của bọn tự bản khác bởi, đối với bọn này ít nhất chúng cũng không cố nguỵ trang cho mình bằng những khẩu hiệu mỹ miều như là “thực hiện sứ mạng khai hoá thuộc địa”. Đằng sau lá cờ ba sọc với chiêu bài Tự Do - Bình Đẳng - Bắc Ái, thực dân Pháp mang đến thuộc địa rượu, thuốc phiện, và nhà thổ cũng như mang đến cho người dân thuộc địa sự thống khổ, huỷ hoại, chết tróc và sự vơ vét để làm giầu cho mẫu quốc.

Trước những tội ác như vậy của chủ nghĩa tư bản và đế quốc, Đảng dân chủ xã hội có chính sách thuộc địa thực sự dân chủ hơn không? không, thậm chí đảng còn chưa thèm hỗ trợ các cuộc cách mạng giành độc lập ở thuộc địa. Sự án binh bất động trước các vấn đề về thuộc địa này sẽ còn tiếp tục nếu chiến tranh của phe cực hữu không bóc trần sự dối trá và đạo đức giả của nền dân chủ tư sản và nếu như không có cuộc cách mạng bạo lực tháng 10 Nga đã khuấy động lên sức mạnh của giai cấp vô sản trên toàn thế giới. Từ khi đại đa số thành viên của Đảng tán thành việc gia nhập quốc tế cộng sản và từ khi Lenin trình bày bài luận cương của ông về các vấn đề thuộc địa tại đại hội 2, các đồng chính chúng ta mới bắt đầu đề cập đến các vấn đề thuộc địa …” (84)

Bài phát biểu của Hồ tại đại hội Tours có lời lẽ nhẹ nhàng hơn, song cũng nhận được những phê bình trong Đảng xã hội dân chủ. Khi phó chủ tịch đảng Jean Longuet đứng lến phản đối Hồ về việc phát biểu về vấn đề thuộc địa, Hồ đã đề nghị Jean không được ngắt lời. Mặc dù có sự phản đối nhưng rõ ràng bài phát biểu của Hồ vẫn tiếp tục với những lời lẽ mềm mỏng hơn so với bài báo của Hồ trên tờ L’Humanité nói trên. Khi kết thúc bài phát biểu ngắn của mình, Hồ kêu gọi các đại biểu của đảng, cho dù là cảnh tả hay cánh hữu, hãy ủng hộ Đông Dương. Bài phát biểu của anh được hoan nghênh nhiệt liệt và giữa những tiếng vỗ tay có cả những tiếng hét: ”Đả đảo bọn thực dân cá mập!” (85).

Bài phát biểu của Hồ không ấn tượng bằng bức ảnh chụp anh bởi một đại biểu. Bức ảnh chụp một thanh niên Việt nam với khuôn mặt mịn màng ăn mặc chỉnh tề như một cậu học sinh với comple và nơ thắt, giữa các đại biểu râu rậm, tóc mai người Pháp. Một tờ báo của cánh hữu thì mô tả anh như anh hề hút khách ở rạp xiếc được giới thiệu trong đại hội Tours bởi Marcel Cachin. Nhưng bạn của Hồ, Paul Vaillant Couturier thì lại mô tả lại sự kiện này như là: ”Bài phát biểu của anh đã nói lên một cách chính xác đến ngạc nhiên nỗi thống khổ của một quốc gia 20 triệu người” (86). Trong những năm sau này, bản thân Hồ cũng luôn muốn giữ mình ở một vị trí khiêm tốn trong các cuộc tranh luận mang tính học thuyết ở Quốc tế III. Thế nhưng có vẻ những gì mà Hồ tự nhận là mình không hiểu rõ về những vấn đề đang chia rẽ những người xâ hội dân chủ cấp tiến và phái trung dung khi ông đến dự đại hội Tours là không chính xác. Vào thời điểm Hồ tham dự đại hội Tours, anh đã có đến một năm rưỡi tham dự nhiều buổi miting và đọc nhiều bài báo của cánh tả tại Paris.

Chính tại đại hội Tours, Hồ đã cho thấy sự gia nhập và trung thành của mình với một phong trào mà ông đã theo đuổi đến trọn đời. Phong trào cộng sản thế giới sau đó đã trở thành ngôi nhà đồng thời cũng là người chủ thuê của Hồ. Vậy nhưng vào mùa đông năm 1921, phòng trào cộng sản không thể giúp gì cho những vấn đề cá nhân của riêng anh. Từ ngày 14 tháng giêng đến ngày 5 tháng 3, Hồ phải ở trong bệnh viện Cochin (Nam kỳ) để chữa ung nhọt trên vai của mình. Khi ra viện anh từ chối việc trả viện phí với lý do hiện anh đang thất nghiệp và không có thu nhập (87). Tại số 6 Villa des Goblins lúc này, Phan Chu Trinh cũng đang bị trầm cảm nặng. Con trai duy nhất của ông, Dat, đã rời Pháp về Việt nam để chữa bệnh lao và đã không qua khỏi. Bạn bè của Trinh mô tả rằng sau cái chết của con trai Trinh không còn là mình nữa (88). Bản thân ông cũng không được phép trở lại Việt Nam cho đến năm 1925. Cũng tại thời điểm đó, nhiều người sống tại Villa des Goblins đã công khai tỏ ý khó chịu với chiều hướng cấp tiến ngày càng rõ nét của Nguyễn Ái Quốc. Một bản báo cáo của phòng nhì đã cho thấy Khanh-Ky và Trần Tien Nam đã phàn nàn rằng họ đã gặp rắc rối với cảnh sát chỉ vì thái độ và cách hành xử cấp tiến của Quốc. Trần Tien Nam thì nói rằng chỉ có Phan Văn Trường, Phan Chu Trinh và Vo Van Toan còn ủng hộ các quan điểm của Quốc. Anh này cũng phàn nàn rằng không hiểu tại làm sao “họ lại có thể tin tưởng một người mà ngay cả tên và nguồn gốc lý lịch cũng không rõ ràng” (89). Trong khi đó, Khanh-Ky, người kiếm tiến chính của cả nhóm, thì phàn nàn rằng ông không còn đủ tài chính để trả tiền thuê nhà cho cả nhóm vì giá thuê nhà sau cuộc chiến đã bắt đầu leo thang (90). Sau đó cả Hồ và Phan Chu Trinh phải tìm một chỗ khác để ở. Do đó Hồ buộc phải giảm bớt thời gian cho các hoạt động chính trị của mình để kiếm sống. Vào tháng 7, Hồ chuyển qua sông sen dọn đến khu Tây bắc Paris để ở trọ tại số 9 ngõ Compoint. Anh tìm được việc làm thợ tráng ảnh cho một hiệu ảnh ngay sát nhà trọ với mức lương 40 France một tuần, mức lương giành cho người học việc. Với cuộc sống tằn tiện của mình, mức lương đó đủ để anh trả tiền trọ 40 France một tháng và mua thức ăn. Vào cuối tháng 7, phòng nhì Pháp báo cáo anh đang sống một cách lặng lẽ chỉ thỉnh thoảng đi thăm bạn bè tại Villa des Goblins.” (91)

Các bài báo của Hồ trong thời kỳ này chỉ nhận được sự thờ ơ từ phía những người bạn thuộc phe dân chủ xã hội. Cuốn sách của anh viết về chủ nghĩa thực dân của Pháp đã hoàn thành từ năm 1920 nhưng vẫn chưa có nơi nào nhận in. Marcel Cachin thì từ chối khéo việc in cuốn sách trên tờ L’Humanité lấy lý do là số lượng báo bán ra đang bị giảm sau sự chia rẽ của đảng xã hội dân chủ tại đại hội Tours và do đó ông không thể trả trước Hồ tiền nhuận bút (92). Mặc dù vậy Hồ vẫn có bài viết được đăng ở các báo khác. Một bài của anh đăng trên tờ báo hàng tháng Revue Communiste vào ngày 14 tháng 4 năm 1921, và một bài khác trên tờ L’Action Coloniale vào ngày 10 tháng 6. Ở bài thứ nhất, đăng tận trang thứ 133, vẫn là điệp khúc bấy lâu nay anh vẫn thường viết đó là về sự thật bại của các Đảng Cộng sản trước vấn đề thuộc địa. Anh viết: ”sự lảng tránh này thật đáng ngạc nhiên, đặc biệt là khi không hề còn tranh cãi về vấn đề này trong một Đảng đã thuần khiết …”. Còn ở bài báo thứ 2, anh so sánh chính sách thuộc địa tương đối cởi mở của Nhật bản tại Triều Tiên và các chính sách của Pháp tại Đông Dương. Vào tháng 8 năm 1919, chính phủ thuộc Nhật đã ra sắc lệnh trao quyền tự trị cho thuộc địa của mình và công nhận quyền bình đẳng của người dân thuộc địa với người Nhật. Anh viết: ”Thật ngạc nhiên rằng, trong khi đó, chính phủ Pháp vẫn ngây thơ tin rằng có thể có được sự ủng hộ của người dân thuộc địa tại Đông Dương chỉ bằng cách tiếp tục lừa bịp bằng những lời lẽ hoa mỹ….”.

Vào mùa hè năm 1921, nhóm Người Việt yêu nước, chuẩn bị rã đám. Các chỉ điểm của thanh tra M. Devèze mật báo rằng tại số 6 Villa des Goblins thường xuyên xảy ra những cuộc tranh cãi nảy lửa. Vào đầu tháng 7, Hồ đã có một cuộc tranh luận “dữ dội” với hai tiền bối họ Phan kéo dài từ 9 giờ tối cho đến đầu giờ sáng hôm sau (93). Trong tháng 9 nhiều cuộc tranh luận tương tự đã nổ ra. Vào tháng 10, Phan Chu Trinh chuyển đến sống ở đường Pernéty. Thực sự đến giờ, chúng tôi cũng chưa biết rõ nội dung các cuộc tranh luận đó là gì và liệu đó có phải là những cuộc tranh luận do bất đồng về quan điểm chính trị. Việc họ chia tay nhau ra sống riêng và con đường chính trị tương lai của mỗi người có thể phần nào hỗ trợ cho giả thuyết rằng đó là các cuộc tranh luận chính trị. Nhưng khó có thể biết được liệu có đúng là vì những cuộc tranh cãi nảy lửa đó Hồ Chí Minh đã đoạn tuyệt với hai tiền bối họ Phan như giới học thuật lâu nay vẫn giả định hay không (94). Mặc dù trong những lá thư mà Phan Chu Trinh gửi cho Hồ vào những năm 1922 và 1923 cho thấy rõ ông không tán thành việc Hồ theo chủ nghĩa Max nhưng ông vẫn luôn tỏ ra rất tôn trọng các quyết định của Hồ và luôn quan tâm đến các hoạt động chính trị của anh cũng như tham dự các buổi miting chính trị với anh. Dường như Phan Văn Trường thì phê phán Phan Chu Trinh nặng nề hơn về thái độ có phần giao động của ông sau cái chết của con trai mình (95). Nhưng trong mắt phòng nhì, Trường vẫn luôn bị xem là một nhà chính trị cực đoan. Vào cuối tháng 2 năm 1922, phòng nhì Pháp vẫn còn nghi ngờ rằng, Nguyễn Ái Quốc vẫn đang đóng vai trò đại diện cho Phan Văn Trường, người đứng sau lưng (96).

Có lẽ những cuộc tranh cãi này cũng liên quan đến lời mời tham gia công đoàn thuộc địa quốc tế từ một giảng viên tại Malagasy (trường ngôn ngữ) có cái tên rất kêu là Stéphany Oju Oti (97). Stéphany từng tham gia làm báo Action Coloniale. Công đoàn tiến hành buổi miting ra mắt vào tháng 10 năm 1921 sau mấy tháng trời chuẩn bị. Số lượng lớn thành viên khác của liên đoàn ủng hộ Quốc tế III và liên đoàn công khai mối liên hệ mật thiết của mình với Đảng Cộng Sản Pháp. Tổ chức mời này đặt mục đích hoạt động là nghiên cứu các chính sách kinh tế và chính trị tại các nước thuộc địa và đồng thời cũng là một tổ chức tương thân tương ái. Hồ tham dự cuộc miting ra mắt này cùng với Phan Văn Trường và một người cháu họ mới chuyển tới ở tại số 6 Villa des Goblins. Tham dự buổi miting, như thường lệ, Hồ phát biểu một cách sôi nổi về chính quyền và chính sách thuộc địa của Pháp. (Phòng nhì có được báo cáo vì có một chỉ điểm tham gia cuộc miting này, nhiều khả năng chỉ điểm viên này chính là Nguyen Van Ai, có mật danh là điệp viên Villier) (98). Hồ tham gia vào ban điều hành của công đoàn cùng với 6 người khác là luật sư, thương gia cỡ nhỏ đến từ Réunion, Dahomey, Goudeloupe, Antilles, Martinique và Guyana. Anh được giao tín nhiệm làm quản lý tài chính cho liên đoàn có nhiệm vụ thu hội phí mỗi kỳ 4 tháng. Anh đã giúp công đoàn mở được văn phòng tại trung tâm khu Latin tại đường Marché des Patriarches, đồng thời giúp ra tờ báo của công đoàn Le Paria vào tháng 4 năm 1922 (99).

Công đoàn thuộc địa quốc tế trở thành cơ sở hoạt động mới của Hồ thay cho nhóm Người việt yêu nước và tổ chức có lẽ là chưa bao giờ tồn tại “Nhóm các nhà cách mạng Việt Nam”. Như vậy là bên cạnh đảng Cộng sản, Hồ đã có được sự ủng hộ của một tổ chức có đủ quyền quyền pháp lý và các hội viên đóng phí, cũng như một phòng làm việc cho riêng mình. Ban đầu Le Paria có 103 người đặt mua (100) và số lượng bản in nhanh chóng tắng lên đến 2000. (vào tháng 4 năm 1923 số lượng bản in của báo đã giảm xuống 1000 và số trang cũng bị giảm, đồng thời không có thu nhập nào từ quảng cáo). (101)

Hồ cho rằng đã có 150 người đông dương đăng ký mua báo Le Paria nhưng thật ra số người này thuộc bộ phân SR (Service de Renseignements) tại Marseille (102). Một vài số báo in roneo cũng đã được chuyển về Việt Nam và địa chỉ người đặt báo là hai thông dịch viên người Việt làm việc ở phủ toàn quyền tại Hà nội, mặc dù vậy Hồ nghi rằng hai người này thực chất làm việc cho phòng nhì Pháp (103). Sau khi tờ Le Paria ra đời, Hồ có ít thời gian để làm việc tráng ảnh mà giành phần lớn thời gian để viết báo và hoạt động chính trị. Mặc dù chủ tiệm ảnh đã cảnh cáo Hồ, nhưng anh vẫn tham dự cuộc biểu tình ngày 1 tháng 5 và hệ quả là anh đã bị đuổi việc (104). Sau đó anh có một thời gian kiếm sống bằng nghề sơn và trang trí cửa sổ, nhưng có lẽ nguồn thu nhập chính vẫn là từ làm việc cho tờ Le Paria. Nghiệp báo chí sau này đã trả thành nghề bên ngoài của anh trong suốt những năm tháng là nhân viên cộng sản bí mật của Quốc tế III.

( Ghi chú của người post bài: Từ bài này trở đi, người dịch là Diên Vỹ, thành viên X-cafevn.org/forums.)

Đến năm 1922 Nguyễn Ái Quốc đã trở thành một nhà báo cộng sản thực thụ, với đề tài chính là những vấn đề thuộc địa và sự độc lập của Đông Dương. Ông tham dự Đại hội lần thứ nhất của Đảng Cộng Sản Pháp tại Marseille vào tháng 12, 1921 cũng như lần hai tại Paris vào tháng 10, 1922. Trong lần sau có lẽ ông đã được vị khách mời từ Moscow, Dmitry Manuilsky[105] để ý đến. Vào tháng 4 năm 1922 ông tham dự buổi họp của Hội Đồng Nghiên Cứu Thuộc Địa vừa thành lập bởi ĐCS Pháp trong hội nghị đầu[106]. Có thể trong thời gian này ông đã gầy dựng được mối giao hảo với các sinh viên hoạt động Trung Quốc ở Paris, nơi mà vào năm 1921, Chu Ân Lai và Đặng Tiểu Bình đã hợp tác một tờ báo tiếng Hoa mang tên Thanh Niên tại một chung cư gần Place d'Italie, gần Villa des Goblins. Hồ được cho là đã giới thiệu một vài người Trung Quốc thông thạo tiếng Pháp vào ĐCS Pháp, trong đó có hai con trai của nhà lãnh đạo ĐCS Trung Quốc Chen Duxiu [107] Ta không biết được là vào thời điểm này Hồ có tham gia vào Đoàn Thanh Niên Cộng Sản hay không. Đến năm 1921 những người cộng sản Trung Quốc đã thiết lập liên lạc của họ với Berlin và Moscow. Trong phần đông trong số 2.000 sinh viên Trung Quốc tại Pháp tham gia vào những chương trình thực tập, đa số sống tại các tỉnh hoặc trong các khu lao động ngoại ô Paris như Billancourt[108]. Trong khi đó Hồ đã tham gia quá sâu với những vấn đề thuộc địa và những hoạt động trong ĐCS Pháp.

Khó mà đánh giá được hiệu lực tuyên truyền của Hồ. Có rất ít bằng chứng về việc tờ Người Cùng Khổ (Le Paria) đã lưu hành tại Việt Nam, đặc biệt là trước 1925. Việc truyền đạt quan điểm của ông đến đồng bào mình ngày càng trở nên khó khăn. Số lính tráng và thợ thuyền người Việt tại Pháp đã đang vơi dần - tính đến tháng 6 năm 1920 chỉ còn 19 nghìn người Đông Dương, so với 60 nghìn trong tháng 7 năm trước. Cho đến năm 1927 chỉ còn khoảng 2.670 người chính thức là cư dân tại Pháp.[109] Bộ Thuộc Địa và nhân viên mật thám của bộ này tại Marseille là Léon Josselme, đã trở nên lão luyện trong việc chặn đứng thư từ đi bằng đường biển (mặc dù họ có thể bị qua mặt khi những thứ này được dấu bên trong sách vở bình thường). Độc giả của Hồ ngày càng giới hạn trong số những người Âu cánh tả và những đồng hương thuộc địa xa quê. Với ấn tượng về Albert Sarrat như là một Toàn Quyền cách tân, những người Pháp lẽ ra đã cảm thông với những vạch trần của Hồ cho rằng sự chỉ trích của ông đối với chính sách của Pháp là cường điệu. Vào tháng 11 năm 1921, cơ quan mật vụ tìm thấy trong phòng của Hồ một lá thư (không đề ngày tháng) của một viên chức của Liên Đoàn Nhân Quyền (Human Rights League), Gabriel Seailles. Ông ta viết rằng đã nhận được bản "Yêu sách của nhân dân An Nam" mà Hồ đã gửi cho hội đồng trung ương của Liên Đoàn. Họ đã trả lời sau khi hội ý với văn phòng của Sarraut. "Họ nói rằng ông đã không đề cập đến những cải tổ của Ngài Sarraut," Seailles viết. "Chắc chắn là có một sự hiểu lầm ở đây. Những đề xướng của ông được trình bày quá tổng quát. Tốt hơn là ông nên giải bày những khiếu nại của mình một cách cụ thể." Dù sao, Seailles cho rằng việc cải tổ hệ thống công lý thuộc địa đã được tiến hành; quyền tự do báo chí đã được cho phép; tự do giáo dục là vấn đề đang quan tâm của chính toàn quyền Sarraut .[110] Trên thực tế những cách tân của Sarraut diễn tiến rất chậm, và những tự do mà người Việt được hưởng vẫn là những quyền lợi dành cho loại công dân hạng hai. Vào tháng 3 năm 1926 một bản yêu sách do Nguyễn An Ninh đưa ra tại Sài Gòn cũng đã nhắc lại một số điểm chính từ yêu sách của Hội Ái Quốc năm 1919[111].

Bản thân Phan Chu Trinh cũng nản lòng vì không thể quay về được Việt Nam. Vào đầu năm 1922 ông kết luận rằng đây là thời điểm Hồ Chí Minh nên trở về nước. Nhờ những người bạn trong Đảng Xã Hội, Trinh tìm được việc làm thợ chụp ảnh tại nhà Đấu Xảo Thuộc Địa ở Marseille. Nhưng lá thư Trinh gửi cho Hồ vào tháng 2, 1922 cho thấy rằng ông không có một ảo tưởng tốt đẹp gì vào thịnh tình của người Pháp đối với đất nước ông, hoặc khả năng thay đổi thời cuộc của mình. Người sĩ phu già cho rằng kiến thức của Hồ sẽ phí hoài nếu ông ở lại Pháp. Thời điểm để đem những bài học về chủ nghĩa Marx-Lenin về Việt Nam để thử nghiệm đã đến. Ông viết với một tinh thần hoà giải:

Vì những bất đồng giữa hai chúng ta mà anh đã gọi tôi là một "học giả bảo thủ và lạc hậu"... Tôi không giận dữ tí gì về cái danh hiệu này, vì tiếng Pháp của tôi quá tệ và tôi không hiểu được thấu đáng những gì đã làm được trên mảnh đất văn minh này. Tôi là con ngựa già mệt mỏi không còn nhấc nổi vó; anh là một con tuấn mã đang hăng máu... Tôi gửi lá thư này vì hi vọng rằng anh sẽ lắng nghe và chuẩn bị cho kế hoạch vĩ đại của mình. Từ Đông sang Tây, từ thời cổ chí kim, chưa ai hành động như anh, cứ nán lại nước ngoài viện cớ là đất nước mình có quá nhiều cạm bẩy... Để thức tỉnh mọi người, để đồng bào ta đứng lên chống lại bọn xâm lược, điều rất cần thiết là ta phải có mặt ở đó... Bằng phương pháp của mình anh đã gửi bài viết đến báo chí ở đây nhằm khuyến khích những đồng hương cống hiến sức lực và tinh thần của họ. Điều này thật vô ích vì những đồng hương của chúng ta không đọc được tiếng Pháp hoặc ngay cả chữ quốc ngữ; họ không thể nào hiểu được những bài viết của anh![112]

Khó mà biết được rằng một người theo phong cách cũ như Phan Chu Trinh, ông vẫn viết lách bằng tiếng Hán, đã có những ảnh hưởng gì đến Hồ. Nhưng người ta có thể thấy rằng sau những phê bình trên, Hồ càng cố gắng hơn bao giờ hết để đem vấn đề thuộc địa đến trước công luận. Báo cáo của mật vụ trong năm 1922 miêu tả ông làm một người "không biết mệt mỏi". "Nguyễn Ái Quốc tham gia vào hoạt động tuyên truyền cộng sản trong giới người Việt tại Paris," Pierre Guesde viết tại Hà Nội vào tháng 7; "và anh ta đã đem hết sức lực để tham gia những buổi hội họp tại thủ đô và những vùng ngoại ô."[113] Guesde còn lưu ý rằng Hồ đã gia nhập vào hội Freemason (Một hội ái hữu bí mật, có thành viên trên khắp thế giới - ND). Ông liệt kê những cuộc họp mà Hồ đã tham gia trong tuần vừa qua:

- Hai cuộc họp của Uỷ Ban Điều Hành của Đảng Xã Hội - Cộng Sản;
- Một buổi mít-ting ủng hộ cuộc Cánh Mạng Nga do Đảng Cộng Sản tổ chức tại Bagnolet;
- Hai cuộc họp của hội Club du Faubourg, Salle Printania, Ave. de Clichy;
- Một buổi tối tại Hội Masonry (Freemason - ND) tại 94 Ave. de Suffern.

Bên cạnh đó, ông còn tìm đến một số toà soạn, đáng lưu ý là tờ L'Humanité(Nhân Đạo), tờ Journal du Peuple và tờ La Bataille Syndicaliste.

Không bao lâu sau đó, Hồ và các nhà hoạt động Việt Nam bắt đầu thẩm định phương cách tiếp xúc với những thành viên đồng hương bình dân. Những bài viết trên những tờ Người Cũng Khổ và Nhân Đạo có mục đích hội tụ sự chú ý của những người trí thức Việt Nam, nhưng Phan Chu Trinh đã đúng khi chỉ ra rằng chúng chỉ vói được đến một số nhỏ trong số những người có tiềm năng ủng hộ họ. Quan điểm vận động đại trà của Quốc Tế Cộng Sản III (Commintern) và ĐCS Pháp cũng có thể đã ảnh hưởng những hoạt động của họ. Vào tháng 2 và tháng 5 năm 1923 thành phần cốt lõi của những nhà hoạt động người Việt bắt đầu thảo luận cương lĩnh mới. Đến cuối năm 1921 một trí thức trẻ người miền bắc là Nguyễn Thế Truyền đã tham gia cùng họ, Truyền nhanh chóng trở thành một trong những người hợp tác thân cận nhất của Hồ. Là con của một quan chức cấp huyện ở Nam Định, Truyền có bằng hoá học Pháp nhưng rõ ràng ông thiên về việc viết lách và báo chí hơn. Năm 1922 Truyền trở thành thành viên mới nhất của số 6 Villa des Gobelins và đến cuối năm đó bắt đầu làm việc cho tờ Người Cũng Khổ.[114]

Vào tháng 2 năm 1923 Phan Văn Trường, Hồ và Trần Tiến Nam thảo luận việc tái tạo "Hiệp Hội Huynh Đệ" ngày xưa do Trường và Phan Chu Trinh khởi lập năm 1912. Mục đích là để lôi kéo những người lao động nghèo khổ Việt Nam tại Pháp, những người mà theo Trường là "lãnh đồng lương tồi tệ, thiếu ăn, thiếu ở và đôi khi còn bị giới chủ miệt thị..."[115] Phan Văn Trường được khuyên là không nên giữ chức chủ tịch vì quá khứ chính trị của ông có thể làm những thành viên mới e dè vì sợ sẽ bị trả thù. Trên thực tế, trong một buổi họp tại Công Đoàn Thuộc Địa Quốc Tế, Trường đã phát biểu về vấn đề Việt Nam, trong đó ông khẳng định "Quyền tự do và tự quyết chỉ hiện hữu một khi tất cả mọi người hiểu được sự cần thiết của chủ nghĩa cộng sản nhằm xoá bỏ chế độ người bóc lột người và đem đến bình đẳng trong quan hệ chủng tộc."[116] Tại một cuộc họp vào tháng 4, Phan Chu Trinh được đề cử làm chủ tịch, nhưng Phan Văn Trường phản đối, một mực tuyên bố rằng ông không bao giờ làm việc chung với người đồng sự xưa của mình.[117] Vấn đề nan giải này được giải quyết ra sao thì không rõ.

Vào tháng 5 Hồ đích thân đăng quảng cáo kêu gọi đặt mua tờ báo bằng tiếng quốc ngữ có tên là Việt Nam Hồn. Tờ quảng cáo của ông hứa hẹn "Á Châu, Âu Châu, Ấn Độ và Mỹ Châu được tổng hợp trong một tờ báo. Phụ nữ và trẻ em cũng có thể hiểu được." Nó sẽ là tờ báo "bằng chính ngôn ngữ của chúng ta để đồng bào ta có thể đọc được." Số đầu tiên ra khoảng 100 ấn bản. Địa chỉ đặt báo được gửi tới số 3 rue du Marché des Patriarches, văn phòng của tờ Người Cùng Khổ.[118] Đây có thể là dấu hiệu Hồ đã thật sự lắng nghe những phê bình của Phan Chu Trinh về phong cách viết báo chỉ cho giới trí thức của mình. Dường như ông không còn thời gian dành cho dự án mới này. Vào ngày 13 tháng 6, 1923 ông đột ngột biến mất khỏi Paris, và mãi đến mùa thu nhà cầm quyền Pháp mới thấy tên ông xuất hiện trên báo chí tại Moscow. Nguyễn Thế Truyền lên làm chủ bút tờ Việt Nam Hồn.

Ta không biết được chuyến đi Moscow của Hồ được tổ chức ra sao và ai là kẻ chủ mưu. Giả thiết rằng ông được phát hiện bởi những người tuyển mộ cán bộ tài giỏi cho Quốc Tế Cộng Sản III như Manuilsky tại đại hội ĐCS Pháp năm 1922 thì cũng hợp lý. Nhưng không có vẻ việc Hồ đi Moscow như là một người được lựa chọn để phục vụ lâu dài trong Cộng Sản Quốc Tế III, như sẽ bàn đến trong chương sau. Cũng rất có thể là ông và các thành viên trong Công Đoàn Thuộc Địa Quốc Tế muốn trực tiếp tiếp xúc với Quốc Tế Cộng Sản III để nhằm thúc dục ĐCS Pháp quan tâm hơn đến những vấn đề thuộc địa. Cũng có thể chính Hồ đã khởi sự chuyến đi này nhằm tìm kiếm phương tiện để quay lại Đông Dương với hậu thuẫn của Quốc Tế Cộng Sản III (chương kế sẽ phân tích những tiếp xúc ban đầu của Hồ với Quốc Tế Cộng Sản III.) Nhưng có vẻ là những nhà ái quốc Việt Nam tại Pháp đã chuẩn bị phối hợp hành động cho một kế hoạch nào đó. Sở Liêm phóng Pháp được tin rằng Phan Chu Trinh đang tìm cách quay về Paris từ Castres, nơi ông đã dời đến sau khi đột ngột bỏ việc tại Nhà Đấu Xảo Thuộc Địa tại Marseille.[119] Trinh viết thư mượn Hồ 340 quan cho chi phí đi lại và ăn ở đến khi ông có thể tìm được việc làm tại Paris. Nhưng bản thân Hồ cũng không dư giả gì và chẳng có ai trong số những người Việt đồng hương sẵn sàng cho vay số tiền, vì thế mà Hồ Chí Minh và Phan Chu Trinh đã bỏ lỡ cơ hội gặp nhau lần cuối.[120]

Việc Hồ rời khỏi Paris đã được chuẩn bị cẩn thận. Vào đầu tháng 6 ông bắn tin rằng sẽ đi nghỉ lễ khoảng 8 ngày tại vùng Savoie với hội Club du Faubourg. Ông tâm sự với người quản gia ở số 6 Villa des Gobelins rằng ông mơ ước được đi thăm vùng núi Thụy Sĩ, nhưng không muốn bị bẽ mặt nếu bị khước từ hộ chiếu. Rồi vào ngày 15 tháng 6 mật vụ "Désiré" báo cáo rằng ngày 13 Nguyễn Ái Quốc đã rời khỏi nhà mà không mang theo hành lý. Bạn bè ông nghĩ rằng kỳ nghỉ của ông sẽ ngắn ngủi. Công việc tại Công Đoàn Thuộc Địa được đặc trách bởi Monnerville người đảo Martinique (thuộc địa của Pháp tại vùng biển Caribe -ND). Trong cuộc họp sáu người của nhóm Người Cùng Khổ vào cuối tháng 6, không ai trong họ kể cả Phan Văn Trường và Nguyễn Thế Truyền tình nguyện xúc tiến việc in báo. "Họ quyết định hoãn lại đến khi Nguyễn Ái Quốc quay về," Désiré báo cáo.[121] Vào cuối mùa hè Phan Chu Trinh viết thư cho Nguyễn Văn Ái, tên thật của mật vụ de Villier, buộc tội hắn về việc Quốc mất tích. (Ái đã trở thành một thành viên quan trọng của nhóm Người Cùng Khổ, nhưng lốt mật vụ của hắn bị Trinh khám phá.)

Cho dù Nguyễn Ái Quốc còn trẻ và thiếu chững chạc, điều này không quan trọng vì anh ấy thực lòng yêu nước. Anh ấy từ bỏ gia đình lưu vong đến tận châu Âu và Mỹ, làm việc cật lực để học hỏi mà không một ai giúp đỡ... Dù anh ấy có lỗi lầm hay không, việc ấy không thành vấn đề, bởi vì tất cả người Việt đều trân trọng tấm lòng đầy nhiệt huyết của anh ấy... Ai muốn theo anh ấy thì để họ theo, và ai không muốn thì cũng để yên cho anh ấy làm công việc của mình.

Tại sao anh lại phản bội anh ấy bằng những hành động hèn hạ và nham hiểm của mình? Anh ấy tin anh như anh em ruột... tại sao anh lại muốn gây khó khăn cho anh ấy? Tôi muốn anh nói sự thực, anh đã xúi giục anh ấy đi đâu?[122]

Chính bản thân Albert Sarraut đã ký bức điện mật được gửi vào ngày 11 tháng 10, 1923 đến Thống Sứ Hà Nội để báo với ông này rằng đã tìm thấy dấu vết của Nguyễn Ái Quốc ở Moscow. Bloncourt, một đồng sự người Dahomey (thuộc địa của Pháp ở Tây Phi, giờ là Benin - ND) đã giúp trả chi phí chuyến đi bằng quĩ của Công Đoàn Thuộc Địa Quốc Tế, một mật vụ báo cáo.[123] Đến tháng 11 có tin đồn rằng Hồ sẽ sớm trở về Paris.[124] Phan Văn Trường đã sắp đặt để trở về Việt Nam vào giữa tháng 12 nhưng ông đã hoãn ngày đi vì hi vọng rằng Hồ sẽ quay về với tin tức mới từ Moscow. Cuối cùng vào ngày 23 tháng 12, Trường không thể chờ đợi được nữa và đã khởi hành, đem theo một số ấn bản của tờ Người Cùng Khổ.[125] Hồ Chí Minh và hai chí sĩ họ Phan không bao giờ gặp lại nhau.

Trong cuộc đời chính trị mới mà Moscow đã mở ra cho Hồ Chí Minh, ông vẫn giữ lại những yếu tố cơ bản đã giúp ông trong thời gian hoạt động tại Paris. Một trong số đó là cơ cấu Marxist-Leninist được xử dụng để ông công kích chủ nghĩa thuộc địa. Vấn đề này sẽ được bàn chi tiết ở chương sau. Nhưng ta nên nhớ rằng bên cạnh quan điểm cấp tiến mới mẻ ông vẫn mang đặc tính của tinh thần yêu nước và trách nhiệm của Khổng giáo, những đặc tính đã khiến thân phụ của ông chống đối người Pháp trước đây. Hồ đang bước vào môi trường chủ nghĩa quốc tế của Cộng Sản Quốc Tế III, nhưng ông vẫn bắt rễ vào truyền thống yêu nước của người Việt - những tình cảm gia đình và quê hương mà trước đây chúng đã nối kết ông với Phan Chu Trinh, Cường Để và Phan Bội Châu tại Trung Quốc, và có lẻ tới cả thân phụ ông, người mà giờ đây đã trở nên lập dị, lang thang từ ngôi chùa này đến ngôi chùa khác ở xứ Nam Kỳ.[126] Khi rời khỏi Paris, mối quan hệ của ông với những người cánh tả như Phan Văn Trường và Nguyễn Thế Truyền đã trở nên chặt chẽ hơn bao giờ, và ông đã dựa trên những quan hệ đó khi trở thành phái viên của Quốc Tế Cộng Sản III tại Quảng Đông sau này.

Có phải Hồ Chí Minh vào năm 1923 là một nhân vật đã có quan điểm chính trị rõ ràng hay không? Tôi muốn đưa ra lập luận rằng có rất nhiều dấu hiệu cho thấy rằng quan điểm của ông về thế giới đã hình thành từ những gì ông đã trãi qua với người Pháp từ thuở thiếu thời, từ thất bại của ông tại Hội Nghị Hoà Bình Paris, và từ những hiểu biết trước đó của ông về những quan điểm của Lenin về chủ nghĩa đế quốc. Và ông cũng đã bắt đầu bày tỏ sự uyển chuyển trong đường lối của một nhà chính trị thực dụng. Mặc dù ông đã gia nhập hội Freemason với mục đích nới rộng giao tiếp với những tầng lớp thế lực trong xã hội Pháp, sau này ông đã chấp hành nghị quyết từ Đại Hội lần 4 của Quốc Tế Cộng Sản III là các đảng viên phải cắt đứt liên hệ với hội Freemason cũng như Liên Đoàn Nhân Quyền Pháp.[127] Việc thiếu tính kiên định về lý tưởng mà một số người có thể cho là xảo quyệt là một đặc điểm đã giúp Nguyễn Ái Quốc/Hồ Chí Minh sống sót trong những năm tháng ở Quốc Tế Cộng Sản.

CHƯƠNG 2: THÀNH VIÊN CỦA QUỐC TẾ CỘNG SẢN (1923-4)

Những tiếp xúc đầu tiên tại Moscow

Hồ Chí Minh đến Petrograd (giờ lại là St. Petersburg) bằng đường thuỷ vào ngày 30 tháng 6 năm 1923 từ Cảng North Sea của Hamburg. Mạng lưới Quốc Tế Cộng Sản (QTCS) tại Berlin cung cấp cho ông giấy thông hành Nga với cái tên là Chen Vang.[1] Ông đến Nga vào đúng thời điểm mà những ảo tưởng cách mạng của những người lãnh đạo Bolshevik đã chấm dứt. Nền kinh tế bị kềm toả bởi đấu tranh cộng sản đã đã dẫn đến việc chống đối của nông dân ở khắp nơi trong năm 1921; mọi nỗ lực nhằm kích động một cuộc cách mạng tại những quốc gia phát triển tại châu Âu đều bị thất bại. Khi một cố gắng để tiến hành cuộc cách mạng lần thứ hai tại Đức xảy ra vào tháng 10 năm 1923, chỉ vài tháng sau khi Hồ đến Moscow, nó đã được tầng lớp lao động Đức hưởng ứng một cách lạnh nhạt. Lời hứa hẹn sôi nổi của Trotsky năm 1919, rằng "Thời điểm của nền chuyên chế vô sản tại châu Âu" sẽ là thời điểm giành tự do cho "những nô lệ thuộc địa tại châu Phi và châu Á",[2] nghe có vẻ trống rỗng đối những nhà hoạt động thuộc địa đã hết kiên nhẫn vào cuối năm 1923. Ngoài ra, Lenin, nhà lãnh đạo tối cao của cuộc Cách Mạng Tháng Mười, đang nằm liệt giường vì một cơn đau tim vào tháng 12 1922. Vào thời điểm Hồ đặt chân đến thủ đô cộng sản này, những lý thuyết căn bản về thế giới đại đồng đang bị xét lại và một cuộc khủng hoảng trong hàng ngũ lãnh đạo vừa mới bắt đầu. Thời gian từ cuối cuộc Nội Chiến năm 1921 cho đến khi Stalin củng cố quyền lực năm 1929 đã trở thành khoảng thời gian mà Stephen Cohen (nhà Nga học người Mỹ - ND) gọi là "thời điểm gây tranh luận nhiều nhất trong lịch sử đảng".[3]

Nguyên nhân chính thức mà Hồ được mời đến Nga là Hội Nghị Nông Dân Quốc Tế lần thứ nhất, được khai mạc tại cung Andreyev trong điện Kremlin ngày 10 tháng 10, 1923. Hội nghị đánh dấu sự ra đời của "Nông Dân Quốc Tế " hay còn gọi là Krestintern, một tổ chức nhằm tập trung những người lãnh đạo của các nông hội thiên tả từ châu Âu, châu Á và Mỹ. Nó được thiết lập như một tổ chức hợp pháp bao gồm những thành phần không cộng sản, nhưng sự liên hệ giữa nó và Moscow chẳng bao giờ được che đậy. Trong danh sách của những diễn giả đến tỏ lời chào mừng và đoàn kết trong ngày thứ hai của đại hội có một người tên là "Miguel-al-Kvak" đến từ Đông Dương[4] (tên Việt khi chuyển sang tiếng Nga thường nghe không chính xác lắm, nhưng trong trường hợp này thì lại hay). Hồ không muốn phí thời gian với những lời chúc tụng xã giao: ông đi thẳng vào vấn đề với một giới thiệu ngắn về tình trạng của nông dân ở những thuộc địa Pháp. "Các bạn là những nông dân từ châu Âu và châu Mỹ. Các bạn bị bóc lột như những nông dân," ông nói với các đại biểu, "Nhưng những người như chúng tôi ở những thuộc địa Pháp bị bóc lột gấp đôi, như những nông dân và như những dân tộc bị chinh phục," ông nói. "Một người chủ da trắng có thể đến yêu cầu chính phủ, và những làng mạc liền bị sung công, làng mạc mà cha ông chúng tôi và cả chúng tôi đang sinh sống và trồng trọt."[5] Ông muốn bảo đảm rằng nghị quyết chống chiến tranh được thông qua bởi Đại Hội phải đề cập đến vấn đề áp bức thuộc địa, bằng cách đưa ra một điều khoản bổ xung trong đó nói lên "tầng lớp nông dân của các thuộc địa là thành phần rất quan trọng trong những vấn đề về chiến tranh và hoà bình."[6] Tại cuộc họp tiền hội nghị, Hồ được bầu vào Đoàn Chủ Tịch của Nông Dân Quốc Tế gồm mười một thành viên, cùng với một người Nhật tên Ken Hayasho.[7]

Việc thành lập Nông Dân Quốc Tế phản ánh sự chuyển hướng thoả hiệp với giai cấp nông dân Nga, cũng là vấn đề then chốt trong Chính Sách Kinh Tế Mới của Lenin. Được viết vào tháng 3, 1923, Chính Sách Kinh Tế Mới thay thế việc trưng thu lúa gạo bằng chính sách thuế nhẹ và cuối cùng sẽ hoàn chỉnh việc quay lại thể chế tư bản thị trường cho những ngành nông nghiệp, thương nghiệp và tiểu công nghiệp. Đến tháng 8 năm 1923 chính sách đã thành công đến nỗi Moscow đã tổ chức một cuộc triển lãm nông nghiệp rầm rộ nhằm chứng tỏ nền kinh tế nước nhà đã được tái ổn định. Những lãnh đạo thiên tả nước ngoài đến xem triển lãm được mời ở lại để dự hội nghị nông dân.

Sự ra đời của Nông Dân Quốc Tế còn là kết quả trực tiếp của quá trình chuyển hoá của chính sách mặt trận thống nhất của QTCS. Việc tái xác nhận liên hiệp công-nông tại Nga mà Chính Sách Kinh Tế Mới đã đưa ra tín hiệu được kèm theo bởi những thay đổi dần trong thái độ của những người Bolshevik đối với những đồng minh quốc tế. Không có hi vọng gì từ giai cấp công nhân ở châu Âu. Người Nga đang thúc dục QTCS thừa nhận "giai cấp nông dân thế giới" như là những đồng chí trong hành trình tiến đến chủ nghĩa xã hội. Tại đại hội Đảng Bolshevik lần thứ 12 vào tháng 4 năm 1923, Bukharin đưa ra quan điểm rằng nông dân tại các nước thuộc địa là "kho dự trữ khổng lồ cho lực lượng cách mạng." [8] QTCS đã thành lập Uỷ Ban Nông Nghiệp vào năm 1923, sau đại hội lần 4 vào cuối năm 1922. Nhiệm vụ của Uỷ ban là "theo dõi và củng cố châm ngôn của chính thể công nông trong trong các đảng phái".[9] Châm ngôn này biểu hiện việc những người Bolshevik đã chấp nhận thực tế: trong một thế giới đầy thù địch, nước Nga Xã Hội Chủ Nghĩa cần nhiều đồng minh hơn là chỉ một giai cấp vô sản của tư bản phương Tây. Mặc dù công nhân vẫn được hiểu theo định nghĩa kinh điển của Marx là lực lượng tiên phong của cách mạng, nhưng cũng có thể sửa đổi huấn điều của Marx để kêu gọi "Nông dân và công nhân toàn thế giới" đoàn kết lại.[10] Ủy Ban Nông Nghiệp của QTCS tổ chức Hội Nghị Nông Dân Quốc Tế vào tháng 10 dẫn đến việc Hồ Chí Minh đến Moscow.

Hồ Chí Minh dự tính ở Nga trong ba tháng. "Vì lý do này hay lý do khác, ngày trở về của tôi cứ bị dời từ tuần này đến tuần khác, tháng này đến tháng khác," Ông viết trong một lá thư gửi cho một người đồng chí.[11] Mục đích chính của ông khi đến Moscow dường như là để kêu gọi mọi người quan tâm đến khiếm khuyết của Hội Đồng Nghiên Cứu Thuộc Địa của ĐCS Pháp mà sau này trở thành Ủy Ban Thuộc Địa của đảng. Trên thực tế vào tháng 7 năm 1923 ông đã đưa ra một báo cáo chi tiết về những nhược điểm này đến Ủy Ban Đông Dương của Cục Đông Phương thuộc QTCS, điều này tôi sẽ bàn thêm ở dưới.[12] Bao gồm Grigory Voitinsky, Voja Vujovic và Boris Souvarine, Ủy Ban Đông Dương có vẻ như là cơ quan hợp lý nhất để giải quyết những vấn đề của mảnh đất thuộc địa láng giềng với Java.[13] Voitinsky đã giúp thành lập Đảng Cộng Sản Trung Quốc năm 1920[14] và trở thành đại diện của QTCS tại Thượng Hải vào tháng 4 1924.[15] Cũng như Mikhail Borodin, ông đã sống lưu vong mấy năm ở Mỹ. Hồ giữ mối liên hệ khắn khít với Voitinsky ít nhất là đến năm 1927, khi cả hai phải rời Trung Quốc.

Từ những liên lạc với QTCS ở Moscow, rõ ràng là khi vừa đặt chân đến thủ đô nước Nga ông đã yêu cầu được giúp đỡ để quay về lại Đông Dương qua ngõ Trung Quốc. Trong một lá thư đầy bực dọc gửi cho một "camarades" (đồng chí - ND) vô danh vào tháng 3 năm 1924 (ngày tháng đề trong thư không rõ, nhưng hàm ý của ông về chín tháng tại Nga cho thấy nó được viết vào khoảng tháng 3), ông viết:"Khi đến Moscow, họ đã đồng ý là sau khi ở đây ba tháng, tôi sẽ đi Trung Quốc để bắt liên lạc với những người trong nước mình. Giờ tôi ở đây đã qua chín tháng và đã chờ đợi suốt sáu tháng mà quyết định về chuyến đi của tôi vẫn chưa có. Tôi cảm thấy thật vô ích khi thảo luận ở đây về những phong trào cách mạng quốc gia mới hay cũ, về sự tồn tại hay không của những đảng công nhân, hay về những tổ chức hoạt động bí mật khác, bởi vì tôi không có ý định trình bày một luận án gì cho đồng chí cả; tôi chỉ muốn đồng chí cảm thấy việc cần thiết phải nghiên cứu MỌI THỨ một cách chính đáng, và nếu KHÔNG CÓ GÌ, thì hãy tạo ra MỘT CÁI GÌ [chữ in lớn trong bản gốc]." Cùng với bốn mục tiêu của chuyến đi ông còn liệt kê "để thiết lập liên hệ giữa Đông Dương và Quốc Tế", và "để tổ chức cơ sơ thu thập thông tin và tuyên truyền". Ông yêu cầu một ngân sách khoảng 100 Đô-la Mỹ mỗi tháng cho phí tổn đi lại, liên lạc, mua sách báo, ăn ở; ngoài ra ông còn yêu cầu chi phí cho chuyến đi từ Nga về Trung Quốc.[16] Phải đến Đại Hội QTCS lần thứ 5 vào tháng 5 năm 1924 mới có quyết định chắc chắn để gửi Hồ đi Quảng Châu.[17] Có vài lý do vì sao QTCS và Cục Đông Phương lại chậm trễ trong việc giao phó một công việc cụ thể cho Hồ. Trước tiên, kế hoạch giúp đỡ của Nga cho Tôn Dật Tiên chỉ mới vừa hình thành sau khi Mikhail Borodin đến Quảng Châu vào mùa thu năm 1923. Những sĩ quan giảng dạy cho quân đội Quốc Dân Đảng đã chưa đến Quảng Châu cho tới tháng 6, 7 và tháng 10 năm 1924.[18] Hơn nữa, khi việc chuẩn bị cho Đại Hội lần 5 bắt đầu, những người lãnh đạo QTCS rõ ràng là đang bận rộn với hậu quả của cuộc nổi dậy không thành tại Đức, và lẽ đương nhiên, việc này cấp bách hơn nhiều so với vấn đề Đông Dương. Cũng có thể là những quan chức trong QTCS muốn giữ Hồ lại Moscow để đánh giá Hồ và để điều tra những quan hệ chính trị của ông.

Việc triển khai chính sách đối với những nước thuộc địa của Quốc Tế Cộng Sản

Đến khi Hồ đặt chân đến Nga, Quốc Tế Cộng Sản đã phát triển từ một liên hiệp lỏng lẽo của những đại diện của các đảng cộng sản và đảng cánh tả thành một bộ máy quyền lực bền vững tại Moscow, ngày càng ảnh hưởng bởi những thay đổi chính trị trong nội bộ nước Nga. Bắt đầu từ Đại Hội 4 (5 tháng 11 đến 5 tháng 12, 1922) Ủy Ban Trung Ương QTCS được bầu chọn bởi những đại biểu thay vì những đảng thành viên. Mục đích là để biến QTCS trở thành một "đảng thực sự tập trung, đoàn kết".[19] Khi mới thành lập vào năm 1919, những thành viên người Nga đã không lũng đoạn mấy trong những quyết định của đảng, mặc dù trong số 52 đại biểu có mặt trong đại hội, chỉ có bảy người là ngoài nước Nga. Ba thành viên xã hội người châu Á sống tại Nga tham gia Đại Hội 1 là: Liu Shaozhou và Zhang Yongkui thuộc Liên Hiệp Công Nhân Trung Quốc, và một người Triều Tiên được biết như Đồng chí Kain đại diện cho Liên Đoàn Công Nhân Triều Tiên.[20] Cũng có một nhóm đại diện cho những khu vực Trung Á thuộc đế chế Nga Hoàng trước đây. Bukharin chỉ ra trong một bài viết trên báo Sự Thật (Prava - ND) rằng ủng hộ những thuộc địa bị áp bức trong cuộc đấu tranh giải phóng của họ là một trong những điều nổi bật của chủ nghĩa cộng sản mới hay Quốc Tế III so với chủ nghĩa dân chủ xã hội hay Quốc Tế II. "Không phải tình cờ mà trong kì đại hội đầu tiên của QTCS chúng ta được nghe phát biểu bằng tiếng Hoa," ông viết.[21] Nhưng rồi ba đại biểu đông Á, đều sống tại Nga, chỉ được quyền bầu dưới dạng tham vấn, trong khi cả nhóm"Liên Hiệp Các Dân Tộc Phương Đông tại Nga" chỉ được bầu chung một phiếu.[22] Vị thế thấp bé của những người châu Á tại đại hội 1919 phản ánh quan điểm rằng cuộc cách mạng tại châu Âu là không thể tránh khỏi và vì thế nó quan trọng hơn cuộc đấu tranh giải phóng của các thuộc địa. Như Trosky đã nói trong bản Tuyên Ngôn QTCS, đề cập đến "giai cấp vô sản trên toàn thế giới", "việc giải phóng các thuộc địa chỉ có thể xảy ra cùng lúc với việc giải phóng giai cấp công nhân bên trong các nước đế quốc. Tầng lớp công nhân và nông dân, không những tại Annam, Algeria và Bengal, mà còn tại Persia và Armenia, sẽ có được cơ hội giành độc lập chỉ khi nào giai cấp công nhân tại Anh và Pháp hạ bệ Lloyd George và Clemenceau (Thủ tướng Anh và Pháp - ND) và giành chính quyền về tay của họ."[23]

Cương lĩnh đầu tiên cho cái mà QTCS gọi là "những nước thuộc địa và bán thuộc địa" đã được vạch ra vào Đại Hội 2 năm 1920. Cương lĩnh này do Lenin soạn thảo, đã trở thành Luận Cương về Những Vấn Đề Dân Tộc và Thuộc Địa (Hồ đã đọc bản thảo đầu trên tờ Nhân Đạo vào tháng 7 năm 1920). Nó được tranh cãi sôi nổi tại uỷ ban thuộc địa tại Đại Hội và cuối cùng đã được thông qua, với rất nhiều chỉnh đổi, như là cương lĩnh chính thức của QTCS. Vì cương lĩnh này bao gồm những vấn đề chính trị trọng yếu của sự nghiệp cộng sản của Hồ Chí Minh, nên việc phân tích tranh luận nảy sinh trong QTCS là rất cần thiết. Sự tranh chấp này đã lặp lại trong nhiều giai đoạn dưới những hình thức khác nhau trong những đảng cộng sản châu Á ít nhất là đến thập niên 70.

Con người Lenin khi thảo Luận Cương đã cẩn tắc hơn Lenin vào năm 1917. Mặc dù cương lĩnh của ông không phải là những hướng dẫn chính xác nhất nhưng nó vẫn là nguồn gốc của lý thuyết về mặt trận thống nhất đã được thực hành một cách thành công bởi những người cộng sản Trung Quốc và Việt Nam vào thời điểm Chiến Tranh Thế Giới thứ II bắt đầu. Chính vì sau khi đọc Luận Cương vào mùa hè 1920 trên tờ Nhân Đạo, Hồ Chí Minh cho rằng mình đã trở thành một người Leninist chính thống.[24] Khi nó được công bố với những sửa đổi sau cuộc tranh luận tại Ủy Ban Thuộc Địa của Đại Hội, kèm theo những điều khoản hơi mâu thuẫn của Mahendra Nath Roy thuộc đảng cộng sản Ấn Độ, nó đã để nhiều chỗ trống để có thể hiểu theo những cách khác nhau. Nhưng nó vẫn được xem là một yếu tố quan trọng của lý luận Marxist-Leninist trong suốt nhiều năm. Mặc dù một cương lĩnh mới, cấp tiến hơn về những nước thuộc địa được Otto Kuusinen đưa ra tại Đại Hội 6 QTCS vào năm 1928, ông vẫn muốn cho rằng cương lĩnh của mình là sản phẩm của Luận Cương Lenin 1920 mà ông cho là vẫn có đầy đủ giá trị của "những đường lối của các đảng cộng sản".[25]

Luận cương của Lenin đưa ra tầm quan trọng của các nước thuộc địa trong bối cảnh của cách mạng toàn cầu. Chúng là khai triển hợp lý của ông về những phân tích về chủ nghĩa tư bản trên thế giới trong cuốn Về Chủ Nghĩa Tư Bản, xuất bản năm 1917. Lenin lý luận rằng, là nguồn tài nguyên của nguyên liệu thô và sức lao động rẻ tiền, những nước thuộc địa rất quan trọng đối với quyền lực của chủ nghĩa tư bản phương Tây. Nếu giai cấp công nhân phương Tây liên minh với những dân tộc bị áp bức tại các thuộc địa để giúp họ giành độc lập, Lenin lập luận, họ sẽ đánh một đòn chí mạng vào kẻ thù của chủ nghĩa cộng sản.

Khía cạnh quan trọng thứ hai của Luận Cương là trong giai đoạn đầu, giai đoạn tư sản dân tộc của cuộc cách mạng thuộc địa, những người cộng sản phải bắt tay với những đảng phái quốc gia, vì giai cấp vô sản thuộc địa không đủ lớn mạnh để đơn phương tiến hành cách mạng. Chỉ sau khi cách mạng tư sản đã đạt được mục đích của nó - giành độc lập quốc gia và chấm dứt chế độ phong kiến ở nông thôn - thì cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa do giai cấp công nhân lãnh đạo mới có thể bắt đầu. Lenin cho rằng nếu giai cấp công nhân tại những thuộc địa vừa được giải phóng được các quốc gia cộng sản phát triển giúp đỡ, họ có thể bỏ qua thời kỳ chủ nghĩa tư bản và tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội. Điều này có vẻ như một lập lại của lý thuyết "con đường riêng" của những người theo phái Dân Tuý tại Nga.

Những đại biểu châu Á lẫn châu Âu có vẻ không quán triệt lắm với quan điểm rằng cộng sản cần liên minh với tư sản dân tộc trong các phong trào giành độc lập. Những người dân chủ xã hội thuộc Quốc Tế II được cho là những nhà cải cách không đáng tin cậy, luôn sẵn sàng thoả hiệp với giai cấp tư bản cầm quyền. Việc họ ủng hộ các chính sách chủ chiến của các chính phủ trong trong Chiến Tranh Thế Giới thứ Nhất bị những người xã hội cấp tiến thành lập Quốc Tế III cho là đã phản bội tinh thần quốc tế. Cuối cùng các đại biểu đã thuyết phục Lenin sửa đổi cụm từ "những phong trào tư sản dân tộc" thành "những phong trào cách mạng".[26] Có những đoạn văn được chêm vào phiên bản hoàn tất của Luận Cương để giảm nhẹ chiến lược mặt trận thống nhất để vừa lòng các đại biểu. Ví dụ như trong điều khoản 11a kêu gọi các đảng cộng sản "ủng hộ bằng hành động" phong trào cách mạng giải phóng trong "những đất nước có những đặc tính lạc hậu, phong kiến, địa chủ hoặc địa chủ-nông dân", một điều kiện đã được thêm vào: "Hình thức ủng hộ phải được thảo luận trước với Đảng Cộng Sản của đất nước ấy, nếu đảng ấy hiện hữu."[27] Nhưng nó vẫn không che đậy được thực tế là Lenin chấp nhận việc các đảng viên cộng sản có thể phân tán tạm thời trong cuộc đấu tranh giai cấp theo học thuyết Marxist tại những đất nước "lạc hậu" này. Thành viên cộng sản người Hà Lan "Maring" (Henk Sneevliet) trở thành công cụ để thuyết phục các đại biểu. Kinh nghiệm tổ chức của ông tại Java trong thời kỳ Chiến Tranh Thế Giới thứ Nhất, khi những người xã hội cấp tiến hợp tác với đảng quốc gia Sarekat Islam để chống lại Hà Lan, đã trở thành kiểu mẫu cho chiến lược của QTCS tại Trung Quốc. Phương pháp của ông vô cùng thực dụng: Các lực lượng tư sản và cộng sản phải hợp tác với nhau trong các nước thuộc địa, vì những người cộng sản không đáng kể mấy nếu đứng một mình.[28]

Bản Bổ Sung cho Luận Cương về Các Vấn Đề Dân Tộc và Thuộc Địa do M.N. Roy (thuộc Ấn Độ - ND) soạn cũng được thông qua bởi Ủy Ban Thuộc Địa tại Đại Hội 2 dưới dạng bổ túc. Việc nhấn mạnh sự khác biệt giữa giai cấp tư sản thuộc địa và công nhân trong Luận Cương của Roy rõ ràng là đã mâu thuẫn với lý luận của Lenin. Lenin bỏ lửng ý tưởng của mình trong một phạm vi nhất định để mọi người có thể hiểu theo cách riêng vì không muốn phật lòng một đồng minh quí báu từ mảnh đất thuộc địa lớn nhất của Anh Quốc. Sự khác biệt của Roy so với đường lối của Lenin được thể hiện rõ trong điều khoản 7: "Trong các quốc gia độc lập hiện hữu hai phong trào dị biệt ngày càng cách xa nhau. Một bên là phong trào tư sản-dân chủ quốc gia, với phương trình chính trị độc lập dưới sự lãnh đạo của giai cấp tiểu tư sản, và bên kia là khối hành động của tầng lớp nông dân và công nhân nghèo khổ bị bỏ rơi nhằm giải phóng họ khỏi mọi áp bức. Tầng lớp thứ nhất luôn cố gắng kiềm chế tầng lớp sau và thường thành công trong một mức độ nào đó. Nhưng Quốc Tế Cộng Sản và các đảng phái liên minh phải đấu tranh chống lại việc này và giúp nâng cao ý thức giai cấp cho khối quần chúng của giai cấp công nhân thuộc địa." Trong những phiên bản khác của bài viết có một đoạn được thêm vào như là một thoả hiệp: "Trong bước tiến đầu tiên của cuộc cách mạng thuộc địa - lật đổ chế độ tư bản ngoại quốc - việc hợp tác với những phần tử cách mạng tư sản dân tộc là hữu ích."[29]

Maring, chủ tịch Ủy Ban Thuộc Địa tại Đại Hội, đã tìm cách xoa dịu được mối mâu thuẫn có thể thấy là rất hiển nhiên này. Ông lập luận rằng cả hai Luận Cương của Lenin và Roy đều "mang cùng một ý nghĩa":"Vấn đề là việc tìm ra phương cách đúng đắn trong mối quan hệ giữa hai phong trào cách mạng quốc gia và xã hội trong những nước lạc hậu và thuộc địa. Trên thực tế vấn đề này không hề tồn tại. Việc quan trọng là ta phải hợp tác với những lực lượng cách mạng quốc gia, và chúng ta chỉ làm phân nửa công việc nếu chúng ta phản đối phong trào này và tỏ ra là những nhà Marxist giáo điều."[30] Con người thực dụng Maring đã bỏ qua những trở ngại hiển nhiên trong giải pháp của mình. Allen Whiting (Giáo Sư Chính Trị Học người Mỹ - ND) chỉ ra rằng sự thoả hiệp này chỉ là một giải pháp mong manh mà sau này đã phá huỷ mặt trận thống nhất tại Trung Quốc: "Những từ chương phức tạp của những giải pháp đa dạng đã phục vụ như một thứ bình phong tạm bợ, che đậy mối mâu thuẫn giữa những chiến lược cách mạng của Lenin và mối thù của những người châu Á đối với những kẻ bóc lột họ. Nếu mâu thuẫn này không được giải quyết, chiến lược "mặt trận thống nhất" ở Trung Quốc không những chỉ đối diện với sự nghi ngờ từ cánh Hữu mà còn cả thái độ mơ hồ của cánh Tả". [31] Điều không tránh khỏi là những mặt trận thống nhất dựa trên Luận Cương của Lenin chỉ là một hiện tượng nhất thời. Chúng không xoá bỏ được những dị biệt về tư tưởng giữa những người cho rằng sự phát triển của chủ nghĩa cộng sản là một quá trình hữu cơ cần có đủ thời gian để hoàn tất và những người như Lenin vào năm 1917, muốn đẩy nhanh việc thay đổi bằng bạo lực.

Vị trí của Hồ Chí Minh tại Quốc Tế Cộng Sản

Mặc dù Quốc Tế Cộng Sản đã tăng cường mối quan tâm đến giai cấp nông dân, khi Hồ Chí Minh đến Moscow tháng 7 năm 1923, báo cáo của ông về các hoạt động phản đế tại Pháp đã phê phán nặng nề cơ quan này.Trong khi những người Cộng Hoà Trung Quốc đang được các nhà ngoại giao và đặc sứ của Nga ve vãn, mảnh đất thuộc địa Pháp xa xôi rõ ràng là không thu hút được mối quan tâm của Nga. Cuối cùng chuyến đi của Hồ trở về châu Á do QTCS bảo trợ trở thành hiện thực có thể là vì nó nằm trong chương trình hổ trợ của Nga dành cho Cộng Hoà Trung Hoa. Về mọi phương diện, khi đến Moscow Hồ vẫn hành xử như một đại diện của Công Đoàn Thuộc Địa ở Paris, và có thể đã soạn bản báo cáo chung với những đồng nghiệp trong Công Đoàn. Ông than phiền rằng Luận Cương về Các Vấn Đề Dân Tộc và Thuộc Địa đã dấy lên mối trông chờ trong các thuộc địa rằng QTCS sẽ giúp giải phóng họ. Nhưng cho đến nay những Luận Cương này chỉ là "vật trang hoàng trên giấy", ông viết. Mặt khác Luận Cương cũng đã làm cho những nhà nước thống trị tăng cường nỗ lực trong chính sách tuyên truyền ngu dân và đàn áp trong khi đó lại không có được bất cứ hành động nào từ các ĐCS Pháp và Anh [32], ông cho biết.Những cơ hội để giúp đỡ các phong trào thuộc địa như vụ đình công tại Martinique và cuộc khởi nghĩa ở Dahomey đã bị bỏ lỡ, ông nói. "Thật là mỉa mai và buồn thay cho những người anh em bất hạnh Dahomey của tôi, trong bóng tối của những nhà tù văn minh, khi phải đọc mục thứ 8 của bản 21 Điều Kiện [để tham gia QTCS], trong đó nói rằng 'mỗi đảng bộ có nhiệm vụ thi hành hệ thống tuyên truyền cho lực lượng trong nước mình chống lại sự đàn áp dân chúng thuộc địa; và phải ủng hộ phong trào giải phóng trong các thuộc địa bằng lời nói và việc làm.'"

Cái chết của Lenin trong tháng Giêng lạnh giá năm 1924 đã mở ra một thời kỳ mới của việc đấu tranh bè phái trong nội bộ QTCS. Hoà chung dòng người đứng đợi hàng giờ dưới trời đông để viếng nhà lãnh đạo tối cao vừa qua đời, mũi và các ngón tay của Hồ bị lở loét vì cóng.[33] Việc bày tỏ lòng thành này đã giúp cho tương lai chính trị của Hồ. Trong những tháng năm kế ông đã tìm cách để tránh bị nhận diện là thuộc hạ của Leon Trotsky lúc ảnh hưởng của ông này tại Kremlin đã bắt đầu đi xuống và Lenin rút khỏi hoạt động chính trường. Có rất nhiều người đỡ đầu và đồng chí của Hồ trong ĐCS Pháp đã bị truất phế, trong đó có Boris Sourarine thuộc Ủy Ban Thuộc Địa của QTCS và Jacques Doriot, sau này trở thành người bảo trợ cho Hồ khi Hồ vận hành Ủy Ban Thuộc Địa của ĐCS Pháp. Hồ đã có được bài học đáng giá về cách sống còn trong chính trường vào mùa thu đầu tiên ở Moscow, khi ông chứng kiến chiến dịch chính trị thành công cuối cùng của Trosky - cuộc vận động cho phong trào Dân Chủ Công Nhân.

Trotsky bắt đầu khởi xướng vấn đề dân chủ trong đảng khi quyền lực tối cao của ông đã yếu đi. Trong lá thư gửi cho Ủy Ban Trung Ương ngày 8 tháng 10, 1923 ông lên án việc bổ nhiệm những chức bí thư từ phía trên. Ý kiến của ông được sự tán đồng của bốn mươi sáu đảng viên tên tuổi, họ đã cùng viết thư cho Ủy Ban Trung Ương ủng hộ đề xướng của ông. Đối diện với sự ủng hộ rộng khắp cho quan điểm này, bộ tam tối cao gồm Grigory Zinoviev, Leve Kamenev và Josef Stalin cho phép việc thành lập một uỷ ban về vấn đề dân chủ công nhân. Trotsky là một trong những tác giả soạn thảo nghị quyết chính thức, được đăng trên báo Sự Thật ngày 7 tháng 12, 1923. Nghị quyết kêu gọi chấm dứt việc "quan liêu hoá" nội bộ đảng, cho phép tự do thảo luận và bầu cử các chức vụ lãnh đạo một cách công khai.[34]

Trong khi đó Trotsky lại bị cô lập trong Bộ Chính Trị. Phong trào "Dân Chủ Công Nhân" đã không đạt được điều gì ngoài bản nghị quyết (cho đến khi Stalin cảm thấy đúng lúc để xử dụng cho việc bầu cử các chức bí thư); đến khi Đại Hội Lần 5 QTCS được tổ chức vào tháng 6 1924, Trotsky đã trở thành một kẻ vô danh. Mặc dù ông vẫn được bầu vào Chủ Tịch Đoàn (nhưng chỉ là một ứng cử viên bình thường) và đã đưa ra bản tuyên ngôn hùng hồn trong bài "Kỷ Niệm Mười Năm Chiến Tranh Thế Giới Bùng Nổ,"[35] con người có công thành lập QTCS này hầu như không xuất hiện trong suốt kỳ Đại Hội. Boris Sourvarine, người đóng vai trò trọng yếu trong việc xuất bản tờ Con Đường Mới (The New Course-ND) cho phong trào dân chủ công nhân bằng tiếng Pháp, đã bị đẩy ra khỏi ĐCS Pháp khi Đại Hội bế mạc. Hình như vào thời điểm này Hồ đã học được tài tránh né những cuộc tranh luận mang tính học thuyết, Ruth Fischer, một đảng viên cộng sản người Đức nhớ lại khoảng thời gian làm việc tại QTCS. Bà kể với Jean Lacouture (nhà sử học người Pháp - ND) rằng Hồ "hướng nhiều về hành động hơn là bàn thảo lý luận. Ông luôn là người thiên về kinh nghiệm."[36] Dù vậy những hồi ức của Fisher cũng như của các cựu thành viên QTCS đã khác viết về Hồ sau khi ông đã nắm quyền lực cần nên nghiên cứu một cách cẩn trọng. Trong cuốn Từ Lenin đến Mao (Von Lenin Zu Mao-ND), Fisher viết rằng Hồ đến Moscow vào năm 1922 để tham dự Đại Hội 4 QTCS. Vì không có bất cứ tài liệu hoặc bằng chứng củng cố cho việc này, chúng ta có thể cho rằng Fisher đã dùng dữ liệu không chính xác.[37] Dù trong bất cứ trường hợp nào, ta vẫn biết rằng ngay từ năm 1924 Hồ đã biết được rằng nếu đứng không đúng chỗ trong trận chiến tư tưởng có nghĩa là không những sự nghiệp cộng sản của ông sẽ bị chấm dứt mà hy vọng giành được sự ủng hộ cho nền độc lập của Việt Nam cũng tiêu tan. Tính kín đáo có sẵn của ông có lẽ đã giúp ông che đậy những suy nghĩ thật của mình về những vấn đề không liên quan trực tiếp đến Việt Nam.

Phản ứng của Hồ đối với những cạm bẫy chính trị trong nội bộ QTCS là giữ mình kín đáo và tiếp tục hướng tới mục tiêu đã được hoạch định cẩn thận của mình. Ông tập trung nỗ lực của mình để thúc dục QTCS có hành động mạnh mẽ hơn đối với những vấn đề thuộc địa. Vào tháng 2 và lần nữa vào tháng 3 năm 1924 ông viết thư yêu cầu được gặp Zinoviev. Vào năm 1920 Zinoviev đã trở thành chủ tịch "Tiểu Vụ" của Ban Chấp Hành QTCS (Hồ đã ngưng làm việc tại các cơ quan của QTCS vì mũi và những ngón tay bị loét cóng).[38] Zinoviev đã chuyển những yêu cầu của Hồ đến lãnh đạo mới của Cục Đông Phương, Fyodor Petrov (F.F. Raskolnikov) thay thế Karl Rakek vào ngày 8 tháng 3, 1924.[39] (Radek bị đem làm vật tế thần cho sự thất bại của cuộc cách mạng tại Đức, nhưng trở lại để đứng đầu Học Viện Tôn Dật Tiên cho đến năm 1927). Vào ngày 20 tháng 5, 1924 Hồ gửi một bản đề nghị dài ba trang đánh máy cho Petrov. Bản đề nghị vạch nền tảng cho một Liên Minh Cộng Sản Á Châu. Sự yếu kém của nhân dân phương đông, ông viết, là do họ bị cô lập với nhau.

"Thật có ích khi những người An Nam học hỏi phương pháp tổ chức của những người anh em Ấn chống lại đế quốc Anh," ông viết một cách hào hứng, "hoặc cách thức của giai cấp công nhân Nhật đoàn kết chống chủ nghĩa tư bản, hoặc sự hi sinh cao cả của nhân dân Ai Cập nhằm đòi hỏi tự do. Người dân phương đông nhìn chung rất tình cảm; đối với họ, một ví dụ điển hình có giá trị hơn cả trăm bài diễn thuyết." Hồ đề nghị trường Đại Học Lao Động Cộng Sản Phương Đông, nơi học sinh của 62 dân tộc châu Á đang nghiên cứu, nên trở thành cơ sở để tạo dựng Liên Minh. Ông nôn nóng muốn tổ chức một uỷ ban dự bị trước khi Đại Hội QTCS sắp xảy ra vào tháng 6.[40]

Sáng kiến của Hồ dường như không được ai thực hiện, cho đến khi chính ông giúp thành lập Liên Hiệp các Dân Tộc bị Áp Bức vào năm 1925 lúc ông đến Quảng Châu.[41] QTCS nghĩ rằng cơ cấu của họ tại Moscow đã đủ để giúp các nước châu Á liên lạc với nhau. Vì thế những người cộng sản Việt Nam lại không có một đảng Cộng Sản cho riêng mình. Điều này đặt họ vào vị thế lúng túng, phải đi tìm sự giúp đỡ từ nhiều hướng. Những người Việt tại Pháp thì tham gia ĐCS Pháp; trong khi đó cộng sản Pháp lại cho rằng những người cộng sản Việt Nam đang tìm hướng đi đến Ủy Ban Thuộc Địa của ĐCS Pháp mặc dù uỷ ban này chỉ làm việc lấy lệ. Trong cơ cấu hành chính quan liêu của QTCS, từ 1923 đến 1926 Đông Dương trực thuộc trong bộ phận rất mơ hồ là "Phân Bộ Trung Đông" thuộc Cục Đông Phương trong đó bao gồm cả Ấn Độ và Nam Dương. Khi phong trào cộng sản Việt Nam đã phát triển, sự lẫn lộn vẫn còn tiếp diễn trong việc ai là người chịu trách nhiệm hướng dẫn phong trào. Trên thực tế, sự lớn mạnh của cộng sản Trung Quốc trong giai đoạn 1923-1927 có lẽ là nguồn động viên lớn nhất cho phong trào cộng sản phôi thai tại Việt Nam cũng như những phong trào cộng sản khác trên khắp vùng đông nam châu Á. Một số người Việt lưu vong tại Trung Quốc đã trở thành đảng viên ĐCS Trung Quốc trước khi ĐCS Việt Nam được thành lập.

Ta có thể đoán rằng những cuộc tiếp xúc không chính thức giữa các nhân viên QTCS và sinh viên của Đại Học Lao Động Cộng Sản Phương Đông (còn có tên là ĐH Stalin) ở Moscow đã trở thành một diễn đàn trao đổi tư tưởng và tin tức. Nhưng ngoại trừ Hồ ra, không có người Việt Nam nào có cơ hội theo học tại đây trước năm 1925 hoặc 1926, khi những sinh viên Đông Dương đầu tiên được gửi qua từ Paris chính thức theo học.[42] Thành lập vào năm 1921 với mục đích đào tạo những thành viên cộng sản cốt cán, cho đến năm 1924 trường này giảng dạy những người Á châu nằm trong lãnh thổ của liên bang Sô Viết và con số học sinh nước ngoài theo học ngày càng đông. Danh sách của sinh viên đến từ miền đông và nam Á năm ấy có 56 sinh viên Triều Tiên, 109 sinh viên Trung Quốc, 6 sinh viên Mã Lai hoặc Nam Dương và 16 sinh viên Mông Cổ.[43] Không có tài liệu chính thức về việc Hồ Chí Minh nghiên cứu tại đây trước năm 1936, mặc dù tác giả người Nga tên Yevgeny Kobelev trích dẫn từ một bài phỏng vấn Hồ ngày 15 tháng 3 năm 1924 trong tờ báo cộng sản Ý L'Unità, trong đó Hồ đề cập đến việc nghiên cứu của mình tại trường này.[44] M.N.Roy cũng xác nhận rằng Hồ đã theo học tại trường.[45] Vì Hồ đến Moscow với tư cách chính thức qua Nông Dân Quốc Tế, rất có thể ông đã học những lớp về vận động nông dân khi mới đến đây.

Hồ Chí Minh được phép làm việc như một "nhân viên không biên chế" cho các cơ quan QTCS vào tháng 4 năm 1924.[46] Một trong những nhiệm vụ chính của ông tại Moscow là soạn thảo báo cáo về Việt Nam và viết bài cho báo chí cộng sản. Có thể là ông đã sửa lại những bản thảo đã viết khi còn ở Pháp, đã được xuất bản dưới cái tên Bản Án Chế Độ Thực Dân Pháp bởi Nghiệp Đoàn Lao Động tại Paris năm 1925. Bản thảo đánh máy bằng tiếng Pháp từ bản tài liệu của Hồ về vấn đề Đông Dương nằm trong văn khố của QTCS, nhưng không có bằng chứng là nó đã được xuất bản. Bản tài liệu bao gồm một giới thiệu ngắn về lich sử và địa lý Việt Nam và những phần nói về việc trưng thu đất đai của người Việt một cách vô nhân đạo của nhà cầm quyền Pháp.[47] Một thành quả báo chí của Hồ tại Moscow là bài báo "Lenin và Nhân Dân Phương Đông" viết năm 1924. Ông đã viết một bài dài 8 trang phân tích quan điểm của Lenin về chủ nghĩa đế quốc và phong trào giải phóng thuộc địa. Bài viết này có giá trị hơn là bài viết tương tự nhưng đầy cảm xúc ca tụng được in với cùng đầu đề trên tờ Sự Thật số 27 tháng 1, 1924 sau khi Lenin qua đời. Bài viết sau đã phản ánh trung thực nỗi ray rứt của Hồ trong giai đoạn này của đời mình "Quá quen với việc bị đối xử như những người lạc hậu và thấp hèn", ông viết, "họ [người dân Á châu] đã thấy Lenin như hiện thân của tình huynh đệ quốc tế.[...] họ sùng kính ông với với lòng thành của con cái đối với cha mẹ."[48] Luận Cương của Lenin và những hứa hẹn của QTCS với dân tộc thuộc địa có lẽ là những dấu hiệu đầu tiên mà Hồ tìm được về việc phương Tây thật sự quan tâm đến vấn đề áp bức của người Pháp.


Đại Hội Quốc Tế Cộng Sản lần 5

Khi Đại Hội 5 Quốc Tế Cộng Sản khai mạc tại Moscow vào tháng 6 1924, Hồ cảm thấy cần giữ nguyên áp lực với những người cộng sản tây Âu để họ quan tâm nhiều hơn nữa đến các thuộc địa của mình. Cả ba lần phát biểu của Hồ tại Đại Hội chủ yếu tập trung vào việc yêu cầu có nhiều hành động hơn đối với những vấn đề thuộc địa. Rõ ràng là Hồ vẫn còn nguyên tình yêu nước và tinh thần kiên quyết của những tháng ngày ở Paris. Nhưng ông vẫn chỉ là một đại biểu với lá phiếu tham vấn.[49] Chỉ vừa tròn 30 tuổi, ông đã không ngần ngại lên lớp giới lãnh đạo của cộng sản thế giới về những thiếu sót của họ - ông luôn xen vào những cuộc tranh luận kéo dài về những vấn đề dân tộc và thuộc địa. Ông đã rất gay gắt với các đảng cộng sản Pháp và Anh: "Tất cả những gì mà đảng chúng ta đã làm trong lĩnh vực này là con số không. Tại xứ Tây Phi thuộc Pháp chính sách quân dịch được thực hiện bởi những biện pháp cưỡng chế không thể tưởng tượng, mà báo chí chúng ta chẳng đả động gì đến. Chính quyền thuộc địa tại Đông Dương đã trở thành những kẻ buôn nô lệ, chuyên bán dân bản xứ Bắc Kỳ cho những chủ đồn điền ở quần đảo Thái Bình Dương; họ đã tăng hạn quân dịch của dân bản xứ từ hai năm lên bốn năm; họ đã trao phần lớn thuộc địa cho tập đoàn cá mập... và báo chí chúng ta vẫn một mực lặng im."[50] Ông đề nghị một số biện pháp có thể áp dụng lập tức như: một diễn đàn về thuộc địa trên báo Nhân Đạo, tăng cường việc tuyên truyền và kết nạp thành viên thuộc địa, bảo trợ các sinh viên thuộc địa tại Đại Học Lao Động Cộng Sản Phương Đông ở Moscow, tổ chức thành phần công nhân thuộc địa tại Pháp, và bắt buộc các đảng viên quan tâm đến những vấn đề thuộc địa.[51]

Việc tham gia lần cuối cùng của Hồ vào cuộc tranh luận về vấn đề nông dân rõ ràng là đã được ông tính toán kỹ lưỡng. Ông phát biểu với tư cách là một chuyên viên về nông dân thuộc địa Pháp chứ không chỉ riêng về Đông Dương. Những nghiên cứu và bài vở của ông và đồng nghiệp từ tờ báo Người Cùng Khổ có thể là cơ sở cho bài phát biểu. Ông đã không bỏ phí thời gian với những lời chính trị sáo rỗng như tỉ lệ phần trăm của bần nông, trung nông, phú nông và địa chủ. Theo ông 95% dân số thuộc địa Pháp đang bị "bóc lột hoàn toàn".[52] Việc trưng thu đất đai của tư bản Pháp là nguồn gốc của sự bóc lột ấy. Ông nói tại Việt Nam "Khi người Pháp đánh chiếm vùng đất này, chiến tranh đã đẩy nông dân ra khỏi làng quê của mình. Kết quả là khi họ quay về quê quán, đất đai của họ đã bị chiếm dụng bởi các chủ đồn điền theo gót đội quân chiến thắng. Chúng đã chuyển nhượng đất đai mà dân bản xứ đã sinh sống và lao động suốt mấy thế kỷ qua."[53] Ông đã vẽ lên một bức tranh đen tối của việc hành hạ, mà tồi tệ nhất là những nông dân vùng châu Phi xích đạo, nơi mà "người già, phụ nữ và trẻ em bị giam giữ, hành hạ, tra tấn, bỏ đói, đoạ đày và đôi khi giết chết."[54] Hồ so sánh việc giải phóng người dân khỏi ách thuộc địa cũng giống như cách mạng vô sản: "Nhiệm vụ của Quốc Tế Cộng Sản là giúp đỡ tổ chức thành phần nông dân đáng thương này. Nhiệm vụ của họ là vạch ra con đường đến cách mạng vô sản và giải phóng."[55] Ta tự hỏi rằng những kỷ niệm của ông ở Trung phần Việt Nam năm 1908 đã ảnh hưởng nhiều như thế nào đến cái nhìn của ông về sự áp bức của người Pháp - những bất công mà ông đã chứng kiến khi còn là một thiếu niên chắc chắn đã thúc đẩy ông như thời ông còn ở Paris. Trên thực tế, trong báo cáo cho Quốc Tế Nông Dân vào tháng 7 năm 1924 về giới vô sản Việt Nam, ông đã đề cập đến "sự áp bức dã man và đẫm máu" của người Pháp năm 1908.[56] Thời điểm cho cuộc cách mạng dân chủ tư sản hay mối quan hệ công nông đối với ông không quá quan trọng vào năm 1924.

Mặc dù Đại Hội 5 đã đánh dấu sự xuất hiện chính thức của Hồ trong chính trường QTCS, bản thân nó không phải là một diễn đàn quan trọng để thảo luận về các vấn đề thuộc địa. Sự cách biệt ngày càng lớn giữa Trotsky và bộ ba lãnh đạo tại Nga, cùng với thời kỳ hậu tử của cuộc cách mạng Đức bị thất bại năm 1923, đã che phủ mọi chủ đề khác. Với mối nguy hiểm ngày càng lớn của việc chia rẽ trong nội bộ CSQT, mọi quan tâm đều chú trọng vào vấn đề "kỷ luật Bolshevik". Câu khẩu hiệu "Bolshevik hoá" xuất hiện lần đầu tiên tại đại hội này - những đảng thành viên của QTCS bắt buộc phải trở thành những đảng có kỷ luật, "không cho phép chia rẽ, nhiều khuynh hướng hay bè phái".[57] Chúng phải được tái cơ cấu theo mô hình của đảng Bolshevik Nga. Những thành phần chủ chốt của các đảng thành viên trong QTCS không những phải báo cáo với lãnh đạo của đảng mình mà còn cả với Ban Chấp Hành QTCS. Ban Chấp Hành sẽ có trách nhiệm hiệu đính cương lĩnh của các đảng cũng như tất cả các tài liệu hoạt động khác.

Những dấu hiệu chia rẽ trong nội bộ đảng cộng sản Nga đã xuất hiện trong cuộc thảo luận về sách lược của mặt trận thống nhất, một thảo luận mà Zinoviev gọi là "vấn đề gây tranh cãi nhất trong hàng ngũ chúng ta".[59] Chính Zinoviev đã đánh giá rất thấp sách lược và nguồn gốc của nó, nhưng ông vẫn chắc chắn rằng nó sẽ tồn tại trong đường lối của QTCS cũng như của đảng CS Nga. "Sách lược của Mặt Trận Thống Nhất vẫn đúng đắn," ông nói thẳng thừng. Nhưng ông lại bổ sung một điều khoản về "vấn đề phải đặt ra một cách vững chắc, cá biệt cho mỗi quốc gia, phù hợp với những điều kiện thuận lợi." Ông nhấn mạnh rằng sách lược đang đưa nước Nga trở lại tình trạng kinh tế tương đối ổn định là một sự lùi bước:

Nhìn lại quãng đường đã qua, chúng ta có thể thấy rằng với tổng thể Quốc Tế Cộng Sản trong giai đoạn 1921-1922, những sách lược về mặt trận thống nhất có nghĩa là việc nhận thức rằng chúng ta vẫn chưa chiếm được đa số tầng lớp lao động; thứ hai, phong trào dân chủ xã hội vẫn còn rất mạnh; thứ ba, chúng ta vẫn còn trong vị thế phòng thủ và kẻ thù vẫn đang tấn công... thứ tư, cuộc đấu tranh quyết định vẫn chưa là ưu tiên hàng đầu. Vì thế chúng ta phải thúc đẩy khẩu hiệu: "Hướng tới quần chúng!" và kế đến là những sách lược của mặt trận thống nhất...

Đối với những đảng CS châu Âu, Đại Hội 5 đã thiết lập một hướng đi về phía tả. Karl Radek, người cố vấn của đảng CS Đức đã bị đổ lỗi cho sự thất bại của cuộc khởi nghĩa năm 1923. Cả ông ta và một cách gián tiếp, Trotsky bị phê bình là đã hiểu lầm sách lược của mặt trận thống nhất như là "một liên hiệp hữu cơ với phong trào dân chủ xã hội".[60] Nhưng cũng nên lưu ý rằng, theo Radek và lãnh đạo ĐCS Đức Brandler, liên hiệp này đã được phê chuẩn bởi QTCS vào năm 1923.[61] Việc QTCS và giới lãnh đạo Nga một mực đổ lỗi cho những người thực hiện chính sách tại địa phương đã là điềm báo trước cho những gì sẽ xảy ra sau đổ vỡ của mặt trận thống nhất tại Trung Quốc. Điều nên lưu ý nữa là Trotsky không bao giờ là người ủng hộ cho việc hợp tác với tầng lớp dân chủ xã hội. Trong bản "Tuyên Ngôn của Đại Hội Năm QTCS Kỷ Niệm Mười Năm Chiến Tranh Thế Giới Bùng Nổ," ông lên án những thành viên dân chủ xã hội Đức vì vai trò của họ trong sự thất bại của cuộc khởi nghĩa 1923: "Rõ ràng là trong những thời khắc quan trọng, thời khắc giữa sự sống và cái chết của giai cấp tư sản, khi tương lai của giai cấp lao động đang bị đe doạ, những kẻ dân chủ xã hội đã hiểm ác phá hoại mặt trận thống nhất của giai cấp công nhân, dẫn đến sự lưỡng lự trong hàng ngũ công nhân, làm ngã lòng và cô lập đảng cộng sản, và trở thành kẻ cầm trịch cho bọn tư bản phản động."[62] Trong vài năm sau quan điểm này đã được củng cố vững chắc trong tư tưởng của QTCS và được Stalin truyền bá rộng rãi trong những năm 1928-1929.

Nhận định của đại biểu người Pháp Albert Treint về mặt trận thống nhất đã tóm tắt quan điểm đang thịnh hành trong đại hội: "Mặt trận thống nhất là một sách lược nhằm huy động quần chúng cách mạng và không phải là một tổ chức liên minh với những người cầm đầu dân chủ xã hội .[...] Những chính quyền Lao Động và Cánh Tả tạo ra bởi nền dân chủ tư sản tìm được sự hưởng ứng từ bên trong những đảng phái của chúng ta... đấu tranh chống lại chủ nghĩa tư sản hơn bao giờ hết là đồng nghĩa với đấu tranh chống lại dân chủ xã hội bên ngoài, cũng như đấu tranh chống lại thành phần hữu khuynh bên trong QTCS." Trong bài diễn văn bế mạc đại hội, ông nói:"Đồng thời chúng ta cũng: Chống lại sự xóa bỏ việc Bolshevik hoá ĐCS Nga; Ủng hộ việc Bolshevik hoá các đảng anh em, ủng hộ việc nhận thức rằng Quốc Tế Cộng Sản, trong tinh thần Lenin, phải trở thành một đảng Bolshevik quốc tế."[63]

Dmitry Manuisky, một thành viên nói tiếng Pháp của QTCS từ Ukraine, người được cho là xướng ngôn viên cho quan điểm của Stalin, đã giới thiệu trước Đại Hội sách lược mặt trận thống nhất cho các thuộc địa. Ông nêu lên việc ĐCS Trung Quốc đã phê phán các thành viên đảng này tham gia vào Quốc Dân Đảng là "phản bội giai cấp". Ông thừa nhận rằng những người cộng sản phải khéo léo giữa việc lợi dụng những sách lược của mặt trận thống nhất đang "cách mạng hoá các nước phương Đông," và việc mất đi đặc điểm riêng biệt của giai cấp họ. Ông công khai tự hỏi rằng những người cộng sản châu Á có nên "không những hợp tác với các đảng tiểu tư sản mà còn đi đầu trong việc tập hợp họ lại trong những quốc gia lạc hậu."[64] (Căn cứ vào một bức thư ông viết vào năm 1925 từ Quảng Đông, Hồ Chí Minh không hề băn khoăn về sách lược hợp tác và trà trộn này. Ở phần tái bút của bức thư, viết cho các đại diện Pháp tại QTCS, ông yêu cầu họ liên lạc với Ủy Ban Nghiên Cứu Thuộc Địa của ĐCS Pháp tại Paris để tìm hiểu xem Nguyễn Thế Truyền có gia nhập ĐCS hay không. Nếu có, Hồ yêu cầu họ ra lệnh cho Truyền "gia nhập Nhóm Lập Hiến vừa thành lập tại Paris để lũng đoạn nhóm này [pour la noyauter]".)[65]

Dù sao trên tổng thể Manuilsky đã cẩn thận không đi quá xa khi xác nhận sách lược của mặt trận thống nhất. Phần lớn những phát biểu của ông nhắm vào những vấn đề tự quyết của các quốc gia vùng Balkan và trung Âu. Tính hiệu quả của ông chắc chắn đã giảm thiểu vì việc M.N.Roy bị truất phế. Từ năm 1920 Roy đã công khai bất đồng với đánh giá của những đảng viên Sô Viết về phong trào dân tộc tại các nước thuộc địa. Roy cho rằng QTCS nên quan tâm hơn nữa đến tầng lớp công nhân cách mạng và đặc biệt là giai cấp nông dân ở các nước thuộc địa.[66] Khi ông trở thành thành viên với lá phiếu chính thức của Ban Chấp Hành QTCS, ý kiến của ông đã có nhiều trọng lượng hơn. Phát biểu của Hồ trong cuộc tranh luận mà tôi đã trích dẫn ở trên, nằm trong phiên họp thứ 22, sau phát biểu của Roy và Katayama. Rõ ràng là Hồ ủng hộ chủ trương về thuộc địa của QTCS, nhưng lại không trực tiếp đối phó với vấn đề đầy tranh cãi của mặt trận thống nhất. Ông chia xẻ với Roy niềm tin rằng cách mạng châu Âu phải dựa trên sự tiến bộ của phong trào giải phóng tại các nước thuộc địa, và có vẻ sẵn sàng đưa ra một thảo luận về phương cách quảng bá quan điểm này. Mục tiêu của ông là sự trì trệ của ĐCS Pháp. Ông còn đi xa hơn trong việc cảnh báo rằng dân chúng thuộc địa đang "hướng về những tổ chức dân chủ cấp tiến như Liên Đoàn Nhân Quyền... vì những thành phần này đã cố gắng đại diện hoặc ít ra là đã cho thấy họ đã làm một cái gì đấy cho người dân."[67]

Sau Đại Hội 5 QTCS, Hồ Chí Minh còn tham gia vào Đại Hội 3 Công Đoàn Quốc Tế Đỏ (Red International of Trade Unions, còn gọi là Profintern, thành lập năm 1921). Một lần nữa, tư tưởng chủ đạo của ông vẫn là tình cảnh khốn cùng của đất nước mình và sự mong mỏi những đồng chí người Pháp ủng hộ những người anh em lầm than tại các vùng thuộc địa. Trong bản báo cáo dài năm trang của ông trước Đại Hội, ông đưa ra tình hình lực lượng công nhân trưởng thành tại Việt Nam đang chờ đợi để được tổ chức. "Có những công ty với con số thợ thuyền rất cao," ông nói: 3.000 người tại một nhà máy sợi ở Bắc Kỳ, 4.000 người tại các mỏ than ở Vịnh Hạ Long; 8.000 công nhân hoả xa và 30.000 công nhân tại nhà máy Xi Măng Portland. Những công nhân này làm việc trong tình trạng vô cùng khốn khó, theo lời Hồ, từ 12 đến 14 tiếng một ngày, và còn hơn thế nữa tại các đồn điền. Không có vấn đề về hưu trí hoặc bảo hiểm tai nạn lao động; công nhân không được phép đình công.[68] Tồi tệ hơn nữa là tại Việt Nam đang tồn tại ba loại hình lao động mà Hồ gọi là "ba loại hình nô lệ".[69] Đầu tiên là những tù khổ sai được các nhà máy hoặc đồn điền vay mượn - họ làm việc trong khi trên người phải đeo gông xiềng. Kế đến là những người đủ tuổi để làm phu tạp dịch "cỏ vê" (corvée - lao động công ích - ND) - từ 18 đến 60 tuổi. Con số nhất định cho những ngày lao động công ích thực sự chỉ nằm trên lý thuyết, Hồ nói; "Trên thực tế nó là vô thời hạn. Khi một con kênh cần đào hoặc một đoạn đường cần đắp hoặc sửa," ông giải thích, "thì lại có một cuộc tổng huy động kéo dài đến vài tháng". Loại hình thứ ba là những người phu được chiêu mộ để đưa sang làm việc tại những thuộc địa của Pháp ở vùng đảo Thái Bình Dương, nơi mà theo lời Hồ, họ bị bán cho các chủ đồn điền và xí nghiệp người Âu.

Tình trạng của công nhân vô cùng tồi tệ, nhưng không hẳn là vô vọng, Hồ phát biểu trước Đại Hội: "Với sự trợ giúp của các tổ chức cách mạng mà chủ yếu là Công Đoàn Quốc Tế, chúng ta có thể phá tan gông xiềng áp bức của chủ nghĩa tư bản." Nhưng những người đồng chí Pháp phải có "nhiệm vụ thiết thực để giúp đỡ một cách hiệu quả và thực tế chứ không chỉ bằng lời nói mà thôi". Hồ thảo ra một văn bản chính thức, kêu gọi các công đoàn Pháp ủng hộ quyền được thành lập hội đoàn của dân bản xứ và đề nghị phân công ít nhất là hai cán bộ tổ chức đến Đông Dương.[70] Reynauld, đại biểu Pháp tỏ vẻ tán thành những đề nghị trên nhưng không đưa ra một hậu thuẫn chính thức đối với kiến nghị của Hồ vì công đoàn của ông không đủ tài chánh để đưa cán bộ tổ chức sang Việt Nam.[71]

Quốc Tế Cộng Sản và Mặt Trận Thống Nhất ở Trung Quốc

Sự do dự của Quốc Tế Cộng Sản đang tách xa ra khỏi cái gọi là "mặt trận thống nhất thượng tầng" được cấu thành bởi những thương lượng giữa tầng lớp lãnh đạo đảng, và nghiêng về "mặt trận thống nhất hạ tầng", tạo ra bởi việc kêu gọi sự ủng hộ những cương lĩnh và hành động của ĐCS từ các thành phần công nhân không cộng sản và nông dân. Thật mỉa mai là đúng vào thời điểm này, ĐCS và nhà nước Nga đang thực hiện Luận Cương về Những Vấn Đề Dân Tộc và Thuộc Địa của Lenin bằng cách giúp tổ chức một mặt trận thống nhất hoàn toàn thượng tầng giữa những người quốc gia Trung Quốc trong Quốc Dân Đảng và ĐCS Trung Quốc. Chính sách này có lẽ đã không được đệ trình để thảo luận tại QTCS; Charles McLane (Giáo sư sử người Mỹ - ND) chỉ ra rằng đây là một "chính sách đa tầng" bao gồm ĐCS và các cơ quan chính phủ Nga.[72] Dù những thảo luận trong QTCS ít nhiều cũng được in ra toàn bộ, nhưng chắc hẳn là vì lý do chính trị nên những chính sách về Trung Quốc đã không được thảo luận công khai. Bộ Ngoại Giao Nga không muốn công khai hoá vai trò cố vấn của Borodin cho Tôn Dật Tiên, vì ngại rằng nó sẽ làm lệch hướng quá trình bình thường hoá quan hệ với các nền dân chủ phương Tây. (Những tài liệu của Nga vừa được bạch hoá gần đây cho thấy Borodin là viên chức chính thức trong phái bộ của Bộ Ngoại Giao Nga tại Bắc Kinh. Leo Karakhan đã cân nhắc việc rút Borodin vào cuối năm 1923 vì sợ rằng sự công khai của Tôn Dật Tiên về vai trò cố vấn của Borodin sẽ mang tai tiếng cho Bộ Ngoại Giao.[73])

Cơ cấu tổ chức của QTCS về nhiệm vụ hành động ở phương Đông đã liên tục thay đổi từ năm 1919 trở đi. Để tránh nhầm lẫn về khu vực và nhiệm vụ của những văn phòng và ban bí thư của các cục Đông Phương và Viễn Đông, tôi sẽ giải thích vắn tắt về những thay đổi này cho đến thời điểm 1924. Một Phân Cục Đông Phương của QTCS được thành lập vào tháng 12, 1919 theo quyết định của Ban Chấp Hành, nhưng nó đã gặt hái được những gì thì không rõ.[74] Vào tháng 7 năm 1920 một phân cục Nhân Dân Phương Đông được thành lập, trực thuộc Phân Bộ Siberian của ĐCS Nga ở Irkutsk, trong khi đó một Phân Bộ Đông Phương của của Ban Chấp Hành QTCS ra đời vào tháng 5 năm 1920 tại Vladivostok.[75] Rồi vào tháng Giêng năm 1921 một bước mới được thực hiện để liên kết các cơ quan có trách nhiệm về vùng Viễn Đông thuộc ĐCS Nga và QTCS. Phân cục Nhân Dân Phương Đông tại Irkutsk được đổi thành "Đại diện của QTCS tại Viễn Đông dưới hình thức Ban Bí Thư". Đến tháng 3 năm 1921 có sáu mươi tám nhân viên tại ban này, trong đó có nhà lãnh đạo tương lai của Mông Cổ là Choibalsan.[76] Cho đến cuối năm 1921 ban bí thư có bốn bộ phận: Mông Cổ - Tây Tạng, Trung Quốc, Triều Tiên và Nhật.[77]

Nhưng tại Đại Hội 4 vào tháng 12 1922 một bản báo cáo cho thấy rằng bộ phận phía Đông làm việc không theo một chương trình cụ thể nào và "hoàn toàn vô tổ chức".[78] Vì thế mà một chỉ thị tái tổ chức lại được ban hành. Một cơ cấu hợp nhất được thành lập và cũng lại mang tên Cục Đông Phương và Karl Radek được bổ nhiệm là người đứng đầu vào tháng 5 1923. Phụ tá của ông là Grigory Voitinsky. Ba phân bộ được thành lập trực thuộc Cục Đông Phương là: Phân Bộ Cận Đông, gồm Thổ Nhĩ Kỳ, Ai Cập, Syria, Palestine, Morocco, Tunisia, Algeria và Persia; Phân Bộ Trung Đông gồm Ấn Độ thuộc Anh, Đông Dương và Nam Dương; và Phân Bộ Viễn Đông gồm Nhật, Triều Tiên, Trung Quốc và Mông Cổ.[79] Sự lưỡng lự và cũng có lẽ là tranh chấp quyền lực làm thay đổi nhanh chóng việc quản lý các hoạt động của Phân Bộ Viễn Đông. Ngay sau Đại Hội 4, vào tháng 12 năm 1922, Ủy Ban Vladivostok của Cục Đông Phương QTCS được thành lập, bao gồm Voitinsky, Sen Katayama và Maring. Nhưng đến tháng Giêng năm tới, Phòng Tổ Chức của Ban Chấp Hành QTCS đề xuất việc thiết lập một Ban Bí Thư Viễn Đông để báo cáo trực tiếp với Ban Chấp Hành QTCS mà không lệ thuộc vào Cục Đông Phương. Văn phòng Ban Bí Thư Viễn Đông có quyền lực rộng hơn Ủy Ban Vladivostok, bị chính thức đào thải và tháng 6 1923. Ban Bí Thư mới cũng nắm quyền quản lý nhân viên Ủy Ban này:Voitinsky, Katayama và Maring. Mặc dù ban bí thư này rõ ràng là trực thuộc Moscow, Voitinsky và Maring giành phần lớn thời gian làm việc tại Trung Quốc.[80] Có thể hiểu rằng sự thay đổi hệ thống điều hành đuợc Bộ Chính Trị ĐCS Nga cho là cần thiết vì đến năm 1923 họ đã quyết định quan tâm cặn kẽ hơn về việc Nga và QTCS hỗ trợ Trung Quốc. Điển hình như vào năm 1923 Bộ Chính Trị và có lẽ là chính Stalin đã chọn Mikhail Borodin nắm việc giúp đỡ Tôn Dật Tiên.[81] Ngay cả vào thời của Lenin, Ban Chấp Hành QTCS đã bị những thành viên thuộc ĐCS Nga lũng đoạn.[82]

QTCS bắt đầu tham gia vào việc cố vấn cho phong trào cộng sản Trung Quốc vào mùa xuân năm 1920, khi Voitinsky lần đầu tiên đến Thượng Hải để giúp Trần Độc Tú (Chen Duxiu - ND) soạn thảo Cương Lĩnh Đảng Cộng Sản Trung Quốc vào tháng 10 năm ấy.[83] Maring và một phái viên khác của QTCS là Nikolsky có mặt tại Đại Hội thứ nhất ĐCS Trung Quốc vào tháng 7 1921 - báo cáo của Maring cho thấy rằng ông đã đưa ra vấn đề liên minh giữa cộng sản và Quốc Dân Đảng trong chuyến đi đầu tiên của mình, nhưng đã bị đại hội bác bỏ.[83] Vì thế mà những chủ trương ủng hộ việc liên minh với các phong trào dân tộc tại các quốc gia tiền tư bản vẫn chỉ là một tuyên ngôn mà không có một kết quả thực tiễn nào. Vào tháng 8 1922, Maring đã thuyết phục được 5 lãnh đạo tối cao của ĐCS TQ chấp thuận một chính sách gọi là "Khối chính trị bên trong".[85] chính sách này kêu gọi tất cả các đảng viên ĐCS TQ tham gia vào Quốc Dân Đảng trong khi vẫn giữ nguyên cơ cấu và mục tiêu của ĐCS.

Vào năm 1923, nước Nga Sô Viết non trẻ đã bắt đầu vạch ra một cương lĩnh hành động để hỗ trợ chính quyền cộng hoà của Tôn Dật Tiên ở miền nam Trung Quốc. Chủ trương này được phát triển từ những mục tiêu đối ngoại của Nga - tìm kiếm đồng minh và an vị bờ cõi - chúng được theo đuổi với một tốc độ nhanh hơn là những thành viên QTCS muốn. Charles McLane (Giáo sư sử người Mỹ - ND) chỉ ra rằng QTCS không trực tiếp liên quan đến những thương lượng ngoại giao dẫn đến sự thoả thuận giữa Adolf Joffe và Tôn Dật Tiên vào tháng Giêng 1923.[86] Thoả Thuận Joffe-Tôn đã chứng nhận sự trợ giúp của Moscow cũng như sự chấp nhận có điều kiện của Tôn. Sau đó thì không những chỉ có QTCS cung cấp cố vấn cho Trung Quốc, mà còn có cả cố vấn từ Ủy Ban Trung Ương Đảng Bolshevik Nga, Học Viện Hồng Quân, Công Đoàn Quốc Tế và Đoàn Thanh Niên Cộng Sản Quốc Tế. Sau khi Hồ chí Minh đến Quảng Châu thì Nông Dân Quốc Tế cũng có đại diện tại đây.

Nhiệm vụ của QTCS ở Trung Quốc giống như là một chi nhánh của lãnh sự Nga mà trong đó những quyết định cuối cùng đều trực thuộc sự độc quyền của Stalin và Ủy Ban Trung Ương ĐCS Nga. Những chỉ thị của QTCS với ĐCS Trung Quốc cho đến giữa năm 1923 cho thấy một biện pháp cẩn trọng đối với những chủ đích của Tôn. Ví dụ như chỉ thị tháng 5 1923 của Ban Chấp Hành QTCS gửi đến Đại Hội 3 ĐCS Trung Quốc yêu cầu rằng đảng này "phải cố gắng thiết lập một liên minh công nông"; nhưng chỉ thị này lại tiếp tục, "không cần phải nói ra rằng quyền lãnh đạo phải thuộc về đảng của giai cấp công nhân... Để củng cố ĐCS, biến nó thành đảng của đại đa số giai cấp vô sản, tạo ra những lực lượng của giai cấp công nhân trong các liên minh - đây là nhiệm vụ hàng đầu của các đảng viên cộng sản..."[87] Nhưng việc tái tổ chức của các cơ quan đặc trách vùng Viễn Đông của QTCS có thể xem là bằng chứng là những cố vấn của QTCS sẽ làm việc sát cánh với Ủy Ban Trung Ương ĐCS Nga để thành lập mặt trận thống nhất giữa ĐCS Trung Quốc và Quốc Dân Đảng. Như đã nói ở trên, vào tháng Giêng năm 1923, cùng thời gian bản Thoả Thuận Joffe-Tôn được ký, thì Ban Bí Thư vùng Viễn Đông trực thuộc Ban Chấp Hành QTCS cũng được thành lập. Khi Đại Hội 3 ĐCS Trung Quốc chính thức thông qua chính sách Khối Chính Trị bên trong vào tháng 5 1923, hậu trường đã được sắp xếp cho để Mikhail Borodin bắt đầu nhiệm vụ của mình tại Quảng Châu. Borodin (Mikhail Grusenberg),một một phái viên dày dạn của QTCS, ông đã ở Mỹ 11 năm để dạy tiếng Anh cho dân nhập cư cũng như tổ chức những người xã hội gốc Nga. Borodin rời Bắc Kinh đến Quảng Châu vào tháng 9 1923.


Nhiệm vụ của Hồ tại Quảng Châu

Sau Đại Hội 5 QTCS, Hồ Chí Minh cuối cùng đã thuyết phục được Cục Đông Phương thực hiện kế hoạch đi Trung Quốc của ông. Nhiệm vụ của ông hình như không được định nghĩa một cách rõ ràng. Dù vậy, khó mà tin được rằng những người lãnh đạo QTCS đã không quan tâm đến yêu cầu của ông. Những tóm lược về các sự kiện trong lá thư viết ngày 9 tháng 9 năm 1924 cho thấy rõ là ông rời khỏi Moscow với rất ít hậu thuẫn:

Sau Đại Hội 5, Cục Đông Phương thông báo cho tôi rằng: 1) họ sẽ giới thiệu tôi với Quốc Dân Đảng và tôi sẽ phải làm việc cho họ vì ngoài chi phí cho chuyến đi, Cục đã không có một trợ giúp tài chính nào khác; 2) tôi đến đấy với tư cách cá nhân chứ không phải làm một phái viên của QTCS; 3) tôi không có bất cứ liên hệ gì với đảng chúng ta [có lẽ ông ám chỉ ĐCS Pháp vì ông vẫn là một đảng viên của nó] khi đến Trung Quốc.

Mặc dù những điều kiện trên có vẻ khó khăn nhưng tôi vẫn chấp nhận chúng để được đi khỏi nơi đây. Để bù đắp cho điều kiện 2 và 3, tôi đã yêu cầu đảng mình gửi cho tôi một ủy nhiệm thư đến ĐCS Trung Quốc, yêu cầu họ giúp tôi làm việc. Vì thế khó khăn trên đã được giải quyết.[88]

Dù vậy chuyến đi của ông vẫn bị dời lại, lần này là do cuộc nội chiến vừa nổ ra tại Trung Quốc. "Quốc Dân Đảng vẫn chưa trả lời bức thư của Cục Đông Phương. Và ngày khởi hành của tôi lại bị dời lại vô hạn định'"[89], ông viết. Những khó khăn này đã không xảy ra, ông tiếp tục, nếu không vì trở ngại tài chính. Ông đề nghị QTCS nên đơn giản là chu cấp tiền để ông sống ở Trung Quốc vì ông vẫn đang được họ chu cấp tiền chỉ để "ngồi chơi không ở Moscow".

Vào ngày 19 tháng 9 Hồ viết thư cho Albert Treint, một đảng viên của ĐCS Pháp đã trở thành viên tối cao của QTCS từ Đại Hội 5. Ông là thành viên chính thức của Ban Chấp Hành QTCS cũng như Ban Bí Thư. Trong bức thư Hồ nói rõ khó khăn của mình trong vấn đề mưu sinh tại Quảng Châu. "Việc kiếm sống không là một khó khăn với tôi, ngay cả ở một nước mà tôi chỉ biết ngôn ngữ viết chứ không biết ngôn ngữ nói," ông giải thích. "Nhưng trong trường hợp của tôi thì có vài trở ngại," ông bổ sung. Trước hết, ông than phiền rằng ông phải sống bất hợp pháp trong một thành phố "đầy rẫy mật vụ Pháp". Thứ hai, ông "phải được hoàn toàn tự do để làm những gì mình muốn như nghiên cứu tình hình, gặp gỡ mọi người và tổ chức một cái gì đó". Ông thỉnh cầu Treint lần cuối cùng là nên trình bày trường hợp của ông cho Ban Chấp Hành QTCS.[90] Treint đã trình bày với Ban Bí Thư QTCS, cơ quan có thẩm quyền để ra quyết định nhanh chóng, ông kêu gọi Ban Bí Thư yêu cầu Cục Đông Phương xét lại đề nghị trợ giúp tài chánh cho Hồ: "Trong khi thực dân Pháp đang dùng Đông Dương làm bàn đạp để bắt đầu can thiệp vào Trung Quốc thì đây không phải là lúc để Cục Đông Phương cắt giảm nỗ lực tại Đông Dương nếu họ có một chút ý thức chính trị."[91]

Rõ ràng là lời kêu gọi của Treint đã thành công, vì cuối cùng Hồ Chí Minh đã đến được Quảng Châu khoảng ngày 11 tháng 11 1924. Khi ông báo cho một người bạn tại QTCS về chuyến đi của mình, ông nói là ông đang trọ tại nhà Đồng chí Borodin với hai hoặc ba đồng chí người Trung Quốc khác. Ông cho biết địa chỉ của mình là Lou, thuộc Văn Phòng ROSTA, Quảng Châu, Trung Quốc.[92] Trong khoảng thời gian giữa 22 tháng 9 đến khi Hồ đến Quảng Châu, ai đó đã sắp xếp cho ông làm công việc thông dịch cho ROSTA, Cơ Quan Điện Báo Nga, tiền thân của thông tấn xã Tass. Vì Borodin đã đi Trung Quốc vào mùa thu 1924, việc này không thể là do ông sắp đặt. Rất có khả năng là do công can thiệp của Voitinsky mà Hồ tìm được nơi ở lý tưởng này tại Quảng Châu. Voitinsky lúc ấy đã quay lại Moscow và quay lại Trung Quốc vào tháng 11 1924.[93] Thư từ trong văn khố QTCS cho thấy ông có một đặc vụ hoặc chỉ điểm tại Bắc Kinh tên là Sam Slepak, người này làm việc tại ROSTA trong năm 1923. Vì Slepark là Phó Cục Đông Phương vào năm 1922, ta có thể cho rằng một nhân viên thường trực của QTCS và ROSTA đã được dùng như là vỏ bọc cho hoạt động của QTCS.[94] Việc Hồ có báo cáo trực tiếp với Voitinsky khi ông hoạt động tại Trung Quốc hay không thì không rõ, nhưng Voitinsky rất có thể là người thu nhận những báo cáo viết bằng tiếng Anh của Hồ từ Quảng Châu (Cả hai Voitinsky và Slepak, cũng như Borodin, đều thông thạo tiếng Anh, một lợi thế quan trọng để hoạt động tại Trung Quốc). Trong khi công việc thông dịch và thông tín viên của Hồ đủ để ông chi tiêu hàng ngày nhưng nó không tạo dựng cho ông được một vỏ bọc như là một phóng viên thực thụ. Trong lá thư đầu tiên gửi cho Nông Dân Quốc Tế, ông yêu cầu họ tiếp tục giữ tên ông trong danh sách Chủ tịch đoàn hoặc nếu họ quyết định rút tên ông ra thì nên đưa ra lý do rằng ông bị bệnh - ông không muốn mọi người biết việc ông đã đến Quảng Châu vì ông đang sống bất hợp pháp tại đây.[95]

Tóm lại, ta có thể khẳng định một cách chắc chắn là Hồ Chí Minh không được gửi đến Quảng Châu như một phụ tá trực tiếp hoặc thư ký cho Borodin như trong những giả thiết trước đây.[96] Dù vậy, vị thế và quan hệ của ông trong QTCS giai đoạn 1923-4 vẫn là một bí ẩn. Có rất ít cơ sở trong văn khố của QTCS về việc Hồ là một thành viên tên tuổi trong giai tầng lãnh đạo ngang hàng với Manuilsky, hoặc được ai đó đỡ đầu.[97] M.N.Roy, một nhân vật đầy ấn tượng nói được nhiều thứ tiếng người gốc Brahman Bengal đã nổi lên trong chính trường của QTCS giai đoạn từ năm 1920, chính là đại biểu kỳ cựu cho các vấn đề thuộc địa tại Đại Hội 5 QTCS. Điều rõ rệt là Hồ thích hợp với chủ trương mặt trận thống nhất cho các thuộc địa hơn là Roy, và vì thế đã được Manuilsky khuyến khích ông lên tiếng tại Đại Hội. Nhưng không như Roy và những người gốc Á khác hoạt động trong QTCS trong năm 1924, Hồ không hề đại diện cho một đảng cộng sản châu Á nào cả. Cả hai Semaun của Nam Dương và Sen Katayama của Nhật được đề cử vào Ban Chấp Hành QTCS năm 1924 có thể là vì họ đại diện cho những phong trào cộng sản tương đối lớn mạnh.

Hơn nữa, sự đồng cảm Hồ đối với quan điểm của Manuilsky không đồng nghĩa với những đặc ân. Trong một lá thư gửi Petrov, lãnh đạo Cục Đông Phương, Hồ than phiền về giá tiền thuê nhà mà ông phải trả cho những tiện nghi tồi tệ tại Khách sạn Lux chật chội. "Trong những tháng Chạp, tháng Giêng và tháng Hai," ông viết, "Tôi ở phòng 176, luôn có 4 hay 5 người ở chung. Ban ngày thì không ngớt ồn ào làm cản trở công việc của tôi. Ban đêm tôi lại bị rận cắn không thể nghỉ ngơi được." Từ tháng 3, ông được chuyển sang một căn phòng đơn, ông nói. "Với diện tích chật chội và đồ đạc giản đơn trong phòng tôi so với những phòng lớn hơn, thoải mái hơn, nhiều đèn, điện thoại, phòng tắm, tủ quần áo, sofa, vân vân... với giá phải chăng thì số tiền họ bắt tôi phải trả thì thật kinh khủng."[98] Với giọng điệu của kẻ bị sỉ nhục - Hình như ông cảm thấy rằng mình bị đối xử tệ hơn những người châu Âu hoặc có tầm cở như Roy.

Ấn tượng trong những thư từ liên lạc của Hồ Chí Minh trong suốt 14 tháng sống tại Nga là nỗi bực tức về sự bất động của QTCS. Điều này có thể phản ánh thực tế của QTCS là chính nó cũng không có được một đường lối chắc chắn hoặc vì việc đấu tranh bè phái giữa Trotsky và Zinoview đã thu hút mọi quan tâm của giới lãnh đạo. Vị thế đảng viên của Hồ trong ĐCS Pháp có thể đã làm cho tình huống của ông thêm phức tạp - Ảnh hưởng của Trotsky đối với ĐCS Pháp cũng đáng kể và đến tháng Giêng năm 1923 ông vẫn còn giao chức cố vấn của QTCS cho ĐCS Pháp, với Jaques Doriot là người phụ tá.[99] Trong bãi mìn chính trị này, Hồ Chí Minh có vẻ như đã học được cách ứng xử với những cấp quyền thế để theo đuổi những mục đích của mình. Phong cách của ông khác biệt hẳn với Roy - Sở trường của Roy là tranh luận lý thuyết, và đến năm 1929 ông đã bị đẩy ra khỏi QTCS. Hồ thấy có thể quảng bá kế hoạch của mình với Albert Treint, một người cánh tả theo phe Zinoviev, mặc dù Hồ không hoàn toàn đồng ý với với mọi quan điểm của Treint. Khi đến Quảng Châu, Hồ đã viết thư cho một đồng nghiệp tại Moscow rằng Treint đã "đấu tranh hết mình" để ông đến được Trung Quốc.[100] Dấu hiệu đầu tiên về vị thế chính trị không hoàn toàn vững chắc của Hồ trong QTCS chỉ xuất hiện vào khoảng cuối năm 1927 và 1928, khi ông bắt đầu chuẩn bị quay lại châu Á. Đến cuối năm 1927 Albert Treint bị trục xuất khỏi ĐCS Pháp và những ai tỏ rõ ngọn nguồn về sự thất bại của chính sách của Stalin về mặt trận thống nhất tại Trung Quốc đều bị đặt dưới tầm nghi vấn.

CHƯƠNG 3: THỜI GIAN TẠI QUẢNG CHÂU VÀ NHỮNG HỆ QUẢ (1924-8)

Mặc dù Hồ Chí Minh không nói được tiếng Quảng Châu nhưng khi đặt chân đến bến cảng nhiệt đới này ông vẫn có cảm giác của một chuyến hồi hương sau bao cách trở. Quảng Châu là một tiền đồn cho những chiến sĩ Việt Nam tự do từ khi triều đại Mãn Châu sụp đổ vào năm 1911. Nhưng những hy vọng ban đầu của người Việt về hậu thuẫn của cộng hoà Trung Hoa trong việc giúp đỡ tiền bạc và vũ khí cho cuộc khởi nghĩa chống Pháp đã nhanh chóng tiêu tan. Việc tăng cường đàn áp của Pháp tại Việt Nam trong giai đoạn Chiến Tranh Thế Giới thứ I cộng với ảnh hưởng mờ nhạt của Tôn Dật Tiên tại Trung Quốc dẫn đến những thất vọng đắng cay của người cầm đầu phong trào chống Pháp Phan Bội Châu. Những hoạt động phá hoại với mục đích kêu gọi sự quan tâm của chính phủ Tôn Dật Tiên cũng như chính phủ Đức trong thời kỳ chiến tranh đã làm mất đi một số thành viên trung thành của Quang Phục Hội.[1] Sau vụ đặt bom giết hai đại tá Pháp tại một khách sạn Hà Nội tháng 4 năm 1913, bảy người đã bị xử tử hình và 57 người khác bị cầm tù, trong đó có hai người em của Phan Văn Trường.[2] Bản thân Phan Bội Châu cũng bị giam tại một nhà tù Trung Quốc trong những năm 1914-17, sau đó ông ẩn dật tại Hàng Châu và kiếm sống bằng cách viết bài cho tờ báo Quân Sự.[3]

Hồ Chí Minh xuất hiện trong bối cảnh ấy vào tháng 11 1924, vào lúc sự hỗ trợ quân sự của Nga tại Quảng Châu đang đến mức tối đa với khoảng 50 giảng viên.[4] Chuyến tàu chở vũ khí đầu tiên từ cảng Vladivostok đến Quảng Châu vào ngày 8 tháng 10.[5] Mặt trận thống nhất giữa ĐCS Trung Quốc và Quốc Dân Đảng đã được chính thức hoá trong Đại Hội Quốc Dân Đảng lần 1 vào tháng Giêng 1924, khi việc thành lập trường quân sự Hoàng Phố trên sông Châu Giang được phê chuẩn. Cũng thời gian đó ba đảng viên cộng sản cũng được bầu vào Ban Chấp Hành Trung Ương Quốc Dân Đảng, trong khi đó 6 đảng viên cộng sản khác, trong đó có Mao Trạch Đông cũng là những thành viên ứng cử.[6] Thời gian Hồ sống tại Trung Quốc cho đến tháng 5 1927, trùng hợp với thời điểm thành công chính trị của chính phủ tại Quảng Châu. Ông đã tận dụng được khoảng thời gian đầy lợi thế của mặt trận thống nhất, thời gian mà những người lưu vong Việt Nam tại Trung Quốc có thể tự do hấp thụ những bài học và ý tưởng mới từ những cố vấn người Nga, từ những vấn đề quân sự đến lý luận chính trị và phương pháp tổ chức. Khí thế sôi sục tại Trung Quốc đã giúp dấy lên một làn sóng hoạt động chính trị mới tại Việt Nam, nơi cũng đã cung cấp những thành viên mới cho lực lượng nổi dậy trong tương lai ở miền nam Trung Quốc. Điểm chính của chương này sẽ là việc Hồ đã lợi dụng những bối cảnh trên như thế nào để tạo dựng mầm mống cho đảng cộng sản Việt Nam.

Dù thế, thật quá đơn giản nếu cho rằng những năm tháng của Hồ tại Quảng Châu chỉ là một kẻ truyền giáo từ Moscow đến để cải đạo mọi người qua chủ nghĩa cộng sản. Mặt trận thống nhất cũng là một kinh nghiệm đáng học cho ông cũng như những người Việt Nam khác đã sống qua giai đoạn này. Hồ đến vào thời điểm cao trào của khởi nghĩa nông dân tại tỉnh Quảng Châu mà ông có nhiệm vụ phân tích và cổ vũ dưới danh nghĩa của Nông Dân Quốc Tế. Đây là lần đầu tiên ông tiếp xúc với giai cấp nông dân châu Á kể từ thuở thiếu thời tại Trung phần Việt Nam, và chắc chắc là nó đã đánh dấu một bước tiến quan trọng trong quá trình chuyển biến của ông từ một tuyên truyền viên để trở thành một nhà tổ chức cách mạng thực thụ. Mặt trận thống nhất giữa ĐCS Trung Quốc và Quốc Dân Đảng lại là một hiện tượng chính trị phức tạp hiếm thấy mà một thời gian sau nó vẫn bị đem ra tái thẩm định và phê phán. Cuối cùng khi mặt trận này tan vỡ vào năm 1927, đấu đá nội bộ trở thành một phần trong cuộc đấu tranh gay gắt cho linh hồn của phong trào cộng sản thế giới. Sự tan rã của mặt trận thống nhất trở thành khuôn mẫu cho những người cộng sản với những mục đích khác nhau - cả hai trào lưu Stalinist và Trotskyist đều dùng nó để chứng minh rằng không bao giờ tin vào những đồng minh tư sản. Hồ Chí Minh và những đồng hương trải qua thời kỳ hỗn loạn này đã không hoàn toàn rút ra bài học giống nhau. Cụ thể là những học viên Việt Nam sống tại Trung Quốc trong giai đoạn tan rã của mặt trận thống nhất đã trở thành những người cực đoan nhất trong giai tầng chính trị Việt Nam. Phần cuối của chương này sẽ phân tích những hệ quả này và vị trí của phong trào cộng sản Việt Nam vào đầu năm 1928.

Có ba nguồn tài liệu chính về giai đoạn này trong sự nghiệp của Hồ Chí Minh, mỗi tài liệu phản ảnh một quan điểm khác nhau về những hoạt động của ông. Trước hết là những báo cáo và thư từ của ông gửi đến các cơ quan của QTCS có trách nhiệm giám sát những hoạt động của ông về việc kết nạp những cán bộ khung cho mạng lưới cộng sản Việt Nam. Kế đến là những thư từ của ông gửi cho Nông Dân Quốc Tế, trong đó cho thấy ông đã tích cực tham gia vào phong trào nông dân tại Quảng Đông, đặc biệt là trong năm 1925. Nguồn tài liệu thứ ba là tàng thư Pháp, cụ thể là những báo cáo của điệp viên Sở Liêm Phóng có tên là Lâm Đức Thụ (còn có tên là Nguyễn Công Viễn, Nguyễn Chí Viễn hoặc Hoàng Chấn Đông).

Là một trong những phụ tá chủ lực của Phan Bội Châu, từng tốt nghiệp Học Viện Quân Sự Bắc Kinh, Lâm Đức Thụ (còn gọi là điệp viên Pinot) đã sớm trở thành một thành viên trong nhóm bí mật của Hồ. Là con trai của Nguyễn Hữu Đàn, một một đồng học với cha của Hồ tại Trường Quốc Tử Giám ở Huế.[7] Những báo cáo của Thụ gửi cho Sở Liêm Phóng đôi khi bao gồm những nhận định sâu sắc về phương pháp hoạt động của Hồ, nhưng phần đông thường là những tường thuật từ những tin đồn gián tiếp, giống như những mật vụ khác của Sở Liêm Phóng đã từng làm. Việc này chỉ có thể giải thích là do Thụ không lọt sâu vào được hàng ngũ tin cẩn của Hồ - nhưng cũng có thể là do Thụ đã không báo cáo tất cả với Sở Liêm Phóng. Những cộng tác viên của Thụ, trong đó có cả hai đồng minh gần gũi nhất với Hồ là Lê Hồng Sơn và Hồ Tùng Mậu, đều tin rằng Lâm Đức Thụ chỉ truyền đạt những thông tin vô bổ cho người Pháp để nhận tiền thưởng đem giúp cho tổ chức.[8]

Công bằng mà nói, rõ ràng là Sở Liêm Phóng cũng đã gặt hái được nhiều thành quả từ sự hợp tác của Lâm Đức Thụ. Rõ ràng là ông là một điệp viên vô cùng quí giá ít nhất là cho đến năm 1929. Ông rất tự tin về giá trị của mình nên đã liên tục yêu cầu tăng tiền thưởng. Ví dụ như vào tháng Chạp năm 1926, ông than phiền rằng tiền lương của mình bị chậm trễ "và hơn thế nữa", ông viết, "tôi chẳng nhận được toàn bộ số tiền còn thiếu và những chi phí liên lạc đang làm tôi phá sản."[9] Là một thợ chụp ảnh tại Quảng Châu, ông đã chụp hình rất nhiều thành viên vừa tham gia vào nhóm hoạt động của Hồ Chí Minh.[10] Những bức ảnh này đã được người Pháp sử dụng trong giai đoạn 1930-1 để nhận diện những nghi can cộng sản. Dù vậy, đến tận cuối năm 1929 những người cộng sản miền nam Trung Quốc mới vỡ lẽ rằng lòng trung thành của Thụ chỉ dành cho người Pháp.[11] Vào đầu năm 1925, Thụ đã tìm cách đánh động người Pháp rằng Hồ Chí Minh đã đến Trung Quốc dưới bí danh Lý Thụy.[12] Mọi cố gắng của Hồ nhằm giữ bí mật về sự hiện hữu của ông đối với người Pháp đã trở nên vô ích.

(Bắt đầu từ chương này, tác giả có đưa ra những tên người Việt (đương nhiên là không bỏ dấu). Tui đã bỏ nhiều thời gian để tìm tòi những tên tuổi này nhưng có một số tên không thể xác nhận được. Để tránh hồ đồ trong việc bỏ dấu theo cảm tính, tui sẽ giữ nguyên cách viết không dấu của những tên mà tui không tìm được và bôi đậm nó để các bác lưu ý. Bác nào biết được tên chính xác của những nhân vật này, xin báo cho biết để bổ sung cho sự hoàn hảo của bản dịch – Ghi thêm riêng của người dịch)

Thư từ đề ngày 12 tháng 11 1924. Ông bảo rằng ông đã đến nơi một ngày trước đó,[13] mặc dù trong thư ông lại viết như ông đã chứng kiến rất nhiều sự kiện xảy ra tại Trung Quốc lúc bấy giờ. Một trong những lá thư có nội dung tường thuật trực tiếp việc bà Fanya Borodin, vợ của Mikhail Brorodin, đã tổ chức phong trào phụ nữ Trung Quốc ra sao.[14] Có thể ông đã đi xa lên đến Thượng Hải với Voitinsky, người đã từ Moscow quay lại Trung Quốc vào tháng 11. Dù gì đi nữa, ông đã mau chóng tiếp cận và tổ chức liên lạc với Cơ quan ROSTA, nơi chu cấp nguồn thu nhập của ông trong thời gian sống tại Quảng Châu. Vấn đề quan tâm cấp bách nhất trong thủ đô nước cộng hoà Trung Hoa lúc ấy là chuyến đi của Tôn Dật Tiên đến Bắc Kinh, vị tổng thống Quốc Dân Đảng hy vọng có thể thương lượng về một hoà hoãn chính trị với các lãnh chúa phía bắc.[15] Hồ viết bằng tiếng Anh với lối hành văn súc tích thường lệ cho một người bạn vô danh ở QTCS: "Tôi vẫn chưa gặp gỡ ai cả. Mọi người ở đây đều bận rộn về chuyến du hành lên phương Bắc của Bác sĩ Tôn."[16] Trong bức thư gửi cho Tomas Dombal, tổng bí thư Nông Dân Quốc Tế người Ba Lan, ông xin lỗi vì đã không thông báo cho những uỷ viên ban chấp hành về chuyến đi Trung Quốc của ông. "Quyết định cho chuyến đi từ Moscow của tôi đã được đưa ra rất đột ngột và tôi đã không có thời gian báo cho ông biết," ông viết bằng tiếng Pháp. Sau đó ông tường thuật việc những nông dân cùng khổ được tổ chức ra sao dưới "sự bảo hộ của Quốc Dân Đảng, nhưng lại ở dưới sự chỉ đạo của những người cộng sản. Đây là cơ hội tuyệt vời cho việc tuyên truyền của chúng ta."[17]

Hồ đã giả danh một nữ đảng viên Quốc Dân Đảng có tên là Loo Shing Yan để viết bài tường thuật về phong trào phụ nữ. Ông gửi kèm với một lá thư giới thiệu cho một tờ báo-thư phụ nữ.[18] "Khi tôi còn làm việc tại QTCS", ông viết, "Tôi rất hân hạnh được hợp tác với quí báo. Hiện nay tôi mong muốn được tiếp tục hợp tác. Nhưng vì tôi đang hoạt động bất hợp pháp tại đây nên tôi sẽ gửi những bài báo dưới dạng "những lá thư từ Trung Quốc", và sẽ ký tên của một phụ nữ. Tôi cho rằng việc này sẽ giúp chúng giữ được tính nguyên thuỷ và đa dạng, và đồng thời cũng để bảo đảm bí mật cho tôi." Ngay khi Hồ nhận nhiệm vụ là một thông dịch viên và tuyên truyền viên cho ROSTA chắn hẳn là ông đã tìm cách liên lạc với những người Việt lưu vong sống rải rác ở miền nam Trung Quốc. Vào cuối năm 1924 những người này dường như không có một tổ chức chặt chẽ nào. Họ đã được thu nhập vào những học viện hoặc quân đội địa phương, cụ thể là quân đội Vân Nam của tướng Yang Ximin, đang chia sẻ quyền lực tại tỉnh Quảng Đông cho đến giữa năm 1925. Một số khác như thủ lĩnh phiến quân người Việt gốc Hoa là Tam Kam Say, một thổ phỉ, kết giao với bọn buôn thuốc phiện và trộm trâu ở vùng biên giới. Ngay cả trước khi Hồ đến Trung Quốc, vị thế của Phan Bội Châu trong thành phần lưu vong người Việt cũng đã trở nên mờ nhạt hơn thời kỳ trước chiến tranh. Trong khoảng thời gian 1923, một số trong họ bắt đầu gây dựng một tổ chức mới lấy tên là Tâm Tâm Xã và không mời Phan Bội Châu tham gia. Thanh danh của ông đã bị hoen ố bởi luận thuyết về sự hợp tác Pháp-Việt mà ông đã viết theo chỉ thị của Phan Bá Ngọc, một người lưu vong và bị tình nghi là chỉ điểm cho Pháp. Phan Bá Ngọc là con trai của thủ lĩnh dân tộc Phan Đình Phùng người Nghệ Tĩnh, Ngọc bị thuyết phục bởi những hứa hẹn cải cách của Toàn Quyền Sarraut.[19] Ông đã bị ám sát với tội danh phản bội bởi Lê Hồng Sơn vào năm 1922 theo lệnh của Cường Để.[20]

Tâm Tâm Xã bắt đầu khôi phục lại một số mạng lưới quyên góp trong nước của Phan Bội Châu, và vào tháng 6 1924 họ đã thực hiện một vụ đánh bom nhằm vào Toàn Quyền Pháp Merlin đang đi qua Quảng Châu.[21] Trong khi tài liệu của Hà Nội và hồi ký của Phan Bội Châu đều không nhấn mạnh việc này, Lê Hồng Sơn sau này đã khai nhận với Sở Liêm Phóng Pháp về vai trò lãnh đạo của Nguyễn Hải Thần trong vụ mưu sát. Nguyễn Hải Thần là một người quốc gia gốc miền bắc đã tham gia phong trào Phan Bội Châu năm 1905 và là một du sinh tại Nhật. Chuyện kể rằng ông đã tìm gặp một kẻ phản loạn người Hoa là sĩ quan trong quân đội Vân Nam đang đồn trú tại Quảng Châu, người này đã giúp ông chế tạo hai chiếc cặp đựng bom. Một chiếc được đặt tại khu tô giới Pháp là Sa Diện bởi một người lưu vong tên là Phạm Hồng Thái giả dạng một nhiếp ảnh viên. Quả bom nổ giết chết ba khách người Pháp nhưng không trúng Merlin.[22] Phạm Hồng Thái chạy trốn và bị chết đuối trên sông Châu Giang và trở thành một anh hùng dân tộc. Điều cay đắng là vào thời điểm vinh quang này của những người Việt quốc gia, được xem như là màn khởi đầu cho trận chiến mới chống lại người Pháp, cũng là thời điểm mà Lâm Đức Thụ vừa chiếm được lòng tin của Liêm Phóng Pháp. Những đồng chí của ông cho rằng chính ông đã báo trước với người Pháp về vụ đánh bom và cũng đã giao nộp chiếp cặp đựng bom thứ hai cho họ để lấy thưởng.[23]

Việc ám sát Merlin dường như đã giúp Phan Bội Châu gia tăng sinh lực. Ông đến Quảng Châu vào cuối mùa hè, vài tháng trước khi Hồ đến, để hội ý với những người lưu vong Việt Nam và để tiếp xúc những cố vấn Nga vừa được cài đặt tại Học Viện Quân Sự Hoàng Phố.[24] Vào thời điểm ấy có lẽ ông đã giúp một số môn đệ trẻ của mình được thu nhận vào trường này nhờ sự tận tâm từ văn phòng của một lãnh đạo Quốc Dân Đảng là Liêu Trọng Khải (Liao Zhongkai - ND).[25] Ông cũng bàn thảo với các đồng hương lưu vong về việc đổi Quang Phục Hội trở thành Việt Nam Quốc Dân Đảng. Họ đã thành lập một số uỷ ban, dựa trên cơ cấu tổ chức của Quốc Dân Đảng Trung Quốc, theo trong hồi ký của ông.[26] Nhưng đến tháng 11 1924 Phan lại quay về Hàng Châu và ở lại đấy cho đến tháng 6 năm sau.

Trong số những học viên người Việt theo học tại Học Viện Hoàng Phố vào mùa thu 1924 có Lê Hồng Sơn, Lê Hồng Phong và Lê Quang Đạt, đều là người Nghệ An.[27] Nhưng một số học viên theo học tại Hoàng Phố khoảng giữa năm 1925 là những học viên thuộc quân đội Vân Nam trong năm 1924, có lẽ dưới quyền chỉ huy của Nguyễn Hải Thần. Những người này gồm có: Hoàng Lương, Lưu Bích, Ngô Chính Cốc, và Liêu Khắc Thanh, theo báo cáo của Lâm Đức Thụ. Cùng với Nguyễn Hải Thần, những người lưu vong lớn tuổi khác như Đinh Tế Dân và Đặng Sư Mặc đã làm đến chức sĩ quan quân đội Vân Nam. Cũng nên nhớ rằng cho đến mùa thu 1924, Hoàng Phố chỉ vừa mở cửa được vài tháng và vẫn còn trong giai đoạn tổ chức. Vào tháng 10 1924, Ủy Ban Trung Ương ĐCS Trung Quốc nói rõ rằng họ đã không vừa lòng mấy với cung cách làm việc của học viện. Họ báo cáo với Borodin rằng những kẻ phiến loạn đang cầm đầu học viện và một số trung đoàn kiểu mẫu vừa thành lập đã "nằm trong tay những người này". "Họ đang sử dụng tiền bạc của ông để làm những việc quái quỉ gì không ai biết," họ viết trong thư.[29] Vì thế rất khó mà biết được chất lượng về quân sự và chính trị mà những học viên người Việt thuộc những khoá đầu tiên đã học được.

Hồ Chí Minh đến Quảng Châu vào một thời điểm thuận lợi, khi người Việt vừa nhận ra được tiềm năng của phái đoàn cố vấn Nga nhưng lại chưa quyết định được sẽ phải làm gì sau vụ đánh bom ám sát Toàn Quyền Merlin. Phan Bội Châu đang ở Hàng Châu, quá xa để đóng vai trò quyết định về những công tác hàng ngày ngay cả nếu những người lưu vong trẻ sẵn lòng để ông tham gia vào những thảo luận của họ. Là một thành viên trong phái đoàn cố vấn Nga và là người từng sống tại nhà của Borodin, Hồ có được lợi thế trong việc tìm kiếm hậu thuẫn cho tổ chức của những người quốc gia mà sau này đã tiếp thu những đường lối tổ chức chính trị Leninist của ông. Nhưng tìm được hỗ trợ tài chính từ phái đoàn Nga thì không dễ dàng như người ta nghĩ. Hơn nữa, tình hình nội bộ của những người Việt lưu vong cũng lỏng lẽo hơn là mọi người vẫn nghĩ. Trong thời gian từ tháng 12 đến tháng 9 1925 Hồ đã triệu tập được một số thanh niên cốt cán cho tổ chức cộng sản nguyên thuỷ, đa số trong họ vẫn giữ lòng trung thành cho đến khi ông rời khỏi Quảng Châu vào năm 1927. Nhưng quá trình này, được nhìn theo một góc độ khác như là một thắng lợi của học thuyết Marxist-Leninist và phương pháp tổ chức cũng như tài vận động của Hồ cùng với giả thiết về sự phản bội của Phan Bội Châu, vẫn cần nên nghiên cứu kỹ hơn là những tài liệu mà sử sách cộng sản Việt Nam muốn chúng ta tin vào.

Trên lý luận của những người chống cộng về việc Hồ Chí Minh nắm quyền lãnh đạo tại Quảng Châu, thì ông đã chỉ điểm cho người Pháp bắt Phan Bội Châu nhằm mục đích thanh toán đối thủ thật sự của mình. Chuyện kể rằng Hồ đã mật báo cho cảnh sát Pháp về những hoạt động của Phan và đã lừa ông đến một địa chỉ thuộc tô giới quốc tế tại Thượng Hải, và vị chí sĩ yêu nước này đã bị bắt tại đây.[30] Ngoài lý do trừ khử đối thủ, một nguyên nhân khác giải thích cho hành động của Hồ là ông muốn lĩnh số tiền thưởng mà người Pháp đã treo giải cho cái đầu của Phan Bội Châu. Người ta cũng cho rằng Hồ đã tính toán rằng việc bắt giữ Phan sẽ gây nên những phản đối tại Việt Nam và do đó sẽ thúc đẩy phong trào kháng Pháp.[31]

Nhưng căn cứ theo báo cáo của Lâm Đức Thụ thì dường như Hồ không dính líu đến việc chỉ điểm Phan cho Sở Liêm Phóng. Những báo cáo này nêu rõ rằng Thụ đã thông báo với người Pháp từ lâu về những hoạt động của Phan, ít nhất là từ năm 1924.[32] Vì thế khi người Pháp quyết định đã đến lúc bắt Phan, họ không gặp mấy khó khăn trong việc tìm kiếm dấu vết của ông. Ông đã bị bắt vào tháng 7 1925 (có thể là không phải vào tháng 6 như đa số giả thiết dựa trên những hồi ức của Phan) và bị gửi trả về Hà Nội. (Lâm Đức Thụ báo cáo rằng Phan dự định đến Quảng Châu vào cuối tháng 7 1925; lúc ấy ông vẫn chưa bị bắt, căn cứ theo báo cáo này vào cuối tháng 6, 1925.[33]). Vào tháng 11 1925, ông bị tuyên án khổ sai chung thân. Chiến dịch phản đối bản án của ông đã biến thành hàng loạt những cuộc bãi khoá và biểu tình trên toàn quốc mà kết quả là đã thúc đẩy nhiều sinh viên dấn thân vào con đường hoạt động bí mật. Trên thực tế, phiên toà xử Phan Bội Châu đã giúp quảng bá phong trào kháng chiến tại Trung Quốc, căn cứ theo lời khai của một nhà hoạt động bị bắt năm 1931.

Người thanh niên 20 tuổi Trần Văn Thanh khai rằng, "vụ án Phan Bội Châu đã mở ra cho mọi người thấy sự hiện hữu của những nhà cách mạng Việt Nam tại Trung Quốc, đặc biệt là tại Quảng Châu. Học sinh chúng tôi không bàn gì ngoài chuyện 5 nghìn binh lính của quân đội Hoàng Phố."[34] Đến tháng Chạp 1925 viên Toàn Quyền mới là Alexander Varenne đã phải nhượng bộ giảm bản án của Phan xuống thành quản thúc tại gia chung thân. Nhưng thật khó mà tin rằng Hồ đã có thể tiên liệu trước hệ quả của việc Phan bị bắt để lợi dụng nó một cách tài tình như người ta đã cáo buộc ông.[35]

Hơn nữa, thật khó để nhìn ra vì sao Hồ lại muốn trừ khử Phan, vì trong những bức thư của mình ông cho rằng mình đã có nhiều thành công trong việc thuyết phục những "phần tử ưu tú nhất" trong hàng ngũ Việt Nam Quốc Dân Đảng nghe theo quan điểm của mình. Văn khố Pháp có lưu giữ một lá thư của Phan Bội Châu gửi cho Hồ vào đầu năm 1925, cho thấy vị sĩ phu già không nghĩ rằng ông và Hồ là đối thủ của nhau, ông còn cho là Hồ sẽ bảo đảm cho công cuộc đấu tranh chống Pháp được liên tục đến thế hệ sau. "Ngoài cháu, còn ai có thể tin được để gánh vác trọng trách thay thế ta?" Ông hỏi. "Ta rời tổ quốc khi đã gần tứ tuần," Phan viết, "và ta không thể giũ bỏ được những gì ta đã học - vì thế mà ý tưởng hiện tại của ta cũng không khác gì ngày xưa. Cháu đã học xa hiểu rộng và đã đi qua nhiều nơi hơn Bác - mười lần, trăm lần hơn. Tư tưởng và kế hoạch của cháu đều hơn hẳn của ta - cháu có thể chia xẻ một vài công tác với ta được không?" ông hỏi, dường như với một chút mỉa mai. Phan Bội Châu cũng là bạn cùng huyện của thân phụ của Hồ ở Nghệ An, con rể của Phan là Vương Thục Oánh cũng là người cùng làng với thân phụ của Hồ. Cả hai anh chị của Hồ đều chịu án khổ sai vì đã ủng hộ những đồng chí của Phan. Hồ Chí Minh chắc hẳn dùng Phan Bội Châu như một bù nhìn cho phong trào của mình miễn là Phan không có hành động ngăn cản kế hoạch của ông.

Không phải là không có vấn đề cạnh tranh trong nội bộ người Việt ở miền nam Trung Quốc.Nguyễn Hải Thần (còn có tên là Vũ Hải Thụ, Nguyễn Cẩm Giang), chẳng bao lâu đã không có cảm tình với Lý Thụy, và đến đầu năm 1927 đã tổ chức một nhóm kháng Pháp riêng. Ông và Hồ đã trở thành đối thủ cho đến năm 1946. Nhưng trong những tháng đầu sôi nổi của thể chế cộng hoà tại Quảng Châu, khi mặt trận thống nhất được xem là giải pháp cho cả hai phe quốc gia và cộng sản, sự khác biệt trong xu hướng chính trị của họ chưa là trở ngại cho sự hợp tác của hai bên. Hồ Chí Minh biết cách vận dụng thế lực chính trị đồng thời nhượng bộ cho những người lưu vong khác nắm giữ những chức vụ quan trọng trong các tổ chức mà ông thành lập. Việc quân đội Vân Nam bị đánh bại vào giữa năm 1925 cũng góp phần tích cực cho ông, như ta thấy, bằng cách sử dụng trường Hoàng Phố như là nguồn tiếp liệu chính trong việc đào tạo và cung cấp việc làm cho những người Việt lưu vong. Nhìn chung, những bằng chứng do báo cáo của Lâm Đức Thụ cung cấp cũng như những báo cáo của Hồ đến QTCS đã giúp rút ra kết luận rằng những người quốc gia Việt Nam và những người cộng sản nguyên thuỷ đã chưa thiết lập được những tổ chức với đường lối rõ rệt trong lần đầu Hồ đến Trung Quốc. Những người lưu vong như Lê Hồng Sơn và Trương Văn Lềnh, hai phụ tá tin cẩn nhất của Hồ, đã giữ quan hệ chặt chẽ với cả hai phía ít nhất là cho đến năm 1928. Thật sai lầm nếu cho rằng những người lưu vong Việt Nam đã có một quan điểm rõ ràng về sự trợ giúp của cộng sản đối với phong trào độc lập của họ trong những năm 1924 và 1925. Một khi Hồ vẫn còn những đóng góp tích cực cho những phương cách tổ chức và tiềm năng hậu thuẫn về tài chính thì ông vẫn có lợi thế hơn những thủ lĩnh lớn tuổi đã bị bỏ rơi bởi người Nhật. Nhưng khi QTCS trở nên chậm chạp trong việc đáp ứng những yêu cầu trợ giúp của ông, Hồ lo lắng rằng mình sẽ mất đi ảnh hưởng đối với những người quốc gia. Tôi sẽ phân tích những bằng chứng liên quan đến vấn đề này ở dưới.

Hiệu đính theo tài liệu bác Ho Guom, thành viên x-cafevn.org cung cấp.

< Sửa đổi bởi: lyenson -- 21.2.2008 12:31:39 >

_____________________________


Đồng hành cùng Box Du Lịch

(trả lời: lyenson)
Post #: 11


RE: Hồ Chí Minh: Những năm tháng chưa được biết đến - 3.1.2008 14:40:06


lyenson
dừng bước giang hồ





Bài viết đã đăng: 2505
Gia nhập ngày: 18.6.2006
Hiện trạng: offline Vào ngày 18 tháng Chạp 1924, Hồ viết thư cho Chủ Tịch Đoàn QTCS báo rằng ông đã đến Quảng Châu vào giữa tháng ấy. (Không thể giải thích được sự khác biệt về ngày đến của ông trong thư và việc trước đây ông nói là đã đến vào ngày 11 tháng 11. Có lẽ là ông chỉ đơn giản làm theo thói quen nhỏ giọt sự thật với những đối tượng khác nhau.) Trong phần tái bút của lá thư ông báo cho QTCS biết rằng ông đã lấy tên Trung Quốc là "Lý Thụy". Về phần mình, Hồ Chí Minh đã đánh bóng sự khôn khéo của ông trong việc nối kết với các phần tử Việt Nam lưu vong. "Tôi đã gặp một số nhà cách mạng quốc gia người Việt", ông viết, "trong số họ có một người đà rời Việt Nam ba mươi năm nay và trong thời gian ấy đã tổ chức được một số cuộc nổi dậy chống Pháp... Mục đích duy nhất của người này là trả thù cho tổ quốc và gia đình đã bị sát hại bởi người Pháp. Ông ta không biết gì về chính trị và càng không biết tí gì về công tác tổ chức quần chúng. Trong những cuộc mạn đàm, tôi đã nêu lên việc cần thiết của việc tổ chức cũng như sự vô ích của những cuộc khởi nghĩa thiếu tổ chức. Và ông ta đã nghe theo."[37] Nếu ta cho đoạn văn trên phóng đại khoảng 10 năm về chuyện nhân vật này rời khỏi Việt Nam thì đúng là Hồ đang nói về Phan Bội Châu. Nhưng căn cứ theo những thư từ của Phan từ đầu năm 1925, thì dường như hai người chưa gặp nhau.[38] Một khả năng khác về danh tánh của nhân vật lưu vong trên là Nguyễn Hải Thần hoặc Hồ Học Lãm, cũng là người đồng hương Nghệ An như Phan Bội Châu, cha và anh của ông đều bị Pháp giết hại. Nhưng Lãm, bác của Hồ Tùng Mậu, vẫn đang ở Hàng Châu trong thời kỳ mặt trận thống nhất. Báo cáo của Pháp về tiểu sử chính trị của Hồ Chí Minh vào năm 1933 cho thấy Nguyễn Hải Thần là người phù hợp nhất với miêu tả ở trên. Báo cáo này có nói rằng khi Hồ đến Quảng Châu, ông đã "khéo léo tham khảo Nguyễn Cẩm Giang, lúc đấy đang là người nắm quyền lãnh đạo các đồng hương của mình."[39] Bản báo cáo nói rằng với sự trợ giúp của Nguyễn Cẩm Giang, Hồ đã gây dựng nên một tổ chức mới, nhưng sau đó bất đồng ngày càng lớn giữa hai người và Giang đã thành lập một tổ chức riêng với không quá 30 thành viên. Sự chia rẽ này trùng hợp với tường thuật trong báo cáo của Lâm Đức Thụ về mối quan hệ giữa Hồ và Nguyễn Hải Thần. Nguyễn Hải Thần, còn có tên là Nguyễn Cẩm Giang, có vẻ là người kế nghiệp cho Phan Bội Châu cho đến khi Hồ Chí Minh xuất hiện trong chính trường.[40]

Trong lá thư viết ngày 18 tháng Chạp Hồ liệt kê những công tác mà ông và người đồng hương trên đã cùng nhau thực hiện. Họ đã vạch ra một biểu đồ tổ chức. Người đồng hương lập ra một danh sách của mười người Việt Nam đã cộng tác với ông trong quá khứ; và Hồ đã chọn ra năm người từ năm tỉnh khác nhau để đem đến Quảng Châu. Ông dự định hướng dẫn họ rồi gửi họ về lại Đông Dương sau ba tháng đào tạo, sau đó một nhóm khác sẽ thay thế. Đây cũng là sơ đồ hoạt động của tổ chức tương lai mang tên Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội, thường gọi tắt là Thanh Niên Hội. Nhưng Hồ chưa nói gì về cái tên này cả, và trong hai lá thư vào tháng Giêng và tháng 2 1925 ông gọi tổ chức của mình là Việt Nam Quốc Dân Đảng (xin xem phía dưới). Để đưa được nhóm người đầu tiên đến Quảng Châu, ông cần khoảng 150 đồng [chắc hẳn là đô-la Mỹ] còn lại từ chi phí di chuyển từ Moscow. "Nhưng sau đó thì sao?" ông hỏi thẳng thừng. "Tôi chỉ làm việc vài giờ một ngày tại ROSTA, nhưng lương của tôi không đủ để tôi trang trải cho các "học trò", và sau khi họ đến Quảng Châu, có khả năng là tôi sẽ dành hết hoặc phần lớn thời gian cho việc đào tạo; tình trạng tài chính của tôi sẽ trở nên vô vọng. Vì thế tôi yêu cầu các đồng chí làm ơn ra lệnh cho các đại diện tại Quảng Châu cũng nên giúp đỡ những người Đông Dương."[41]

Đến ngày 5 tháng Giêng 1925 Hồ đã có thể báo cáo: "Đông Dương Quốc Dân Đảng đã được thành lập vào ngày 3 tháng này, khởi đầu với 3 đảng viên." Ông viết bằng tiếng Anh, vì thế rất có thể là ông viết cho Voitinsky vốn thông thạo Anh ngữ. "Một đảng viên sẽ được điều về Annam (Trung Kỳ - ND) và Lào. Một người khác (chưa là đảng viên) sẽ được gửi đến Tonkin (Bắc Kỳ - ND) để đưa năm người khác qua Quảng Châu học công tác tổ chức... Trong lúc ấy, tôi cầu xin đồng chí hãy ra lệnh cho các đồng chí Nga ở đây cũng nên có trách nhiệm với những vấn đề Đông Dương bởi vì một mình tôi sẽ chẳng làm được gì nhiều."[42] Khi ông viết thư cho Chủ Tịch Đoàn QTCS vào ngày 10 tháng Giêng, lần này bằng tiếng Pháp, ông đã có thể thông báo rằng Quốc Dân Đảng vừa kết nạp thêm thành viên thứ tư. Nhưng ông than phiền rằng ông đã phải vay tiền từ ROSTA để trang trải cho chi phí đi lại của các phái viên.[43]

Vào ngày 19 tháng 2 1925 Hồ lại viết cho Chủ Tịch Đoàn QTCS cho biết về những tiến triển vừa đạt được. Lần này ông báo cáo rằng tổ chức bí mật của ông hiện có chín thành viên, hai người trong số đó đã được gửi về Việt Nam; ba người khác đang chiến đấu trong quân đội Tôn Dật Tiên, ông nói, và một người nữa đang thực hiện "nhiệm vụ quân sự cho Quốc Dân Đảng". Trong chín thành viên này, năm người cũng là đối tượng đảng của Đảng Cộng Sản (Trung Quốc).[43] Hồ cố gắng hạn chế đề cập đến tên tuổi của những người này trong thư từ của ông, nhưng chúng ta cũng biết từ tài liệu của Việt Nam năm người ấy chính là Lê Hồng Phong, Hồ Tùng Mậu, Lê Hồng Sơn và Lâm Đức Thụ; Lê Quang Đạt, một trong những học viên đầu tiên tại Hoàng Phố, có lẽ là người thứ năm.[45] Tất cả đều xuất xứ từ Nghệ An ngoại trừ Lâm Đức Thụ người gốc Thái Bình. Nguyễn Hải Thần dường như đã đứng bên ngoài nhóm cốt cán của Thanh Niên Hội, có lẽ vì tư cách sĩ quan của ông trong quân đội Vân Nam. Đến tháng 2 Hồ có vẻ đã thành công trong việc kết nối cơ cấu hiện tại của Tâm Tâm Xã và từ đó sử dụng mạng lưới cũ của Phan Bội Châu: ông báo cáo rằng tổ chức của mình đã có một cơ sở vững chắc tại Xiêm để đưa đón người trong và ngoài nước. "Có năm mươi nông dân rất đoàn kết và từ lâu nay họ đã phụ giúp những công tác này," ông viết.

Khi Hồ chiếm được lòng tin của những đồng hương, những hoạch định của ông càng mang nhiều tham vọng. Trong lá thư đề ngày 19 tháng 2 ông ước lượng những công việc cần hoàn tất trong 1925 sẽ tốn khoảng 5.000 đô-la. Ông cần tiền để thiết lập cơ sở tại Quảng Châu cũng như những cơ sở thông tin tại Quảng Tây; tại vùng cực nam của Quảng Đông; tại Bangkok; tại đoạn cuối của tuyến đường hoả xa Bangkok - Tich-kho (Udon Thani?), nơi mà theo lời ông chỉ cần hai mươi ngày đi bộ từ Lacfach; và cuối cùng là tại Lachfach (Thakhek?), phía tả ngạn sông Mekong (trên đất Lào), cách Trung Kỳ khoảng mười lăm ngày đi bộ. Ông cũng dự định gửi người về Việt Nam để thâu thập và truyền bá tin tức và cho một số khác làm việc trên những tàu thuyền giữa Trung Quốc và Đông Dương. Cuối thư ông đã đính kèm một bản đồ Đông Dương vẽ rất rõ ràng với những cơ sở trên được đánh dấu.

Nhưng trong một bản ghi nhớ không đề ngày với đầu đề "Vấn Đề Đông Dương", hình như đã được viết trong những tháng cuối năm 1925, ông vẫn không chắc chắn lắm về viễn cảnh của tổ chức. Vì nó được viết bằng tiếng Anh, có thể là lại để gửi cho Voitinsky. Trong điểm thứ 4 của bản ghi nhớ, cũng nhằm mục đích xin thêm tiền, ông giải thích: "Nếu không có sự giúp đỡ và cố vấn của các đồng chí Nga, tôi sẽ gặp khó khăn để tránh mắc phải sai lầm. Nhưng tôi sẽ chẳng được gì cả nếu không có lệnh của đồng chí. Và họ cũng chẳng làm được gì cho tôi với hai bàn tay trắng."[46] Điểm chính của lời yêu cầu là Hồ cần một điều gì để cho các đồng hương của mình thấy được bằng chứng chắc chắn về sự trợ giúp của người Nga, từ đó ông có thể giữ được uy tín của mình. Trong điểm 1 ông viết:"Nếu đồng chí đồng ý tôi sẽ gửi ngay lập tức một hoặc hai học viên, điều này sẽ cho phép tôi thực hiện tốt công tác tuyên truyền, để có thể chứng minh được những gì Cách Mạng Nga có thể đem lại cho nhân dân thuộc địa. Điều này cũng cho phép tôi - từ giờ đến tháng 8 - chiếm được lòng tin của những phần tử tốt trong Đông Dương Quốc Dân Đảng."

Báo cáo của Sở Liêm Phóng đã giúp hoàn chỉnh một số chi tiết không rõ ràng về hoạt động của Lý Thụy trong những tháng đầu năm 1925. Vào ngày 4 tháng 3 Lâm Đức Thụ báo với đại diện người Pháp: "Lý Thụy và Nguyễn Hải Thần đang ráo riết làm việc để thành lập một tổ chức mà tôi đã đề cập trong phần phụ chú của báo cáo số 121. Phan Bội Châu không biết gì về những hoạt động này của họ."[47] Tên của tổ chức này không được nói đến trong báo cáo hoặc trong bản tóm tắt của Pháp về những hoạt động của Lý Thụy trong việc kết nạp thành viên từ trong nước. Đây dường như là nỗ lực đầu tiên để phát triển một tổ chức được biết đến như Thanh Niên Hội. Bản báo cáo tháng 3 về những hoạt động của Lý Thụy, rõ ràng là đã căn cứ vào nguồn tin của Lâm Đức Thụ, đã do đích thân Toàn Quyền Merlin ký. Ông ghi chú rằng phương pháp chiêu mộ thành viên đã đánh vào tâm lý của người Việt bằng cách yêu cầu thành viên mới phải tuyên thệ trung thành với "đảng" mới, nhưng nó cũng tránh xa những "mỹ từ sáo rỗng" của những nhà cách mạng Việt Nam cũ. "Không hề thấy nhắc đến những phương pháp cực đoan," Merlin viết. "Ta có thể thấy rằng Lý Thụy xem đó là bước quan trọng đầu tiên để đưa những thành viên vào những tổ chức có kỷ luật, từ đó sẽ tuân theo mệnh lệnh một cách mù quáng."[48] Merlin vô cùng ấn tượng bởi tầm ảnh hưởng của những người "Bolshevik" và phương pháp của họ. Phân tích của ông về đường lối tổ chức cũng hệt như chính Hồ viết: "Những người quốc gia đã tạo ra vài cuộc tấn công: họ luôn thiếu đoàn kết và vẫn chưa thể chiếm được cảm tình của đại đa số quần chúng." Ông thấy rằng đường lối chống Pháp kiểu mới có thể làm tổn thương đến việc gây ảnh hưởng đến người Pháp "nếu để nó phát triển một cách tự do". Nhưng ông đã đề ra một số biện pháp ngăn chận, ông trấn an người lãnh đạo của mình ở Paris.

Đến đầu tháng 3 Lý Thụy đã thuyết phục được những người lưu vong đóng góp nguyệt liễm cho quỹ tuyên truyền. Lý Thụy đóng mỗi tháng 200 đô-la, Nguyễn Hải Thần 300, Đinh Tế Dân 100 và Lâm Đức Thụ 50 đô-la (có thể Thụ đã báo cáo phần đóng góp của mình ít đi). Theo lời Thụ thì Hồ mỗi tháng lĩnh được khoảng 300 đến 400 đô-la tiền lương từ công việc dịch thuật của mình.[49] Thụ báo cáo vào tháng 3 rằng Nguyễn Hải Thần và Lý Thụy đã thoả thuận thiếp lập một mối quan hệ làm việc chung. Ông giải thích:"Mỗi người vẫn giữ quyền tự do hoạt động. Nguyễn Hải Thần tiếp tục cổ xuý cho phương pháp khủng bố và Lý Thụy thì thực hiện công tác tuyên truyền cộng sản. Vì cả hai đều theo đuổi một mục đích, họ giúp đỡ lẫn nhau khi có dịp."[50]

Dù vậy, công tác tuyển người từ trong nước có vẻ bị chậm trễ trong khi chính quyền cộng hoà Trung Hoa đang củng cố quyền lực trong nửa năm đầu của 1925. Những thành viên Việt Nam duy nhất được kết nạp từ trong nước chỉ là năm hoặc sáu người đến để tham gia các khoá học tại Học Viện Đào Tạo Phong Trào Nông Dân, và con rể của Phan Bội Châu là Vương Thục Oánh cũng nằm trong số đó. Để hiểu được quá trình phát triển của những tổ chức cách mạng Việt Nam, ta nên lưu ý đến những sự kiện nổi bật của quá trình củng cố quyền lực này. Số phận của những người Việt Nam lưu vong phụ thuộc vào cơ cấu quyền lực địa phương tại Quảng Châu và cả tình trạng của liên minh Quốc Dân Đảng - ĐCS Trung Quốc nói chung. Như ta đã thấy, rất nhiều người trong số họ đang phục vụ trong hàng ngũ quân đội Trung Quốc. Hồ Chí Minh, cũng như một số người Việt khác, chỉ có thể dành một phần thời gian của mình cho những vấn đề Việt Nam. Theo báo cáo của Lâm Đức Thụ vào cuối năm 1925, Hồ làm việc mười sáu giờ mỗi ngày, dịch bài cho ROSTA, báo cáo về phong trào nông dân cho Nông Dân Quốc Tế, và tổ chức các cơ sở mà sau này trở thành hạt nhân của đảng cộng sản Việt Nam.[51]

Từ tháng 2 đến tháng 5 1925 những học viên Hoàng Phố và quân đội Quảng Châu tham gia chiến dịch tấn công lãnh chúa Trần Quýnh Minh (Chen Jiongmin - ND) tại khu vực sông Đông Giang, Quảng Đông. Là một môi giới quyền lực địa phương tại Quảng Đông, Tướng Trần đang đe doạ tái chiếm Quảng Châu trong khi Tôn Dật Tiên vẫn ở Bắc Kinh với sức khoẻ đang suy sụp. Khi Tôn qua đời vào tháng 3, việc tranh giành để kế nghiệp ông vẫn tiếp tục. Quân đội Hoàng Phố bao vây Trần nhờ sự ủng hộ của những dân quân nông dân, những người này thực hiện công tác phá hoại cũng như cung cấp tin tức và tuyên truyền.[52] Ba người trong số chín thành viên thuộc tổ chức bí mật của Hồ cũng tham gia chiến đấu như Hồ đã báo cáo trong lá thư ngày 19 tháng 2. Lê Hồng Sơn phục vụ dưới quyền chỉ huy của Chu Ân Lai (Zhou Enlai - ND), chính uỷ Tập Đoàn Quân số 1.[53] Rồi vào tháng 5 những tướng lĩnh của quân đội Vân Nam và Quảng Tây trước đây đã tham gia Quốc Dân Đảng là Yang Ximin và Lau Tchauwan [Liu Chenhuan] nổi loạn chống lại lãnh đạo nền cộng hoà. Những người lính Hoàng Phố vừa qua thử thách lại một lần nữa ra quân và đánh bại lực lượng nổi loạn. Sự kiện này đã dọn đường cho việc thành lập một chính phủ Quốc Dân Đảng độc lập tại Quảng Châu do Hồ Hán Dân (Hu Hanmin - ND) đứng đầu vào cuối tháng 6 1925. Thành công chính trị của mặt trận thống nhất giữa Quốc Dân Đảng và ĐCS Trung Quốc giờ đã lên đến đỉnh điểm. Sự chuyển giao quyền lực chính trị tại địa phương đã đánh dấu một thời kỳ mới trong tổ chức của người Việt. Trước hết sự thất trận của quân đội Vân Nam làm cho Nguyễn Hải Thần mất đi chỗ dựa quyền lực. Lâm Đức Thụ đã báo cáo ngày 15 tháng 6 rằng: "Hải Thần đã bị đánh bại. Ông ta không còn một người lính nào cả. Ông ta quay lại Quảng Châu nhưng vẫn chưa dám xuất hiện... ông ta đã cạn kiệt nguồn lực và có vẻ rất buồn." Những học viên trong đoàn quân của ông đang đợi để "sát nhập vào đội quân Quảng Châu theo đề nghị của Lý Thụy."[54] Như đã nói ở trên, một số họ đã theo học tại trường Hoàng Phố. Tham gia đội ngũ học viên mới có hai người từ Nghệ An, cựu học sinh từ trường võ bị sĩ quan của Tập Đoàn Quân Quảng Tây: Trương Văn Lềnh và Lê Như Vọng (Lê Thiết Hùng).[55]

Với quyền lực đã được củng cố tại Quảng Đông, mặt trận thống nhất tăng cường quan tâm đến phong trào nông dân và việc tổ chức công nhân. Phong trào đình công ngày 30 tháng 5 tại Thượng Hải (Shanghai - ND) được nhanh chóng hưởng ứng bởi cuộc đình công tại Hương Cảng (Hongkong - ND) và phong trào tẩy chay hàng hoá Anh tại Quảng Đông. Phong trào ở Hưong Cảng được bắt đầu bằng một cuộc tổng đình công chống lại các công ty ngoại quốc vào ngày 21 tháng 5 - cùng ngày đó Hồ Chí Minh đã cho ra số đầu tiên của Thanh Niên, tuần báo này đã tiếp tục xuất hiện cho đến tháng 5 1930. (Số đầu tiên có 60 ấn bản chỉ có hai bài báo; đến tháng 10, 80 ấn bản được phân phối ở Xiêm, Quảng Tây, Vân Nam, Hàng Châu và Quảng Đông.)[56] Vào ngày 30 tháng 5 Hội Liên Hiệp Các Dân Tộc Bị Áp Bức ra đời: nó là một tổ chức của những người hoạt động chống thuộc địa gồm Việt Nam, Triều Tiên và Ấn Độ cùng với những người bảo trợ Trung Quốc. Liêu Trọng Khải (Liao Zhongkai - ND), tân thống đốc Quảng Châu và người đứng đầu phái tả trong Quốc Dân Đảng làm chủ tịch hội, một người Triều Tiên và Lâm Đức Thụ làm phó chủ tịch. Lý Thụy quản lý ban bí thư và tài chính của phân bộ Việt Nam. Hội này là một cơ cấu mới mà trong đó Hồ Chí Minh sẽ tạo ra một tổ chức cách mạng mở rộng cho người Việt tại Quảng Châu.

Hội Liên Hiệp Các Dân Tộc Bị Áp Bức (LHCDTBAB) thực hiện hai mục tiêu của Hồ. Mục đích chính của nó là chứng tỏ sự hậu thuẫn của nhân dân châu Á đối với cuộc cách mạng Trung Quốc, bắt đầu là việc tẩy chay mậu dịch với người Anh tại Hương Cảng. Những truyền đơn thành lập Hội do Hồ viết bằng tiếng Hoa đã phản ánh rất rõ.[57] Ngoài ra phân bộ Việt Nam trong Hội cũng hoạt động như một tổ chức cơ bản để kết nạp và đào tạo những người Việt chống Pháp trong giai đoạn 1925. Thành viên của Hội, trong đó có Nguyễn Hải Thần, là những người đã phát hành tờ báo Thanh Niên. Mặc dù tháng 5 1925 thường được xem là ngày thành lập Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội, nhưng theo những bằng chứng có được, hội này đã không chính thức xuất hiện như một đảng chính trị thật sự cho đến khoảng năm 1926. Nó vẫn chưa có một cương lĩnh chính trị và điều lệ chính thức cho đến đầu năm 1927. Có thể Thanh Niên Hội được thành lập trước như một tổ chức cho lớp trẻ trong Hội LHCDTBAB và đảm đương vai trò tuyên truyền của Hội, theo Lâm Đức Thụ.[58] Một tài liệu lịch sử gần đây của Hà Nội về những năm tháng của Hồ tại Quảng Châu vẫn cho rằng tên chính thức Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội được đưa ra vào cuối năm 1925. Tài liệu trích dẫn những hồi ký của Vương Thục Oánh trong đó ông cho rằng một tổ chức có tên là Thanh Niên Cộng Sản Đoàn được thành lập tại Quảng Châu, nhưng cái tên Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Hội là do chính ông và Lê Duy Điếm nghĩ ra khi Điếm quay về từ Quảng Châu vào cuối năm 1925.[59]

Một bản tóm tắt của người Pháp về những báo cáo của Lâm Đức Thụ vào ngày 22 tháng 7 1925 nêu rõ thế lực mới của Hồ từ giữa 1925: "Nguyễn Ái Quốc đã quyết định nắm quyền lãnh đạo của nhóm cách mạng Việt Nam tại Quảng Châu. Trong khi vẫn làm nhiệm vụ dịch thuật cho bộ phận thông tin của lãnh sự quán Sô Viết, ông ta đã làm việc không mệt mỏi để sửa soạn cho cuộc cách mạng tại Đông Dương. Là thủ quỹ của tổ chức cách mạng Việt Nam, người sáng lập, chủ bút kiêm in ấn của tờ Thanh Niên, người tổ chức của Hội LHCDTBAB tại Quảng Châu, hội viên của tất cả các nghiệp đoàn lao động và tổ chức cách mạng ở Quảng Châu, ông ta tham dự hầu hết các buổi họp tại Vườn Hoa Công Cộng và Đại Học Quảng Châu; ông gặp gỡ những vị chủ nhà danh tiếng tại nhà máy Xi Măng Quảng Châu như Liêu Trọng Khải, Sie Yng Pak và Hồ Hán Dân. Nguyễn Ái Quốc đã tìm thấy một môi trường hoàn toàn thích hợp cho mình tại Quảng Châu."[60]

Vào cuối tháng 9 Lâm Đức Thụ mật báo với Sở Liêm Phóng rằng Hồ, Nguyễn Hải Thần, Hồ Tùng Mậu, Lê Hồng Sơn và ông tại một cuộc họp của phân bộ Việt Nam đã quyết định tái tổ chức những người cách mạng Việt Nam ở Quảng Tây và nối lại liên lạc với những người kháng chiến ở Bắc Kỳ (Tonkin - ND). Hồ Tùng Mậu lĩnh nhiệm vụ trên tại Quảng Tây trong khi Nguyễn Hải Thần sẽ đi Bắc Kỳ. Thụ viết: "Nguyễn Ái Quốc tin rằng chúng tôi cần phải tái tổ chức những nhóm cách mạng trong nước dựa theo những cơ sở tại Quảng Châu... những phần tử đáng nghi sẽ bị thẳng tay trục xuất như đã làm tại Quảng Châu."[61]

Lê Hồng Sơn kể lại trong lời khai với Sở Liêm Phóng năm 1933 rằng trong khoảng mùa hè 1925, một nhóm 15 người Việt Nam đã được Hồ Tùng Mậu đưa đến Quảng Châu. Một số trong họ có lẽ đã được Nguyễn Hải Thần và Lâm Đức Thụ chiêu mộ. Vào mùa thu, Lê Hồng Phong, hiện là một sĩ quan trong quân đội Quảng Châu, lấy ngày phép để đưa 7 người trong nhóm quay lại biên giới Việt Nam qua hướng Nam Ninh và Long Châu. Tại biên giới ông giao nhiệm vụ lại cho một người buôn lậu Trung Quốc, người này dẫn họ về đến Bắc Kỳ. Trong số 7 người này có Xuân (Nguyễn Công Thu, em trai Lâm Đức Thụ, sau này trở thành tuyên truyền viên cho Thanh Niên Hội tại Quảng Châu), Hoàng Lun (Lê Hữu Lập) từ Thanh Hoá, Lê Duy Dung từ Nghệ An, và Nhân (Nguyễn Ngọc Ba) cũng từ Nghệ An.[62] Vương Thục Oánh, con rể của Phan Bội Châu, người đã tạo dựng được một mạng lưới đưa người Việt sang Trung Quốc, đã được kết nạp vào trong nhóm nòng cốt của Thanh Niên Hội vào đầu năm.[63] Những học viên này đã tạo thành một phần của khoá huấn luyện chính thức đầu tiên của Thanh Niên Hội mà Hồ đã nhắc đến trong thư gửi cho QTCS vào tháng 6 1926 bao gồm 10 người.[64]

Nhưng khủng hoảng chính trị đã làm gián đoạn những kế hoạch đưa các nhóm học viên sang Quảng Châu. Bản chất hiếu chiến ngày càng tăng của Quốc Dân Đảng ở Quảng Đông, cùng với việc tẩy chay mậu dịch với Anh đã thúc đẩy việc thành lập một liên minh quyền lực mới tại miền nam Trung Quốc giữa những phần tử cánh hữu trong Quốc Dân Đảng và những thế lực đế quốc. Một trong những dấu hiệu về sự tan rã của khối đoàn kết quốc gia là vụ Liêu Trọng Khải bị ám sát vào tháng 8. Những học viên quân sự Hoàng Phố một lần nữa lại gồng mình chờ chiến cuộc mới sắp nổ ra, theo lời Lê Hồng Phong từ học viện Hoàng Phố viết cho những đồng hương trong thành phố.[65] Dù vậy, một thoả hiệp chính trị cũng đã được đưa ra trong đó bắt buộc Hồ Hán Dân, bị tình nghi là chủ mưu trong vụ ám sát, phải lưu vong sang châu Âu. Nhân vật cánh tả Uông Tinh Vệ (Wang Jingwei - ND) sẽ nắm quyền lãnh đạo chính phủ, trong khi đó Tưởng Giới Thạch (Chiang Kaishek - ND) trở thành Tổng Tư Lệnh của Tập Đoàn Quân thứ 1 Quốc Dân Đảng đồng thời kiêm chức giám đốc Học Viện Hoàng Phố.[66] Việc đưa Uông Tinh Vệ làm người kế nhiệm Tôn Dật Tiên đã được hoàn toàn nhất trí tại Đại Hội Quốc Dân Đảng Toàn Quốc lần 2 vào tháng Giêng 1926. Đại Hội xác nhận sức mạnh của mặt trận thống nhất cũng như sự liên minh của nó với nước Nga Sô Viết.[67] Nhưng cái chết của Liêu Trọng Khải đã làm mất đi sự ủng hộ của Quốc Dân Đảng đối với phong trào nông dân tại Quảng Đông và có lẽ cũng là một thất bại tạm thời cho những kế hoạch của Hồ Chí Minh. Đến giữa năm 1925, ông đã tham gia rất nhiều việc của Nông Dân Quốc Tế, nhưng đến mùa xuân năm sau mối quan tâm của QTCS lại chuyển sang những hướng khác. Khoá đào tạo thứ hai của Thanh Niên Hội cuối cùng cũng đã khai mạc vào mùa thu 1926, trong khi mặt trận thống nhất chuyển hướng chú ý đến chiến dịch Bắc Phạt (Northern Expedition - ND). Trước khi phân tích những hậu quả gián tiếp đến Thanh Niên Hội lúc ấy, ta cần nên nhìn lại phong trào nông dân và những lực lượng chính trị phía sau đã ảnh hưởng đến nó như thế nào.


Phong trào nông dân Quảng Đông

Vào giữa tháng 2 1925 và tháng 3 1926, vì nhiệm vụ của mình trong Nông Dân Quốc Tế, Hồ bị cuốn vào một trong những phong trào ồn ào nhất của mặt trận thống nhất: phong trào nông dân Quảng Đông. Công tác tổ chức nông dân tại tỉnh Quảng Đông đã bắt đầu ngay sau khi Đảng Cộng Sản Trung Quốc thành lập, chủ yếu là do sự phát động của Bành Bái (Peng Pai - ND), con của một địa chủ giàu có từng du học ở Nhật. Ông đã thành lập các trường học và tổ chức nông dân trong những năm 1922 và 1923 nhưng bị thất bại trong việc bảo vệ chúng khỏi tầng lớp địa chủ giàu có.[68] Nhưng vào mùa xuân 1925, cán cân quyền lực đã xoay chiều trong những vùng nông thôn ở miền đông Quảng Châu khi binh sĩ Quốc Dân Đảng, vừa được huấn luyện và trang bị, đã đánh tan lực lượng của lãnh chúa Trần Quýnh Minh. Những nông hội do Bành Bái thành lập đã trở thành những tổ chức được chính phủ công nhận và được bảo đảm quyền lợi cũng như vị trí trong phong trào mặt trận thống nhất. Họ cũng nắm được quyền tổ chức quân đội riêng để tự vệ chống lại llực lượng Dân Quân (mintuan - ND) của những lãnh chúa mà trên thực tế là những đội quân của tầng lớp thống trị.

Những lực lượng quân sự nông dân tại hai huyện Hải Phong (Haifeng - ND) và Lục Phong (Lufeng - ND) trong khu vực sông Đông Giang được thành lập từ những lớp đào tạo của Học Viện Đào Tạo Phong Trào Nông Dân ở Quảng Châu. Học viện được Bành Bái thành lập vào tháng 8 1924. Ông đích thân giảng dạy hầu hết những khoá đầu tiên và kiến thiết một chương trình có thực hành mỗi tuần tại các làng xã. Fernando Galbiati (nhà sử học - ND) viết rằng trong khoá đào tạo thứ 2, 3, và 4 tại Học viện, "yếu tố quân sự" không ngừng được tăng cường. Khoá đào tạo thứ 3, hình như bao gồm vài người Việt, kéo dài từ ngày 1 tháng Giêng đến ngày 3 tháng 4 1925. Lấy theo khuôn mẫu tổ chức của một đại đội quân sự và được huấn luyện về thăm dò và tuyên truyền.[69] Lớp đào tạo thứ 4 bắt đầu ngày 30 tháng 4 nhưng bị gián đoạn vì vụ nổi loạn tại Quảng Châu của những tướng lĩnh trong quân đội Vân Nam và Quảng Tây. Theo Galbiati, những học viên đã phân tán về vùng quê đến khi Học viện mở cửa lại vào tháng 7. Năm thanh niên Việt Nam đang theo học khoá này được cho là đã chuyển sang Đại Học Quảng Châu vào cùng tháng đó.[70] Khi chỉ có 50 học viên quay lại sau khi khoá học bị gián đoạn, Galbiati tin rằng những học viên mới người Việt đã được thế vào.[71] Nhóm này tốt nghiệp vào tháng 9 1925. Việc đào tạo của Học viện có thể là nguồn gốc của những đội vũ trang tuyên truyền do Việt Minh thành lập vào năm 1945. Những chủ đề trong khóa học rất thực tế - chúng bao gồm việc viết bài tuyên truyền và tổ chức Nông Hội cũng như cách chiếm cảm tình của nông dân bằng cách sử dụng ngôn ngữ địa phương đồng thời ăn mặc và sinh hoạt như những nông dân.[72] Khoá đào tạo thứ 5 tại Học viện do Mao Trạch Đông (Mao Zedong - ND) giảng dạy có 43 học viên từ Hồ Nam.[73] (Mặc dù Mao được cho là đã có công sáng lập Học viện, ông chỉ trở thành hiệu trưởng vào mùa xuân 1926.)

Vai trò của Nông Dân Quốc Tế trong việc chỉ đạo phong trào nông dân thì không rõ ràng lắm. Những cố vấn người Nga giảng dạy tại Học viện về kỹ thuật do thám và làm việc dưới quyền của Borodin như là những cố vấn đặc biệt trong Bộ Nông Dân của Quốc Dân Đảng có thể không có quan hệ với Nông Dân Quốc Tế.[74] Một trong những người này là S.N. Belenky, được biết trong QTCS là "Volin", cũng là một phóng viên của ROSTA, có lẽ ông là người điều hành trực tiếp của Hồ Chí Minh.[75] Trong giai đoạn đầu tổ chức, bản thân Borodin dường như đã nhúng tay rất sâu trong việc cố vấn về vấn đề giảm thiểu ruộng tá điền và vấn đề phân phối đất.[76] Vì thế Hồ Chí Minh, người đại diện Á châu duy nhất trong Nông Dân Quốc Tế (và thông dịch viên tiếng Pháp và tiếng Anh), đã có thể theo dõi và tham gia phong trào nông dân Quảng Đông một cách sát sao. Ông gửi cho Nông Dân Quốc Tế tại Pháp một báo cáo về những trở ngại chính trong giai cấp nông dân Trung Quốc. Họ nhận được báo cáo này vào ngày 2 tháng 3 1925. Bên cạnh mật độ dân số quá cao, nông cụ thô sơ và thiên tai tàn phá, ông còn đưa ra những khó khăn chủ yếu khác như sự tham tàn của giai cấp địa chủ và nạn xâm lăng của tư bản ngoại quốc. Không rõ là Hồ chỉ đơn giản là phiên dịch bản báo cáo này từ người khác hay đã tự tay soạn thảo nó. Ông chỉ đề cập một cách vắn tắt ở phần cuối của báo cáo rằng tầng lớp nông dân đang thành lập các nông hội dưới sự ủng hộ của giai cấp công nhân và chính phủ miền nam Trung Quốc. Những tổ chức sau đây sẽ bị trục xuất ra khỏi các nông hội, ông viết: địa chủ với hơn 100 mẫu đất[77]; những kẻ cho vay nặng lãi; những chức sắc của các tôn giáo; những ai có quan hệ với đế quốc; dân cờ bạc và dân hút thuốc phiện.[78]

Vào tháng 8 1925 Nông Dân Quốc Tế gửi Hồ năm nghìn rúp (rubles - khoảng 2.500 Đô-la lúc ấy) qua tài khoản của Borodin tại Ngân Hàng Viễn Đông. Họ chỉ thị Hồ dùng số tiền này để (1) in bích chương cách mạng và tài liệu về những vấn đề nông dân; (2) gửi đại diện đến các tỉnh khác để thành lập các hội liên hiệp nông dân; (3) gửi một đồng chí đáng tin cậy người Trung Quốc đến Moscow để làm việc trong Nông Dân Quốc Tế; và (4) cung cấp đều đặn tin tức và tài liệu về phong trào nông dân Trung Quốc đến Moscow. Cuối cùng là những bản báo cáo lưỡng nguyệt.[79] Hồ hồi âm bằng tiếng Anh vào ngày 17 tháng 10 rằng ông đã nhận được tất cả thư từ của Nông Dân Quốc Tế từ tháng 8 đến tháng 9 (gồm 11 lá thư tất cả, đa số chúng không nằm trong hồ sơ của Nông Dân Quốc Tế với những trả lời của Hồ) vào cùng ngày 14 tháng 10 1925. Ông hứa sẽ thực hiện hầu hết các chỉ thị của họ. Nhưng ông từ chối gửi một đồng chí đến Moscow, "vì tất cả các đồng chí hiện giờ đều đang cần ở đây, và không ai trong số họ biết ngoại ngữ." Ông cũng yêu cầu họ chấm dứt gửi tài liệu bằng tiếng Đức, vì không có ai để dịch chúng.[80]

Ngày 5 tháng 11 1925 Hồ gửi cho Nông Dân Quốc Tế kết quả thăm dò trong các liên hiệp nông dân trong 7 huyện của tỉnh Quảng Đông.[81] Trong bản tóm tắt kết quả, ông viết rằng nông dân "đồng tình với cương lĩnh của Đảng Cộng Sản khi họ không còn lo sợ về vấn đề "xã hội hoá phụ nữ" và họ sẵn sàng hi sinh để bảo vệ giai cấp của mình hoặc ủng hộ chính quyền cách mạng."[82] Có lẽ tiếng Quảng Đông của ông lúc ấy không lưu loát để có thể tham gia trực tiếp vào công việc thống kê; ông đã gửi các báo cáo đến Nông Dân Quốc Tế bằng tiếng Anh. Một lá thư khác viết vào ngày 3 tháng Chạp cho thấy rằng Hồ chủ yếu chỉ chuyển thông tin từ những người tổ chức chứ không tự tay thu thập chúng. Hồ giảI thích rằng những đồng chí Trung Quốc đã khuyên ông không nên có quan hệ chính thức với Ban Chấp Hành Quốc Dân Đảng trong tư cách đại diện của Nông Dân Quốc Tế, điều mà trước đây Nông Dân Quốc Tế đã khuyến khích. Ông viết: "những đồng chí của chúng tôi cho rằng việc ấy không cần thiết, vì tôi có thể thu thập mọi thông tin liên quan đến vấn đề nông dân qua các đồng chí trong Đảng Cộng Sản. (Mặc dù vị chủ tịch Hội Đồng Nông Dân Sự Vụ là một người Quốc Dân Đảng, mọi công tác - tổ chức cũng như tuyên truyền - đều được thực hiện bởi các đồng chí của ta.)[83]

Sáng sớm ngày 20 tháng 3 1926 Tưởng Giới Thạch đưa quân đánh úp các chính uỷ cộng sản tại Hoàng Phố, bắt giữ khoảng 50 người.[84] Các cố vấn Nga tại Quảng Châu đều bị quản thúc tại gia. Để đối phó với cuộc đảo chánh, Borodin đã ngầm thoả hiệp với những đòi hỏi của Ban Chấp Hành Quốc Dân Đảng, trong cuộc họp vào tháng 5 đã đưa ra những yêu sách nhằm giới hạn vai trò của cộng sản trong cơ chế Quốc Dân Đảng. Kể từ đấy, những đảng viên cộng sản chỉ được phép chiếm một phần ba tổng số thành viên của đảng uỷ Quốc Dân Đảng, đồng thời đảng viên cộng sản không được đứng đầu các bộ trong chính phủ.[85] Mặc dù mặt trận thống nhất vẫn tiếp tục với hậu thuẫn của người Nga cho đến mùa hè 1927, sự kiện ngày 20 tháng 3 đã đánh dấu buổi đầu thoái trào của phong trào nông dân tại Quảng Đông, cho đến khi Sô Viết Hải-Lục Phong được thành lập vào cuối năm 1927. Theo báo cáo của Hồ Chí Minh với Nông Dân Quốc Tế vào tháng 6 1927 thì Quốc Dân Đảng đã ngưng giúp đỡ các nông hội khi họ đã thu thập được Quảng Đông dưới trướng của mình.[86] Các lực lượng quân sự của nông dân không đủ mạnh để chống lại lực lượng dân quân địa chủ nếu không có sự giúp đỡ của quân đội Quốc Dân Đảng.[87] Sau này Hồ Chí Minh cho rằng
người Anh và người Pháp đã giúp trang bị cho những lực lượng dân quân địa chủ này.[88] Vào mùa xuân 1926, khi kế hoạch Bắc Phạt đang được soạn thảo, Mao Trạch Đông nắm quyền lãnh đạo Học Viện Đào Tạo Phong Trào Nông Dân và mặt trận thống nhất bắt đầu lưu tâm đến tầng lớp nông dân tại Hồ Nam và Hồ Bắc.

Đến tháng 3 1926 Nông Dân Quốc Tế thình lình ngừng quan tâm đến những công việc của Hồ Chí Minh. Ông viết cho họ một thư ngắn bằng tiếng Pháp vào ngày 8 tháng 3 1926 hỏi họ vì sao những lá thư ông gửi cho họ đều không được trả lời, và vì sao họ không gửi tiếp những tài liệu tuyên truyền.[89] Ông cũng đã chuyển thư từ của họ đến Java, Manila, Ấn Độ và những nơi khác. Một phần nguyên do nằm trong thư trả lời không đề ngày của họ, họ trả lời rằng đã nhận được thư của ông. Nhưng vì họ bắt đầu trả lời với một thành viên mới trong Ban Bí Thư, đồng chí Hồ Hán Dân, về tình hình nông dân tại các tỉnh Sơn Đông và Vân Nam.[90] Thì ra là Hồ Hán Dân đã đến Moscow sau khi bị trục xuất khỏi Quảng Châu và đã được bầu vào hàng ngũ lãnh đạo của Nông Dân Quốc Tế. Tại Đại Hội 6 của Ban Chấp Hành QTCS vào tháng 3 1926 ông được mời làm thành viên danh dự.[91] Liên minh Stalin-Bukharin tại Moscow đoan chắc rằng Quốc Dân Đảng, lực lượng cách mạng nòng cốt tại châu Á, đã là nguyên nhân của nhiều sự kiện khó lường.[92] (Bukharin đã cách chức lãnh đạo QTCS của nhân vật cánh tả Zinoviev vào tháng 10 1926). Người bị cho là có trách nhiệm trong cái chết Liêu Trọng Khải, người bảo vệ phong trào nông dân Quảng Đông, bổng chốc trở thành đại diện chính của Nông Dân Quốc Tế ở Trung Quốc. Hồ Chí Minh lúc này bị cho là quá gần gũi với những người cộng sản hoặc đơn giản là không còn quan trọng để làm việc nữa. Sau tháng 3 1926, không có tài liệu về việc liên lạc giữa Hồ và Nông Dân Quốc Tế cho đế khi ông quay lại Moscow vào tháng 6 1927.


Sự phát triển của Thanh Niên

Trông chờ khởi nghĩa. Tình hình tiến triển trong việc kết nối với quốc nội của Hồ Chí Minh chắc hẳn đã bị chậm lại vì căng thẳng chính trị bên trong chính quyền Quảng Châu cũng như những khó khăn tài chính của ông. Đến tháng 4 1926, mặc dù Lâm Đức Thụ báo cáo rằng đã có 30 thanh niên Việt Nam đang nghiên cứu chính trị và khoa học quân sự tại Đại Học Quảng Châu và Học Viện Quân Sự Hoàng Phố, đã không có một dấu hiệu của nhóm học viên thứ hai của Thanh Niên Hội. [93] Đội ngũ cốt cán của Thanh Niên tạm thời giải tán: Lê Hồng Sơn trở thành phái viên chính trị cho Tướng Trương Phát Khuê (Zhang Fakui - ND) tại đảo Hải Nam. Vào tháng 6 Hồ Tùng Mậu đi với một đồng chí mang tên "ông Sáu" (Lưu Hồng Khải hoặc Võ Tùng) đến Xiêm với hi vọng tổ chức một hội tương tế.[94] Lê Hồng Phong, Tu Rue và Đặng Tu My không bao lâu đã đi Moscow để học thêm về quân sư[95] Trong lúc đó, mối giao hảo giữa Hồ và Nguyễn Hải Thần đang bị đổ vỡ. Vào tháng 4 1926 Thần bị Lâm Đức Thụ cáo buộc là đã lạm dụng ngân quỹ của phân bộ Việt Nam trong Hội Liên Hiệp Các Dân Tộc Bị Áp Bức.[96] Hội LHCDTBAB vừa tái tổ chức trong tháng 3, có lẽ vì cái chết của Liêu Trọng Khải và hành động của Tưởng Giới Thạch nhằm giới hạn quyền lực của những người cộng sản. Một bài viết trong báo chí Trung Quốc về việc tái tổ chức có đề cập đến việc hội này đang bắt đầu một đợt kết nạp thành viên mới.[97] Sở Liêm Phóng chuyển tin tức này cùng với một phụ chú đến cho Văn Phòng Quản Lý Địa Phương, văn phòng này cho rằng việc những người Đông Dương đến Quảng Châu "có thể không liên quan" đến việc tái tổ chức của Hội LHCDTBAB. Những người lưu vong mới này có thể nằm trong số 30 người Việt đang theo học tại Hoàng Phố.

Lâm Đức Thụ báo với Sở Liêm Phóng rằng Nguyễn Hải Thần đang hiềm tị về ảnh hưởng của Hồ Chí Minh trong tổ chức những người cách mạng Việt Nam tại Quảng Châu. "Nguyễn Ái Quốc đang chuẩn bị cho cuộc cách mạng một cách có phương pháp. Ông ta chỉ ra tay khi thời điểm chín muồi. Nguyễn Hải Thần lại theo đuổi phương pháp bạo động. Ông ta muốn thực hiện nó ngay lập tức," người chỉ điểm này nói.[98] Trong một buổi báo cáo khác, Lâm Đức Thụ phân tích rõ hơn về con người Hồ Chí Minh: "Nguyễn Ái Quốc vẫn còn dính líu đến Cơ Quan Thông Tin của USSR. Ông ta không tiết lộ là mình làm gì ở đó... ông ta vô cùng đa nghi và chỉ hé lộ với bạn bè những gì cần thiết nhất...Hầu hết những gì ông làm đều theo tư tưởng của ông. Những người như Hồng Sơn đề nghị ông ta mua một mảnh đất ở Hải Nam để mở trường, nhưng ông ta bảo rằng ông sẽ chẳng bao giờ bỏ tiền ra mua đất và vì nguyên thuỷ đất đai là của mọi người nên nó nên để cho mọi người sử dụng một cách tự do."[99]

Cả nhóm Việt kiều tại Quảng Châu và những người ái quốc trong nước đều có một trông đợi là "Lý Thụy" sẽ sớm phát động một cuộc khởi nghĩa vũ trang. Đến cuối tháng 3 1926 phản kháng chính trị tại Việt Nam đã đạt lên mức cao nhất kể từ phong trào chống thuế năm 1908. Cái chết của nhà cải cách Phan Chu Trinh, người đã từng dìu dắt Hồ Chí Minh, vào ngày 23 tháng 3 đã dẫn đến một đám tang khổng lồ trên toàn cõi Việt Nam. Những lãnh đạo sinh viên giúp tổ chức những cuộc tuần hành cho đám tang và lễ tưởng niệm đã bị đuổi học trên khắp đất nước - đối với mọi người đây là cơ hội mà chính quyền thuộc địa Pháp đã vô tình đẩy họ vào con đường hoạt động bất hợp pháp. Nhà báo cách tân và chống Pháp Nguyễn An Ninh bị bắt ngày 24 tháng 3. Nối tiếp cuộc biểu tình của quần chúng chống lại bản án của Phan Bội Châu vào cuối năm 1925, đám tang Phan Chu Trinh và việc Nguyễn An Ninh bị bắt giữ đã tạo thành một bầu không khí sôi sục.

Trong lúc đó tại Quảng Châu người Nga và Tưởng Giới Thạch đã quyết định dẹp qua mọi khác biệt để cùng nhau tiến hành chiến dịch "Bắc Phạt" nhằm nới rộng biên giới của chính phủ quốc dân đến phía bắc của sông Dương Tử (Yangtze - ND). Một số những người kháng chiến người Việt tin tưởng rằng đây là thời điểm để họ tấn công vào vùng biên giới Đông Dương. Người Pháp bắt đầu nhận tin tức mật báo về những kế hoạch hành động quân sự tại vùng biên giới Hoa-Việt trong tháng 7 1926, vào lúc chiến dịch Bắc Phạt của Tưởng Giới Thạch vừa mới bắt đầu. Ngày 13 tháng 7 một bác sĩ và cũng là lãnh sự của Pháp tại Bắc Hải (Pakhoi - ND) đã gửi cho Toàn Quyền tại Hà Nội một bức điện với nội dung như sau:

Một nhà cách mạng Việt Nam có tên là L.Soui - Lý Thụy, bí danh Nguyễn Ái Quốc, hiện là tuỳ viên quân sự của chính phủ Quảng Châu, người này đã tốt nghiệp học viện quân sự ở Moscow, nghe nói đã được chính quyền Quảng Châu bí mật hứa hẹn là sẽ trang bị 1.000 súng trường Nga để thực hiện một tấn công bất ngờ ở biên giới Bắc Kỳ, trong vùng Móng Cái. Người Việt Nam này được cho là đã gửi mật phái viên đến vùng Vạn Sơn (khu vực Nà Lương), nơi đó họ sẽ cung cấp súng cho bọn thổ phỉ.[100]

Một mật thám khác với bí danh "Konstantin", đã báo cáo về Tam Kam Say, người đã cầm đầu một cuộc khởi nghĩa vũ trang năm 1918, cũng sẵn sàng tấn công Hòn Gai, một thị trấn phía bắc Việt Nam. Cùng lúc ấy Konstantin đã báo tin rằng Paul Monin, một luật sư Pháp hoạt động chống chính sách thuộc địa ở Sài Gòn, đã đến Quảng Châu để đề nghị người Nga hổ trợ một cuộc nổi dậy (những tài liệu khác của Pháp cho rằng cuộc gặp gỡ này vào khoảng cuối tháng 2 đến 30 tháng 5 1926[101]). Kế hoạch tấn công như sau: ba nghìn lính Trung Quốc do 100 người An Nam dẫn đường sẽ đi thuyền từ Bắc Hải và đổ bộ lên một cảng thuộc Trung Quốc trên bờ biển Nam An Nam. Konstantin, hình như không đột nhập vào được hàng ngũ thân cận của Hồ, cho rằng kế hoạch tấn công đã được Hồ đồng ý.[102] Nhưng trong một báo cáo khác, chắc chắn là của Lâm Đức Thụ, cho thấy rằng Hồ không tin tưởng vào sự đánh giá của Monin và đã từ chối ủng hộ kế hoạch của ông ta.[103] Việc Monin làm việc với đồng nghiệp của Hồ tại Paris là Phan Văn Trường và rất được tầng lớp chống đối tại Sài Gòn nể trọng vẫn không đủ để thuyết phục Hồ đi theo hướng của ông.

Theo mọi nguyên tắc cũ của tầng lớp phản đế người Việt thì đây là thời điểm chín muồi cho hành động quân sự. Những truyền thống nổi dậy này dường như đã cổ vũ cho việc tạo dựng một huyền thoại về Lý Thụy như là một vị tổng tư lệnh. Nhưng những gì Hồ đang thực sự xây dựng thì không có gì ngoại trừ những hạt nhân còn rất nhỏ bé của đảng cộng sản Việt Nam tương lai. Sở Liêm Phóng tin rằng vào năm 1926 ông đã từ chối một đề nghị giúp đỡ rất lớn của những người Sô Viết để phát động một cuộc tấn công vũ trang, vì ông xét thấy những người khởi nghĩa Việt Nam vẫn chưa sẵn sàng.[104] Trên thực tế, kế hoạch xây dựng một phong trào độc lập do cộng sản lãnh đạo của ông chỉ mới vừa khởi sự.

Chi bộ Nam Kỳ-Cambốtcủa Uỷ Ban Nam Dương. Rất có thể là một số tổ chức tại Việt Nam đang chuẩn bị những cuộc khởi nghĩa bạo lực chống lại quyền lực của người Pháp trong năm 1926. (Quan niệm về cuộc khởi nghĩa không tránh khỏi cũng xuất hiện trong những nhóm cánh tả ở Indonesia trong mùa hè năm đó - nhưng cuộc nổi dậy ở đó chỉ chính thức bắt đầu vào tháng 11.)[105] Việc thiết lập một chi bộ của ĐCS Trung Quốc bắt đầu vào năm 1926 có thể là một nguyên nhân dẫn đến bức tranh khó hiểu này. Vào tháng 2 1927 tình báo Pháp nhận được báo cáo từ một nguồn tin được cho là "digne de foi" (đáng tin cậy - ND) trong đó nói rằng chi bộ "Nam Kỳ - Cam Bốt" của Uỷ Ban Lâm Thời Nam Dương thuộc ĐCS Trung Quốc có căn cứ tại Nam Dương (Nanyang - ND), Singapore - đã bước vào hoạt động và đang bắt đầu tổ chức tại Bắc Kỳ. Chi Uỷ Nam Dương hay là Uỷ Ban Lâm Thời đã được những Hoa kiều thành lập vào năm 1926 như là một bộ phận của ĐCS Trung Quốc; nó được tin rằng đã có thành viên tại những thuộc địa của Anh, Hoà Lan, Pháp cũng như ở Siêm và Miến Điện.[106] Nguồn tin của người Pháp đã căn cứ trên một báo cáo của "Samoyan" (có lẽ là Semaun) định trình bày tại Đại Hội Mở Rộng của Ban Chấp Hành QTCS. Semaun được nhận diện là phái viên cho Đông Dương, Nam Dương và Quần đảo Mã Lai.[107] Tôi đã không tìm được bằng chứng vững chắc về mẫu tin này trong hồ sơ của Ban Bí Thư Cục Đông Phương hoặc của Đại Hội Mở Rộng lần 7 Ban Chấp Hành QTCS được tổ chức vào tháng 11 1926, thời gian thích hợp nhất của bản báo cáo này. (Trong giai đoạn 1930-1 có vài tài liệu về tổ chức "Nam Kỳ - Cam Bốt" trong văn khố QTCS.) Dù thế, một báo cáo tóm tắt của Sở Liêm Phóng về những diễn biến chính trị ở Đông Dương trong năm 1926 và đầu năm 1927 cho thấy đã có rất nhiều công đoàn công nhân gốc Hoa hoạt động tại miền nam Việt Nam và đã có quan hệ với Quảng Châu.[108] Cũng trong thời gian ấy, những tổ chức bạo lực bí mật đang được sự ủng hộ của Quốc Dân Đảng ở Sài Gòn.[109] Là thành phần của mặt trận thống nhất, những công đoàn và tổ chức này có thể đã bao gồm những người cộng sản nòng cốt. Đến giữa năm 1927 những người gốc Hoa tại Nam Việt Nam đã giúp đưa những thành viên mới người Việt tham gia các lớp đào tạo ở Quảng Châu dưới vỏ bọc Quốc Dân Đảng.[110]

Semaun nói rằng ĐCS Trung Quốc đang hoạt động trong năm huyện của Đông Dương thuộc Pháp (có lẽ là năm khu vực trong Liên Hiệp Đông Dương) và đảng cộng sản Nam Kỳ "là một tổ chức năng hoạt nhất đang dẫn đầu một phong trào mạnh mẽ trong quần chúng bản xứ." Một sơ đồ đính kèm trong bản báo cáo cho thấy những có những chi bộ Nam Kỳ tại Sài Gòn, Chợ Lớn, Trà Vinh, Sa Đéc, Cà Mau và Thủ Dầu Một. Những chi bộ tại Cambodia đặt tại Kompong Cham, Cratie và Kampot với một chi uỷ gồm 50 thành viên tại Phnom Penh. Một hội nghị bao gồm đại biểu từ Hải Phòng, Hà Nội và Lao Cai dự định tổ chức vào tháng 2 1927 tại Hải Phòng. Những đại biểu này hình như là người gốc Hoa, ví dụ như một người tên "Mông Vĩnh Hội", được xem là một nhà cách mạng nổi bật nhất ở miền Bắc [Việt Nam]. Semaun cũng đề cập đến một tổ chức cách mạng địa phương do người bản xứ thành lập tại Vinh-na Tinh (sic) vào tháng 5 1926, nhưng vẫn chưa thực sự thành hình. Có lẽ ông đang muốn nói về những nổ lực kết nạp thành viên ban đầu của Thanh Niên Hội hoặc của Cách Mạng Đảng sẽ đề cập ở dưới. Có thể hiểu rằng những người quốc gia Việt Nam có liên hệ với tổ chức Nam Kỳ - Cambodia là những người hoạt động mạnh mẽ nhất để khởi xướng khởi nghĩa vũ trang trong thời gian 1926. Kế hoạch của Monin có thể là một phối hợp với những phần tử trong nhóm này - Những người Hoa tại Trà Vinh có tiếng là đã đóng góp rất nhiều trong công việc báo chí của ông.[111] Ngoài ra còn có một tổ chức tại Bắc Ninh do Trần Huy Liệu của Việt Nam Dân Quốc, đảng này đang dự định khởi nghĩa vào cuối năm 1926 (kế hoạch của họ bị lộ vì bom tự chế của họ đã nổ sớm[112]). Đến cuối năm 1927 họ đã trở thành một trong những thành viên của Việt Nam Quốc Dân Đảng.[113]

Khoá đào tạo thứ hai và thứ ba của Thanh Niên. Không thể xác định sự liên hệ, nếu có, của Hồ Chí Minh và Thanh Niên Hội với ĐCS/Quốc Dân Đảng Trung Quốc bên trong Việt Nam. Dù thế, hồ sơ lưu trữ của QTCS và tài liệu của Pháp cho thấy Hồ đã cố gắng tránh xa những cuộc mạo hiểm vũ trang. Sau khoảng một năm dài không liên lạc với Cục Đông Phương , vào ngày 3 tháng 6 1926 Hồ đã viết thư cho QTCS báo rằng công việc của ông tiến triển rất chậm vì thiếu tài chính.[114] Ông đã phải xoay trở bằng tiền lương của mình và một số đồng chí khác cùng với một số trợ cấp từ người Nga. Một nguồn tài chính khác của Thanh Niên có thể là từ Nông Dân Quốc Tế cung cấp qua Borodin cho những công tác của Hồ trong phong trào nông dân. Số tiền này ít nhất đã trợ giúp cho các học viên đang theo học tại Học Viện Đào Tạo Phong Trào Nông Dân.[115] Vào thời điểm này có thể Hồ cũng đã nhận được quyên góp từ những người yêu nước giàu có ở miền nam Việt Nam. Một ghi chú của Sở Liêm Phóng ngày 12 tháng 8 1927 viết rằng Diệp Văn Kỳ, một chủ báo tại Sài Gòn và cũng là học trò của thân phụ Hồ Chí Minh, đã thường xuyên gửi tiền đến một trung gian tại Quảng Châu mỗi khi Hồ Chí Minh yêu cầu ông đóng góp.[116] Sớm hơn nữa là trong năm 1925 Lâm Đức Thụ báo cáo rằng Hồ đã nghĩ đến việc tìm đến người bạn cũ ở Paris là Khánh Ký (Nguyễn Đình Khánh - ND), giờ là một nhà nhiếp ảnh tại Sài Gòn để xin tiền. Hồ cũng đề cập đến Bùi Quang Chiêu, nhà lãnh đạo giàu có của Đảng Lập Hiến, như là một người bảo trợ đầy tiềm năng.[117] Nếu nguồn tài chính từ miền nam đã thực sự lưu chuyển vào năm 1926, rõ ràng là Hồ nghĩ rằng không dại gì tiết lộ điều ấy cho người Nga biết.

Hồ tường thuật trong báo cáo tháng 6 1926 rằng kể từ khi đặt chân đến Quảng Châu, ông đã thực hiện được những việc sau cho phong trào cách mạng Đông Dương: (1) thành lập một hội bí mật; (2) thành lập một tổ chức nông hội của những người Việt sống tại Xiêm; (3) lựa chọn một nhóm "tiên phong" từ con em của nông dân và công nhân (một số trong họ đến từ Xiêm) để đào tạo tại Quảng Châu; (4) tổ chức một nhóm phụ nữ cách mạng gồm 12 người; và (5) thành lập một lớp tuyên truyền ở Quảng Châu cho những học viên được bí mật đưa sang từ Việt Nam và Xiêm. Đến lúc này, lịch sử của Thanh Niên Hội mà ta đã biết được từ những hồi ký của các nhân vật người Việt khác nhau đã trùng với những gì chúng ta rút ra từ báo cáo của Hồ.[118] Hồ gửi báo cáo này khi ông chuẩn bị cho nhóm học viên thứ hai đến Quảng Châu cho khoá đào tạo bắt đầu vào tháng 9 1926. Khoá thứ nhất, Hồ báo cáo, có 10 học viên và ông hy vọng sẽ có khoảng 30 người đến học khoá thứ hai.

Những người tham dự khoá học thứ hai của Thanh Niên Hội rời Việt Nam để đi Quảng Châu trong tháng 7 và 8 1926. Có ít nhất 3 người trong số họ xuất thân từ một tổ chức chính trị thành lập tại Vinh do những cựu binh của thời kỳ 1907-8 từng bị giam cầm tại Côn Đảo (Poulo Condor - ND). Khi vừa thành lập vào năm 1925, nhóm này lấy tên là Phục Quốc, dựa trên tổ chức của Phan Bội Châu. Được đổi thành Việt Nam Cách Mạng Đảng vào năm 1926, rồi thành Tân Việt vào năm 1928. Tổ chức này, bắt nguồn từ vùng quê của Hồ, bao gồm đa phần là những trí thức Nho học và giáo viên trẻ, đã cung cấp những nhân vật lãnh đạo quan trọng nhất cho đảng cộng sản trong những ngày đầu thành lập. Lãnh tụ chính thức đầu tiên khi đảng cộng sản thành lập vào năm 1930 là Trần Phú, một giáo viên và là một trong những thành viên sớm nhất của Phục Quốc. Một thành viên kỳ cựu khác là Hà Huy Tập, một giáo viên từ Hà Tĩnh, đã trở thành người đứng đầu không chính thức của đảng trong thời gian 1935 đến tháng 3 1938. Tại sao các thành viên Phục Quốc được chọn lựa vào đội ngũ thân tín nhất của Thanh Niên là một câu hỏi lý thú. Đó là sự tổng hợp của quan hệ gia đình thân cận, với cả hai nền học vấn Nho và Pháp, cùng với tâm lý bất mãn đối với chế độ thuộc địa làm họ trở thành những thành viên giá trị của Hồ. Ví dụ như Trần Phú, xuất thân từ một gia đình đã chịu nhiều đau khổ dưới sự cai trị của Pháp. Ông là con của một vị quan mà khi đang tại chức tại Quảng Ngãi vào năm 1908 đã tự sát thay vì bắt buộc nông dân địa phương hợp tác với lính Pháp ruồng bố những người chống thuế.[119] Những thành viên trẻ hơn của Phục Quốc là những thanh niên bất mãn từ những vùng quê nghèo khổ, đã sẵn sàng đón nhận những tư tưởng cách mạng mà Hồ mang đến. Không còn nghi ngờ gì về ưu thế của những thành viên Thanh Niên kỳ cựu xuất thân từ phía bắc của miền trung Việt Nam, kể cả uỷ ban trung ương từ Quảng Châu, đã tạo thành một tổ chức giống như là một hội đồng hương.

Những thành viên mới được Lê Duy Diễm đưa đến Quảng Châu. Lê Duy Diễm là bạn học cũ của Trần Phú, xuất thân từ Hà Tĩnh. Vào nửa cuối năm 1925, ông được Đảng Phục Quốc giao cho nhiệm vụ liên lạc với những người Việt tại Quảng Châu để bàn về phối hợp hành động. Trước khi quay lại Vinh ông đã gia nhập Thanh Niên Hội.[120] Việc này cũng xảy ra với hầu hết các thành viên của Phục Quốc/Cách Mạng Đảng sau khi qua Quảng Châu: Trần Phú và học trò của mình là Nguyễn Ngọc Ba quay về sau ba tháng học tập và đã trở thành thành viên của Thanh Niên. (Như ta đã thấy ở trên, Lê Hồng Sơn đã đưa Nguyễn Ngọc Ba sang học khoá thứ nhất; có lẽ ông đã tham dự cả hai khoá học.) Trong chuyện do Phan Trọng Quảng kể về chuyến đi, có những người khác từ miền trung Việt Nam bao gồm Nguyễn Văn Lợi, Lê Mạnh Trinh, Trần Văn Đắc, Nguyễn Văn Khang và Quảng. Hai thành viên của Phục Quốc là Tôn Quang Phiệt và Hoàng Văn Tùng đã không đến được Quảng Châu vì họ đã bị bắt khi bị tuột lại phía sau tại biên giới. Mãi cho đến tháng 9, sau khi đã di chuyển bằng đường thuỷ, xe lửa và đi bộ với nhiều tuần lễ chờ đợi ở mỗi trạm, cả nhóm đã đến được trụ sở của Thanh Niên tại Quảng Châu. Ở đó họ đã gặp những học viên đến từ Bắc Kỳ và Xiêm. Tất cả có khoảng 20 học viên đã đến Quảng Châu, trong đó có cả vị thủ tướng tương lai là Phạm Văn Đồng, ông bị bệnh và phải tham gia khoá học sau.[121]

Những bài giảng căn bản với những chủ đề bao gồm từ sự tiến hoá của loài người, địa lý thế giới và lịch sử Việt Nam đến lý luận Marxist-Leninist, Thuyết Tam Dân của Tôn Dật Tiên và thuyết đấu tranh bất bạo động của Gandhi do Hồ Chí Minh đứng lớp. Những giảng viên bên ngoài đôi khi cũng được thỉnh giảng. Phan Trọng Quang nhớ có cả Chu Ân Lai, Bành Bái và Hà Hương Ngưng (He Xiangning - ND), vợ goá của Liêu Trọng Khải. Borodin và một phụ nữ Nga cũng đến thuyết giảng. Vào lúc bế mạc của khoá giảng vào tháng 11, Phan Trọng Quang kể rằng có năm học viên được bí mật chọn để kết nạp vào Việt Nam Thanh Niên Cộng Sản Đoàn. Năm người này là Trần Phú, Nguyễn Văn Lợi, Nguyễn Ngọc Ba, Phan Trọng Bình và bản thân Phan Trọng Quang, tất cả họ đều là người Trung Kỳ.

Khoá đào tạo thứ 3 bắt đầu vào cuối năm 1926 và chấm dứt sau Tết Nguyên Đán 1927. Hoàng Văn Hoan, một thành viên khác từ Nghệ An sau này đã trở thành nhân vật quan trọng trong đảng cộng sản, đã viết trong hồi ký của mình rằng đã có thêm 20 học viên mới, một số trong họ vừa tham gia vụ bãi khoá tại Nam Định.[122] Trong nhóm miền bắc này có Đỗ Ngọc Du, Dương Hạc Đính, và Nguyễn Đức Cảnh sau này đã trở thành những người đứng đầu của Thanh Niên Hội tại Bắc Kỳ.[123] (Hoan không nhắc đến số học sinh từ trường Bảo Hộ Lycée, còn có tên là Trường Bưởi ở Hà Nội. Đỗ Ngọc Du và một số sau này là học viên của Thanh Niên đã bị đuổi khỏi trường này vào năm 1926[124]). Trong những giảng viên Hoan có kể đến Bành Bái và Lưu Thiếu Kỳ (Liu Shaoqi - ND), chuyên giảng về phong trào công nhân. Thường thì Hồ Tùng Mậu, Lê Hồng Sơn hoặc Lâm Đức Thụ thông dịch cho những giảng viên Trung Quốc, nhưng Hồ Chí Minh có thể thay thế hẳn nếu họ vắng mặt, Hoan kể.[125] Ông cũng nhớ lại những vai diễn trong các vở kịch. Hồ, được những học viên biết đến với cái tên là Vương, thường đóng vai công nhân hoặc nông dân.[126] Hoan không đề cập đến bao nhiêu học viên đã được kết nạp vào đội ngũ cốt cán của tổ chức cộng sản, nhưng nếu con số này cũng ít như ở khoá học trước thì số thành viên cộng sản trong Thanh Niên Hội vẫn còn rất nhỏ. Huỳnh Kim Khánh (nhà sử học - ND) cho biết con số vào khoảng 24 thành viên của Thanh Niên Cộng Sản tính đến tháng 5 1929, nhưng con số này rõ ràng là chỉ đề cập đến số thành viên đang sống tại Trung Quốc lúc ấy.[127]

Tổng số bao nhiêu người Việt đã kinh qua trường đào tạo của Thanh Niên thì khó mà xác định được. Tôi chỉ đã tìm thấy bằng chứng chắc chắn của 3 đợt học viên chính thức; một nhóm thứ 4 đang sắp xếp tại Quảng Châu vào tháng 3 1927 nhưng bị gián đoạn vì cuộc đảo chính tháng 4.[128] Hồ báo cáo với QTCS khi ông quay lại Moscow vào tháng 6 1927 rằng 75 thanh niên Việt Nam đã được đào tạo tại "trường tuyên truyền" của ông ở Quảng Châu.[129] Hồi ký của một người Việt viết năm 1992 lại cho rằng có đến 10 khoá học với tổng cộng khoảng 250 - 300 học viên.[130] Một bài viết của cùng tác giả trên vào năm 1990, đã trích dẫn một tài liệu từ Viện Lịch Sử Quảng Đông rằng có tổng cộng trên 300 người Việt đã tham gia vào những hoạt động cách mạng khác nhau tại Quảng Đông từ 1924 đến 1927.[131] Con số này bao gồm cả những người không gia nhập đảng cộng sản. Con số này cũng có thể bao gồm những học sinh theo học các khoá học chính thức vào cuối năm 1927 đến 1928, sau khi Hồ đã rời khỏi Trung Quốc. Hơn nữa, có thể nó phản ánh thực tế là những lớp đào tạo trên có nhiều cấp bậc và độ dài khác nhau. Ví dụ như chúng ta không biết được đã có những lớp dành riêng cho phụ nữ hoặc những người "tiên phong" mà Hồ đã kết nạp hay không, hoặc là cho những công nhân có học vấn thấp như Nguyễn Lương Bằng. Những nhà sử học Hà Nội dạo gần đây đã cẩn trọng hơn trong việc nâng cao tổng số học viên của Thanh Niên. Họ không thể xác nhận được con số 75 người mà Hồ Chí Minh đưa ra trong tháng 4 1927, ngay cả nếu tính luôn những học viên được biết là đã theo học các lớp sau 1927.[132]

Rõ ràng là nhóm Việt kiều đông nhất đã theo học tại Học Viện Hoàng Phố, đến đầu năm 1927 đã có 53 học viên người Việt.[133] (Vào thời điểm này, một bộ phận dạy tiếng Việt đã được thành lập tại Hoàng Phố - trước 1927, những người Việt theo học như người Trung Quốc.[134]) Nhưng chúng ta không biết bao nhiêu trong bọn họ đã học được đầy đủ các lớp của Thanh Niên. Như Lâm Đức Thụ đã chỉ ra, "Nguyễn Ái Quốc chỉ thâu nhận những học viên thận trọng nhất và chỉ giảng dạy đầy đủ cho những ai dám hy sinh cho lý tưởng cách mạng."[135] Dường như những học viên miền Bắc theo học những lớp đào tạo của ông đã không trở thành đảng viên cộng sản nhiều như những người Trung Kỳ, có thể vì họ được thâu nhận bởi Nguyễn Hải Thần hoặc Lâm Đức Thụ.


Một số giáo án của Thanh Niên được in trong tập Đường Kách Mệnh năm 1927, có thể là do Hồ thu thập trong thời gian ở Nga, và có nội dung tương tự như những bài giảng chính trị của các chính uỷ cộng sản tại Học Viện Hoàng Phố trước khi họ bị loại khỏi trường vào tháng 3 1926. Tập tài liệu này trở thành thánh kinh của những thành viên cộng sản trẻ trong giai đoạn 1926 và 1927, Hà Huy Tập đã viết vào năm 1932. "Hầu như chúng tôi đã học thuộc lòng," ông kể.[136] Nó bao gồm những định nghĩa về các hình thức cách mạng, những phong trào quốc tế, công đoàn, nông hội và hợp tác xã. Nó thấm nhuần khái niệm về hai giai đoạn cách mạng như đã vạch ra trong Luận Cương về Những Vấn Đề Dân Tộc và Thuộc Địa của Lenin. Tập tài liệu đã định nghĩa hai giai đoạn cách mạng này là cách mạng dân tộc và cách mạng thế giới. Trong khi cách mạng dân tộc không đề cập đến vấn đề phân biệt giai cấp, cách mạng thế giới sẽ do giai cấp nông dân và công nhân lãnh đạo và sẽ dẹp bỏ chủ nghĩa tư bản trên thế giới.[137] Đến năm 1932 thì khái niệm hai giai đoạn cách mạng đã bị Quốc Tế Cộng Sản loại bỏ và Hà Huy Tập cũng đã viết bài lên án tính ngây thơ và khó hiểu của cương lĩnh Thanh Niên. Cụ thể là ông đã phê phán lý luận cho rằng: "trong giai đoạn đấu tranh phản đế, ta phải liên kết với mọi tầng lớp". "Lý luận kiểu này chẳng có gì quan trọng hơn là sự thoả hiệp giai cấp... " Ông nói.[138]

Đến tháng 2 1927 công việc tuyển người và đào tạo của Hồ cuối cùng đã có tiến bộ. Thành công của Hồ trong việc chuyển hoá những đảng viên Tâm Tâm Xã đã được dùng làm kiểu mẫu trong quan hệ của ông với Phục Quốc/Cách Mạng Đảng. Bước kế đến là tạo cho Thanh Niên một chỗ dựa chính thức, đó là đạt được sự công nhận từ QTCS, soạn thảo cương lĩnh và tìm kiếm nguồn tài trợ vững vàng. Việc đoàn đại biểu của QTCS đến Quảng Châu vào tháng 2 1927 đã tạo cho Hồ những cơ hội mà ông đang tìm kiếm. Jacques Doriot, một nhà hoạt động về phong trào thanh niên cộng sản mà Hồ đã gặp tại Đại Hội 6 ở Moscow, có mặt trong đoàn cùng với Tom Mann từ Anh Quốc và Earl Browder người Mỹ. Doriot cũng đã trở thành chủ tịch Phân Bộ Thuộc Địa của ĐCS Pháp và cũng là nghị viên Quốc Hội Pháp. Với vai trò là tuyên truyền viên và thông dịch viên, Hồ đã theo phái đoàn thăm viếng Quảng Châu và chiếm được sự ủng hộ của Doriot về những công tác của ông về Việt Nam.[139] Vai trò của Doriot rõ ràng là đã có liên quan đến việc QTCS quyết định thành lập một ban bí thư mới cho Pháp, các thuộc địa của Pháp, Bỉ, Ý và Thụy Sĩ vào tháng 3 1926. Vào thời điểm ấy, nhiệm vụ chủ yếu của việc xây dựng phong trào cộng sản tại Đông Dương đã được chính thức giao cho ĐCS Pháp.[140] Vào ngày 3 tháng 3 1927 Doriot, Hồ (ký tên là Lee) và Volin đại diện cho nhóm cố vấn Nga, đã thảo ra một bản ghi nhớ trong đó đồng ý cho "Lee" đệ trình một yêu cầu ngân sách cho QTCS, trong khi đó Doriot sẽ thảo Luận Cương cho Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đảng cùng với nghị quyết hoạch định những công việc tương lai của tổ chức này.[141]

Doriot đã báo cáo trong một bức thư giải thích cho Cục Đông Phương rằng Thanh Niên Hội đã tạo dựng được những chi bộ trên khắp Việt Nam: một tổ tại nam Kỳ, hai tại Trung Kỳ, sáu tại Bắc Kỳ và bốn tại Xiêm. "Chắc chắn là họ vẫn còn nhiều yếu kém," ông viết: "trước hết là họ không có một cương lĩnh chính thức, thứ hai là khuynh hướng nổi bật của âm mưu bè phái. Hoạt động của họ giống như là một hội kín hơn là một tổ chức quần chúng cách mạng. Ví dụ như hầu hết những thành viên của họ đều nằm tại Quảng Châu. Điều này cho thấy mối liên hệ giữa họ với nhân dân vẫn còn yếu. Dù vậy", ông tiếp tục, "một số đầu mối đã được thiết lập và đã có những cố gắng trong việc xây dựng một tổ chức rộng lớn hơn nhằm vào học sinh, thương nhân và nông dân."[142] Doriot giải thích rằng nghị quyết của ông về hoạt động đảng đã đưa ra những điểm sau: (1) sự cần thiết phải chuyển hoá hội kín thành tổ chức rộng rãi; (2) mở rộng tổ chức đến số đông quần chúng trong nước; (3) tham gia nhiều hơn nữa với tình hình chính trị Việt Nam; và (4) thành lập các công đoàn công nhân, nông hội, hội sinh viên cũng như các hiệp hội cho các thành phần dân chúng khác.[143]

Luận cương của Doriot - dưới dạng một lá thư gửi cho "Thanh Niên Cách Mạng Đông Dương" - cho thấy rõ là ông nhìn Thanh Niên Hội như là một đảng quốc gia với những mục đích tương tự như của Trung Quốc Quốc Dân Đảng: "Nhân dân Đông Dương - như tổ chức các bạn đã tuyên bố - chỉ có thể đi theo con đường duy nhất nếu họ muốn thay đổi tình hình: đó là con đường đấu tranh giành độc lập."[144] Ông nhấn mạnh rằng giai cấp nông dân và công nhân là những lực lượng tiên yếu trong cuộc đấu tranh này. Nhưng ông cũng đã ủng hộ mạnh mẽ cho việc thành lập một mặt trận thống nhất: "Đừng quên rằng dưới sự thống trị của chủ nghĩa đế quốc, tất cả mọi người (công nhân, nông dân, tiểu thương và trí thức), ngoại từ một số rất nhỏ của thành phần đầu cơ trục lợi, đều có quyền lợi trong cuộc đấu tranh chống thực dân. Đừng nên bỏ qua một nỗ lực nào để kêu gọi và tổ chức họ từng ngày trong cuộc tranh đấu này. Đừng nên từ chối bất cứ sự hợp tác nào của họ."[145] Trong suốt bài viết, ông không hề nhắc đến chủ thuyết cộng sản mặc dù đã dẫn ra ví dụ về cuộc cách mạng Nga như là một kiểu mẫu của phong trào phản đế vì nó đã giải phóng nhân dân bị áp bức ra khỏi sự thống trị của Sa Hoàng.[146] Việc QTCS mong muốn uốn nắn Thanh Niên Hội thành một đảng quốc gia cũng đã được nhấn mạnh bằng báo cáo ngày 17 tháng 3 1927 của Lâm Đức Thụ: "Gần đây những người cách mạng Pháp và Trung Quốc đã bắt đầu khuyến khích "les amis" (những người bạn - ND) thành lập một đảng tương tự như đảng quốc gia Trung Quốc, với cương lĩnh, chính sách với những bộ phận tuyên truyền và thông tin rộng khắp. Những quy chế của đảng sẽ được soạn thảo sớm."[147]

Hồ đệ trình ngân sách của năm cho QTCS với tổng số là 40.000 đồng tiền Trung Quốc. Một nửa số tiền này sẽ dùng để trang trải chi phí đi lại và đào tạo tại Quảng Châu cho 100 học viên tương lai. Ngoài ra ông còn yêu cầu 1.500 đồng cho 10 tuyên truyền viên làm việc toàn thời gian trong một năm. Chi phí xuất bản, thông tin, thành lập một cửa tiệm nhỏ để làm vỏ bọc cho việc liên lạc chiếm hết 8.500 đồng. Chi phí vận chuyển 100 học viên khác đến học tại Hoàng Phố tốn khoảng 5.000 đồng nữa. Theo giải thích của Hồ trong ghi chú đính kèm thì Hoàng Phố đã hứa đào tạo 100 người này nếu chi phí đi lại của họ được lo liệu.[148] 5.000 đồng còn lại được dự trữ cho những trường hợp bệnh tật hoặc cấp bách.

Đến tháng 3 1927, với sự hỗ trợ của Doriot và hai nhóm học viên mới đã được đưa về Việt Nam, tổ chức của Hồ Chí Minh xem ra đã có thể tự phát triển. Đã có những thương lượng để chính thức liên kết với đảng Phục Quốc tại trung phần Việt Nam, đảng này từ giữa năm 1926 đã đổi tên thành Cách Mạng Đảng. Hai nguồn tài liệu về việc thương lượng đã mâu thuẫn với nhau về việc này có được theo đuổi thật lòng hay không. Hà Huy Tập đã viết vào năm 1932 ở Moscow rằng Lê Duy Điếm quay về Việt Nam vào tháng 3 1927 với chỉ thị từ Quảng Châu để chuẩn bị cho việc hợp nhất. Điếm tham dự các cuộc họp địa phương của hai đảng tại miền bắc và trung Việt Nam và sau đó là một hội nghị hợp nhất toàn quốc tại Huế vào tháng 7. Tập viết rằng lần đầu tiên cả hai đảng đã nhận được cương lĩnh và quy chế trên giấy tờ, trong đó bao gồm những qui chế cho các công đoàn, nông hội, hội sinh viên và những hiệp hội khác.[149] Tiến triển của những sự kiện có thể là hệ quả hợp lý của việc Doriot đến thăm Quảng Châu. Nhưng mọi việc không trôi chảy như Hồ hy vọng. Theo Hà Huy Tập, hai đảng đã quyết định chấp nhận danh xưng của Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội, vẫn được biết đến như Thanh Niên hoặc VNTNCMĐCH. Hai tổ chức sẽ thực hiện việc thống nhất từ trên xuống, hợp nhất tất cả những tổ đảng dưới một uỷ ban trung ương lâm thời. Các chi uỷ lâm thời cũng đã được thành lập tại miền bắc và miền trung, việc còn lại là thành lập một chi uỷ lâm thời Nam Kỳ. Nhưng những thành viên của Thanh Niên từ miền Nam, vì không tham dự được hội nghị toàn quốc ở Huế, đã không chịu thừa nhận quyết định của hội nghị tháng 7. Đến thời điểm sau tháng 7 1927, Hà Huy Tập viết rằng miền nam đã có số thành viên Thanh Niên đông nhất trong cả nước. Đây là một thay đổi lớn so với tình trạng đầu năm 1927, khi Doriot báo cáo là chỉ có một chi bộ Thanh Niên thành lập tại Nam Kỳ, và đã cho thấy nỗ lực xây dựng tổ chức này thành một đảng quần chúng. Tập tự nhận rằng sau khi bị đuổi việc dạy học ở Vinh, ông đã vào Sài Gòn vào tháng 3 1927 để khởi sự những công tác chính trị như tổ chức các lớp học buổi tối cho công nhân.[150] Một nhóm khoảng 10 người lưu vong từ Nam Kỳ hoặc Trung Kỳ, chủ yếu là dân lao động, đã đến Quảng Châu vào tháng 5 hoặc đầu tháng 6 1927, theo lời của Lâm Đức Thụ[151] Nhóm này có lẽ bao gồm Tôn Đức Thắng, một nhà tổ chức công đoàn và chủ tịch tương lai của Bắc Việt Nam. Ông đã từ Quảng Châu về Nam Kỳ vào khoảng nửa sau năm ấy.[152] Như ta đã thấy, cũng có một nhóm 9 người miền nam được sự bảo trợ của Quốc Dân Đảng đã đến Quảng Châu vào tháng 7. Sự phát triển của Thanh Niên tại miền nam có lẽ là do phối hợp của tổ chức Nam Kỳ - Cam Bốt trực thuộc ĐCS Trung Quốc. Tài liệu của Việt Nam cho rằng Tôn Đức Thắng đã làm công tác tổ chức công nhân Sài Gòn từ 1925, vì thế rất có thể là ông đã làm việc với uỷ ban nội thành của Trung Quốc nàỵ[153]

Một bằng chứng khác cho thấy Thanh Niên đã có nỗ lực trong việc cắm rễ vào miền nam Việt Nam vào năm 1927. Hà Huy Giáp, em của Hà Huy Tập, nhớ lại trong hồi ký của mình rằng ông đã dời vào Sài Gòn vào năm 1926 để tìm đường đi Pháp. Nhưng vào đầu năm 1927, Nguyễn Văn Lợi và Phan Trọng Bình, hai thành viên của Thanh Niên Cộng Sản từ khoá đào tạo thứ hai về đến Sài Gòn và đã thuyết phục ông ở lại làm việc cho Thanh Niên. Hai học viên từ Quảng Châu này lưu lại miền nam và làm nghề giáo.[154] Giáp cũng cho thấy mối quan hệ rất quan trọng giữa những nhà hoạt động miền nam và miền trung:ông cho rằng Nguyễn An Ninh bị giam tại Sài Gòn vào năm 1926 cùng với Tú Kiên, một trong những tù nhân Côn Đảo đã tham gia vào âm mưu thành lập đảng Phục Quốc năm 1818. Giáp kể rằng cả hai người đều theo đuổi những tư tưởng của Hồ Chí Minh. Theo lời Giáp thì Nguyễn An Ninh đã bàn giao "nhiệm vụ" lại cho Tú Kiên vì Tú Kiên ra tù trước. Tú Kiên ra lại Vinh và được Lê Huân, một bạn tù Côn Đảo ngày xưa, chính thức kết nạp vào Cách Mạng Đảng. Sau đó ông quay lại miền nam, với bề ngoài là tìm kiếm thêm thành viên cho Cách Mạng Đảng, nhưng có thể đã bí mật làm việc cho Thanh Niên.[155] Một ghi chú của Sở Liêm Phóng vào tháng 5 1928 đã nói về Tú Kiên (Nguyễn Đình Kiên) như là một liên lạc viên cho người Việt tại Quảng Châu và Sài Gòn.[156] Khi ông bị bắt lại vào năm 1929, người Pháp đã tìm thấy hình của Marx và Lenin trong nhà ông.

Những cuộc hợp nhất đảng phái khác có thể đã được khởi sự từ tháng 3 theo đề nghị của Doriot nhằm tăng số lượng thành viên của Thanh Niên - Ví dụ như một số thành viên của "Đảng Thanh Niên" (còn có tên là Jeune Annam (Thanh Niên An Nam - ND)) thành lập vào tháng 3 1926, đã trở thành chi nhánh của Thanh Niên. (Hai tên đảng giống nhau chỉ là do tình cờ.) Vào giữa năm 1926 Hồ Chí Minh đã gửi một báo cáo đầy lạc quan đến QTCS về nhóm Jeune Annam này vì nó đã rất thân cận với Phan Văn Trường và Nguyễn An Ninh, và cả hai người đều đã từng làm việc tại Paris trong Công Đoàn Thuộc Địa Quốc Tế.[157] Sự liên hệ của họ với Thanh Niên, có lẽ là qua ĐCS Pháp thì cần phải tìm hiểu thêm. Nhìn chung, chúng ta không biết được nhiều về sự thật của những tiếp xúc giữa Quảng Châu và những nhà cách mạng miền nam trong giai đoạn này. Nhưng điều chắc chắn là đến giữa năm 1927 những nhà hoạt động từ Trung phần Việt Nam đã bắt đầu xây dựng những tổ chức có liên hệ chính thức với những nhân tố đã có sẵn trong mạng lưới quen biết cá nhân.

Kế hoạch hợp nhất với Thanh Niên vào tháng 7 1927 đã gây nên những xáo trộn trong Cách Mạng Đảng: theo Hà Huy Tập thì mãi đến tháng 7 1928 nó vẫn duy trì cái tên Thanh Niên cùng với những quy chế và phương pháp tổ chức.[158] Theo quan điểm của ông thì hai đảng này không mâu thuẫn về nguyên tắc, nhưng bị trì trệ vì những dị biệt cá nhân khi đề cập đến những vấn đề tổ chức.

Một cái nhìn phức tạp hơn về mối quan hệ giữa hai đảng đã được đề cập đến trong hồi ký của Hoàng Đức Thi, một thành viên Cách Mạng Đảng, do Sở Liêm Phóng phát hành vào năm 1933. Ông thừa nhận rằng trong năm 1927, đảng ông đã tiếp thu phương pháp tổ chức kiểu chi bộ theo kiểu mẫu của Thanh Niên, và họ giả vờ như hai đảng đã hoà nhập dưới sự lãnh đạo của uỷ ban trung ương Thanh Niên tại Quảng Châu.[159] Ông giải thích hành vi lập lờ này là nhằm lôi kéo lại những thành viên đã sang học ở Trung Quốc. Nhưng ta có thể ngầm hiểu ông không muốn nói thật về giai đoạn đầy hiểm nguy này trong quá khứ chính trị của mình. Năm 1933 người bạn cũ của ông là Trần Phú đã trong tù tại Sài Gòn, và bản thân Hà Huy Tập một thành viên quan trọng của Cách Mạng Đảng từ năm 1927, đang trên đường trở về từ Moscow và trở thành một thế lực mạnh mẽ trong hàng ngũ lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Đông Dương. Trong khi Hoàng Đức Thi không hoàn toàn chấp nhận việc kết hợp hai đảng nhưng sự tồn tại của nó là có thật. Theo Thi thì sự đổ vỡ của những thảo luận cho việc hợp nhất là do lỗi của các thành viên Thanh Niên vì họ đã phản đối việc hợp nhất những chi bộ địa phương với miền trung và miền bắc.[160] Cả ông và Hà Huy Tập đều đồng ý rằng Vương Thúc Oánh đã đóng vai trò chính trong sự đổ vỡ này.

Tình trạng phức tạp này cũng có thể là do Hồ Chí Minh ưa chuộng chiến lược nắm giữ phong trào từ bên trong. Hà Huy Tập đã kể lại cái mà ông gọi là "những ví dụ điển hình" của việc hợp tác giữa hai đảng: "Đồng chí H. của Thanh Niên cũng là phó bí thư của uỷ ban trung ương Cách Mạng Đảng; đồng chí Nguyễn Sĩ Sách, một đại diện trung gian của uỷ ban trung ương Cách Mạng Đảng, cũng là thành viên của chi bộ Thanh Niên tại Trung Kỳ."[161] Tập không cho biết là bản thân ông có là thành viên lưỡng đảng hay không, mặc dù ông đã nói rõ rằng ông là một người cộng sản (ông cũng ở chung nhà với "một vài thành viên của Chi Uỷ Nam Kỳ của Thanh Niên"). Hồi ký của Hoàng Đức Thi xác nhận là tuy rằng những học viên Thanh Niên không có liên hệ trước đây với Cách Mạng Đảng nhưng họ đã "xin được phục vụ" cho đảng này sau khi từ Quảng Châu trở về.[162] Ta có thể hiểu rằng họ đã làm theo chỉ thị của giới lãnh đạo Thanh Niên ở Trung Quốc.

Sophie Quinn-Judge - Trở ngại ở phía trước trong quan hệ Việt Nam và Trung Quốc

Trở ngại ở phía trước trong quan hệ
Việt Nam và Trung Quốc

Sophie Quinn-Judge


30-04-2010


Sôi sục về sự bất mãn nổi tiếng ở Việt Nam trong các vấn đề lãnh thổ và môi trường là tín hiệu cho một giai đoạn mới trong mối quan hệ cũ giữa Hà Nội và Bắc Kinh, bà Sophie Quinn – Judge viết riêng cho openDemocracy – nhận xét.


Năm 2009, quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc một lần nữa đột nhiên trở thành vấn đề công chúng [quan tâm]. Qua việc đệ trình tuyên bố chủ quyền 80% vùng Biển Đông lên Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển trong tháng 5, Trung Quốc chính thức hóa tham vọng lãnh thổ mà trước đây không phê chuẩn theo luật quốc tế. Việc đòi hỏi này này đặt Việt Nam vào một vị trí khó xử: hoặc Việt Nam phải chấp nhận sự thống trị của Trung Quốc về cái mà Việt Nam gọi là “Biển Đông”, giáp với bờ biển trải dài của họ, hoặc Việt Nam phải tham gia vào một cuộc xung đột với người láng giềng hùng mạnh của mình, điều mà chính phủ Hà Nội muốn tránh. Nhưng cộng đồng người Việt trên khắp thế giới có thể có sự lựa chọn tháo lui tốn kém.


Từ khi Việt Nam rút quân khỏi Campuchia vào năm 1989 và tiếp theo là cuộc bầu cử do Liên Hiệp Quốc giám sát ở đó, Việt Nam và Trung Quốc đã thiết lập tình hữu nghị tốt đẹp. Bế tắc cay đắng giữa hai nước, trong đó điểm đáng nói nhất là cuộc tấn công phá hoại ngắn ngủi của Trung Quốc hồi tháng 2 năm 1979, đã bị lãng quên. Không chính thức, các nhà ngoại giao Việt Nam nhận xét rằng họ phải cẩn thận để tránh làm bực mình anh láng giềng phương bắc của mình, khi trở nên quá thân thiết với Hoa Kỳ. Tuy nhiên, những cuộc nói chuyện như vậy đã không được hiểu như là một mong muốn tránh xa Trung Quốc, mà là một phần của chính sách đối ngoại “thêm bạn, bớt thù”. Một loạt các quan hệ quốc tế rộng rãi đã từ lâu là mục tiêu trong cải cách của Việt Nam, gấp rút để tự hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu.


Nhưng sau hai thập kỷ thích nghi, sự trỗi dậy của Trung Quốc buộc Việt Nam phải đối mặt với các lựa chọn khó khăn. Tình hình đặc biệt phức tạp đối với sự cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam (VCP), kể từ khi cuộc khủng hoảng giai đoạn cuối của Chủ nghĩa Cộng sản ở Đông Âu vào năm 1989, đã xác định chặt chẽ các chính sách của đảng Trung Quốc: cải cách kinh tế nhanh chóng kết hợp với sự độc quyền của đảng cộng sản lên đời sống chính trị và các tổ chức nhà nước.


Hiện tại, khi Trung Quốc gây áp lực buộc Việt Nam chấp nhận sự kiểm soát của Trung Quốc trên Biển Đông, Đảng [Cộng sản] Việt Nam bị ép buộc phải thừa nhận rằng hai nước có xung đột lợi ích trong một số lĩnh vực. Một trong những lĩnh vực này là việc sử dụng các nguồn tài nguyên địa phương, chẳng hạn như vùng nước ở sông Cửu Long. Lượng nước chảy vào vùng đồng bằng Việt Nam đã giảm rõ rệt trong mười năm qua, khi Trung Quốc xây dựng một loạt các đập thủy điện ở thượng nguồn. Mối đe dọa đối với sông Cửu Long có thể trở thành vấn đề sinh tử cho nhiều người ở miền Nam Việt Nam. Nhưng tại thời điểm này, cuộc xung đột lớn nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc liên quan tới việc sử dụng nguồn cá, dầu hỏa và khí đốt tìm thấy dưới đáy Biển Đông.

Một tia lửa ngầm


Báo động phổ biến về vai trò của Trung Quốc tại Việt Nam đã nổi lên trên bề mặt vào năm 2009, liên quan tới dự án khai thác mỏ ở đất liền gây tranh cãi. Đảng đã công bố một thỏa thuận cho phép Trung Quốc khai thác và chế biến bauxite ở khu vực Cao nguyên Trung phần. Dự án mà ban đầu được công bố là để thúc đẩy kinh tế Việt Nam phát triển, chẳng bao lâu trở thành mối hiểm họa lâu dài: Trung Quốc cho biết rằng họ sẽ đưa công nhân của họ vào để thực hiện dự án, gây nên nỗi ám ảnh về việc định cư thường trực của Trung Quốc ở khu vực chiến lược nhạy cảm này, lấy mất việc làm của người lao động Việt Nam.


Hơn nữa, không có dấu hiệu của một báo cáo về tác động môi trường – một yếu tố rất quan trọng mà mọi người đều biết rằng việc khai thác bauxite sẽ để lại một cảnh quan lồi lõm và các chất thải gây ô nhiễm cho đất nông nghiệp và nguồn nước. Cuối mùa xuân, 139 trí thức Việt Nam đã ký vào một thỉnh nguyện thư yêu cầu chính phủ hủy bỏ thỏa thuận sản xuất bauxite. Nhiều người Việt hải ngoại cũng đã ký tên vào thỉnh nguyện thư, cũng như một số viên chức quân sự cao cấp. Một trong những nhân vật lãnh đạo chống dự án khai thác bauxite là Đại tướng Võ Nguyên Giáp, một trong những nhà lãnh đạo cuối cùng trong thời kỳ cách mạng còn sống, ông vẫn còn đủ uy tín đạo đức để thành nhà phê bình có ảnh hưởng khi ông nhìn thấy đảng đi lạc khỏi đường lối (xem thêm: “Những dao động từ phía bắc“, của David G Marr, mục Inside Story, ngày 31 tháng 8 năm 2009).


Theo tin tức lưu hành ở Hà Nội vào mùa hè năm 2009, đó là một số tướng lĩnh (tin đồn nói rằng ba mươi) đã bị cho nghỉ hưu sớm, chính là sự trả thù về việc phản đối dự án bauxite. Kế hoạch khai thác mỏ sau đó đã được thảo luận trong quốc hội, và trong vòng ba ngày các đại biểu bất đồng nhất đã được thuyết phục để rút lại ý kiến đối lập của họ. Tháng 3 năm 2010, dự án trong giai đoạn đầu xây dựng, và các quan chức chính phủ địa phương bảo đảm với báo chí Việt Nam (một vài nhà báo vẫn còn dám đặt câu hỏi) rằng tác động môi trường sẽ được giám sát chặt chẽ. Vai trò của Trung Quốc đối với dự án ít khi được đề cập tới trong các bài báo này. Tin tức đồn rằng ít nhất có một nhân vật lãnh đạo đảng nhận được tiền chi trả của Trung Quốc để hỗ trợ cho dự án. Trong mọi tình huống, việc xử lý vấn đề bauxite của đảng cho thấy rằng nó đã được hỗ trợ rộng lớn từ những người có quyền lực nhất ở Việt Nam.

Đòi hỏi gây tranh cãi


Chỉ riêng vấn đề này không đủ làm đảo lộn mối quan hệ Việt-Trung lâu dài, nhưng đó là triệu chứng của những vấn đề lớn hơn. Điều làm thay đổi sự cân bằng trong các mối quan hệ giữa hai nước đó là ảnh hưởng mạnh về kinh tế và quân sự ngày càng gia tăng của Trung Quốc. Trung Quốc đơn phương tuyên bố lãnh hải “đường hình chữ U” kéo xuống từ phía bắc Borneo, thể hiện sự tự tin rằng bây giờ Trung Quốc có thể bảo vệ những gì mà Trung Quốc xem là phạm vi ảnh hưởng của họ. Gần đây Trung Quốc đã bắt đầu xem Biển Đông là một trong những lợi ích cốt lõi của họ, ngang hàng với Đài Loan và Tây Tạng.


Trường hợp này, việc đòi quyền sở hữu của Bắc Kinh dựa vào hai nhóm đảo: Quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, điều mà cho phép họ viện dẫn vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý được Liên Hiệp Quốc chấp thuận. Nhiều đảo này nằm rải rác không hơn gì các doi cát, và chủ quyền đối với các dãi đảo này còn bị nhiều quốc gia khác tranh chấp, nhưng nếu Trung Quốc có thể thiết lập quyền sở hữu, điều đó sẽ cho phép họ kiểm soát các tuyến đường vận chuyển và khu vực được cho là có nhiều dầu hỏa và khí đốt tự nhiên. Tuy nhiên, một số nhà quan sát tin rằng, hiện tại Trung Quốc đã đi quá đà trong việc đưa ra phần của họ trong tranh chấp lãnh thổ này.


Việt Nam đã cố gắng bảo vệ tranh chấp của mình đối với các nhóm đảo ở Hoàng Sa và Trường Sa kể từ khi thống nhất đất nước vào năm 1976, nhưng không thành công lắm. Ngược lại, Hà Nội đã thừa nhận một số vùng lãnh hải của họ với Trung Quốc trong Hiệp định Biên giới trên Vịnh Bắc Bộ, và thậm chí đồng ý cho hải quân tuần tra chung trong năm 2006. Nhưng cho dù với những nhượng bộ này và các mối quan hệ thân mật công khai, kể từ tháng 5 năm 2009 Trung Quốc cho đâm và bắt giữ các tàu đánh cá đi lạc vào khu vực mà Trung Quốc đòi chủ quyền, khu vực mà người Việt Nam xem là vùng đánh cá truyền thống của mình. Ngư dân đã bị giam giữ làm con tin hoặc bị tịch thu số cá bắt được, đã làm cho công chúng tại Việt Nam giận dữ.


Trung Quốc đã dùng vũ lực đánh đơn vị đồn trú miền Nam Việt Nam ở quần đảo Hoàng Sa ra khỏi quần đảo vào năm 1974, khi chiến tranh Việt Nam đang giảm cường độ. Vào thời điểm đó chẳng ai phản đối gì, khi Hoa Kỳ còn bận tâm vì mối đe dọa của Liên Xô ở Thái Bình Dương. Việt Nam đòi chủ quyền lịch sử trên các quần đảo này, trở lại thời điểm ít nhất là những năm đầu dưới sự trị vì của nhà Nguyễn (từ 1802), hoàng đế Gia Long (trị vì từ năm 1802-1820) và Minh Mạng (trị vì từ năm 1820-1841) đã gửi các đội thám hiểm đến để vẽ biểu đồ vùng nước xung quanh các đảo, cho thấy quyền sở hữu của Việt Nam trên các bản đồ được vẽ bởi các nhà truyền giáo Pháp đầu tiên. Việc đòi chủ quyền này cũng phản ánh một thực tế là ngư dân từ miền Trung Việt Nam từ lâu đã khai thác các nguồn tài nguyên biển ở đây và tiến hành các hoạt động cứu hộ ở vùng biển nguy hiểm. Người Pháp có chủ quyền trên các vùng lãnh thổ này cho đến khi Đệ nhị Thế chiến, và miền Nam Việt Nam đã thừa kế quyền này.


Ngay cả việc mua sáu chiếc tàu ngầm loại kilo, chạy bằng dầu diesel của Nga, cũng không có cơ hội cho Việt Nam có thể giành chiến thắng trong một cuộc đối đầu hải quân với Trung Quốc. Và Việt Nam biết rằng việc mở rộng quân sự sẽ không giúp xây dựng niềm tin giữa các quốc gia khác trong khu vực. Thay vào đó nên để dành vai trò chủ tịch Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN) trong năm 2010 để xây dựng một sự đồng thuận đa phương nhằm hỗ trợ lời kêu gọi các cuộc đàm phán về việc chia sẻ tài nguyên ở Biển Đông (The Philippines, Malaysia và Indonesia cũng đòi chủ quyền trên các vùng biển, điều này có xung đột với tham vọng lãnh thổ của Trung Quốc). (Xem “Việt Nam kiếm nhiều đồng minh để ngăn ảnh hưởng của Trung Quốc“, Edward Wong, New York Times, ngày 4 tháng 2 năm 2010).


Tuyên bố về quy tắc ứng xử đã được Asean và Trung Quốc ký năm 2002, về các vấn đề như bảo vệ môi trường và tìm kiếm, cứu nạn, có thể là một mô hình cho các thương lượng trong tương lai. Nhưng sự thỏa thuận này không có hiệu lực pháp lý và các cuộc thảo luận là để mở rộng phạm vi đã bị giới hạn trong những năm gần đây. Điều gì có thể tạo ra một bước đột phá trong các lần đàm phán với Trung Quốc sẽ là sự chấp thuận của Mỹ và Nhật Bản tham gia vào một giải pháp đa phương.

Một câu hỏi cấp quốc gia


Có một sự tiên đoán bên trong Việt Nam rằng một số lãnh đạo đảng muốn nhìn thấy Việt Nam trở thành “một tỉnh của Trung Quốc” hơn là chấp nhận rủi ro quyền lực của Đảng Cộng sản Việt Nam bị suy yếu bằng cách thiết lập quan hệ gần gũi hơn với Washington. Tuy nhiên, các mối đe dọa đến toàn vẹn lãnh thổ ở Hà Nội hiện tại nghiêm trọng hơn là vào giữa thập niên đầu của thế kỷ 21.


Bốn mối đe dọa lớn đối với quốc gia được chỉ ra trong một chương trình đã được chuẩn bị cho Đại hội đảng lần tới vào năm 2011 là: 1) Kinh tế lạc hậu, 2) Các thế lực thù địch và diễn biến hòa bình, 3) Tranh chấp lãnh thổ và 4) Các vấn đề toàn cầu liên quan đến an ninh lương thực, an ninh năng lượng và sự nóng lên toàn cầu. Danh sách này thể hiện sự tinh tế ngày càng tăng của ngoại giao Hà Nội, mặc dù thực tế là nỗi lo sợ “diễn biến hòa bình” – mật mã nói về sự phá hoại các giá trị cộng sản do liên hệ với phương Tây – vẫn nằm ở vị trí nguy hiểm cao trong danh sách (xem thêm “Việt Nam: tiếng nói cần thiết“, ngày 29 tháng 4 năm 2007).


Hiện đã rõ ràng hơn đối với lãnh đạo Việt Nam rằng nhượng bộ nhiều hơn để Trung Quốc làm xói mòn niềm tin của tầng lớp quan trọng trong dân chúng, gồm cả trí thức và các bộ phận trong quân đội. Và mặc dù (hoặc có lẽ là do) kiểm soát chặt chẽ báo chí và internet, niềm tin của công chúng đối với các thông tin của chính phủ không còn mạnh như trước đây. Tất cả mọi thứ, từ các con số cho thấy lạm phát được kiểm soát cho tới các báo cáo lạc quan về tiến độ bảo vệ môi trường, được đón nhận với thái độ hoài nghi của những người đọc báo. Nếu công chúng tin rằng đảng cộng sản tự cho là để bảo vệ độc lập dân tộc, mà không còn [đủ sức] bảo vệ lợi ích chính đáng của quốc gia, thì tính hợp pháp của đảng sẽ ngày càng bị nghi ngờ.

ND : Ngọc Thu

Loạt bài phỏng vấn của sinh viên Đại học Berkeley (phần 1)

Loạt bài phỏng vấn của sinh viên Đại học Berkeley (phần 1)
29/04/2010 | 12:49 chiều | Chưa có phản hồi.

Tác giả: talawas

Chuyên mục: Nhìn lại cuộc chiến 1954-1975
Thẻ: phỏng vấn

Lời toà soạn: Loạt bài phỏng vấn này thuộc dự án nghiên cứu cuối học kỳ mùa Xuân 2010 của sinh viên lớp Việt văn, Đại học Berkeley. Những người thực hiện phỏng vấn đều còn rất trẻ, thuộc thế hệ 8X và cả thế hệ 9X. Với một số bạn, tiếng Việt là ngôn ngữ thứ hai (sau tiếng Anh). Họ trò chuyện với cha, mẹ, dì, dượng, cô, chú và người quen, hỏi về thời thơ ấu, về cuộc sống trước và sau biến cố 30.4.1975, về kinh nghiệm hội nhập quê hương thứ hai và ghi lại những cảm tưởng ban đầu của mình.

Khi chọn đăng loạt bài này, talawas biên tập, bỏ phần câu hỏi, sắp xếp lại các câu trả lời theo thời gian và viết tắt tên (hoặc sử dụng bút danh) của cả người phỏng vấn và người được phỏng vấn.

1. Bài phỏng vấn của Đoàn Viên

Tôi tên là Nam Đ. Năm nay tôi 56 tuổi. Nơi tôi sinh ra lúc đó thuộc quận Hóc Môn, tỉnh Gia Định, một tỉnh vành đai thủ đô Sài Gòn của Việt Nam Cộng hòa trước đây. Mẹ tôi sinh ra tôi vào tháng 9 năm 1954, chỉ khoảng hai tháng sau khi gia đình tôi di cư từ Bắc vào Nam theo Hiệp định Geneva chia đôi đất nước. Những năm tháng thời thơ ấu của tôi đất nước Việt Nam tương đối yên bình. Nhưng dần dà chiến sự ngày càng sôi động, ác liệt và kéo dài tận đến khi tôi trưởng thành và gia nhập Quân đội Việt Nam Cộng hòa. Cuộc chiến kết thúc vào ngày 30/4/1975 mà trong đó tôi cũng là một thành viên của quân đội thua trận.

Cuộc sống ở Việt Nam mà cụ thể là miền Nam (Việt Nam Cộng hòa) từ khi tôi có trí nhớ luôn gắn liền với sự rình rập của chiến tranh. Cuộc chiến ảnh hưởng đến mọi sinh hoạt của toàn xã hội, thậm chí ngay cả với những thanh niên trẻ đang còn trong ghế học đường như tôi và các bạn bè cùng lứa. Hàng ngày chúng tôi vẫn nghe và theo dõi về những chuyển biến trong tình hình chiến sự. Sức ảnh hưởng của chiến tranh mạnh đến độ mà không những trên báo chí mà cả rất nhiều thơ văn, ca nhạc, điện ảnh đều có liên quan tới chiến tranh.

Tuy thế, đời sống người dân miền Nam thời trước 1975 nói chung là khá sung túc. Vật giá thời gian đó khá rẻ. Như gia đình cha mẹ tôi, chỉ một mình cha tôi đi làm và tuy không dư dả nhiều nhưng cũng đã có thể nuôi cả một gia đình với 10 người con. Anh em chúng tôi ai nấy được ăn học đầy đủ.

Cuộc sống cư dân thành thị có nhiều phương tiện sinh hoạt mới và hiện đại, như đi xe hơi, dùng quạt điện, mặc áo vest. Thanh niên thời tôi mới lớn thì để tóc dài chạm vai như con gái. Thời gian đó, style rất được ưa chuộng vì nó bắt chước theo cách để tóc và trang phục của các thành viên ban nhạc Anh Quốc “The Beatles”. Ban nhạc này lúc đó rất nổi tiếng và có ảnh hưởng lớn tới thanh niên của thập niên 60 tại Việt Nam.

Người dân thành thị hay đi nghe hòa nhạc, xem cine với điện ảnh phương Tây. Người ta nghe các ca khúc Pháp, Mỹ và có chút lãng quên nhạc dân tộc xưa cũ. Thời trang thay đổi từng năm. Trang phục thì áo sơ mi, quần jean v.v… chứ không còn áo dài, khăn đóng nữa. Những giá trị Khổng, Nho bị giới trẻ coi thường, thậm chí còn bị chỉ trích…

Trong văn học, xuất hiện nhiều cuốn tiểu thuyết về tình cảm nam nữ, đả phá lối sống cũ, đề cao lối sống mới. Thơ ca, thì lớp nhà thơ trẻ không còn thích lối thơ cũ như lục bát, đường luật. Họ thấy quá gò bó để diễn tả tình cảm và cảm xúc của mình. Thay vào đó là lối thơ mới giống như lối của Tự Lực Văn Đoàn đầu thế kỷ 20, với nhiều ảnh hưởng từ thơ ca phương Tây.

Âm nhạc thì bị ảnh hưởng nhiều bởi âm nhạc Âu, Mỹ. Nhiều ca khúc theo âm điệu Âu, Mỹ và thậm chí có nhiều bài nhạc nước ngoài được viết lời Việt nữa. Giới trẻ lúc đó rất thích loại nhạc này.

Cái mới có những điều rất hay, nó cho người ta tiếp cận tiến bộ của văn minh phương Tây, làm cho xã hội và từng cá nhân trong xã hội đó hưởng tiện nghi của nền văn minh, tạo cho xã hội và con người phát triển hơn. Đây là những điều tốt mà ảnh hưởng của phương Tây mang lại. Nhưng chính nền văn minh và nếp sống phương Tây quá tự do và phóng khoáng cũng có những điều không hay, không phù hợp với nếp sống Á Đông nói chung và Việt Nam nói riêng.

Khi còn là học sinh, tôi thường đọc những sách báo dành cho tuổi học trò như Tuổi Hoa, Thiếu Nhi v.v… Rồi khi lớn hơn chút nữa là tạp chí Bách Khoa, Kiến Thức Ngày Nay và sách của các tác giả như Duyên Anh, Nguyễn Thụy Long v.v… cũng như một số báo hàng ngày. Tôi thích những nhạc phẩm của Đoàn Chuẩn và Văn Cao. Tôi cũng rất thích những loại nhạc nói về tình yêu trong sáng của tuổi trẻ, nhạc lính và tâm tình của người trẻ đối với cuộc chiến.

Nhân vật chính trị mà tôi hâm mộ thời đó là Tổng thống Ngô Đình Diệm. Tuy rằng, ông có sai lầm về chính sách trong lúc điều hành đất nước, nhất là một nước đang trong tình trạng chiến tranh, ông là người có tâm, có đạo đức và cũng rất ngoan đạo. Bản thân tôi cũng là một người Công giáo.

Sau thời kỳ học sinh, đến khi trưởng thành tôi gia nhập quân đội, phục vụ tại ban 5, chiến tranh chính trị, thuộc Liên đoàn 31 Biệt Động Quân. Tôi phụ trách làm hướng đạo sinh quân đội của Liên đoàn, đồng thời là giáo viên của trường trung tiểu học Phan Hạnh. Học sinh và hướng đạo sinh đều là con em của binh sĩ thuộc Liên đoàn và cả con em của người dân cư ở khu vực đó. Trừ những lúc chiến tranh căng thẳng, cuộc sống của tôi và gia đình khá ổn định. Tôi có thu nhập đủ để tự lo cho gia đình và bản thân. Tôi rất thích công việc dạy học nên khi làm việc tôi cảm thấy vui và thoải mái. Những lúc rảnh rỗi, tôi về thăm nhà hay đi giải trí cùng bạn bè. Thế nhưng mỗi lúc chiến trường có biến động thì không những tôi mà những người xung quanh đều lo lắng và cuộc sống cũng bị đảo lộn. Tôi chấm dứt công việc kể từ ngày 30/4/1975.

Vào ngày hôm đó, tôi đang trên đường về nhà sau khi nghe tin thua trận. Lúc đó tôi mang tâm trạng buồn bã. Tôi thấy chua xót như mất mát đi một cái gì đó rất lớn. Trong lòng tôi cảm thấy hoang mang giống như là người đi lạc vậy, nhất là khi về thấy Sài Gòn trong tình trạng hỗn loạn.

Sau ngày 30/4, tôi phải dự một lớp học chính trị trong 10 ngày. Sau khi học chính trị 10 ngày đó, tôi được chính quyền cộng sản trả lại quyền công dân. Tôi không biết tôi mất quyền công dân từ bao giờ.

Xã hội Việt Nam, sau 30/4, trong đó có cả gia đình tôi, là một xã hội nghèo nàn, đầy rẫy những khó khăn, hàng hóa cực kì thiếu thốn. Mọi gia đình, mọi người đều ăn độn bo bo hay bột mì vì thiếu gạo, mặc dù Việt Nam là một nước nông nghiệp và đã từng xuất cảng gạo trước đó. Mọi người lúc đó đều thiếu ăn thiếu mặc; mọi phẩm vật tiêu dùng hầu như đều biến mất khỏi các quầy hàng. Có một chuyện mà tôi nhớ mãi: một lần tôi và vợ tôi đi ngang qua một tiệm bán hủ tiếu nhỏ ven đường. Mùi thơm bốc lên ngào ngạt làm chúng tôi thèm thuồng lắm. Chúng tôi cũng như nhiều người thời đó đều thiếu dinh dưỡng. Dù rất muốn ăn, nhưng vợ chồng tôi đành phải bước đi vì nếu vào ăn thì ngày hôm sau sẽ không còn tiền đi chợ. Tôi kể điều này ra để nói đến tình trạng thiếu thốn, nghèo khổ của xã hội. Đây là tình hình chung của phần lớn xã hội chứ không phải của riêng ai.

Tôi và gia đình sang Mỹ theo diện đoàn tụ gia đình năm 2002. Gia đình tôi sang Mỹ bằng phi cơ và khi sang tới nơi thì được giúp đỡ của người thân nên không có khó khăn nhiều lắm. Trong suốt chuyến đi, tôi hay nghĩ về tương lai của gia đình mình và không biết làm thế nào để hội nhập vào cuộc sống mới khi chúng tôi vẫn chưa biết tiếng Anh và không quen biết đường xá đi lại. Tôi còn cảm thấy rất buồn và nhớ người con gái lớn của tôi còn ở lại.

Sau khi sang Mỹ, rất không may là tôi bị bệnh suy thận vào giai đoạn cuối. Cho nên ngay sau đó tôi phải lọc thận mỗi tuần 3 lần. Vì lý do sức khỏe nên tôi không thể làm việc.

Tuy không thể làm việc, nhưng qua những lần đi bệnh viện, đi lọc thận và tới các cơ sở y tế liên quan đến căn bệnh của mình, tôi có cơ hội để giao tiếp với người bản xứ và cả những người dân di cư như gia đình tôi. Tôi thấy rào cản ngôn ngữ là khó khăn lớn nhất. Và đôi khi tôi cũng thấy được cả sự khác biệt về văn hóa với người bản xứ. Trước khi rời khỏi Việt Nam, tôi đã xem rất nhiều sách báo, phim ảnh cũng như theo dõi về đất nước và con người Hoa Kỳ. Vì thế nên những thông tin cơ bản về nước Mỹ tôi cũng phần nào nắm được. Thế nhưng để thực sự hội nhập vào nhịp sống ở đất nước mới thì cần nhiều thời gian hơn. Nay thì cuộc sống của gia đình tôi đã rất ổn định nên những khó khăn trong thời gian đầu mới sang Mỹ không còn nữa.

Khi sống xa đất nước, ngoài nỗi nhớ con, cháu, tôi còn nhớ tới bạn bè và những nơi tôi thường đến. Những quán ăn, quán cá phê đều gắn với kỷ niệm trong suốt những năm tháng tôi sống suốt hơn 40 năm. Tôi đặc biệt nhớ tết cổ truyền Việt Nam. Không khí Tết nhộn nhịp, thân quen thực sự chỉ có ở Việt Nam mới có. Vì cuộc sống bên Mỹ quá bận rộn, thêm vào đó là người Mỹ không ăn mừng Tết Việt Nam nên Tết ở xứ người cũng rất buồn.

Tôi có trở lại Việt Nam một lần để thăm con gái, cháu ngoại và thân nhân. Tuy chỉ sau vài năm nhưng, thành phố tôi sống lúc trước đây thay đổi quá nhiều. Bây giờ nó quá ngột ngạt. Đường phố đầy những người và xe cộ, thường xuyên bị kẹt xe. Lưu thông trên đường phố hỗn loạn hơn trước. Người dân đa số rất thiếu ý thức về giao thông. Không khí cũng trở nên ô nhiễm và bụi bặm hơn. Vì đã quen với trật tự của đường phố và không khí của Mỹ nên tôi có chút không quen. Đặc biệt vật giá đắt hơn trước rất nhiều.

So với trước năm 75, người ta bây giờ đặt tiền bạc vật chất lên trên hết. Họ đánh giá người khác bằng tiền bạc, sang hèn, chứ không bằng tư cách hay đạo đức như trước năm 75. Việc coi trọng tiền bạc vật chất đến nỗi mà người làm giả hàng tiêu dùng, giả cả thuốc chữa bệnh bất kể tính mạng con người.

Nếu được chọn lựa, tôi muốn được trở lại sống vào thời kỳ sau năm 1954 cho đến khoảng năm 1960. Đây là khoảng thời gian thơ ấu của tôi và cũng là một thời kỳ thanh bình của đất nước Việt Nam. Vào thời gian này, người miền Bắc chưa xâm nhập vào miền Nam và gây ra chiến tranh ngày càng ác liệt. Xã hội chưa có những tệ trạng và rối ren do tình trạng chiến tranh gây ra. Đất nước sống trong thanh bình, tự do. Cuộc sống mọi người dân tương đối no ấm và yên ổn.

Nhận xét của người phỏng vấn

Đời sống trước năm 1975 qua lời kể gắn liền với cuộc chiến Việt Nam. Những người may mắn không phải đối mặt với súng đạn và chết chóc trên chiến trường thì cũng luôn lo lắng và theo dõi tình hình cuộc chiến. Tầm ảnh hưởng của chiến tranh đi vào đời sống của người dân và đặc biệt tới đời sống tinh thần của họ. Các thành viên khác trong gia đình tôi, những người đã sinh ra và sống tại miền Nam Việt Nam trước năm 1975, vẫn thường nhắc lại thời họ đi lính cho quân đội Việt Nam Cộng hòa, nhắc lại những sự kiện nổi bật như Tết Mậu Thân. Đặc biệt, mọi người đều rất yêu thích những ca khúc “tiền chiến” hay những ca khúc về lính. Tôi và những người của thế hệ sau này chưa bao giờ phải sống trong cảnh chiến tranh rình rập như vậy, nên không thấy rõ được giá trị của cuộc sống thanh bình. Thế nên cảm giác “chua xót, mất mát, hoang mang” mà người trả lời phỏng vấn đã trải qua trong ngày thật quá khó có thể tưởng tượng được.

Một điểm đáng chú ý về đời sống tại Việt Nam trước 1975 là sức ảnh hưởng của văn hóa Âu Mỹ. Theo lời kể thì âm nhạc, thơ văn, cách ăn mặc và cả lối sống đều thấy sự ảnh hưởng của phương Tây. Thơ văn tiền chiến đầu thế kỷ 20 cho thấy sức ảnh hưởng của Pháp. Trong khi đó, những nơi vui chơi giải trí của miền Nam Việt Nam trước 1975 như hòa nhạc, hộp đêm, rạp chiếu phim đều du nhập từ Mỹ.

So với Việt Nam hiện tại thì những người đã từng sống ở Việt Nam trước 1975 thích cuộc sống trước kia hơn. Đa phần những người tôi biết, nhất là người trả lời phỏng vấn, đều nhận xét thấy và không thích những sự thay đổi tiêu cực về giá trị đời sống tại Việt Nam hiện nay: sự coi trọng vật chất quá mức, thang giá trị của phẩm chất con người thay đổi dựa trên vật chất.

2. Bài phỏng vấn của T. Lê

Tôi là Trần N. H., năm nay 61 tuổi. Tôi không nhớ rõ lắm về thời thơ ấu, chỉ nhớ là lúc nhỏ được ba má cưng nhứt nhà vì là con trai út trong số mấy anh em trai. Nhà tôi có tất cả 6 anh chị em: 3 trai, 3 gái. Trước năm 1954, cả nhà sống ở Thạch Hà, Hà Tĩnh. Sau đó thì năm 1954 di cư vào Nam, định cư ở Quy Nhơn. Tôi học tiểu học, với trung học đệ nhất cấp ở đây. Lúc lên trung học thì nhà có mở tiệm sửa xe đạp, nên hàng ngày cũng hay ra tiệm phụ giúp ba. Khoảng năm 1965 thì tôi vào Tuy Hòa học trung học đệ nhị cấp ở trường Đặng Đức Tuấn. Đặng Đức Tuấn là trường Công giáo. Thời đó cha Nguyễn Trọng Huấn làm hiệu trưởng.

Học xong lớp 11 thì tôi xung phong đi lính, nhưng không phải ra trận, chỉ làm công việc văn phòng. Làm lính văn phòng nói chung không có gì nguy hiểm. Lương cũng cao. Tính ra lương đi lính, chi tiêu ăn uống, lặt vặt, lo cho gia đình, vợ con hết thì cũng còn dư được cả cây vàng. Rồi cũng được trợ cấp đồ Mỹ, đồ hộp, quần áo… Cứ hàng tháng, đồ Mỹ phát về sở là tôi hốt cả bao đem về cho nhà.

Đời sống ở Việt Nam trước 1975 tốt. Tự do, muốn làm gì thì làm. Tiếp xúc được nhiều cái văn minh của Mỹ. Giáo dục được chánh quyền quan tâm. Thời tôi đi học, nhiều đứa học giỏi cuối năm được phát thưởng cả chiếc xe đạp. Mà thời đó xe đạp quý lắm.

Tôi đọc nhiều sách báo, nhưng lâu quá nên không còn nhớ tên. Tôi thường hay đọc mấy tin về chiến trường vì mình làm lính mà. Tôi thích nghe nhạc vàng, hâm mộ hai ca sĩ Duy Khánh và Nhật Trường, nhất là bài “Xin anh giữ trọn tình quê” của Duy Khánh.

Cuối tháng 3 năm 1975, tôi nghe tin cộng sản chuẩn bị đánh vào Tuy Hòa. Mấy ông sĩ quan cấp trên bỏ chạy hết rồi. Người dân, người ta cũng bắt đầu chạy khỏi Tuy Hòa nên tôi cùng cả gia đình lo chạy vào trong Cam Ranh. Khi đó vợ tôi đang mang bầu đứa con thứ hai (mất năm 3 tuổi). Được ít ngày thì nghe tin cộng sản chiếm xong Tuy Hòa, nghe đâu chuẩn bị đánh vào Nha Trang và Cam Ranh. Lúc đó cả nhà định chạy vào Sài Gòn, nhưng thấy người dân bị pháo kích của cộng sản chết trên đường bộ nhiều quá, nên ba vợ quyết định ở lại Cam Ranh cho an toàn. Tôi cũng muốn ở lại Cam Ranh để lo cho vợ sắp sinh, nhưng sợ cộng sản biết tôi đi lính sẽ trả thù nên tôi với Th. (là lính địa phương quân Việt Nam Cộng hòa) đi ghe trốn vào Sài Gòn trước. Lúc đó đi cũng day dứt lắm vì để vợ với con trai đầu ở lại (vì sợ họ đi cùng sẽ gặp nguy hiểm). Rồi tôi đi ghe ra biển, gặp tàu hàng của Mỹ, được tụi nó đưa vào trong đảo Phú Quốc.

Ở Phú Quốc đến ngày 27, 28 tháng 4 thì tôi với Th. vào Sài Gòn. Lúc đó, người dân Hóc Môn kéo vào Sài Gòn đông lắm. Nhiều người chết vì trúng đạn pháo 122 ly của cộng sản. Sài Gòn hỗn loạn. Người Công giáo tụ tập ở các nhà thờ, tòa giám mục để cầu nguyện, xưng tội. Tôi và Th. trú ở Đại Chủng viện Thánh Giuse Sài Gòn cho đến sau ngày 30/4/1975. Lúc đó ai cũng sợ. Đâu ai dám ra đường. Sợ bị cộng sản nó bắn chết.

Sau giải phóng 2, 3 tuần, tôi về lại Tuy Hòa. Tôi với Th. bị cộng sản bắt đi học tập khoảng 1, 2 tháng gì đó. Tôi chỉ là bậc trung sĩ, hạ sĩ quan, còn Th. làm lính địa phương quân nên cũng không bị tội gì nặng. Mấy ông sĩ quan cấp lớn bị bắt đưa ra Hà Nội, còn lại một số thì bị đưa lên trại A30 ở Đồng Bò, La Hai, rồi cũng có mấy người bị xử bắn ở Phú Thứ.

Sau 1975, tôi cũng tính đi vượt biên nhưng sợ. Sau khi vợ sanh thêm thằng con thì tôi không còn ý định đi vượt biên nữa. Nếu đi thì dẫn cả nhà cùng đi, mà nghe nhiều người chết ngoài biển nên thấy nản. Nhưng thằng H., con trai đầu của tôi, lúc đó học lớp 7, nói nó muốn đi. Nghĩ nếu nó đi được thì cũng có tương lai cho nó. Với lại nó đi cùng dì cậu nó nên cũng cảm thấy an tâm phần nào.

H. bảo lãnh vợ chồng tôi qua Mỹ năm 2001. Khi sang đây, tôi buồn lắm. Đi mà để lại ba đứa con nên thấy không an tâm chút nào. Nhưng nghĩ con cái nó cũng lớn hết rồi. Với lại vợ chồng tôi đi là cũng nghĩ đến tương lai của tụi nó. Qua bên này ráng lấy quốc tịch cho sớm để bảo lãnh anh em tụi nó qua. Tội nhất là thằng H. Lúc tôi đi Mỹ, nó mới học xong lớp 12. Cũng lớn rồi, nhưng vợ chồng vẫn thường cưng nó, lo cho nó từng ly từng tí. Giờ để nó ở lại cho anh nó trông cũng thấy tội.

Lúc đặt chân tới Mỹ, cảm giác của tôi shock lắm. Thấy nước Mỹ nó lớn quá. Hồi giờ tôi có đi nước ngoài lần nào đâu. Ở quê Tuy Hòa, lâu lâu vào Sài Gòn là đã thấy văn minh lắm rồi. Giờ sang Mỹ, đi trên mấy đường cao tốc, thấy nó bự và văn minh quá.

Sau khi sang Mỹ, tôi làm nhiều jobs lắm. Lúc mới qua ở Cali, tôi phụ Ph. sửa TV với mấy đồ điện tử lặt vặt. Sau đó sang bên Kansas làm ở nhà hàng của M., rồi theo mấy ông Việt Nam đi đào mấy lỗ chạy ống nước. Năm 2003, tôi sang bên Massachusetts làm cho hãng mấy nước nóng, lắp phích điện, chạy dây… Rồi làm thêm nghề in hình trên mấy cái áo thun. Ở Massachusetts cũng gần 5 năm. Giữa năm 2007 thì thằng H. chuyển sang làm ở Arizona nên vợ chồng tôi theo nó sang Arizona. Ở đó thì tôi đi làm hãng bò. Đến năm 2008 thì cả nhà dọn sang sống ở nam Cali. Tôi làm thợ tiện từ đó cho đến nay.

Bây giờ tôi cảm thấy thích nghi được với lối sống bên này. Đường sá ít nhiều cũng rành. Xe cộ cũng biết lái. Đi nhà băng, ngân hàng, chợ búa … gặp tụi Mỹ, tụi Mễ thì cũng nói, cũng hiểu được chút đỉnh. Nói chung là đã quen được với cuộc sống bên này. Còn khó khăn thì chủ yếu là ngôn ngữ. Tôi lớn tuổi rồi. Tiếng u, tiếng tây nhiều khi mình không rành. Nói đâu quên đó.

Từ lúc qua Mỹ tới giờ, tôi về Việt Nam được hai lần. Một lần về với vợ khoảng năm 2003, 2004 gì đó. Lần mới đây thì năm 2008, về lo đám cưới cho thằng H.

Mấy lần về Việt Nam và nghe tin tức, báo chí, tôi thấy Việt Nam giờ cũng thoải mái như trước năm 1975. Có khác chủ yếu là tự do. Thời trước người dân họ có tự do nhiều hơn, muốn làm gì thì làm, không sợ mấy ông cảnh sát, mấy người có chức có quyền chèn ép. Nói chung bây giờ sau đổi mới, Việt Nam cũng tiến bộ nhiều rồi. Việc buôn bán, phương tiện đi lại này nọ cũng tốt. Chỉ có mấy năm sau 1975 đến năm 1990 là quá tệ. Mấy ông cộng sản nhà nước, ổng chèn ép, tịch thu đất đai, tài sản… Buôn bán làm ăn khó khăn lắm. Bây giờ thì luật pháp Việt Nam cũng có phần rõ ràng hơn. Không phải mấy ổng muốn làm gì cũng được.

Sống ở Mỹ, tôi nhớ nhà cũ, người thân, bạn bè, bà con lối xóm. Ở bên này tuy vật chất đầy đủ, nhưng nhiều khi thấy thiếu thốn về tinh thần. Hồi xưa ở Việt Nam hằng ngày đi uống cà phê, gặp bạn bè. Còn bên này sáng thức dậy đi làm, chiều về nhà đóng cửa, coi TV. Mấy tháng nay vợ tôi về Việt Nam, thằng H. thì đi làm xa, tôi về nhà chỉ ăn cơm nước một mình. Lớn tuổi rồi, nhà lại vắng nên nhiều khi cũng buồn.

Vợ chồng tôi tính tới chuyện sẽ về định cư lại ở Việt Nam. Đợi cho thằng H. qua bên này, rồi khi nào anh em tụi nó đứa nào cũng có công ăn sự nghiệp ổn định thì lúc đó tụi tôi mới về Việt Nam. Sống ở đâu đi nữa thì cũng không bằng ở quê hương mình.

Mong ước của tôi bây giờ là con cái, gia đình sống tập trung lại gần nhau. Thằng H. ở Việt Nam, con H. ở Boston, thằng H. ở Sacramento. Mong thì mong vậy nhưng tôi nghĩ cũng khó. Ở bên Mỹ mà, đâu phải như ở Việt Nam. Con cái nó kiếm được jobs ở đâu, nó thấy nơi nào thuận tiện thì nó làm ở đó. Phần tôi làm cha, thấy con cái nó có jobs, có của ăn của để là cũng mừng cho tụi nó rồi.

Nhiều người cứ nghĩ Mỹ là thiên đường, rồi qua bên này thất nghiệp, kiếm đồng tiền thấy khó khăn thì bị shock. Ở đâu cũng vậy, mình phải chịu khó. Làm để cho con cái nó có tương lai, sự nghiệp.

Nhận xét của người phỏng vấn

Thú thật đây là lần đầu tiên tôi có được một buổi nói chuyện rất cởi mở và thân tình với dượng tôi. Từ trước tới nay, mỗi năm vẫn gặp dượng dưới Orange County hay trên Sacramento hai, ba lần, nhưng gặp nhau thì cũng chỉ hỏi thăm sức khỏe; dượng thì hỏi cháu việc học, cháu thì hỏi dượng việc làm. Đâu có bao giờ tôi dám hỏi dượng về suy nghĩ riêng tư, tâm sự, hay mấy chuyện thời chiến xa xưa, nghe có vẻ to tát, già dặn quá. Lần này phỏng vấn dượng, lúc đầu làm thì nghĩ “à, mình làm vậy thôi, dự án nghiên cứu cuối khóa của lớp mà”, nhưng làm xong rồi thì mới thấy được cái giá trị của nó. Thấy còn nhiều cái mình còn chưa biết quá. Không giấu gì, bản thân tôi là một người cũng rất “nghiện” lịch sử Việt Nam từ năm 1954-1975. Tôi đã xem khá nhiều phim tài liệu như Cuộc chiến tranh 10,000 ngày của Daniel Costelle, cuộc chiến tại An Lộc 1972, Xuân Lộc 1975, Khe Sanh, Huế, Sài Gòn 1968… Rồi cũng đọc qua mấy bài phỏng vấn của tạp chí Der Spiegel với cựu Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu, hay các cuốn hồi ký của Henry Kissinger, William Westmoreland. Tưởng mình cũng biết được khá đầy đủ về những góc cạnh của cuộc chiến tranh Việt Nam, nhưng nghe dượng kể những chuyện chạy giặc, những trận pháo kích của cộng sản trên các tuyến đường di tản từ Trung vào Nam, rồi cuộc sống ở Việt Nam trước và sau năm 1975 thì mới thấy còn quá nhiều điều mình chưa biết.

Điểm thứ hai mà tôi muốn thổ lộ là qua cuộc phỏng vấn, tôi thấy thương những bậc làm cha làm mẹ người Việt mình quá. Nhất là những người chân ướt chân ráo sang Mỹ thời kỳ đầu sau năm 1975, hay những người có tuổi rồi được bảo lãnh qua Mỹ những năm gần đây. Dượng tôi lúc qua bên này đâu còn trẻ gì, mà phải chịu khó chịu khổ, làm đủ “jobs”, đi tiểu bang này tiểu bang kia để kiếm đồng tiền, khó khăn vất vả lắm. Nhưng dượng làm vì con cái. Cũng kiếm chút ít đồng bạc rồi gửi về cho anh H., cho phía nội, phía ngoại ở Việt Nam. Mới tháng 12 vừa rồi xuống dưới Orange County, đi nhà thờ Việt ở dưới đó, tôi gặp một bác Việt Nam tuổi cũng năm mấy, mới qua bên này, thất nghiệp, mỗi tuần được cha cố nhận quét dọn nhà thờ một, hai lần, lương tạm bợ. Thấy tội nghiệp lắm. Nhân kỷ niệm 35 năm ngày viễn xứ (30/4/1975 – 30/4/2010), ngoài việc tri ân các bậc làm cha làm mẹ đã không ngại gian khổ, hy sinh để đi tìm một cuộc sống tự do, dân chủ nơi đất khách, tôi cũng ước mong là người Việt mình ở bên này mở rộng vòng tay giúp đỡ những gia đình người Việt vừa mới sang định cư để họ có thể hòa nhập tốt vào cuộc sống mới.

3. Bài phỏng vãn của Nhân Hùng

Tôi tên là Mary. H, 58 tuổi. Gia đình tôi có 3 anh em, nên thường hay chơi chung với nhau. Tôi và em gái học ở trường Gia Long trước năm 1975. Sau trường này đổi tên thành Nguyễn Thị Minh Khai.

Thời trước 75, tôi là một nữ sinh vô tư, chỉ biết đi học và chơi cùng các bạn cùng trường, như những nữ sinh khác, nên không nắm rõ lắm về tình hình Việt Nam lúc bấy giờ. Tôi thích đọc truyện dịch hay những sách dịch từ tiểu thuyết Pháp, đọc tạp chí Ngày nay và mấy tập san của trường. Rồi thích nghe các ca sĩ yêu thích ca những bài hát dịch từ tiếng anh như nhóm The Cat’s Trio, The Apple Three…, những bài như “Chủ Nhật tươi đẹp – Beautiful Sunday”.

Tôi tốt nghiệp năm 1972 và cũng lấy chồng năm ấy.

Ngày 30/4/75, tôi cùng chồng và con gái rời Việt Nam. Trước tiên, quân đội Mỹ đưa gia đình tôi qua Guam. Sau đó, chồng tôi làm thủ tục để xin tị nạn. Đến tháng 8 năm 1975, cả gia đình được nhập cư vào Hoa Kỳ.

Mặc dù đã học tiếng Anh ở trường cũ, nhưng ngôn ngữ ở Hoa Kỳ thật khó khăn. Gặp chuyện gì, rất khó diễn tả cho người Mỹ hiểu. Tôi phải đi học ở trường dành cho người thành niên. Tôi cũng đi nhà thờ và được giới thiệu việc làm.

Lúc mới qua Mỹ, vợ chồng tôi ở apartment, cũng có vài người Việt. Hàng xóm chỉ đưa nhau vài cái băng cassette của mấy ca sĩ như Nhật Trường để giải buồn. Hồi đó, nhà ăn hay chợ của người Việt rất ít, hầu như là không có. Đến khoảng năm 1980, bắt đầu có chợ của người Việt. Thời ấy cũng không có sách tiếng Việt cho mình đọc. Mấy đứa trẻ ở nhà hay mở hoạt hình thì tôi học tiếng Anh từ đấy. Còn bây giờ, mấy đứa nhỏ ở nhà không biết tiếng Việt rành nên chúng chỉ coi truyền hình của Mỹ. Thỉnh thoảng, tôi vẫn nghe nhạc của Ngô Thuỵ Miên.

Từ khi sang Mỹ, tôi chưa về lại Việt Nam, vì gia đình và con cái đã ở Mỹ. Đời sống ở đây khác Việt Nam. Phụ nữ ở đây được tôn trọng và cơ hội cũng công bằng hơn. Con gái tôi có thể lựa chọn bất kỳ ngành gì mình thích, và đặc biệt là chính phủ tài trợ hoàn toàn học phí trước khi vào college. Khi tôi đi làm, cũng được lên chức supervisor sau khi làm việc lâu năm, chứ không bị phân biệt nam nữ.

Sống ở Mỹ, tôi chỉ nhớ thời học sinh của mình.

Nhận xét của người phỏng vấn

Sau năm 1975, nhiều sự kiện xảy ra và nhiều người rời bỏ đất nước để tìm kiếm một cuộc sống mới. Tại Mỹ, họ có nhiều cơ hội dành cho phụ nữ. Phụ nữ và nam giới có quyền bình đẳng như nhau. Chính vì thế, cơ hội đi học của phụ nữ cao hơn so với những nước Châu Á. Mặc dù, bà Mary là nữ sinh Gia Long (được coi là một biểu hiện của tự do cho phái nữ), bà vẫn khẳng định, nước Mỹ tạo ra được một môi trường công bằng đối với phái nữ. Con gái bà được theo ngành nghề mà mình yêu thích và ba mẹ không hề ép buộc cô phải làm điều gì cô không thích. Mặc dù con gái bà không biết đọc tiếng Việt, nhưng đó là sự lựa chọn của cô ta. Ở nước Mỹ, quyền phụ nữ được tôn trọng hơn so với nhiều nước khác. Mỹ cũng tạo điều kiện cho phụ nữ có những vai trò thiết yếu trong chính quyền, ví dụ bà Hillary Clinton đã ứng cử tổng thống năm 2008. Một ví dụ khác là bà Meg Whitman, cựu CEO của Ebay, cũng chuẩn bị ra tranh cử thống đốc của tiểu bang California. Bản thân bà Mary cũng được thăng chức khi làm việc tốt, không bị phân biệt đối xử. Và khi sai phạm, phụ nữ cũng bị cảnh cáo như những đồng nghiệp nam của họ.

© 2010 talawas

Loạt bài phỏng vấn của sinh viên Đại học Berkeley (phần 2)

Loạt bài phỏng vấn của sinh viên Đại học Berkeley (phần 2)
29/04/2010
Tác giả: talawas

Chuyên mục: Nhìn lại cuộc chiến 1954-1975
Thẻ: phỏng vấn

1. Bài phỏng vấn của Annie N.

Tôi là C. Phạm, hiện đang sống ở thành phố Ventura, California.

Sau khi di cư từ ngoài Bắc vào, gia đình tôi ở Tam Hiệp, Đồng Nai. Khi còn nhỏ, tôi theo mẹ đi bán ở chợ, rồi đi học. Đến khoảng 12 tuổi, tôi bắt đầu vừa đi học vừa đi đánh giày, sau đó đi bán báo. Bán ế nên đọc báo, và tập tành viết báo. Lúc đó tôi khoảng 14-15 tuổi, có một số bài được chọn đăng. Vào thời điểm đó, họ trả tiền cho một bài được đăng tương đương với tiền công làm một ngày của một người trung bình, và trả tiền ngay lập tức khi nhận bài. (Ví dụ một người bình thường ở đây hiện nay làm được $100/ ngày, thì khi bài báo được đăng sẽ được trả số tiền tương tự). Cho nên cuộc sống dễ chịu hơn vì tiền kiếm được dễ hơn. Đi bán mấy trăm tờ báo mỗi ngày cũng không bằng.

Thời đó chủ yếu tôi đọc tờ Tuổi ngọc của nhà văn Duyên Anh, chuyên viết về truyện ngắn, thơ văn tình yêu vớ vẩn của tuổi học trò. Khi đó tôi còn là học sinh, nên đây là tờ báo tôi thường đọc nhất. Hầu hết học sinh sinh viên nào cũng biết đến tờ báo này.

Tôi cũng hay đọc Xây dựng, một trong những tờ báo lớn thời điểm đó, giống như báo Người Việt bên này hiện giờ. Ngoài ra còn có tờ Chính luận, Sóng thần. Nội dung và số phát hành của những tờ này tương đương nhau. Chủ yếu viết về quảng cáo thương mại, tin tức xảy ra trong tuần. Đa số các tờ báo mang tính trung lập vì bị kiểm duyệt. Tuy nhiên, bóng dáng dân chủ trong những tờ báo ở miền Nam thì cao hơn ở miền Bắc. Sau 1975, hầu hết những tờ báo này bị dẹp hết. Những tờ báo mới xuất hiện sau 1975 thiên về chính trị nhiều hơn, bị kiểm duyệt trước khi đăng, nội dung toàn kêu gọi “yêu lao động, yêu Bác Hồ, ủng hộ tư tưởng đường lối của Đảng”. Nửa tiếng đầu giờ, nhà trường thường đem báo Nhân dân ra đọc cho sinh viên nghe.

Về âm nhạc, tôi thích Khánh Ly (bài Hạ Trắng, Biển Nhớ), Hoàng Oanh, Thái Thanh và Thanh Lan (bài Bang Bang). Hai nhạc sĩ tôi yêu thích là Trịnh Công Sơn và Phạm Duy.

Khi tốt nghiệp Tú tài II, sự kiện mùa hè rực lửa xảy ra. Trong miền Nam có lệnh tổng động viên, đóng cửa các trường đại học và trung học bậc cao. Tất cả nam thanh niên từ mười tám tuổi trở lên là thầy hay trò cũng đều bị bắt đi lính hết. Thiếu cân bằng nam nữ đến nỗi mỗi khi có một người con trai trở về, thì tất cả con gái trong trường xúm lại. Chỉ một số người có điều kiện gia cảnh có tiền hoặc bị bệnh nặng thì được ở lại, hoặc những thanh niên dưới 18 tuổi thì được hoãn chưa phải đi lính. Những người nào có bằng Tú tài thì cho vào học ở trường sĩ quan quân đội để ra làm chỉ huy. Tôi là assistant physician, làm trưởng nhóm của 30 y tá coi về y tế cho tiểu đoàn khoảng 400 người.

Cuộc sống ở miền Nam trước 1975 thoải mái hơn ngoài Bắc nhiều. Tuy vất vả, nhưng ai cũng được đến trường nếu có thời gian. Nhìn chung, vẫn là có tiền có quyền. Có nhiều loại hình kinh tế, người dân thoải mái kinh doanh buôn bán, không có kiểm soát gắt gao.

Ngày 30/4/75, tôi vẫn làm trưởng nhóm về y tế trong một tiểu đoàn quân đội. Cảm giác lúc ấy là bây giờ chưa biết sẽ thế nào, cuộc đời sẽ sang một bước ngoặt khác. Hoang mang và không biết đi về đâu. Sau đó, tôi bị bắt đi cải tạo. Vì chỉ làm quân y trong quân đội, nên tôi được học tập cải tạo ở một nơi ít cực nhọc hơn so với những sĩ quan khác.[1]

Thời này, tôi thích nhất bài “Nửa hồn thương đau”, do ca sĩ Thái Thanh hát. Khi đó đang trong trại cải tạo. Giờ cơm trưa, mọi người vừa ăn vừa nói chuyện ồn ào. Một người cất giọng hát “Nhắm mắt cho tôi tìm một thoáng hương xưa, cho tôi về đường cũ nên thơ, cho tôi gặp người xưa ước mơ. Hay chỉ là giấc mơ thôi. Nghe tình đang chết trong tôi, cho lòng tiếc nuối xót thương suốt đời…” Cả trại im bặt đi, chùng xuống buồn não nề. Hầu như mọi người cảm nhận được từng lời từng chữ của bài hát.

Chính quyền mới lệnh là tất cả những người sĩ quan, quan chức cải tạo, con của Ngụy quân đều không được vào học trường đại học. Cai trị người dân bằng gạo, nếu làm gì sai thì sẽ cắt phần gạo được phép mua.

Mãi cho tới 1986-1988, đặc biệt là khi Liên bang Xô Viết sụp đổ, thì hình thức cai trị cũng khác đi nhiều. Tính từ lúc bắt đầu Nguyễn Văn Linh lên, đời sống được thả lỏng hơn. Người dân bắt đầu được tự do buôn bán, làm ăn. Không còn bị kiểm soát gắt gao như trước đó. Có nhiều cơ hội cho những người như tôi tìm cách vươn lên và thoát khỏi cuộc sống cùng cực hiện tại.

Trước năm 1988, học sinh đi học không phải đóng tiền, nhưng sau năm 1988 thì Liên Xô không còn viện trợ cho Việt Nam. Những sĩ quan cải tạo ngày xưa nếu có tiền thì có thể đăng ký đi học đại học. Cho nên tôi đi học, lấy bằng cử nhân Anh văn. Và đi dạy cho các giám đốc của những hãng xưởng. Tuy Việt Nam bắt đầu có quan hệ ngoại giao, cuộc sống khá hơn, nhưng thời điểm đó, trong số những sĩ quan Ngụy quân thì chỉ có vài người là thoát khỏi cảnh cùng cực, 90% còn lại vẫn nằm trong vòng quản giáo của cộng sản.

Tôi sang Mĩ năm 1995, theo diện H.O. Khi mới sang, khó khăn đầu tiên là không có người thân ở đây, chỗ ở khó khăn, công việc không có. Xe cộ không có, đưa ba đứa con đi học ba trường khác nhau là hết 1 buổi sáng. Vợ đi làm nails, tôi thì đưa con đi học, rồi đi học ở community college (cao đẳng cộng đồng), rồi transfer (chuyển tiếp) qua Cal State Northbridge, lấy bằng B.S. hóa học, rồi đi làm cho hãng Amgen. Vì mắc bệnh tiểu đường, mà công việc đòi hỏi phải bay đi những nước khác, không đủ sức khỏe, nên tôi nghỉ làm, dạy kèm ở nhà. Sau năm năm, công việc ổn định, con cái học hành thành đạt thì có niềm vui và động viên cố gắng hơn. Bây giờ ba đứa con tôi đều đang học trường đại học Stanford. Hai người đang thực tập bác sĩ ở đó, người con út đang học bằng thạc sĩ. Nhìn chung là đã hội nhập được với xã hội bên này.

Ở Mỹ, tôi nhớ gia đình, người thân, nhớ những ngày tháng cơ cực cùng mẹ đi buôn bán thuở niên thiếu, và những buổi nắng gắt xếp hàng hằng giờ để đợi tới lượt mua gạo, và bị hạch sách đủ điều.

Từ ngày sang đây, tôi chưa bao giờ quay trở lại Việt Nam. Tất cả gia đình, anh em, người thân đều ở bên đó. Sống bên này tạm đủ, chủ yếu cho các con đi học, nên chưa có điều kiện trở về.

Nhìn chung mà nói thì đất nước bây giờ đã phát triển rất nhiều. Tuy nhiên, xét về tiến độ và tốc độ thì mình thua xa những nước lân cận. Nhớ ngày xưa miền Nam Việt Nam hơn xa South Korea (Nam Hàn). Mức sống, môi trường, kinh tế thời đó là thuộc hàng có hạng trong khu vực Đông Nam Á và một số nước trong châu Á. Vậy mà hiện giờ những người bên South Korea, những người nông dân Trung Quốc có thể mang một số tiền ít ỏi sang và chọn lấy vợ bên Việt Nam là những cô gái trẻ cần tiền cho bản thân hoặc gia đình. Điều này rất đáng buồn và sỉ nhục vì chúng ta vốn không thua những nước đó. Điều này cho thấy cái dở của chính quyền nhà nước Việt Nam. Rồi còn có rất nhiều vấn đề về kinh tế chính trị như việc tranh chấp quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa với Trung Quốc.

Tôi tuy không về Việt Nam, nhưng cũng có theo dõi những tờ báo online như tờ Tuổi trẻ chẳng hạn, hoặc một số báo chí khác, thấy có những con người vì miếng cơm bát gạo mà phải làm những công việc nguy hiểm tính mạng (sập cầu gây chết người). Đối mặt với khó khăn sinh nhai, liệu có mấy người quan tâm đến tình hình chuyện gì đang xảy ra đối với đất nước? Hơn nữa, các chính sách giáo dục và tuyên truyền đều quá dở. Việc bắt giữ những người đấu tranh cho tôn giáo vi phạm nhân quyền cũng ít người quan tâm, mà nếu có cũng không được tự do để kêu gọi giúp đỡ và thể hiện sự đồng tình.

Có rất nhiều vấn đề xảy ra ở Việt Nam, nhiều mặt khác nhau, nhưng nguyên nhân chính vẫn là do bộ máy quan liêu, không công bằng, không cầu tiến, hữu danh vô thực.

Nhận xét của người phỏng vấn

Ngày ông ngoại tôi còn sống, tôi thường nghe mẹ và ông ngoại nói về cuộc sống sau giải phóng cơ cực, khổ sở vô cùng vì nhà cửa tài sản bị tịch biên, ông ngoại bị đày đi tù biệt xứ. Bà ngoại một mình với 8 đứa con còn nhỏ, đã quen cuộc sống vợ của sĩ quan, đến khi ông ngoại bị bắt thì không biết làm gì. Mẹ tôi phải nghỉ học đi buôn để phụ bà ngoại lo cho các em, cho nên gia đình bên ngoại của tôi rất ghét nói về chính quyền và nhà nước Việt Nam. Ngược lại, khi nói chuyện với bác C., tôi thấy ở bác không có sự căm hờn, uất giận như ông ngoại tôi. Chỉ thấy ở bác sự tiếc nuối cho thời hoàng kim đã qua, cho cơ hội tiến lên mà nhà nước Việt Nam đã để tuột mất. Việt Nam đã có cơ hội được tiếp nhận nền văn hóa và công nghệ tiên tiến của Pháp từ sớm như vậy; nếu chính quyền nhà nước biết tận dụng nó để xây dựng đất nước thành một cường quốc giàu mạnh thì tốt biết mấy.

Về mặt văn chương, thơ ca: Người lớn tuổi thì thích những tình khúc nhạc vàng, những tình khúc tiền chiến, những thơ văn thời tiền chiến vẫn được lưu giữ và tái bản. Không chỉ những người sống từ thời chế độ cũ, mà ngay cả những bạn trẻ cũng cho là những tình khúc vàng mới hay và có nghĩa. Những loại nhạc thị trường sáng tác bây giờ không mang tính “nghệ thuật”, hát như nói, ngôn từ bình dân, không trau chuốt như những tác phẩm ngày xưa.

Qua bài phỏng vấn với bác C. , tôi thấy có một số điểm đúng với đặc điểm của báo chí tính từ lúc sơ khai đến nay. Trước năm 1975, báo chí miền Nam thiên về quảng cáo thương nghiệp, buôn bán nhiều hơn về chính trị. Tuy có hạn chế, nhưng ký giả tương đối được tự do viết và đăng bài với nhiều nội dung khác nhau. Ngược lại, từ sau 1975 tới khoảng 1986, báo chí không viết nhiều về quảng cáo thương nghiệp mà viết về tình hình chính trị kinh tế, về đường lối chính sách của Đảng và nhà nước. Điều đó cũng đúng, vì lúc ấy, với chính sách bế quan tỏa cảng và cai trị độc quyền của cộng sản, thì kinh tế miền Nam Việt Nam hoàn toàn dậm chân tại chỗ, thậm chí còn thụt lùi so với nhịp độ phát triển của thế giới. Bắt đầu từ sau 1986, khi có sự nới lỏng trong công tác quản lý và đường lối cai trị đất nước thì báo chí lại phát triển theo chiều hướng trước đây, lại thiên về quảng cáo thương nghiệp. Càng về sau này, càng có nhiều loại hình báo chia làm nhiều thể loại nhằm phục vụ nhiều đối tượng người đọc như Thể thao, Thanh niên, Người lao động, Tiền phong, Công an, Nhân dân, Phụ nữ, Điện ảnh, rồi có cả Mực tím và Hoa học trò dành cho học sinh sinh viên. Nói chung báo chí có rất nhiều loại hình khác nhau, nhưng phần chiếm diện tích nhiều nhất vẫn là giải trí và quảng cáo. Cũng có đăng truyện ngắn, ký sự, thơ văn như thời xưa. Tuy nội dung thì thời nào viết truyện ấy, nhưng ngày nay không có được mấy tác phẩm để lại tiếng vang lớn như ngày xưa. Báo chí ở Việt Nam bây giờ có thể xem là công nghiệp báo chí, vì họ viết báo thì ít, mà chủ yếu đăng quảng cáo thì nhiều, và thu nhiều tiền hơn cả tiền làm và bán báo. Về điểm này thì vẫn giống như ngày xưa: lợi nhuận thu được là một phần động lực khiến người ta làm báo và theo nghề báo nhiều hơn.

Theo tôi, từ báo chí cho đến thơ ca, nhạc kịch, theo thời gian đều thay đổi sao cho phù hợp với thời, thế, và nhu cầu của độc giả. Vì nếu không có độc giả, thì chẳng có sự ra đời và phát triển của báo và công nghiệp làm báo. Được mặt này thì mất mặt khác, nghĩa là để hình thức được phong phú đa dạng thu hút người đọc với hình ảnh đẹp, tin tức giật gân, thì nội dung chắc chắn sẽ kém chiều sâu vì chẳng có thời gian đầu tư trau chuốt mà sẽ viết theo kiểu mì ăn liền. Cũng có thể từ nhỏ lớn lên, nghe những bản nhạc mà bố mẹ tôi thường nghe, đọc những cuốn tiểu thuyết cũ kĩ mà bố mẹ tôi lưu giữ thành một bộ sưu tập, nên tôi có suy nghĩ khác với những bạn chưa từng được tiếp xúc với chúng bao giờ. Tuy nhiên, tôi không theo quan niệm hay chiều hướng hoài cổ; tôi vẫn nghe những bài hát mới, nhưng vẫn rất thích những bản nhạc vàng và những cuốn sách từng góp phần làm phong phú kho tàng văn thơ của văn học Việt Nam.

2. Bài phỏng vấn của H. Trần

Tôi tên là D. Ngô, năm nay 61 tuổi. Tôi sinh ra và lớn lên ở Buôn Mê Thuột. Cha mẹ tôi khá giả, nên họ cho tôi đi học. Cũng giống như những đứa trẻ khác, thời thơ ấu tôi thường chơi các trò chơi dân gian.

Trước năm 1975, tôi làm y tá được vài năm cho trạm xá ở Buôn Mê Thuột. Một thời gian sau đó thì tôi lấy chồng. Sau khi lấy chồng thì tôi đi dạy cấp một. Chồng là sĩ quan, bản thân tôi là giáo viên, nên cuộc sống hai vợ chồng khá giả. Tôi thường hay đọc truyện của Quỳnh Giao, Lê Hằng. Tôi thích ca sĩ Khánh Ly và diễn viên điện ảnh Thẩm Thúy Hằng. Tôi thích dòng nhạc trữ tình của Vũ Thành An, nhất là mười bài Không Tên của nhạc sĩ này. Và tôi cũng thích nhạc Trịnh Công Sơn. Lúc đó cuộc sống rất thoải mái. Tình cảm hàng xóm láng giềng rất vui. Tuy nhiên, tiến gần đến giai đoạn 1975 thì tâm lý mọi người rất lo lắng vì tình hình chiến tranh trở nên căng thẳng. Đặc biệt là những người có thân nhân làm việc cho Việt Nam Cộng hòa như gia đình của tôi.


Cuối tháng 3 năm 1975, Buôn Mê Thuột rất hỗn loạn, tôi và chồng tôi phải chạy vào Sài Gòn lẩn trốn. Trong ngày 30/04/1975, tôi rất hoảng sợ và lo lắng cho chồng tôi, và cũng hoảng sợ vì tiếng pháo kích của cả hai bên. Sau một thời gian thì chồng tôi bị bắt đi cải tạo, còn tôi ở lại Sài Gòn buôn bán lặt vặt để kiếm sống.

Tôi qua Mỹ năm 1995. Tôi đi diện HO, bằng phương tiện máy bay. Tôi rất thích thú vì đây là lần đầu tiên tôi được đi ra nước ngoài, nơi mà tôi nghĩ là tôi sẽ có một cuộc sống tốt đẹp hơn.

Sau một vài ngày đặt chân lên nước Mỹ, tôi đi học ESL được 6 tháng. Sau đó, tôi làm đầu bếp cho tiệm fastfood togo tại trường đại học Berkeley. Tôi làm công việc này liên tục gần 15 năm cho đến nay. Sau mỗi ngày làm việc, tôi về nhà nấu ăn và ăn tối cùng gia đình. Sau đó, tôi thường coi phim Hàn Quốc hay Trung Quốc. Tôi cũng thường hay xem băng đĩa những chương trình ca nhạc như Paris By Night, Vân Sơn. Tuy nhiên, từ khi qua Mỹ đến giờ thì tôi không hề đọc báo hay đọc truyện, vì thành phố mà tôi đang sinh sống không có sách báo của người Việt.

Theo tôi, các hoạt động văn hóa văn nghệ của người Việt Nam tại Mỹ ngày càng phong phú. Các tờ báo, đài phát thanh tiếng Việt ngày càng nhiều. Những chương trình ca nhạc được tổ chức thường xuyên hơn, đặc biệt là ở những thành phố đông người Việt như San Jose hay Orange County (Quận Cam). Các chương trình cũng trở nên hấp dẫn hơn nhờ sự góp mặt của các ca sĩ trẻ đến từ Việt Nam.

Cũng như những người lớn tuổi khác, sống ở Mỹ, trở ngại lớn nhất của tôi là ngôn ngữ. Ngoài ra, tôi không có trở ngại gì khác. À, sắp tới tôi sẽ gặp một khó khăn là tôi sẽ bị mất việc. Nhà hàng sẽ phải đóng cửa vì nhà trường tăng tiền thuê mặt bằng lên gấp đôi. Tình hình việc làm bây giờ rất khó khăn, tôi không biết là có thể kiếm được việc làm mới hay không.

Sống ở bên này, điều tôi nhớ nhất khi tôi còn ở Việt Nam chính là tình cảm hàng xóm láng giềng và tình họ hàng. Anh em họ hàng thường hay tụ tập và trò chuyện rất vui trong những dịp cúng giỗ ông bà hay dịp Tết. Tôi rất nhớ những kỷ niệm đó bởi vì tôi gần như không còn cơ hội vui vẻ như thế kể từ khi tôi qua Mỹ. Tuy nhiên, anh, chị, em tôi đã sang hết bên này, trừ một người anh còn ở bên Việt Nam, nên tôi không có ý định hồi hương. Nhưng tôi rất thích về thăm quê hương.

Từ khi sang Mỹ, tôi có về Việt Nam 3 lần. Lần gần đây nhất là tôi về thăm người anh đang bị bệnh rất nặng. Việt Nam hôm nay thì khác xưa nhiều lắm. Thành phố nào cũng được phát triển và mở rộng. Tuy nhiên, cuộc sống của người nghèo thì không khác xưa lắm. Họ vẫn phải vật lộn từng ngày để kiếm từng bữa ăn.

Nhận xét của người phỏng vấn

Sau một thời gian sống ở Mỹ, tôi có cơ hội để tiếp xúc với nhiều người định cư trước. Những người này đến Mỹ theo nhiều diện khác nhau như vượt biên hay đoàn tụ gia đình. Phần lớn họ thật sự hòa nhập nhanh chóng với môi trường sống mới. Đặc biệt là những người nhập cư trẻ tuổi. Với những người lớn tuổi, họ thường gặp không ít khó khăn trong cuộc sống, chẳng hạn như rào cản về ngôn ngữ hay sự thiết lập những mối quan hệ xã hội mới. Như lời tâm sự của cô D., điều mà những người Việt định cư ở nước ngoài không thể nào quên khi nhắc đến Việt Nam là tình cảm hàng xóm láng giềng, tình họ hàng. Đó là những thứ mà phần lớn họ không tìm được khi định cư ở nước ngoài. Họ thường phải dành hết thời gian để bắt kịp được nhịp sống hối hả: làm việc suốt ngày, sau đó về nhà nghỉ ngơi để lấy lại sức khỏe cho ngày làm việc tiếp theo. Họ ít khi có thời gian để đi chơi xa cùng gia đình vì ai cũng có công việc riêng của mình. Nền kinh tế của Việt Nam đã và đang phát triển rất mạnh trong giai đoạn gần đây. Điều này ít nhiều cũng thay đổi cách nghĩ của người Việt đang định cư ở nước ngoài. Những người này đã bắt đầu quay trở lại Việt Nam để làm ăn. Một số cũng muốn hồi hương để tìm lại cảm giác ấm áp của quê cha đất tổ, nơi họ tìm thấy được sự khăng khít của tình hàng xóm, tình họ hàng.

3. Bài phỏng vấn của Đoàn B.

Tôi tên là Đoàn Kh., năm nay 76 tuổi. Khi còn nhỏ, tôi sống ở miền Bắc Việt Nam. Cha tôi mất sớm. Năm mười lăm tuổi, tôi lại bị thất lạc mẹ và phải sống với dì. Cuộc sống vất vả, hằng ngày tôi phải đi bắt cua để kiếm ăn. Năm 1954, tôi di cư vào Sài Gòn một mình và bắt đầu cuộc sống mới tại đây.

Trước năm 1975, tôi từng là lính nhảy dù của miền Nam Việt Nam, rồi sau đó chuyển nghành sang cảnh sát đặc biệt. Thời đó, dân Sài Gòn sống thoải mái, có công ăn việc làm. Một công chức có thể nuôi một gia đình. Buôn bán ở lề đường được, không bị cảnh sát bắt. Cuộc sống ăn uống có dễ dãi hơn vì thu nhập cũng đủ. Nếu sống cần kiệm thì có thể mua sắm được những vật dụng cần thiết.

Tôi thích đọc truyện trưởng Kim Dung và một số tác phẩm văn học Việt Nam như Tắt đèn của Ngô Tất Tố, bởi vì tác phẩm này phản ánh cuộc sống lam lũ, dân quê của người nông dân thời bấy giờ. Về nhạc thì tôi thích nhạc của nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông và thể loại nhạc tiền chiến. Tôi hâm mộ chính trị gia Ngô Đình Diệm vì ông ấy rất được lòng dân và trị an thời này cũng rất tốt.

Ngày 30/4/75, gia đình tôi sửa soạn chạy loạn, nhưng không biết chạy đi đâu. Tôi có cảm giác sợ hãi, không biết tương lai gia đình mình sẽ đi về đâu khi không có mình, vì lúc đó ý nghĩ “Việt cộng sẽ giết chết những người lính cộng hòa” cứ lảng vảng trong đầu tôi. Sau đó, tôi bị bắt đi tù cải tạo. Sau khi mãn hạn tù “cải tạo” về, cuộc sống tôi rất vất vả. Tôi bị bệnh và bị lệnh quản chế của chính quyền nên không thể kiếm được việc làm. Vợ con tôi phải buôn gánh bán bưng vì họ không thể kiếm việc làm trong các xí nghiệp.

Tôi sang Mỹ vào năm 1996 bằng máy bay. Khi rời xa quê hương, tôi lo lắng về nơi mình đến. Tuy nhiên, vì nghĩ cho tương lai của con cháu sau này, cho dù sợ cũng phải đi. Sang đây, tôi không đi làm vì tuổi tác không cho phép. Tôi không thấy mình hoàn toàn hòa nhập vào cuộc sống bên này vì sự khác biệt của ngôn ngữ và văn hóa. Tôi thường đọc báo chí tiếng Việt nói về cuộc sống cộng đồng ở nơi tôi ở.

Sống ở Mỹ, tôi nhớ hàng xóm láng giềng và những người thân thuộc. Tôi cũng nhớ về Sài Gòn trước năm 1975. Sau khi định cư bên này, tôi có về Việt Nam một lần. Tôi thấy cuộc sống của người dân có vẻ vất vả hơn trước. Hơn nữa, tôi cũng thấy có nhiều tệ nạn xã hội hơn. Chính phủ không lo gì đến đời sống nhân dân. Tệ nạn tham nhũng của chính phủ ở mức độ địa phương cũng lộ liễu hơn.

4. Bài phỏng vấn của Hồ Ng.

Tôi là Vân T., năm nay 52 tuổi. Tôi lớn lên ở Huế trong thời kì chiến tranh nên phải chạy tránh những trận chiến lớn như Tết 1968 và Hè 1972. Mỗi lần được yên bình, không có tiếng bom đạn, tôi cảm thấy rất hạnh phúc, cho dù rất ngắn ngủi. Trước 1975, tôi vẫn còn là học sinh trung học trường Quốc Học, Huế. Vì còn nhỏ nên tôi chỉ đi học và nếu rảnh thì phụ giúp mẹ buôn bán.

Việt Nam trước 1975 rất nghèo. Hầu hết mọi phương tiện, trường học đều tập trung tại thành phố. Nhà tôi cách Huế chừng 5 km, nhưng đến năm 1967 mới có điện và đến 1972 mới có nước máy dẫn đến. Những làng quê thì càng nghèo hơn nữa.

Thời đó, thỉnh thoảng tôi thích đọc truyện của Từ Kế Tường và Mường Mán viết về tình yêu tuổi học trò. Tôi hâm mộ nhạc sỹ Trịnh Công Sơn, ca sỹ Lệ Thu, ca sỹ Khánh Ly. Tôi cũng rất thích tiếng hát, lời nhạc của Lê Uyên Phương.

Ngày 30/4/75, tôi cùng gia đình di tản vào Đà Nẵng cách Huế chừng 100 km. Hoàn cảnh lúc đó rất hỗn loạn. Tôi lo lắng cho người thân, bạn bè và có cảm giác sợ hãi. Sau ngày 30/4/1975, tôi trở về lại Huế và tiếp tục đi học, nhưng vẫn trong tâm trạng âu lo vì không biết chế độ mới thay đổi như thế nào.

Tôi vượt biên đến Hồng Kông từ Huế bằng ghe nhỏ và đến Mỹ từ Hồng Kông bằng máy bay. Đó là một chuyến đi dài và nguy hiểm, chết nhiều hơn sống, nhưng nó cũng là chuyến đi thay đổi định mệnh của tôi. Sang Mỹ, sau 2 năm đầu khó khăn, tôi xin vào học ở University of Minnesota. Tôi làm nhiều nghề như làm vườn, dọn tuyết, bồi bàn trong lúc còn đi học. Đến khi ra trường, tôi xin việc ở hãng 3M và làm cho đến bây giờ.

Sau 29 năm ở Mỹ, tôi đã hiểu được đời sống ở đây, nhưng có lẽ tôi sẽ không bao giờ hội nhập hoàn toàn được. Tôi rất thích đời sống chính trị, văn hóa nơi đây, nhưng tôi vẫn nghiền những món ăn Việt Nam. Thật sự bây giờ cuộc sống của gia đình tôi ổn định và hạnh phúc. Các con tôi sinh ra ở đây, nước Mỹ là quê hương duy nhất của chúng. Tôi mong các con biết tiếng Việt thật giỏi để gần gũi với cộng đồng người Việt.

Là người di dân đã lâu, tôi thấy tự tin và kiên nhẫn là hai thứ cần nhất. Tự tin mình có thể làm được những gì mình muốn. Người Việt mình thường hay thiếu tự tin, thiếu tự lập vì bố mẹ và người lớn đã lấy đi sự tự chủ của mình. Nghèo thì càng thiếu tự tin hơn nữa vì giai cấp xã hội. Mỹ là xã hội bình đẳng, nên hãy tự tin và làm những gì mình muốn trong khả năng của mình như đi học lại, mua một căn nhà, hay mở một cửa tiệm…

Sống ở Mỹ, tôi nhớ người thân và bạn bè. Tôi nhớ không khí Tết ở Việt Nam và các món ăn của Việt Nam. Tôi đã trở lại Việt Nam nhiều lần. Tôi thấy đời sống bây giờ tiện nghi, đầy đủ hơn. Hòa bình làm đời sống thôn quê dễ dàng hơn nhiều. Nhưng tôi thấy khoảng cách giữa người giàu và nghèo càng ngày càng rộng mà chính phủ Việt Nam chưa thật sự có chương trình nào để cải thiện. Con người Việt Nam hiện tại sống thực dụng hơn, tình cảm không còn gắn bó như trước.

Nhận xét của người phỏng vấn

Cuộc sống của người Việt Nam trước năm 1975 rất khó khăn cả về mặt vật chất và tinh thần, nhất là những người sống xa thành phố. Ngày ngày, cảm giác đang sống trong thời kỳ chiến tranh vẫn luôn hiện hữu qua tiếng bom. Thỉnh thoảng lại nghe tin bạn bè, người thân trong họ hàng ngã xuống hay bị thương tật vì bom đạn. Tuy nhiên, trong hoàn cảnh đó, con người vẫn tìm niềm vui và hạnh phúc qua tiếng nhạc lời ca hoặc các tiểu thuyết viết về tình yêu, tình bạn bè. Cái không gian yên bình tĩnh lặng dường như là điều gì đó rất đáng quý mà người dân Việt Nam mong chờ trong giai đoạn đó. Mong ước hòa bình, chấm dứt chiến tranh có lẽ là ước mơ lớn nhất của mọi người Việt trước năm 1975. Tuy thời điểm 30/4/1975 chấm dứt chiến tranh, mang lại sự yên bình cho đất nước, nhưng cảm giác hoang mang và lo âu trong giai đoạn đó là điều khó có thể tránh khỏi. Mỗi người có thể có nhiều nhận thức khác nhau về sự thay đổi của xã hội và đất nước, và họ phải tự chọn cho mình một cuộc sống khác nhau. Một số người chấp nhận sự đổi thay chế độ trên đất nước Việt Nam, một số khác lại chọn con đường vượt biên tìm đến các đất nước tự do hơn, phồn vinh hơn, mặc dù vẫn biết sự sống và cái chết rất gần nhau trên những con thuyền nhỏ mong manh vượt biển!

Bây giờ khi nhìn vào những điều kiện và cơ hội tôi đang có, tôi cảm thấy mình may mắn rất nhiều so với hoàn cảnh sống của cha mẹ tôi. Ở độ tuổi học sinh như tôi, họ đã phải học tập trong môi trường không bình yên của chiến tranh, phải trải qua những tháng ngày lo âu sợ hãi khi sống chung với bom đạn gần kề vào những năm 1968, 1972, 1975. Họ phải làm việc rất nhiều để bươn chải kiếm sống, vượt qua nhiều khó khăn trong thời kỳ trước và cả sau 1975. Trong giai đoạn khó khăn đó, tình cảm gia đình là chỗ dựa tinh thần để giúp con người vượt qua và có động lực sống tốt hơn. Vì thế, tôi thật sự trân trọng và gìn giữ tình cảm gia đình cũng như quê hương Việt Nam của mình.

© 2010 talawas


--------------------------------------------------------------------------------

[1] Ví dụ như ông ngoại của người thực hiện phỏng vấn, vì từng làm Đại tá ngoài tỉnh Khánh Hòa, nên bị bắt đi cải tạo biệt xứ ở trong rừng, biệt tích mấy năm không biết tung tích. Sau đó được thả về, tuy nhiên, sau đó bị theo dõi cuộc sống thường ngày.

Loạt bài phỏng vấn của sinh viên Đại học Berkeley (phần 3)

Loạt bài phỏng vấn của sinh viên Đại học Berkeley (phần 3)
30/04/2010 | 5:49 sáng |
Tác giả: talawas

Chuyên mục: Nhìn lại cuộc chiến 1954-1975

Thẻ: phỏng vấn

1. Bài phỏng vấn của Y. Nguyễn

Tôi là Bùi H. Hồi xưa tôi ở miền quê lội dưới bùn cực khổ, chủ yếu được dạy về kiến thức đạo đức giáo dục, tôn trọng người lớn tuổi hơn mình. Tôi trốn miền Bắc vô miền Nam, cha chết khi chiến tranh với Việt cộng, cuộc sống rất cơ cực, khắc nghiệt không tưởng tượng được.

Hồi đó, Mỹ, Nga, Trung cộng giúp Việt Nam với danh nghĩa chống Pháp để giành độc lập. Việt Nam theo chủ nghĩa Mác-Lê Nin: Đối với người giàu có (bị áp dụng chính sách áp bức) chẳng hạn như bớt 1/3 bơ gạo để quyên góp, sau thành 2/3; người nào trải qua không sống được với cộng sản nên phải ra đi. Hồi đó, người ta vào thành phố bằng đường chính, còn đường nhỏ thì không cho đi. Do kiểm soát chặt chẽ quá nên chỉ có một triệu người ra đi lúc đó. Đời sống rất cực; lúc đó phải có bằng cấp ăn học mới có công ăn việc làm khá. Tôi học hết tiểu học, rồi lên Sài Gòn học junior high school. Hồi đó học ở Việt Nam khó lắm chứ không dễ, phải thi đậu mới được lên lớp trên. Tôi học trường Đại học Phú Thọ, rất khó, 3000 chỉ lấy có 30 người, tôi là một trong 30 người.

Hồi nhỏ tôi hay đọc báo của nhà văn Quyên Di, hiện là giáo sư đại học trường Long Beach dạy về văn học Việt Nam. Tôi đọc từ năm 8 tuổi đến năm hai mươi mấy tuổi. Đọc báo này rất quý và có lợi cho tuổi trẻ. Tôi đọc báo hằng ngày, tiểu thuyết, sách rất nhiều. Hay hay dở tôi đều đọc cả, vì hay hay dở đều có lợi. Đọc cái dở để mình biết mình tránh.

Trước năm 1975, tôi có đọc một quyển sách học làm người. Tôi rất quý quyển sách này. Nhờ nó mà tôi may mắn. Nó giúp cho tôi biết cách sống từ nhỏ; cho đến giờ vẫn còn áp dụng được. Những người ở Mỹ làm chức lớn đều đọc qua quyển này. Nó giúp người ta trau dồi, giúp biết cách suy nghĩ, biết làm sao ăn nói, xử sự. Để đọc quyển này phải có một kiến thức tối thiểu. Hơn nữa phải đọc nhiều lần. Nó dạy mình làm sao biết cách làm cho người khác phục mình, làm cho họ không chê trách mình. Những người làm lớn thường đọc thì mới biết cách điều khiển.

Báo chí thời tôi hồi đó nhiều lắm, tập trung chính ở Sài Gòn, chẳng hạn như Tia sáng, Chính luận, Ngôn luận, Tiếng chuông. Những trang đầu là tin tức chiến tranh khắp nước, tin xây dựng nông thôn, tin về trong nước, rao vặt bán hàng là trang bên trong, rồi tiểu thuyết. Báo chí miền Bắc thì đa số là để kích động dân chúng chống Mỹ cứu nước đánh nhau, chứ không phải văn chương. Nói một cách tổng quát là chỉ đề cao Bác Hồ, chủ nghĩa Mác-Lê, chứ không phải là văn chương tự do.

Tôi thích nhạc hay về cả về âm thanh và nội dung chứ không thiên về một cái gì hết. Đặc biệt tôi thích những bài về quê hương Việt Nam, chẳng hạn như: “Tôi yêu tiếng nước tôi từ khi mới ra đời người ơi...” (hát). Ca sĩ mà tôi thích nhất là Thái Thanh, với nhiều bài như “Hương cao vô tận,” rồi “Tình ca” do Phạm Duy sáng tác. Thái Thanh có một chất giọng rất đặc biệt. Những bài Thái Thanh hát là những bản nhạc vượt thời gian rất hay, cho đến giờ tôi vẫn thích. Tôi không biết nhiều về nhạc lý, nhưng khi nghe nhạc tôi có thể biết được bản nào có quality hay không. Hồi đó lúc đầu, ca sĩ Khánh Ly rất phổ thông, nhưng chỉ là cao trào nhất thời, chứ không có giá trị mấy. Cho đến sau này thì mới thật sự có vài bản hay của Khánh Ly. Còn có Phương Dung với bài “Con nhạn trắng Gò Công”. Đó là những bản nhạc rất hay mà người khác hát không được. Tài tử văn nghệ lúc đó thì phần lớn về cải lương và rất ít phim ảnh. Hồi đó phim ảnh còn rất yếu, kỹ thuật đóng dở, ví dụ Kiều Trinh, không xuất sắc mấy.

Sau khi tốt nghiệp đại học tôi không phải gia nhập quân đội. Vì bố và ông anh lớn chết, là con trai duy nhất nên tôi được miễn trừ để lấy vợ nối dõi tông đường. Tôi làm trong hãng (nhân sự) lớn, có một chiếc tàu tương đương tàu quốc tế. Nhờ chiếc tàu này mà tôi được đến Mỹ. Lúc đó thời thế thay đổi, mỗi người một số phận. Số tôi rất may vì được đi theo một đoàn tàu trốn ra. Tôi cảm thấy mình là người quá may mắn sung sướng vì không phải đi lính và được làm trong hãng lớn. Đời sống người sĩ quan như tôi lúc đó lương 20/30 ngàn một tháng, không đủ để có một cuộc sống thoải mái (vì phải sống xa gia đình cơ cực thì làm sao mà đủ). Hồi đó, lương người tốt nghiệp đại học tối đa khoảng 25 đến 35 ngàn một tháng. Người dân thường thì lương khoảng 10 ngàn là quá, rất hiếm người có đủ để chi tiêu hay có đời sống gọi là trung bình, trừ những người mua bán hoặc làm cho hãng Mỹ, tiếp xúc với Mỹ, thì mới có tiền.

Đời sống Việt Nam ngày xưa ở miền quê bom đạn ở gần nghe thấy hết. Hồi đó tôi còn nhớ, cách 2 cây số gần nhà, tôi tận mắt chứng kiến cộng sản giết người rất dã man. Bọn chúng đem kiếm ra chặt đầu người ta vào ban đêm, nên ban đêm tôi không dám để cho tụi nó thấy mình có ánh sáng trong nhà. Tôi phải bật đèn dầu rồi che kín lại cho bọn chúng không nhìn thấy để mà học bài. Thời đó đời sống làm lụng khổ cực, tinh thần thì hỗn loạn vì Việt Cộng nằm vùng giết những người xung quanh rất đáng sợ. Ban ngày dưới sự kiểm soát của chính phủ cộng hòa, còn ban đêm cộng sản đến uy hiếp, thành ra ban ngày ai mà theo chính phủ thì đêm đến lại lo sợ cộng sản uy hiếp mình và ngược lại. Đời sống áp bức lo sợ như vậy nên không thể biết những người xung quanh mình là theo người phía nào. Có những người bán tin tức gọi là cán bộ nằm vùng – spy tiếng Mỹ. Con biết người bán tin tức là sao không? Họ là Việt cộng, bí mật báo cáo, tự nhiên đến gõ cửa dẫn người ta đi luôn, hay nhốt tù người ta. Thành ra hồi đó có những người xung quanh nhiều khi ngủ dậy thấy người thân mình đi đâu mất không biết là do vậy.

Hồi nhỏ tôi còn nhớ, lúc đang đi học ở high school, tôi nghe nói có người bị khủng bố cách 2 cây số. Tôi đến nơi chứng kiến tận mắt. Người cộng sản chặt đầu người ta trước mặt mọi người, mổ bụng rồi gài mìn. Người nhà của người chết thấy thương mà lật lên thì người bị lật và người lật đều chết luôn nên ai cũng sợ. Cộng sản bây giờ khác cộng sản 75. Lính Việt cộng hồi xưa không có quần áo mặc, dép cũng không có mà đi.

Tôi kính trọng Ngô Đình Nhu và Tổng thống Ngô Đình Diệm vì hồi đó, khi đánh nhau với Việt cộng, Ngô Đình Diệm đưa ra chính sách Ấp chiến lược. Chính sách này rất hay vì nó tránh Việt cộng trà trộn với quốc gia. Chính sách này gom dân vào một chỗ (giống như chung cư), xung quanh có hàng rào lính canh gác. Vì vậy, người ban đêm mà lảng vảng là biết ngay là cộng sản; ban ngày họ có thể trà trộn được, nhưng ban đêm ai cũng biết ai, nên Việt cộng vô không được. Đây là thời điểm tốt nhất, ông Ngô Đình Diệm rất giỏi. Thật đáng tiếc là về sau người ta hủy bỏ chính sách đó, rất uổng. Sau này, ông Ngô Đình Nhu và Ngô Đình Diệm có viết một cuốn sách tên là “Nhân Vị”. Sách này rất hay vì dạy người chỉ huy phải làm sao để có uy tín, để điều khiển được người khác. Ngô Đình Diệm là người tôi nghe được, thấy được, là người đối chọi cộng sản hay nhất. Ông từng đi du học bên ngoài, nhưng khi trở về ông làm lợi cho quốc gia mà không cho bản thân mình.

Vào ngày 28 hay 29 tháng 4 năm 75, tôi còn nhớ lúc đó là dội bom dinh Độc Lập. Đêm đó rất hỗn loạn và tôi lo sợ. Sau ngày đó, đất nước sụp đổ, cộng sản vô, nên mình rất sợ. Một triệu người miền Bắc di cư vào Nam rất sợ. Tôi còn nhớ, cả đêm tôi không ngủ. Tôi trèo lên nóc lầu quan sát tình hình. Máy bay đạn đỏ rực trên trời, tiếng súng nổ khắp nơi. Lúc đó sợ nhưng không biết làm sao.

Đêm trước ngày 30 tháng 4, tôi rất sợ. Tôi không đi đâu vì không ai dám đi trong lúc này. Xong sau thấy người ta bắt đầu đi nhiều nên tôi cũng đi luôn. Tôi đến con đường ra chỗ tàu, lính cản không cho vô (đường biển). Rồi tôi gặp hai người liên lạc sĩ quan hải quân, họ chở tui và gia đình lên tàu. Lúc đó, không còn nhân viên, không có ai làm việc trên tàu, dưới máy có một mình ông engineer, không biết làm sao qua hải cảng được vì tàu lớn mà người quá ít. Tôi là chỉ huy mà phải làm hết. Tôi nói với mấy người trên tàu là các anh phải giúp tôi. Lúc đó ai muốn đi thì đi, không còn luật lệ hay bất cứ cái gì hết. Có một chiếc tàu khác nhỏ hơn tàu tôi, người tràn lên đầy nghẹt, nhưng sau mới biết là tàu bị chết máy. Tàu tôi chở được mười ngàn tấn hàng, lớn quá nên không ai dám lên hết. Lúc đó cảnh sát đóng cổng thương cảng không cho vô, nhưng nếu cho vàng tiền bạc thì họ cho vô nên người ta vô được. Tới nơi rồi cứ đi bừa thôi. Tàu đi chở khoảng 800 người. Chưa rời khỏi hải cảng, trên đường đi ra thì tàu bị bắn. Trái đạn lớn nước vô tàu, nhiều người hoảng sợ nhảy xuống vô bờ. Bắn đến nỗi hư hệ thống ga của tàu. Tôi phải đổi lại hệ thống lái. Sau đó lần hai bị bắn xối xả, may không trúng chỗ người nằm. Đến lần thứ ba tàu bị bắn thì nhà văn Chu Tử, nổi tiếng viết những tiểu thuyết dày về yêu ghét hờn bị bắn trúng. Viên đạn bắn vào tàu trúng vào chỗ ông ấy ngồi. Ông chết trên đường đi tìm tự do.

Sau đó tàu gặp hạm đội của Mỹ, nhưng họ không giúp. Họ ra lệnh mình cứ đi tới Phi Luật Tân. Họ không giúp vì lúc đó có nhiều tàu bè quá, và vì tàu của mình lớn, nên họ nói có khả năng chạy tiếp. Đến nơi thì người trên đảo giúp mang những người bị thương ra khỏi tàu. Cả chết và bị thương là 23 người. Sau đó người ta chở đồ ăn cung cấp cho tàu và giúp mình sửa chữa chỗ hổng trên tàu. Tàu lủng một lỗ khoảng 7 fts. Đến Guam thì ở đó hai tháng, cập vào trại tị nạn ở khoảng một tháng, làm thủ tục rồi đến Mỹ khoảng tháng 7/1975.

Trước đây tôi từng qua Mỹ nên biết đời sống khó vô cùng. Hồi đó tôi biết tiếng Anh nhưng không giỏi. Rồi tôi có quen một người bạn engineer (Mỹ trắng). Ông ta chở tôi về nhà chơi. Tôi bảo ông là thấy đời sống vật chất ở Mỹ sướng, thấy nhiều người đi đây đó như đi Wisconsin. Ông ta mới kể cho tôi nghe là lương kỹ sư 1200$ mà tao phải trả tiền nhà, tiền bảo hiểm xe đủ thứ. Vì vậy nên không dư một đồng nào và cũng không đi đâu được cả. Lúc đó tôi mới cảm thấy đời sống ở Mỹ này rất khó. Mà không chỉ riêng tôi. Trước khi qua đây, nhiều sĩ quan Việt Nam Cộng hòa cũng biết đời sống Mỹ rất khó. Khi mất nước, họ không dám đi mà ở lại chấp nhận đi học tập cải tạo, sống cực khổ trên đất nước quê hương nghèo.

Khi tới Mỹ, tôi nghĩ mình phải cố gắng trau dồi tiếng Anh, học cái căn bản để làm công việc mới. Lúc mới đến, tôi học bằng technician, ở Santa Ana. Sau đó, tôi apply thì nó nhận (resume good). Tôi được nhiều người nhận. Vì có kinh nghiệm, học thức nên tôi vẫn kiếm việc được, dù cuộc sống rất khó khăn. Kiến thức và cố gắng hội nhập là cái cần nhất trong lúc này. Chủ yếu là mình phải chấp nhận. Con có biết chấp nhận là sao không? Chấp nhận nghĩa là bằng lòng với những gì mà mình đang có, nhưng vẫn tiếp tục trau dồi để vương lên. Vấn đề đòi hỏi là ở chỗ thời gian thôi chứ cũng không khó lắm. Vì đi làm cho Mỹ trước 75, biết tiếng Anh căn bản trước rồi nên cũng đỡ. Đa số những người qua đây từng làm cho hãng Mỹ thì ok vì họ biết căn bản.

Kỉ niệm lúc còn nhỏ ở Việt Nam mà tôi nhớ nhất là đi câu, đi thả diều, bắt cá tắm sông. Tôi thích cảnh đẹp đồng bằng sông ngòi Việt Nam, con người Việt Nam. Con người rất hiền lành chất phác dễ thương. Họ nghèo và an phận với cuộc sống của họ. Tôi còn nhớ lần đó tôi trèo lên hái trái bưởi làm bể đồ nhà người ta. Ông chủ nhà nói thôi nó đã cũ rồi, có bể cũng không sao hết con. Tôi có đưa tiền đền nhưng họ không nhận.

Kể từ khi rời đất nước, tôi trở về Việt Nam lần đầu là năm 1995. Tôi về thăm người thân, nhưng lúc tôi về thì mẹ mất rồi, tôi chỉ còn cháu và anh em ở Việt Nam. Trở về thăm, tôi thấy những gia đình sống ở Việt Nam còn quá nghèo. Sau đó, lần cuối cùng là năm 2005 tôi về thăm gia đình. Sau khi tôi về thì người chú mất. Tôi về Việt Nam, hài lòng là thăm được người thân yêu nhưng rất buồn vì thấy đời sống ở bển còn cơ cực. Tôi mơ ước kỉ niệm, đi tìm kỉ niệm, nhưng lúc về Việt Nam thì nó không còn nữa. Sông ngòi ô nhiễm, bị tàn phá trụi lủi.

Theo tôi, con người, xã hội và đời sống ở Việt Nam có hai nhóm người chính. Nhóm người buôn bán thì giàu. Tiền lương trung bình người có trình độ đại học là 100 đô la một tháng, tức 30 đồng một ngày. Hầu hết người ta không có công ăn việc làm. Lương giáo sư có 600 ngàn thì sao mà sống. Có một điều khi trở về thì tôi không thấy sự khác biệt giữa cộng sản và không cộng sản như trước kia trên thành phố Sài Gòn. Mình không làm gì thì họ không động tới mình. Nhưng chính quyền cộng sản vẫn hiện diện và dân chúng vẫn nghèo khổ.

Tôi thấy chỉ về Việt Nam chơi chứ không thể sống. Lý do là vì thực tế y tế; tôi sợ y tế Việt Nam không bảo đảm, kiến thức con người còn thiếu thốn, dụng cụ văn minh tối tân mua về nhưng chưa chắc đã biết sử dụng. Hơn nữa, đời sống xung quanh cực khổ. Là người có đạo đức, mình không thể về đó sống sung sướng trong khi những người xung quanh còn khổ được. Sống ở đây rất là enjoy, lạnh có heat, nóng có máy lạnh, có phương tiện di chuyển. Về Việt Nam, ra Vũng Tàu gần vậy mà đi phải đi tới 4 tiếng đồng hồ, đường phố chật hẹp, không thể nào sống nổi. Đa số những người tôi biết về Việt Nam sống, có người ở được 2 tháng, có người 6 tháng, hoặc nhiều lắm là 8 tháng, chưa ai vượt quá một năm mà sống được. Người thích về Việt Nam là người làm ăn, hoặc có tiền bạc thích sống kiểu thuê người làm, hoặc không có công ăn việc làm ở đây thì mới về Việt Nam.

Nhận xét của người phỏng vấn

Khi bắt đầu trả lời phỏng vấn, bác H. nói “ngày xưa chủ yếu dạy về kiến thức đạo đức giáo dục.” Câu nói của bác làm tôi nhớ đến những điều vừa học trong thời gian qua. Văn học Việt Nam đặt nặng về đạo đức giáo dục, dạy cho người ta cách làm người, nên nó ăn sâu vào suy nghĩ và hành vi của cả một đời người từ lúc thơ ấu cho đến khi trưởng thành. Bác H. là một minh chứng sống của ảnh hưởng đó. Bác nói về một cuốn sách “dạy làm người” mà bác trân trọng và quý, cho đến bây giờ bác vẫn còn đọc lại, vẫn còn thấy được giá trị của quyển sách này trong đời sống thực của mình. Ngoài ra, khi nói chuyện với bác, tôi có cảm giác rất cảm thông và hiểu tâm trạng của bác khi bác kể về thời thơ ấu của mình lúc di cư vào Nam. Nghe bác nói, “cuộc sống tôi rất cực khổ… con không tưởng tượng được…”, tôi nhớ tới nhân vật Xuân trong “Tiếng đàn” của Hoàng Đạo. Xuân luôn có mặc cảm, có cảm giác xa lạ như đang đứng trên một đất nước khác trong chuyến đi của mình đến Huế. Đó là tâm lý chung của người miền Bắc khi đặt chân lên một miền đất mới. Cuộc sống và tuổi trẻ của bác H. bắt đầu bằng sự lập nghiệp ở miền Nam xa lạ, một hành trình đầy gian khổ, gắn liền với những sự kiện bất ổn của chiến tranh. Cuộc trò chuyện với bác H. giúp tôi thấy cuộc sống của mình rất may mắn hơn những người thế hệ trước đây vì họ phải trải qua bao thử thách lớn, lâm vào tình cảnh là người rời bỏ quê hương của mình để có thể tìm đến một cuộc sống tự do nơi đất Mỹ.

2. Bài phỏng vấn của M. Berry

Tôi tên là Nguyễn M.T., được 62 tuổi. Tôi sinh ở Sài Gòn, lúc nhỏ tôi đi học ở tiểu học và trung học, sau đó tôi đi lính. Thời nhỏ tôi muốn trở thành bác sĩ, nhưng sau khi học hết trung học, tôi phải nhập ngũ, vào quân đội. Sau đó tôi chuyển qua không quân, cho nên không có dịp học y khoa.

Tôi đọc báo nhiều hơn đọc sách và thích báo về chính trị nhiều hơn, chẳng hạn báo Độc lập. Khi đọc sách, tôi đọc về lịch sử, truyện cười, tình yêu, tình cảm, và lãng mạn. Tôi hâm mộ các nhân vật lịch sử như Trần Hưng Đạo, Quang Trung, và Lý Thường Kiệt. Tôi thích những bài hát của Trịnh Công Sơn – như Diễm xưa, Cát bụi, và Mưa hồng, thích các ca sỹ Khánh Ly và Lệ Thu. Tôi cũng thích những loại nhạc khác như nhạc tình cảm, nhạc trẻ, và nhạc Tây như Beatles và ABBA.

Tôi làm máy bay vận tải. Khi trên trời, tôi chụp hình và thả pháo sáng. Thời đó tôi đã lập gia đình, có một con gái, nhưng đời sống chật vật khó khăn và lương lậu ít ỏi. Đời sống ở Việt Nam trước 1975 đa số dễ dàng; mọi người được tự do đi lại, rất thoải mái, có nhiều cơ hội. Họ có quyền phê bình chính phủ.

Ngày 30/4/75, tôi ở căn cứ U Tapao ở Thái Lan. Lúc đó tôi có cảm giác mất mát, hoang mang, mụ mị, không biết đất nước như thế nào, không biết đi đâu, không biết tương lai về đâu. Tôi ở Thái Lan khoảng một tuần, đi máy bay đến Guam, sau đó từ Guam đến Mỹ bằng máy bay. Chính phủ Mỹ cho tôi đến Doanh trại Chafee, tiểu bang Arkansas. Tôi ở đó một tháng. Rồi tôi với gia đình chuyển sang sống ở tiểu bang Maryland. Tôi phải bảo trợ họ từ Pháp sang. Tôi đi làm bồi bàn và đồng thời đi học về máy tính để trở thành một kỹ sư phần mềm. Vào năm 1977, chúng tôi đi Washington DC và sống ở tiểu bang Virginia năm năm, rồi năm 1980 chuyển sang tiểu bang California. Chúng tôi sống ở Riverside hai năm, lúc đó tôi làm kỹ sư máy tính cho Siêu thị Brothers. Từ năm 1984, chúng tôi chuyển tới San Jose. Tôi làm kỹ sư máy tính cho công ty National Semiconductor.

Sống ở Mỹ, tôi nhớ tất cả mọi thứ, cuộc sống hàng ngày, đồ ăn, lối sống, sinh quán, đường phố, nhà cửa, bạn bè, người thân. Tôi cũng thường nhớ thời thơ ấu và thời lớn lên. Nhưng sau một thời gian hơi dài thì tôi thấy mình đã hội nhập được. Tôi học về văn hóa của người Mỹ bằng cách đi làm. Mới đầu, tôi thấy khó tiếp xúc. Nhưng dần dần tôi bắt đầu làm bạn với người Mỹ, tìm hiểu về các môn thể thao, âm nhạc, vân vân. Khía cạnh khó khăn nhất là ngôn ngữ. Nhưng bây giờ tôi cảm giác nước Mỹ là quê hương thứ hai của mình.

Kể từ khi rời Việt Nam, tôi đã trở lại rất nhiều lần rồi. Gần như năm nào tôi cũng về. Lần đầu tôi về (sau khi miền Nam thất thủ) là năm 1991 khi ông cụ mất, và phải về để cúng bái. Tôi thấy chế độ của chính quyền hiện tại rất ràng buộc, không có tự do cá nhân như ngày xưa, dân nghèo hơn, đa số không có dịp học nhiều, người địa phương có vẻ thận trọng, đắn đo lời nói hoặc là không được nói, không được phát biểu quan điểm. Khi phát biểu ý kiến, họ rất cẩn thận.

Trong tương lai, tôi hy vọng Việt Nam sẽ được có tự do nhiều hơn và người dân giàu có hơn. Tôi nghĩ tự do quan trọng hơn giàu có. Theo tôi, tự do làm nước giàu có và may mắn hơn. Tôi lo sợ trong tương lai thế hệ trẻ không có giáo dục, không học hỏi nhiều. So với cách đây 30 năm, bây giờ văn hóa Việt Nam đang cải thiện đến một mức độ tốt hơn. Tuy nhiên, thế hệ trẻ cần học nhiều, học tiếng Anh, học lịch sử độc lập, học về nước Tàu, nước Pháp, học về một ngàn năm độc lập của Việt Nam. Độc lập là quan trọng vô cùng. Họ phải học về lịch sử, văn hóa, truyền thống, hiếu nghĩa, trọng nghĩa. Bây giờ Việt Nam thay đổi nhiều quá, trộn văn hóa ngoại quốc nhiều quá, giống như Hàn Quốc. Thế hệ trẻ cho rằng họ rất tinh vi, nhưng họ thật sự tham lam. Họ cố gắng để làm giàu mà không cần học tập, họ kết hôn với người nước ngoài để làm giàu, nó thật sự là buồn.

Nhận xét của người phỏng vấn

Tôi luôn ngạc nhiên bởi sự kiên cường và những cống hiến của thế hệ trước. Thế hệ này trải qua chiến tranh, tị nạn, đói nghèo, khủng bố chính trị, và tái định cư tại nước ngoài, nhưng họ vẫn kiên trì và tạo ra cuộc sống mới. Nhiều người làm như vậy mà không trở nên cay đắng hay nuôi ác tâm. Ngược lại, tôi nghĩ họ là một nhóm người giàu lòng từ thiện, vui vẻ, và trung thực. Mất quê hương và khởi động lại ở nước ngoài là một việc cực kỳ khó khăn. Tôi nghĩ rằng hầu hết người Mỹ không thể làm điều đó.

Tôi đồng ý với nhiều lo ngại của thế hệ lớn về thế hệ trẻ. Phải biết lịch sử mới hiểu được bản sắc riêng của mình. Việc theo đuổi tiền tài mà không cần xem xét đến khía cạnh đạo đức sẽ dẫn đến thảm họa xã hội và thất bại cá nhân. Tôi hy vọng mình có thể giúp thế hệ lớn kể những câu chuyện của họ để giúp thế hệ trẻ hiểu được tầm quan trọng của độc lập, tự do, và hòa bình. Người Việt thường nhiều hy vọng và lạc quan. Trong khi họ hiểu được nỗi buồn qua âm nhạc, thơ, và văn học, họ vẫn tin rằng tương lai có thể tiếp tục cải thiện. Qua sự kết hợp giữa kiến thức và hy vọng đó, tôi cảm thấy rằng thế hệ người Việt đi trước thực sự có những điều để giảng dạy toàn bộ thế giới. Họ là hiện thân của những bài học lịch sử. Tôi thực sự may mắn được biết những người thuộc thế hệ này của Việt Nam.

3. Bài phỏng vấn của M. Nguyễn

Tôi tên Hà L., sinh năm 1953 tại Huế, Việt Nam, là con thứ 9 trong một gia đình có 15 người con. Gia đình tôi thuộc loại dân nghèo thành thị. Cha tôi làm công chức, lái xe ở ti công chánh thị xã. Mẹ tôi ở nhà chăm sóc con cái. Cả 15 anh em đều được đi học. Hồi nhỏ tôi vừa đi học, vừa đi quét rác và lượm củi giúp gia đình. Anh em tôi đến tuổi thì vào Qui Nhơn đi làm thuê và đi học trong đó. Cha tôi mất sớm, nên gia đình khó khăn hơn lúc trước. Mẹ tôi phải đi làm thuê kiếm từng bữa qua ngày, may mắn là cũng nuôi lớn mấy anh em tôi. Năm 1964, một số anh em tôi qua đời vì bị bệnh đậu mùa. Một số khác qua đời vì đạn lạc và mìn. Gia đình tôi chỉ còn lại 9 người.

Khi lên 7, tôi vào học trường tiểu học Nam Giao. Sau khi thi đậu đệ thất, tôi được học trường trung học Đồng Khánh ở Huế từ lớp 6-12. Tới năm 1973, tôi thi vào trường sư phạm Qui Nhơn. Học ở đó được một năm rưỡi thì giải phóng miền Nam, tôi phải chạy loạn vào Sài Gòn.

Tôi sống trong thời chiến giữa quân đội Việt Nam Cộng hòa và cộng sản. Cả gia đình tôi về mặt vật chất hơi thiếu thốn, nhưng cuộc sống khá ổn định. Các anh em trai của tôi đến 12, 13 tuổi được gởi vào Qui Nhơn, vào nhà bà con làm thuê và giúp việc. Còn chị em gái tôi đến tuổi thì vào Qui Nhơn học. Khoảng thời gian còn nhỏ, tôi hay nghe tin những người lính tử trận khắp nơi, dần dần tôi được chứng kiến cảnh họ chết ngay trước nhà. Cảm giác khá hinh hãi, nhưng dần tôi cũng ý thức được đó là chiến tranh. Tiếng bom mìn dần trở thành một thứ âm thanh tôi nghe thường xuyên. Những lúc chiều đến, mỗi khi nghe tiếng còi Thiếu Quân Lục hú, ai ai cũng hối hả chạy về nhà trốn trong hầm. Mỗi lần như thế, thêm tiếng đạn cannon bắn, tôi sợ ghê lắm. Xuân Mậu Thân 1968, cộng sản tấn công Huế làm cả nhà tôi tan tác. Gia đình tôi phải chạy vào trường trốn. Một tháng sau cuộc công kích, tôi trở lại nhà và phải chứng kiến cảnh một số người thân và láng giềng bị chôn sống trên đồi. Thêm vào đó là cái chết của ông hàng xóm. Ổng là lính xây dựng nông thôn, bị Việt cộng giết trong cuộc tấn công Tết Mậu Thân. Tôi nhớ sáng sớm nghe tiếng cả nhà ổng khóc thảm thiết, chạy qua coi mới thấy xác ông nằm trong nhà, đầu bị bôi vôi trắng toát. Phải chứng kiến những cảnh như vậy làm cho tinh thần tôi bị chấn thương. Tôi sống trong sợ sệt, đặc biệt là khi đêm xuống, tôi cứ nghĩ tới chuyện Việt cộng về. Tôi không hình dung ra Việt cộng là ai, cứ tưởng họ là người rừng, không biết họ sẽ giết ai, không biết khi nào sẽ đến phiên gia đình tôi bị giết cảnh cáo như ông lính xây dựng nông thôn kia. Khi lớn lên vào Qui Nhơn học, tôi cũng không dám đi xe về thăm nhà vì sợ bị Việt cộng phục kích, cho xe nổ mìn. Cuộc sống kinh hoàng của tôi kéo dài cho đến năm 1975.

Xã hội miền Nam trước 1975 rất quan trọng việc học. Trẻ em đều được đến trường mà không phải nộp lệ phí. Tất cả mọi người dân đời sống nghèo khổ và phải lao động khá vất vả. Con nít ngoài việc học còn phải phụ gia đình đi làm thêm hoặc đi xa nhà làm thuê nuôi gia đình (như các anh em tôi). Còn con trai đến tuổi quân dịch, nếu thi hỏng tú tài bán phần hay toàn phần thì phải nhập ngũ, ngoại trừ những gia đình chỉ có một người con trai thì được miễn. Còn về xã hội, tôi nhớ có một khoảng thời gian gọi là Gia đình trị (hình như năm 1963). Lúc đó toàn quyền lãnh đạo đều nằm trong tay gia đình Ngô Đình Diệm. Tôi nhớ họ đàn áp đạo Phật ghê lắm. Gia đình tôi ở trong xóm chùa nên có lúc nghe những thầy trong chùa mang nồi chảo ra đánh, khuyến khích mọi người mang bàn thờ ra để ngoài đường, mục đích là biểu tình chống đối những chính sách của Diệm.

Tôi hay đọc những tiểu thuyết lãng mạn của Nhật Tiến, Nhã Ca, truyện Tuổi Hoa, hoặc những truyện dịch của nước ngoài như Hàm cá mập, Ngư ông và biển cả, Tiếng chim hót trong bụi mận gai, Đồi gió hú, v.v… Tôi thích nghe nhạc tiền chiến (“Lá thư”, “Mộng dưới hoa”, “Đưa em đi tìm động hoa vàng”) và các nhạc phẩm phản chiến của Trịnh Công Sơn, thích ca sĩ Thái Thanh và Khánh Ly.

Ngày 30/4/75, tôi đang ở Sài Gòn (đi di tản) và tạm trú ở nhà người bà con xa. Cảm giác của tôi lúc đó rất sợ hãi và cảm thấy bế tắc. Không có anh em, không cha mẹ, tình cảnh loạn lạc, tôi sợ không biết có bao giờ gặp lại được người thân nữa hay không. Cảm giác vô cùng hoang mang và lạc lõng. Tôi không biết tương lai mình sẽ ra sao khi quân giải phóng đến Sài Gòn vì việc học của tôi đang bị bỏ lỡ. Chính quyền mới lên cai trị thì tôi chắc chắn rằng hệ thống, cơ cấu giáo dục sẽ bị thay đổi ít nhiều. Mà không có học, không có bằng cấp thì tôi không biết phải làm gì để nuôi bản thân và gia đình. Tôi cũng không biết làm cách nào để trở lại Huế và sự an nguy của gia đình ở ngoài đó tôi cũng còn chưa biết ra sao.

Sau 30/4, tôi tìm mọi cách trở lại Qui Nhơn vào lại trường cũ để xin học rồi lấy bằng ra trường. Nhưng nhà trường lúc ấy có thông báo là không nhận và bắt tôi trở về quê quán nếu muốn học tiếp. Sau khi trở về Huế, tôi nộp đơn vào trường sư phạm để tiếp tục học. Ở trường sư phạm, người ta bắt tôi phải vừa đi thực tập ở những trường tiểu học vạn đò, vừa phải đi học chính trị. Học xong họ mới cấp bằng cho tôi tốt nghiệp. Có bằng cấp rồi, họ điều tôi về các vùng ven, xa nhà mấy chục cây số để dạy. Tôi dạy được mười năm thì nghỉ để lo việc gia đình, và tiếp tục ở nhà lo việc bếp núc cho đến khi sang Mỹ.

Tôi sang Mỹ năm 2004 bằng máy bay. Khi nhận được giấy phỏng vấn, tôi tràn trề hi vọng được đổi đời và được thoát khỏi chế độ khắc nghiệt. Tôi mua vé vào Sài Gòn 10 ngày trước khi đi vì tôi mong được đi lắm, cộng thêm niềm vui vì được đi cả nhà và được đoàn tụ với gia đình anh em bên kia. Khi tới Mỹ thì tôi lại thấy lo và lạc lõng vì không biết tiếng và không biết lúc nào có thể hội nhập được với đời sống mới. Tôi cũng rất lo vì không biết phải làm gì để nuôi sống gia đình, ngay đến chuyện ăn ở cũng không biết (mặc dù em tôi có thể lo chỗ ở, nhưng bản thân tôi muốn được tự túc lo cho cả gia đình mình).

Sang đây, chồng tôi đi làm, con cái đi học, bản thân tôi thì ở nhà lo việc nội trợ. Ban đêm tôi có đi học thêm ESL, mục đích là để phần nào hòa nhập với cuộc sống ở đây nhanh hơn. Buổi đầu thì cũng không thấy hội nhập hoàn toàn vì tôi còn bỡ ngỡ về tiếng nói, xã hội, con người. Ra đường tôi không nói chuyện được với ai, nên gặp khó khăn nhiều khi đi mua sắm hoặc khi muốn giao tiếp với người nước ngoài. Truyền thống và văn hóa ở đây khác so với Việt Nam, nên tôi chưa quen với những phong tục hay cách ăn mặc và ứng xử. Vì tôi cũng đứng tuổi rồi nên phải một thời gian dài sau tôi mới bắt đầu quen dần với đời sống ở đây.

Sang Mỹ, tôi nhớ về những kỉ niệm thời thơ ấu, nhớ nơi mình sinh ra và lớn lên, nhớ những thời gian làm lụng cực khổ. Hầu như đêm nào tôi cũng theo dõi tin tức ở Việt Nam, từ kinh tế đến đời sống, xã hội từ những website trên mạng. Tôi cũng hay đọc báo do cộng đồng người Việt ở Mỹ xuất bản.

Đời sống của người Việt ở Mỹ cao hơn và đầy đủ hơn người trong nước về mọi mặt. Ví dụ như sức khỏe. Ở Mỹ, những người income thấp sẽ có chương trình Medicare giúp đỡ tiền bảo hiểm sức khỏe. Nếu không đủ ăn thì có food stamps hay là những chương trình tài trợ ở nhà thờ hoặc những tổ chức từ thiện. Ở Việt Nam thì những điều này hầu như không có. Ở Mỹ, tôi được tự do phát biểu ý kiến qua những hệ thống truyền thông như báo chí, truyền hình. Còn ở Việt Nam, cuộc sống của nhân dân bị bưng bít quá nhiều nên đời sống tinh thần không được thoải mái bằng cuộc sống ở đây. Ở đây, người ta có thể tự do biểu tình chống đối một đảng phái chính trị (như cuộc biểu tình quan chức nhà nước Việt Nam sang thăm viếng) mà không bị đi tù. Người ta có thể đứng ngoài đường cầm cờ, bảng hiệu, hô hò để phát biểu ý kiến mà vẫn được cho phép. Trong khi đó nếu ở Việt Nam, những chuyện như thế này đều bị cấm đoán.

Tôi thích thay đổi chế độ cộng sản thành chế độ tự do. Tôi thấy nếu thay đổi được chế độ thì xã hội Việt Nam sẽ rất văn minh và tiến bộ. Tôi nghĩ rằng Việt Nam sẽ không thua gì các nước như Thái Lan hay Nhật Bản. Tôi thấy hồi xưa Thái Lan không bằng Việt Nam, nhưng vì chế độ cộng sản vào sau năm 1975, Việt Nam không được phát triển nhiều nên bây giờ thua rất nhiều nước trên thế giới.

Ở Việt Nam bây giờ, dân quyền, nhân quyền, tự do ngôn luận không được tôn trọng. Tệ nạn xã hội càng ngày càng tăng. Mặc dù vậy, đời sống so với trước năm 75 được nâng cao nhiều, có phần tiến bộ hơn. Hiện nay, tôi thấy Việt Nam có nhiều nhà cao tầng, khách sạn, xe cộ đi lại đông hơn. Đồng thời du lịch phát triển mạnh nên Việt Nam bây giờ được biết đến nhiều hơn so với những năm về trước.

Nhận xét của người phỏng vấn

Qua những gì được nghe kể trong cuộc phỏng vấn, tôi thấy rằng những người lớn lên trong chiến tranh thường bị tổn thương nặng về mặt tâm lí vì phải chứng kiến chết chóc và mất mát nhiều trong gia đình và xã hội. Từ đó, họ đâm ra thù ghét và muốn đổ lỗi cho một phe phái nào đó, và trong trường hợp này là quân đội giải phóng (Việt cộng). Khi nghe mẹ kể những câu chuyện về Tết Mậu Thân, tôi thấy sự thật rất trái ngược với những gì học trong lịch sử Việt Nam. Mặc dù khi mới định cư sang Mỹ, thấy thái độ của người Việt ở đây rất khác với những người ở Việt Nam, tôi chưa hiểu rõ nguyên do của sự khác biệt này. Bây giờ nhờ cuộc phỏng vấn này, tôi mới hiểu ra được vấn đề. Cộng đồng người Việt ở đây rất đoàn kết và phát triển (về mặt văn hóa và tuyên truyền), nhưng vẫn có một số mặt không được tích cực. Qua lời kể và quan sát thì người Việt ở đây sống khá hoài cổ. Họ chỉ sống trong quá khứ, luôn hướng về những hoài niệm chiến tranh, vẫn mang lòng thù hận, vẫn luôn đi biểu tình phản kháng chế độ cộng sản. Tôi cho rằng không có gì sai khi kỉ niệm hoặc tưởng nhớ những ngày lễ, nhưng thay vì tiếp tục đăng các bài báo chỉ trích hoặc liên tục đi biểu tình phản đối cộng sản ở Mỹ, người Việt có thể sống thoải mái hơn nếu họ nhận thức được rằng sống trong kí ức xấu của chiến tranh không bao giờ thay đổi được quá khứ.

Về mặt con người và xã hội, ảnh hưởng của phong trào lãng mạn được thấy rõ qua những tiểu thuyết và tác phẩm văn học mà mẹ tôi đọc trong khoảng thời gian trước. Sự du nhập của truyện nước ngoài và truyện dịch vào thời điểm này rất lớn (đặc biệt là của những nhà văn Mỹ, phải chăng là vì chiến tranh có sự tham gia của quân đội Mỹ?). Những tác phẩm văn thơ tiền chiến được phổ nhạc cũng khá phổ biến trong giới thanh niên thời đó. Về mặt đời sống, hoàn cảnh gia đình vẫn rất nghèo, và truyền thống phong kiến về vai trò của người phụ nữ trong gia đình cũng chưa được thay đổi nhiều. Bà ngoại tôi, trước khi chồng mất, đảm nhận công việc nội trợ và phó thác việc xã hội cho chồng. Chỉ sau khi ông mất, vì hoàn cảnh túng quẫn và còn con nhỏ, bà mới đi làm thêm để nuôi gia đình. Mẹ tôi, mặc dù được đi học, nhưng bà cuối cùng cũng phải ở nhà để lo việc gia đình, chỉ phụ thuộc vào ba tôi. Ngay khi qua đến Mỹ rồi, được sống ở một xã hội văn minh và hiện đại hơn nhiều, vai trò truyền thống này vẫn không được thay đổi.

© 2010 talawas